KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập.
Việt dịch & Chú giảng: Tỳ-kheo Thích Giác Quả.
GIỚI THIỆU
Trong tập này gồm kinh Kim Cang và phẩm Phổ Môn, cả hai nội dung này đều chuyển tải tư tưởng kinh điển thuộc hệ Bắc tông.
– Nội dung kinh Kim Cang là đại ý tiêu biểu của tư tưởng hệ Bát-nhã, nhằm xiển dương tinh thần Vô trụ bất cứ đối tượng nào (sáu trần) để đoạn tận chấp thủ ngã (và pháp), thành tựu Chánh tri kiến Vô lậu, Vô ngã, tức viên mãn Trí tuệ Bát-nhã, hội nhập quả vị Phật-đà. Đấy là con đường thực hiện hạnh nguyện Bồ- tát qua nội dung Lục độ với tiêu chí Vô trụ để chuyển hóa Lục độ thành Lục độ Ba-la-mật, viên mãn tự độ, độ tha, tức viên thành Đại Từ bi, Đại Trí tuệ, đạt quả vị giải thoát cuối cùng – Phật-đà.
– Nội dung phẩm Phổ Môn thuộc tư tưởng kinh Pháp Hoa. Pháp Hoa được mệnh danh là Kinh Vua – Kinh đứng đầu và dung nhiếp hết thảy các kinh. Được quy ước như thế, bởi lẽ tư tưởng Pháp Hoa khẳng định: Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật (Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh); đồng thời, độc tôn ở địa vị Phật thừa (Nhất thừa) – thừa sau cùng để Ngộ-Nhập quả Phật, qua bảo chứng của thuật ngữ Hội tam quy nhất (Hành giả của ba thừa Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát đều phải tu Phật thừa này để viên mãn quả Phật).
Xét phẩm Phổ Môn, nằm trong 14 phẩm sau của kinh Pháp Hoa, thuộc phần Bản môn1, phần giới thiệu những pháp hành Ngộ-Nhập Tri kiến Phật (Ngộ-Nhập quả vị Phật-đà). Phổ Môn là một pháp hành để Ngộ- Nhập Tri kiến Phật ấy. Theo Phổ Môn, hành giả muốn Ngộ-Nhập phải thực hiện Lục Độ – thực hiện với tiêu chí Vô ngã (Biểu tưởng là Bồ-tát Quán Thế Âm) để chuyển hóa Lục độ thành Lục độ Ba-la-mật, nhằm tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Khi viên mãn hai đức tánh tự giác, giác tha chính là thời điểm hành giả đã Ngộ-Nhập Tri kiến Phật vậy.
Tư tưởng Kim Cang và Phổ Môn xem ra có sự tương đồng nhiều hơn dị biệt. Đấy là đều cùng thực hiện pháp hành Lục độ với tinh thần Tam luân không tịch2 (thành tựu Lục độ Ba-la-mật) hay tinh thần Vô trụ, Vô ngã để hoàn thiện hai đức tánh Từ bi, Trí tuệ; tự giác, giác tha, thành tựu Trí tuệ Bát-nhã Ngộ-Nhập Tri kiến Phật (Ngộ-Nhập quả vị Phật-đà).
Do ý nghĩa vừa trình bày, bút giả mạo muội in hai Kinh này vào chung một tập, tạo thuận duyên để quý độc giả đối chiếu khi nghiên cứu hay tu tập.
Thật ra, hai Kinh này đã được dịch-giải khá lâu, giờ đây hội đủ nhân duyên bút giả bổ cứu để xuất bản. Dù rằng đối tượng nghe pháp và ứng dụng pháp hành của hai Kinh, chủ yếu là hàng Bồ-tát đích thực và hàng Thanh Văn có căn khí Bồ-tát. Tuy nhiên, pháp Phật được giảng tựa như một cơn mưa lớn, mọi loài thảo mộc đều được lợi ích. Cũng vậy, dù đang là phàm phu lại ra đời trong thời mạt pháp, nhưng bất cứ ai chân
thành thật học, thật tu một trong hai Kinh này vẫn đón nhận được kết quả thiết thực trong việc chế ngự vọng tâm, tà tâm của mình, nhằm phát triển chân tâm, chánh tâm, là nhân tố căn bản để giữ trọn lý tưởng theo giáo nghĩa Tam quy hầu đi đúng theo dấu chân chư Tổ, chư Phật năm xưa.
Trân trọng kính giới thiệu đến quý độc giả, quý Thiện hữu tri thức đồng học, đồng tu.
Kính
Chùa Hồng Đức, Mùa Phật Đản PL.2556
TK. Thích Giác Quả
LỜI TỰA
Kim Cang Bát-nhã là một trong 720 quyển của tạng Bát-nhã. Đã từ lâu, giới nghiên cứu về Bát-nhã đã thẩm định Kim Cang là tiêu biểu cho hệ tư tưởng Bát- nhã – Tư tưởng Tánh Không. Tánh Không (Tánh Vô ngã) là tánh Thật tại của tất cả các pháp, hội nhập Tánh Không là thời điểm thành Phật.
Căn nguyên che đường bít lối đi vào Thật tại Tánh Không là ý tưởng về Tôi (Ngã-chủ thể) và Của tôi (Pháp-đối tượng). Kim Cang giới thiệu pháp hành Vô trụ, Ly tướng đến với hành giả để đoạn tận căn nguyên đó. Ý tưởng Tôi, Của tôi chính là Vô minh (si), biểu thị hiện trạng Vô minh ấy là lòng tham dục (tham ái). Sự hiện hữu của con người (Chánh báo) và thế giới (Y báo) chính là hệ quả trực tiếp và gián tiếp (biệt nghiệp và cộng nghiệp) của lòng tham dục đó.
Chúng đương cơ của thời pháp Kim Cang là hàng có đủ tư cách Bồ-tát và Bồ-tát đích thực, những vị đã nhuần nhuyễn Định – Tuệ, chỉ còn tồn đọng nhỏ nhiệm một chút sương mù ý tưởng Tôi và Của tôi (năng đắc – sở đắc). Với pháp hành Vô trụ, Ly tướng, hàng Bồ-tát sẽ đoạn tận Vô minh vi tế ấy để bước lên quả vị Phật- đà, với hàng phàm phu, pháp tu của Kim Cang sẽ giúp hành giả dễ dàng hộ trì Lục căn, ra khỏi kiếp sống lang thang, quờ quạng trong đêm đen ngũ dục thế gian, để chính thức đi vào tu tập. Diệu dụng của Kim Cang thật bất khả tư nghị, hãy thật tâm hạ thủ sẽ có hệ quả tốt đẹp tức khắc.
Được duyên lành giảng dạy kinh Kim Cang cho các trường Phật học tại Huế, để có tài liệu cho Tăng Ni sinh tham khảo tu học, bút giả cố gắng dịch-giải bản Kim Cang Hán văn do Ngài Cưu-ma-la-thập dịch. Bản dịch-giải này có hai chương. Chương I trình bày Nhận thức khái quát (kinh Kim Cang), gồm bốn mục: Lịch sử thành lập, Lý do thành lập, Tên Kinh và ý nghĩa, Nội dung căn bản kinh Kim Cang. Chương II trình bày Nội dung tư tưởng (kinh Kim Cang), gồm 32 đoạn, mỗi đoạn có ba mục Âm, Nghĩa và Ý kiến.
Sau cùng, khi dịch-giải bản Kinh này, chắc chắn còn nhiều thiếu sót, rất mong chư vị Tôn Đức và các bậc Thiện tri thức hoan hỷ bổ khuyết, để lần tái bản được hoàn thiện hơn. Đồng thời, qua sự dịch-giải này có được bao nhiêu Phước đức, bút giả nguyện hồi hướng đến Tứ chúng và tất cả chúng sanh, mong hết thảy chư vị tinh tấn chế ngự và đoạn tận ý tưởng Tôi và Của tôi để trong tương lai gần hoặc xa, viễn ly hoàn toàn chấp thủ Ngã-Pháp, nhằm chứng ngộ viên mãn Trí tuệ Bát-nhã, an trú thật tại Vô trụ, Vô ngã, thành tựu quả vị tối hậu Phật-đà.
PL. 2540, Hồng Đức ngày 19-9-1997
TK. Thích Giác Quả
CHƯƠNG I
NHẬN THỨC KHÁI QUÁT
I. Lịch sử thành lập:
– Theo kết quả nghiên cứu của các học giả, các nhà Phật học, tư tưởng Đại thừa xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ III Tây lịch.
– Theo giáo sư Stcherbatski, tư tưởng Duyên khởi Tánh Không xuất hiện vào thế kỷ thứ II Tây lịch và kinh Kim Cang thuộc hệ thống tư tưởng này.
– Theo tiến sĩ Edward Conze, kinh Kim Cang được trước tác vào thế kỷ thứ II, thứ III Tây lịch.
– Địa điểm phát triển tư tưởng Đại thừa, có hai thuyết bất đồng:
– . Thuyết thứ nhất: Tư tưởng Đại thừa phát triển ở Bắc Ấn.
– . Thuyết thứ hai: Lại xác định tại Nam Ấn.
– Tuy nhiên, nếu căn cứ địa phương có nhiều trung tâm nghiên cứu Đại thừa, thì có thể kết luận: Đại thừa được phát triển ở Bắc Ấn và Bắc Trung Ấn.
* Đến nay, các nhà nghiên cứu Phật giáo đều nhất trí cho rằng: Tư tưởng Bát-nhã là thừa tiếp tư tưởng của Đại Chúng bộ. Đó là tư tưởng khẳng định các pháp hiện hữu là kết quả được hình thành bởi các yếu tố hay các duyên (Duyên khởi), các hiện hữu ấy là Vô thường, hư huyễn không thật. Các kinh này xuất hiện ở thời kỳ bộ phái hay thời kỳ phát triển vào khoảng thế kỷ thứ I, thế kỷ thứ II Tây lịch.
II. Lý do thành lập:
Sự thành lập Kim Cang là để đáp ứng bối cảnh lịch sử đương thời, gồm 2 lý do:
1. Lý do đối nội: Bởi do các trường phái A-tỳ- đàm triển khai giáo lý đưa đến hai tư tưởng cực đoan đối chọi nhau, phủ nhận nhau:
– Nhất Thiết Hữu bộ cho rằng: “Nhất thiết pháp giai Hữu”, với cách ngôn: “Tam thế thật Hữu, pháp thể hằng Hữu”.
– Các trường phái A-tỳ-đàm thuộc Đại Chúng
bộ chủ trương cực đoan không kém: “Nhất thiết pháp giai Không”. Phái này bằng phương tiện phân tích, lý luận sắc bén đã đưa giáo nghĩa mình đến chỗ ngoan Không.
Theo quan điểm này thì Niết-bàn là một trạng thái chết. Tại đó, xác thân hóa thành tro bụi, còn ý thức, Trí tuệ chẳng lưu lại một dấu vết gì (khôi thân đoạn trí).
2. Lý do đối ngoại: Do bởi giáo đoàn Bà-la-môn phục hưng mạnh mẽ, và sáng tác nhiều triết thuyết mới bén nhọn, mang chiều hướng đả kích, tranh chấp với giáo nghĩa Phật giáo.
Do vậy, Bát-nhã xuất hiện là tiếng nói thoát hai vướng mắc cực đoan ấy, hầu quy kết các tư tưởng bộ phái về một mối, cùng lúc đánh đổ các nạn vấn của ngoại đạo.
* Qua các dữ kiện lịch sử vừa nêu trên đã nói lên rằng, kinh điển Đại thừa không do chính đức Phật thuyết mà do các Tổ sư trước tác về sau. Như vậy, ai là tác giả của các kinh Đại thừa, hay kinh Kim Cang? Các kinh Đại Thừa ấy là chính thống hay phi truyền thống? Nghi vấn này có thể đưa ra hai lập luận để giải thích như sau:
>. Mọi kinh Đại thừa đều được mở đầu: “Như thị ngã văn…”; thế là thâm ý cho rằng, đây là kinh do Tôn giả A-nan trùng tuyên lại những lời đức Phật đã dạy. Như vậy không thể nạn vấn ai là tác giả.
>. Theo lịch sử thì không thể khẳng định kinh Kim Cang là do đức Phật thuyết, vậy tại sao Kinh lại ghi “Như thị ngã văn”? Đây chính là điểm gút mắc của vấn đề. – Chúng ta không thể phủ nhận sự thật của lịch sử; đồng thời cũng không thể phủ nhận nội dung Kinh là không phù hợp với truyền thống. Bối cảnh này chúng ta có thể giải thích rằng:
> Nội dung trình bày trong Kinh đã phù hợp với truyền thống, phù hợp với ý Phật, nên dù ai trước tác vẫn được xem là Phật thuyết.
> Nội dung diễn bày trong Kinh là diễn bày ý Phật. Vì thế, chư Tổ không dám nhận mình là tác giả.
> Nội dung Kinh không khác với giáo lý truyền thống thì nói Kinh do Phật thuyết sẽ tạo niềm tin sâu xa cho người học hỏi, tu tập.
Do các điểm trên, tưởng chúng ta không đáng thắc mắc: Ai là tác giả kinh Kim Cang hay các bộ kinh Đại thừa?
Đến đây, một nghi vấn nữa có thể đặt ra: Tại sao phải trước tác thêm các kinh Đại thừa; kinh Kim Cang.v.v., khi nội dung Kinh đã phù hợp với lời đức Phật dạy? Phải chăng kinh Kim Cang có những giáo lý đặc thù không tìm thấy ở giáo lý truyền thống?
Trả lời câu hỏi này, chính là giới thiệu tổng quát về nội dung, chủ trương, quan điểm của kinh Kim Cang nói riêng hay các kinh điển Đại thừa nói chung.
Nếu cho rằng, kinh Kim Cang cao thâm hơn giáo lý truyền thống thì không thể đúng; bởi lẽ Chân lý thì chỉ có một nên chỗ cao thâm của giáo lý cũng chỉ có một mà thôi. Còn nếu cho rằng kinh Kim Cang có một số điểm đặc thù không thấy ở giáo lý truyền thống thì không ổn; vì ở Nikàya hay A-hàm vốn có đủ Tứ Đế vi diệu, Duyên khởi cao thâm và có cả hạnh Bồ-tát như ở kinh Kim Cang. Nếu cần nói lên điểm đặc thù của kinh Kim Cang (hay các kinh Đại thừa) thì chỉ có một điểm
duy nhất, đó là triển khai rộng rãi những giáo lý vốn có ở truyền thống.
Nói cách khác, đó chỉ là sự diễn đạt giáo lý cũ với một hình thức mới, và phổ biến rộng rãi vào xã hội với tinh thần nhập thế tích cực hơn; đưa giải thoát vào cuộc đời chứ không chỉ giới hạn ở các Tinh xá, Tu viện hay các cánh rừng u tịch.
Qua trên, chúng ta có thể kết luận: Đại thừa có nghĩa là phát triển chiều rộng chứ không phải phát triển chiều sâu vậy.
III. Tên Kinh và Ý nghĩa:
a. Tên Kinh: Tên Kinh chữ Phạn là Vajraprajnà- paøramitaø Sutra, hoaëc Vajracchedika Prajnõaøpaøramitaø Sutra hay gọn hơn là Prajnõaøpaøramitaø
Tại Trung Hoa, trước sau có sáu dịch giả, vị dịch đầu tiên là Pháp sư Cưu-ma-la-thập (Kumarajiva) vào đầu thế kỷ thứ V Tây lịch. Tiếp nối là ngài Bồ-đề-lưu-chi (Bodhiruci), ngài Chân Đế (Ba-la-mật-đa-Paramàtha) vào thế kỷ thứ VI Tây lịch. Cả ba vị này đều dịch tên Kinh là Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật kinh.
Vào thế kỷ thứ VII Tây lịch cũng có hai vị, đó là ngài Đạt-ma-cấp-đa (Dharmagupta) dịch là Kim Cang năng đoạn Bát-nhã Ba-la-mật kinh; ngài Huyền Trang lại dịch Năng đoạn Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật kinh. Vị dịch cuối cùng là ngài Nghĩa Tịnh vào thế kỷ thứ VIII Tây lịch, lấy tên là Phật thuyết năng đoạn Bát-nhã Ba-la-mật kinh.
Tại Trung Hoa cũng như Việt Nam thường gọi tắt Kinh này là kinh Kim Cang. Lẽ ra, cần phải gọi kinh Năng đoạn Kim Cang mới biểu đạt đủ ý nghĩa của Bát- nhã Ba-la-mật.
b. Ý nghĩa tên Kinh: Trung Hoa dịch từ Vajra là Kim Cang, đó là một thứ kim loại quý báu, bền cứng và sắc bén, có thể chặt đứt mọi thứ kim loại khác; từ Prajñā dịch là Trí tuệ hay Không trí. Nhưng dù dịch từ gì đi nữa cũng không thể lột hết ý nghĩa hàm ẩn của từ Prajñā. Vì thế, cuối cùng văn học Phật giáo Trung Quốc phải dùng từ ngữ phiên âm là Bát-nhã để chỉ loại Trí tuệ đặc thù này, và để tránh gây sự ngộ nhận sai lạc đáng tiếc. Về từ Pāramitā dịch là Đáo bỉ ngạn, tức thế giới giải thoát hay Niết-bàn.
Theo trên, nghĩa tên Kinh tạm dịch là Trí tuệ siêu việt như gươm báu chặt đứt tất cả phiền não.
Qua đây, tên Kinh đã gói trọn nội dung căn bản của Kinh, đó là trình bày về Trí tuệ siêu việt; thứ Trí tuệ như một thứ gươm báu chặt đứt tất cả chấp thủ, vô minh, chặt đứt tất cả phiền não khổ đau của chúng sanh.
IV. Nội dung căn bản kinh Kim Cang:
Qua nhiều thế hệ phân tích, thẩm định, các nước thuộc hệ thống Bắc truyền đã chọn kinh Kim Cang và Bát-nhã tâm kinh làm tiêu biểu cho toàn bộ văn học Bát-nhã. Kinh Kim Cang được xem là Kinh tóm lược tất cả các điểm chủ yếu của tạng Bát-nhã, và Tâm kinh được xem là cốt lõi của tạng Bát-nhã đó.
Tựu trung, nội dung kinh Kim Cang là trình bày về Trí tuệ siêu việt hay Trí tuệ Bát-nhã, Trí đó chính là Trí Như Lai hay Tri kiến Phật. Nói gọn, là trình bày về Tánh Không của pháp giới (Thật tại như thật của pháp giới). Để thể nhập Tánh Không đó, Kinh giới thiệu với
hành giả, việc tiên quyết là phải đi vào nguyên tắc Phát tâm Đại thừa và tâm Đại bi (tâm Bồ-đề). Nguyên tắc này được thực hiện bằng con đường Lục độ và được soi chiếu bởi ánh sáng của Vô tướng hay Vô trụ. Tức hành Lục độ với tinh thần lìa tất cả tướng của nhơn- pháp (chủ-khách) hay ngã-ngã sở mà Kinh nêu tiêu biểu bốn tướng ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Tóm lại, trong Kinh hơn nửa phần đầu trình bày về nguyên tắc và các phương pháp đoạn trừ chấp thủ tướng ngã, phần còn lại là trình bày những cách đoạn trừ chấp thủ tướng pháp.
-Tánh Không thì nằm ngoài mọi khái niệm, mọi tướng trạng do khái niệm dệt thành. Đi vào Tánh Không phải do công phu tu tập và được ánh sáng Bát-nhã soi chiếu. Đó là ý nghĩa mà Tâm kinh bảo: “Hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai Không”. (Khi Thiền định thâm sâu về Trí tuệ Bát-nhã, thì thấy rõ năm uẩn là Vô ngã). Do thế, mọi tư duy của ngã đều bó tay bất lực, chúng đều là những hý luận, vọng tưởng đảo điên.
Tuy vậy, để giới thiệu Tánh Không cho những người muốn tu tập, hẳn nhiên phải dùng đến phương tiện ngôn ngữ để diễn bày, gọi là Văn tự Bát-nhã. Ngôn ngữ vốn là một trong các pháp vốn do Duyên sinh, nên biến hoại, Vô thường; ấy thế, diễn tả về Tánh Không phải được dùng một thứ ngôn ngữ đặc biệt, ngôn ngữ của hệ thống Bát-nhã – Ngôn ngữ phủ định. Phủ định triệt để mọi tướng trạng để khẳng định Tánh Không nằm ngoài vòng chấp thủ tướng ngã. Do phương tiện của ngôn từ sẽ đưa hành giả thực hành cụ thể thực hành với pháp Quán Bát-nhã (Vô tướng hay Vô trụ). Nhờ đây, khi Thiền quán thâm sâu, hành giả sẽ tự mình thấy được cái Không của đương thể bị quán (đương thể tức Không). Thấy được cái Không ấy là Quán chiếu Bát-nhã. Từ nơi quán chiếu đó mà bắt gặp được thật tướng các pháp – Thật tướng Bát-nhã. Quán chiếu chẳng lìa thật tướng (năng-sở bất dị), Dụng, Thể tương tức tương nhập, chỉ là Bát-nhã (Tánh Không) mà thôi.
Tóm lại, kinh Kim Cang là Kinh đúc kết tư tưởng tạng Bát-nhã, nên nội dung gồm có các điểm chủ yếu sau:
* Nói lên Tánh Không của tất cả các pháp (Chân Không), đó là Tánh Vô ngã hay Tánh Duyên khởi và phủ nhận triệt để hết thảy Tánh ngã.
* Nói lên Tánh Không, tánh đó là tánh Thật tại như thật của thế giới đang là này, với cái nhìn của Trí tuệ ly tướng (Diệu Hữu).
Chính vì Thật tại nằm ngay ở thế giới đang là này, nên kinh Kim Cang giới thiệu Lục Ba-la-mật để Bồ-tát hành Phật sự độ sanh mà vẫn an trú trong tướng thật (Thật tại tánh Không) ấy.
* Nơi đây, có một điểm mà chúng ta cần phải ghi nhận, trước khi trực tiếp đi vào Kinh văn.
Thời kinh Kim Cang được giảng cho 1.250 vị Tỳ- kheo, mà Tôn giả Tu-bồ-đề (Subhuti) là đại biểu, vì Ngài đã chứng được Tánh Không sâu xa (Giải Không đệ nhất).
Do thế, chúng ta cần hiểu những vấn đề mà Tôn giả thưa thỉnh chính là các vấn đề của thính chúng; đức Phật đáp lời Tôn giả chính là đáp lời cho thính chúng.
Những vướng mắc, những diễn biến tâm lý của Tôn giả chính là các vướng mắc, diễn biến của thính chúng; mỗi lần đức Phật gỡ những gút vướng mắc cho Tôn giả, chính là mỗi lần đức Phật mở bày Thật tại như thật. Vướng mắc thì có thô, có tế, nhưng Thật tại như thật trước sau chỉ có một, có hiểu như thế chúng ta mới nhận ra tính liên tục và tính nhất quán của thời kinh Kim Cang.
Qua một số nhận xét tổng quát trên, bây giờ chúng ta có thể trực tiếp đi vào Chánh văn (Hán văn) tuần tự theo ba mươi hai đoạn mà Thái tử Chiêu Minh đời nhà Lương (thuộc thời đại Nam-Bắc triều, vào thế kỷ thứ VI Tây lịch) đã phương tiện phân chia.
CHƯƠNG II
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG
Kinh Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật.
Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập.
Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Giác Quả.
ĐOẠN THỨ NHẤT
I. Âm: Pháp hội nhân do.
Như thị ngã văn: Nhất thời Phật tại Xá-vệ quốc, Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên, dữ Đại Tỳ-kheo chúng, thiên nhị bách ngũ thập nhơn câu. Nhĩ thời, Thế Tôn thực thời, trước y trì bát, nhập Xá-vệ đại thành khất thực. Ư kỳ thành trung, thứ đệ khất dĩ, hoàn chí bổn xứ. Phạn thực ngật, thu y bát, tẩy túc dĩ, phu tòa nhi tọa.
II. Nghĩa: Nguyên nhân pháp hội.
Đây là những điều tôi được nghe: Khi đức Phật ở tại Tinh xá Kỳ thọ Cấp-cô-độc thuộc thành Xá-vệ, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo gồm 1.250 vị. Hôm ấy, đến giờ khất thực của Thế Tôn, Ngài đắp y, mang bát, đi vào thành Xá-vệ khất thực. Ngài theo phép thứ đệ khất thực. Khất thực xong, Ngài trở về Tinh xá thọ trai. Thọ trai xong, Ngài cất y bát, rửa chân và trải tọa cụ tọa thiền.
III. Ý kiến:
1. Qua hình ảnh sinh hoạt bình dị, tự nhiên trong mỗi ngày của đức Phật, nói lên rằng: Đức Phật vì chúng sanh mà ở lại cõi sanh tử, nên phải ăn uống như một con người, nhưng một con người xuất trần gương mẫu, và cũng chính tất cả những sinh hoạt đó là bài thuyết Pháp vô ngôn, biểu thị Thật tại như thật (Vô trú Niết- bàn hay Chân không Diệu hữu) mà đức Phật thường hộ niệm và giao phó cho các vị Bồ-tát.
2. Tham chiếu bản dịch của ngài Nghĩa Tịnh và Edward Conze thì có thêm chúng Bồ-tát dự pháp hội Kim Cang này. Do thế, đứng trên tổng thể thì có hai cách nhìn sai khác:
a. Chúng đương cơ là các vị Thanh Văn (1.250 vị).
b. Chúng đương cơ là các vị Bồ-tát (Thanh Văn có tư cách Bồ-tát và Bồ-tát đích thực).
3. Hình ảnh khất thực của đức Phật là hạnh nguyện truyền thống của chư Phật (quá khứ, hiện tại, vị lai) và cũng là hạnh nguyện tu tập của chúng Tỳ- kheo. Chính ý nghĩa này, khất thực hoàn toàn không phải là pháp dành riêng cho một Tông phái nào, và vấn đề Đại thừa và Tiểu thừa không có mặt tại đây.
ĐOẠN THỨ HAI
I. Âm: Thiện Hiện khải thỉnh.
Thời Trưởng lão Tu-bồ-đề tại Đại chúng trung, tức tùng tòa khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng cung kính, nhi bạch Phật ngôn: Hy hữu Thế Tôn! Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ-tát, thiện phó chúc chư Bồ-tát! Thế Tôn, thiện nam tử, thiện nữ nhơn phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề tâm, vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm? Phật ngôn: Thiện tai, thiện tai! Tu-bồ-đề, như nhữ sở thuyết: Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ- tát, thiện phó chúc chư Bồ-tát, nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề tâm, ưng như thị trụ, như thị hàng phục kỳ tâm. Duy nhiên, Thế Tôn, nguyện nhạo dục văn.
II. Nghĩa: Thiện Hiện thưa hỏi.
Lúc ấy, từ chỗ ngồi của mình trong Đại chúng, Trưởng lão Tu-bồ-đề đứng dậy, trịch áo bày vai phải, quỳ chân bên phải xuống, chấp tay cung kính bạch đức Phật rằng: Thế Tôn, Ngài thật là tuyệt diệu! Thế Tôn thường khéo hộ niệm và khéo giao phó sự nghiệp cho các vị Bồ-tát. Bạch Thế Tôn! Những thiện nam và thiện nữ muốn phát tâm Vô thượng Chánh-đẳng Chánh-giác thì nên trú tâm vào đâu? Nên điều phục tâm như thế nào? – Đức Phật bảo: Hay thay! Đúng thay! Này Tu-bồ-đề, như lời Thầy nói, Như Lai thường khéo hộ niệm và khéo giao phó sự nghiệp cho các vị Bồ-tát. Vậy Thầy hãy lắng nghe cho kỹ, Như Lai sẽ vì Thầy mà trả lời. Những thiện nam, thiện nữ nào phát tâm Vô thượng Chánh-đẳng Chánh-giác thì họ nên trú tâm và điều phục tâm như thế này. Xin vâng, bạch Thế Tôn, chúng con rất vui mừng được nghe lời chỉ dạy.
III. Ý kiến:
>.Thật tại như thật đã được đức Phật thuyết Pháp bằng ngôn ngữ im lặng một cách sống động và đích thực, nhưng thính chúng không thể bắt gặp được. Chính vì thế, khi mở lời, Tôn giả Tu-bồ-đề đã tán thán đức Phật trước khi thỉnh Ngài chỉ dạy Thật tại đó bằng ngôn ngữ, bằng khái niệm của con người, để hộ niệm và giao phó sự nghiệp cho các vị có tư cách Bồ-tát.
>. Bài thuyết pháp im lặng đó được diễn đạt cụ thể nhất là qua hành động khất thực của đức Phật – hành động của Đại bi và Đại trí:
> Đắp y, trì bát là Trì giới Ba-la-mật.
> Thực hành khất thực là Bố thí Ba-la-mật.
> Theo phép thứ đệ khất thực là Nhẫn nhục Ba- la-mật.
> Đều đặn thực hành khất thực là Tinh tấn Ba- la-mật.
> Chú tâm trong khi thực hành khất thực là Thiền định Ba-la-mật.
> Và khất thực với tinh thần Vô tướng, Vô trụ là Trí tuệ Ba-la-mật.
Phân tích để dễ hiểu là thế, nhưng thật sự, Trí tuệ Ba-la-mật (Trí tuệ Bát-nhã) luôn có mặt ở cả năm độ mới thành tựu Lục độ Ba-la-mật.
> Sở dĩ, thính chúng không nhận ra được Thật tại như thật do bởi vướng mắc tướng ngã. Vì thế, Tôn giả Tu-bồ-đề mới đặt ra hai vấn đề thỉnh cầu đức Phật giải đáp, ấy là Làm sao trụ tâm vào Thật tại đó và làm sao điều phục tâm khi tâm đang vướng mắc tướng ngã? Hai câu hỏi này và hai câu đáp của đức Phật là tổng thể nội dung của kinh Kim Cang vậy.
> Đức Phật hộ niệm và giao phó sự nghiệp bằng ngôn ngữ Vô ngôn cho các vị Bồ-tát đích thực, và hộ niệm giao phó sự nghiệp bằng ngôn ngữ con người cho các vị Thanh Văn có tư cách Bồ-tát, đây là vấn đề tất nhiên trong việc hoá độ tuỳ duyên của đức Phật. Tại đây, không thể đặt nghi vấn đức Phật bất bình đẳng trong sự giáo hoá.
ĐOẠN THỨ BA
I. Âm: Đại thừa chánh tông.
Phật cáo Tu-bồ-đề: Chư Bồ-tát Ma-ha-tát, ưng như thị hàng phục kỳ tâm. Sở hữu nhất thiết chúng sanh chi loại, nhược noãn sanh, nhược thai sanh, nhược thấp sanh, nhược hoá sanh, nhược hữu sắc, nhược vô sắc, nhược hữu tưởng, nhược vô tưởng, nhược phi hữu tưởng phi vô tưởng, ngã giai linh nhập Vô dư Niết- bàn nhi diệt độ chi. Như thị diệt độ vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh, thật vô chúng sanh đắc diệt độ giả. Hà dĩ cố?
Tu-bồ-đề, nhược Bồ-tát hữu ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức phi Bồ-tát.
II. Nghĩa: Chánh tông của Đại thừa.
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: Các vị Đại Bồ-tát nên điều phục tâm họ như sau: Có tất cả bao nhiêu loại chúng sanh, hoặc từ trứng sanh, hoặc từ thai sanh, hoặc sanh từ chỗ ẩm ướt, hoặc sanh từ biến hoá, hoặc có hình sắc, hoặc không có hình sắc, hoặc có tri giác, hoặc không có tri giác, hoặc chẳng phải có tri giác chẳng phải không có tri giác; họ phải đưa tất cả vào Vô dư Niết-bàn để được giải thoát tuyệt đối. Tuy vậy, dù giải thoát cho vô lượng vô số chúng sanh như thế, nhưng kỳ thật không thấy có một chúng sanh nào được giải thoát cả. Tại sao vậy?
– Này Tu-bồ-đề, bởi lẽ, nếu một vị Bồ-tát mà còn vướng mắc tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả thì chẳng phải một vị Bồ-tát đích thực.
III. Ý kiến:
Tôn giả Tu-bồ-đề hỏi câu Trụ tâm vào đâu? trước, và câu Làm sao điều phục tâm? sau; nhưng khi trả lời, đức Phật lại giải quyết câu hỏi thứ hai trước. Tại sao?
– Trên sự thật tâm lý, khi tâm được điều phục
chính là thời điểm tâm an trú; nói cách khác, khi tâm đã an trú chính là thời điểm điều phục tâm đã được thành tựu. Do ý nghĩa ấy, thay bằng dạy phương pháp trụ tâm, đức Phật lại dạy phương pháp điều phục tâm trước.
Đức Phật dạy, muốn điều phục tâm thì phải phát tâm Đại bi cứu độ hết thảy chúng sanh, đưa họ vào Đại Niết-bàn (Vô dư Niết-bàn) và trong khi cứu độ phải tỉnh thức để không thấy mình là người cứu độ, chúng sanh là kẻ được cứu độ (Trí tuệ Bát-nhã). Nếu cứu độ mà còn thấy mình, thấy chúng sanh, tức đang vướng mắc tướng ngã, và như thế không thể cứu độ chúng sanh được.
Đây là nguyên tắc cơ bản vừa là tiên quyết để trở thành một vị Bồ-tát đích thật, và đây cũng là tiếng chuông đầu tiên khai mở tinh thần Vô tướng hay Vô trụ của kinh Kim Cang. Tinh thần Vô trụ chính là tánh thật của Trí tuệ Bát-nhã, thứ Trí tuệ chứng thật Tánh Không các pháp vậy.
ĐOẠN THỨ TƯ
I. Âm: Diệu hạnh Vô trụ.
Phục thứ Tu-bồ-đề, Bồ-tát ư pháp ưng Vô sở trụ hành ư Bố thí, sở vị bất trụ sắc Bố thí, bất trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp Bố thí. Tu-bồ-đề, Bồ-tát ưng như thị Bố thí, bất trụ ư tướng. Hà dĩ cố? Nhược Bồ-tát bất trụ tướng Bố thí, kỳ Phước đức bất khả tư lượng.Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Đông phương hư không khả tư lượng phủ? Phất dã, Thế Tôn! Tu- bồ-đề, Nam-Tây-Bắc phương tứ duy thượng-hạ hư không, khả tư lượng phủ? Phất dã, Thế Tôn! Tu- bồ-đề, Bồ-tát Vô trụ tướng Bố thí, Phước đức diệc phục như thị bất khả tư lượng. Tu-bồ-đề, Bồ-tát đản ưng như sở giáo trụ.
II. Nghĩa: Hạnh vi diệu: Vô-trụ.
Hơn nữa, này Tu-bồ-đề! Các vị Bồ-tát đối với các pháp không nên trú vào bất cứ cái gì để thực hiện Bố thí; nghĩa là không dựa vào sắc để Bố thí, cũng không dựa vào thanh, hương, vị, xúc, pháp để Bố thí.
– Tu-bồ-đề! Bồ-tát nên Bố thí với tinh thần Không trú vào các tướng như thế. Tại sao vậy? Bởi lẽ Bồ-tát Bố thí với tinh thần Không trú vào các tướng thì Phước đức sẽ không thể suy lường được.
– Này Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ sao? Không gian ở phương Đông có thể suy lường được không?
– Bạch Thế Tôn, không thể được. Cũng thế, này Tu-bồ-đề! Không gian ở phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phương bốn góc, phương trên và phương dưới có thể suy lường được không?
– Bạch Thế Tôn, không thể được!
– Này Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát Bố thí mà Không trú vào các tướng thì Phước đức cũng rộng lớn như không gian, không thể suy lường được. Này Tu-bồ-đề! Các vị Bồ-tát nên trú tâm theo lời chỉ dẫn vừa nêu trên (trụ ư Vô sở trụ).
III. Ý kiến:
Đến đây, một số Tỳ-kheo chưa ngộ được Tánh Không của các pháp, nên băn khoăn làm sao thực hành hạnh nguyện Bố thí (Lục độ), đó là hạnh căn bản của Bồ-tát. Các vị nghĩ rằng, Bố thí thì phải có người thí, kẻ nhận và vật thí, nhưng đức Phật lại dạy, tất cả các pháp là Vô tướng thì nương vào đâu để Bố thí? Hiểu rõ tâm lý đó, đức Phật dạy tiếp để gỡ vướng mắc cho thính chúng.
– Tâm lý vướng mắc là do tâm lý chấp thủ; vì thế, đức Phật dạy Bồ-tát hành Bố thí cần phải có tinh thần Vô trụ đối với tất cả các pháp mà cụ thể là Không trú vào các tướng của Lục trần.
– Để khuyến khích thính chúng an tâm thực hiện, đức Phật dạy tiếp: “Nếu Bố thí với tinh thần Vô trụ như thế, thì sẽ có Phước đức vô lượng, không thể suy lường được”. Ý nghĩa Phước đức vô lượng có hai khía cạnh:
a. Cái gì có tướng thì cái đó có hạn lượng, còn Vô tướng thì không có hạn lượng.
b. Trong các Phước đức thì Phước đức giải thoát là tối thắng, tinh thần Vô trụ hay Vô tướng là tinh thần giải thoát tối thượng đó. Do thật nghĩa ấy, nên đức Phật dạy: “Bố thí với tinh thần Vô tướng thì Phước đức là vô lượng, không thể suy lường được”.
c. Hạnh nguyện căn bản của Bồ-tát để đạt quả Phật là hành Lục độ. Hành Lục độ là để hoàn tất hai tánh như thật của tâm Bồ-đề là Đại bi và Đại trí. Bố thí là lợi tha để hoàn tất tâm Đại bi, Bố thí với tinh thần Vô trụ là tự lợi để hoàn tất Đại trí (Trí tuệ Bát-nhã). Đây là con đường mà đức Phật (Kim Cang) giới thiệu để một vị Bồ-tát hoàn thành mục đích tối hậu của mình.
d. Điểm cần lưu ý rằng, trọng tâm hành Lục độ để đạt cứu cánh (Ba-la-mật hay quả Phật) là tâm tác động trên hành động chứ hoàn toàn không phải là sự kiện hành động. Nếu hành Lục độ với tâm vướng mắc các tướng (Lục trần) tức rơi vào tham ái, vô minh, rơi vào Nhân quả hữu lậu.
Do vậy, để đạt cứu cánh, Bồ-tát phải dụng tâm rời tất cả chấp thủ tướng ngã. Như thế, ý nghĩa hành Lục độ Ba-la-mật chính là hành cái tâm tỉnh giác rời tất cả mọi chấp thủ.
Đến đây, đức Phật dạy thính chúng nên trú tâm như lời Ngài vừa chỉ dạy. Đó là trú tâm bằng cách không trú vào bất cứ cái gì cả, cũng tức là trú vào tâm Bồ-đề hay trú vào Tánh Không của tất cả các pháp.
Từ đây cho đến đoạn 31, những lời chỉ dạy của đức Phật chỉ là và toàn là nói lên tinh thần trú tâm như thế. Nghĩa là nói lên tinh thần Vô trụ và Vô sở trụ.
ĐOẠN THỨ NĂM
I. Âm: Như lý thật kiến.
Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Khả dĩ thân tướng kiến Như Lai phủ? Phất dã, Thế Tôn! Bất khả dĩ thân tướng đắc kiến Như Lai. Hà dĩ cố? Như Lai sở thuyết thân tướng tức phi thân tướng. Phật cáo Tu-bồ-đề: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.
II. Nghĩa: Thấy đúng như lý (Thật tại).
– Này Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ sao? Có thể thấy Như Lai qua đặc tướng của Ngài không?
– Bạch Thế Tôn, không thể được! Không thể căn cứ vào đặc tướng mà cho là thấy Như Lai. Vì sao?
– Do vì, cái mà Như Lai nói là đặc tướng vốn không phải đặc tướng.
– Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: “Bất cứ cái nào có tướng thì cái đó hư vọng (giả dối). Vì vậy, nếu thấy đặc tướng chẳng phải đặc tướng tức thấy Như Lai.”
III. Ý kiến:
– Thời điểm này, một số thính chúng vẫn chưa ngộ được Tánh Không của các pháp (Thật tướng Vô tướng), nên vẫn băn khoăn rằng, nếu hành Lục độ với tinh thần Vô tướng thì làm sao chứng được quả Phật, ấy là sự thành tựu của ba mươi hai đặc tướng? Thấy rõ tâm trạng đó, đức Phật đặt thẳng vấn đề để gỡ vướng mắc cho thính chúng. Đức Phật dạy rằng, không thể thấy các đặc tướng như thế mà cho là thấy Như Lai. Bởi các đặc tướng ấy là pháp hữu vi, là pháp sinh diệt; mà Như Lai là Pháp vô vi, là Pháp bất sinh diệt. Do thế, không nên lầm lẫn giữa sắc thân Như Lai và Thật tướng Như Lai.
– Sau khi phủ nhận Như Lai không phải là các đặc tướng đó, sợ rằng thính chúng sẽ rơi vào chấp không; nên đức Phật dạy tiếp rằng, mặc dầu, sắc thân ấy là hư huyễn, nhưng không hẳn lìa sắc thân mà thấy được Như Lai. Nếu thấy sắc thân không phải sắc thân thì thấy Như Lai đích thực. Nói rõ hơn, nếu thấy Tánh Không của sắc thân ấy (các pháp) tức thấy Thật tướng Như Lai.
ĐOẠN THỨ SÁU
I. Âm: Chánh tín hy hữu.
Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Phả hữu chúng sanh, đắc văn như thị ngôn thuyết, chương cú, sanh thật tín phủ? Phật cáo Tu-bồ-đề: Mạc tác thị thuyết. Như Lai diệt hậu, hậu ngũ bách tuế, hữu trì Giới tu Phước giả, ư thử chương cú năng sanh tín tâm, dĩ thử vi thật; đương tri thị nhơn bất ư nhất Phật, nhị Phật, tam, tứ, ngũ Phật nhi chủng thiện căn, dĩ ư vô lượng thiên vạn Phật sở, chủng chư thiện căn. Văn thị chương cú, nãi chí nhất niệm sanh tịnh tín giả, Tu-bồ-đề, Như Lai tất tri tất kiến; thị chư chúng sanh đắc như thị vô lượng Phước đức. Hà dĩ cố? Thị chư chúng sanh vô phục ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, vô pháp tướng diệc vô phi pháp tướng. Hà dĩ cố? Thị chư chúng sanh, nhược tâm thủ tướng tắc vi trước ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Nhược thủ pháp tướng tức trước ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Hà dĩ cố? Nhược thủ phi pháp tướng tức trước ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Thị cố bất ưng thủ pháp, bất ưng thủ phi pháp. Dĩ thị nghĩa cố, Như Lai thường thuyết: “Nhữ đẳng Tỳ-kheo tri Ngã thuyết pháp như phiệt dụ giả, Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp”.
II. Nghĩa: Hiếm có đức tin chân chánh.
Trưởng lão Tu-bồ-đề bạch đức Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, trong tương lai nếu có ai được nghe kinh Kim Cang này có thể khởi đức tin đúng chân lý không?
– Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: Thầy đừng nói như thế! Sau khi đức Như Lai nhập Niết-bàn, vào thời gian 500 năm sau, sẽ có những người giữ Giới, làm Phước, tu Tuệ; những người đó khi nghe được kinh Kim Cang này sẽ phát khởi đức tin đúng với chân lý. Trưởng lão nên hiểu rằng, những người đó không phải chỉ gieo căn lành ở một đức Phật, hai đức Phật, ba, bốn, năm đức Phật, mà thật sự đã gieo căn lành ở vô lượng ngàn vạn đức Phật. Những người như thế mà được nghe kinh Kim Cang này, dù chỉ một ý niệm thanh tịnh; này Tu- bồ-đề! Như Lai cũng biết rõ, thấy rõ họ và họ có được vô lượng Phước đức. Tại sao vậy? – Vì những người đó không còn vướng mắc những khái niệm về ngã, về nhơn, về chúng sanh, về thọ giả, về pháp và về phi pháp. Vì sao? Vì những người đó nếu còn có ý tưởng ngã tức còn vướng kẹt vào các tướng ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Nếu còn ý tưởng pháp là còn vướng kẹt các tướng ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Nếu còn ý tưởng phi pháp vẫn còn vướng kẹt các tướng ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Vì thế, không nên chấp thủ Pháp, lại càng không nên chấp thủ phi pháp. Vì thật nghĩa đó, nên Như Lai thường dạy các Tỳ-kheo hãy nhận thức rằng: Pháp Như Lai nói tương tự như chiếc bè, Pháp còn phải bỏ huống là phi pháp.
III. Ý kiến:
– Thính chúng lại tư duy rằng, giáo pháp thâm diệu như thế thì 500 năm sau, nếu ai nghe được cũng khó hiểu và tin đúng như thật. Hiểu rõ vướng mắc đó, đức Phật xác nhận rằng, trong thời kỳ ấy vẫn có những người có đủ Giới đức, Trí tuệ hiểu nghĩa-lý Kim Cang này. Bởi những người đó đã từng hành trì ly thủ hết thảy tướng đến vô số lần; nói cách khác, những người đó đã vô lượng lần an trú trong Thật tại Vô tướng.
– Đức Phật biết rõ và thấy rõ những người đó là biểu thị ý nghĩa chỉ có Trí Phật hay Trí tuệ Bát-nhã mới biết và thấy Thật tại Vô tướng mà thôi. Ngôn ngữ diễn đạt trong các kinh điển Bắc truyền nói chung và ngôn ngữ của Kim Cang nói riêng, là thứ ngôn ngữ biểu tượng; ấy thế, chúng ta cần hiểu theo khuynh hướng đó mới hiểu được ý của Kinh.
– Trực nhập Thật tại Vô tướng phải là tinh thần lìa mọi chấp thủ về ngã, về pháp và về phi pháp.
1. Chấp thủ ngã: Chính là bản năng của Mạt- na thức, đây là kiến chấp sai lầm và căn bản của con người (chúng sanh). Chấp thủ ngã tựu trung có bốn khía cạnh:
– Ngã: Quan niệm tự thân có một thật thể độc lập, một cái tôi tự chủ (tự ngã).
– Nhơn: Quan niệm tự thân có một linh hồn thường hằng tái sanh từ kiếp này qua kiếp khác. (người thì mãi tái sanh làm người, chim thì mãi tái sanh làm chim .v.v…).
– Chúng sanh: Quan niệm tự thân là một sinh thể hay một hữu tình thường hằng và biệt lập với các chủng loại hữu tình khác, đồng thời biệt lập với các loại vô tình.
– Thọ giả: Quan niệm tự thân là một sinh mạng có đời sống liên tục từ khi ở trong bào thai cho đến khi chết.
2. Chấp thủ pháp: Quan niệm các pháp là thật có (nhất thiết pháp giai Hữu). Tại đây, pháp mà Kim Cang muốn nói chính là các pháp hữu vi thuộc hiện tượng giới.
3. Chấp thủ phi pháp: Quan niệm các pháp không thật có (nhất thiết pháp giai Không). Tại đây, từ phi pháp có hai nghĩa:
-Phi pháp đối lập với pháp (ngoan không)
– Phi Pháp là từ mà đức Phật tạm dùng để chỉ Thật tại như thật Vô tướng (Tánh Không hay Chân thật Không).
Bồ-tát không những phải lìa chấp có (pháp), chấp không (phi pháp) mà còn cần phải lìa ngay cả chấp thủ Thật tại như thật nữa (phi Pháp) mới là một Bồ-tát đích thực.
Pháp và phi pháp là hai đối tượng chấp thủ của ngã. Tuy vậy hai chấp thủ này cũng chỉ là và chính là phản diện của chấp thủ ngã mà thôi. Phản diện này có hai nghĩa:
A. Do chấp thủ tự thân có một tự ngã nên chấp thủ các pháp có riêng tự ngã của chúng.
B. Chấp thủ ngã đối lập cũng chính là ý nghĩa chấp thủ ngã.
Qua ý nghĩa trình bày trên, Kim Cang đã giới thiệu với thính chúng phương pháp, trực nhập Thật tại Vô tướng, đó là phải lìa hẳn chấp thủ ba khái niệm ngã, pháp và phi pháp. Tựu trung, chỉ có một điểm duy nhất là đoạn trừ một thứ khái niệm, đó là khái niệm tự ngã mà thôi (đoạn trừ Mạt-na thức). Thế là, trọng tâm điều phục tâm là rời bỏ khái niệm chấp thủ tự ngã. Khi chấp thủ hoàn toàn vắng bóng chính là thời điểm tâm an trú (trú Thật tại Vô tướng hay trú Tánh Không). Đây là ý nghĩa mà Tâm kinh dạy: “…Hành thâm Bát-nhã Ba-la- mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai Không, độ nhất thiết khổ ách…”. (Khi thực hành thâm sâu Trí tuệ giác ngộ, thấy rõ 5 uẩn (các pháp) đều rỗng Không (không có tự ngã), nên giải thoát toàn diện mọi khổ đau).
c. Để giúp thính chúng đoạn trừ tận cùng khái niệm chấp thủ, đức Phật dạy thính chúng cần phải xem giáo pháp Ngài dạy như là chiếc bè. Do thế, để đạt cứu cánh giải thoát thì giáo pháp này cần được vất bỏ huống gì là phi giáo pháp.
Theo ý nghĩa này, từ Pháp và phi pháp ở cuối phần 6 này cần được hiểu: Pháp là giáo pháp, là thiện pháp; và phi pháp là tà pháp, bất thiện pháp.
Đức Phật dạy, cần xem Phật pháp như chiếc bè, đây là một ví dụ rất sinh động. Chiếc bè là phương tiện qua sông, dòng sông là tham ái, là chấp thủ, là vô minh; bờ bên này là sanh tử, bờ bên kia là Niết- bàn; lên chiếc bè là để qua sông nên cần phải chèo chống, chứ không phải lên bè để thưởng ngoạn… Khi đến bờ bên kia, điều sau cùng phải làm để lên bờ, đó là phải từ bỏ chiếc bè. Đây chính là tinh thần Trung đạo Bát-nhã vậy.
Qua ví dụ chiếc bè cho chúng ta một chân nghĩa: Phật Pháp là để hành trì nhằm chứng được các quả vị giải thoát, triệt để không phải để nói hay để trang điểm cho bất kỳ một tướng ngã nào, một chấp kiến nào….
ĐOẠN THỨ BẢY
I. Âm: Vô đắc vô thuyết.
Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Như Lai đắc A-nậu-đa- la Tam-miệu Tam-Bồ-đề da? Như Lai hữu sở thuyết Pháp da? Tu-bồ-đề ngôn: Như Ngã giải Phật sở thuyết nghĩa, vô hữu định Pháp, danh A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề, diệc vô hữu định Pháp Như Lai khả thuyết. Hà dĩ cố? Như Lai sở thuyết Pháp, giai bất khả thủ, bất khả thuyết, phi Pháp, phi phi Pháp. Sở dĩ giả hà? Nhất thiết Hiền Thánh giai dĩ Vô vi Pháp nhi hữu sai biệt.
II. Nghĩa: Không có Pháp chứng đắc.
Không có Pháp tuyên thuyết.
Trưởng lão Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ sao? Phải chăng Như Lai có đắc Pháp Vô thượng Chánh-đẳng Chánh- giác? Phải chăng Như Lai có Pháp để tuyên thuyết?
– Tu-bồ-đề bạch Phật: Theo con hiểu lời Thế Tôn dạy, chẳng có Pháp gì riêng biệt gọi là Vô thượng Chánh- đẳng Chánh-giác, và chẳng có một Pháp gì riêng biệt được Thế Tôn tuyên thuyết. Vì sao vậy? – Vì rằng, Pháp được Thế Tôn chỉ dạy thì không thể nắm bắt được, cũng không thể diễn tả được. Đó chẳng phải là Pháp và cũng chẳng phải phi Pháp. Tại sao vậy? -Bởi vì tất cả các bậc Hiền Thánh đều do tu tập Pháp Vô vi ấy mà có (quả) sai khác.
III. Ý kiến:
– Các phần trên, mặc dù đức Phật đã nhiều lần chỉ dạy các pháp là Vô tướng, nhưng một số thính chúng vẫn còn vướng mắc rằng, nếu các pháp Vô tướng, tại sao lại có sự kiện đức Phật chứng đắc Pháp và có Pháp để đức Phật tuyên thuyết? Thấy rõ sự băn khoăn đó, đức Phật đặt thẳng vấn đề với Tôn giả Tu-bồ-đề để giải tỏa cho thính chúng.
– Theo hai câu hỏi mà đức Phật đã nêu, từ Pháp có hai nghĩa:
a. Pháp đức Phật chứng đắc;
b. Pháp đức Phật tuyên thuyết.
Đây cũng là hai nghĩa mà thính chúng đang tư duy và vướng mắc.
c. Hội lãnh thâm ý của đức Phật, Trưởng lão Tu- bồ-đề thay đức Phật giải nghi cho thính chúng. Trưởng lão dạy rằng, Pháp mà Thế Tôn chứng đắc và tuyên thuyết chính là Thật tại Vô tướng (Pháp Vô lậu hay Pháp Vô vi), nên không thể là đối tượng của ngã để nắm bắt hay diễn đạt. Chính lẽ đó, Thật tại Vô tướng không phải là Pháp; đồng thời cũng không phải phi Pháp. Tức là không phải một khẳng định hay một phủ định của khái niệm bởi chấp thủ tướng ngã. Đây là Thật tại như thật, thật có, nằm ngoài chấp thủ tướng ngã; và, cũng do chứng nhập Thật tại như thật ấy hoặc cạn hay sâu mà có quả sai khác trong sự giải thoát.
ĐOẠN THỨ TÁM
I. Âm: Y Pháp xuất sanh.
– Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Nhược nhơn mãn tam thiên đại thiên thế giới thất bảo, dĩ dụng Bố thí, thị nhơn sở đắc Phước đức, ninh vi đa phủ?
Tu-bồ-đề ngôn: Thậm đa, Thế Tôn! Hà dĩ cố? Thị Phước đức tức phi Phước đức tánh, thị cố Như Lai thuyết Phước đức đa.
– Nhược phục hữu nhơn, ư thử Kinh trung, thọ trì nãi chí tứ cú kệ đẳng, vị tha nhơn thuyết, kỳ Phước thắng bỉ. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề, nhất thiết chư Phật cập chư Phật A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ- đề Pháp, giai tùng thử Kinh xuất. Tu-bồ-đề, sở vị Phật Pháp giả tức phi Phật Pháp.
II. Nghĩa: Sanh khởi từ Pháp.
– Trưởng lão Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ sao? Nếu có người đem bảy thứ châu báu chất đầy cả thế giới tam thiên đại thiên để Bố thí, người đó có Phước đức nhiều không?
Tu-bồ-đề bạch đức Phật: Bạch đức Thế Tôn, rất nhiều. Vì sao vậy? -Bởi Phước đức đó, tự tánh chẳng phải Phước đức, vì vậy Như Lai mới dạy là Phước đức nhiều.
– Này Trưởng lão, nếu có người thọ trì Kinh này dù chỉ một bài kệ bốn câu, rồi đem thuyết giảng cho người khác nghe, thì Phước đức người này hơn hẳn Phước đức người trên. Vì sao vậy?
– Này Tu-bồ-đề! Tất cả chư Phật và Pháp Vô thượng Chánh-đẳng Chánh- giác của chư Phật đều xuất phát từ Kinh này.
– Này Tu- bồ-đề! Cái gọi là Pháp Phật tức cái đó chẳng phải là Pháp Phật.
III. Ý kiến:
– Các phần trên, đức Phật đã nhiều lần dạy thẳng rằng, Thật tướng các pháp là Vô tướng, nhưng vẫn còn một số thính chúng chưa lãnh ngộ được. Do thế, đến đây đức Phật chỉ dạy theo tiến trình từ pháp hữu vi để ngộ nhập dần vào Pháp Vô vi. Đức Phật dạy rằng, đứng trên góc độ hữu vi, thiện nam thiện nữ nào đem bảy thứ châu báu nhiều như thế để Bố thí, thì người ấy sẽ có Phước đức rất nhiều. Trên sự thật Phước đức vốn Vô tướng, Vô tánh (không có tự ngã), nhưng thuận theo cách nhìn chấp ngã của thính chúng, đức Phật mới bảo Phước đức nhiều là vậy.
Dựa trên tâm lý đó, đức Phật khuyến khích thính chúng, nếu ai hiểu rõ và thực hành, diễn giảng cho người khác về lý – nghĩa kinh Kim Cang này, dù chỉ một bài kệ bốn câu, thì Phước đức người này hơn xa người Bố thí trên. Đây là một trong những phương tiện giáo hóa thiện xảo của đức Phật; đồng thời, nhờ đó mà thính chúng an tâm thọ trì Kim Cang. Khi hiểu lý – nghĩa Kim Cang thì tự thực hành và diễn giảng cho tha nhân, chính đó là những yếu tố nuôi dưỡng và phát triển Trí tuệ Bát-nhã cho tự thân và tha nhân. Sự tăng trưởng Trí tuệ Bát-nhã có nghĩa là sự huỷ diệt dần các lậu hoặc và cũng có nghĩa là ngộ nhập dần vào Thật tại Vô tướng. Vào thời điểm Trí tuệ Bát-nhã thành tựu chính là thời điểm chứng đắc Thật tại Vô tướng, cũng có nghĩa là thời điểm thành tựu quả Phật. Đây là nghĩa mà đức Phật dạy Quả vị Phật-đà và Pháp của chư
Phật đều được xuất phát từ kinh Kim Cang này vậy.
Sau khi dẫn dắt thính chúng bằng phương tiện ngôn ngữ như thế, đến điểm cuối, đức Phật lại một lần nữa nhấn mạnh: “Cái được gọi là quả Phật và giáo lý Phật thuyết, vốn không phải là Pháp Phật”. Đây là tinh thần phủ nhận triệt để mọi chấp thủ tướng ngã của Kim Cang, để khẳng định Thật tại Vô tướng thật có, nằm ngoài vòng mọi chấp thủ.
– Qua đoạn Kinh này, chúng ta lại bắt gặp tinh thần đề cao Pháp thí. Đây là tinh thần nhất quán trong giáo lý Phật giáo (cả Nam tạng lẫn Bắc tạng). Pháp thí là nhân tố giúp tha nhân có Chánh kiến để tự soi chiếu sự nghiệp tu tập của mình hầu đạt cứu cánh giác ngộ. Đây là lợi ích siêu việt, tối thượng, không có đối tượng so sánh.
– Theo nghĩa của đoạn Kinh này, Bố thí tài sản là thuộc pháp hữu vi, hữu lậu. Đây chỉ là sự diễn đạt thích ứng với tâm lý để đưa thính chúng tiến dần vào mục đích tối hậu. Trên sự thật, Bố thí tài sản có thể là Pháp Vô vi, Vô lậu, nếu thực hành với tinh thần Vô tướng, Vô trụ (đạt Ba-la-mật) như đoạn thứ 4 ở trên đã đề cập.
– Tứ cú kệ: Có hai ý kiến giải thích sai khác:
1. Đó là hai bài kệ ở đoạn thứ 26 và đoạn thứ 32 (“Nhược dĩ sắc kiến ngã…” và, “Nhất thiết hữu vi pháp…”).
2. Đó là một đơn vị (đoạn văn) theo cách tính xưa của kinh sách Phật giáo Ấn Độ. Một đơn vị gồm ba mươi hai chữ chia làm 4 câu, mỗi câu có 8 chữ. Theo ý kiến này Tứ cú kệ là muốn chỉ bất cứ một đoạn văn nào trong Kinh, miễn là nói lên được lý-nghĩa chủ yếu của Kim Cang.
Qua ngôn ngữ diễn đạt của Kim Cang, chúng ta nên hiểu Tứ cú kệ theo ý kiến thứ hai xem ra ổn hơn. Hơn nữa, thật ra ý kiến thứ nhất cũng đã được thâu nhiếp trong ý kiến thứ hai rồi.
ĐOẠN THỨ CHÍN
I. Âm: Nhất tướng: Vô tướng.
– Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Tu-đà-hoàn năng tác thị niệm: Ngã đắc Tu-đà-hoàn quả phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Phất dã, Thế Tôn! Hà dĩ cố? Tu-đà-hoàn danh vi Nhập lưu nhi vô Sở nhập, bất nhập sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thị danh Tu-đà-hoàn.
– Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Tư-đà-hàm năng tác thị niệm: Ngã đắc Tư-đà-hàm quả phủ? Tu-bồ- đề ngôn: Phất dã, Thế Tôn! Hà dĩ cố? Tư-đà-hàm danh Nhất vãng lai nhi thật vô Vãng lai, thị danh Tư-đà-hàm.
– Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? A-na-hàm năng tác thị niệm: Ngã đắc A-na-hàm quả phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Phất dã, Thế Tôn! Hà dĩ cố? A-na-hàm danh vi Bất lai nhi thật vô Bất lai, thị cố danh A-na-hàm.
– Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? A-la-hán năng tác thị niệm: Ngã đắc A-la-hán đạo phủ? Tu-bồ-ngôn: Phất dã, Thế Tôn! Hà dĩ cố? Thật vô hữu Pháp danh A-la-hán. Thế Tôn! Nhược A-la-hán tác thị niệm: Ngã đắc A-la-hán đạo, tức vi trước ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Thế Tôn! Phật thuyết Ngã đắc Vô tránh tam-muội, nhơn trung tối vi đệ nhất, thị đệ nhất ly dục A-la-hán. Thế Tôn! Ngã bất tác thị niệm: Ngã thị ly dục A-la-hán. Thế Tôn! Ngã nhược tác thị niệm: Ngã đắc A-la-hán đạo, Thế Tôn tắc bất thuyết Tu-bồ-đề thị nhạo A-lan-na hạnh giả. Dĩ Tu- bồ-đề thật vô sở hành, nhi danh Tu-bồ-đề thị nhạo A-lan-na hạnh.
II. Nghĩa: Một tướng: Vô tướng.
– Này Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ sao? Vị Tu-đà-hoàn có thể nghĩ rằng, mình chứng quả Tu-đà-hoàn hay không?
– Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn, quả thật không. Vì sao vậy? Vì Tu-đà-hoàn có nghĩa là Vào dòng, nhưng thật sự không có ai vào và chỗ để vào; cụ thể không vào dòng sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Do thế, mới gọi là Tu-đà-hoàn.
– Này Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ sao? Vị Tư-đà-hàm có thể nghĩ rằng, mình chứng quả Tư-đà-hàm hay không?
– Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn, quả thật không! Vì sao vậy? Vì Tư-đà-hàm có nghĩa là Một lần trở lại, nhưng thật sự không có ai trở lại và chỗ để trở lại. Do thế mới gọi là Tư-đà-hàm.
– Này Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ sao? Vị A-na-hàm có thể nghĩ rằng, mình chứng quả A-na-hàm hay không?
– Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn, quả thật không! Vì sao vậy? Vì A-na-hàm có nghĩa là Không trở lại, nhưng thật sự không có ai không trở lại và chỗ để không trở lại. Do thế, mới gọi là A-na-hàm.
– Này Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ sao? Vị A-la-hán có thể nghĩ rằng, mình chứng quả A-la-hán hay không?
– Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn, quả thật không! Vì sao vậy?
– Vì Thật sự không có Pháp nào được gọi là A-la-hán cả. Do thế, mới gọi là A-la-hán.
– Bạch Thế Tôn! Nếu vị A-la-hán nào khởi niệm rằng, mình chứng quả A-la-hán thì vị đó còn chấp vào tướng ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả.
– Bạch Thế Tôn! Thế Tôn thường dạy rằng trong những người chứng Tam-muội Vô tránh (Định không tranh cãi), con là người đứng đầu, con là vị A-la-hán ly dục bậc nhất.
– Bạch Thế Tôn! Dù vậy, con không nghĩ mình là vị A-la-hán ly dục bậc nhất.
– Bạch Thế Tôn! Nếu con nghĩ mình chứng quả A-la-hán thì Thế Tôn đã không nói rằng Tu-bồ-đề là người thích thú hạnh A-lan-na (Vô tránh Tam-muội). Vì con thật sự không tạo nghiệp gì cả nên Thế Tôn mới nói Tu-bồ-đề thích thú hạnh A-lan-na.
III. Ý kiến:
– Ở đoạn thứ 7 và thứ 8, đức Phật đã diễn bày ý nghĩa Pháp chứng ngộ và Pháp được thuyết của chư Phật là Vô tướng, nhưng một số thính chúng vẫn chưa giác ngộ, nên nghi vấn rằng nếu các Pháp Vô tướng thì tại sao có sự kiện đức Phật đắc Pháp và giảng Pháp Tứ Đế, nhờ đó mà có Bốn Thánh quả? Để giúp thính chúng ra khỏi chấp thủ này, nên đức Phật tiếp giảng đoạn thứ 9 này.
– Nội dung chứng ngộ Bốn quả vị từ Tu-đà-hoàn đến A-la-hán, mặc dù có sự cao, thấp, thô, tế sai khác; nhưng xét chung, cảnh giới chứng đắc là Thật tướng Vô tướng. Do thế, tâm lý Bốn bậc Thánh này không khởi tướng chấp thủ ngã, pháp (năng đắc, sở đắc). Nói cách khác, tất cả các vị Thánh này đều thấy Thật tướng Vô tướng của các pháp vậy.
– Trưởng lão Tu-bồ-đề trưng dẫn sự chứng đắc A-la-hán của mình với ý nghĩa minh xác sự kiện: Một vị A-la-hán thì không bao giờ chấp thủ (nghĩ mình chứng đắc A-la-hán). Điều này không có nghĩa các vị A-la-hán không biết mình đang ở đâu trên lộ trình giải thoát. Thật sự, các Ngài hiểu rất rõ mình đang ở đâu, hiểu rõ mình không còn Nhân sanh tử .v.v, hiểu với Trí tuệ hoàn toàn vắng bóng chấp thủ (Chánh kiến Vô lậu hay Tri kiến giải thoát).
ĐOẠN THỨ MƯỜI
I. Âm: Trang nghiêm Tịnh độ.
Phật cáo Tu-bồ-đề: Ư ý vân hà? Như Lai tích tại Nhiên Đăng Phật sở, ư Pháp hữu sở đắc phủ?
– Phất dã, Thế Tôn! Như Lai tại Nhiên Đăng Phật sở, ư Pháp thật vô sở đắc.
– Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Bồ-tát trang nghiêm Phật độ phủ? – Phất dã, Thế Tôn! Hà dĩ cố? Trang nghiêm Phật độ giả, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm.
– Thị cố, Tu-bồ-đề, chư Bồ-tát Ma-ha-tát, ưng như thị sanh thanh tịnh tâm, bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. Tu-bồ-đề, thí như hữu nhơn, thân như Tu-di sơn vương, ư ý vân hà? Thị thân vi đại phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Thậm đại, Thế Tôn!
– Hà dĩ cố? Phật thuyết phi thân, thị danh Đại thân.
II. Nghĩa: Trang nghiêm Tịnh độ (cõi Phật).
Đức Phật hỏi Trưởng lão Tu-bồ-đề: Thầy nghĩ sao? Xưa kia khi tu học với đức Phật Nhiên Đăng, Như Lai có chứng Pháp gì phải không?
– Bạch Thế Tôn, quả thật không. Khi tu học với đức Phật Nhiên Đăng, Như Lai không chứng đắc Pháp gì cả.
– Này Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ sao? Các vị Bồ-tát có trang nghiêm cõi Phật hay không?
– Bạch Thế Tôn, quả thật không. Vì sao vậy? Vì trang nghiêm cõi Phật tức chẳng phải trang nghiêm cõi Phật, nên mới gọi là trang nghiêm cõi Phật.
– Do thế, này Tu-bồ-đề! Các vị Đại Bồ-tát nên khởi tâm thanh tịnh như thế này: Không dựa vào sắc để khởi tâm, cũng không dựa vào thanh, hương, vị, xúc hay pháp để khởi tâm, chỉ nên không dựa vào chỗ nào cả để khởi tâm.
– Này Tu-bồ-đề! Giả sử có người thân thể to lớn như núi chúa Tu-di, Thầy nghĩ sao? Thân ấy lớn không?
– Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn, thật rất lớn! – Tại sao vậy? Vì cái mà Thế Tôn gọi là Thân lớn chẳng phải Thân lớn, nên mới gọi là Thân lớn đích thực.
III. Ý kiến:
– Đến đây, một số thính chúng lại thắc mắc rằng, theo đức Phật vừa dạy, trong sự chứng ngộ không có hiện tượng năng đắc và sở đắc, thì tại sao trong quá khứ có hiện tượng đức Phật Nhiên Đăng thọ ký cho Ngài sẽ thành Phật hiệu Thích-ca Mâu-ni? Một lần nữa đức Phật lại nêu lên nghi vấn của thính chúng để Tôn giả Tu-bồ-đề giải đáp. Tôn giả xác minh, trong sự kiện thọ ký ấy, thật sự không có người đắc Pháp và Pháp được đắc (vô sở đắc). Bởi lẽ, bấy giờ Bồ-tát Thiện Tuệ (tiền thân đức Phật) đã chứng ngộ Thật tướng Vô tướng, nên mọi chấp thủ hoàn toàn vắng mặt. Tại đây, ý nghĩa thọ ký chỉ là một xác minh sự chứng nhập Thật tướng Vô tướng giữa hai bậc giác ngộ; vì thế, hoàn toàn không có sự trao Pháp và nhận Pháp.
– Một số thính chúng lại tư duy rằng, theo đức Phật dạy, quả Phật là địa vị vô sở đắc, thì tại sao đức Phật lại dạy Bồ-tát phải thực hành Lục Ba-la-mật (trang nghiêm cõi Phật) để chứng nhập cõi Phật? -Thấu suốt băn khoăn ấy, đức Phật dạy tiếp rằng, hành Lục Ba-la- mật (Giới-Định-Tuệ) là hành cái tâm tỉnh giác ra khỏi mọi chấp thủ tướng ngã, tức không trú tâm vào bất cứ cái gì (vô sở trụ) để thực hành (sanh tâm). Nếu khởi tâm đúng như thế mới chứng nhập cõi Phật.
– Theo Edward Conze, thân ở đây là Pháp thân (trong nguyên bản bị thiếu). Trên cơ sở này, chúng ta nên hiểu đoạn Kinh này như sau: Đến đây, một số thính chúng lại nghĩ rằng, chứng nhập cõi Phật đồng nghĩa với thành tựu Pháp thân, là một Thân thể vĩ đại. Hiểu rõ vướng mắc đó đức Phật dạy rằng, Thân lớn (Đại thân) mà Thế Tôn bảo, chẳng phải là cái thân vật lý, cái thân Duyên sinh, cái thân được dựng lên bởi khái niệm tướng ngã; trái lại, cái thân được thành tựu bởi Tri kiến như thật: Thật tướng của các pháp. Chính cái thân này mới đích thực là Đại thân (Pháp thân).
ĐOẠN THỨ MƯỜI MỘT
I. Âm: Vô vi thắng Phước.
Tu-bồ-đề, như Hằng hà trung sở hữu sa số, như thị sa đẳng Hằng hà. Ư ý vân hà? Thị chư Hằng hà sa, ninh vi đa phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Thậm đa, Thế Tôn! Đản chư Hằng hà, thượng đa vô số, hà huống kỳ sa.
Tu-bồ-đề! Ngã kim thật ngôn cáo nhữ, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn, dĩ thất bảo mãn nhĩ sở Hằng sa số tam thiên đại thiên thế giới, dĩ dụng Bố thí, đắc Phước đa phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Thậm đa, Thế Tôn! Phật cáo Tu-bồ-đề: Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhơn ư thử Kinh trung, nãi chí thọ trì tứ cú kệ đẳng, vị tha nhơn thuyết, nhi thử Phước đức thắng tiền Phước đức.
II. Nghĩa: Vô vi là Phước đức tối thắng.
– Này Trưởng lão Tu-bồ-đề! Giả sử sông Hằng có bao nhiêu hạt cát là có bấy nhiêu sông Hằng; vậy Thầy nghĩ sao, số cát trong tất cả sông Hằng ấy có nhiều hay không?
– Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn, quả rất nhiều. Sự thật, số lượng những sông Hằng đã là vô số, huống chi số lượng hạt cát trong những sông Hằng ấy.
– Này Tu-bồ-đề! Bây giờ Như Lai hỏi thật Thầy, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào đem bảy thứ châu báu đầy cả thế giới tam thiên đại thiên, nhiều như số cát của tất cả các sông Hằng trên mà Bố thí, thì được Phước đức nhiều không?
– Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn, quả rất nhiều.
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: Nếu có thiện nam hay thiện nữ nào thọ trì Kinh này dù chỉ một bài kệ bốn câu và đem thuyết giảng cho người khác, thì Phước đức của người này hơn hẳn Phước đức của người trên.
II. Ý kiến:
– Vấn đề chứng nhập Thật tướng Vô tướng hay chứng nhập Thật tại Tánh Không của các pháp (chứng quả Phật), hoàn toàn không phải khả năng của tư duy hay kiến thức, mà phải là năng lực tu tập đoạn trừ tham ái, chấp thủ. Do thế, đức Phật lại một lần nữa (lần thứ 3) tán thán Phước đức của người thọ trì, diễn giảng lý-nghĩa Kim Cang này, để khuyến khích thính chúng hãy rời mọi suy tư mà đi vào thực hành thiết thực.
– Thọ trì, diễn giảng lý-nghĩa Kim Cang chính là thực hành Lục độ với tinh thần Vô tướng hay thực hành với sự tỉnh thức của Trí tuệ Bát-nhã. Phải thế và chính thế, mới gọi là Lục độ Ba-la-mật. Tại đây, cần hiểu đức Phật tán thán Phước đức thọ trì, diễn giảng kinh Kim Cang là tán thán Trí tuệ Bát-nhã. Nếu hành Lục độ vạn hạnh mà thiếu vắng Trí tuệ Bát-nhã thì không thể trực nhập Thật tướng Vô tướng được.
– Tại đây, một lần nữa đức Phật lại đề cao Pháp thí, Bố thí Pháp là tối thắng trong các Bố thí. Đặc biệt nơi đây, đức Phật dạy, Tài thí vẫn đạt được Phước đức vô lượng (thậm đa) hay đạt Ba-la-mật, nếu người hành thí ly chấp thủ mọi tướng ngã.
ĐOẠN THỨ MƯỜI HAI
I. Âm: Tôn trọng chánh giáo.
Phục thứ Tu-bồ-đề! Tùy thuyết thị Kinh nãi chí tứ cú kệ đẳng, đương tri thử xứ, nhất thiết thế gian Thiên, Nhơn, A-tu-la giai ưng cúng dường như Phật tháp miếu, hà huống hữu nhơn tận năng thọ trì, độc tụng. Tu-bồ-đề! Đương tri thị nhơn thành tựu tối thượng đệ nhất hy hữu chi Pháp. Nhược thị Kinh điển sở tại chi xứ tức vi hữu Phật, nhược tôn trọng đệ tử.
II. Nghĩa: Tôn trọng giáo điển chân chánh (Kim Cang).
Này nữa, Tu-bồ-đề! Bất cứ nơi nào thuyết giảng Kinh này dù chỉ một bài kệ bốn câu, thì phải hiểu rằng tại chỗ ấy, tất cả hàng Trời, Người, A-tu-la trong thế giới, đều nên hiến cúng như hiến cúng chùa tháp đức Phật, huống gì là người nhiệt thành thọ trì, độc tụng.
Này Tu-bồ-đề! Thầy nên biết rằng người ấy đã thành tựu được cái Pháp tối thượng, hy hữu bậc nhất; và, nơi nào có Kinh này thì nơi đó có mặt đức Phật hay các vị Đại đệ tử của Ngài.
III. Ý kiến:
– Tiếp tục khích lệ thính chúng thực hành kinh Kim Cang, đức Phật dạy nơi nào có kinh Kim Cang hay có người thọ trì, diễn giảng kinh Kim Cang, dù một bài kệ bốn câu, thì nơi đó được xem là chùa tháp thờ đức Phật hoặc có mặt các Đại đệ tử của Ngài, nơi mà hàng Trời, Người, A-tu-la quy hướng tôn kính cúng dường.
– Lưu ý một lần nữa, ngôn ngữ kinh điển Bắc tông nói chung và ngôn ngữ Kim Cang nói riêng là thứ ngôn ngữ biểu tượng. Do thế, nơi đây chúng ta phải hiểu rằng: Sự có mặt người thọ trì diễn giảng Kim Cang hay sự có mặt kinh Kim Cang được xem là sự có mặt của chùa tháp thờ Phật hay sự có mặt của đức Phật hoặc Đại đệ tử của Ngài. Ý nghĩa nơi đây không hẳn đơn thuần tôn thờ, lễ bái, cúng dường đức Phật, Đại đệ tử hoặc chùa tháp trên hình thức, mà thiết thực là tự học hỏi, hành trì diễn giảng Kim Cang. Đồng thời, sự có mặt người thọ trì diễn giảng Kim Cang hay có mặt kinh Kim Cang là ý nghĩa sự có mặt của Trí tuệ Bát-nhã hay Thật tại như thật. Do nghĩa này và chính nghĩa này mới mệnh danh là sự có mặt của đức Phật hay Đại đệ tử của Ngài.
ĐOẠN THỨ MƯỜI BA
I. Âm: Như Pháp thọ trì.
Nhĩ thời, Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Đương hà danh thử Kinh, ngã đẳng vân hà phụng trì? Phật cáo Tu-bồ-đề: Thị Kinh danh vi Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật, dĩ thị danh tự nhữ đương phụng trì. Sở dĩ giả hà? Tu-bồ-đề! Phật thuyết Bát- nhã Ba-la-mật, tức phi Bát-nhã Ba-la-mật, thị danh Bát-nhã Ba-la-mật. Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Như Lai hữu sở thuyết Pháp phủ? Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Như Lai vô sở thuyết.
– Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Tam thiên đại thiên thế giới, sở hữu vi trần, thị vi đa phủ? – Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thậm đa, Thế Tôn!
– Tu-bồ-đề! Chư vi trần, Như Lai thuyết phi vi trần, thị danh vi trần. Như Lai thuyết thế giới, phi thế giới, thị danh thế giới. Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Khả dĩ tam thập nhị tướng kiến Như Lai phủ? Phất dã, Thế Tôn! Bất khả dĩ tam thập nhị tướng đắc kiến Như Lai. Hà dĩ cố? Như Lai thuyết tam thập nhị tướng, tức thị phi tướng, thị danh tam thập nhị tướng.
– Tu-bồ-đề, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn dĩ Hằng hà sa đẳng thân mạng Bố thí, nhược phục hữu nhơn, ư thử Kinh trung, nãi chí thọ trì tứ cú kệ đẳng, vị tha nhơn thuyết, kỳ Phước thậm đa.
II. Nghĩa: Thọ trì đúng Pháp.
Bấy giờ Tu-bồ-đề bạch đức Phật: Bạch Thế Tôn! Nên gọi Kinh này tên gì và chúng con thọ trì Kinh này như thế nào? Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: Kinh này tên là Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật các Thầy hãy căn cứ vào danh hiệu đó mà phụng trì. Vì sao vậy, Tu-bồ-đề? Cái mà Như Lai nói là Bát-nhã Ba-la-mật vốn không phải Bát-nhã Ba-la-mật, cho nên mới nói là Bát-nhã Ba-la- mật.
– Này Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ thế nào, có cái Pháp để Như Lai thuyết giảng phải không?
– Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Không có Pháp nào để Như Lai thuyết giảng cả.
Này Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ thế nào, số lượng vi trần trong thế giới tam thiên đại thiên có nhiều không?
– Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Quả rất nhiều.
– Này Tu-bồ-đề! Tất cả các vi trần ấy, Như Lai nói không phải vi trần, cho nên mới nói là vi trần. Và, cái mà Như Lai nói thế giới, vốn không phải thế giới, cho nên mới nói là thế giới.
– Này Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ thế nào, có thể thấy Như Lai qua ba mươi hai tướng quý của Ngài không?
– Bạch Thế Tôn, quả thật không! Không thể thấy Như Lai qua ba mươi hai tướng quý ấy. Vì sao vậy?
–Vì Như Lai nói ba mươi hai tướng quý, vốn chúng không phải tướng quý, cho nên mới nói là ba mươi hai tướng quý.
– Này Tu-bồ-đề! Nếu có thiện nam hay thiện nữ nào đem thân mạng mình nhiều như số cát sông Hằng để Bố thí; và, có người khác thọ trì Kinh này chỉ một bài kệ bốn câu và thuyết giảng cho tha nhân, thì Phước đức người này rất lớn so với người trên.
III. Ý kiến:
– Qua văn mạch từ đoạn thứ 10 đến đoạn thứ 13 này (nói về thọ ký thành Phật, trang nghiêm cõi Phật, Pháp thân, tán thán thực hành Lục độ và học hỏi, hành trì Kim Cang), nhất là đoạn này, khi đặt tên Kinh, hình như là những đoạn tóm lược lý-nghĩa của Kinh để kết thúc thời pháp. Qua đây, những gì cần hiển lộ Thật tại như thật, đức Phật đã chỉ dạy xong; nếu còn thắc mắc gì thì đó là sự vướng mắc tướng ngã của thính chúng. Với những ai không còn vướng mắc thì đã trực nhập thật tại qua những lần đức Phật chỉ bày ở trước.
Đặc biệt, qua những lần chỉ bày như thế, Kim Cang đã khẳng định quan điểm của Phật giáo rằng: Vấn đề chứng nhập quả Phật (Thật tại như thật) không phải là vấn đề thuần lý của khái niệm, của kiến thức; mà là vấn đề của đoạn tận chấp thủ, vô minh. Những gì đức Phật dạy dù thâm sâu tinh tế đến đâu, cũng chỉ là tác dụng như chiếc bè: Tác dụng thức tỉnh Tuệ giác trong mọi hành động của cuộc sống. Học Kim Cang chúng ta cần phải có Chánh kiến như thế.
– Thông thường, mọi thời pháp khi đặt tên Kinh là báo hiệu thời pháp sắp kết thúc; nhưng nơi đây tên Kinh đã được đặt mà thời pháp còn hơn một nửa. Có lẽ đây là trường hợp đặc biệt của Kim Cang!
Theo Edward Conze, sự kiện này có hai trường hợp:
a. Có lẽ bản kinh Kim Cang đầu tiên kết thúc ngang đây, các phần sau có thể là do các Luận sư thêm vào.
b. Có lẽ do sắp xếp nhầm lẫn thứ tự các lá bối ghi kinh Kim Cang trong thời gian lưu hành.
Cũng theo Edward Conze, từ đoạn thứ 13 này (sau đoạn xác định tên Kinh) đến đoạn thứ 29, chỉ là nói lại những gì đã nói và thiếu tính liên tục, mạch lạc. Ý kiến này, có lẽ ai cũng bắt gặp khi học hỏi, nghiên cứu Kim Cang. Chính đây là điểm rất khó cho chúng ta khi giải thích để được ổn thoả! Tuy thế, chúng ta hãy nỗ lực giải thích nhắm đến tính liên tục mạch lạc của mỗi đoạn, trên tinh thần hết sức cẩn trọng.
c. Cần nghĩ rằng, từ đoạn này trở về sau có những vấn đề được lặp lại, nhưng không phải dư thừa đối với thính chúng; bởi lẽ, trong thính chúng có sự sai biệt về căn cơ. Sự thật, có những vị có thể chứng ngộ Trí tuệ Bát-nhã ngay từ lời giảng đầu tiên của đức Phật, có những vị đến đoạn thứ 3, 4, 5, … hoặc đến đoạn 12 mới chứng ngộ; và cũng có những vị đến đây vẫn chưa chứng nhập được. Vì thế, đức Phật đã phương tiện tùy theo tâm lý đang vướng mắc của thính chúng để chỉ bày. Có hiểu như thế chúng ta mới thoát khỏi băn khoăn: Kinh Kim Cang phải được kết thúc ở đoạn 13 mới hợp lý và các đoạn sau là dư thừa!
Qua ý nghĩa này cho ta một nhận định: Thời pháp Kim Cang dài ngắn thế nào, đó chính là diễn tiến tâm lý của thính chúng vậy.
d. Ở phần12, khi đức Phật ca ngợi người học hỏi, thọ trì kinh Kim Cang, một số thính chúng muốn biết tên Kinh để thọ trì. Khi biết tên Kinh, thính chúng lại muốn biết ý nghĩa, nên đức Phật dạy tiếp: Bát-nhã Ba- la-mật (Trí độ) mà Thế Tôn nói vốn không phải Bát-nhã Ba-la-mật, nên Thế Tôn mới nói là Bát-nhã Ba-la-mật. Ý của đức Phật muốn dạy rằng, Bát-nhã Ba-la-mật mà Ngài vừa nói bằng ngôn ngữ vốn không phải là thật tại Bát-nhã Ba-la-mật, thật tại thì nằm ngoài mọi ngôn ngữ, tư duy của ngã. Do thế, cần phải lìa mọi chấp ngã mới bắt gặp Bát-nhã Ba-la-mật.
+ Thính chúng lại vướng mắc các vấn đề: Pháp Như Lai thuyết, vi trần, thế giới, ba mươi hai tướng quý; đức Phật lại tuần tự chỉ bày trên tinh thần phủ nhận triệt để mọi ngôn ngữ, khái niệm… được dựng lên bởi chấp thủ ngã, giúp thính chúng đánh thức Tuệ giác của mình (Trí tuệ Bát-nhã) hầu trực nhập Thật tại như thật hay Vô trụ Niết-bàn.
+ Đoạn cuối (Tu-bồ-đề, nhược hữu thiện nam tử…kỳ Phước thậm đa), lại một lần nữa (lần thứ 4) đức Phật tán thán Phước đức người thọ trì, diễn giảng Kim Cang này. Tại đây, ý nghĩa tán thán Phước đức đích thực là tán thán Trí tuệ Bát-nhã; chính Trí tuệ Bát-nhã tác động trên hạnh nguyện Lục độ của Bồ-tát mới đưa Lục độ ấy viên mãn thành Lục độ Ba-la-mật.
ĐOẠN THỨ MƯỜI BỐN
I. Âm: Ly tướng tịch diệt.
Nhĩ thời Tu-bồ-đề văn thuyết thị Kinh, thâm giải nghĩa thú, thế lệ bi khấp, nhi bạch Phật ngôn: Hy hữu, Thế Tôn! Phật thuyết như thị thậm thâm Kinh điển, Ngã tùng tích lai sở đắc Tuệ nhãn, vị tằng đắc văn như thị chi Kinh. Thế Tôn! Nhược phục hữu nhơn đắc văn thị Kinh, tín tâm thanh tịnh tắc sanh thật tướng, đương tri thị nhơn, thành tựu đệ nhất hy hữu công đức. Thế Tôn! Thị thật tướng giả tắc thị phi tướng, thị cố Như Lai thuyết danh thật tướng. Thế Tôn! Ngã kim đắc văn như thị Kinh điển, tín giải thọ trì, bất túc vi nan. Nhược đương lai thế, hậu ngũ bách tuế, kỳ hữu chúng sanh đắc văn thị Kinh, tín giải thọ trì, thị nhơn tắc vi đệ nhất hy hữu. Hà dĩ cố? Thử nhơn Vô ngã tướng, vô nhơn tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng. Sở dĩ giả hà? Ngã tướng tức thị phi tướng; nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức thị phi tướng. Hà dĩ cố? Ly nhất thiết chư tướng tắc danh chư Phật.
Phật cáo Tu-bồ-đề: Như thị, như thị! Nhược phục hữu nhơn đắc văn thị Kinh bất kinh, bất bố, bất uý, đương tri thị nhơn, thậm vi hy hữu! Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Như Lai thuyết đệ nhất Ba-la-mật, tức phi đệ nhất Ba-la-mật, thị danh đệ nhất Ba- la-mật. Tu-bồ-đề! Nhẫn nhục Ba-la-mật, Như Lai thuyết phi Nhẫn nhục Ba-la-mật, thị danh Nhẫn nhục Ba-la-mật. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Như Ngã tích vi Ca-lợi-vương cát tiệt thân thể, Ngã ư nhĩ thời, Vô ngã tướng, vô nhơn tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng. Hà dĩ cố? Ngã ư vãng tích tiết tiết chi giải thời, nhược hữu ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, ưng sanh sân hận. Tu-bồ-đề! Hựu niệm quá khứ, ư ngũ bách thế, tác Nhẫn nhục Tiên nhân, ư nhĩ sở thế, Vô ngã tướng, vô nhơn tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng. Thị cố, Tu-bồ-đề! Bồ-tát ưng ly nhất thiết tướng phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề tâm, bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm; ưng sanh vô sở trụ tâm, nhược tâm hữu trụ, tắc vi phi trụ. Thị cố Phật thuyết Bồ-tát tâm, bất ưng trụ sắc Bố thí. Tu-bồ-đề! Bồ-tát vị lợi ích nhất thiết chúng sanh cố, ưng như thị Bố thí. Như Lai thuyết nhất thiết chư tướng, tức thị phi tướng, hựu thuyết nhất thiết chúng sanh tức phi chúng sanh.
Tu-bồ-đề! Như Lai thị Chân ngữ giả, Thật ngữ giả, Như ngữ giả, Bất cuống ngữ giả, Bất dị ngữ giả.
Tu-bồ-đề! Như Lai sở đắc Pháp, thử Pháp vô thật vô hư.
Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát tâm trụ ư pháp nhi hành Bố thí, như nhơn nhập ám tắc vô sở kiến. Nhược Bồ-tát tâm bất trụ pháp nhi hành Bố thí, như nhơn hữu mục, nhật quang minh chiếu, kiến chủng chủng sắc. Tu-bồ-đề! Đương lai chi thế, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn, năng ư thử Kinh thọ trì, độc tụng, tắc vi Như Lai dĩ Phật Trí tuệ, tất tri thị nhơn, tất kiến thị nhơn, giai đắc thành tựu vô lượng vô biên công đức.
II. Nghĩa: Ly tướng là tịch diệt.
Đến đây, khi nghe đức Phật thuyết giảng kinh Kim Cang này, Tu-bồ-đề thấu hiểu nghĩa-lý sâu xa, cảm động rơi lệ, khóc lóc mà bạch đức Phật rằng: Bạch Thế Tôn, Ngài thật tuyệt diệu! Ngài đã tuyên thuyết kinh Kim Cang này thật thâm diệu. Từ khi chứng được Tuệ nhãn đến nay, con chưa lần nào được nghe một Kinh thâm diệu như thế này. Bạch Thế Tôn! Nếu ai được nghe kinh Kim Cang này mà tin tưởng tuyệt đối thì thành tựu cái thấy thật tướng (Tuệ giác chân thật), phải biết người đó có được công đức hy hữu bậc nhất. Bạch Thế Tôn! Cái thấy thật tướng đó vốn không phải cái thấy thật tướng, nên Như Lai mới nói là cái thấy thật tướng.
Bạch Thế Tôn! Hôm nay con được nghe kinh Kim Cang thâm diệu này, tin hiểu, thọ trì chưa gọi là khó lắm; nhưng trong tương lai, vào thời kỳ 500 năm sau, người nào được nghe kinh Kim Cang này, tin hiểu, thọ trì mới là hi hữu bậc nhất. Vì sao vậy? – Bởi vì người đó không còn ý tưởng về ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Tại sao như vậy? Vì ý tưởng về ngã chẳng phải là ý tưởng, và ý tưởng về nhơn, chúng sanh và thọ giả cũng chẳng phải ý tưởng. Vì sao vậy? Vì lìa tất cả mọi ý tưởng thì gọi là chư Phật.
Phật bảo Tu-bồ-đề: Thật đúng như thế! Nếu có người nghe được kinh Kim Cang này mà không kinh ngạc, không lo sợ thì biết người đó rất hiếm có. Tại sao vậy?
– Này Tu-bồ-đề! Cái mà Như Lai nói là Bát-nhã Ba-la-mật vốn chẳng phải Bát-nhã Ba-la-mật, nên mới nói là Bát- nhã Ba-la-mật.
– Này Tu-bồ-đề! Cái được gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật, Như Lai nói chẳng phải Nhẫn nhục Ba-la-mật, nên mới nói là Nhẫn nhục Ba- la-mật. Tại sao vậy?
– Này Tu-bồ-đề! Như kiếp xa xưa, khi bị vua Ca-lợi (Kalinga) chặt đứt thân thể, bấy giờ Như Lai không còn ý tưởng về ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Vì sao vậy? Vì nếu khi đó Như Lai còn có ý tưởng về ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả thì đã khởi tâm oán hận vua ấy.
– Này Tu-bồ-đề! Như Lai nhớ năm trăm đời thời quá khứ, khi đang tu Tiên theo hạnh Nhẫn nhục, bấy giờ Như Lai không còn ý tưởng về ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Vì vậy, này Tu-bồ- đề! Các vị Bồ-tát nên lìa tất cả mọi ý tưởng mà phát tâm Vô thượng Bồ-đề; tức không dựa vào sắc để khởi tâm, cũng không dựa vào thanh, hương, vị, xúc hay pháp để khởi tâm; chỉ nên không dựa vào bất cứ cái gì để khởi tâm; nếu tâm ở đâu thì chính là phi trụ, vì thế Như Lai bảo tâm Bồ-tát thì không trụ vào sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp mà Bố thí (Lục độ).
– Này Tu- bồ-đề! Bồ-tát thì vì lợi ích cho tất cả chúng sanh mà thực hiện Bố thí như thế. Bởi lẽ Như Lai đã nói, tất cả ý tưởng đều không phải là ý tưởng và tất cả chúng sanh đều không phải là chúng sanh.
– Này Tu-bồ-đề! Như Lai là người nói lời Chân xác, nói lời Thật tế, nói lời Như thật, nói lời Không lừa đảo, nói lời Không mâu thuẫn.
– Này Tu-bồ-đề! Pháp mà Như Lai chứng đắc, cái Pháp ấy không phải chắc thật cũng không phải hư vô. Này Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát mà còn dựa vào các pháp để thực hiện Bố thí, thì cũng như người đi vào bóng tối chẳng thấy được cái gì; trái lại, nếu Bồ-tát không dựa vào các pháp để thực hiện Bố thí, thì như người có đôi mắt sáng lại có ánh sáng mặt trời soi chiếu, nên thấy rõ mọi thứ.
– Này Tu-bồ-đề! Trong tương lai, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào thọ trì, độc tụng kinh Kim Cang này thì sẽ được Như Lai với mắt Trí tuệ biết rõ người ấy, thấy rõ người ấy và những người ấy sẽ đạt được vô lượng vô biên công đức.
III. Ý kiến:
– Trưởng lão Tu-bồ-đề cảm động rơi lệ chính là thính chúng rơi lệ, vì do hiểu rõ ý Kinh và thấy rõ lòng thương tưởng của đức Phật. Nước mắt dâng trào chính là ý nghĩa Trí tuệ Bát-nhã dâng trào hay ý nghĩa chứng nhập Thật tại Vô tướng. Từ cảm động hạnh phúc ấy, thính chúng dâng lên đức Phật những lời tán thán sự thâm diệu hy hữu của kinh Kim Cang này.
– Theo lời ngài Tu-bồ-đề dạy và đức Phật minh xác, ấy là vào thời gian này (sau 500 năm lần thứ 5) hiếm có những người tin hiểu, thực hành giáo nghĩa Kim Cang. Nếu có ai tin hiểu, thực hành thì đó là người đặc biệt bậc nhất, và là người đã gieo căn lành nhiều đời; đồng thời, người ấy đang và sẽ có nhiều Phước đức lớn lao.
– Người tin hiểu, hành trì Kim Cang (Trí tuệ Bát- nhã) chính là người tin hiểu, hành trì với tinh thần tỉnh giác rời mọi ý niệm về ngã. Như thế, kinh Kim Cang, kinh Nikàya hay kinh A-hàm đều nhất quán rằng: Muốn chứng đạt Trí Phật thì phải đoạn tận mọi chấp thủ ngã (hay đoạn tận năm thủ uẩn). Nơi đây, đã gợi mở cho chúng ta thấy được chủ trương nhất thống của giáo lý Phật giáo.
– Hạnh căn bản của Bồ-tát là Lục độ. Nơi đây, đức Phật nêu Bố thí và Nhẫn nhục là hai độ liên hệ nhất với chấp ngã (chấp ngã và ngã sở). Qua đây, đức Phật hướng dẫn cụ thể để thính chúng rời chấp thủ cơ bản ấy:
– Với hạnh Nhẫn nhục để đạt Ba-la-mật, đức Phật kể lại tiền thân của Ngài đã tu tập nhiều đời với tinh thần tỉnh giác rời hết thảy tưởng ngã, nên hoàn toàn không có sân hận. Tâm lý không sân hận là kết quả của sự tỉnh giác ly tưởng ngã, và chính sự tỉnh giác ly tưởng ngã này là trọng tâm của Nhẫn nhục Ba-la-mật, chứ không phải là sự nhẫn chịu sự đau đớn của vật lý, oan khuất của tâm lý.
– Với hạnh Bố thí để đạt Ba-la-mật, đức Phật dạy, cần phải tỉnh giác để rời ba tưởng ngã: Rời tưởng ngã mình là người thí bằng cách rời mọi khái niệm tưởng ngã mà phát tâm Vô thượng Bồ-đề; rời tưởng ngã vật thí bằng cách không dựa vào Lục trần để thí; và rời tưởng ngã người nhận bằng cách tỉnh giác thấy cái phi tướng của đối tượng nhận thí.
Qua đoạn chỉ dạy của đức Phật về Nhẫn nhục và Bố thí để đạt Ba-la-mật đã làm nổi bật vai trò chủ đạo của Trí độ. Trí độ cần phải được có mặt thường xuyên mới đưa năm độ trước đạt đích điểm (Ba-la-mật); nếu ngược lại thì kết quả Lục độ chỉ nằm trong phạm vi Nhân quả hữu lậu mà thôi.
– Cuối đoạn này, lại một lần nữa, đức Phật tán thán giáo nghĩa Kim Cang và Phước đức của người thọ trì, diễn nói Kim Cang.
Ý nghĩa tán thán tại đây, chúng ta cần phải hiểu là tán thán Trí tuệ Bát-nhã hay Trí tuệ Vô ngã.
ĐOẠN THỨ MƯỜI LĂM
I. Âm: Trì Kinh công đức.
Tu-bồ-đề! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn, sơ nhật phần dĩ Hằng hà sa đẳng thân Bố thí, trung nhật phần phục dĩ Hằng hà sa đẳng thân Bố thí, hậu nhật phần diệc dĩ Hằng hà sa đẳng thân Bố thí. Như thị vô lượng bách thiên vạn ức kiếp dĩ thân Bố thí. Nhược phục hữu nhơn văn thử Kinh điển, tín tâm bất nghịch, kỳ Phước thắng bỉ, hà huống thư tả, thọ trì, độc tụng, vị nhơn giải thuyết.
– Tu-bồ-đề! Dĩ yếu ngôn chi, thị Kinh hữu bất khả tư nghị, bất khả xưng lượng, vô biên công đức; Như Lai vị phát Đại thừa giả thuyết, vị phát Tối thượng thừa giả thuyết. Nhược hữu nhơn năng thọ trì, độc tụng, quảng vị nhơn thuyết, Như Lai tất tri thị nhơn, tất kiến thị nhơn, giai đắc thành tựu bất khả lượng, bất khả xưng, vô hữu biên, bất khả tư nghị công đức. Như thị nhơn đẳng, tắc vi hà đảm Như Lai A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Nhược nhạo Tiểu pháp giả, trước ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tắc ư thử Kinh bất năng thính thọ độc tụng, vị nhơn giải thuyết. Tu-bồ-đề! Tại tại xứ xứ, nhược hữu thử Kinh, nhất thiết thế gian Thiên, Nhơn, A-tu-la sở ưng cúng dường. Đương tri thử xứ tắc vi thị tháp, giai ưng cung kính tác lễ vi nhiễu, dĩ chư hoa hương nhi tán kỳ xứ.
II. Nghĩa: Công đức trì Kinh (Kim Cang).
Trưởng lão Tu-bồ-đề! Nếu có thiện nam hay thiện nữ nào, buổi sáng đem thân mạng mình nhiều như cát sông Hằng để Bố thí, buổi trưa lại đem thân mạng nhiều như thế để Bố thí; và buổi chiều cũng đem thân mạng nhiều như thế để Bố thí nữa. Sự Bố thí như thế trải qua vô lượng trăm ngàn ức kiếp; đồng thời, có người khác khi nghe kinh Kim Cang này đem lòng tin tưởng, không phản kháng thì Phước đức người này nhiều hơn Phước đức người trên. Đó là chưa nói đến Phước đức của sự sao chép, ấn hành, thọ trì, độc tụng hay thuyết giảng cho người khác.
– Này Tu-bồ-đề! Tóm tắt để nói, kinh Kim Cang này có vô biên công đức không thể suy diễn hay ước lượng được. Như Lai nói vì những người tu theo giáo pháp Đại thừa, vì những người tu theo giáo pháp Đại thừa Tối thượng. Nếu người nào có khả năng thọ trì, độc tụng hay phổ biến cho người khác hiểu, thì Như Lai biết rõ, thấy rõ người ấy; và người ấy đạt được Phước đức không thể ước lượng, không thể so sánh, không có giới hạn và không thể suy diễn được. Những người như thế có thể gánh vác sự nghiệp Vô thượng Bồ-đề của Như Lai. Tại sao vậy?
– Này Tu-bồ-đề! Bởi vì, nếu ai ưa thích pháp nhỏ (Tiểu thừa), tức còn vướng mắc ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả, nên với Kinh này họ không có khả năng lắng nghe, tiếp thu độc tụng và nói cho người khác.
– Này Tu-bồ-đề! Bất cứ nơi nào mà có bản kinh Kim Cang này thì tất cả hàng Trời, Người, A-tu-la trong thế giới đều nên cúng dường; nên biết chỗ ấy chính là tháp Phật, cần được tôn kính, đảnh lễ, đi nhiễu và tung rải các loại hoa hương để cúng dường.
III. Ý kiến:
Bố thí tài vật (ngoại tài) tương đối dễ thực hiện, nhưng Bố thí thân mạng (nội tài) thì thật khó trong mọi thứ khó làm. Thực hiện Bố thí như thế phải là những vị đã ra ngoài mọi sự chấp thủ tưởng ngã, hay những vị đã chứng đạt Thật tại Vô tướng; đây là nhận định trên sự thật. Tuy nhiên, tại đoạn này nêu lên sự kiện Bố thí thân mạng với mục đích muốn đề cao Pháp thí hay đề cao Trí tuệ Bát-nhã. Bởi lẽ, trọng tâm để chứng nhập Thật tại Vô tướng phải là thứ Trí tuệ rời tất cả tưởng ngã, chứ không phải là nội dung việc làm hay sự kiện khó làm.
– Đề cao Trí tuệ Bát-nhã (Kim Cang) là đề cao ý nghĩa xả bỏ tham ái, chấp thủ mọi tưởng ngã để đi vào Vô trụ Niết-bàn và tán thán Phước đức người thọ trì kinh Kim Cang là tán thán Phước đức giải thoát các lậu hoặc, an trú Thật tại Vô tướng.
– Kinh Kim Cang (Bát-nhã) là giáo lý trình bày rốt ráo về Tuệ-uẩn, vì thế, chỉ có thể giới thiệu với ai có quá trình tu tập Giới-Định-Tuệ căn bản. Đây là những vị thượng căn thượng trí, với những vị này mới có thể tin hiểu, thọ trì, phát triển và thành tựu Trí tuệ Bát-nhã.
Với những người ngoại đạo hay những người mới bước vào đạo Phật thì hẳn nhiên thiếu Nhân duyên để nghe kinh Kim Cang này. Đây cũng là tinh thần tùy duyên hóa độ (khế cơ) nhất quán giữa Nam tạng và Bắc tạng.
– Nơi nào có kinh Kim Cang thì nơi đó được xem là thờ đức Phật, cho nên hàng Trời, Người, A-tu-la cần nên cung kính cúng dường… Đây là ý nghĩa nơi nào có Trí tuệ Bát-nhã thì nơi đó hiện hữu đức Phật; vì thế, cần phải cung kính cúng dường… Trí tuệ Bát-nhã ấy. Tại đây, cung kính cúng dường Trí tuệ Bát-nhã không phải là những hình thức biểu hiện tín ngưỡng, mà thiết thực là sự học hiểu, hành trì Trí tuệ Vô ngã ấy.
ĐOẠN THỨ MƯỜI SÁU
I. Âm: Năng tịnh Nghiệp chướng.
Phục thứ, Tu-bồ-đề! Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhơn, thọ trì, độc tụng thử Kinh, nhược vi nhơn khinh tiện, thị nhơn tiên thế tội Nghiệp, ưng đọa ác đạo, dĩ kim thế nhơn khinh tiện cố, tiên thế tội nghiệp tắc vi tiêu diệt, đương đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề. Tu-bồ-đề! Ngã niệm quá khứ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, ư Nhiên Đăng Phật tiền, đắc trị bát bách tứ thiên vạn ức na-do-tha chư Phật, tất giai cúng dường thừa sự vô không quá giả. Nhược phục hữu nhơn, ư hậu mạt thế năng thọ trì, độc tụng thử Kinh, sở đắc công đức, ư Ngã sở cúng dường chư Phật công đức, bách phần bất cập nhất, thiên vạn ức phần nãi chí toán số thí dụ sở bất năng cập.
Tu-bồ-đề! Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhơn, ư hậu mạt thế, hữu thọ trì, độc tụng thử Kinh, sở đắc công đức, ngã nhược cụ thuyết giả, hoặc hữu nhơn văn, tâm tức cuồng loạn, hồ nghi bất tín. Tu- bồ-đề! Đương tri thị Kinh nghĩa bất khả tư nghị, Quả báo diệc bất khả tư nghị.
II. Nghĩa: Làm sạch Nghiệp chướng.
Này nữa, Tu-bồ-đề! Bất cứ thiện nam hay thiện nữ nào thọ trì, độc tụng kinh Kim Cang này, nếu bị người khác khinh chê thì những tội ác đời trước của người ấy đáng phải đọa vào đường dữ, nhưng nhờ hiện tại bị người khinh chê, nên những tội ấy được tiêu diệt hết và sẽ được quả vị Vô thượng Chánh-đẳng Chánh- giác.
– Này Tu-bồ-đề! Như Lai nhớ lại vô lượng vô số kiếp về trước, trước khi gặp đức Phật Nhiên Đăng, Như Lai đã từng gặp tám trăm bốn ngàn vạn ức vô số chư Phật. Đối với vị nào Như Lai cũng cúng dường hầu hạ chẳng hề thiếu sót. Nhưng vào thời mạt pháp sau này, nếu có người nào có khả năng thọ trì, độc tụng kinh Kim Cang này, công đức của người đó lớn hơn hàng trăm hàng ngàn vạn ức lần công đức của Như Lai đã phụng sự chư Phật; cho dù dùng toán học hay ví dụ cũng không thể diễn tả trọn được.
– Này Tu-bồ-đề! Vào thời mạt pháp sau này, nếu có người nào có khả năng thọ trì, độc tụng kinh Kim Cang này, công đức của họ nếu Như Lai nói đủ, ắt sẽ có người nổi khùng hay nghi ngờ không tin.
– Này Tu-bồ-đề! Phải nhận thức rằng, nghĩa-lý kinh Kim Cang này không thể suy diễn cho hết, kết quả thọ trì kinh Kim Cang này cũng như thế, không thể nói nghĩ cho cùng.
III. Ý kiến:
– Thọ trì, độc tụng Kim Cang mà ác báo (Định nghiệp) tiêu diệt chính là ý nghĩa trực nhập hay an trú Thật tại Vô ngã. Chỉ khi an trú Thật tại Vô ngã, khi đó mới đoạn tận Nhân quả Nghiệp báo hữu lậu. Đây là hiệu năng độc đáo của kinh Kim Cang vậy.
– Đức Phật so sánh Phước đức của mình đã hầu hạ cúng dường tám mươi bốn tỉ đức Phật không bằng một phần trong vô lượng phần Phước đức của người thọ trì, độc tụng Kim Cang. Ý nghĩa này muốn nhấn mạnh rằng, con đường chứng đắc quả Phật phải là con đường Trí tuệ Bát-nhã, con đường của sự đoạn tận tất cả mọi sự tham ái, chấp thủ; sự hầu hạ cúng dường dù được thực hiện nhiều bao nhiêu cũng chỉ là Phước đức hữu lậu càng dễ chìm sâu vào sanh tử. Cũng qua sự nhấn mạnh này còn mang ý nghĩa khuyến khích thính chúng hãy quay về nương tựa chính mình, nương tựa Pháp. Đây cũng là sự nhất quán trong giáo lý Phật giáo và cũng là tinh thần thiết thực rất nhân bản đầy Trí tuệ. Đồng thời, cũng là Bảo chứng để thức tỉnh những ai cho rằng, giáo lý Kim Cang là hý luận, xa rời giáo lý truyền thống.
– Đức Phật dạy rằng, nếu tán thán Phước đức của người học hiểu, hành trì… Kim Cang, ắt sẽ có những người nghi ngờ, điên loạn, đây là sự thật đã được ghi nhận ở Nikàya.
Nikàya ghi rằng: “Trong thời pháp đức Phật giảng về Vô ngã, có một số Tỳ-kheo hoàn tục, một số khác bực tức đến độ xuất huyết”. Do dữ kiện này nên các kinh Nikàya thường lặp lại: “ …Pháp mà Thế Tôn chứng ngộ thì tế nhị, khó hiểu, khó thấy, chỉ có người trí mới trực nhận được…” các kinh Bắc truyền thì gọi: “…Nan tín chi Pháp”. Đây cũng là lý do tại sao đức Phật phân vân trước khi chuyển bánh xe Pháp vậy.
ĐOẠN THỨ MƯỜI BẢY
I. Âm: Cứu cánh Vô ngã.
Nhĩ thời, Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề tâm vân hà ưng trụ? Vân hà hàng phục kỳ tâm? Phật cáo Tu-bồ-đề: Thiện nam tử, thiện nữ nhơn phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề tâm giả, đương sanh như thị tâm, ngã ưng diệt độ nhất thiết chúng sanh, diệt độ nhất thiết chúng sanh dĩ, nhi vô hữu nhất chúng sanh thật diệt độ giả. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát hữu ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tắc phi Bồ-tát. Sở dĩ giả hà? Tu-bồ-đề! Thật vô hữu Pháp phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề tâm giả. Tu-bồ-đề! Ư ý vân hà? Như Lai ư Nhiên Đăng Phật sở, hữu Pháp đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam- Bồ-đề phủ? – Phất dã, Thế Tôn! Như Ngã giải Phật sở thuyết nghĩa, Phật ư Nhiên Đăng Phật sở, vô hữu Pháp đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề.
Phật ngôn: Như thị, như thị! Tu-bồ-đề, thật vô hữu Pháp Như Lai đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề. Tu-bồ-đề! Nhược hữu Pháp Như lai đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề giả, Nhiên Đăng Phật tắc bất dữ ngã thọ ký: “Nhữ ư lai thế đương đắc tác Phật, hiệu Thích-ca Mâu-ni”. Dĩ thật vô hữu Pháp đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề, thị cố Nhiên Đăng Phật dữ ngã thọ ký, tác thị ngôn: “Nhữ ư lai thế đương đắc tác Phật, hiệu Thích-ca Mâu-ni”. Hà dĩ cố? Như Lai giả, tức chư pháp như nghĩa. Nhược hữu nhơn ngôn Như Lai đắc A-nậu- đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề. Tu-bồ-đề! Thật vô hữu Pháp Phật đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề. Tu-bồ-đề! Như Lai sở đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề, ư thị trung vô thật vô hư, thị cố Như lai thuyết: Nhất thiết pháp giai thị Phật Pháp. Tu-bồ- đề! Sở ngôn nhất thiết pháp giả, tức phi nhất thiết pháp, thị cố danh nhất thiết pháp. Tu-bồ-đề! Thí như nhơn thân Trường đại. Tu-bồ-đề ngôn: Thế Tôn! Như Lai thuyết nhơn thân Trường đại, tức vi phi đại thân, thị danh Đại thân.
– Tu-bồ-đề! Bồ-tát diệc như thị. Nhược tác thị ngôn: Ngã đương diệt độ vô lượng chúng sanh, tắc bất danh Bồ-tát. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Thật vô hữu Pháp danh vi Bồ-tát; thị cố Phật thuyết nhất thiết pháp Vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh, vô thọ giả.
– Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát tác thị ngôn: Ngã đương trang nghiêm Phật độ, thị bất danh Bồ-tát. Hà dĩ cố? Như Lai thuyết trang nghiêm Phật độ giả, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm. Tu-bồ- đề! Nhược Bồ-tát thông đạt Vô ngã pháp giả, Như Lai thuyết danh chân thị Bồ-tát.
III. Nghĩa: Vô ngã là cứu cánh ( Niết-bàn).
Lúc bấy giờ, Trưởng lão Tu-bồ-đề bạch đức Phật: Bạch Thế Tôn! Những thiện nam hay thiện nữ muốn phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì nên trú tâm vào đâu? Nên điều phục tâm như thế nào?
– Đức Phật bảo Tu- bồ-đề: Những thiện nam hay thiện nữ nào muốn phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì nên phát tâm như thế này: Ta phải đưa tất cả chúng sanh vào Niết-bàn, nhưng khi tất cả chúng sanh đã vào Niết-bàn vẫn không thấy có một chúng sanh nào đạt Niết-bàn cả. Tại sao vậy?
– Này Tu-bồ-đề! Vì một vị Bồ-tát mà còn ý tưởng về ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả, thì không phải một vị Bồ-tát đích thực. Tại sao vậy? Tu-bồ-đề: Bởi vì thật sự không có một Pháp gì được gọi là phát tâm Vô thượng Bồ-đề cả.
– Thầy nghĩ sao! Tu-bồ-đề? Khi xưa, tu với đức Phật Nhiên Đăng, Như Lai có đắc cái Pháp gọi là Vô thượng Bồ-đề phải không?
– Bạch Thế Tôn, quả thật không! Theo con hiểu lời Thế Tôn dạy, khi Ngài tu với đức Phật Nhiên Đăng, không có Pháp gì gọi là chứng đắc Vô thượng Bồ-đề.
Đức Phật bảo: Đúng thế, này Tu-bồ-đề! Thật sự không có Pháp gì Như Lai chứng đắc Vô thượng Bồ- đề. Nếu như có Pháp gì gọi là Như Lai chứng đắc Vô thượng Bồ-đề thì đức Phật Nhiên Đăng đã không thọ ký cho Như Lai rằng: “Sau này Ông sẽ thành Phật hiệu Thích-ca Mâu-ni”. Chính vì không có Pháp gì gọi là chứng đắc Vô thượng Bồ-đề; vì thế, đức Phật Nhiên Đăng mới thọ ký cho Như Lai rằng: “Sau này Ông sẽ thành Phật hiệu Thích-ca Mâu-ni”.
Vì sao vậy? – Vì Như Lai đích nghĩa là Chân như của các pháp. Nếu có ai nói Như Lai đắc Pháp Vô thượng Bồ-đề thì người đó lầm. Bởi vì, này Tu-bồ-đề! Thật không có Pháp gì gọi là Như Lai chứng đắc Vô thượng Bồ-đề. Tu-bồ-đề! Như Lai đắc Vô thượng Bồ-đề, sự chứng đắc ấy không phải là thật có (thật), không phải là rỗng không (hư). Chính ý nghĩa này nên Như Lai tuyên bố rằng: Tất cả pháp đều là Phật Pháp. Tu-bồ-đề! Cái được gọi tất cả Pháp thật sự không phải tất cả pháp, nên mới được gọi là tất cả Pháp. Trưởng lão Tu-bồ-đề! Giả như có người thân thể Cao lớn…; Tu-bồ-đề liền thưa: Bạch Thế Tôn, Như Lai nói thân thể Cao lớn chẳng phải thân thể Cao lớn, nên mới nói là thân thể Cao lớn.
– Tu-bồ-đề! Bồ-tát thì phải như vậy. Bồ-tát mà nói, Ta phải làm cho vô lượng chúng sanh chứng đắc Niết-bàn, thì không phải là một vị Bồ-tát. Tại sao như vậy? Này Tu-bồ-đề! Vì sự thật không có cái Pháp gọi là Bồ-tát. Chính vì thế, nên Như Lai nói tất cả pháp là Vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh vô thọ giả.
– Này Tu- bồ-đề! Nếu Bồ-tát nói rằng: Ta phải trang nghiêm cõi Phật thì không phải là một vị Bồ-tát. Vì sao vậy? Vì Như Lai nói trang nghiêm cõi Phật, chẳng phải trang nghiêm, nên mới nói là trang nghiêm. Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát thấu triệt về sự Vô ngã như thế, Như Lai mới nói vị ấy là một Bồ-tát đích thực.
III. Ý kiến:
– Qua đoạn 15, 16 trên, đức Phật dạy rằng, Thật tánh, Thật tướng của các pháp, của hữu tình và của chư Phật chỉ là Một (vô sanh diệt). Thính chúng đang vướng mắc tướng ngã nghe như thế liền băn khoăn, bất an; do vậy, Ngài Tu-bồ-đề đặt lại vấn đề hàng phục tâm, để đức Phật dạy cách hàng phục tâm cho thính chúng. Tại đây khi trả lời, đức Phật trả lời khác với đoạn thứ ba ở trước; đức Phật dạy, Bồ-tát phát tâm cầu quả vị Phật-đà cần phải tỉnh thức để thấy rõ rằng, sự phát tâm đó không phải là Một pháp (hữu vi) trong vạn pháp, để thấy mình là một pháp đang cứu độ và chúng sanh là một pháp khác được cứu độ (thật thể phát tâm đó là Vô tánh, Vô tướng).
– Qua trên, một số thính chúng lại chấp thủ sâu hơn, nghĩ rằng pháp vốn không pháp thì đức Phật dựa vào đâu để chứng quả Phật? Dựa vào đâu để đức Phật Nhiên Đăng thọ ký cho Ngài? Đức Phật dạy rằng, sự kiện chứng đắc quả Phật là sự kiện đoạn tận chấp thủ ngã kiến (vô minh), cho nên kết quả chứng đắc quả vị này không có mặt năng đắc và sở đắc – là bóng dáng do vô minh, ngã kiến dựng lên. Và cũng do đạt được kết quả Vô trú, Vô tướng đó, nên mới được đức Phật Nhiên Đăng thọ ký sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni.
– Đức Phật lại tiếp tục gỡ rối cho thính chúng về Như Lai và sự chứng ngộ của Như Lai. Đức Phật dạy, Như Lai là như tánh của các pháp. Sở dĩ các pháp được mệnh danh là thật, là hư là do cặp kính màu tưởng ngã gắn vào, nếu lấy cặp kính màu tưởng ngã đó ra khỏi các pháp, thì các pháp sẽ trở về với chính nó (như tánh Vô tánh). Các pháp ở ngoài vòng thật-hư của tưởng ngã, đây là Pháp mà Như Lai chứng ngộ và là thật thể Như Lai vậy. (Pháp Như Lai chứng ngộ và thật thể Như Lai không hẳn là hai và cũng không hẳn là một).
– Với cái nhìn không chấp thủ thì Thật tướng Vô tướng các pháp sẽ xuất hiện, và với cái nhìn này thì tất cả các pháp là Pháp Phật. Đây là ý nghĩa mà các kinh (Nam tạng, Bắc tạng) thường dạy: “Khi tâm thanh tịnh thì thế giới thanh tịnh…”. Chính ý nghĩa này đã nói lên thái độ sống của những thành viên Phật giáo, thái độ tích cực dấn thân vào cuộc đời để chuyển hóa thế gian thành cõi thanh tịnh. Đây cũng là cơ sở để thức tỉnh những ai ngộ nhận cho rằng Phật giáo là bi quan yếm thế, xa lánh cuộc đời, thế gian.
– Thân khổng lồ (Trường đại) tại đây, là chỉ Pháp thân Bồ-tát. Pháp thân Bồ-tát vốn là như tánh của các pháp (Thật tại Vô tánh, Vô tướng), và chính vì thế mới đích thị là Pháp thân Bồ-tát. Bởi vậy, Bồ-tát cứu độ chúng sanh hay trang nghiêm cõi Phật (hành Lục độ) cần được tỉnh giác an trú Thật tại Vô ngã mới chân thật là một vị Bồ-tát.
ĐOẠN THỨ MƯỜI TÁM
I. Âm: Nhất thể đồng quán.
Tu-bồ-đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu Nhục nhãn phủ?
– Như thị Thế Tôn! Như Lai hữu Nhục nhãn.
Tu-bồ-đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu Thiên nhãn phủ?
– Như thị Thế Tôn! Như Lai hữu Thiên nhãn.
Tu-bồ-đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu Tuệ nhãn phủ?
– Như thị Thế Tôn! Như Lai hữu Tuệ nhãn.
Tu-bồ-đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu Pháp nhãn phủ?
– Như thị Thế Tôn! Như Lai hữu Pháp nhãn.
Tu-bồ-đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu Phật nhãn phủ?
– Như thị Thế Tôn! Như Lai hữu Phật nhãn.
Tu-bồ-đề! Ư ý vân hà? Như Hằng hà trung sở hữu sa, Phật thuyết thị sa phủ?
– Như thị Thế Tôn! Như Lai thuyết thị sa. Tu-bồ-đề! Ư ý vân hà? Như nhất Hằng hà trung sở hữu sa, hữu như thị sa đẳng Hằng hà, thị chư Hằng hà sở hữu sa số Phật thế giới, như thị ninh vi đa phủ?
– Thậm đa, Thế Tôn!
Phật cáo Tu-bồ-đề: Nhĩ sở quốc độ trung; sở hữu chúng sanh, nhược can chủng tâm, Như Lai tất tri. Hà dĩ cố? Như Lai thuyết chư tâm giai vi phi tâm, thị danh vi tâm. Sở dĩ giả hà? Tu-bồ-đề! Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc.
II. Nghĩa: Cái nhìn nhất thể (thật thể).
Trưởng lão Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ thế nào? Như Lai có mắt thịt phải không?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Như Lai có mắt thịt (Nhục nhãn).
Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ thế nào? Như Lai có mắt trời phải không?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Như Lai có mắt trời (Thiên nhãn).
Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ sao? Như Lai có mắt tuệ phải không?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Như Lai có mắt tuệ (Tuệ nhãn).
Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ sao? Như Lai có mắt pháp phải không?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Như Lai có mắt pháp (Pháp nhãn).
Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ thế nào? Như Lai có mắt Phật phải không?
– Bạch Thế Tôn, đúng thế! Như Lai có mắt Phật (Phật nhãn).
Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ thế nào? Cát trong sông Hằng, Như Lai cũng nói là cát phải không?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Như Lai nói là cát.
Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ thế nào? Giả sử có bao nhiêu cát trong sông Hằng thì có bấy nhiêu sông Hằng, vậy cõi Phật bằng số cát của tất cả những sông Hằng ấy có nhiều hay không?
– Bạch Thế Tôn, quả rất nhiều!
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: Có bao nhiêu tâm tưởng của tất cả chúng sanh trong các cõi Phật nói trên, Như Lai đều biết rõ. Tại sao như vậy? Vì Như Lai nói tất cả tâm tưởng ấy không phải tâm tưởng, thế nên Như Lai nói là tâm tưởng. Vì sao vậy?
– Này Tu-bồ-đề! Bởi vì tâm tưởng quá khứ không thể nắm bắt được, tâm tưởng hiện tại không thể nắm bắt được và tâm tưởng vị lai cũng không thể nắm bắt được.
III. Ý kiến:
– Nghĩa của năm thứ mắt:
1. Nhục nhãn: Mắt của loài người, với cái thấy có giới hạn và bị ngăn ngại bởi các vật thể, và bóng tối.
2. Thiên nhãn: Mắt của chư Thiên, với cái thấy ngược lại với con người. Nhục nhãn và Thiên nhãn, tựu trung là hai cái thấy hình sắc các đối tượng.
3. Tuệ nhãn: Tức Nhất thiết trí, là Trí tuệ thấy thật thể các pháp (thấy Vô ngã của các pháp).
4. Pháp nhãn: Tức Đạo chủng trí, là Trí tuệ thấy con đường tu tập giải thoát.
5. Phật nhãn: Tức Nhất thiết chủng trí, là Trí tuệ thấy Thể – Tướng – Dụng các pháp và thấy con đường giải thoát.
– Thính chúng lại băn khoăn, không hiểu đức Phật dùng mắt gì mà thấy được như tánh của các pháp? – Đức Phật dạy, đức Phật là vị có đủ năm thứ mắt, nên cái thấy của Ngài là cái thấy dung nhiếp toàn diện, cái thấy như tánh các pháp từ cõi sanh tử đến cõi Phật là Vô ngã.
– Đức Phật có đủ năm thứ mắt là ý nghĩa đức Phật có đủ hết thảy cái thấy. Nói khác hơn, đức Phật không có một cái thấy chấp thủ tướng ngã nào cả, hay chỉ có một cái thấy mà nội dung thấy ấy là Vô ngã (Trí tuệ Bát-nhã).
– Đức Phật biết rõ tâm tưởng của chúng sanh trong pháp giới là biết rõ tất cả đều do Duyên sinh, tất cả đều Vô ngã; biết rõ tất cả tâm tưởng quá khứ, hiện tại và vị lai đều do Duyên sinh, đều Vô ngã. Đây là sự thật muôn thuở của pháp giới, không thể khác hơn. Trí tuệ đức Phật chính là Trí tuệ thể nhập Thật tại Vô ngã này đây.
ĐOẠN THỨ MƯỜI CHÍN
I. Âm: Pháp giới thông hoá.
– Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Nhược hữu nhơn mãn tam thiên đại thiên thế giới thất bảo, dĩ dụng Bố thí, thị nhơn dĩ thị Nhân duyên đắc Phước đa phủ?
– Như thị Thế Tôn! Thử nhơn dĩ thị Nhân duyên đắc Phước thậm đa.
– Tu-bồ-đề! Nhược Phước đức hữu thật, Như Lai bất thuyết đắc Phước đức đa, dĩ Phước đức vô cố, Như Lai thuyết đắc Phước đức đa.
II. Nghĩa: Pháp giới thông suốt.
– Trưởng lão Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ thế nào? Giả sử có người đem bảy thứ châu báu chất đầy thế giới tam thiên đại thiên này để Bố thí, do Nhân duyên này, người đó có Phước đức nhiều không?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy; do Nhân duyên này người đó được Phước đức rất nhiều.
– Này Tu-bồ-đề! Nếu Phước đức đó có thật thì Như Lai sẽ không nói được Phước đức nhiều, do vì Phước đức ấy vốn không phải Phước đức, nên Như Lai mới nói được Phước đức nhiều.
– Ý kiến:
– Đến đây, đức Phật lại khuyến khích thính chúng hãy dấn thân thực hiện Lục độ với tinh thần mà Ngài đã dạy (Vô trụ, Vô tướng) thì Thật tại như thật sẽ hiển lộ.
– Phước đức nhiều là ý nghĩa Phước đức vô hạn lượng. Nếu Phước đức có thật (hữu ngã) thì có hạn lượng, không thể gọi là nhiều. Chính vì Phước đức không thật có (Vô ngã), nên đức Phật mới gọi Phước đức nhiều là vậy.
Như thế, nếu tác tâm hữu ngã trên Lục độ thì sẽ rơi vào Nhân quả hữu lậu, rơi vào sanh tử. Trái lại, nếu tác tâm Vô ngã thì Lục độ sẽ là Lục Ba-la-mật và Phước đức sẽ là vô lượng vô biên. Đây chính là Phước đức của sự giải thoát, Phước đức của quả vị Phật hay Phước đức của một đức Phật.
ĐOẠN THỨ HAI MƯƠI
I. Âm: Ly sắc, ly tướng.
Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Phật khả dĩ cụ túc sắc thân kiến phủ?
– Phất dã, Thế Tôn! Như Lai bất ưng dĩ cụ túc sắc thân kiến. Hà dĩ cố? Như Lai thuyết cụ túc sắc thân, tức phi cụ túc sắc thân, thị danh cụ túc sắc thân.
Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Như Lai khả dĩ cụ túc chư tướng kiến phủ?
– Phất dã, Thế Tôn! Như Lai bất ưng dĩ cụ túc chư tướng kiến. Hà dĩ cố? Như Lai thuyết chư tướng cụ túc, tức phi cụ túc, thị danh chư tướng cụ túc.
II. Nghĩa: Lìa sắc, lìa tướng.
Trưởng lão Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ thế nào? Có thể thấy Như Lai căn cứ vào sự thành tựu sắc thân của Ngài không?
– Bạch Thế Tôn, quả thật không! Không thể thấy Như Lai qua sự thành tựu sắc thân của Ngài. Tại sao vậy? Vì rằng, Như Lai nói thành tựu sắc thân vốn không phải thành tựu sắc thân; chính thế, Ngài mới nói là thành tựu sắc thân.
Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ thế nào? Có thể thấy Như Lai căn cứ vào các đặc tướng của Ngài?
– Bạch Thế Tôn, quả thật không! Không thể thấy Như Lai qua tất cả các đặc tướng của Ngài. Tại sao vậy? Bởi vì, Như Lai nói tất cả các đặc tướng vốn không phải tất cả các đặc tướng; chính thế, Ngài mới nói là tất cả các đặc tướng.
III. Ý kiến:
– Một số thính chúng lại tư duy rằng, thành tựu Phước đức Lục độ Ba-la-mật là thành tựu quả Phật, nghĩa là thành tựu chủ thể có sắc thân Phật và thành tựu tất cả tướng của sắc thân đó. Đây là lần thứ 3 trong 5 lần thính chúng băn khoăn về thân Phật. Để đưa thính chúng ra khỏi hai chấp thủ trên, đức Phật dạy: Trải qua tiến trình vô lượng kiếp tu tập lìa mọi chấp thủ, đến thời điểm trực nhập Thật tại Vô ngã, mới đủ Phước đức thành tựu quả Phật. Tức thành tựu sắc thân Phật (Báo thân Phật). Nói cách khác, do khế hợp như tánh các pháp mới hiện hữu sắc thân Phật. Chính do vậy, không thể thấy Như Lai bởi sắc thân đó. Chủ thể thân Phật và thân Phật chẳng phải một cũng chẳng phải khác, nếu thấy được tánh Vô ngã của sắc thân tức là thấy Phật.
Nói rõ hơn, với Báo thân ba mươi hai tướng quý của đức Phật, những ai còn chấp thủ thì không thấy được Vô tướng của ba mươi hai tướng đó, nên nhìn Báo thân Phật là một tướng ngã và cho đó là Như Lai. Trái lại, những ai không còn chấp thủ thì thấy rõ Vô tướng của Báo thân ba mươi hai tướng đó, chính do thế mới thấy thật tướng Như Lai.
– Phương pháp giảng dạy của đức Phật là nhằm đánh thức thính chúng còn chấp thủ, cần phải rời chấp thủ sắc tướng các đối tượng, để nhìn đối tượng bởi tánh Duyên sinh của nó. Với cái nhìn này thì tướng thật, tánh thật các pháp sẽ hiển lộ, khi thấy tướng thật, tánh thật các pháp là thấy các pháp đúng như thật, thấy pháp đúng như thật là thấy Phật vậy.
ĐOẠN THỨ HAI MƯƠI MỐT
I. Âm: Phi thuyết, sở thuyết.
Tu-bồ-đề! Nhữ vật vị Như Lai tác thị niệm: Ngã đương hữu sở thuyết Pháp, mạc tác thị niệm. Hà dĩ cố? Nhược nhơn ngôn: Như Lai hữu sở thuyết Pháp, tức vi báng Phật, bất năng giải Ngã sở thuyết cố. Tu-bồ-đề! Thuyết Pháp giả, vô Pháp khả thuyết, thị danh thuyết Pháp.
Nhĩ thời Tuệ Mạng Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Phả hữu chúng sanh ư vị lai thế, văn thuyết thị Pháp, sanh tín tâm phủ?
Phật ngôn: Tu-bồ-đề! Bỉ phi chúng sanh, phi bất chúng sanh. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Chúng sanh, chúng sanh giả, Như Lai thuyết phi chúng sanh, thị danh chúng sanh.
II. Nghĩa: Không năng thuyết, sở thuyết.
Trưởng lão Tu-bồ-đề! Thầy đừng nói rằng, Như Lai có ý nghĩ mình thuyết Pháp. Không nên nói như thế. Tại sao vậy? Vì nói Như Lai có sự thuyết Pháp chính là phỉ báng Như Lai; và, không lãnh hội được ý nghĩa mà Như Lai đã tuyên thuyết. Tu-bồ-đề! Gọi là thuyết Pháp nhưng thật không có một Pháp gì để thuyết, nên mới gọi là thuyết Pháp.
Bấy giờ, Tu-bồ-đề, vị lấy Tuệ giác làm sanh mạng (Tuệ mạng) bạch đức Phật: Bạch Thế Tôn! Trong tương lai nếu người nào nghe được kinh Kim Cang này có khởi tâm tin tưởng không?
Đức Phật bảo: Tu-bồ-đề! Những người đó chẳng phải chúng sanh và chẳng phải không chúng sanh. Tại sao vậy? Này Tu-bồ-đề! Vì cái được gọi là chúng sanh, Như Lai nói chẳng phải chúng sanh nên mới được gọi là chúng sanh vậy.
III. Ý kiến:
– Thính chúng lại tư duy rằng, hiện tại được may mắn nghe đức Phật dạy kinh Kim Cang thâm diệu này. Nhưng vào thời mạt pháp, nếu ai nghe được kinh Kim Cang này, không hiểu họ có tin hiểu không? Theo vướng mắc này, đức Phật lại dạy tiếp:
+ Thật sự, không có đức Phật thuyết Pháp và Pháp được đức Phật thuyết. Đức Phật và Pháp là Thật tại Vô ngã nằm ngoài mọi ý tưởng khái niệm về ngã.
+ Trả lời cho thắc mắc rằng, thời mạt pháp có chúng sanh nào tin hiểu Kim Cang Bát-nhã này không; đức Phật không xác định như lần trước, mà Ngài phủ nhận ngay ý tưởng chấp có chúng sanh của thính chúng. Đức Phật dạy, cái được gọi là chúng sanh, thật sự không phải là chúng sanh, mà cũng không phải là không chúng sanh. Lần phủ định lần thứ nhất, giúp thính chúng ra khỏi chấp có, phủ định lần thứ hai này là đưa thính chúng ra khỏi chấp không. Bởi vì còn chấp thủ là còn vướng kẹt ý tưởng về ngã, vướng kẹt ý tưởng ngã là còn sanh tử khổ đau. Vô dư Niết-bàn vốn không có cửa, nên ai muốn vào thì phải đi vào cửa Vô ngã, chứ không thể khác hơn.
– Với kỹ thuật giảng dạy này, đức Phật sẽ giúp thính chúng ổn định tâm ý hay định hướng lại nhận thức của mình theo tinh thần rời tất cả mọi ý tưởng về ngã. Khi tất cả ý tưởng ngã bặt dứt, chính là thời điểm trực nhập Thật tại như thật hay Vô dư Niết-bàn vậy.
ĐOẠN THỨ HAI MƯƠI HAI
I. Âm: Vô Pháp khả đắc.
Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Phật đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề, vi vô sở đắc da? Phật ngôn: Như thị, như thị! Tu-bồ-đề! Ngã ư A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề, nãi chí vô hữu thiểu Pháp khả đắc, thị danh A-nậu-đa-la Tam- miệu Tam-Bồ-đề.
II. Nghĩa: Không có Pháp để chứng đắc.
Trưởng lão Tu-bồ-đề bạch Phật: -Bạch Thế Tôn, Như Lai chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, thật sự không có gì để chứng đắc phải không? Đức Phật dạy: Đúng, đúng như thế! Này Tu-bồ-đề, đối với Vô thượng Bồ-đề Như Lai không có chứng đắc chút gì cả, vì thế mới gọi là Vô thượng Bồ-đề.
III. Ý kiến:
– Tiếp thu các lời dạy của đức Phật ở các đoạn trước, đến đây thính chúng lại suy tư: Phải chăng đức Phật chứng đắc quả vị Vô thượng Bồ-đề là không có gì để chứng đắc? Đức Phật khẳng định rằng, trong sự chứng đắc ấy hoàn toàn bặt dứt mọi ý tưởng chấp thủ tướng ngã.
Với lời dạy này, những ai căn cơ tinh tế thì sẽ rời khỏi những ý tưởng luẩn quẩn bởi chấp ngã về Như Lai, về Phật Pháp…
ĐOẠN THỨ HAI MƯƠI BA
I. Âm: Tịnh tâm hành thiện.
Phục thứ Tu-bồ-đề! Thị Pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ, thị danh A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam- Bồ-đề. Dĩ Vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh, vô thọ giả, tu nhất thiết thiện pháp tức đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề. Tu-bồ-đề! Sở ngôn thiện pháp giả, Như Lai thuyết tức phi thiện pháp, thị danh thiện pháp.
III. Nghĩa: Hành thiện bằng tâm thanh tịnh.
Hơn nữa, Tu-bồ-đề! Pháp đó là bình đẳng không có sai khác, nên gọi là Vô thượng Bồ-đề. Do không chấp ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả khi thực hành các pháp lành, nên chứng Vô thượng Bồ-đề. Tu-bồ- đề! Cái gọi là pháp lành, Như Lai nói chẳng phải pháp lành, vì thế nên mới nói là pháp lành.
III. Ý kiến:
– Đoạn này tiếp ý nghĩa đoạn trên, đức Phật dạy: Vô thượng Bồ-đề là thật tại bình đẳng. Tại đây, hoàn toàn không có bóng dáng ý niệm tướng ngã mà là thật tại Vô niệm, Vô ngã. Chính Thật tại Vô ngã bình đẳng, mới hiện hữu miên viễn…
– Để đạt Vô thượng Bồ-đề, đức Phật dạy, cần phải thực hiện tất cả các thiện pháp với sự tỉnh giác rời khỏi mọi khái niệm tướng ngã. Nội dung tỉnh giác là thấy rõ tánh Duyên sinh của các thiện pháp trong khi thực hiện cứu độ chúng sanh (lợi tha) để vừa hoàn tất Đại bi tâm, vừa hoàn tất Đại trí nhằm chứng Vô thượng Bồ-đề (tự lợi).
ĐOẠN THỨ HAI MƯƠI BỐN
I. Âm: Phước-Trí vô tỉ.
Tu-bồ-đề! Nhược tam thiên đại thiên thế giới trung, sở hữu Tu-di sơn vương, như thị đẳng thất bảo tụ, hữu nhơn trì dụng Bố thí; nhược nhơn dĩ thử Bát-nhã Ba-la-mật kinh, nãi chí tứ cú kệ đẳng, thọ trì, độc tụng, vị tha nhơn thuyết, ư tiền Phước đức bách phần bất cập nhất, bách thiên vạn ức phần, nãi chí toán số thí dụ, sở bất năng cập.
II. Nghĩa: Phước – Trí vô song.
Trưởng lão Tu-bồ-đề! Giả sử có người đem bảy thứ châu báu chồng chất bằng tất cả núi chúa Tu-di trong cõi đại thiên để Bố thí, và có người khác thọ trì, độc tụng, giảng thuyết cho người khác về kinh Bát-nhã Ba-la-mật này, dù chỉ một bài kệ bốn câu, thì Phước đức của người trước không bằng một phần trăm, một phần ngàn vạn ức Phước đức của người này, dù dùng pháp toán để thí dụ thì cũng không bằng một phần nào cả.
III. Ý kiến:
– Một lần nữa, đức Phật tán thán, đề cao Pháp thí. Đề cao Pháp thí là ý nghĩa đề cao Trí tuệ Bát-nhã. Muốn thực chứng Trí tuệ Bát-nhã, đức Phật lại khẳng định rằng, không phải là vấn đề của tư duy, suy tưởng, mà phải thực hiện Lục độ với sự soi chiếu của Trí độ. Thật tướng Vô tướng không phải là một đối tượng của tư duy, mà là Thật tại sống thật nằm ngoài tất cả khái niệm tướng ngã.
– Lời tán thán Pháp thí được lặp lại nhiều lần như thế, là kỹ thuật thức tỉnh, dẫn dắt thính chúng hãy chấm dứt mọi tư duy mà đi vào thực tiễn; trực giác chứng nghiệm sẽ trả lời sự thật cho mọi tư duy đó.
ĐOẠN THỨ HAI MƯƠI LĂM
I. Âm: Hóa vô sở hóa.
Tu-bồ-đề, Ư ý vân hà? Nhữ đẳng vật vị Như Lai tác thị niệm: Ngã đương độ chúng sanh. Tu-bồ- đề! Mạc tác thị niệm. Hà dĩ cố? Thật vô hữu chúng sanh Như Lai độ giả. Nhược hữu chúng sanh Như Lai độ giả, Như Lai tắc hữu ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Tu-bồ-đề! Như Lai thuyết hữu ngã giả, tắc phi hữu ngã, nhi phàm phu chi nhơn, dĩ vi hữu ngã. Tu-bồ-đề! Phàm phu giả, Như Lai thuyết tắc phi phàm phu, thị danh phàm phu.
II. Nghĩa: Hóa độ không đối tượng.
Trưởng lão Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ thế nào? Các Thầy đừng nói Như Lai nghĩ rằng, Như Lai cứu độ chúng sanh. Tu-bồ-đề, Thầy đừng nghĩ như thế! Tại sao vậy?
Vì thật sự không có một chúng sanh nào Như Lai cứu độ cả. Nếu có chúng sanh Như Lai cứu độ, thế là Như Lai còn ý tưởng ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Tu- bồ-đề! Ý tưởng ngã, Như Lai nói chẳng phải ý tưởng ngã, nhưng kẻ phàm phu thì bảo là ngã. Tu-bồ-đề! Cái gọi là phàm phu, Như Lai nói chẳng phải phàm phu, vì thế mới gọi là phàm phu.
III. Ý kiến:
– Đức Phật phủ nhận các ý tưởng về cứu độ, về chúng sanh và về phàm phu, là phủ nhận mọi ý tưởng ngã. Còn ý tưởng là còn vọng tưởng, còn chấp ngã.
Kỹ thuật phủ nhận dây chuyền này, đức Phật sẽ giúp thính chúng dập tắt mọi vọng tưởng để đi vào Thật tại giải thoát; đồng thời, thức tỉnh thính chúng rằng Thật tại như thật hoàn toàn không có mặt bất cứ một ý tưởng ngã nào.
ĐOẠN THỨ HAI MƯƠI SÁU
I. Âm: Pháp thân phi tướng.
Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Khả dĩ tam thập nhị tướng quán Như Lai phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Như thị, như thị! Dĩ tam thập nhị tướng quán Như Lai. Phật ngôn: Tu-bồ-đề! Nhược dĩ tam thập nhị tướng quán Như Lai giả, Chuyển luân Thánh vương tắc thị Như Lai! Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Như Ngã giải Phật sở thuyết nghĩa: Bất ưng dĩ tam thập nhị tướng quán Như Lai.
Nhĩ thời Thế Tôn nhi thuyết kệ ngôn:
Nhược dĩ sắc kiến Ngã,
Dĩ âm thanh cầu Ngã,
Thị nhơn hành tà đạo,
Bất năng kiến Như Lai.
II. Nghĩa: Pháp thân chẳng có hình tướng.
Trưởng lão Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ thế nào? Phải chăng thấy Như Lai qua ba mươi hai tướng quý của Ngài? Tu-bồ-đề thưa: Đúng vậy, quả đúng như vậy! Nhìn thấy Như Lai qua ba mươi hai tướng quý của Ngài. Đức Phật bảo: Này Tu-bồ-đề! Nếu thấy Như Lai qua ba mươi hai tướng quý của Ngài thì Chuyển luân Thánh vương là Như Lai sao? – Tu-bồ-đề bạch đức
Phật: Bạch Thế Tôn, theo con hiểu ý nghĩa Thế Tôn đã dạy, thì không thể thấy Như Lai qua ba mươi hai tướng quý của Ngài.
Đến đây, Thế Tôn nói kệ:
Nếu nhìn Như Lai qua sắc thân,
Nhận thức Như Lai qua âm thanh,
Là nhận thức tà kiến,
Không thể thấy Như Lai.
III. Ý kiến:
– Đây là lần thứ 4 đề cập đến ba mươi hai tướng quý của Như Lai. Lần này đức Phật lại dạy cách khác. Lần trước đức Phật dạy, nếu thấy Vô tướng của ba mươi hai tướng ấy là thấy Như Lai. Cũng chính nghĩa này, ngài Tu-bồ-đề mới trả lời rằng, thấy Như Lai qua ba mươi hai tướng quý của Ngài. Nhưng tại đây đức Phật thấy rõ, nếu dạy như thế, những thính chúng còn chấp thủ sẽ dễ lầm chấp sắc thân ba mươi hai tướng quý của Ngài là Như Lai (chấp thường). Do thế, đức Phật phủ nhận sự thấy Như Lai qua sắc thân hay ngôn ngữ của Ngài, phủ nhận như vậy là đức Phật dẫn dắt thính chúng trở về với chính mình, hầu nhận diện rõ nguồn cội vọng tưởng để lìa mọi chấp thủ. Khi cội nguồn chấp ngã rơi rụng thì nhìn pháp nào cũng thấy Như Lai.
– Không thể nhận thức Như Lai qua Thân giáo (sắc thân) và Khẩu giáo (âm thanh) được. Bởi lẽ, đức Phật đã dạy, giáo pháp Ngài dạy cần được xem như chiếc bè để qua sông hay ngón tay chỉ mặt trăng. Chiếc bè, ngón tay chỉ là phương tiện có tác dụng chuyên chở, định hướng cho sự trực nhận Thật tại như thật, chứ không phải là bản thân Thật tại như thật. Do thật nghĩa ấy, nên đức Phật dạy, ai nhận thức Như Lai qua sắc thân, qua âm thanh là tà kiến và không thể thấy được Như Lai đích thực.
– Ý nghĩa đức Phật dạy ở đoạn 25 & 26 này là nhằm đánh đổ mọi ý tưởng chấp thường (chấp có) của thính chúng (Thính chúng chấp rằng: Như Lai nghĩ mình cứu độ chúng sanh, Như Lai có sắc thân trang nghiêm…).
ĐOẠN THỨ HAI MƯƠI BẢY
I. Âm: Vô đoạn, vô diệt.
Tu-bồ-đề! Nhữ nhược tác thị niệm: Như Lai bất dĩ cụ túc tướng cố đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề. Tu-bồ-đề! Mạc tác thị niệm: Như Lai bất dĩ cụ túc tướng cố, đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề. Tu-bồ-đề! Nhữ nhược tác thị niệm: Phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề tâm giả, thuyết chư pháp đoạn diệt, mạc tác thị niệm. Hà dĩ cố? Phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề tâm giả, ư pháp bất thuyết đoạn diệt tướng.
II. Nghĩa: Không có đoạn diệt.
Trưởng lão Tu-bồ-đề! Nếu Thầy nghĩ rằng Như Lai không do các đặc tướng sắc thân mà chứng đắc Vô thượng Bồ-đề. Tu-bồ-đề! Thầy đừng nghĩ như thế! Rằng Như Lai không do các đặc tướng sắc thân mà chứng đắc Vô thượng Bồ-đề. – Tu-bồ-đề! Nếu Thầy nghĩ rằng những người phát tâm Vô thượng Bồ-đề nói rằng các pháp đều tiêu diệt hẳn; đừng nghĩ như thế!
Tại sao vậy? Bởi vì những người phát tâm Vô thượng Bồ-đề đối với các pháp không tuyên bố là đoạn diệt.
III. Ý kiến:
– Ở đoạn 25 & 26 trên, đức Phật phủ nhận chấp thường, một số thính chúng còn chấp thủ lại nghĩ rằng: Thế thì quả giác ngộ không liên hệ gì với sắc thân Như Lai? (chấp đoạn, chấp không). Đức Phật xác định rằng Bồ-tát cầu quả vị Phật-đà không bao giờ đoạn diệt.
– Chấp thường hay chấp đoạn là tà kiến, tà đạo, không thể chứng đắc quả Phật. Con đường thể nhập Phật-đà phải là con đường thoát khỏi mọi vướng mắc thường-đoạn hay có-không…; con đường của đoạn trừ mọi tham ái, chấp thủ (Trung đạo).
ĐOẠN THỨ HAI MƯƠI TÁM
I. Âm: Bất thọ, bất tham.
Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát dĩ mãn Hằng hà sa đẳng thế giới thất bảo trì dụng Bố thí; nhược phục hữu nhơn tri nhất thiết pháp Vô ngã, đắc thành ư Nhẫn, thử Bồ-tát thắng tiền Bồ-tát, sở đắc công đức.
Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Dĩ chư Bồ-tát bất thọ Phước đức cố. Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Vân hà Bồ-tát bất thọ Phước đức? – Tu-bồ-đề! Bồ-tát sở tác Phước đức, bất ưng tham trước, thị cố thuyết bất thọ Phước đức.
II. Nghĩa: Không thọ nhận, không tham trước.
Trưởng lão Tu-bồ-đề! Giả sử có vị Bồ-tát đem bảy thứ châu báu chất đầy thế giới như cát sông Hằng để Bố thí. Lại có Bồ-tát khác biết tất cả pháp là Vô ngã, được thành tựu đức Nhẫn, thì công đức vị Bồ-tát này hơn hẳn vị Bồ-tát trước. Vì sao vậy? Này Tu-bồ-đề! Vì các Bồ-tát thì không thọ nhận Phước đức. Tu-bồ-đề bạch Phật: Vì sao Bồ-tát không thọ nhận Phước đức? – Này Tu-bồ-đề! Vì Bồ-tát làm mọi Phước đức nhưng không tham trước, do thế mà Như Lai nói là không thọ nhận Phước đức.
III. Ý kiến:
– Bồ-tát thấy biết rõ Thật tại Vô ngã của các pháp, nên chứng đắc Vô sanh Pháp nhẫn, Phước đức này hẳn nhiên là siêu việt các Phước đức của các sự Bố thí còn vướng mắc tướng ngã.
– Nội dung tâm lý một vị Bồ-tát chứng đắc Vô sanh Pháp nhẫn là hoàn toàn vô niệm, vô trước đối với bất cứ cái gì. Bởi sự thật đó, trên sự thật đó, vị Bồ-tát ấy mới có sự chứng đắc và có Phước đức vô lượng.
– Ý nghĩa đoạn này, đức Phật chỉ dạy thính chúng cần phải Tri kiến như thật về Nhân tố hội nhập quả Phật.
ĐOẠN THỨ HAI MƯƠI CHÍN
I. Âm: Uy-nghi tịch tĩnh.
Tu-bồ-đề! Nhược hữu nhơn ngôn: Như Lai nhược lai, nhược khứ, nhược tọa, nhược ngọa, thị nhơn bất giải Ngã sở thuyết nghĩa. Hà dĩ cố? Như Lai giả, vô sở tùng lai diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai.
II. Nghĩa: Oai-nghi tịch tịnh.
Trưởng lão Tu-bồ-đề! Nếu ai nói rằng Như Lai có đến, có đi, có ngồi và có nằm thì người đó không hiểu ý nghĩa Như Lai đã dạy. Tại sao vậy? Bởi vì, Như Lai vốn không đến từ đâu và cũng không đi về đâu. Do thế, mới gọi là Như Lai.
III. Ý kiến:
– Đến đây, đức Phật dạy thính chúng cần phải Tri kiến như thật về kết quả thành tựu Phật-đà. Thật thể Phật-đà (Như Lai) là tịch diệt (bặt dứt) tất cả mọi tưởng ngã (vô sở tùng lai diệc vô sở khứ). Do thế, không thể thấy, hiểu Như Lai qua bốn oai nghi đi, đứng, nằm và ngồi của Ngài.
– Điểm cần ghi nhận tế nhị ở đây, đó là, chẳng phải Như Lai không đi, đứng, nằm và ngồi, mà thực tế Ngài vẫn sanh hoạt nhưng không chấp thủ một tướng ngã nào của đi, đứng, nằm và ngồi ấy.
ĐOẠN THỨ BA MƯƠI
I. Âm: Nhất hiệp lý tướng.
Tu-bồ-đề! Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhơn, dĩ tam thiên đại thiên thế giới toái vị vi trần, ư ý vân hà, thị vi trần chúng, ninh vi đa phủ?
– Tu- bồ-đề ngôn: Thậm đa, Thế Tôn! Hà dĩ cố? Nhược thị vi trần chúng thật hữu giả, Phật tắc bất thuyết thị vi trần chúng. Sở dĩ giả hà?
– Phật thuyết vi trần chúng, tắc phi vi trần chúng, thị danh vi trần chúng. Thế Tôn! Như Lai sở thuyết tam thiên đại thiên thế giới, tắc phi thế giới, thị danh thế giới. Hà dĩ cố?
– Nhược thế giới thật hữu giả, tắc thị nhất hiệp tướng. Như Lai thuyết nhất hiệp tướng, tức phi nhất hiệp tướng, thị danh nhất hiệp tướng.
Tu-bồ-đề! Nhất hiệp tướng giả, tắc thị bất khả thuyết, đản phàm phu chi nhơn, tham trước kỳ sự.
II. Nghĩa: Lý của tướng hợp nhất (thế giới).
Trưởng lão Tu-bồ-đề! Nếu có ai nghiền thế giới tam thiên đại thiên này thành vi trần, Thầy nghĩ thế nào, những vi trần ấy nhiều hay ít? Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn, quả rất nhiều. Tại sao vậy?
– Bởi vì, những vi trần ấy nếu thật có, Ngài đã không nói là những vi trần. Tại sao như thế?
– Bởi vì, những vi trần Ngài nói chẳng phải những vi trần, nên mới nói là những vi trần. Bạch Thế Tôn! Thế giới tam thiên đại thiên mà Ngài nói, tức chẳng phải thế giới, nên mới nói là thế giới. Tại sao vậy? Vì nếu thế giới thật có, đó chỉ là cái tướng hợp nhất. Như Lai nói tướng hợp nhất không phải tướng hợp nhất, nên mới nói là tướng hợp nhất.
– Này Tu-bồ-đề! Tướng hợp nhất thì không là gì cả để nói, chỉ có kẻ phàm phu mới đắm chấp sự kiện ấy.
III. Ý kiến:
1. Đức Phật lại dẫn dắt thính chúng giúp họ có Tri kiến như thật về thế giới, vũ trụ. Tại đây, đức Phật dẫn giải vũ trụ với hai khía cạnh:
2. Những nhân tố của vũ trụ, đó là những vi trần (nguyên tử, điện tử, năng lượng), nó là rỗng không, không phải vật chất, không có cá thể (Vô ngã).
3. Cái danh xưng vũ trụ chỉ là sự tập hợp của tất cả những gì không phải vật chất, không có cá thể.
Qua chỉ dạy này, sẽ đánh thức thính chúng còn chấp thủ hãy định hướng cái nhìn của mình về vũ trụ, bằng cách buông bỏ mọi ý tưởng, để thấy được thật tướng các pháp, thật tướng vũ trụ.
ĐOẠN THỨ BA MƯƠI MỐT
I. Âm: Tri kiến bất sanh.
Tu-bồ-đề! Nhược nhơn ngôn: Phật thuyết ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Thị nhơn giải Ngã sở thuyết nghĩa phủ?
– Phất dã, Thế Tôn! Thị nhơn bất giải Như Lai sở thuyết nghĩa. Hà dĩ cố? – Thế Tôn thuyết ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến tức phi ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, thị danh ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. Tu-bồ-đề! Phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam- Bồ-đề tâm giả, ư nhất thiết pháp, ưng như thị tri, như thị kiến, như thị tín giải, bất sanh pháp tướng. Tu-bồ-đề! Sở ngôn pháp tướng giả, Như Lai thuyết tức phi pháp tướng, thị danh pháp tướng.
II. Nghĩa: Tà tri kiến không sanh khởi (Tứ kiến).
Trưởng lão Tu-bồ-đề! Nếu có ai nói rằng Như Lai đề cập đến cái thấy ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả; này Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ thế nào, người đó có hiểu ý nghĩa đã được Như Lai nói không?
– Bạch Thế Tôn, quả thật không. Người đó không hiểu ý nghĩa mà Như Lai đã nói. Tại sao vậy? Vì rằng Như Lai nói cái thấy ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả, tức chẳng phải cái thấy ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả, nên mới gọi là cái thấy ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Trưởng lão Tu-bồ-đề! Những người phát tâm Vô thượng Bồ-đề đối với các pháp cần biết như vậy, cần thấy như vậy, cần tin tưởng và lãnh hội như vậy, không nên trú nơi ý tưởng pháp. Cái gọi là ý tưởng pháp, Như Lai nói chẳng phải ý tưởng pháp, vì thế mới gọi là ý tưởng pháp.
III. Ý kiến:
– Ở trước, đức Phật dạy thính chúng hãy thức tỉnh trở về với chính mình để đoạn trừ mọi chấp thủ phát xuất từ chấp thủ tự ngã; tại đây, thính chúng lại chấp Có cái thấy ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Do vậy, đức Phật lại dẫn dắt thính chúng cần Tri kiến như thật về bản thân. Bởi lẽ, cái được gọi là ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả, vốn không thật có. Vì thế, cái thấy ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả cũng không thật có, cái thấy đó chỉ là giả tướng được dựng lên bởi chấp ngã; và cái thấy biết ấy cũng chỉ là tà tri kiến mà thôi.
– Phương pháp phủ định triệt để như thế là kỹ thuật thiện xảo, nhằm giúp thính chúng bặt dứt mọi tư duy, vọng tưởng, để sống thực với hạnh nguyện của mình trong tỉnh giác Vô trụ; tại đây tất cả mọi sự thật sẽ được hiện bày.
– Kết thúc đoạn này cũng là mở đầu phần kết thúc Kinh và cũng là kết thúc trả lời cho hai câu hỏi đầu Kinh. Đức Phật dạy, Bồ-tát phát tâm cầu quả vị Phật, cần phải hiểu, phải thấy, phải tin tưởng và lãnh hội ý nghĩa Ngài đã diễn bày. Tựu trung, Bồ-tát muốn chứng quả Phật, thì đối với tất cả pháp (tâm – vật, chủ thể – đối tượng) không nên trú vào bất cứ thứ gì để khởi tâm.
ĐOẠN THỨ BA MƯƠI HAI
I. Âm: Ứng hóa phi chân.
Tu-bồ-đề! Nhược hữu nhơn dĩ mãn vô lượng
A-tăng-kỳ thế giới thất bảo trì dụng Bố thí; nhược thiện nam tử, thiện nữ nhơn phát Bồ-đề tâm, trì ư thử Kinh, nãi chí tứ cú kệ đẳng, thọ trì độc tụng, vị nhơn diễn thuyết, kỳ Phước thắng bỉ. Vân hà vị nhơn diễn thuyết? Bất thủ ư tướng, như như bất động. Hà dĩ cố?
Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng huyễn, bào, ảnh.
Như lộ diệc như điện,
Ứng tác như thị quán.
Phật thuyết thị Kinh dĩ, trưởng lão Tu-bồ-đề cập chư Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, nhất thiết thế gian: Thiên, Nhơn, A-tu-la văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
II. Nghĩa: Ứng hóa không phải chân thật.
Trưởng lão Tu-bồ-đề! Giả sử có người đem bảy thứ châu báu chất đầy vô lượng vô số thế giới để Bố thí; lại có người khác phát tâm Bồ-đề đối với kinh Kim Cang này mà thọ trì, độc tụng hay giảng thuyết cho người khác, dù chỉ một bài kệ bốn câu, thì Phước đức người này hơn hẳn người trước. Giảng thuyết cho người khác bằng cách nào?
– Bằng cách không nắm bắt ý tưởng Pháp, như như chẳng dao động. Tại sao vậy? Bởi vì:
Tất cả pháp hữu vi:
Như chiêm bao, huyễn thuật,
Như bọt nước, ảnh tượng,
Như sương mai, điện chớp,
Cần được nhìn như thế.
Khi đức Phật giảng xong kinh Kim Cang Bát- nhã này, Trưởng lão Tu-bồ-đề, các vị Tỳ-kheo, Tỳ- kheo-ni, các vị Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và tất cả Trời, Người, A-tu-la trong thế giới, được nghe những điều đức Phật tuyên thuyết, ai cũng hoan hỷ tin nhận và phụng hành.
II. Ý kiến:
Tiếp phần kết thúc, đức Phật khuyến khích thính chúng hãy nỗ lực tu học, diễn giảng Kim Cang, bằng cách tự thức tỉnh phát khởi và nuôi dưỡng tinh thần Vô trụ đối với tất cả các pháp. Muốn vậy, cần phải có cái nhìn: Các pháp hữu vi như chiêm bao, huyễn thuật, như bọt nước, ảnh tượng, như sương mai, điện chớp… Thực hiện như thế là thực hiện Vô trụ Bát-nhã. Nội dung thực hiện này vừa là đoạn tận chấp ngã, vừa là phát tâm Bồ-đề, vừa là hàng tâm và cũng là trụ tâm. Cũng chính nghĩa này, nên hành trì kinh Kim Cang thì Phước đức tối thượng vậy.
– Bài kệ cuối Kinh, hướng dẫn thính chúng nên nhìn các pháp với tinh thần Duyên sinh, để thấy được tánh Vô ngã, Vô thường của các pháp. Nhìn các pháp với cái nhìn Duyên sinh là nội dung của Thiền quán. Như thế, khi mở đầu cũng như kết thúc Kinh, Kim Cang đã giới thiệu con đường trực nhập Trí tuệ Bát- nhã là con đường Thiền định. Con đường Thiền định này được xuyên qua hạnh nguyện Lục độ, vừa cứu độ chúng sanh để hoàn tất Đại bi tâm, vừa chứng ngộ. Thật tướng các pháp để thành tựu Trí tuệ Bát-nhã. Vậy lộ trình tu tập theo giáo lý Kim Cang là tiến trình của Thiền chỉ và Thiền quán vậy.
Đây là điểm thống nhất trong giáo điển Nam tạng cũng như Bắc tạng. Đồng thời, chính điểm này đã minh xác mạng mạch Phật giáo:
Phật giáo là Thiền định, không Thiền định thì không có Phật giáo.
Kinh Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật.