KINH CỰ LỰC TRƯỞNG GIẢ SỞ VẤN ĐẠI THỪA

Hán dịch: Đời Triệu Tống, Sa-môn Trí Cát Tường
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Thế Tôn ở tại tinh xá nơi vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ, cùng đông đủ chúng đại Tỳ-kheo gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị, đều là A-la-hán, các lậu đã đoạn tận, xa lìa trói buộc của phiền não, tâm khéo giải thoát, tuệ hoàn toàn giải thoát, như đại Long vương, thần thông biến hóa, những việc nên làm đã làm xong, trút bỏ gánh nặng và được lợi mình, tâm trí giải thoát tự tại nơi các pháp, có khả năng tu tập để đến bờ giác. Lại có Tôn giả A-nan học rộng, căn tánh thông lợi, làm người đứng đầu. Lại có năm trăm vị Đại Bồ-tát đạt được các Đà-la-ni, trụ trong Tam-ma-địa, tất cả đang ở trong chúng hội.

Bấy giờ, tại thành lớn Xá-vệ, có một Trưởng giả tên là Cự Lực, sắc tướng đầy đủ tăm tiếng đồn xa. Nhà cửa của Trưởng giả rất giàu, có đủ các loại vàng, bac, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, ngọc lớn ma-ni cùng vô số châu báu khác lạ. Mỗi kho tàng đều cất chứa đầy ắp, tài sản về lúa gạo thì không sao tính xuể. Tất cả các thứ châu báu được dùng thỏa mãn tùy ý, muốn bất cứ thứ gì cũng không thiếu, tiền lời vào ra khắp các nước, không chỗ nào là không có. Các nơi ấy, Trưởng giả Cự Lực đều sai khiến nô tỳ, tôi tớ làm việc trông coi, voi, ngựa, xe cộ cũng vô số. Cho nên chỗ ở của Trưởng giả Cự Lực, nhà cửa, lầu gác nguy nga tráng lệ, trong nhà phòng ốc được trang hoàng đủ các thứ châu báu đan xen. Hoa viên, ao hồ, ánh sáng nhiều màu, những loại hoa quả quý lạ đều tập trung hết trong ấy. Mỗi thứ được trang nghiêm với nhiều vẻ đẹp không thể so sánh. Tất cả thể nữ, kỹ nhạc đều đẹp, chỉ thua nhà vua còn không thua ai. Trưởng giả hưởng thụ trong hạnh phúc tột đỉnh, ngày đêm sáu thời không lúc nào dứt. Bên cạnh Trưởng giả Cự Lực, lại có năm trăm vị Trưởng giả làm người phụ tá công việc. Họ giữ gìn châu báu và trông coi những thứ tài sản trong kho tàng.

Một hôm, Trưởng giả Cự Lực bỗng nhiên căn lành thành thục, tâm lãnh hội được nghĩa lý, liền tự suy nghĩ: “Cảnh đời trôi nổi không vững chắc, giống như một giấc mộng. Tất cả sắc tướng rốt cuộc cũng sẽ bị hủy diệt, mà thân thể, tánh khí này vốn không rồi cũng hư hoại. Năm dục lạc là nhân sinh ra quả khổ. Chúng sinh mê muội điên đảo không biết lúc nào thoát ra được.” Ngay lúc ấy, Trưởng giả Cự Lực mời các vị Trưởng giả đến đông đủ, sau khi họ ngồi yên Trưởng giả bắt đầu nói:

–Xin quý vị hãy bình tĩnh lắng nghe. Tất cả các pháp do có duyên tụ lại mà sinh ra, duyên tiêu mất thì diệt, thể tánh không thật rốt cuộc sẽ hư hoại. Chúng sinh do suy nghĩ không thật tạo ra sự phân biệt: Cho thân này là của ta và quyến thuộc là của ta, không biết vô thường, sinh diệt trong từng sát-na. Tiền tài, nhà cửa thay đổi biến thành của người khác, cao ngạo ngu si là nhân tạo ra năm nẻo, kết nghiệp thành thục, thọ lãnh nhiều quả báo khác nhau. Nẻo ác thì dễ đến, đường thiện thì khó vào. Các vị nên biết làm thân khó được, nếu ở trong từng sát-na thay đổi mà phát sinh những suy nghĩ chân chánh điều đó là khó.

Các vị Trưởng giả, nên biết! Các Đức Như Lai xuất hiện ở thế gian khó được gặp, đã sinh trong nước có Phật, lòng tin không thoái chuyển đó cũng là khó. Đối với chánh pháp của Phật khởi lên lòng tin, xa lìa thế tục, xuất gia, cũng là khó. Tuy đã xuất gia có thể tu hạnh Tỳ-kheo, phạm hạnh trong sạch, dứt trừ duyên ác, vậy cũng là khó. Ngày đêm tu tập, tinh tấn nơi các thiền-na, xa lìa sự tán loạn, cũng lại là khó. Nếu tánh thông tuệ, khéo có thể phân biệt các pháp thật giả đó cũng là khó. Nay được làm người, lại gặp vị vua hiền, không còn chiến tranh, cuộc sống bình yên, hạnh phúc, cũng là rất khó. Nếu tất cả chúng sinh tu nhiều công đức, sinh trong nước Như Lai, tâm kiên cố thì cũng là khó. Lại có nhiều chúng sinh có thể dùng phương tiện ngôn ngữ thiện xảo, khuyến dụ những bạn lành tri thức bằng nhiều cách để họ siêng năng tu phước nghiệp, đi đến chỗ Phật, gần gũi cúng dường, làm được cũng là khó. Nếu có chúng sinh xa lìa sự bần cùng, đói rách, đạt được nhiều phước tuệ, sinh ở nước Phật, sống giữa mọi người, có thể làm nhiều Phật sự trang nghiêm, đó cũng là khó. Nếu có chúng sinh ở trong hàng Thanh văn tinh tấn giữ giới cấm, muốn cầu giải thoát, với hàng Bích-chi-phật muốn cầu giải thoát, với Vô thượng thừa muốn cầu giải thoát, đạt được chân thật cũng là khó.

Bấy giờ, Trưởng giả Cự Lực nói về ba thừa và các việc xong rồi bảo với mọi người:

–Điều tôi nói, mọi người phải nên nhận biết, hiểu rõ sắc tướng là không kiên cố.

Lúc ấy, trong năm trăm vị Trưởng giả ngồi nghe sự việc như thế, như người say rượu, hết rượu tỉnh lại. Bỗng trong chúng có một vị Trưởng giả từ chỗ ngồi đứng dậy, nói với Trưởng giả Cự Lực:

–Hiện giờ, tất cả chúng tôi đều có chỗ nghi ngờ. Sao gọi là Thanh văn, Duyên giác và Vô thượng thừa? Sao gọi các sắc tướng là năm dục lạc của thế gian, là thể tánh không chắc, là từng sát-na sinh diệt? Hãy vì chúng tôi một lần nữa phân biệt, giải thích, chúng tôi rất muốn được nghe.

Trưởng giả Cự Lực nói với vị Trưởng giả đó và mọi người:

–Tại thành lớn Xá-vệ này, ở tinh xá Cấp cô độc, rừng Kỳ-đà, có Đức Phật Thế Tôn đầy đủ ba trí sáng, sáu thần thông, tám Giải thoát, mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng, công đức đầy đủ, gọi là Nhất thiết trí, hiệu là Thiên Nhân Sư. Tại đại hội ấy, Đức Thế Tôn vì đại chúng thuyết pháp, có thể giải thích những mối nghi ngờ của chúng ta. Bây giờ, các vị cùng tôi đến đó để được gần gũi, cúng dường, thưa hỏi Như Lai những diệu pháp như vậy.

Năm trăm vị Trưởng giả nghe nói như thế, ai cũng vui mừng hớn hở khôn cùng. Họ đem hương hoa thơm, nhiều loại châu báu cùng nhau theo Trưởng giả Cự Lực đến chỗ Phật, họ nhiễu quanh bên phải ba vòng, đảnh lễ sát chân Phật, cung kính cúng dường, ca tụng và khen ngợi Phật, rồi lui ra ngồi qua một bên.

Đức Thế Tôn xét thấy những vị Trưởng giả này, căn lành đã thành thục, có khả năng lãnh thọ chánh pháp. Đức Thế Tôn bèn hỏi Trưởng giả Cự Lực và năm trăm vị Trưởng giả:

–Các vị vì nhân duyên gì mà đến đây?

Trong chúng có vị Trưởng giả từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai bên phải, gối phải quỳ xuống đất, chắp tay cung kính khen ngợi Đức Thế Tôn rồi thưa:

–Kính thưa Thế Tôn! Chúng con trước đã được nghe Trưởng giả Cự Lực tìm cách chỉ bảo: Ở thế gian, tất cả sắc tướng, năm dục lạc, thể tánh đều không kiên cố, không chân thật, cuối cùng rồi cũng bị hủy diệt… nói rộng cho đến được làm thân người thật là khó. Trong từng sát-na thay đổi, phát sinh nhớ nghĩ chân chánh, đoạn diệt những tà vọng cũng là khó. Gặp được chư Phật Như Lai xuất hiện ở thế gian là khó. Sinh vào nước có Phật, đầy đủ lòng tin điều đó cũng là khó. Đối với lời dạy chánh pháp của Đức Phật khởi lên lòng tin, nhàm chán, xa lìa thế tục, vui cầu xuất gia, làm được điều đó cũng là khó. Tuy đã xuất gia, có thể làm Tỳ-kheo tu tập phạm hạnh, dứt trừ các duyên ác, làm việc như vậy là khó. Ngày đêm siêng năng tu tập các thiền-na, xa lìa sự tán loạn cũng là khó. Nếu tánh thông tuệ, khéo giỏi phân biệt các pháp giả, thật đó cũng là khó. Nay được thân người, lại gặp vua lành, chấm dứt chiến tranh, cuộc sống an lạc, bình yên, cũng rất là khó. Nếu các chúng sinh tu các công đức, được sinh vào nước của Như Lai thì cũng là khó. Lại có chúng sinh, có thể dùng phương tiện ngôn ngữ khéo léo, bằng nhiều cách khuyến dụ những bạn lành tri thức, để họ siêng tu phước nghiệp, đến chỗ Đức Phật gần gũi cúng dường, quả là khó. Nếu có chúng sinh được nhiều phước tuệ, sinh vào nước có Phật, có khả năng làm Phật sự trang nghiêm, đó cũng là khó. Nếu có chúng sinh đối với thừa Thanh văn, thừa Bích-chi-phật và Vô thượng thừa, muốn cầu giải thoát, quả thật là khó. Khi ấy, Trưởng giả Cự Lực vì tất cả chúng con đã nói pháp thế gian cho đến ba thừa và những việc khó như vậy. Tuy chúng con nghe, chưa tỏ ngộ, nhưng ai cũng mãn nguyện an vui và muốn gần gũi Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác có đại thần thông, đầy đủ Nhất thiết trí. Chúng con nguyện xin Đức Thế Tôn ban rải Từ bi, vì chúng con mà chỉ bày, diễn nói ba thừa diệu pháp và những việc khó: Thế gian, thân người, sắc tướng, năm dục đều hư huyễn, không thực, cuối cùng cũng bị hủy diệt, để chúng con nghe được mà thấu đạt nghĩa lý về tướng sinh diệt, rồi quyết tu hạnh Thánh đạo của Bồtát, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các vị Trưởng giả:

–Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Các ông đã khéo có thể thưa hỏi Như Lai về ba thừa diệu pháp và các việc khó: Sắc tướng không thật, năm dục không bền. Các ông hãy lắng nghe và khéo nhớ nghĩ về lời dạy của ta: Như Lai Ứng Cúng Chanh Đẳng Giác xuất hiện ở thế gian tùy theo căn tánh của chúng sinh mà giảng nói pháp ba thừa, dùng phương tiện chỉ bày nhiều loại thí dụ, dựa theo nguồn gốc đó mà tin hiểu, tỉnh ngộ dần dần, giúp mọi người chứng Niết-ban vắng lặng. Nếu chúng sinh có tánh Như Lai, đối với Vô thượng thừa có căn lành thành thục, nghe Phật giảng nói về pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì tâm không còn khiếp sợ mà lại ưa thích, mong cầu trí tuệ sáng tỏ, tinh tấn tu học, dẫu gặp duyên khổ, oan gia bức hại, vững vàng không lui, cuối cùng cũng chứng được Bồ-đề Vô thượng. Nếu có chúng sinh đối với Bích-chi-phật căn lành đã thành thục, nghe Phật nói mười hai nhân duyên, rồi xem xét hành động thuận nghịch, lưu chuyển qua lại, diệt mất, hiểu rõ một cách chắc chắn, không còn nghi ngờ, sẽ sinh tâm tin hiểu sâu xa, hoặc do ở thế gian có bốn mùa thịnh suy mà thấu đạt nghĩa lý vô thường, một mình chứng được Thánh quả. Nếu các chúng sinh đối với thừa Thanh văn, căn lành thành thục, nghe Phật thuyết pháp bốn Thánh đế, tùy theo chỗ hiểu biết về khổ đế, đoạn tập đế, chứng diệt đế và tu đạo đế, bốn hướng bốn quả chứng được Vô học. Như thế ba thừa là pháp vừa thích ứng vừa rốt ráo trong việc giảng giải giáo lý, nên sẽ tùy theo căn cơ, trình độ lớn nhỏ, sự vui thích tu học, xa lìa sinh tử, giải thoát an vui của mỗi chúng sinh.

Khi ấy, Trưởng giả Cự Lực và năm trăm Trưởng giả nghe lời Phật dạy, tất cả vui mừng khôn xiết, cùng cất tiếng ngợi khen:

–Lành thay, lành thay! Năng Nhân Đại sĩ khéo diễn thuyết diệu pháp của ba thừa. Nay chúng con rất vui mong muốn được nghe việc tu hành nghĩa sâu xa của pháp Đại thừa vô thượng. Đức Thế Tôn hãy dùng nhiều loài ngôn từ, phương tiện, thí dụ làm cho chúng con đối với pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không còn nghi ngờ và sinh lòng tin hiểu chắc chắn để tu học, cuối cùng chứng được tâm Bồ-đề không thoái chuyển.

Đức Thế Tôn bảo Trưởng giả Cự Lực và tất cả những vị Trưởng giả:

–Pháp Vô thượng thừa sâu xa vi diệu ấy là đạo thực hành đại trí, đại Bi của Đại Bồ-tát, chẳng phải là xứ sở đầy đủ an vui của hàng Thanh văn và Độc giác. Người phàm phu khó tin, khó hiểu. Các ông hãy chắp tay lắng nghe, ghi nhớ.

Này thiện nam! Nếu các chúng sinh trụ trong bản tánh, muốn cầu sự tu tập Vô thượng thừa thì đối với tất cả hữu tình phải khởi tâm đại Bi một cách bình đẳng, cứu giúp, thương nhớ, thâu nhận tất cả hữu tình như thầy của mình, như cha mẹ của mình, nam nữ, quyến thuoc gần gũi thương yêu lẫn nhau. Dùng tâm thanh tịnh làm việc bố thí rộng lớn, thấy người không có áo quần mặc thì cho họ quần áo, thấy người đói khát cho họ ăn uống, thấy người bần cùng thì cho họ của cải và đồ dùng, thấy người bệnh khổ thì cho họ thuốc hay, giường chiếu, đồ dùng để ngồi, ruộng vườn, nhà cửa, châu báu quý hiếm, vòng hoa, chuỗi ngọc, hương bột, hương thoa. Những thứ đó đều đem cho hết, cho đến nam nữ, quyến thuộc và chính thân mạng mình cũng đem cho hết, vì tâm hướng cầu Bồ-đề nên không tham tiếc, không do người khác chỉ dạy, tự lòng mình muốn tu tập Bố thí ba-la-mật. Nếu thấy chúng sinh không thích pháp Phật, không hành chánh đạo, chê bai làm hại ba thừa, trụ trong tà kiến, đoạn tuyệt căn lành, vướng mắc tham, sân, si, tạo các nghiệp ác, khi chết đi bị đọa vào địa ngục và các đường ác, thọ nhiều loại khổ không thể dừng nghỉ thì người tu hành Vô thượng thừa đối với loài hữu tình này khởi tâm đại Bi nhớ nghĩ thương mến không tiếc thân mạng, phát thệ nguyện lớn trụ những nơi đau khổ của loài hữu tình, dùng phương tiện ngôn ngữ nói nhiều phương pháp, giáo hóa loài hữu tình đó để họ phát tâm Bồ-đề chân chánh, nhớ nghĩ liên tục, nhàm chán khổ báo của thân, vui hành hạnh Bồtát, khiến cho đời sau có cùng chí hướng tu tập hạnh bố thí trong sạch bền vững không mất. Cũng lấy của cải riêng tư, thực phẩm, thức ăn nước uống, quần áo của chính mình và của những người thân thuộc. Cũng chuẩn bị sẵn sàng những thứ tư trang: tràng hoa, chuỗi ngọc, giường chiếu, đồ để ngồi, hương bột, hương thoa, để hiểu rõ và thấu đạt về sắc không, khiến tâm không chìm đắm vào đó, rồi có thể an vui xả bỏ tất cả, tự mình cầu pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng lại lần lượt hóa độ các loài hữu tình để cùng tu hạnh thù thắng. Nếu có chúng sinh cầu Vô thượng thừa, tâm không thấp kém, vững vàng tu tập giới Ba-la-mật, có sức nguyện lớn, gìn giữ giới thanh tịnh, trong sáng không cấu nhiễm, không hủy phạm, ở trong ba loại giới tuần tự tu học, đi, đứng, nằm, ngoi oai nghi đầy đủ, điều phục ba độc, bảo vệ các căn, cảnh ma có hiện ra tâm liền thấu hiểu, không sinh ưa thích. Hoặc gặp kẻ ác, đối đầu với oán thù có thế lực bức hiếp, nhưng người tu hành thì tâm vẫn trụ vào nhớ nghĩ chân chánh. Nếu lỡ mình bị xúc phạm thì tâm không chấp trước, thân, ngữ, ý nghiệp phải thanh tịnh để xa lìa lỗi lầm. Đối với các pháp thiện có thể uyển chuyển tu tập và giúp tất cả loài hữu tình được lợi ích, không bị tổn hại. Đối với hàng Thanh văn và Bích-chi-phật giữ vô tác giới, luôn luôn giữ gìn một lỗi nhỏ cũng không vướng mắc. Cho đến giới thiện của cõi người, cõi trời ở thế gian cũng phải đem hết khả giữ gìn. Nếu có chúng sinh cầu Vô thượng thừa, tu hành hạnh nhẫn nhục, dứt dần sự sân hận, tự tánh nhu hòa, tu tập thành tựu Nhẫn nhục ba-la-mật, phải làm cho tất cả các loài hữu tình được nhiều lợi ích. Còn như gặp đám oan gia, họ mắng chưi đánh đập, dùng lời thô tục bôi xấu mà người tu hành ấy không sinh hờn oán, vẫn vui vẻ chấp nhận. Hoặc gặp những việc bức hiếp phải làm nhanh như: khốn cùng, nghèo khổ, bệnh tật, giá rét, nóng bức… vì hướng đến Bồ-đề nên vui vẻ thọ nhận tất cả đau khổ. Nếu có kẻ ác lập mưu làm mình xấu hổ, hoặc làm tổn hại đến thân mạng thì người tu hành nên xem các hữu tình đều là duyên sinh huyễn hoặc, nó thay đổi sinh diệt trong từng sát-na, coi như không thấy có hữu tình, chỉ còn lại pháp không. Cũng không khởi tâm trả thù. Nếu có chúng sinh cầu Vô thượng thừa, vì muốn thành tựu Tinh tấn ba-la-mật, dũng mãnh mong cầu pháp thù thắng của Bồ-tát, trước hết phải phát khởi tâm đại Bồ-đề, tu tập các chánh hạnh, dẫu gặp duyên khổ nhưng không bao giờ thoái chuyển. Gặp oan gia phiền não tranh giành, gây tổn hại thì mặc áo giáp tinh tấn, chế ngự, điều phục, làm cho tâm luôn dũng mãnh, không có những nỗi khiếp sợ, thời gian lớp lớp trôi qua vẫn bền chắc, không thoái lui. Nếu có chúng sinh cầu Vô thượng thừa, lặng lẽ tu học Thiền-na ba-la-mật, chấm dứt sự tán loạn, trước mắt luôn nghĩ nhớ chân chánh, điều hòa thân tâm mau chóng xa lìa hai thứ: nghiệp chướng làm đắm chìm trong mê mờ và phiền não chướng làm xao xuyến nặng nề, để được an vui nhẹ nhàng, trí tuệ chân chánh sẽ hiện ra. Nếu có chúng sinh cầu Vô thượng thừa, có tâm thông minh sáng suốt, tánh có thể tu tập Bát-nhã ba-la-mật, làm cho trí tuệ sáng tỏ, thông đạt chân thật, hư dối, tìm cách mở đường khéo léo phân biệt tà chánh, nhân quả, ngu si đần độn, nghiệp chướng cấu nhiễm nhỏ nhặt. Nếu có chúng sinh cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì tâm phải luôn bình đẳng, không lìa oán hay kết thân, không sinh phân biệt. Nếu thấy chúng sinh làm việc bố thí hay không bố thí thì tâm cũng không yêu hay ghét. Nếu thấy chúng sinh giữ sạch giới hay phạm giới, cũng không thích hay giận. Nếu thấy chúng sinh có hành nhẫn nhục hay không nhẫn nhục, có hành tinh tấn hay không tinh tấn, tu các thiền-na hay không tu các thien-na, người có trí tuệ sáng suốt hay ngu si tối dạ, đối với tất cả những hàng chúng sinh như thế phải xa lìa tướng phân biệt không yêu, ghét, xem xét chỗ này, chỗ kia, trên cao, dưới thấp một cách bình đẳng, vì những pháp này vốn không sai biệt, đồng một pháp giới, tự tánh không có khác. Nghĩa của pháp Đại thừa là chánh giác cao cả, là trí cao tột tròn đầy của các Đấng Như Lai. Nếu có chúng sinh đối với Vô thượng thừa khởi niềm tin, cho đến phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì đó gọi là hướng tới nhà Như Lai, đứng trên đất Bồ-tát.

Bấy giờ, Trưởng giả Cự Lực cùng năm trăm Trưởng giả, nghe Phật nói diệu pháp như vậy, vui mừng khôn xiết chưa từng có, mới bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế Tôn khéo vì chúng con mà phân biệt diễn nói pháp quan trọng của Đại thừa, làm cho tất cả chúng con sinh tâm tin hiểu sâu xa, vui thích tu học. Nếu các chúng sinh vì cầu nơi Đại thừa vô thượng tối thắng đã không tiếc thân mạng, buông bỏ nhà cửa, tài sản, vật báu, các quyến thuộc, đồ ăn, thức uống, y phục, giường chiếu, đồ ngồi, tràng hoa, chuỗi ngọc, hương bột, hương thoa và đem nhiều thức khác để cúng dường thì chúng con đều nguyện tu học theo hạnh Bồ-đề cầu Vô thượng thừa của những vị Bồ-tát, là không tiếc thân mạng kể cả quyến thuộc, cúng dường bố thí tài sản và những thứ châu báu quý đẹp, thực hanh hạnh Bồ-tát Ba-la-mật. Cúi xin Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác vì tất cả chúng con thu nhận chứng biết giúp cho chúng con được giải thoát.

Đức Thế Tôn bảo Trưởng giả Cự Lực và tất cả những vị Trưởng giả:

–Các ông hãy lắng nghe! Nếu có chúng sinh vì cầu Bồ-đề mà thương xót hữu tình, tuy làm bố thí nhưng không cầu phú quý, tuy trì giới nhưng không cầu tướng đoan nghiêm, tuy hành nhẫn nhục nhưng không cầu quyến thuộc, tuy hành tinh tấn, thiền định, trí tuệ, vì thương chúng sinh cầu Vô thượng thừa, nhưng không vì thế gian luân hồi nhân quả. Nếu có chúng sinh đủ căn lành, trí tuệ thấu rõ việc thế gian, sắc thân, năm dục sinh diệt đều là ảo mộng, chỉ có giả danh, thể tánh không thực, xét xem thân tướng này từ trứng sinh, từ bào thai sinh, từ những vật nhỏ sinh, từ sự biến hóa sinh đều là giả tạo hòa hợp mà thành, như bèo như bọt, sinh đó rồi diệt đó. Chúng sinh nghĩ nhớ mơ hồ bảo là vĩnh cữu. Lại xem thân này như do bóng nắng, hình thể vốn không thực, chỉ từ việc quá khát nước mà sinh ra cảm nghĩ thấy như là nước. Cũng như cây chuối không thể chắc thật.

Nay có được thân này rốt cuộc cũng là không thật đều tự điên đảo mà sinh, hư giả trôi nổi không bền. Cũng như nơi hoang vắng mênh mông không có gì cả. Cũng như nhà xí đầy dẫy nhơ bẩn, một thân có tới chín lỗ luôn chảy những thứ không sạch. Cũng như giếng dơ nhiều rác rưởi đen tối hôi thối rất đáng chán ghét, lại như cừu thù, như rắn độc, đừng có quá yêu mến. Loài hữu tình luôn trôi nổi, phiêu lạc, nhập vào biển sinh tử, đắm chìm lưu chuyển khó có thời hạn thoat ra là đều do năm dục, phiền não. Nay các ông gần kề Như Lai, học hạnh Bồ-tát, nhàm chán xa lìa năm dục là phiền não nơi thế gian, tất cả sắc thân đều hư hoại không chắc. Cầu nơi Đại thừa Vô thượng tối thắng, tuần tư tu tập dần dần các hạnh Ba-la-mật, muốn chứng giải thoát rất khó đạt được.

*********

Bấy giờ, Đức Phật bảo Trưởng giả Cự Lực và những vị Trưởng giả:

–Các ông đời trước vốn đã vun trồng căn lành và lòng tin vững bền, muốn tu học hạnh đạo của Đại Bồ-tát, cắt bỏ nghiệp chướng nhiễm ô, cầu chứng Bồ-đề, phải nên quán xét các loài hữu tình kia, từ vô thỉ đến nay luân hồi lưu chuyển, thân thọ khổ báo, trải qua nhiều đời không có giới hạn, mà sắc thân này không chắc thật, như huyễn như hóa. Các loài hữu tình bị ảo tưởng làm điên đảo, tạo ra nghiệp nhân, ngoài thì mượn các duyên tích tập hợp thành, như đống bọt trên mặt nước. Năm uẩn cùng đất, nước, gió, lửa và nghiệp đời trước làm nhân, gây tạo thế lực, tích tập các chủng tử trụ trong Tàng thức, rồi nhờ cha mẹ tình ái hòa hợp, vui vầy, dẫn đến thọ sinh, gọi là Yết-la-lam, thần thức trước tiên nương vào chỗ đó, cho đến khi tinh huyết giao kết, bất tịnh ngưng kết lại trong bào thai, trải qua nhiều giai đoạn: Gió nghiệp bên trong thổi, tứ chi tăng trưởng, do thế lực của nghiệp dần dần hình thành, từ sắc thân bốn đại cho đến các căn vẹn toàn và tâm thức, phiền não cũng sinh đầy đủ. Khi ra khỏi bào thai, tiếp xúc gió bên ngoài, đau đớn mà phát ra tiếng khóc, đối với tất cả cảnh không thể hiểu rõ. Gió duyên chuyển động có hơi thở ra vào, bú mớm sữa mẹ, sinh đại tiểu tiện. Tâm thức lúc này sinh nhiều phân biệt, đam mê ăn uống, bổ dưỡng các căn, tiện lợi cho da thịt, máu ruột, vị, xương, tủy, lông, tóc, móng, răng, nước miếng, rồi mới trưởng thành tướng tốt xấu của thân thể, tứ chi. Tự theo nghiệp nhân mà thọ lãnh các quả báo sai khác, tham, sân, si, cao ngạo khinh chê, phiền não theo đuổi vướng mắc. Gặp cảnh oán, thân lại sinh ảo tưởng thuận nghịch. Năm dục, sắc tướng ý buông thả đều vướng mắc, với nghiệp báo thân lại tăng thêm nghiệp báo. Bên trong thân cận bạn ác, bên ngoài kiêu mạn với người tôn kính. Đối với các Bồ-tát và pháp chân thật tâm không ưa thích, cũng không chịu học hỏi lãnh thọ, mặc ý buông lung cho ngu si tạo ra các ác. Sân hận độc hại, dua nịnh ghen ghét, tức giận, ngang ngạnh, đánh đấm mắng chửi, làm tổn hại hữu tình. Đối với sắc đẹp của nam nữ hoàn toàn bị chấp trước như vật bị trói buộc, không tháo gỡ được. Còn chính bản thân mình thì không nghĩ là vô thường, cho là trường tồn, không có sự thay đổi và chết. Đối với tài sản châu báu thì tham cầu tích chứa mà không nhàm chán, không biết đủ. Phiền não, bụi nhơ nơi cõi trần che lấp tam thức, không tu sửa trí tuệ để vô minh tăng trưởng, không hiểu được sắc tướng của nam nữ thế gian và chính bản thân mình là từ năm Căn, bốn đại trong pháp hữu lậu sinh ra. Do duyên điên đảo bị đọa vào chỗ bất tịnh. Da, máu, thịt, tóc, lông, móng, răng vốn không tự có tướng, từ tham ái kết nghiệp phát sinh. Nhân duyên luân hồi lưu chuyển không dứt, quả khổ sinh tử không bao giờ ngừng nghỉ. Lửa nghiệp phiền não thiêu đốt thân tâm, ngày đêm chưa từng được an ổn. Ngu muội, lười biếng, buông thả thì không thích đạo Bồ-đề, quay lưng với Thánh đạo. Đối với tâm mình dơ bẩn không biết cầu trong sạch, thân thường ngông láo, tâm ý ngạo khinh, chê bai nhân quả, coi thường người hiền lành, đối với tướng không, rỗng và ảo mộng của pháp hữu vi thì không biết, không hiểu, đó là các loài hữu tình vô trí, ở trong biển sinh tử không hạn kỳ. Này các Trưởng giả! Đối với những việc như vậy phải biết rõ nghĩa lý sâu xa, sắc tướng đẹp đẽ của nam nữ, tiền tài, quyến thuộc đều là giả duyên mà có, chỉ là sự tạm thời. Nên nhớ rằng, cái gì đã hưng thịnh rồi thì trở lại bị hủy diệt. Thân tướng và năm uẩn tánh vốn đều không, do các Nhân giả tạo mà thọ nhiều quả báo khác nhau. Như người trong mộng trải qua bao nhiêu là việc khi thức dậy tất cả đều là không, không có gì. Cho nên Đại Bồ-tát một lòng cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì đối với các sắc tướng phải tự biết nghĩa lý để thoát khỏi sự cấu nhiễm một cách nhẹ nhàng, trí tuệ được sáng suốt. Tuy phát đại nguyện vào trong các đường lãnh thọ nhiều loại thân, cũng chỉ vì giáo hóa chúng sinh chứ tâm không hề điên đảo. Cứ như thế, cho đến khắp các cõi ở mười phương, tùy ý thuận theo chúng sinh làm các sự nghiệp: Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, tìm cách tiếp nhận để làm lợi ích cho hữu tình. Bỏ nhà tà kiến vào chánh đạo, tu các hạnh thiện cùng hướng về Đại thừa, quyết đến Bồ-đề, thề nguyện không đầu hàng hay thoái lui.

Này thiện nam! Đại Bồ-tát vì cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà thân tâm thanh tịnh thì được bốn tổng trì (pháp, nghĩa, chú thuật, nhẫn Đà-la-ni). Đối với tên, câu nghĩa, ấn, nhẫn không được quên, cẩn thận xem xét tư duy để đạt được tự tánh chân thật của các pháp này. Đại Bồ-tát thân tâm thanh tịnh, đối với các hữu tình thì bình đẳng giáo hóa, không sinh tâm phân biệt hay thương ghét kẻ oán người thân. Đại Bồ-tát thân tâm thanh tịnh, không tham đắm vào các món ngon vật lạ của thế gian, nuôi dưỡng bằng niềm vui nghe pháp, sự an lạc khi vào thiền. Đại Bồ-tát thân tâm thanh tịnh, xem tất cả các pháp hữu vi ở thế gian đều có tướng sinh diệt, đều giả dối, ảo tưởng không chân thật. Đại Bồ-tát thân tâm thanh tịnh phải nuôi dưỡng cha mẹ, tôn kính thuận theo bậc sư trưởng, tiếp nhận sự dạy bảo, không có tâm khinh mạn. Đại Bồ-tát thân tâm thanh tịnh, sinh vào dòng họ cao quý, làm vua nước lớn, dùng chánh pháp giáo hóa muôn dân, chấm dứt tranh đấu. Đại Bồtát thân tâm thanh tịnh, tu hạnh ít ham muốn chỉ biết đủ, không tham tiếc và xa lánh kẻ chuyên mổ thịt nguy hại, không làm theo những luật lệ ác độc của hạng Chiên-đà-la, luôn tu hành phạm hạnh, cắt đứt tâm say đắm ái dục. Đại Bồ-tát thân tâm thanh tịnh, ngôn ngữ chân thật, không có giả dối, âm thanh rõ ràng, giúp mọi người nghe được vui vẻ, nói pháp như nguồn suối tuôn trào không dứt. Đại Bồtát thân tâm thanh tịnh, giỏi điều phục tham, sân, si… tâm đối với cái quả trong ba cõi không bị chấp trước, không xả bỏ hành trang pháp khổ (mười một pháp khổ của người xuất gia). Trí tuệ hiện ra tâm thường sáng rõ. Đại Bồ-tát thân tâm thanh tịnh, ngày đêm tu tập bốn Đẳng, sáu Độ, cho đến mãi mãi không chút mệt mỏi, đó là con đường để dứt bỏ tám vạn bốn ngàn phiền não, sinh ra các công đức. Đại Bồ-tát thân tâm thanh tịnh, không chấp giữ vào Bồ-đề, không nhàm chán sinh diệt, ở trong các pháp tâm luôn tự tại, hoặc nhập dòng lưu chuyển, hoặc chứng Niết-bàn. Đại Bồ-tát thân tâm thanh tịnh, đối với Đại thừa cao tột mà Phật đã nói, phải sinh lòng yêu thích sâu xa và cũng phải nhớ nghĩ kinh điển vi diệu của chư Phật thời quá khứ, giữ gìn không quên. Cũng có thể thay thế chư Phật giảng nói và chuyển bánh xe pháp, như con sông lớn chảy cuồn cuộn vô tận. Đại Bồ-tát thân tâm thanh tịnh thì xa lìa dua nịnh, kiêu mạn, ghen tị, thú dữ, trùng độc, hạnh Tất-xá-gia nên khởi tâm thương yêu mến hữu tình không cho phiền não tổn hại. Đại Bồ-tát thân tâm thanh tịnh, nếu không tham của cải riêng tư, chẳng màng đến ăn uống, không bỏ rơi người bần cùng nghèo khổ hay kẻ cô thân, được sinh vào nơi giàu có, đầy đủ tiền của, quyến thuộc sum vầy, thân tướng đẹp đẽ có oai đức lớn. Đại Bồ-tát thân tâm thanh tịnh, đối với tất cả vui sướng phải biết rõ, với tất cả khổ phải tìm cách giải thoát như: sinh, lão, bệnh, tử, thương yêu, chia ly, hay việc cố tránh né kẻ cừu thù, hoặc những việc muốn mà khó được… những khổ ấy hiện ra thì phải được hiểu rõ không để phiền não xúc chạm. Quán các hữu tình và xem sắc tướng như mộng như huyễn, không có kiên cố. Này các Trưởng giả! Theo chỗ nghe được nên nhận biết như vậy. Các đại Bồ-tát thân tâm thanh tịnh, biết rõ về bốn đại, năm uẩn, sắc thân trống không, hoàn toàn chẳng thật.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Trưởng giả Cự Lực và các vị Trưởng giả:

–Này thiện nam! Như vậy, Đại Bồ-tát ở trong sinh tử gieo duyên, kết thân, yêu mến hữu tình, hiện ra hình tướng nhưng không có mong cầu, trong nhiều cảnh giới đều xa lìa ái nhiễm. Thân tâm bình đẳng, không giữ, không bỏ, thường làm việc thiện để chúng sinh được lợi ích an vui, không bao giờ bỏ bê hay lười biếng. Mạng sống của Bồ-tát ở trong ba cõi tăng giảm tùy theo sự thay đổi an vui của chúng sinh, tuy muốn cho tất cả được tự chứng biết nghĩa lý nhưng tâm không vướng mắc vào đó, đối với các chúng sinh đều bình đẳng trước sau như một. Những thứ châu báu đẹp đẽ như: vàng, bạc, kho tàng, tiền của, lúa gạo, y phục, thức ăn nước uống, giường nằm, đồ ngồi, hương bột, hương thoa, tràng hoa, chuỗi ngọc, thể nữ, quyến thuộc cùng tất cả những thứ trang sức quý đẹp của thế gian và ngay cả sắc thân, mạng sống của mình, Đại Bồ-tát đều không luyến ái. Nếu có chúng sinh đến cầu xin những thứ: tiền tài, lúa gạo, vàng bạc, kho tàng, châu ngọc, quần áo, thức ăn, nước uống, giường chiếu, đồ ngồi, hương bột, hương thoa, chuỗi ngọc, tràng hoa, nam nữ, thể nữ, quyến thuộc nội ngoại, mạng sống sắc thân thì cũng sẵn sàng cho hết, chưa từng có tâm tham tiếc dù trong một khoảnh khắc nhỏ. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát từ lâu đã tự hiểu được tướng sinh diệt là không thật nên không vướng mắc vào. Đại Bồ-tát cũng vì muốn viên mãn sáu hạnh Ba-la-mật để đến bờ giác độ thoát chúng sinh xa lìa bến khổ, cho nên đối với cảnh tướng không thật là nguyên nhân của sự sinh diệt này, chỉ cầu xa lìa, tâm không chấp trước, không tham tiếc.

Này thiện nam! Nên biết Đại Bồ-tát luôn luôn sáng suốt tiến tới không chút lười biếng, tu hành sáu hạnh Ba-la-mật cao tột như vậy để mau chóng thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, là hoàn toàn phù hợp với chánh pháp của Như Lai, tâm không hề thoái chuyển.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì các Trưởng giả dùng kệ nói rõ nghĩa lý ấy một lần nữa:

Lành thay! Trưởng giả
Các ông nên biết Là bậc
Bồ-tát Với pháp sinh diệt.
Có nhiều thân tướng
Đủ loại mạng sống
Các thứ trang nghiêm
Thể nữ quyến thuộc.
Vì muốn viên mãn
Sáu Ba-la-mật
Chuyển hóa chúng sinh
Xa lìa bờ khổ.
Với những thứ này
Đều không tham ái
Này thiện nam tử
Vui vẻ lắng nghe.
Hành hạnh Bồ-tát
Phải siêng tu tập
Chớ để tham, sân
Phiền não trói buộc.
Đêm ngày xiết chặt
Chìm đắm ba nẻo
Không có dừng nghỉ
Này thiện nam tử!
Thân này giống như
Đồ chứa ăn uống
Khoảng trống trong ngoài
Thường nên trong sạch.
Chớ để nhập vào
Các thứ độc hại
Nếu có ăn uống
Xem các vị ngon.
Có làm tổn hại
Mạng sống sắc thân
Trong thân nếu có
Các tham, sân, si.
Thuốc độc phiền não
Xem các pháp vị
Chúng sinh ăn vào
Tổn hại pháp thân.
Cung với tuệ mạng
Này thiện nam tử
Tất cả chúng sinh
Từ trước đến nay.
Ít có trí tuệ
Như một đứa bé
Chỉ muốn uống sữa
Không hề thấy biết.
Có những cảnh tướng
Không thể phân biệt
Lỗi lầm sinh diệt
Do nhân ra quả.
Quả lại tạo nhân
Trí không hiện rõ
Tâm thường ngu tối
Chỉ tham ăn uống.
Bổ dưỡng bốn đại
Thường ở trong mộng
Mà không tỉnh biết
Gặp giáo pháp Phật.
Tâm không tu tập
Như người say nói
Lời không có nghĩa
Với cảnh năm dục.
Chẳng chịu xa lìa
Ngày đêm nghĩ bậy
Tăng dần khổ đau
Tích chứa buồn lo.
Thân tâm buông thả
Theo dòng sinh tử
Nhập biển sinh tử
Bồng bềnh trôi nổi.
Lãnh những nghiệp báo
Đói lạnh khốn khổ
Gầy ốm tiều tụy
Bờ giác còn xa.
Không thể giải thoát
Những chúng sinh này
Từ bấy lâu nay
Từ nơi chân tâm.
Cấu nhiễm che tối
Không thể thấu hiểu
Nên với cảnh ảo
Tham yêu vướng mắc.
Này các Trưởng giả
Phải biết thân mình
Nhờ nhân duyên thành
Không có chắc chắn.
Chỉ do sức nghiệp
Tạo ra gom lại
Sinh tử luân hồi
Lãnh các quả báo.
Xoay tròn nhiều kiếp
Không lúc giải thoát
Người trí tự xem
Tâm sâu chán bỏ.
Phàm phu mê muội
Không hiểu vô thường
Chấp ta chấp người
Ham vui quá độ.
Không gần bạn lành
Tự kết nghiệp duyên
Thân hoại mạng chung
Rơi vào địa ngục.
Luân chuyển ba cõi
Lãnh các khổ đau
Lửa lớn đốt thân
Không đất để tron.
Tâm bi chư Phật
Thương xót thế gian
Người không lòng tin
Cũng khó cứu giúp.
Người trí tự biết
Sắc thân ảo giả
Không có chân thật
Chỉ do nghiệp nhân.
Gom lại mà có
Các căn trần lớn
Gom tụ hòa hợp
Gọi tạm là thân.
Như bọt như bèo
Hoàn toàn vô thể
Máu mủ hư hoại
Chỗ nào yêu chấp.
Vì thế nên biết
Trong những thứ ấy
Đều xem không sạch
Sinh tâm chán lìa.
Siêng tu Thánh pháp
Đạt thân không hoại
Xa lìa các ác
Gần tri thức thiện.
Tin pháp cao tột
Tu hạnh Bồ-đề
Rộng tu phước tuệ
Sinh trong nước Phật.
Thân tâm an vui
Trong sáng không sợ
Dùng áo tốt đẹp
Và thức ăn ngon.
Giường chiếu, đồ ngồi
Vòng hoa chuỗi ngọc
Hương quý vô giá
Đủ loại vật dụng.
Chẳng thiếu thứ gì
Dùng tâm thanh tịnh
Vui vẻ cúng dường
Hiểu rõ, hổ thẹn.
Mong trừ nghiệp tội
Phước trí tăng trưởng
Người được như vậy
Trong trăm ngàn kiếp.
Với đạo Vô thượng
Phát sinh tin hiểu
Dần dần thấu biết
Thật tánh chân không.
Xưa nay vắng lặng
Như biển sâu thẳm
Không có tăng giảm
Khi gặp gió duyên.
Nước thành đợt sóng
Sóng tức là nước
Động tĩnh là một
Hiểu rõ như thế.
Trụ cảnh giới Phật
Không sinh nẻo ác
Chấm dứt luân hồi
Qua trăm ngàn ức.
Na-dũ-đa kiếp
Tâm địa sáng suốt
Tham, sân, si, mạn
Phiền não nghiệp nhân.
Mà không hiện hành
Các loại quả khổ
Tự nhiên không lãnh
Sắc thân chắc chắn.
Vô lượng thời gian
Vui vẻ sung sướng
Tâm không nghĩ xấu
Cũng không ảo tưởng.
Với cảnh điên đảo
Thường sinh suy nghĩ
Giỏi nói pháp yếu
Lợi ích chúng sinh.
Tự làm không bệnh
Người khác cũng không
Vui hợp điều thuận
An ổn vui đủ.
Tham nhập thiền định
Lìa các khổ buộc
Thường làm việc thiện
Bảo vệ chúng sinh.
Không tạo duyên ác
Gần gũi bậc trí
Ca tụng Như Lai
Pháp màu cao tột.
Cung kính khen ngợi
Vui mừng làm theo
Xem khắp thế gian
Sự tướng hữu vi.
Đều như huyễn mộng
Không chút chân thật
Hiểu rõ ăn uống
Sắc lực mạng sống.
Gốc khổ phiền não
Kẻ ngu không biết
Tham ái đắm nhiễm
Dù một khoảnh khắc.
Cũng không đoạn dứt
Mùi vị ăn uống
Làm tăng lỗi lầm
Bạn lành khuyên bảo.
Tâm không thêm tin
Gặp kẻ xấu ác
Thỏa mãn gần kề
Vào trong ngu si.
Không thể thấu biết
Các cảnh cõi trần
Ảo tưởng chìm đắm
Không kể ngày đêm.
Mê nhiều thú vui
Người trí xem nó
Sinh nhiều chán bỏ
Các cõi thế gian.
Sắc tướng huyễn hoặc
Rồi cũng suy tàn
Vợ, con, trai, gái
Quyến thuộc, nhân duyên.
Như người đi đường
Tạm thời gặp gỡ
Khi nhân duyên hết
Ân ái lìa xa.
Quyến luyến bên nhau
Dù ít cũng khó
Này các trưởng giả
Biết thân là ảo.
Ví như họa sĩ
Vẽ nhiều màu sắc
Đẹp xấu mà thành
Rồi cũng tan rã.
Lại như mùa đông
Nước đóng thành băng
Chắc cứng tạm thời
Cũng tan thành nước.
Vì sao như vậy?
Sắc tướng hư huyễn.
Thể tánh chẳng thật
Mà người ngu si
Theo cảnh sinh tham
Yêu thích vướng mắc.
Tâm đó điên đảo
Tạo nhân không thiện
Rơi vào ba nẻo
Lãnh đủ thứ khổ.
Trải qua nhiều kiếp
Không có đột ra
Nếu sinh trời, người
Cũng mê hoan lạc.
Do thân ảo này
Tạo ra nghiệp ác
Không có cùng tận
Người si như thế.
Thường bị trói buộc
Ma oán quấy phá
Vợ con, trai gái
Cha mẹ, quyến thuộc.
Trói buộc tâm lại
Không cho thoát khỏi
Thời gian ngày đêm
Vì bị ràng buộc.
Nhận lầm làm vui
Thật ra do khổ
Ba độc nhiễm vào
Tăng trưởng ngạo khinh.
Là người như vậy
Trái với duyên thiện
Trí tuệ không sinh
Việc làm không cùng.
Các bất luật nghi
Với nhiều quyến thuộc
Cha mẹ, vợ con
Tiền tài, thực phẩm.
Trong pháp sinh khổ
Tâm không chán đủ
Không nghĩ dứt ra
Tham nhiễm chấp ái.
Cầu nhiều của báu
Gom góp kho tàng
Mà thấy chúng sinh
Đói khổ nghèo hèn.
Lòng không thương cảm
Cứu giúp nguy khốn
Không hành chánh đạo
Nghĩ xấu càng nhiều.
Người trí chỉ dạy
Không chịu lắng nghe
Nên cứ xoay tròn
Này các Trưởng giả.
Sắc thân con người
Ví như cây lớn
Re, thân, lá, cành
Sum suê tỏa rộng.
Lâu không thấm nước
Đất cát khô cằn
Mặt trời thiêu đốt
Nhựa sống cạn kiệt.
Năm tháng chẳng lâu
Tất sẽ khô mục
Tất cả chúng sinh
Tráng niên sắc tốt.
Thân tướng đầy đủ
Tham đắm thế gian
Chạy theo năm dục
Gân, huyết suy hao.
Bệnh khổ xâm nhập
Hình dáng tiều tụy
Các căn tàn tạ
Không được lâu bền.
Cuối cùng mòn mất
Người si như thế
Mê đắm sắc thân
Tham nhiều của báu.
Không biết tội phước
Không nghĩ vô thường
Như cây khô mục
Không lâu gãy đổ.
Này các Trưởng giả
Xem thân ảo này
Và của cải kia
Vàng, bạc, lưu ly.
Chân châu, ma-ni
Xa cừ, mã não
San hô, hổ phách
Thể nó không thật.
Như bọt nước kia
Kẻ ngu mê tình
Tưởng là quý trọng
Càng tăng ham muốn.
Chánh niệm tạp loạn
Với pháp môn Phật
Không có hướng vào
Người trí hiểu biết.
Sắc thân, vật dụng
Tất cả đều như
Cảnh thấy trong mộng
Đều không tự tướng.
Phải giữ sáu căn
Khép kín năm dục
Gần kề Tam bảo
Hành hạnh sáu Độ.
Bỏ hết tham tiếc
Dứt tâm ái nhiễm
Xem các dục kia
Như ngọn lửa lớn.
Thiêu đốt chúng sinh
Phải hết sức sợ
Không nên quyến luyến.

*********

Phật bảo trưởng giả:

Các chúng sinh này
Ở trong Hiền kiếp
Gom chứa các pháp.
Là: tham, sân, si
Kiến, mạn, nghi, hối
Với các cảnh dục
Tiếp xúc đắm mê.
Suốt ngày lẫn đêm
Không bao giờ dứt
Chưa từng tu tập
Thiền định vắng lặng.
Nguồn khổ sinh tử
Cũng không xem xét
Không rõ thế gian
Là tướng sinh diệt.
Không có tự thể
Hoàn toàn là không
Chỉ do tham ái
Gom lại gieo trồng.
Mượn nhân duyên sinh
Hòa hợp mà có
Nhân duyên chấm dứt
Cuối cùng tan mất.
Do gốc vô minh
Lại sinh tham ái
Gốc ngọn liên tục
Như kiến bò quanh.
Với xuất thế gian
Trong lý chân thật
Chư Phật Bồ-tát
Cảnh giới thanh tịnh.
Không có chút tâm
Yêu thích hướng vào
Những người như vậy
Bị ngu si che.
Trong biển sinh tử
Bồng bềnh trôi nổi
Năm trần huyễn tướng
Tâm nhiều vướng mắc.
Say loạn điên đảo
Mãi không tỉnh biết
Nếu có chúng sinh
Căn lành thành thục.
Tự nhiên gần kề
Những tri thức thiện
Tâm thường tu tập
Hành hạnh nhị lợi.
Vơi các tăng thượng
Ta, người, chúng sinh
Có thể thuyết pháp
Phát tâm hiếm có.
Ưa thích cung kính
Không sinh cao ngạo
Với công đức Phật
Sâu xa vi diệu.
Cảnh không nghĩ bàn
Không nghi, không chê
Cũng không với những
Trong cảnh năm trần.
Giả dối mê đắm
Khởi lên tham ái
Không tạo nhiều tội
Nhân khổ sinh diệt.
Ngày đêm tinh cần
Suy nghĩ chắc thật
Tăng các thắng hạnh
Tập các pháp thí.
Thường vui đọc tụng
Kinh điển Đại thừa
Tâm không tà niệm
Không có tưởng khác.
Pháp thiền an vui
Phạm hạnh thanh tịnh
Nuôi lớn pháp thân
Và cho tuệ mạng.
Không như người si
Vướng mắc thế gian
Chỉ nghĩ ăn uống
Sắc thân, tài vật.
Vui đắm năm dục
Thường không chán bỏ
Không biết gốc khổ
Không cầu giải thoát.
Theo các ngoại đạo
Biết tà, nghĩ tà
Chánh niệm không sinh
Tuệ không chân thật.
Như nói ta có
Ao báu trong sạch
Nếu có chúng sinh
Vào trong tắm rửa.
Bơi lội vui đùa
Những người như vậy
Không lâu sẽ được
Sinh lên cõi trời.
Ngu si như thế
Chìm trong dị kiến
Không hiểu nhân quả
Tìm gỡ tà vọng.
Điên đảo chánh lý
Tu hạnh bất tịnh
Nhân ác, quả khổ
Không được giải thoát.
Này các Trưởng giả
Phải nên hiểu biết
Nhân quả thế gian
Hư giả hòa hợp.
Như tượng gỗ người
Sự nghiệp làm ra
Mà ở trong đó
Chớ sinh cao ngạo.
Kho tiền châu báu
Tôn vinh, phung phí
Như thấy cảnh mộng
Biết rồi là không.
Mà những người ngu
Không biết việc này
Sinh diệt biến đổi
Tánh vốn vắng lặng.
Đối với thế gian
Chấp là thường có
Vì lý do gì?
Vì do xưa nay.
Khởi tham, sân, si
Trói buộc không xả
Thuận, nghịch, vui, giận
Không có dừng nghỉ.
Oan gia cừu thù
Luôn luôn gặp nhau
Quyến thuộc rộng lớn
Tài sản phong phú.
Gần gũi thân cận
Cùng nhau vui chơi
Tham ái thêm lớn
Đó là nhân khổ.
Về sau bần cùng
Tài vật tiêu mất
Trái ngược, biệt ly
Buồn rầu khổ não.
Khởi nhiều tranh giành
Và kết oan gia
Đến tuổi quá già
Thêm nhiều loại khổ.
Hình sắc tiều tụy
Các căn suy yếu
Bạn lành quyến thuộc
Họ đều xa lánh.
Thanh niên trai tráng
Mê đắm năm dục
Không thích tu hành
Không nghĩ chán bỏ.
Già bệnh xâm nhập
Lo lắng buồn phiền
Thân hoại mạng chung
Đọa xuống địa ngục.
Ngưu đầu giam giữ
Đau khổ chua cay
Vô phương cứu giúp
Trải qua nhiều kiếp.
Địa ngục chấm dứt
Sinh làm ngạ quỷ
Đầu như núi lớn
Cổ nhỏ như kim.
Ăn uống không được
Chỉ da bọc xương
Nghiệp ngạ quỷ hết
Làm loài súc sinh.
Mang lông, vảy, cánh
Bơi lội, bay nhảy
Bị lưới bủa vây
Lần lượt tóm bắt.
Kinh sợ hoảng hốt
Trốn chạy không được
Roi gậy đập đánh
Trả nghiệp đời trước.
Nghiệp súc sinh hết
Hoặc sinh làm người
Nghèo đói xấu xa
Các căn không đủ.
Tiền của thiếu thốn
Quá nhiều bệnh khổ
Nếu sinh phú quý
Phước tuệ trái nghịch.
Tài sản có được
Không thể đem dùng
Hoặc nhiều sân hận
Tự tâm thường khổ.
Hoặc nhiễm bệnh nặng
Mà bị chết yểu
Quả báo như vậy
Do tham, sân, si.
Chỗ tạo tác đó
Như tằm kéo tơ
Tự trói buộc mình
Như con thiêu thân.
Bị lửa đốt cháy
Thân tâm khó chịu
Không có tạm ổn
Nghiệp ác liên tục.
Qua lại không yên
Vào ba đường ác
Như dạo xem vườn
Gặp nhiều đau khổ.
Tâm không hối tiếc
Không cầu giải thoát
Cũng không chán bỏ
Lãnh các tội báo.
Khó gắng khó nhẫn
Quạnh hiu tăm tối
Vào đúng lúc ấy
Không chút than vãn.
Cha mẹ, vợ con
Tất cả quyến thuộc
Không thể thế nhau
Duy chỉ chính mình.
Thọ nhiều chướng nạn
Từ khổ đến khổ
Không có chấm dứt
Nhân duyên như vậy.
Đều do chúng sinh
Vô thủy vô minh
Liên tục tạo ra
Tham, sân, kết sử.
Thân, khẩu, ý động
Tạo quá nhiều ác
Chưa hiểu hối trừ
Nghiệp nhân ba cõi.
Từng lúc lớn thêm
Này các Trưởng giả
Nếu có chúng sinh
Chí ưa vắng lặng.
Mong cầu xuất ly
Tâm với chỗ duyên
Nhiễm, tịnh bình đẳng
Tự nhiên sẽ được.
Nghiệp chướng tiêu dần
Xa lìa luân hồi
Ác báo lẫn lộn
Gặp chánh pháp Phật.
Tin vui tu tập
Dần dần điều phục
Các tham, sân, si
Cũng khéo xem xét.
Hiểu rõ sắc thân
Như mộng như ảo
Như chớp, như bọt
Rốt ráo tìm cầu.
Thấy chỗ không thật
Những người có trí
Phải biết như vậy
Xem xét kỹ càng.
Ta – pháp đều không
Gặp được chư Phật
Với pháp chân thiện
Tuần tự tu hành.
Hạnh Ba-la-mật
Tích tập vi diệu
Chánh pháp trên hết
Xả bỏ tánh phàm.
Thành dòng giống Thánh
Ví như hòn núi
Chứa đất mà thành
Lại như giọt nước.
Nhiểu dần đầy bình
Này thiện nam tử
Với Phật giáo thừa
Trọng lý chân thật.
Gắng nhẫn được vui
Với vị đạo đời
Không nên tham đắm
Bỏ pháp giả dối.
Chứng tánh chân thật
Lìa khổ sinh tử
Được vui không sợ
Thấu rõ sắc tướng.
Giống như bóng nắng
Thật tình ảo tưởng
Thể tánh không thực
Xem xét như vậy.
Tự tướng các pháp
Tâm khong điên đảo
Cuối cùng giải thoát
Tên ấy gọi là:
Tánh Bồ-tát thừa
Khéo được an vui
Tất cả chúng sinh
Theo hạnh của Phật.
Mỗi mỗi hạnh nguyện
Hiểu tu tùy thuận
Tâm không thoái chuyển
Luôn luôn tinh tấn.
Không hề bo bê
Mau chóng tu tập
Sáu Ba-la-mật
Tự làm bố thí.
Không mong đền đáp
Ba luân thí không
Hai duyên đều mất
Hoặc đến sau này.
Thảy đều không tiếc
Các căn giữ kỹ
Không phạm giới cấm
Oán cừu luôn gặp.
Cũng không báo trả
Đầu, giữa, cuối đêm
Mạnh mẽ tinh tấn
Lìa xa phiền não.
Dừng mọi tán loạn
Các phần thiện ác
Đủ sức nghĩ chọn
Thân nghiệp thanh tịnh.
Thường hành luật nghi
Giọng nói nhỏ nhẹ
Hòa vui tâm chúng
Sáu thức vắng lặng.
Dứt các giác quan
Đối với chư Phật
Cái có hơn hết
Pháp sâu vi diệu.
Có thể nhập vào
Dùng trí khéo léo
Thu nhận chúng sinh
Tùy căn cơ đó.
Tìm cách diễn nói
Đều khiến ngộ nhập
Pháp môn giải thoát.

Khi ấy, Trưởng giả Cự Lực cùng năm trăm Trưởng giả nghe pháp xong, tâm họ hết sức vui mừng, nhờ nghe pháp ấy nên đạt được pháp nhẫn sâu xa, được nhẫn hơn hết, được nhẫn không gì hơn, họ liền đứng dậy, đi quanh Phật ba vòng, đảnh lễ sát chân Phật, rồi đứng sang một bên. Trưởng giả Cự Lực và năm trăm vị Trưởng giả cùng lúc bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Từ trước đến giờ, chúng con chưa từng được nghe pháp sâu xa vi diệu này. Hôm nay, chúng con được gặp Đấng Vô Thượng Giác, là người đầy đủ Nhất thiết trí, là người ban bố pháp lớn cho khắp thế gian. Chúng con được nghe diệu pháp như vậy nên mới hiểu rõ, các pháp ở thế gian chỉ là sự tạo lập giả hợp, như huyễn mộng… cuối cùng cũng chỉ là không. Chúng con đều tự thấu hiểu và được nhập vào pháp Nhẫn vô sinh, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chúng con nguyện vào vị lai cũng sẽ như Đức Thế Ton ngày hôm nay, có thể ở trong vô lượng đại chúng, người, trời cất tiếng gầm của sư tử, hiện rõ ràng lời nói pháp cao đẹp trong sạch, làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh.

Bạch Thế Tôn! Chúng con rất vui muốn nói kệ khen ngợi Đức Như Lai, xin Như Lai cho phép. Nói rồi họ đứng trước Phật nói kệ:

Tướng sắc vàng vi diệu
Hơn hết không gì bằng
Dùng âm thanh dịu dàng
Ca ngợi nghĩa chân thật.
Đã tu hạnh Bồ-tát
Mạng sống không thể lường
Tất cả các chúng sinh
Thấy nghe đều vui vẻ.
Gom công đức thanh tịnh
An vui nơi đạo tràng
Ví như vua mặt trời
Luôn đứng chỗ hư không.
Đều do thời xa xưa
Làm bố thí rộng lớn
Như: vàng, bạc, châu báu
Voi, ngựa và xe cộ.
Cả đầu, mắt, tủy não
Nào thành nước, vợ con
Làm những việc khó làm
Bố thí được viên mãn.
Nên dùng sức bản nguyện
Hiện ra thân biến hóa
Lâu dài không gián đoạn
Vượt qua vô số kiếp.
Đại Bi không nghĩ bàn
Thương mến các chúng sinh
Ban phát pháp cam lồ
Trừ não sẽ được trong.
Chúng con từ nhiều kiếp
Lưu chuyển trong nhiều cõi
Tham ái với tài sản
Và vợ con, quyến thuộc.
Ít phước không trí tuệ
Không phát tâm Bồ-đề
Đắm chìm nơi danh vọng
Cùng năm dục vui thú.
Chúng con nhờ phước cũ
May mắn gặp Thế Tôn
Nghe nghĩa vi diệu này
Biết rõ pháp không thật.
Tất cả được giải thoát
Tâm mọi người an ổn
Xin Phật cho chúng con
Xuất gia làm Sa-môn.
Nguyện hết thảy chúng sinh
Thấu biết pháp môn này
Không ham vui thế gian
Mau thành đạo Bồ-đề.

Trưởng giả Cự Lực và các vị Trưởng giả nói kệ xong, mỗi người thành kính đảnh lễ Đức Phật, xin xuất gia. Đức Phật đồng ý.

Bấy giờ, Đức Phật ngồi trên tòa mỉm cười vui vẻ, dùng sức oai đức hiện bày thần thông lớn. Tren khuôn mặt Đức Phật hiện ra vô số hào quang, gồm đủ loại màu sắc, giống như ánh sáng của các loại châu báu phản chiếu nhau, nào là màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu xanh lá cây, màu tím, màu ngọc pha lê, màu vàng ròng. Ánh hào quang ấy phóng ra chiếu khắp vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ thế giới không thể nghĩ bàn. Lên đến thế giới Phạm thiên, chỗ có ánh sáng của mặt trời, mặt trăng và ánh sáng của thân chư Thiên, tất cả đều bị che phủ không hiện ra được. Ánh hào quang chỉ chiếu sáng một nơi như thế, tất cả chúng sinh đều tiếp xúc được, không ai là không vui. Nghiệp ác, tội chướng của chúng sinh đều được tiêu trừ. Người mù có thể thấy, người điếc có thể nghe, người què có thể đi, người câm có thể nói, người đói có thể no đầy, người không có quần áo được quần áo. Hữu tình được tháo bỏ gông cùm nơi lao ngục, không có các ác, cảnh Thánh hiện ra trước mắt.

Khi ấy, trong chúng hội lớn của trời, người, ai ai thân ý cũng vui vẻ kỳ lạ chưa từng có, cùng thốt lên: “Vì nhân duyên gì mà hiện tướng này?” Mọi người phát tâm đứng dậy, nhiễu quanh Phật trăm ngàn vòng, cung kính lễ bái, cúng dường, khen ngợi rồi lui ra đứng một bên. Lúc này, từ trong chúng hội, Tôn giả A-nan bày vai bên phải, gối phải quỳ xuống đất, cúi mình cung kính bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Thế Tôn hiện tướng kỳ lạ đẹp đẽ ấy? Tất cả chúng hội đều có sự nghi ngờ, ai ai cũng bảo: “Đức Thế Tôn khi mỉm cười là luôn luôn có nhân duyên.” Hôm nay, Như Lai hiện tướng lạ này chắc có nguyên nhân. Cúi xin Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đại Từ, đại Bi vì chúng con mà giảng nói. Đức Thế Tôn luôn tự trang nghiêm, giảng nói đủ các loại việc thiện. Chúng con rất vui muốn được nghe.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan:

–Hôm nay Như Lai hiện tướng đẹp đẽ này vì nhằm giảng nói cho Trưởng giả Cự Lực cùng năm trăm Trưởng giả, để họ tự thấu hiểu pháp Nhẫn vô sinh, mà phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tuần tự hội đủ nhân duyên rồi sẽ thành Phật. Này Tôn giả Anan! Hãy lắng nghe! Các vị Trưởng giả này đã ở trong vô lượng trăm ngàn kiếp thời quá khứ, chỗ của chư Phật, mỗi người đều được gần kề cung kính cúng dường lễ bái, tôn trọng khen ngợi, được nghe pháp nghĩa chân thật cao tột như vậy, nên tiêu trừ nghiệp chướng, xa lìa ba nẻo khổ. Với trăm ngàn kiếp thường sinh vào cõi người, cõi trời và lãnh thọ pháp vui cao đẹp hơn hết, cho đến nay họ được tài sản giàu có đồ sộ, có nhiều quyến thuộc, phước tuệ tôn nghiêm, được mọi người yêu kính. Tất cả đều do đời trước có sức gieo trồng căn lành. Nay đến đời của ta, họ lại được nghe nghĩa pháp sâu xa. Này Tôn giả A-nan! Trưởng giả Cự Lực và các vị trưởng giả kia, vào đời vị lai họ sẽ gặp Di-lặc Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác. Khi gặp vị Phật ấy, họ lại nghe được diệu pháp Đại thừa thanh tịnh, có thể khéo léo tinh tấn tu tập hạnh bố thí, đó là hạnh đầu tiên trong sáu Ba-la-mật, có thể ở trong mười phương gần kề lễ bái, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi vô lượng chư Phật, cũng có thể gặp được chư Phật trong Hiền kiếp. Phật Thế Tôn đó cũng lại giảng nói pháp nghĩa Đại thừa vi diệu. Họ nghe rồi lãnh thọ và vì mọi người, họ lần lượt diễn nói, chỉ dạy cái lợi, cái vui cho vô lượng chúng sinh. Này Tôn giả A-nan! Trưởng giả Cự Lực sau khi trải qua năm ngàn kiếp, sẽ sinh vào các cõi nước của Phật, tu hành nhiều cách, gặp được nhiều vị Phật, làm những việc cúng dường nhưng không thấy mình làm. Sau cùng, thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tất cả đồng một hiệu là: Cát Tường Tạng gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật – Bạc-già-phạm. Cõi nước được trang nghiêm, an ổn, thịnh vượng vui vẻ, chánh pháp, tượng pháp trải qua rất nhiều đời, tất cả đều đồng đẳng, thuyết pháp cứu độ chúng sinh không thể tính đếm.

Khi ấy, Tôn giả A-nan và đại chúng trời, người nghe Phật, Thế Tôn khéo giảng nói pháp nghĩa vi diệu như vậy, tất cả liền ca ngợi cùng bạch với Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Kinh này nên đặt tên gì? Chúng con lãnh thọ và gìn giữ như thế nào?

Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Kinh này đặt tên là “Kinh Trưởng giả Cự Lực hỏi về Đại thừa.” Các ông cứ theo đó thọ trì.

Phật thuyết giảng kinh xong, Tôn giả A-nan cùng các Bồ-tát, Tỳ-kheo và Trưởng giả Cự Lực và các chúng Trời, Người, A-tu-la, Càn-thát-bà ở thế gian nghe Phật giảng nói đều rất vui mừng, một lòng tin nhận tu hành.