KINH A-NAN TỨ SỰ
Hán dịch: Đời Ngô, cư sĩ Chi Khiêm, người Nguyệt Chi
Việt dịch: Tì-kheo Thích Bửu Hà
Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời, Đức Phật an trú tại nước Câu-di-na-kiệt. Lúc Đức Phật sắp diệt độ, thầy A-nan thưa:
– Bạch Thế Tôn! Con nghĩ các trời, rồng, quỉ, thần, vua và nhân dân gặp Phật, nghe Phật dạy bảo không ai mà không hoan hỉ. Trong các chúng ấy, có người chí nguyện làm sa-môn thì đạt được Ứng chân[1]; hoặc có người chí nguyện làm cư sĩ tại gia vâng hành năm giới, thì khi chết được sinh lên cõi trời. Nhưng nay Thế Tôn diệt độ, các hàng trời, rồng, quỉ, thần, vua và nhân dân, cùng bốn chúng[2] đệ tử phải nương tựa vào đâu để được phúc và được độ? Lại phải theo ai để được độ thoát?
Đức Phật dạy:
– Hay thay, A-nan! Thầy thật có lòng từ rộng lớn, thương xót tất cả. Trời, người đều nhờ thầy mà được độ thoát. Sau khi Ta diệt độ, gặp đời năm trược[3], lòng người mê muội, xấu xa hỗn loạn, lại nhiều kẻ điên đảo, khinh thiện trọng ác, thật đáng lo buồn! Mặc dầu đời như vậy, nhưng Thế Tôn có kinh giáo và giới pháp khẩn thiết, nếu hết lòng tuân hành thì phúc đức tự đến với mình, thầy chớ lo buồn. Tuy Thế tôn diệt độ, nhưng kinh điển vẫn tiếp tục tồn tại, đại pháp sáu độ[4] Thế Tôn không mang theo, hành giả được độ thoát chẳng phải thần thánh ban cho, các ông không hiểu lời dạy của Thế Tôn sao?
Thầy A-nan liền thưa:
– Bạch Thế Tôn! Xin Ngài dạy lại điều đó.
Đức Phật dạy:
– Đại pháp này có bốn việc cần phải thực hành, từ đó dẫn đến được phúc, được đạo và phúc ấy ngang bằng phúc hầu hạ cúng dường thân Phật.
Thầy A-nan lại thưa:
– Bạch Thế Tôn! Xin Ngài giải thích bốn việc ấy cho chúng con.
Đức Phật dạy:
– Việc thứ nhất: Phải dùng lòng từ nuôi dưỡng kẻ nhỏ tuổi yếu đuối, thấy cầm thú, con trùng, kẻ kém hèn, người đi xin, thì phải thương xót, ban cho chúng thức ăn uống thích hợp để chúng được no đủ, không được dùng đao gậy làm thương tổn và đoạn tính mệnh của chúng, lòng từ thương xót phải như cha mẹ thương con. Trời, rồng, quỉ, thần, vua và nhân dân, nếu thực hành lòng từ này thì phúc lớn ấy ngang bằng với công đức hầu hạ thân Phật.
– Việc thứ hai: Thế gian hay xảy ra nhiều tại họa, như nước lụt, hạn hán, thời tiết bất hòa, ngũ cốc không tươi tốt, nhân dân bị đói kém mất mùa, không ở yên nơi quê hương bản quán, lòng muốn trốn sang nơi khác. Vua và thần dân có nhiều kho lúa gạo nên nhớ nghĩ vô thường, thân mạng khó giữ, chớ tham tiếc ngũ cốc, biết quí trọng mạng người, khởi lòng từ bi, xuất lúa gạo cấp cho người nghèo thiếu để cứu mạng sống và giúp họ ở yên nơi bản địa.
Nếu tham lam, bỏn sẻn, không muốn bố thí thì phải xét kĩ: “Khi con người mới sinh ra, thần hồn từ hư không đến, nương vào khí tình dục của cha mẹ để tạo thành thân. Ở trong bụng mẹ mười tháng mới sinh ra, nếu cha mẹ vui mừng thì có thể bảo toàn thân mệnh; nếu gặp lúc buồn giận thì liền bị đoạn tuyệt, khốn khổ đến cùng cực mà chết, nhưng thần hồn vẫn không mất đi mà lại tiếp tục tìm kiếm thân khác. Giàu sang, nghèo hèn đều do hành nghiệp đời trước. Quan tước, bỗng lộc, quốc độ, trân bảo, không làm mê hoặc mà phá hoại đức cao. Khi tuổi thọ hết, thân và trân bảo chắc chắn ở lại thế gian, không đi theo mình. Vì thế phải luôn khởi từ tâm, tu tập theo lời kinh dạy. Lại dùng giáo pháp sáng suốt của Phật quán chiếu người và vật như huyễn, như hóa, như mộng, như tiếng vang, tất cả đều không, không thể bền lâu. Quán chiếu thế gian đều như vậy, đó là chân đế. Người đời ngu muội, tâm tưởng điên đảo, tự dối tự lầm, giống như đem vàng đổi lấy đồng. Lúc thân chết, hồn đi, sẽ đọa ba đường[5]”. Suy xét kĩ như vậy rồi, phải khẩn cấp bố thí, chạy đua với thân mệnh, kẻ xin ăn nghèo cùng, người già bệnh tật, tùy những món cần dùng mà chu cấp, chớ để họ mất mạng. Giữ vững tâm như vậy, thì mười phương chư Phật, các vị bồ-tát, trời, rồng, quỉ, thần đều thương xót. Đến lúc tuổi thọ chấm dứt, thần hồn sinh vào nơi đâu cũng được giàu sang, thân tâm an ổn, không gặp tai họa, đạt được nguyện lớn, phúc ngang với phúc cúng dường thân Phật lúc còn tại thế, không khác.
– Việc thứ ba: Trong nước có nhiều trộm cướp, tai họa lửa nước, biến sinh khí độc, lan truyền bệnh tật khắp nơi đều do long thần, quỉ vương trong biển gây ra. Người mắc phải khí độc này sẽ bệnh nặng, ưu sầu phiền não. Các quỉ vương, long thần này đều do người đời tạo nên. Những loài bị chết vì săn bắn, mổ giết, lưới giăng, trúng độc thì thần hồn của chúng hoặc đọa làm rồng trong biển, hoặc làm loài có sức mạnh biến hóa thần kì, biết được sinh mệnh đời trước, oán hận bởi thù xưa, nên giăng mây mù, nhả khí độc xuống đất nước ấy. Lúc ấy, nhân dân có người bị trúng độc chết, hoặc bị bệnh, hoặc bị lây nhiễm. Tất cả tai họa ấy đều do người đời gây ra. Bất nhân giết hại sinh mệnh loài vật thì oán kết xoay vần. Trong đó, người nào tự tay giết hại thì bị trúng độc chết ngay, người trợ vui việc giết hại ấy thì bị bệnh tật, khốn cùng; hoặc lây nhiễm, hay không bị lây nhiễm. Tất cả đều do ăn thịt, mà có hiện tướng phân biệt, hoặc không có hiện tướng để phân biệt.
Người thông minh biết rõ tội sát sinh truy đuổi theo người mãi không buông, lấy mình suy ra người thì giống nhau không khác. Như vậy, cung kính thực hành theo đạo lớn của Phật, tu tập bốn tâm bình đẳng từ, bi, hỉ, xả thì phước báo tự đến với mình. Nếu người khác giết hại rồi lấy thịt cho mình thì chớ có ăn. Người không ăn thịt, tuy ở trong đời ác, trộm cướp, tai biến, khí hậu độc hại nhưng không bị lây nhiễm. Vua và thần dân giàu có, ngũ cốc sung túc thì nên chu cấp thuốc thang, cơm cháo, nơi nghĩ dưỡng cho những người quan quả[6], ăn mặc không đủ, bệnh tật khốn khổ, không tự nuôi sống, giúp họ lành bệnh, không bị chết uổng. Phải biết rõ những người này đời trước làm ác, không tin Tam Bảo, bỏ chính theo tà, tham lam bỏn sẻn cùng cực, nên mới như vậy. Cho nên biết, tội phúc rõ ràng, chớ làm việc ác, cũng phải khởi tâm từ, dùng Phật pháp khuyên bảo người ngu si thụ trì kinh đạo. Nếu cứu giúp một người lành bệnh, chỉ cho họ con đường thiện, giúp họ giữ năm giới, trọn đời thanh khiết, thì phúc đức ấy ngang bằng với hầu hạ thân Phật không khác.
– Việc thứ tư: Ở đời có những bậc chí tiết cao thượng, thanh khiết không ham muốn. Còn như sa-môn, Phạm chí trong lòng chỉ nhớ nghĩ kinh điển, lời nói ra chính là pháp là luật, thì vua quan và nhân dân cung kính, đến nhận lãnh giới pháp. Những điều nói ra của các cao sĩ[7] này đều là kinh điển của chư Phật, khiến người bỏ ác trở về thiện, ân ấy lớn hơn ân cha mẹ gấp trăm lần, giúp người sau khi chết không đọa vào ba đường, vì thế phải khởi từ tâm cung kính họ. Thà chịu rót đồng sôi vào miệng, lấy dao bén cắt lưỡi, chứ không bao giờ hủy báng những người thanh khiết như vậy! Thà tự chặt tay mình, chứ không gây đau đớn cho những bậc ấy! Thà tự mổ bụng moi tim ra đốt, chứ không bao giờ giận dữ những vị này! Giả sử người ngu gặp kinh giáo của Phật, biết rõ điều nên bỏ nên lấy, từ đó tránh xa bọn ngu muội đần độn, gần gũi người hiền thiện, thụ học thánh điển mà trở thành bậc có đức hạnh cao vời.
Sa-môn, Phạm chí không nên mua bán cầu lợi mà làm cho mình xấu xa. Tâm và hạnh trong sáng như ngọc minh nguyệt[8]; ôm giữ bình bát, nhọc thân khất thực, nhận vừa đủ dùng, không nên cất giữ. Hoặc ở trong chùa viện, núi rừng, đầm vắng, gốc cây, nghĩa địa đều biết sinh mạng đời trước, phân biệt chân ngụy, trứ tác kinh sách, làm cây cầu cho chúng sinh, khởi tâm từ thương xót, trong mọi oai nghi đều chú nguyện cho vua quan và nhân dân, khiến đất nước bình yên. Bậc cao sĩ như vậy, đức hạnh cảm hóa trời rồng, quỉ thần động lòng trắc ẩn. Lại nữa, là sa-môn thì không tham dự việc đời, không bị lầm lỗi bởi tình dục, sở kiến đáng ngợi khen. Nếu vua quan và nhân dân có trí thì phải tìm cầu, cúng dường vị này áo mặc, thức ăn, giường nằm, thuốc men để họ an ổn giảng nói kinh giới, dạy dỗ, hướng dẫn ngồi thiền niệm định, để nhờ đây mà họ có thể đắc đạo, hoặc sau khi chết được sinh lên cõi trời. Cung cấp ăn mặc cho người xấu trong cả nước không bằng thành tâm cúng dường một bậc đạo sĩ thanh tịnh. Phúc ấy rộng lớn ngang bằng với phúc cúng dường thân Phật lúc còn tại thế.
Nếu vua quan và nhân dân gần gũi những bậc cao sĩ này, thì trời, rồng, quỉ thần đều vui mừng giúp đỡ bảo vệ.
Đức Phật lại bảo A-nan:
– Này A-nan! Đời trước Thế Tôn thực hành bốn việc này mà nối tiếp được phúc cho đến khi thành Phật. Vì lẽ đó nên Như Lai nói lại cho các ông nghe!
– Này A-nan! Thầy nên giảng nói bốn việc này cho các hàng trời, vua quan và nhân dân. Làm điều thiện thì tự được phúc, trọn không luống mất. Nay Thế Tôn sắp diệt độ, nên phó chúc cho thầy.
Thầy A-nan nghe xong, buồn vui lẫn lộn, đến trước Thế Tôn cúi đầu đảnh lễ rồi lui về.
CHÚ THÍCH:
[1] Ứng chân 應真: Quả Thánh cao nhất của Phật giáo nguyên thủy, bậc tu hành đã không còn phiền não, mê lầm, đã thoát khỏi cảnh sinh tử luân hồi, xứng đáng để cho thế gian tôn sùng.
[2] Bốn chúng 四輩: Tì-kheo, tì-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di.
[3] Năm trược 五濁: Năm thứ cặn đục nổi lên trong kiếp giảm. Đó là: Kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược và mệnh trược.
[4] Sáu độ 六度: Sáu hạnh rốt ráo mà bồ-tát đại thừa cần phải thực hiện để hoàn thành lí tưởng đạt đến quả Phật. Đó là: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.
[5] Ba đường 三塗: Địa ngục, ngã quỉ và súc sinh.
[6] Quan quả 鰥寡: Người đàn ông goá vợ và người đàn bà goá chồng.
[7] Cao sĩ 高士: Người có học và đức hạnh hơn người.
[8] Ngọc minh nguyệt明月珠: Vì ánh sáng của ngọc này như trăng sáng nên gọi là ngọc minh nguyệt.