KHAI THỊ QUYỂN VI 

Hòa Thượng Tuyên Hóa
Ban Phiên Dịch Kinh Điển
Trường Đại Học Pháp Giới
Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới
Vạn Phật Thánh Thành

 

1. Phật Quang Phổ Chiếu

Phật quang phổ chiếu là ánh sáng trí huệ Phật, chiếu tỏa đến tất cả tâm chúng sanh. Là chiếu cho tâm chúng sanh sáng lên, để tiêu diệt hết tham sân si. Là chiếu cho đen tối trở thành trong sáng, để tiêu trừ tám vạn bốn ngàn tập khí, thói hư tật xấu. Chúng ta học Phật là trừ bỏ tham sân si và không còn chấp trước. Vì sao chúng ta không thấy được ánh sáng Phật? Chúng ta nghiên cứu Phật pháp để khai mở trí huệ, vậy đó không phải là được ánh sáng của Phật sao? Nếu chúng ta càng nghiên cứu mà lại càng hồ đồ và cũng không hiểu đạo lý chân chánh của Phật, đó là bởi chúng ta không chịu diệt trừ tập khí, chứ đừng hỏi, sao Phật quang không phổ chiếu? Tự mình không khai mở trí huệ, tham sân si hãy còn y nguyên, không chịu sửa đổi chút nào, cho nên Phật quang muốn chiếu cũng không có chỗ để chiếu.

Đây không phải có Phật quang chiếu hay không chiếu. Chính là chiếu mà không chiếu, không chiếu mà chiếu, nghĩa là: khi ánh sáng trí huệ của chính mình xuất hiện, thì Phật quang phổ chiếu. Còn như ánh sáng trí huệ của mình không xuất hiện, thì Phật quang không phổ chiếu.

Phật quang ví như công ty điện lực. Như trong nhà chúng ta có trang bị một hệ thống điện lực gồm dây điện, đèn điện, tất cả đều được nối thông với nhau. Nhưng nếu chúng ta không bấm nút điện, bóng đèn sẽ không chiếu sáng và trong phòng rốt cuộc vẫn còn bị tối đen. Vì sao? Bởi điện không thông tới nên không có tác dụng gì. Bởi vậy chúng ta cần phải bấm nút điện. Một khi bấm nút, đèn sẽ lập tức chiếu sáng đến những nơi đen tối ngay. Tâm chúng sanh chúng ta cũng ví như nút bấm. Nếu chúng ta bấm nút khai mở tâm, thì Phật quang sẽ chiếu sáng vào. Nếu cửa tâm không mở, dù ánh sáng Phật có chiếu, cũng chiếu không đến. Thí dụ nầy tuy cạn cợt, nhưng lý lẽ của nó là giống như thế. Quý vị! Hãy mau khai mở cửa tâm ra, hầu tiếp nhận ánh sáng trí huệ của Phật soi chiếu vào. Như thế là quý vị được Phật quang phổ chiếu rồi đó.

Giảng ngày 4 tháng 7 năm 1980

2. Chìa Khóa Khai Ngộ

Con người làm sao mới được khai ngộ? Khai ngộ ví như mở ổ khóa. Ống khóa dùng để khóa cửa nhà lại, ngăn cản không cho quý vị ra vào. Cho nên quý vị nhất định phải có chìa khóa mới mở cửa được. Nếu không, quý vị sẽ bị nhốt trong nhà vĩnh viễn. Thế thì chìa khóa nầy ở đâu? Nó ở ngay trong thân thể quý vị đó, cũng dễ tìm lắm thôi. Vậy phải tìm nó như thế nào? Đang khi quý vị ngồi thiền, niệm Phật, trì Chú tức là lúc quý vị tìm kiếm chìa khóa. Vậy bao giờ mới tìm được nó đây? Chuyện nầy phải xem trình độ tu hành của quý vị mới định chừng được. Nếu ai tinh tấn thì tìm ra nó rất mau. Còn nếu người nào giải đãi thì sẽ không bao giờ tìm nó được, chẳng những đời nầy không tìm ra, mà ngay cả đời sau cũng không tìm ra nó đâu. Đạo lý nầy cũng rất đơn giản thôi.

Trong tâm quý vị mà đã bị khóa thì tâm bị khóa đó là vô minh, nó có thể làm cho tâm thanh tịnh sáng suốt của quý vị biến thành tâm ô nhiễm hắc ám. Khi gặp cảnh đến, nếu quý vị không có trí huệ để phán xét phân biệt giữa thiện và ác, quý vị sẽ làm những việc điên điên, đảo đảo. Nhưng nếu quý vị tu hành đắc lực, quý vị sẽ phá vỡ được vô minh. Đó tức là tìm được chìa khóa, tâm bị khóa tự nhiên sẽ khai mở ra. Sau khi trí huệ quang minh xuất hiện rồi, dù gặp bất cứ việc gì đi nữa, quý vị cũng không có phiền não.

Vô minh là gì? Nói đơn giản là hắc ám đen tối, cái gì cũng không rõ biết. Bởi người không hiểu rõ chân lý mới khóa tâm lại, vì vậy không thể khai ngộ được. Vào đời Đường, thời Tông Đế có vị thái giám tên Ngư Triều Ân. Thái Giám đã hỏi Quốc sư: “Vô minh là gì?” Quốc sư nói: “Ông chỉ là một tên tướng mọn nô tài thì có tư cách gì để hỏi Phật Pháp chớ?” Vừa nghe thế, vị thái giám liền nổi giận đùng đùng. Quốc sư bèn cười và nói: “Đó tức là vô minh, phải không?” Cho nên nói: “Lửa vô minh có thể thiêu hủy cả rừng công đức” là vậy.

Người mà có đủ điều kiện để ngày nay khai ngộ, chính là vì từ nhiều kiếp trước, họ đã từng tu biết bao nhân lành rồi, cho nên đời nầy họ mới được thành tựu. Nếu như lúc trước họ không tu nhiều nhân lành, đời nầy họ sẽ không thể nào khai ngộ được. Quý vị đều muốn khai ngộ, phải không? Trước hết, quý vị nhất định phải biết chuẩn bị tu hành, chỉ như vậy mới có hy vọng khai ngộ được.

Vì sao Đức Phật Thích Ca được thành Phật ở đời nầy? Bởi Ngài “Tam kỳ tu phước huệ, bách kiếp chủng tướng hảo,” là Ngài đã tu phước, tu huệ trong ba đại A Tăng Kỳ kiếp, lại tu ba mươi hai tướng công đức, cùng trồng tám mươi vẻ đẹp trong trăm đại kiếp. Do đó, Ngài ngồi dưới cội bồ đề, đến giữa đêm nhìn lên sao sáng mà khai ngộ. Nếu như những kiếp trước Ngài không tu, thì đời nầy Ngài sẽ không thể thành Phật được.

Giảng ngày 12 tháng 7 năm 1980

3. Ai Niệm Phật?

Bây giờ là lúc để chúng ta thảo luận. Vậy ai có vấn đề gì thì cứ việc nêu ra để mọi người cùng nhau nghiên cứu, bàn luận. Có người hỏi về câu “Ai niệm Phật” là sao? Như trong kinh Kim Cang nói: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Cho nên nếu có chỗ thì đó tức là trụ, còn không có chỗ trụ là không nghĩ thiện, không nghĩ ác, là ngay chỗ đó mà dụng công. Nếu chúng ta chú ý vào một chỗ nào, rồi nghĩ đến tốt hay không tốt thì đó đều là chấp trước. Tu hành là tu đến chỗ không còn chỗ chấp, cái gì cũng không chấp, thân thể cũng quên luôn. Đến cả thân thể cũng không có, vậy còn chấp vào cái gì nữa?

Lúc tọa thiền, chúng ta không nên nghĩ nhớ đến bất cứ điều gì, mà chỉ cần nhớ “Ai niệm Phật?” Ai là người đang niệm Phật? Tức là tìm cái “Ai” nầy. Chừng nào tìm được “Ai” rồi, thì đó là lúc khai ngộ. Nếu tìm không được thì một ngày cũng phải tìm, mười ngày cũng phải tìm, trăm ngày cũng phải tìm, ngàn ngày cũng phải tìm, vạn ngày cũng phải tìm, một năm, mười năm, trăm năm, ngàn năm, vạn năm, đều chỉ là tìm nó. Cho đến lúc nào tìm được nó, lúc đó mới thôi.

Quý vị đừng mong cho mau, vì đây không giống như hút thuốc phiện, hễ hút xong là thoả mãn cơn ghiền. Nó đâu có dễ như vậy! Vì nếu dễ thì là pháp môn lừa dối. Pháp môn tu chân chánh là phải chính mình nỗ lực dụng công. Không nên có ý nghĩ như anh nông phu vì muốn giúp cho lúa mau lớn, anh bèn kéo cây lúa cao lên một chút, để chúng cũng lớn mau thêm một chút. Đó là tư tưởng sai lầm!

Câu “Ai niệm Phật?” có thể chặt đứt tất cả các vọng tưởng, các dục niệm, là chém giết hết cả mười đại quân ma. Chữ “Ai” nầy là thanh bảo kiếm Kim Cang Vương, cái gì nó cũng chém sạch hết, cho đến không còn chỗ nào để chấp cả. “Phàm những gì có hình tướng thì đều là hư vọng. Nếu người nào thấy tất cả hình tướng là phi tướng tức là thấy được Như Lai.” Còn có chỗ chấp thì đó là tâm người, tâm chúng sanh. Không có chỗ chấp thì là tâm đạo. Khi chúng ta ngồi thiền mà không nghĩ đến chữ “Ai” nầy, vọng tưởng sẽ phát sanh nên không thể khai ngộ được. Dùng câu thoại đầu nầy khi tham thiền là lấy độc công độc, dùng vọng tưởng khống chế vọng tưởng, cũng là dùng một vọng tưởng để điều phục nhiều thứ vọng tưởng. Chúng ta dùng nó mãi cho đến khi sơn cùng thủy tận, không còn đường nào để đi thì chính chỗ chuyển thân quay mình đó sẽ khai ngộ.

Giảng ngày 9 tháng 9 năm 1980

 

4. Không Chấp Tất Cả

Trên thế giới nầy, bất luận tốt hay xấu cũng đều dạy người ta khai ngộ. Tốt là dạy chúng ta giác ngộ từ chỗ tốt; xấu là dạy chúng ta giác ngộ từ chỗ xấu. Tốt và xấu đều có thể làm cho chúng ta giác ngộ cả. Nếu ta có thể giác ngộ cả từ tốt và xấu thì sẽ không có vấn đề gì. Còn nếu không giác ngộ ở cái tốt, chúng ta sẽ chấp vào cái tốt nầy. Nếu không giác ngộ ở cái xấu, chúng ta sẽ chấp vào cái xấu. Bất luận là chấp tốt hay chấp xấu, đó cũng đều là một thứ chấp trước. Một khi có thứ chấp trước như thế, chúng ta sẽ không thể nào thành tựu đạo nghiệp được. Chúng ta phải nhìn cho thấu suốt cả cái tốt và cái xấu. Nếu gặp thuận cảnh hoặc nghịch cảnh mà chúng ta đều có thể an nhiên xử sự, như vậy chúng ta mới không bị cảnh giới xoay chuyển.

Trong kinh Kim Cang có nói:

“Nhất thiết hữu vi pháp,

Như mộng huyễn, bào ảnh,

Như lộ diệc như điện.

Ưng tác như thị quán.”

Nghĩa là tất cả các pháp hữu vi trên thế gian giống như giấc mộng, đều không chân thật. Lại giống như bong bóng nổi trên nước, cũng không phải là thật có. Cũng giống như cái bóng, thấy có đó mà nắm bắt chẳng được. Lại cũng giống như giọt sương, như điện chớp, trong nháy mắt là tiêu mất ngay, nên quan sát như thế mới thật là thấu suốt. Sau khi đã thấu suốt thì cần phải buông xả. Nếu như buông không xong và cứ chấp vào cái nầy, chấp vào cái kia, chúng ta sẽ không đạt được tự tại đâu. Dù là thuận cảnh hay nghịch cảnh, chúng ta cũng nên buông hết. Cho đến một tơ hào cũng không chấp trước, như thế chúng ta mới có thể đạt được tự tại.

Giảng ngày 10 tháng 9 năm 1980

 

5. Khoa Học: Phước Hay Họa – Vật Có Ân Hay Chén Trà Độc

Khoa học tuyệt đối không thể mang lại cuộc sống an lạc chân thật và cứu cánh cho nhân loại về phương diện tinh thần lẫn vật chất. Không phải ai cũng đều chấp nhận loại lý luận nầy. Tại vì sao? Bởi con người vì chấp cái mê mà không được khai ngộ. Nếu quý vị muốn đề xướng loại lý luận nầy, tất nhiên sẽ bị thất bại, bởi vì nhiều người sẽ không đồng ý về cách nói như vầy. So với các thứ khác, khoa học kỹ thuật có sức quyến rũ mạnh hơn. Rất nhiều người biết rõ là khoa học có vấn đề, nhưng họ vẫn ủng hộ và tán dương khoa học. Trên thế giới nầy, điều gì có lợi ắt có hại. Phàm việc gì có nhiều lợi ích to lớn, tức nó cũng có cái hại tương đương.

Xem đấy, bệnh ung thư đang lan tràn khắp cả hoàn cầu. Đó là bởi khoa học phát minh mỗi ngày một mới lạ, sanh sản ra biết bao loại độc tố làm ô nhiễm bầu không khí. Kết quả là nhân loại hít phải các thứ độc khí nầy, mà bị nhiễm thành các chứng bệnh ung thư. Chẳng lẽ các khoa học gia không rõ biết tình trạng đó hay sao? Không phải là không biết, mà chỉ vì họ không muốn suy nghĩ kỹ càng, và không muốn chấp nhận loại lý luận như thế đó thôi. Để rồi ngày nay, thế giới đã lâm vào tình trạng bị nhiễm bệnh đến tận xương cốt, không thuốc cứu chữa. Mặc dù không thuốc chữa, nhưng chúng ta biết bao nhiêu thì hãy làm bấy nhiêu, và cứ đem hết khả năng sức lực của mình để cứu vãn trận sóng cuồng đã ập đến. Không phải chúng ta muốn phản đối các nhà khoa học, nhưng chúng ta cũng nên biết để thấu rõ cái chân lý nầy. Phàm vạn sự vạn vật, hễ có lợi thời có hại. Ví như có người đã lên đến mặt trăng, vậy lên đến đó rồi họ sẽ tính toán gì nữa đây? Giả sử như chính phủ quyết định cất giấu bom nguyên tử trên mặt trăng, để chuẩn bị hủy diệt nhân loại toàn cầu. Hay có một ngày nào đó, số bom đạn nầy phát nổ, rồi cũng hủy diệt luôn cả mặt trăng v.v… Nếu thế giới mà ngay cả mặt trăng cũng không có, vậy còn thành ra thế giới gì nữa? Đây chỉ là một thí dụ thôi, nhưng chúng ta nên lãnh hội ý chỉ của nó.

Nói tóm lại, khoa học càng tiến bộ, sanh mạng của nhân loại càng bị nguy hiểm. Tiến bộ cũng như thành tiến độc. Ngày xưa, khoa học chưa có phát triển mà nhân loại còn sống được vui vẻ, tự tại. Như khi mặt trời mọc thì đi làm, mặt trời lặn thì về nghỉ, an phận giữ mình. Ngày nay, khoa học phát đạt thì nhân loại lại bị nhiễm thiên ban vạn chủng chứng bệnh kỳ quái, không thể chữa trị. Như vậy là khoa học vô hình trung đã chế tạo ra tai nạn. Chúng ta nên biết rằng: trên đời hễ có tốt thời có xấu, có lợi thì có hại, có thành tất có bại, và phàm tất cả các sự việc đều là tương đối, không có gì là tuyệt đối cả.

Giảng ngày 6 tháng 10 năm 1980

 

6. Tiền

Hôm nay tôi sẽ giảng một bài Pháp đặc biệt. Pháp gì vậy? Là Pháp TIỀN. Vì sao tiền là vật không sạch sẽ? Quý vị thử nhìn xem! Tiền là thứ dơ bẩn nhất trên thế giới đó. Bởi vì người ta lúc đếm tiền, đa số thường thấm nước miếng để đếm. Trong nước miếng có chứa biết bao nhiêu là vi trùng, vi khuẩn. Không biết là tiền đã trải qua bao nhiêu lần nước miếng của người ta rồi, cũng không biết là đã có bao nhiêu giống vi trùng truyền nhiễm bệnh trong đó. Có thể thấy, hễ tiền được đếm càng nhiều lần thì tiền càng trở nên dơ bẩn hơn. Nhưng trái lại, vẫn có người yêu quý tiền còn hơn sanh mạng họ. Đó là đã biết nó dơ mà cố phạm. Có số người vì tham tiền mà hy sinh ngay đến sanh mạng mình cũng không tiếc. Điều đó đủ chứng minh ma lực của tiền là như thế nào rồi.

Người Trung Hoa khi sáng tạo ra chữ, họ đều rất cẩn thận và bỏ ra nhiều tâm huyết mới thành tựu được. Thông thường chữ có sáu loại là: Tượng Hình, Chỉ Sự, Hội Ý, Hình Thanh, Chuyển Chú và Giả Tá (giả danh để mượn tiếng). Mỗi chữ đều không rời phạm vi của sáu loại nầy. Như chữ tiền () thuộc Hội Ý. Tiền gồm có chữ kim () và hai cái mác ().

Có bài kệ nói về tiền như sau:

Nhị qua tranh kim sát khí cao,

Nhơn nhơn nhân tha phạm lao đao.

Năng hội dụng giả siêu tam giới,

Bất hội dụng giả nghiệt nan đào.

Nghĩa là:

Hai giáo tranh tiền sát khí cao,

Người người vì nó chịu lao đao.

Biết dùng thời đặng thoát tam giới.

Không biết dùng khó mà thoát tội.

Đại ý bài kệ nói rằng: Người ta dùng kim loại để đúc thành Tiền. Hai cái mác là hai người giành tiền, hai bên kẻ tranh người đoạt khiến sát khí bùng vút tận mây xanh. Nhiều người vì tiền mà sanh ra biết bao nhiêu phiền toái. Người biết dùng tiền thì đem nó làm nhiều chuyện có công đức, lợi người lợi mình và có thể thoát khỏi tam giới, khỏi phải chịu sanh tử. Người không biết dùng tiền thì dùng nó tạo nhiều nghiệp ác, cho nên đọa vào tam ác đạo, vĩnh viễn không được giải thoát. Chúng ta nên biết tiền là vật hại người và cũng không nên tham cầu nó.

Vì sao chúng ta xuất gia tu đạo? Bởi vì chúng ta muốn xem tài sắc như không có, chúng ta không chấp ở tài, cũng không chấp ở sắc. Sau nữa là đối với từng cử chỉ, hành động của chính mình, giờ khắc nào mình cũng hồi quang phản chiếu, nhiếp giữ tâm không để nó chạy ra ngoài. Trải qua ngày dài tháng rộng, đến lúc tâm chúng ta trong sạch như tấm gương, chúng ta sẽ tự rõ ràng được thiện ác. Như thế chúng ta mới thoát khỏi tam giới và sanh tử. Đó là hoài bão căn bản của người xuất gia. Nếu như chúng ta bỏ không nổi tài, xả không nổi sắc, tức là luống phụ cả ý nguyện xuất gia của mình.

Người thế gian làm đến quên sanh mạng để kiếm tiền, và nghĩ hết mọi cách để tích trữ tiền bạc cho con cái. Nhưng họ không biết rằng, để tiền lại cho con cháu tức là mang tai họa đến cho chúng. Trái lại, nếu họ không để lại tiền của thì sẽ không có phiền phức gì, gọi là: “Con cái giỏi hơn cha, lưu của để làm gì? Có con không bằng cha, lưu của để làm chi?” Con trai, con gái có bản lãnh hơn cha, nếu để tiền cho chúng, chúng cũng chẳng có chỗ dùng. Ngược lại, con trai, con gái không có bản lãnh như cha, nếu để tiền lại cho chúng, là dạy chúng không chịu làm việc để sanh sống, mà chỉ thích rong chơi, say sưa cờ bạc, đàng điếm rượu chè, suốt ngày lân la ở lầu Tần, quán Sở. Há đó không phải là hại con cháu sao? Vì vậy tôi khuyên người có tiền nên làm nhiều việc công đức, tế thế cứu nhân thì sẽ được vô lượng công đức.

Chúng ta là người xuất gia, chẳng những không tham tài sắc, mà ngay cả vọng tưởng cũng không nên khởi nghĩ tới. Khi đi đứng nằm ngồi, chúng ta đều nên khống chế vọng tưởng. Khống chế như thế nào? Chỉ có một pháp môn là niệm Phật hoặc trì Chú. Ít nói một câu thì niệm thêm được một tiếng Phật. Niệm đến khi có cảm ứng đạo giao là có thể khai ngộ và đạt được trí huệ. Cho nên nói: “Đả đắc niệm đầu tử, chuẩn nhữ Pháp thân hoạt” tức là: Đánh chết vọng niệm để Pháp thân bừng sống. Bởi vậy người tu đạo, giờ khắc nào cũng nên tự kiểm soát lấy mình. Cho nên nói: “Phải nhớ vô thường, cẩn thận chớ buông lung.” Chúng ta nên dùng hai câu nầy để cảnh giác, tự nhiên mình sẽ thức tỉnh trở lại. Hy vọng mọi người sẽ nghiêm trì giới luật, đó là điều tôi hằng trông mong!

Đây là hai câu nói rất có đạo lý: “Lung kê hữu thực, thang oa cận. Dã hạc vô lương thiên địa khoan.” Nghĩa là: Con gà trong lồng tuy có thóc ăn, nước uống, nhưng khi nó mập lớn thì bị giết, và bị bỏ vào nồi nước sôi để làm thức ăn cho người. Cho nên nói: “Thang oa cận” là nồi nước sôi kế bên. Con hạc rừng tuy không được thóc lúa để ăn, nhưng trời cao đất rộng, nó mặc sức tung hoành trong vũ trụ, không bị câu thúc, không chấp vào đâu, tiêu dao tự tại biết bao nhiêu!

Chúng ta là người xuất gia thì nên lấy trời đất làm lều và bốn biển là nhà, không nên có chỗ ở riêng tư. Nếu chúng ta có chùa thì cũng có lúc bị dính mắc, rồi giong ruổi tìm cầu, như thế là trái ngược với Phật Pháp. Cho nên sai lầm dù nhỏ, nhưng dẫn đến hậu quả to lớn. Đó cũng là ý nghĩa của câu: Sai một ly đi ngàn dặm.

Có vị thiền sư đã từng nói như thế nầy: “Năm qua nghèo, còn có đất cắm dùi; năm nay nghèo cả dùi cũng không!” Tư tưởng của ngài tự tại, giải thoát biết là bao! Thật là vi diệu không thể nghĩ bàn. Chúng ta nên noi theo gương của vị thiền sư nầy, là ngoài một bình bát và ba tấm y, ngài đã không tìm cầu chi hết. Tiền là vật ngoài thân, sanh không mang đến, chết không mang đi. Cho nên có tiền, chúng ta nên làm nhiều việc công đức, như in một quyển sách nhỏ để phổ biến tuyên dương Phật Pháp thì công đức vô lượng, so ra còn hơn là dựng chùa xây tháp cho chính mình.

Người sáng suốt thì không chấp trước và cũng không có hành vi ô nhiễm. Ô nhiễm cái gì? Tức là tham tài, ái sắc. Nếu không bỏ tài, thời không thể trừ khử ô nhiễm; sắc chẳng coi là không, thì không thể sạch hết nhiễm ô. Nếu mình không muốn bị ô nhiễm, chỉ có một biện pháp là phá tan hai cửa “tài sắc” đi. Tức thì tận hư không khắp pháp giới, đâu đâu cũng đều là chỗ ở của chúng ta. Chúng ta là người tu đạo, hãy nên ghi nhớ rằng: then chốt là ở tại hai cửa “tài sắc,” nếu có thể phá được chúng, thì chúng ta sẽ không chấp trước vào bất cứ gì. Người đời có câu nói mỉa mai rằng: “Người xuất gia không thích tiền – nhưng có càng nhiều càng tốt!”.

Người xuất gia chúng ta nên phản tỉnh, nên kiểm điểm lại, xem mình có thứ tư tưởng như thế không? Nếu có thì nên sửa đổi, còn không thì ráng mà tránh. Hy vọng mọi người đề cao cảnh giác và tự lực cánh sinh, nên học theo lời răn bảo của thiền sư Bách Trượng: “Một ngày không làm là một ngày không ăn.” Như quả ai cũng làm được như thế, thời người đời sẽ không còn châm biếm rằng: Kẻ xuất gia là con mọt gạo.

Người xuất gia ở chùa Kim Sơn biết tiền là vật không trong sạch, cho nên có người trì giới không giữ tiền bạc. Tức là tay họ không đụng chạm đến tiền, họ tuyệt nhiên không có liên hệ qua lại đến tiền bạc. Để tôi kể một câu chuyện có thật cho quý vị nghe. Tôi có đệ tử là con độc nhất của một ông triệu phú. Chú nầy chẳng những không muốn tài sản của cha, mà khi được cha giới thiệu cho một cô bạn gái, chú cũng cự tuyệt luôn. Rồi sau đó chú quyết định tìm đến chùa Kim Sơn xuất gia tu hành. Bởi vậy tôi mới đặt pháp danh cho chú là Hằng Không. Một ngày kia, cha chú gọi điện thoại hỏi: “Con cần tiền không? Cha có thể gởi cho con mà.” Nhưng chú không chịu nhận tiền của cha. Hành động đó thiệt là xứng với danh, đệ nhất đại ngu xuẩn. Chú giữ giới không đụng tiền, danh và quả thật phù hợp, vì một xu chú cũng không dính túi. Người không tham tài sắc tức sẽ không bị nhiễm ô. Nếu ai có hành vi như vậy thì nhất định sẽ được thành tựu.

Giảng ngày 10 tháng 10 năm 1980

 

7. Bát Nhã – Phật Tánh

Bát Nhã là Phật Tánh, Phật Tánh là Bát Nhã. Nói Đại Bát Nhã là nói Đại Phật Tánh. Nói Đại Phật Tánh tức là nói Đại Bát Nhã. Danh tự tuy không đồng, nhưng ý nghĩa lại giống nhau. Tại sao nói thế? Bởi vì Bát Nhã là trí tuệ, mà trí tuệ là đại giác ngộ. Nếu quý vị có thể đạt được đại giác ngộ, tức là quý vị có trí tuệ. Nếu quý vị không được đại giác ngộ, tức quý vị không có trí tuệ. Đại giác ngộ là đại Phật tánh. Phật là tiếng Phạn, dịch ra là giác, là tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Cho nên nói Phật Tánh là Bát Nhã. Bát Nhã có ba loại là: Văn Tự Bát nhã, Quán Chiếu Bát Nhã và Thật Tướng Bát Nhã. Tôi nay giải thích sơ lược như sau:

1. Văn Tự Bát Nhã: Đây không phải là loại văn tự Bát Nhã được giảng dạy trong các trường học thế gian, mà là Văn Tự Bát Nhã xuất thế gian, khiến cho quý vị phát tâm Bồ Đề, tu đạo Bồ Đề, đắc quả Bồ Đề và cũng tức là Văn Tự Bát Nhã trong kinh điển.

2. Quán Chiếu Bát Nhã: Từ Văn Tự Bát Nhã sẽ sanh khởi Quán Chiếu Bát Nhã. Ví như khi quý vị đọc kinh văn, đối với bốn chữ “Như thị ngã văn” (tôi nghe như vầy) bèn thắc mắc rằng: “Như Thị” là gì ? “Ngã văn” là gì? Thế là quý vị sanh tâm quán chiếu, xem xét rõ ràng. Sau khi đọc “Như thị ngã văn,” quý vị bèn lấy lời văn để tìm nghĩa, tìm ý tứ trong đấy. Đó gọi là Quán Chiếu Bát Nhã.

3. Thật Tướng Bát Nhã: Tức là khi đã có Quán Chiếu Bát Nhã, quý vị sẽ biết được “Như thị” nầy là bổn thể của Pháp và “Ngã văn” nghĩa là “Tôi nghe được đạo lý bổn thể của Pháp.” Đây là do quý vị quán chiếu mà đạt được Thật Tướng và nhận biết Pháp thể là Như thị, Pháp thể là bổn không. Bổn không tức là Thật Tướng Bát Nhã.

Những ai đã rõ ba loại Bát Nhã nầy cũng sẽ biết được Tam Nhân Phật Tánh. Tam Nhân Phật Tánh là Duyên Nhân Phật Tánh, Liễu Nhân Phật Tánh và Chánh Nhân Phật Tánh.

1. Văn Tự Bát Nhã là Duyên Nhân Phật Tánh. Dùng văn tự làm trợ duyên, giúp quý vị biết được ba loại Phật Tánh nầy và cũng biết được Phật Tánh là Bát Nhã, mà Bát Nhã tức là Phật Tánh. Do nhân đó, quý vị sẽ khai triển công đức và thiện căn để đạt được Thật Tướng.

2. Quán Chiếu Bát Nhã là Liễu Nhân Phật Tánh. Ví như ngọn đèn chiếu sáng căn phòng để quý vị thấy biết được trong phòng đang có những vật gì. Chẳng hạn như trong phòng có bộ kinh Hoa Nghiêm, có tượng Phật, có bàn thờ Phật, lại có danh hiệu của tám mươi tám vị Phật, quý vị đều thấy biết hết tất cả. Đó là nhờ ngọn đèn tỏa chiếu, làm cho tất cả mọi vật đều được tỏ rõ. Bởi vậy chúng ta nên dùng đèn như vậy để chiếu sáng căn phòng nội tâm của chính mình. Khi có sức mạnh quán chiếu, là bắt đầu phát sanh ra công năng của Liễu Nhân Phật Tánh. Nếu quý vị không có sức mạnh của Quán Chiếu Bát Nhã, quý vị sẽ không biết rõ được Liễu Nhân Phật Tánh. Quý vị cũng không biết được căn phòng nội tâm của quý vị là: Có Phật, có Bồ Tát đang giáo hóa chúng sanh; Có bậc Duyên Giác đang tu hành theo pháp Thập Nhị Nhân Duyên; Có Thanh Văn đang tu pháp Tứ Đế; Có vô lượng chư Thiên đang thọ nhận sự thù thắng diệu lạc; Có vô lượng chúng sanh đang điên đảo; Có vô lượng A Tu La đang đấu tranh; Có vô lượng súc sanh đang trong cảnh sanh tử luân hồi, sanh ra rồi chết, chết rồi lại sanh ra; Có vô lượng ngạ quỷ đang ăn trộm thức ăn; Có vô lượng chúng sanh ở địa ngục đang chịu cực hình trong núi đao, chảo dầu. Tất cả những cảnh giới nầy đều không tách rời tâm quý vị, đều cùng tương thông với tâm quý vị. Địa ngục có mười tám địa ngục lớn, lại có năm trăm địa ngục nhỏ. Quý vị muốn đến địa ngục nào thì tùy quý vị. Nếu có sức mạnh Quán Chiếu Bát Nhã, quý vị sẽ hiểu rõ nhân duyên của Mười Pháp Giới. Một khi đã minh bạch rõ ràng rồi, đương nhiên là chúng ta nên lựa việc thiện mà làm, còn việc bất thiện thì phải bỏ. Được như vậy chúng ta mới không bị đọa xuống địa ngục.

3. Thật Tướng Bát Nhã là Chánh Nhân Phật Tánh, cũng tức là Phật Tánh của đệ nhất nghĩa không, Do quán chiếu mà chúng ta đạt được Chánh Nhân và chứng Thật Tướng.

Làm thế nào để chúng ta có thể sanh về cảnh giới Phật? Phật là giác, tức là giác ngộ. Người có thể giác ngộ tức là Phật, người không thể giác ngộ là chúng sanh. Cho nên nói: “Một niệm giác là một niệm Phật, niệm niệm giác là niệm niệm Phật. Một niệm mê là một niệm chúng sanh, niệm niệm mê là niệm niệm chúng sanh. Thời thời giác là thời thời Phật, thời thời mê là thời thời chúng sanh.” Quý vị mà biết được việc làm của mình là điên đảo, thì đó là Phật. Còn như quý vị không biết những việc làm của mình là điên đảo, thì đó là chúng sanh. Cho nên nói sự giới hạn của Phật và chúng sanh là giữa giác và mê. Muốn làm Phật hay làm chúng sanh là tùy theo sự lựa chọn của quý vị.

Làm thế nào để được sanh vào cảnh giới Bồ Tát? Nói đơn giản là người nào thường nghĩ đến sự lợi ích của chúng sanh thì người đó là Bồ Tát, còn người thường nghĩ đến lợi ích cho riêng mình thì là ma quỷ. Bồ Tát chỉ có biết đến người khác mà không biết đến mình. Trong khi ma quỷ chỉ biết có mình mà không biết đến người khác. Hai thành phần nầy rất là trái ngược nhau. Bồ Tát biết có chúng sanh để độ, nhưng chưa đến giai đoạn không có chúng sanh để độ. Khi đến cảnh giới Phật rồi là không còn chúng sanh để độ. Vì sao? Bởi tất cả chúng sanh đã được độ hết, và không còn chúng sanh nào để độ nữa. Tức là có mà cũng không có tướng chúng sanh, vì Phật không chấp đến hình tướng. Đó gọi là quét tất cả pháp, rời tất cả tướng. Quét tất cả pháp, giống như dùng chổi quét sạch hết pháp trần tục. Rời tất cả tướng là không còn tướng gì nữa. Nếu quý vị tu theo pháp Lục Độ Vạn Hạnh, quý vị sẽ sanh vào cảnh giới Bồ Tát.

Làm sao để được sanh vào cảnh giới Duyên Giác? Là quý vị quán Thập Nhị Nhân Duyên: Vô minh duyên hành, hành duyên thức; cho đến sanh duyên lão, tử. Vô minh đứng hàng đầu trong mười hai pháp Nhân Duyên. Vô minh từ đâu đến? Là từ ba độc tham sân si mà đến. Có vô minh thời có hành. Có hành thời có thức v.v… Nếu như chúng ta có thể tìm được cội rễ của vô minh và cắt đứt hết vô minh, thì sanh tử sẽ không còn. Làm thế nào để cắt đứt nó đây? Là chúng ta cần phải tu tam vô lậu học: Giới, Định, Huệ. Có như thế mới cắt đứt được cội rễ của ba độc và đem vô minh biến thành trí huệ. Khi có trí huệ rồi, chúng ta sẽ hiểu thế nào là thiện, thế nào là ác. Như vậy tâm chúng ta sẽ được quang minh, xán lạn và thanh tịnh. Một khi vô minh đã bị phá trừ thì Pháp thân sẽ xuất hiện, đó tức là Phật Bích Chi.

Làm thế nào để được sanh vào cảnh giới Thanh Văn? Quý vị nên tu pháp Tứ Đế, tức là tìm căn nguyên của sự khổ đau. Căn gốc của đau khổ là từ bên trong của cái thấy, cái suy nghĩ lầm lẫn, tức là kiến hoặc và tư hoặc. Bởi vậy chúng ta phải dùng Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo để tiêu diệt hai cái “hoặc” đó. Kiến hoặc có tám mươi tám phẩm, tư hoặc có tám mươi mốt phẩm. Khi nào tiêu diệt hết hai cái hoặc đó của tam giới rồi, chúng ta mới có thể chứng được tứ quả A La Hán, tức là bất sanh, bất diệt. Trên đây là bốn pháp giới thuộc về cõi Thánh.

Làm thế nào để được sanh lên cõi trời? Quý vị nên tu pháp Ngũ giới và Thập thiện, là tu thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu, ý. Thập thiện là: Thân làm ba điều lành: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm. Miệng có bốn điều lành là: không vọng ngữ, không ỷ ngữ, không ác khẩu, không lưỡng thiệt. Ý có ba điều lành là: không tham, không sân, không si. Ai có được những công đức nầy mới được sanh lên cõi trời. Nhưng họ chỉ được sanh vào cõi trời Địa Cư Thiên, tức là Trời Tứ Thiên Vương và Trời Đao Lợi chứ không thể sanh đến Không Cư Thiên, là những cõi như Trời Dạ Ma, Trời Đâu Suất, Trời Hóa Lạc, Trời Tha Hóa, Trời Tha Hóa Tự Tại. Trừ phi những người có công phu tu thiền định, họ mới có thể từng bước thăng tiến cao hơn. Từ mười tám cõi Trời Sắc Giới, sanh lên đến Trời Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng của Vô Sắc Giới thì đó là cõi trời tối cao của hai mươi tám cõi trời trong Tam giới. Như nếu tiếp tục tinh tấn tu tập thiền định, họ sẽ vượt ra khỏi Tam giới, thoát ly phần đoạn sanh tử và chứng đắc quả vị A La Hán.

Làm thế nào để được sanh vào cõi người? Nếu quý vị có thể chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tức là đừng làm các việc ác, nên làm các việc lành thì quý vị sẽ không bị mất thân người. Người nào kiếp trước tu hành đầy đủ cả phước lẫn huệ thì sẽ được sanh vào nhà phú quý, mọi việc đều thuận lợi, thêm mạnh khỏe, lại sống lâu và được tướng hảo trang nghiêm. Còn nếu những ai kiếp trước không tu phước huệ thì sẽ sanh vào cảnh bần cùng, cả đời lận đận, nhiều bệnh tật, chết yểu, tướng mạo lại xấu xí. Đó đều là do luật nhân quả, là định luật bất biến, không thay đổi. Làm lành thì được phước báo, làm ác thì bị ác báo. Có người bởi kiếp trước không tu, cho nên đời nay phải chịu khổ, nếu như họ lại không tu thì đời sau còn không được như đời nay. Nếu như họ phát nguyện tu hành, nhất định kiếp sau của họ sẽ tốt hơn kiếp nầy. Có người nhân vì kiếp trước tu hành, cho nên kiếp nầy họ gặp mọi việc đều thuận lợi. Như quả kiếp nầy họ lại tu hành tiếp, nhất định kiếp sau của họ còn tốt hơn, thuận lợi hơn kiếp nầy. Nếu họ không tu hành, nhất định kiếp sau của họ tuyệt đối không bằng kiếp nầy. Đạo lý nầy rất đơn giản, ai ai cũng có thể hiểu rõ được. Đời sau gặp thuận hay nghịch cảnh, hoàn toàn đều do quý vị tự quyết định. Phật, Bồ Tát có muốn giúp, giúp cũng không nổi việc nầy đâu.

Làm thế nào để không bị sanh vào bốn cõi ác thú? Nếu quý vị không còn tâm đấu tranh, quý vị sẽ đoạn tuyệt được sự ra vào cảnh giới A-tu-la. Nếu quý vị không tham thì sẽ đoạn tuyệt sự qua lại với cảnh giới súc sanh. Nếu quý vị không sân hận thì sẽ đoạn tuyệt sự tới lui với cảnh giới ngạ quỷ. Nếu quý vị không si, quý vị sẽ đoạn tuyệt không ra vào cảnh giới địa ngục. Trên đây là sáu pháp giới của cõi phàm.

Mười pháp giới là mười con đường do chính quý vị tự lựa chọn. Gieo nhân nào thì gặt quả đó, chỉ là xem quý vị có trí huệ Bát Nhã hay không!

Người có trí huệ Bát Nhã, là người biết tạo các việc lành và tiêu trừ các ác nghiệp. Người không có trí huệ bát nhã, là người sẽ gieo nhiều việc ác và làm tiêu mất hạt giống thiện nghiệp. Ai ai cũng có trí huệ Bát Nhã, chỉ xem quý vị có biết dùng nó hay không mà thôi. Nếu quý vị biết vận dụng Bát Nhã nầy, nó sẽ chiếu sáng khắp cả pháp giới. Nếu như không biết vận dụng trí huệ Bát Nhã, quý vị sẽ không thể nào nhận biết rằng: xưa nay mười pháp giới vốn sẵn có ở trong tâm ta.

Giảng ngày 17 tháng 10 năm 1980

 

8. Diệu Đạo

Chúng sanh có căn tánh thiện nhiều hay ác nhiều, Phật đều biết hết. Dục niệm của chúng sanh dù nhiều, dù ít Phật cũng hiểu rõ. Cho nên Phật vì chúng sanh mà chỉ dạy biết bao nhiêu là diệu đạo.

Diệu đạo là gì? Nói theo cách cạn cợt: Đạo là những việc làm thường ngày, đạo mà mỗi ngày chúng ta dùng, thực hành, kinh nghiệm đều là rất vi diệu. Nếu không chú ý nghiên cứu nó, chúng ta sẽ không biết chỗ vi diệu của nó đâu. Còn nếu chú ý nghiên cứu nó, thế thì bất cứ việc gì cũng đều diệu, diệu không thể nói được. Ví như, đồ vật mà chúng ta dùng thường ngày là từ đâu đến? Là đến từ nơi rất vi diệu. Rồi chúng nó đi đâu? Đi tới chỗ cũng thật là diệu mầu. Tóm lại, tất cả đều là diệu đạo.

Cảnh giới mà chúng ta sinh hoạt mỗi ngày cũng chính là diệu đạo. Cũng giống như chúng ta không ăn thì bụng đói. Vì sao phải đói? Đó là diệu. Sau khi chúng ta ăn xong thì no. Đó cũng là diệu. Cho đến mặc áo hay uống trà, tất cả cũng đều tuyệt diệu như nhau. Nếu không huyền diệu thì sao chúng ta phải dùng đến chúng? Mặc dù chúng ta dùng chúng, nhưng cũng không dùng được lâu dài, mà chỉ là tạm thời thôi. Vậy quý vị nói có phải là vi diệu không?

Có người nói: “A! Ai mà không biết cái đạo lý nầy!”

Nhưng chỗ hiểu biết của quý vị chỉ ở ngoài da, chứ không phải cứu cánh. Quý vị chưa biết được chỗ vi diệu đâu.

Vì sao người ta thích ăn ngon? Đó là cái vi diệu. Vì sao người ta muốn mặc quần áo đẹp? Đó cũng là cái vi diệu. Vì sao người ta thích ở trong căn nhà tốt đẹp? Đó cũng là cái vi diệu nốt.

Chúng ta không mấy minh bạch về ý nghĩa của cái vi diệu nầy cho lắm. Nói theo cách khác, nếu chúng ta hiểu rõ thì là diệu, không hiểu rõ tức là không diệu. Cũng giống như hai hành giả “Tam Bộ Nhất Bái” đang lúc trên đường vừa đi ba bước, lạy một lạy; có một vị quần bị rách không thể che thân. Lúc bấy giờ, bên đường lại xuất hiện một cái quần!

Đó là cái vi diệu. Sau đó lại có người ném chai bia vào họ, nhưng không trúng, đó cũng là cái vi diệu. Ý nghĩa của sự vi diệu nầy thì có rất nhiều chuyện để nói vậy.

Giảng ngày 5 tháng 11 năm 1980

 

9. Phản Bổn Hoàn Nguyên

Cái thân nầy không phải do ngũ uẩn tích tụ mà thành. Nó cũng không phải là từ mười hai xứ hay mười tám giới mà lại. Phật đã không có cái hình tướng, nhưng sao chúng sanh lại thấy được ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp của Ngài? Đó là vì Phật tùy thuận theo tâm phân biệt của chúng sanh mà thị hiện ra. Nhân vì chúng sanh có tâm phân biệt tốt xấu, và Phật vì muốn chúng sanh phát Bồ Đề tâm, Ngài đã thị hiện thật nhiều thân không giống nhau để chúng sanh tăng thêm lòng hoan hỷ và tín ngưỡng. Đó là pháp môn phương tiện thiện xảo rất khéo léo.

Người nam thì muốn tìm một cô gái đẹp để làm vợ, còn người nữ thì muốn tìm một chàng trai anh tuấn để làm chồng. Điều đó chứng minh rằng ai ai cũng thích đẹp chứ chẳng thích xấu. Tâm con người đều là như vậy và tâm lý con người cũng giống như thế. Ai ai cũng hy vọng có vợ đẹp, hoặc có chồng khôi ngô, tuấn tú. Đó là chuyện thường tình của con người, là việc hiển nhiên thôi.

Có người hỏi: “Thầy đang giảng kinh, nhưng sao lại nói về chuyện nầy?”

Quý vị bảo tôi đừng nói về chuyện nầy, vậy thì tôi nên nói về chuyện gì? Người xưa nói: “Đạo của người quân tử, bắt đầu từ chồng vợ.” Trên thế giới nầy chỉ có hai người nam nữ. Có nam nữ rồi mới tạo thành thế giới được. Ở đây tôi đặc biệt có lời thanh minh rằng: đôi nam nữ nầy không phải là ông Adam và bà Eva, mà cũng không phải là do đức Chúa Trời dùng đất bùn nặn ra nam nữ để đến thế giới nầy. Nói tóm lại, cái thế giới nầy là do sự tổ chức của vợ chồng mà khởi nên.

Có chồng vợ rồi, sau đó có cha con, anh em, có tôi, có người. Nam nữ vốn là âm dương. Cho nên nói: “Một âm một dương gọi là đạo, rời khỏi âm dương đạo chẳng thành.” Lại nói: “Cô âm bất sanh, độc dương bất trưởng.”  Đó là đạo lý tự nhiên.

Chúng ta tu đạo thì cần phản bổn hoàn nguyên, trở về nguồn gốc. Người nam tu đạo nên như chữ Ly () trong bát quái, có một vạch giữa đứt ngang, phản hồi đến chữ Càn () thì có ba vạch liền. Người Nữ tu đạo nên như chữ Khảm () có một vạch nối liền ở giữa, trở về chữ Khôn () có ba vạch đều đứt đôi thành sáu đoạn. Càn đại biểu cho nam, Khôn đại biểu cho nữ. Người nam nên trở về đồng chân, người nữ nên phản hồi về đồng nữ. Người nam nên như Thiện Tài Đồng Tử trong kinh Hoa Nghiêm. Người nữ nên như Long Nữ trong kinh Pháp Hoa. Họ đều là đồng nam, đồng nữ và đã phản bổn hoàn nguyên, trở về nguồn cội. Chúng ta tu đạo cũng nên như thế, bảo trì sự đồng thể trinh bạch, như vậy mới dễ dàng chứng đắc được Pháp thân thanh tịnh. Nhân vì chúng sanh có tâm phân biệt và thường hay phân biệt về biết bao vấn đề như: có thiện ác, có đẹp xấu, có phải trái, có trắng đen, cho nên Phật vì tùy thuận tâm chúng sanh mà thị hiện ra biết bao hóa thân khác nhau, để chúng sanh thấy được thân Phật, gọi là:

“Thiên giang hữu thủy thiên giang nguyệt,

Vạn lý vô vân vạn lý thiên.”

Nghĩa là:

Ngàn sông có nước, ngàn sông có trăng,

Muôn dặm không mây là muôn dặm trời.

Phật tùy các loài mà hóa thân. Nếu tâm chúng sanh như nước trong, Phật sẽ hiện ngay trong họ. Vì sao chúng ta không thấy được thân Phật? Bởi chúng ta có tư dục và vô minh quá nặng nề, cho nên trí huệ không thể hiện tiền. Vì tâm chúng ta như ao nước bùn, nên dù có Phật, Phật cũng chẳng hiện được.

Vô minh tức là hắc ám đen tối, trí huệ là ánh sáng quang minh. Có vô minh là có phiền não, có phiền não là ngu si, có ngu si tức là đen tối, có đen tối là không có ánh sáng, không có ánh sáng là không có trí huệ, không có trí huệ tức không thấy được Phật. Đây đều có sự quan hệ liên đới với nhau. Nếu muốn thấy thân Phật, chúng ta tất phải siêng tu giới định huệ và tiêu diệt tham sân si. Như thế thì tự nhiên Phật sẽ hiện thân và thuyết pháp cho chúng ta nghe.

Giảng ngày 8 tháng 11 năm 1980

 

10. Chân Kinh Vô Tự

Trong phẩm thứ nhất Niệm Phật của Đại Tạng Kinh có nói: “Phật bảo Xá Lợi Phất: Người không thông đạt các pháp đều là vì lời nói che phủ. Do vậy Như Lai biết ngôn ngữ là tà vạy. Dù ngay cả có chút ít ngôn ngữ, người nầy cũng không đạt được sự chân thật.” Đức Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phất: “Phàm kẻ không thể hiểu rõ tất cả pháp là đều bị ngôn ngữ che đậy.” Vì sao? Bởi vì họ chưa có “không” về pháp chấp. Bởi nguyên nhân nầy, cho nên Phật biết tất cả ngôn ngữ đều không đúng, đều sai lầm. Hễ có ngôn ngữ là có chỗ che đậy, có che đậy là có chướng ngại cho trí huệ vốn có của chúng sanh. Cho đến ngay cả một câu nói hoặc một chữ, cũng đều là không chân thật. Vì sao? Bởi vì phàm nói ra dù một chữ là chúng ta vẫn còn có chỗ chấp. Cho nên nói “Nhất pháp bất lập,” đó tức là một chữ cũng không có vậy.

Người biết đọc kinh, chẳng những họ biết đọc kinh có chữ mà cũng biết đọc cả kinh không chữ nữa. Nếu như biết đọc kinh không chữ, thì đó mới thật là người chân chánh hiểu rõ Phật Pháp. Quý vị có thể đọc kinh có chữ và cứ niệm đi niệm lại, thì đó là người vô sự tìm việc để làm thôi. Nếu quý vị biết đọc chân kinh vô tự (không chữ), thì đó là quý vị đã có phương pháp rồi. Nhưng nếu phải đọc “chân kinh vô tự” thì quý vị có đọc được không? Như quả quý vị không biết đọc chân kinh vô tự, thì trước là hãy đọc kinh có chữ, rồi sau đó mới có thể hiểu rõ được kinh không chữ. Chờ đến lúc đã hiểu rõ kinh không chữ rồi, quý vị sẽ không cần đọc kinh có chữ. Cho nên nói: “Biết thì không khó, khó thì không biết.” Học Phật Pháp cũng giống như thế thôi!

Rốt cuộc thì kinh vô tự là gì? Tức là “một niệm không sanh.” Quý vị mà có thể một niệm không sanh thì tự nhiên sẽ trở về với không tịch. Tất cả Phật Pháp là như thế và cũng không có gì khác hơn! Nếu như quý vị không thể “nhất niệm bất sanh” thì quý vị hãy còn phải làm nhiều công đức, vun bồi nhiều căn lành Bồ đề và tu nhiều Bồ đề đạo. Chờ khi quý vị được lục độ viên mãn, muôn hạnh đều đầy đủ, đến lúc đó tự nhiên quý vị sẽ “nhất niệm bất sanh và không tịch hiện tiền.”

Vì sao nói Phật không có thuyết Pháp? Trong kinh là nói như thế, luận sớ cũng nói như thế. Vậy rốt cuộc thì Phật có thuyết Pháp hay không? Nếu nói là Phật không thuyết Pháp, vậy thì kinh Hoa Nghiêm mà chúng ta đang giảng đây là từ đâu ra? Nếu như nói Phật có thuyết Pháp, thì tại sao Phật không tự thừa nhận là Ngài đã từng thuyết Pháp? Nếu nói Phật đã thuyết Pháp, thế là phỉ báng Phật. Nhưng hễ quý vị rời xa kinh điển dù chỉ một chữ, tức là ma nói. Như thế thì làm sao giảng Pháp đây?

Vì sao Phật không thừa nhận Ngài đã nói Pháp? Bởi phàm có lời nói là làm ngăn trở nghĩa chân thật. Chân Pháp thì không có người nào có thể nói ra được. Những Pháp mà Phật đã nói đều là Pháp phương tiện cả. Tuy là tạm khai quyền để hiển bày cái thật, nhưng cái thật nầy, nếu hiển bày ra được tức không phải là thật rồi!

Giảng ngày 22 tháng 11 năm 1980

 

11. Pháp Môn Nhẫn Nhục

Quý vị nên biết rằng Sư Phụ nầy của quý vị rất nghiêm khắc, chứ không ngọt ngào gì đâu. Có lúc tôi nghiêm khắc đến nỗi đệ tử tôi phải chảy cả nước mắt, nước mũi nữa đó. Nay tôi xin kể cho quý vị biết là tôi làm sao mà học được cái tánh như thế.

Khi mười sáu tuổi, tôi đã bắt đầu giảng kinh Kim Cang. Trong kinh có nói về một vị tiên nhẫn nhục, vị nầy dù bị vua Ca Lợi chặt đứt cả tứ chi mà vẫn không hề sanh tâm sân hận. Sau khi đọc câu chuyện đó, tôi bèn phát nguyện học theo và một lòng nhất tâm tu pháp môn nhẫn nhục.

Tôi biết tánh mình bẩm sinh là nóng nảy và cang cường bướng bỉnh. Cho nên tôi phải tu pháp môn nhẫn nhục là thích hợp nhất. Nhưng một khi tôi hạ quyết tâm, thì bao nhiêu khảo nghiệm thử thách từ bốn phương tám hướng ào ào kéo tới. Có người xưa nay chưa từng mắng tôi, giờ nầy cũng mắng tôi; người vốn chưa hề đánh tôi, giờ đây cũng đánh tôi. Bạn bè trước đây vốn đối xử với tôi rất tốt, kết quả lại chuyên môn công kích tôi. Thế nên tôi tự xét rằng: “Mình giảng kinh Kim Cang cho người ta, trong kinh có nói về ông tiên nhẫn nhục bị cắt đứt cả tay chân mà không sanh lòng sân hận. Hiện nay những người nầy chỉ chửi mắng mình, công kích mình, chớ họ chưa đến đổi chặt đứt tay chân của mình, nếu mình không thể nhẫn nhục thì làm sao mình còn giảng được kinh Kim Cang nữa đây?”

Vì thế tôi bèn hạ quyết tâm là phải nhẫn nhục. Bất luận những ai đối với tôi không tốt, thậm chí là họ muốn hại tôi, tôi cũng đều nhịn nhục hết. Kết quả là tôi không bị cảnh giới bên ngoài làm dao động. Kỳ thật những người nầy không phải muốn đến hại tôi, mà trái lại họ giáo hóa tôi, xem tôi có chịu nổi mấy thứ khảo nghiệm đó không. Ai mắng tôi thì tôi hướng về người đó khấu đầu đảnh lễ. Có ai đánh tôi thì tôi ngủ ngay một giấc cho họ xem. Lúc còn ở nhà, tôi vẫn thường thường bị mấy thứ như thế đả kích. Nhưng sau khi xuất gia, các bậc thiện tri thức cũng lại tới lui không dứt. Ôi thôi những vị xuất gia trước sau, tả hữu bao quanh bên tôi, chẳng một ai xem tôi ra gì. Họ đều coi tôi như cái gai trước mắt, đều muốn ức hiếp tôi. Có ông thầy khi thấy tôi thắp hương bèn mắng lớn: “Chú mà xuất gia cái gì? Thắp một cây nhang cũng không biết. Thật là đần độn! Còn dám nói tới xuất gia nữa sao!”

Lúc bấy giờ tôi nghĩ rằng: “A! Khảo nghiệm lại đến nữa rồi. Tiên nhân nhẫn nhục bị vua Ca Lợi chặt đứt tay chân mà không sân hận. Còn hiện nay mình chưa bị như thế mà. Được rồi! Thì cứ khấu đầu đảnh lễ ông ta!” Thế là tôi đến trước mặt thầy đó khấu đầu cúi lạy để cám ơn ông ta đã giúp đỡ tôi. Lúc bấy giờ, bất luận là những bậc “thiện tri thức” xuất gia hay tại gia, họ đã không ngừng đến giúp đỡ tôi như thế, nhưng lòng tôi đối với họ vẫn không một mảy may sân hận. Mỗi lần như vậy, tôi đều hồi quang phản chiếu: “Nhất định là lúc xa xưa mình đã không hề giúp họ, trái lại hôm nay họ lại giúp mình, vậy mình phải cảm tạ họ mới phải chớ!”

Bây giờ các vị đã hiểu rõ chưa? Sư Phụ của quý vị là ông thầy như thế đó. Là ông thầy chuyên môn tu hạnh nhẫn nhục, chuyên môn bị người ta ức hiếp. Tôi chuyên môn nhẫn nhịn những cái người ta không thể nhẫn, nhường những cái người ta không thể nhường. Con người như vậy thì có lợi lộc gì? Nhưng quý vị đã quá bất hạnh, vì gặp phải một người chẳng có ích lợi. Vậy sao quý vị vẫn còn muốn học tập theo cái ông Sư Phụ ngu si nầy? Nhưng khi quý vị đã theo tôi rồi, tôi cũng không thể không kể lại chuyện quá khứ từng trải của tôi, là tôi đã đến từ con đường tu hạnh nhẫn nhục đó.

Quý vị học Phật, không nên nghe cho nhiều Phật Pháp rồi lại không chịu thực hành, mà hãy nên cung hành một cách thực tiễn. Quý vị nên tự bản thân y chiếu và cố gắng áp dụng theo những điều răn dạy của đức Phật.

Chúa Giê-Su đề xướng chủ thuyết “Ái địch” là yêu thương kẻ thù địch. Đối với người không tốt với ta, thì ta lại càng phải yêu thương người đó.

Còn Phật giáo chủ trương “Oán thân bình đẳng,” là dù thân hay thù, mình cũng đều xem như nhau. Lòng nhân từ của chúng ta đối với ai cũng nên bình đẳng, không phân biệt thân sơ, khinh trọng. Nếu người học Phật không thể thực sự hành theo, thế thì học đến bao giờ cũng chỉ là học cạn cợt bên ngoài, chứ không thể nào đạt được sự lợi ích chân thật!

Hãy nhớ kỹ! Nhớ kỹ! Bước đầu học Phật nhất định là phải tu nhẫn nhục! Cứ kể như là có người muốn giết mình, mình cũng không nên có tâm sân hận. Thậm chí là nếu so với chỗ tu hành của ông tiên nhẫn nhục, chúng ta lại càng phải tiến hơn một bước. Nhưng đó cũng không phải có ý nói: “Ông tiên tu nhẫn nhục bị chặt đứt tay chân mà không khởi tâm sân hận, vậy bây giờ anh có thể chặt thân thể của tôi đi, tôi cũng không sân hận đâu!” Đó là bắt chước người ta, chứ không phải là từ ý của mình, như vậy là bị hạng nhì rồi. Không những tay chân mình dù có bị chặt, mình chẳng giận hờn, thậm chí nếu thân bị bằm tan xương thịt nát, mình cũng không nên sân hận! Bởi vậy khi có người phỉ báng tôi, hoặc giả đối xử không tốt với tôi, tôi cũng chẳng giận hờn.

Giảng ngày 1 tháng 12 năm 1990

 

12. Xin Quý Vị Bố Thí Cho Tôi

Hôm nay tôi muốn ban ra một mệnh lệnh cho những vị nào đã quy y theo tôi. Mệnh lệnh gì vậy? Hãy nên bố thí! Tôi xin hóa duyên với quý vị. Có người nói: “Sư Phụ! Mấy năm qua Sư Phụ chưa từng hóa duyên xin chúng con. Nhưng hôm nay Sư Phụ muốn hóa duyên xin tụi con, vậy nhất định là Sư Phụ muốn hóa đại duyên, phải không!”

Không sai! Duyên nhỏ tôi không xin đâu. Xin duyên nhỏ thì có ý nghĩa gì? Dù là ba triệu, năm triệu cũng chẳng dùng được gì nhiều. Trên đời nầy, tiền chỉ là những tờ giấy màu mè. Ngay cả nếu quý vị đem vàng bạc cho tôi, tôi cũng không thể ăn và chết cũng không thể mang theo được. Những thứ đó đều không dùng được gì.

Vậy tôi hóa duyên xin quý vị cái gì đây? Đó là xin tất cả cái tánh nóng giận, cái vô minh, cái phiền não, cái sân hận của quý vị đó. Tất cả những thứ đó, quý vị hãy đưa hết cho tôi đi! Bởi vì tôi là một ông thầy “ớt cay” nên tất cả thứ đó tôi không chê nhiều đâu, càng nhiều càng tốt. Nếu quý vị thí xả toàn bộ những thứ đó cho tôi rồi, thì tôi sẽ bỏ chúng vào lò vô minh để rèn luyện. Tôi sẽ dùng lửa vô minh từ từ trui luyện chúng thành vàng ròng, thành kim cương và trong tương lai chúng ta sẽ cùng nhau thành Phật. Cho nên dù quý vị không muốn bỏ cũng phải bỏ, không muốn bố thí cũng phải bố thí.

Ai thật sự là đệ tử của tôi, người đó phải đem các tánh sân giận, vô minh, phiền não, đố kỵ, gây chướng ngại người khác mà xả thí hết cho tôi. Tôi là người thu thập rác rưởi nên quý vị hãy đem hết mấy thứ đó bỏ vào thùng rác, có được không?

Sau đó, chúng ta tiến thêm bước nữa là tịnh hóa làm cho thế giới nầy được trong sạch. Hãy hòa tan hết những ám khí tội lỗi của thế giới nầy, ngõ hầu những tai nạn sẽ hóa thành vô hình và chuyển đổi khổ não thành ra kiết tường.

Đó là điều hôm nay tôi muốn nói với quý vị, chứ không phải là tôi nói chuyện giỡn chơi. Quý vị mới nghe qua thì giống như chuyện khôi hài, nhưng những gì tôi nói là hoàn toàn thật, chứ không phải đùa đâu.

Xác định cho rõ là tôi muốn hóa duyên xin quý vị. Nếu ai không nỡ xả cho thì người đó không phải là đệ tử tôi. Còn ai chịu cho thì người đó mới thật là đệ tử tôi. Không xả cũng phải xả, không nhường cũng phải nhường, không nhẫn nhịn cũng phải nhẫn nhịn, quý vị hiểu không?

Pháp nầy nhất định là vậy, quý vì đừng có lơ là rồi làm qua loa cho xong chuyện. Ai cũng không được chất chứa tật đố hoặc tánh chướng ngại người. Trái lại, chúng ta chỉ nên tận lực hết mình để giúp đỡ kẻ khác tu hành. Đây là những điều tôi muốn nói với quý vị hôm nay. Tôi nói nhiều rồi, chắc quý vị đã bị “cay” đến nỗi không thở được, cho nên hôm nay cay bấy nhiêu đó cũng đủ rồi!

Giảng ngày 25 tháng 12 năm 1980

 

13. Quý Vị Muốn Biết Quỷ Là Gì Không?

Quỷ có rất nhiều loại. Có người cứ tưởng rằng quỷ có bộ dạng hung ác, đáng sợ với bộ dạng mặt xanh, răng nhọn. Thật ra, không nhất định là như thế. Có lúc quỷ hóa ra thân người, mới thấy thì tưởng như người thật, nhưng lại là quỷ.

Nếu quý vị là người đã khai mở Ngũ Nhãn, bọn quỷ không thể nào lừa phỉnh được quý vị. Quỷ lại có thể biến làm súc sanh như: ngựa, trâu, dê, chó, thỏ và các loài cá… Vì sao chúng lại có thể biến hóa như thế? Bởi chúng có thần thông, hoặc giả là chúng biến làm con kiến, con muỗi, con trùng, con ruồi, con chim sẻ, con ong… Ví như lúc mùa xuân, trăm hoa đua nở, cho nên có hàng trăm con ong đến hút mật, nhưng trong đó có rất nhiều hóa thân của quỷ. Trong đám hoa có ong thật, mà cũng có ong giả. Ong thật là do nghiệp mà thọ quả báo, trong khi ong giả là do quỷ biến hóa thành. Chúng nó đi các nơi để hút nhụy hoa, uống sương hoa. Bởi vậy quý vị đừng tưởng rằng, nhất định là không thể thấy quỷ được. Quý vị hàng ngày đối diện với nó, vậy mà hãy còn không nhận ra nó. Cho nên có câu nói: “Đối mặt mà không biết là Quán Thế Âm.” Nhưng đây cũng có thể nói tương tợ như: “Đối mặt mà không biết là quỷ!” Bây giờ có người nói: “Thầy à! Thầy nói như thế, tôi thật là không dám tin đâu!” Ờ! Ông không tin thì thôi. Nhưng sao phải nói là không dám tin hả? Tôi cũng đâu có cưỡng ép ông tin, tôi chỉ nói đạo lý cho ông đề cao cảnh giác, để khỏi ngày ngày chung đụng với quỷ mà vẫn không biết.

Có người nói: “Eo ơi! Thầy mà nói như thế thì chỉ làm cho tụi con lo sợ, rồi tối đến cũng không dám ngủ.” Thế thì dứt khoát là đừng nên ngủ nữa, mà hãy lo tu Bát-chu Tam muội là được rồi. (Là tu pháp môn niệm Phật liên tục 90 ngày, hành giả sẽ không ngồi và cũng không nằm.) Nếu tôi nói lời chân thật thì nhất định quý vị sẽ không tin, thành thử tôi ít nói chuyện thật. Vậy có phải là tôi nói chuyện giả không? Không phải đâu, lời giả lại càng không nên nói. Chúng ta ít nói lời thật, còn lời giả dù một chút cũng chớ nên nói. Nếu chúng ta nói nhiều lời thật, người ta cũng không tin.

Lại nữa, yêu ma quỷ quái cũng có thể biến thành rất nhiều loại động vật khác nhau.  Quý vị còn nhớ năm 1976, khi chúng ta mới dọn đến Vạn Phật Thành lần đầu tiên không? Lúc bấy giờ, có vị cư sĩ mua được một số rùa để đem phóng sanh. Trong đó có một con bị lật ngữa, bốn chân giơ lên trời. Cư sĩ Phùng Phùng cũng có mặt tại đó. Ông thấy có một người mặc y phục màu xanh đang hướng về ông cầu cứu mạng. Ông Phùng Phùng bèn đến tận nơi quan sát, ông phát hiện ra đó là một chú rùa đang bị lật ngữa. Quý vị thấy chưa! Con rùa đó cũng có linh tánh, cho nên nó biết hướng về ông Phùng Phùng để cầu cứu mạng. Vậy mà nhiều năm qua cũng chưa có ai chú ý đến chuyện nầy. Nhưng từ chuyện đó thì biết rằng tất cả chúng sanh, mỗi loài đều có quyến thuộc. Đó là vật cùng loài tụ họp với nhau, khí cơ tương dẫn y theo loại mà hiển hình.

Bây giờ mọi người đang để tâm nghiên cứu chú Lăng Nghiêm, mới biết là quỷ cũng có đủ hình đủ dạng, muôn ngàn loài khác nhau. Chúng nó đều là do cảm quả mà thọ báo, tùy theo loài mà hiện. Trong chú Lăng Nghiêm có nêu danh nhiều vị vua của quỷ thần, trong đó có quỷ dạ xoa (nhanh lẹ), quỷ la sát (kinh sợ), quỷ thủ hồn, quỷ thủ thi, quỷ tỳ xá xá (hớp tinh khí), quỷ cưu bàn trà (làm người tê liệt, còn gọi là bóng đè, ma đè), quỷ đại thân, quỷ điên, quỷ xú (thối), quỷ phú đan na (có mùi hôi độc), quỷ nhiệt, quỷ hàn, quỷ ảnh, quỷ âm nhạc… Ngoài ra còn có quỷ ăn hoa, quỷ ăn nhau sanh sản, quỷ ăn thai, quỷ ăn hài nhi, quỷ ăn mỡ, quỷ ăn đèn, quỷ ăn ngũ cốc… Sự biến hóa của chúng, quả là vô cùng vô tận, vô lượng vô biên.

Trước đây khi chưa nghe chú Lăng Nghiêm, chúng ta đâu biết có nhiều loại quỷ như thế. Nhưng sau khi chúng ta nghe rồi, mới biết là quỷ cũng có rất nhiều chủng loại. Đương nhiên quỷ so với người thì chúng nó đông hơn nhiều. Người tạo nghiệp tội thì bị đọa xuống cảnh giới quỷ, không thể tự mình thoát ra được.

Khi Phật còn tại thế, có lần Ngài hốt lên nắm đất và hỏi chúng đệ tử: “Các ông nói, đất trong tay ta nhiều hay là đất trên đại địa nầy nhiều?” Đệ tử thưa: “Đương nhiên là đất trên đại địa nhiều, còn đất trong tay Thế Tôn thì rất ít.” Thế Tôn nói: “Chúng sanh được thân người như đất trong bàn tay ta, trong khi chúng sanh bị mất thân người như đất trên đại địa.” Bị mất thân người như đất trên đại địa, vậy mất thân người rồi thì họ đi đâu, làm gì? Đương nhiên là đi làm quỷ! Vậy mà còn phải hỏi nữa sao? Cho nên quỷ so ra thì đông hơn người. Kể như có dùng máy điện não (computer) thống kê cũng không tính nỗi, trừ phi dùng “thần não” thôi. Thần não còn gọi là “thiên não”. Có người nói: “Thầy đã phát minh ra thiên não đó hồi nào vậy?” Không phải là tôi phát minh. Nếu quý vị không tin, thì cứ lên trời xem thử. Thiên não là tự tự nhiên nhiên vẫn luôn tồn tại. Loại thiên não nầy không cần người quản lý, cũng không dùng tay ấn xuống bàn phím đánh chữ (keyboard). Khi quý vị muốn biết điều gì, chỉ cần khởi niệm là tự nhiên nó sẽ tính ra ngay, tơ hào cũng không sai sót. Tâm quý vị nghĩ gì, nó lập tức biết liền. Bởi nó huyền diệu thông linh như thế nên tôi gọi là “THẦN”. Nhưng số lượng của quỷ e rằng dùng thần não cũng tính không xuể, bởi chúng nó quá nhiều. Hơn nữa, vừa mới tính xong là nó tăng vọt lên hàng ngàn, hàng trăm ức. Một giây khắc sau, chúng lại gia tăng thêm hàng ngàn trăm ức nữa. Do đó không cách nào tính cho chính xác được. Bởi vì quỷ cũng thoạt nhiên lên trời, rồi cũng thoạt nhiên xuống đất, không có cách nào để định được.

Quỷ cũng có quyến thuộc và bằng hữu. Nếu nó biết chỗ nào có ăn, nó sẽ mời bạn bè nó cùng tới ăn. Ví như loại quỷ ăn hoa có thể hóa làm ong mật hay bươm bướm, chúng đến đâu thì ăn nhụy hoa, uống sương hoa đến đó. Quỷ đói là do chỗ cảm nhận của quả báo, cho nên thường bị lửa đốt chẳng lúc nào ngừng. Thân thể nó cũng có lửa, bên ngoài, bên trong cũng có lửa. Lửa trong lửa ngoài giao nhau hừng hừng thiêu đốt, thống khổ khó tả. Vì sao bị quả báo như thế? Vì khi làm người lại có tánh giận dữ quá lớn, nên sau khi chết biến thành quỷ cũng chẳng được thoải mái, ngày đêm lại bị thiêu đốt, vĩnh viễn không mãn kỳ hạn, muốn trốn cũng trốn không khỏi. Nhưng nếu chúng ăn được một ít mật hoa, sương hoa là chúng giảm bớt được chút nhiệt não nóng bức. Dù chúng có cầu được mát mẻ chỉ một giây lát thôi cũng không được. Cho nên thiện ác, nhân quả, như bóng theo hình, không bao giờ sai chạy.

Quý vị! Hãy cẩn thận!

Lại có một giống quỷ chuyên ăn trái cây. Nhưng trước hết tôi xin giải thích sơ lược về bốn loại ăn (thực). Tất cả  chúng sanh đều nhờ ăn để sống. Nói về ăn tức gồm có bốn loại:

1) Phần đoạn thực: Chúng sanh hữu tình, phàm hễ có khí huyết, hình tướng đều là phần đoạn thực. “Phần” là anh có phần của anh, tôi có phần của tôi. “Đoạn” là từng khúc, từng đoạn, hoặc là từng bữa, từng bữa. Giống như ăn sáng, ăn trưa, ăn tối, và không ăn giữa các bữa ăn, nên gọi là đoạn. Người và súc sanh đều thuộc về phần đoạn thực.

2) Xúc thực: Khi đụng chạm tiếp xúc là như ăn rồi. Quỷ thuộc loại xúc thực.

3) Tư thực: Chỉ cần nghĩ tới là no. Người cảnh trời thuộc về tư thực.

4) Thức thực: Ngay cả ý nghĩ cũng không cần khởi tưởng, vì cơ năng ăn uống ở trong thức thứ tám. Chư thiên ở Tứ Không Thiên thuộc về thức thực. Súc sanh đều có đồng loại với nó. Ví dụ như chim, cùng đồng loại thì chúng sống chung một cách hòa bình. Còn nếu không là đồng loại, mà muốn đến nhà loài khác để làm khách thì không được, vì nhất định là chúng sẽ đánh lộn.

Chắc quý vị cũng nhớ là ở trong khu rừng Vạn Thánh Lâm tại Vạn Phật Thánh Thành, có lúc bầy bạch hạc đã đánh nhau với chim ưng đó. Năm ngoái có một con bạch hạc bị đánh trọng thương, hoặc giả cũng có thể là nó từ trên ổ cao té xuống mà bị thương. Đệ tử tôi là Tiểu Quả Đà, chú nầy trước kia đã từng làm bạn với nó. Có lẽ kiếp trước Quả Đà cũng là chim hạc, nhưng vì nhờ nghe được một chút kinh Phật, cho nên kiếp nầy nó chuyển được làm người. Điều nầy cũng không nhất định là vậy. Quả Đà thấy bạn chim đó đang gặp nạn nên không nỡ lòng bỏ, thế là chú bèn mang chim đến bệnh viện để chữa trị. Nhưng cả đoàn bác sĩ cũng đành bó tay, muốn giúp mà giúp chẳng được. Kết quả là chú phải trả nó về gốc cây. Mặc dù có chim bạch hạc lớn đứng canh giữ bảo hộ, nhưng cuối cùng nó cũng bị chim ưng bắt đi. Do đó chúng ta biết rằng: tất cả chúng sanh loài nào sẽ theo giống nấy, mỗi loài đều có quyến thuộc riêng của chúng.

Trở lại đề tài chính, chúng sanh đều nhờ ăn mà sống. Thí dụ như chúng ta ăn trái cây. Khi trái cây vừa mới được hái từ trên cây xuống, nó vốn là hai trái. Ví như một trái táo (apple), nó không phải đơn thuần là một trái đâu, vì trên mặt trái táo hãy còn có một trái táo khác. Có người nói: “Tại sao tôi không thấy trái đó?” Nếu quý vị thấy được thì sẽ lén ăn nó rồi! Hai trái táo nầy, trong đó có một trái là cái bóng, lại cũng có thể gọi là “Tánh” của trái táo.

Cũng giống như vậy, mỗi cá nhân không phải đơn thuần là một con người, mà còn có một linh tánh tùy thân khác. Nhưng linh tánh của con người thì ẩn tàng bên trong thân thể, không bộc lộ ra ngoài. Nếu linh tánh nầy chạy thoát ra, nó sẽ bị yêu ma quỷ quái ăn mất.

Bất luận chủng loại nào mà biến thành người, phía sau lưng nó vẫn còn lưu lại cái bóng, đó gọi là “quỷ hồn” (con người có ba hồn bảy vía). Ví như kiếp trước người đó làm ngựa, phía sau lưng của y sẽ có bóng ngựa. Có người kiếp trước sanh làm con lừa, cho đến trâu, dê, gà, chó hoặc là heo, phía sau lưng của y vẫn còn lưu lại hình bóng của loài đó. Người đã mở Ngũ Nhãn, nhìn qua là biết ngay: “À! Thì ra người nầy kiếp trước vốn là con chó!” Nhưng không phải ai ai cũng có được Ngũ Nhãn. Bởi e rằng người ta sẽ phanh phui ra hết những vấn đề về kiếp trước của kẻ khác. Cho nên nói: “Thiên cơ bất khả tiết lậu” là vậy.

Trái cây không phải là động vật, tuy không có khí huyết, nhưng nó cũng là sanh vật. Hễ có sanh mạng tức là có tánh. Như đem trái cây cúng tế quỷ thần, quỷ thần sẽ ăn tánh của trái cây đó. Quỷ không phải là cầm trái cây để cắn ăn, mà nó chỉ cần xúc chạm rồi hút lấy tánh của trái cây, tức là đã ăn rồi. Do đó nếu ăn trái cây đã cúng quỷ thần rồi, quý vị sẽ cảm thấy không có mùi vị gì mấy.

Quê tôi thuộc miền núi đông bắc ở Mãn Châu, nơi đó có một loại gấu lớn. Nó ăn món gì cũng không cần cắn xé, tức là nó nuốt trửng nguyên con. Trên núi có mọc một loại lê, gọi là thiết đàn lê vì nó cứng lắm. Nhưng gấu cũng không cần nhai, chỉ ngoạm trái lê một cái là nuốt ngay. Lại càng kỳ diệu hơn nữa là khi đại tiện, nó cũng cho ra nguyên trái lê, hình dáng y như lúc chưa nuốt, không chút sứt mẻ. Nhưng trái lê đó đã không còn mùi vị nữa. Bởi một khi trái lê chạy qua công xưởng hóa học (hệ thống tiêu hóa) trong thân thể con gấu thì chất tinh hoa đã bị hút hết. Cho nên dù hình tướng vẫn còn lưu lại đó, nhưng tánh của nó đã mất rồi.

Từ điểm nầy chúng ta có thể hiểu được tình hình của Phật, Quỷ, Thần ăn trái cây như thế nào. Trái cây đã cúng Phật, cũng không nên để lâu vì nó rất mau bị hư. Cũng giống như con người lúc sanh thời, linh hồn còn ở bên trong, một mai chết rồi thì hồn lìa khỏi xác, thi thể rất mau mục thối. Trái cây nếu còn sanh tánh sẽ không chóng hư thối, nhưng khi đã bị hút mất sanh tánh tức sẽ bị hư hoại rất mau.

Trong bốn loại ăn, quỷ chỉ cần ngửi một cái, chạm một cái là đã ăn xong. Không giống như con người chúng ta, là phải cắn nhai một miếng, rồi lại phải nuốt xuống bụng, rất là phiền phức. Có người hỏi: “Làm sao thầy biết được chuyện như thế? Đó là vì kiếp trước tôi đã từng làm quỷ, cho nên ngày nay vẫn còn nhớ đó mà! Quỷ thuộc loại xúc thực, người Trời thuộc tư thực, chư Thiên ở cõi Tứ Không Xứ thuộc loại thức thực.

Nghiệp báo của mọi loài quỷ thần đều do từ các nhân duyên mà thọ cảm, nhân nào, quả nấy, gọi là: “Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo.” Vì vậy chúng ta nên biết, làm lành thì phước đi theo, làm ác thì họa theo đuổi, giống như tiếng vang của âm thanh. Thọ khổ hay cảm lạc là do tự mình tạo duyên, chớ có do ai khác đâu! Quý vị không muốn làm quỷ thì đừng tạo nghiệp làm quỷ. Hôm nay tôi chỉ nói một đoạn nhỏ về kiếp xa xưa tôi đã làm quỷ. Giả như quý vị không chán nghe, tương lai tôi sẽ kể cho mọi người biết lúc xưa tôi đã làm kiến, làm muỗi như thế nào, ở địa ngục như thế nào, làm súc sanh ra sao… Tôi sẽ nói hết ra, chứ chẳng giấu giếm làm gì.

Tất cả vua của quỷ thần đều có oai đức lớn. Họ có thể chém yêu quái, trừ tai họa và chế phục bọn ngoại đạo. Họ dùng pháp Chiết Phục để hàng phục tất cả bàng môn tả đạo, ma mị yêu tinh, ngưu quỷ, xà thần. Phàm là những phần tử xấu, tà tri tà kiến, tà thuật tà pháp, họ đều có khả năng hàng phục hết. Họ có thể sanh thiện, diệt ác, trừ tà, phá ma. Ác ma là ví cho những kẻ không màng chi đến đạo lý. Phàm những kẻ ngang ngược không màng đến lý lẽ thì rất quái gở và hống hách, họ đều là từ bọn ác ma chuyển thế mà thành. Quý vị có đối xử tốt với chúng bao nhiêu, chúng cũng không biết là quý vị tốt. Cho đến quý vị đem cả máu thịt mình mà hy sinh cho chúng, chúng vẫn không biết đủ, mà cũng chẳng cám ơn vì chúng có lòng tham không đáy. Tại sao vậy? Bởi chúng đã trải qua nhiều kiếp huân tập thói ác, cho nên các ác tập đó đã trở nên thâm căn cố đế, và tánh xấu được hình thành từ sự u tối gàn dở mà chúng lại không chịu sửa đổi.

Những vị quỷ thần vương trong Chú Lăng Nghiêm thống lãnh các quyến thuộc của họ như: thiên binh, thiên tướng, thiên tào, kim cang lực sĩ… Tất cả các vị đó đều lo chấn giữ khắp cả mười phương, bảo vệ người tu hành và ủng hộ làm cho đạo tràng ngày thêm hưng thịnh. Phần trên chúng ta đã nói quá nhiều về các chủng loại quỷ thần và quyến thuộc của chúng. Quý vị nên biết tất cả chúng sanh, mỗi loại cũng đều có “quỷ hồn” riêng của nó. Chó có quỷ hồn chó, mèo có quỷ hồn mèo, đại chúng sanh, tiểu chúng sanh cũng đều có quỷ hồn riêng. Tuy con người thường nói sợ quỷ, nhưng thật ra người và quỷ vốn chẳng có sự phân chia. Quỷ ở âm gian, người ở dương thế, nhưng âm dương vốn là một thể, không phân cao thấp, chẳng có giới hạn. Quỷ thì tham sân si nặng nề, nếu so với người thì con người có giới định huệ nhiều hơn một chút. Do đó quỷ trở thành đám âm khí, trong khi khí bẩm sinh của người và súc sanh thì tạo thành hình tướng.

Vì sao người và súc sanh có hình tướng? Đều bởi vì biết bao thứ chấp trước mới bị nhốt trong cái lồng ngũ uẩn mà trốn không khỏi phạm vi sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Lưới ngũ uẩn nầy làm chướng ngại cho tự tánh của chúng ta, ví như có đám mây đen che lấp mặt trời. Thực ra âm dương vốn là một thể, nhưng nay chỉ bị từng mây ngũ uẩn phân chia mà thôi. Con người bị trận ngũ uẩn làm khốn đốn, quỷ cũng bị rừng cây ngũ uẩn làm vướng vít, cho nên ai nấy đều chìm nổi trong biển nghiệp, sanh sanh tử tử, tử tử sanh sanh. Sanh thời làm người, lúc chết biến thành quỷ. Nhưng nếu ai chịu tu hành thì khỏi phải làm quỷ. Khi tu hành thành công là họ có thể thành Phật, thành Bồ Tát, hoặc chứng quả A La Hán.

Nếu ai chịu giữ ngũ giới và tu thập thiện thì sẽ được sanh lên cõi trời làm thần. Ngũ giới là: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ và không uống rượu. Không sát sanh là từ bi. Không trộm cắp là đạo nghĩa. Không tà dâm là chánh nhân quân tử. Không vọng ngữ là trung tín. Không uống rượu là sẽ không bị cuồng loạn. Kẻ sát sanh, đời sau lại bị quả báo oan ương đoản mạng. Kẻ trộm cắp bị quả báo bần cùng khổ sở. Kẻ tà dâm bị quả báo làm chim sẻ, chim bồ câu, uyên ương. Loài chim sẻ đều ham thích những chuyện cao xa hão huyền, bởi kiếp trước chúng chuyên có hành vi gian dâm và phá hoại đạo đức, cho nên mới có nghiệp báo hiển hiện như vậy. Tôi đã thường nói với quý vị về điều nầy, nhưng vẫn có người không chịu chú ý, cho nên tôi không ngần ngại gì nhấn mạnh thêm lần nữa:

Chúng ta không nên sát sanh! Tất cả chúng sanh từ vô thủy kiếp đến nay đều là cha mẹ, bạn bè, quyến thuộc của ta. Cha mẹ ta vì đời trước đã tạo nghiệt tội, kiếp nầy có thể bị đọa làm heo, ngựa, trâu, dê. Giả như quý vị sát hại súc vật một cách bừa bãi, tức là quý vị gián tiếp giết cha mẹ của mình vậy.

Về trộm cắp, có câu nói: “Chuyện gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác.” Quý vị không muốn ai trộm cắp hay cướp đoạt tài sản của quý vị, thế thì trước hết quý vị không nên trộm cắp tài sản của kẻ khác.

Về việc tà dâm, đối với luật nhân quả, phạm tà dâm là tội nặng nhất và bị trừng phạt tệ hại nhất. Đặc biệt là giữa vợ chồng, nếu hai bên đã ly hôn rồi mà lại kết hôn nữa, căn cứ vào luật nhân quả, đến lúc lâm chung, thân thể họ sẽ bị cắt ra làm hai phần. Bởi lúc sống họ đã có hai mối quan hệ, cho nên khi chết nghiệp báo mới hiện ra. Là có một cái cưa lớn cưa cắt thân người từ trên đỉnh đầu xuống chân ra làm hai. Lúc sanh tiền đã tà dâm bao nhiêu lần, sau khi chết cũng bị cắt chia bấy nhiêu lần. Lúc sanh tiền kết hôn trăm lần, khi chết xuống liền bị phân thành trăm mảnh, để chia từng chút một cho những ai mà họ đã có quan hệ từ trước. Thế bị phân chia như vậy thì có gì không tốt? Vì khi linh tánh đã bị phân ra từng mảnh tan vụn rồi, nếu muốn đem nó tập họp lại tức chẳng dễ gì đâu. E rằng đến cả trăm ngàn ức kiếp cũng không trở lại được thân người. Lúc bấy giờ tánh hóa linh tàn, cùng mục rã với cỏ cây, rồi biến thành thứ thực vật thảo mộc vô tình. Một khi bổn tánh đã bị phân tán thì không dễ gì làm chúng sanh được. Dù cho họ có làm được chúng sanh đi nữa, thì họ chỉ có nước làm loài muỗi mòng mà thôi. Ví như một thân người có thể hóa thành tám vạn bốn ngàn con muỗi, song nếu muốn tập họp tám vạn bốn ngàn con muỗi đó trở lại thành một người, thời không dễ đâu. Đa số là muỗi sẽ sanh trở lại làm muỗi mới. Rồi chúng cứ trôi nổi lên xuống trong sanh tử luân hồi, mà vẫn không biết bội trần hợp giác, xả bỏ mê lầm để quay về chân chánh, nên gọi là: “Nhất thất nhân thân, vạn kiếp bất phục,” một khi mất thân người, muôn kiếp khó được lại. Nếu quý vị có thể thấm thía được ý nghĩa nầy, vậy làm sao mà không lo sợ cho được!

Giảng ngày 5 tháng 2 năm 1981

 

14. Tiền Có Khả Năng Thần Thông – Chớ Sai Lầm Nhân Quả

Theo như Hán tự, chữ tiền () là từ chữ kim () và hai chữ qua () giáo mác mà thành. Có bài kệ nói rất hay:

Nhị qua tranh kim sát khí cao,

Nhơn nhơn nhân tha phạm lao đao.

Năng hội dụng giả siêu tam giới,

Bất hội dụng giả nghiệt nan đào.

Nghĩa là:

Hai giáo tranh tiền sát khí cao,

Người người vì nó chịu lao đao.

Biết dùng thời đặng thoát tam giới.

Không biết dùng khó mà thoát tội.

Qua tức là can qua, giáo mác, là một loại võ khí. Tiền được đúc thành bằng kim loại. Hai người cầm giáo tranh nhau tiền, cho nên tạo thành biết bao cảnh ác nghiệp như giết người, phóng hỏa. Anh tranh, tôi đoạt, sát khí cao ngất tận mây xanh.

Tiền tuy là giả, nhưng ai ai cũng mê mết nó. Không những người thích tiền, mà quỷ cũng thích tiền. Người sống cố tìm đủ mọi cách, phí hết tâm trí để kiếm tiền. Quỷ không có làm việc nên không thể kiếm tiền. Nhưng nó cũng có cách làm tiền, là khiến người ta đốt tiền giấy cho nó. Thật ra, quỷ đâu có cần tiền. Đốt tiền giấy là một loại mê tín, lãng phí tiền bạc, đem tiền thật hóa thành tro bụi. Loại tư tưởng ngu si nầy thật là không thể nói nổi!

Tại Á châu có một thứ phong tục là lúc còn sống, người ta tự đốt thật nhiều tiền giấy cho mình, vì tưởng rằng ở âm phủ có ngân hàng tồn khoán, chờ đến khi chết là họ sẽ được làm quỷ phú hộ. Hoặc giả họ sẽ dùng tiền đó hối lộ Diêm Vương để được giảm nhẹ tội. Họ đâu biết rằng Diêm Vương là một phán quan vô tư, mặt lạnh như tiền, ông chỉ chiếu theo công trạng mà xét xử chứ không nhận bất cứ hối lộ nào. Vì vậy, nếu muốn hối lộ Diêm Vương thì thật là uổng phí cả tâm trí. Nhưng cũng có người nghĩ như thế, cứ tưởng rằng tiền có năng lực thần thông, hễ có tiền thì mọi chuyện đều thông qua như câu nói: “Tiền nhiều có thể sai quỷ kéo cối xay,” đó là lối suy nghĩ hết sức sai lầm. Những người nầy sau khi chết nhất định sẽ đọa địa ngục. Tại sao? Bởi lúc còn sống trên thế gian, nhất định là họ đã làm nhiều chuyện trái với lương tâm. Vì muốn cứu vãn nổi thống khổ của mình sau khi chết, cho nên họ mới đốt thật nhiều tiền giấy. Họ chuẩn bị đưa cho bọn tham ô quan lại những bao lì xì đỏ, xem như để mua chuộc sự dễ dãi vậy. Loại tư tưởng nầy là lừa dối cả chính mình, thật đáng cười thay!

Tiền chi phối người thế gian đến nỗi điên điên đảo đảo, làm những chuyện sai quấy. Bà con lại chẳng chịu nhìn, mà cứ dốc lòng muốn đoạt của lẫn nhau, đến nỗi người thân trở thành người dưng nước lã, thậm chí còn xem như thù địch nữa. Đáng sợ lắm thay! Bởi vì những vấn đề đó, cho nên người tu đạo nên giữ giới tiền bạc để khỏi bị quấy nhiễu bởi mấy thứ phiền toái như thế. Sao gọi là giữ giới tiền bạc? Tức là tay không rờ đụng tiền. Đó mới là người Phật tử chân chánh, giữ được luật Phật và chuyên trì tịnh giới. Không những tay không sờ mó tiền, mà tâm ý cũng không nghĩ đến tiền. Nếu biết rằng tiền là vật không sạch sẽ, vì có vi trùng bám vào, cho nên chúng ta hãy nên ném tiền ra khỏi chín tầng mây, coi nó là vật chẳng lành vậy.

Người tu đạo nên vì chúng sanh làm phước điền tăng, thay chúng sanh gieo phước, tiếp nhận sự cúng dường, và không được phan duyên, cũng như không được tham cầu sự cúng dường. Người tu hành chỉ nên tùy duyên, tùy phương tiện chứ không có ý đồ gì khác. Tại sao người xuất gia không thành đạo? Bởi họ không phá nổi hai cửa tài, sắc. Tài khiến người mê hoặc, sắc làm cho người điên đảo. Hai tảng đá chướng ngại nầy cản trở người tu hành, khiến người ta đắm mê không cách gì tự thoát ra được, thậm chí lại còn trôi nổi hùa theo.

Bất luận ai, hễ giữ giới tiền bạc, tự mình nên đặc biệt chú ý và hết sức cẩn thận. Tay không đụng tiền, tâm cũng không nên nghĩ đến tiền. Đừng nên bên ngoài ra vẻ tuân thủ, mà bên trong vẫn ham cầu lợi dưỡng. Nếu ai có tư tưởng và hành vi như thế thì hãy mau sửa đổi, chứ đừng biết rồi mà cứ cố phạm. Những ai dùng phương thức “ngũ tà mạng” (năm nghề bất chánh) để sanh sống, đều không thật sự là Phật tử, mà là trùng trong thân sư tử, mặc áo Phật, nương theo Phật để kiếm ăn. Nói tóm lại, hễ người có tâm phan duyên là tham tài, đều không có tư cách làm đệ tử Phật. Ai ai cũng vì tiền mà không biết nó là nguyên nhân sanh ra biết bao nhiêu phiền phức. Những ai biết dùng tiền để làm nhiều chuyện công đức như: xây trường học, mở nhà thương, làm những việc có ích cho dân chúng, lợi người, lợi mình thì họ sẽ thoát ra tam giới, khỏi bị cái khổ sanh tử luân hồi và đạt đến sự chân lạc của Niết Bàn. Nếu người không biết dùng tiền, chỉ tạo nghiệp ác, làm những việc tổn hại đạo lý thì khó thoát khỏi tam giới và bị đọa địa ngục. Cho nên nói “tài, sắc, danh, thực, thùy là năm cội gốc của địa ngục.” Hãy nhớ kỹ! Hãy nhớ kỹ! Không nên sai lầm về nhân quả. Vì nhân quả không sai chạy một tơ một hào, cũng là định luật bất biến ngàn đời, cho nên hễ quý vị sai lầm về nhân quả tức nhất định sẽ bị quả báo.

Giảng ngày 4 tháng 6 năm 1981

 

15. Phước Huệ Song Tu

Trong thời quá khứ, đức Phật Thích Ca đã từng “ba a tăng kỳ kiếp tu phước huệ, trăm kiếp gieo tướng hảo.” Do đó Ngài mới thành tựu được ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân trang nghiêm không ai sánh bằng. Chúng ta là người tu đạo, tất phải tu phước huệ. Thế nào là tu phước, tu huệ? Là làm nhiều chuyện công đức. Phàm việc gì có lợi ích cho chúng sanh, chúng ta nên tận lực làm hết mình, là tu phước. Đọc tụng kinh điển, nghiên cứu đạo lý Phật, gọi là “thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải,” là tu huệ. Nói đơn giản như: tạo nhiều công đức thì được phước báo, còn nghe kinh, thuyết pháp là có trí tuệ. Đó là đạo lý tự nhiên.

Phước huệ là do sự bồi đắp tu hành mà có, cho nên nếu không lo bồi đắp thì không bao giờ có phước huệ. Người tu đạo chớ nghĩ đó là phước nhỏ mà không chịu làm, lại càng không thể cho đó là việc ác nhỏ rồi cứ làm. Nếu chúng ta lúc nào cũng biết quý phước, tu phước, trồng phước thì trong tương lai nhất định chúng ta sẽ có đại phước báo. Nếu không, phước thời từ đâu đến? Huệ do từ đâu sanh? Những ai muốn được phước, được huệ mà chẳng chịu làm gì, thì cũng ví như người si mê nói trong cơn mộng vậy. Đó là vọng tưởng trong cái vọng tưởng, vĩnh viễn không thể nào thành sự thật, giống như nói “suyền mộc cầu ngư” tức tìm cá trên cây. Đó là tư tưởng của người ngu, là chuyện không thể nào có được.

Giảng ngày 4 tháng 6 năm 1981

 

16. Nghiêm Trì Giới Luật – Học Nhẫn Nhục

Giới luật là sanh mạng của người tu hành. Người phạm giới cũng bi ai, đau khổ giống như sanh mạng mình đã bị đứt đoạn. Lúc đức Thế Tôn sắp nhập Niết Bàn, Ngài đã từng nói với tôn giả A Nan rằng: “Lấy giới làm thầy.” Đây cũng là sự chứng minh về tánh trọng yếu của giới luật. Nghiêm là nghiêm minh, cũng có nghĩa là trang nghiêm minh sát. Người tu hành không được tùy tiện nói năng lung tung. Lúc nào cần thì nói, mà nói cũng phải có chừng mực, hợp pháp, không được nói năng hồ đồ. Nói theo cách khác, khi đi đứng nằm ngồi, nhất định đều phải có thứ tự, không phải là tôi muốn như thế nầy thì tôi làm như thế nầy, đó không phải là giữ giới luật.

Trì là trì giữ, cũng có nghĩa là dùng tay nắm giữ một cách cẩn thận, thời khắc nào cũng chú ý, không giải đãi. Chúng ta nên tập trung tinh thần để giữ gìn giới luật.

Giới là phòng phi, ngăn ngừa chuyện sai trái, cũng có nghĩa là cấm ngưng các việc ác, gọi là: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành,” không làm các việc ác, vâng làm các điều lành. Giới là khuyên răn trước khi chúng ta phạm tội.

Luật là trừng phạt người sau khi đã phạm tội. Ví như rắn, khi bò thì nó uốn cong mình, đến lúc chun vào ống cống thì nó thẳng mình ra, đó là công dụng của giới luật. Luật là pháp luật, bất luận khi chúng ta làm việc gì cũng phải phù hợp với quy luật, gọi là: “Không có com-pa thì không vẽ thành tròn được.” Chúng ta không nên hành động một cách tùy tiện, như làm cản trở tự do hoặc xâm phạm lợi ích của kẻ khác.

Nói tóm lại, nghiêm trì giới luật là không nổi giận. Khi công phu tu nhẫn nhục của chúng ta đã đúng mức thì dù gặp nghịch cảnh, thuận cảnh gì, chúng ta cũng đều chịu đựng được các thử thách mà không động tâm. Hơn nữa chúng ta vẫn giữ được tâm bình khí hòa và xử sự một cách điềm tĩnh. Khi đạt đến trình độ như thế, chúng ta sẽ không thể không giữ quy củ nề nếp. Phàm người không giữ quy củ là bởi công phu tu nhẫn nhục chưa đủ, cho nên họ mới không thể kiềm chế được ngọn lửa vô minh, để rồi bị nó thiêu rụi hết cả công đức mà họ đã tu được bấy lâu.

Giảng ngày 6 tháng 6 năm 1981

 

17. Không Nên Tùy Tiện Hiện Thần Thông

Tôn giả Ma Ha Mục Kiền Liên là vị có thần thông đệ nhất. Nhưng đức Thế Tôn đã nhiều lần cảnh cáo ông không được tùy tiện hiển hiện thần thông. Tại sao? Bởi vì không phải ai ai cũng có thần thông. Nếu quý vị hiện thần thông một cách bừa bãi, sẽ làm người thế tục kinh sợ, rồi khiến họ mê thích thần thông, sùng bái thần thông. Thế thì người có thần thông sẽ được cúng dường lớn, còn người không có thần thông chắc là chẳng ai muốn cúng dường. Bởi vậy đức Phật mới không cho đệ tử tùy tiện hiện thần thông, với dụng ý là bảo hộ người tu hành đời sau nầy.

Người tu hành không nên tự khoe khoang về đức hạnh, như nói là mình đã khai ngộ, mình là Tổ Sư hay là Bồ Tát. Đó là đại vọng ngữ, tương lai chết đi sẽ đọa địa ngục bạt thiệt cắt lưỡi. Đây tuyệt hẳn không phải là những lời hý luận giỡn chơi. Chỉ những hạng người vô tri, vô thức mới có thứ hành vi tự mãn như thế. Ví như người nào đó thật sự giàu có, họ tuyệt đối sẽ không nói với người khác rằng: “Các anh có biết không? Tôi có bấy nhiêu hột xoàn, bấy nhiêu ngọc quý nè. Tất cả tài sản bảo vật của toàn thế giới, nếu so ra cũng không nhiều bằng của tôi đâu.” Nếu quý vị tuyên truyền như thế, tức làm mục tiêu cho bọn trộm cướp, chúng nhất định sẽ chú ý đến quý vị và tìm cách cướp đoạt châu báu đó.

Tu đạo cũng tương tự như thế, không nên nói với người khác rằng: “Tôi có thần thông. Tôi có thể nghe Phật và Bồ Tát nói chuyện. Tôi có thể thấy Phật, Bồ Tát hiện ra trước mặt.” Hoặc giả có như thế, tức là tạo cơ hội cho Ma Vương thừa dịp nhập vào hợp tác với quý vị, chỉ huy quý vị để làm quyến thuộc của nó. Bất luận gặp cảnh giới nào, người tu hành cũng nên nhận rõ cảnh giới, chớ để cảnh giới xoay chuyển và nên dùng định lực để chuyển cảnh giới. Không nên hồ đồ, nói năng bừa bãi là mình chứng được thần thông gì, thấy được cảnh giới chi. Quý vị nên hiểu đó là do ma tác quái, nó khiến quý vị mất đạo tâm mà phát cuồng. Đó chính là hiện tượng bị “tẩu hỏa nhập ma,” chứ không phải là cảnh giới thật. Trong kinh Lăng Nghiêm có nói rất rõ về năm mươi loại ấm ma.

Tôi hy vọng mọi người nên triệt để nghiên cứu thấu đáo để khỏi bị nhầm lẫn. Nếu không thì sau nầy có hối hận cũng không kịp. Người tham thiền không nên chấp vào cảnh giới, gọi là: “Phật đến thì chém Phật, ma đến thì chém ma.” Bất luận ai đến, mình cũng chém hết. Đó là không chấp tất cả các pháp hữu vi, không chấp tất cả các hình tướng. Người tu hành nên chuyên cần nhất tâm dụng công, nếu được vậy thì còn thời gian đâu để lo những chuyện tào lao. Hơn nữa cũng không nên cống cao ngã mạn, mà cũng đừng tham danh, tham lợi. Nếu như quý vị có thứ tư tưởng và hành vi như thế, tức quý vị bị rơi vào cảnh giới của ma rồi. Người tu hành dù ở trong hoàn cảnh nào cũng không nên tự mãn, không được kiêu ngạo, hoặc nghĩ mình là nổi bậc, phi thường. Hãy cẩn thận, không nên sai lầm về nhân quả. Nếu không, chúng ta không tưởng tượng nổi hậu quả sẽ như thế nào.

Người tu hành chủ yếu là tu giới thanh tịnh, tức là ba nghiệp thân, khẩu, ý đều nên thanh tịnh. Người có thần thông, tuyệt đối không được nói là mình có thần thông; hà huống mình vốn không có thần thông mà nói bừa nói láo, há đó không phải là tạo nhân để đọa địa ngục sao? Điều đó quả thật là đáng sợ! Ai mà khẩu nghiệp không thanh tịnh thì chịu tội cắt lưỡi ở địa ngục. Vậy chúng ta chớ nên liều lĩnh. Thời khắc nào cũng phải tự quản chế mình, không nên buông thả hay nói năng bừa bãi. Nếu chúng ta trồng nhân không thanh tịnh, tương lai chúng ta nhất định sẽ gặt quả không thanh tịnh.

Giảng ngày 6 tháng 6 năm 1981

 

18. Nắm Chắc Thời Gian – Đừng Bỏ Lỡ

Hiện nay chúng ta đang sống trong thời đại Mạt pháp. Sao gọi là Mạt pháp? Bởi hầu như không có người chân thật tu hành. Ai nấy đều lười biếng, thích cầu an thân và chỉ lo dụng công cho danh lợi. Nhân đó mà Phật Pháp có danh chứ không có thực chất. Hiện nay mọi người đang dự Thiền thất, Phật thất, tức là chúng ta muốn đến chỗ chân thật để tu trì Phật Pháp, hầu cải chánh sửa đổi lại các phong tục suy đồi của thời đại Mạt Pháp, khiến cho Mạt Pháp trở thành Chánh Pháp.

“Phật Pháp” tức tất cả các pháp trên thế gian đều là Phật Pháp, chỉ cần quý vị biết cách dùng nó hay không. Nhưng con người thì làm những việc trái ngược với đạo chánh pháp, lại chuyên môn đi vào đường tà pháp. Tu đạo là cần phải làm việc một cách chân thật, vậy mà hiện nay chúng ta làm gì cũng đều đeo mang bộ mặt nạ. Chúng ta chưa có thể cung hành thực tiễn, chưa có nghiêm chỉnh tu hành, thành thử làm hại người và hại cả chính mình. Chúng ta hiện đang dụng công tu, cũng giống như là đang mài giũa một khối ngọc thạch, gọi là:

“Như thiết như tha, như trác như ma.”

Nghĩa là:

“Mài gọt trau chuốt cho nó sáng ngời, khiến nó thành đồ vật hữu dụng.”

Mỗi người chúng ta đều có thể thành Phật, nhưng thành Phật hay không là cần phải xem chúng ta có thật tâm chịu khó dụng công hay không. Ai chịu nghiêm chỉnh tu hành tức sẽ thành Phật, còn như không chịu khó thì sẽ không thành Phật được. Cho nên, ông tu thì ông được, bà tu thì bà được, còn không tu tức sẽ không được. Bảy ngày thiền thất nầy cũng sắp chấm dứt rồi, nhưng khóa thiền thất thứ hai lại sẽ bắt đầu.

Chúng ta nên biết quý tiếc thời gian, đừng để nó trôi qua một cách luống không. Một khi nó đã qua rồi, có muốn tìm trở lại cũng không phải là chuyện dễ đâu.

Giảng ngày 31 tháng 12 năm 1983

 

19. Tham Thiền – Dễ Hay Khó?

“Nan! Nan ! Nan! Thập đảm chi ma thọ thượng thán” tức là “Khó! Khó! Khó! Như rải mười gánh hột mè lên trên cây”. Đó là câu nói của ông Bàng Công Uẩn. Ông cảm thấy việc dụng công tham thiền không phải là chuyện dễ dàng, vì không đau lưng thì đau chân, hoặc bị biết bao thứ bệnh tật quấy nhiễu. Cho nên quý vị không dễ gì được nhất như, hoặc giả khó khăn lắm mới đạt được một chút tiến bộ. Nhưng nếu ngày nào mà quý vị hơi buông thả, thế thì bao công lao từ trước của mình xem như vứt bỏ hết. Bởi vậy ông mới nói: “Khó! Khó! Khó! Như rải mười gánh hột mè lên cây.” Vậy khó đến mức độ nào? Là như rải mười gánh hột mè lên cây. Số lượng mười gánh hột mè đâu phải là ít, lại đem chúng rải lên cây mà không để rơi một hạt nào là việc không dễ làm. Có người bà con của ông nghe vậy, bèn nói: “Nếu quá khó như vậy, thế chẳng có cách nào để tu hành sao?” Nhưng bà Bàng lại bảo: “Dị! Dị! Dị! Bá thảo đầu thượng Tây lai ý.” “Dễ! Dễ! Dễ! Như trên trăm đầu ngọn cỏ đều mang ý từ phương Tây.” Rất dễ, tất cả các núi sông, đất đai, hoa cỏ thảo mộc, đều là đại ý đến từ Tây Trúc của Tổ Sư. Cho nên rất dễ, không có gì là khó khăn. Lúc bấy giờ, có người hỏi người con cảm thấy thế nào về sự dụng công tu hành? Cô gái họ Bàng thưa: “Cũng không khó, cũng không dễ, đói thì ăn, buồn ngủ thì ngủ.”

Ba người nầy tuy nói không giống nhau, nhưng đạo lý căn bản đồng như nhau, tức là đừng nên nhiễm ô, và chúng ta hãy cố gắng luyện công tu hành cho tốt, vậy mới đúng. Ông Bàng, Bà Bàng, và cô Bàng cùng là người trong một gia đình, nhưng chỗ thấy biết của mỗi người lại không giống nhau. Hiện nay, mọi người tuy từ các phương đến đây để dự khóa thiền thất, nhưng mỗi người cũng có ý kiến riêng của mình. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên ít nói một chút và mau lo dụng công tu hành mới phải.

Giảng ngày 1 tháng 1 năm 1984

 

20. Quý Tiếc Nguồn Năng Lượng Của Thân Thể

Con người chúng ta có sáu loại tánh giác tri như: Mắt có thể thấy, tai có thể nghe, mũi có thể ngửi, lưỡi có thể nếm, thân có thể xúc chạm và ý có thể suy nghĩ. Bởi con người là loài linh thông nhất trong vạn vật, cho nên có đủ sáu thứ công năng trên. Còn tổ chức cơ thể của các động vật khác thì không có phức tạp như của con người. Chúng ta ăn uống, mặc quần áo, ngủ nghỉ cũng như xe hơi cần xăng nhớt vậy. Xe chạy đường xa thì cần thêm xăng. Con người chúng ta khi bị tiêu hao năng lượng cũng cần được bổ sung. Bởi vậy con người cần phải ăn, tức là giúp sự chuyển hóa thay củ đổi mới của thân thể. Thức ăn trong cơ thể con người phát ra sức nóng và nguồn năng lượng, hầu giúp chúng ta hoạt động. Nhưng trên thực tế, vì phần tinh hoa của thức ăn rất ít, cho nên chúng ta cần phải bổ sung liên tục. Ví như ăn sáng xong, đến trưa lại đói; ăn trưa xong, đến chiều lại muốn ăn nữa. Lúc ngủ, chúng ta cũng không ngừng tiêu hao năng lượng, cho nên khi thức dậy lại cần ăn sáng.

Chúng ta tiêu hao năng lượng đó như thế nào? Khi mắt chúng ta thấy sắc, đó là mình đang tiêu hao năng lượng. Khi tai nghe âm thanh, cũng là đang tiêu hao năng lượng. Khi mũi ngửi mùi hương, cũng là đang tiêu hao năng lượng. Cho đến khi lưỡi nếm mùi vị, thân xúc chạm, ý niệm suy nghĩ, cũng đều là tiêu hao năng lượng của chúng ta đấy!

Cho nên nhất cử nhất động, nhất ngôn nhất hành của chúng ta, không có cái gì là không làm tiêu hao năng lượng. Nếu quý vị không tiêu phí nhiều, mà chỉ vừa phải thôi, thì sẽ bảo trì thân thể được khỏe mạnh. Nhưng nếu quý vị tiêu hao năng lượng quá nhiều, thì thân thể sẽ bị trục trặc. Ví như chúng ta ăn quá nhiều, ăn chất dinh dưỡng quá phong phú, hoặc giả là ăn thứ có độc, như thế cũng sẽ khiến cho thân thể chúng ta phát bệnh. Cho nên bất luận là đi, đứng, nằm, ngồi, nhất cử nhất động gì, chúng ta cũng đều phải hết sức cẩn thận. Chúng ta không nên vô duyên vô cớ mà lãng phí năng lượng, hoặc tự làm hại thể xác và tinh thần của mình. Cho nên vấn đề nầy thì trọng yếu vô cùng!

Hỡi các thanh niên trẻ tuổi, bây giờ là thời đại hoàng kim của các vị, mà cũng là những ngày thanh xuân của cuộc đời các vị đấy. Mùa xuân thì vạn vật hân hoan tươi tốt, sức sống tràn trề. Nhưng chúng ta nên sanh trưởng thuận theo tự nhiên để phù hợp với sự tuần tự của sinh lý. Chúng ta nhất thiết không nên ăn uống bừa bãi, hoặc nói năng loạn xạ, hoặc uống rượu hút thuốc. Cho đến nhìn bậy, nghe bậy, ngửi bậy, nếm bậy, sờ bậy, nghĩ bậy… tất cả đều không nên. Vì như thế sẽ làm tổn hại đến thân thể và linh tánh của chính mình.

Nếu các vị biết vận dụng sáu chức năng đó như: thấy, nghe, ngửi nếm, sờ và ý nghĩ, vậy thì thân thể các vị sẽ được khỏe mạnh. Nếu không biết dùng, thì một lúc nào đó, thân thể các vị sẽ đình công, bỏ việc và chia tay với các vị. Chia tay rồi là các vị sẽ không được ăn, không được mặc và không có nhà để ngủ. Bởi vậy mọi người nên biết giữ gìn quý tiếc thân thể của mình. Các vị đừng nên sống say chết mộng, để rồi đi vào con đường nguy hiểm. Trong sách Hiếu Kinh có nói: “Thân thể tóc da của ta là được cha mẹ cho, nên ta không dám hủy hại. Hiếu là bắt đầu từ đấy.” Vậy các vị đừng nên tùy tiện tự hủy hoại thân thể mình. Chúng ta nên quý tiếc giữ gìn nó cho tốt, nếu không thì chẳng mặt mũi nào để nhìn cha mẹ. Cha mẹ sanh ta và nuôi dưỡng ta, nếu ta không biết quý tiếc thân thể mình thì đó là hành vi bất hiếu nhất đối với cha mẹ vậy.

Giảng ngày 5 tháng 1 năm 1984

 

21. Ái Hộ Linh Tánh Của Chính Mình

Có một số người nghĩ rằng: “Tôi xấu quá” hoặc giả: “Tôi lùn quá, dù thế nào đi nữa cũng không ai thích cái tướng mạo của tôi, thôi thì tôi cũng chẳng cần phải giữ gìn thân thể nầy làm gì.” Có phải không? Không phải đâu! Lưu Vũ Tích từng sáng tác bài thơ “Lậu Thất Minh” như sau:

Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh. Thủy bất tại thâm, hữu long tắc linh. Tư thị lậu thất, duy ngô đức hinh.  Đài ngấn thượng giai duyên, thảo sắc nhập liêm thanh. Đàm tiếu hữu hồng nho, vãng lai vô bạch đinh. Khả dĩ điều tố cầm, duyệt Kim kinh, vô ti trúc chi loạn nhĩ, vô án độc chi lao hình. Nam Dương Gia Các lư, Tây Thục Tử Vân đình. Khổng Tử viết: “Hà lậu chi hữu!”

Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh. Thủy bất tại thâm, hữu long tắc linh. Núi nổi danh không phải tại cao, mà vì có tiên. Sông linh hiển không do nước sâu, mà vì có rồng. Đồng lý lẽ trên, con người cũng không quý trọng vì được cao lớn, tuấn tú đẹp đẽ, mà điểm tối trọng yếu là biết bồi dưỡng nhân cách cho tốt. Quý vị mà có Phật tánh như thế, tức là “linh” rồi.

Tư thị lậu thất, duy ngô đức hinh. Đây là căn lậu thất, chỉ có hương đức hạnh của ta. Lậu thất tức là căn nhà nhỏ đơn sơ. Tuy thân ta không cao ráo đẹp trai, nhưng ta có đức hạnh, cũng tức là lương tri, lương năng vốn sẵn có trong mỗi con người. Nếu quý vị quý tiếc nó và biết vận dụng nó, vậy là đủ rồi.

Đài ngấn thượng giai duyên, thảo sắc nhập liêm thanh. Vết rêu trên bực thềm, màu cỏ tươi in nhập rèm xanh. Đây là hình dung về căn nhà thô lậu, chất phác mộc mạc, nhưng có dáng dấp thanh nhã thoát tục. Trên thềm đá mọc đầy rêu xanh, màu cỏ xanh tươi nhuận cũng chiếu in lên rèm cửa sổ. Đây là phong cảnh hoàn toàn tự nhiên.

Đàm tiếu hữu hồng nho, vãng lai vô bạch đinh. Cười nói với hồng nho, khách đến không phải dân mù chữ. Hồng nho là người có học. Bạn bè của ta đều là người trí thức, đều là nhân vật vĩ đại. Ta không bao giờ qua lại với kẻ thô lỗ, hoặc người không biết chữ. Cho nên nhà của ta tuy đơn sơ, nhưng bạn bè đều là những nhân vật phi phàm. Chúng ta cùng nhau bàn bạc, học hỏi cách làm người có đạo lý.Thế thì chẳng vui lắm sao?

Khả dĩ điều tố cầm, duyệt Kim kinh, vô ti trúc chi loạn nhĩ, vô án độc chi lao hình. Được khảy đàn cầm, đọc kinh Kim Cang, không dây tơ tiếng trúc làm loạn tai, không văn kiện lao nhọc thân hình: Lúc nhàn rỗi là ta gảy đàn cầm để tự ngộ, khi an tịnh ta đọc kỹ kinh Kim Cang. Cảnh giới nầy tiêu sái, không có một chút mùi trần tục thoải mái biết là bao. Không dây tơ tiếng trúc làm loạn tai. Thời xưa có số nhạc cụ dùng bằng dây tơ hay bằng tre trúc. Âm nhạc mà những người đó nghe rất là thanh nhã cao thượng, chứ không giống nhạc giựt gân hiện nay, nó ầm ĩ làm cho đầu óc người ta choáng váng cả lên. Mỗi ngày họ cũng không phải gấp rút đến sở làm cho kịp, để rồi ngồi tại bàn làm việc bận rộn tíu tít với biết bao sự nhọc nhằn dồn dập. Trái lại, cách sinh hoạt của Lưu Vũ Tích kể trên thì không có gì căng thẳng, lại rất an nhàn tự tại.

Nam Dương Gia Các lư, Tây Thục Tử Vân đình. Khổng Tử viết: Hà lậu chi hữu! Tại Nam Dương, Gia Các Lượng đã từng sống trong lều và ở Tây Thục, Dương Tử Vân cũng từng ở trong ngôi đình nhỏ đơn giản. Ở đây đưa ra hai vị cao sĩ ẩn cư trong thời quá khứ, là những vị không hề tham chuộng phù hoa hào nhoáng của thế gian, đã ẩn náu trong căn nhà đơn sơ. Khổng Tử đã nói: Như thế thì có gì là thô xấu! Đó không phải là tốt lắm sao?

Xem lại bài thơ “Lậu Thất Minh” nầy, con người chúng ta cũng không nên tham cầu cái hoa lệ hào nhoáng bên ngoài. Chỉ cần chúng ta biết quý tiếc nguồn năng lượng của chính thân thể mình, và cố gắng vận dụng những cái thấy nghe hiểu biết của mình cho tốt. Như thế sẽ không cô phụ trí huệ Phật tánh của bản thân mình. Mỗi người chúng ta nên lập mục tiêu tốt và dõng mãnh tiến thẳng về phía trước!

Giảng ngày 6 tháng 1 năm 1984

 

22. Ăn Chay Hay Không Ăn Chay

Thuở ban sơ khi Phật còn tại thế, Ngài chủ trương con người nên ăn chay chứ không bắt buộc người ta phải ăn chay. Vì sao? Bởi có số người rất thích mùi vị thơm ngon, nếu Ngài kiên quyết bắt họ phải ăn chay thì e là họ sẽ không dám xuất gia. Nhân vì lúc bấy giờ có một số đệ tử của Phật thích ăn thịt mà Ngài cũng không nói gì. Người xuất gia là đi khất thực theo thứ lớp tuần tự. Người không ham ăn thì sẽ nói: “Người ta cúng dường thứ gì thì mình ăn thứ đó.” Còn người tham ăn thì có sự lựa chọn hơn.

Rốt cuộc thì ăn thịt và không ăn thịt có chỗ nào không giống nhau? Ăn thịt khiến cho con người có dục niệm nhiều, vọng tưởng nhiều và không dễ được an định. Nếu không ăn thịt thì con người sẽ thiểu dục tri túc, không có vọng tưởng gì nhiều, bởi vì khí huyết của họ thanh khiết, không bị vẩn đục nhiễm ô. Trong thịt có chứa khí dơ, vì nó xuất sanh từ những thứ rất ô uế. Bởi vậy người ăn thịt thì khó trì giới, khó khai mở trí tuệ và khó chứng được tam muội. Muốn giữ giới mà vọng tưởng cứ chập chờn, chung quy họ không giữ được nề nếp quy củ. Thành thử họ không có được định lực, lúc đi, đứng, nằm, ngồi đều cũng không yên. Người mà đã không thể định được, tức sẽ không có trí huệ chân chánh. Vì người có trí huệ chân chánh, tức sẽ không phát sanh bất cứ vấn đề nào. Ăn thịt là đi vào con đường ngu si, không ăn thịt là đi trên con đường trí tuệ. Đây là chỗ không giống nhau giữa ăn chay và không ăn chay.

Ai muốn có trí huệ chân chánh thì phải thiểu dục tri túc, tức là ít ham muốn và biết đủ. Đừng nên ăn thịt nhiều quá. Nếu ta ăn nhiều thịt heo, như đem thịt của chính mình và thịt heo hợp thành công ty hữu hạn. Cho nên trong tương lai nếu ta không biến thành heo thì mới là lạ đấy! Mình mà ăn nhiều thịt bò, mình sẽ cùng bò hợp thành công ty hữu hạn thịt bò và vì vẫn còn tồn tại nhân duyên với bò bên trong, nên tương lai cũng có thể sanh làm bò. Cho đến ăn thịt chó sẽ biến thành chó. Ăn thịt chuột biến thành chuột. Mình ăn thịt gì thì thân thể của mình, do nhân duyên từ thịt đó sanh tồn nên lâu dần mình sẽ biến thành loài đó. Bởi vì phần khí trong thân thể mình đều đã biến thành khí heo, khí bò rồi. Máu huyết của mình cũng biến thành máu huyết của loài đó, cho nên thịt của mình cũng sẽ biến thành thịt của loài đó. Người có trí nên suy nghĩ kỹ về điều nầy!

Giảng ngày 22 tháng 1 năm 1984

 

23. Trước Phá Ngã Chấp – Sau Phá Pháp Chấp

Sao gọi là ngã chấp? Tức là chấp cái “Tôi” đó. Như nói: đây là thân thể “của tôi,” kia là vật sở hữu “của tôi” đấy. Nói tóm lại, tất cả cũng đều vì cái ngã, mà chúng ta phô bày cái tôi ra phía trước. Bởi vì có tôi, không có người, không hết “ba tâm” quá khứ, hiện tại và vị lai và chưa không “bốn tướng” ngã, nhân, chúng sanh và thọ giả.

Làm sao để biết chúng ta đã phá được “ngã chấp” hay chưa? Tức là phải xem xét mỗi ngày, từ lúc chúng ta thức dậy, ăn uống, cũng như các sinh hoạt thường ngày, đi đứng nằm ngồi thì sẽ biết. Trong tất cả mọi thứ cử động đó, có phải chúng ta nghĩ đến mình hay là nghĩ đến người khác? Hoặc chúng ta nghĩ đến đạo tràng? Nếu quả là chỉ nghĩ cho chính mình, lo cho mình, thì đó là người có tư tưởng Tiểu thừa – lợi cho mình mà không lợi cho người. Phật đã từng nói rằng, có loại tư tưởng như thế là “mầm khô giống héo.” Tại sao vậy? Bởi người có tư tưởng như thế thì lòng dạ rất nhỏ hẹp, ngã chấp quá nặng nề. Họ chỉ nghĩ, miễn sao cái của mình tốt là được, chứ chẳng màng gì đến cái xấu tốt của kẻ khác.

Cho nên nói: “Ma Ha Tát chẳng màng đến người, Di Đà Phật tự ai nấy lo.” Đó là tông chỉ của kẻ Tiểu thừa. Và họ xem tam giới như nhà lửa, sanh tử như oan gia nên tự lo cho mình thoát sanh tử, chứ không hề quan tâm đến sự sanh tử của chúng sanh.

Nếu chúng ta lo nghĩ đến người khác, vậy là tư tưởng lợi ích cho kẻ khác. Tự mình muốn được giải thoát và cũng muốn làm cho tất cả chúng sanh đều được giải thoát. Đó là tư tưởng của Bồ Tát. Nói theo cách khác, là quên mình mà làm lợi cho kẻ khác, tức là hành đạo Bồ Tát. Cho nên nói: “Phật quang phổ chiếu, Pháp vũ quân triêm.” Thực hành đạo Bồ Tát là nên dựa theo tinh thần “Vô duyên đại từ, đồng thể đại bi.”

Nếu chúng ta thật lòng nghĩ đến đạo tràng thì nên ủng hộ đạo tràng về mọi phương diện. Chúng ta không nên vì danh, vì lợi hay có bất kỳ một ý đồ nào. Như thế mới đúng thật là ủng hộ đạo tràng. Mỗi ngày chúng ta nên phản tỉnh, tự xem xét lại đi, thời gian mà mình tính toán cho chính mình nhiều hay tính toán cho người khác nhiều, hoặc lo tính cho đạo tràng nhiều. Qua sự hồi quang phản chiếu như thế, chúng ta sẽ biết là mình đã phá được ngã chấp hay chưa. Đây chỉ là một cách nói đơn giản. Nếu nói một cách sâu sắc hơn, tức là hỏi: Có phải ngày nào chúng ta cũng sợ mình bị thiệt thòi? Phải chăng ngày nào cũng lo sợ là mình không được lợi ích gì? Nếu có những ý nghĩ đó thì nên sửa đổi, nếu không thì ráng mà tránh.

Chúng ta cũng nên phản tỉnh và tự xét xem mình có công phu nhẫn nhục hay không. Ví như có người vô duyên, vô cớ mắng mình, hoặc đánh mình, vậy mình có nhẫn nhịn được không? Mình có nổi giận không? Trong lòng mình có ý báo thù không? Nếu có tức là chưa phá được ngã chấp. Nếu không tức là đã phá được ngã chấp rồi. Quý vị hãy nghĩ cho thật kỹ đi: Tất cả các vấn đề và phiền não là từ đâu đến? Thì cũng đều do ngã chấp tác quái đấy thôi. Nếu chúng ta không phá ngã chấp, vậy thì pháp chấp lại sẽ càng không phá nổi. Bậc Tiểu thừa phá được ngã chấp, nhưng chưa phá được pháp chấp. Chỉ có Bồ Tát mới có thể phá trừ cả hai ngã chấp và pháp chấp.

Sau khi phá được ngã chấp rồi, chúng ta phải phá pháp chấp. Sao gọi là pháp chấp? Tức là chúng ta không hiểu rõ pháp ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) do nhân duyên sanh, thành thử chúng ta chấp đó là thật có. Nếu dứt được hết các pháp chấp, tức chúng ta sẽ được viên dung vô ngại và đến cảnh giới nào cũng được tự tại. Khi cả hai ngã chấp và pháp chấp không còn nữa, như thế mới thật là người tu hành chân chánh. Người tu hành chân chánh, bất luận lúc nào, hoàn cảnh nào, tuyệt đối cũng không tính toán cho chính mình. Ngược lại, bao giờ cũng xả mình vì người và hăng hái làm việc nghĩa. Những hành vi của họ đều mang tính chất đại công vô tư, chánh trực và không thiên lệch.

Phật thuyết Tam Tạng và Mười Hai Bộ kinh điển, không đâu là không dạy người phá chấp. Nhưng chúng ta vẫn không nghe theo lời Phật giáo huấn, mà lại muốn làm kẻ phản đồ trong Phật giáo, là vẫn cứ chấp vào cái “Ngã” của mình. Tướng ngã chưa không, tướng nhân chưa không, tướng chúng sanh cũng chưa không, tướng thọ giả lại càng chưa không luôn, mà cứ chấp chặt vào bốn tướng nầy, cho nên chúng ta không thể bỏ được. Đối với đạo lý của ba tâm, chúng ta không thể hiểu, cũng không biết được rõ ràng. Tâm quá khứ vốn không thể có được, tâm hiện tại không thể có được, tâm tương lai cũng không có được luôn. Vì sao? Bởi tâm “quá khứ” đã qua rồi, quý vị đi đâu tìm lại cái tâm ấy đây? Hiện tại vốn không bao giờ dừng, quý vị nói đây là “hiện tại” nhưng “hiện tại” nầy lại đã qua rồi. Hiện tại đã không tồn tại, cho nên nói tâm hiện tại không thể có được. Tâm vị lai cũng không có được, bởi “vị lai” tức là chưa đến, mà chưa đến thì nói đến nó làm gì?

Như Kinh Kim Cang nói:

“Vô ngã tướng, vô nhân tướng,

Vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng.”

Lại nói:

“Quá khứ tâm bất khả đắc,

Hiện tại tâm bất khả đắc,

Vị lai tâm bất khả đắc.”

Mấy câu kinh văn nầy, ai ai cũng đều đọc được, nhưng cũng không ai nhớ làm. Tôi hy vọng quý vị sẽ dựa vào mấy câu kinh trên mà dụng công. Một khi “bốn tướng” không còn, “ba tâm” dứt sạch, đó tức là người tu đạo chân chánh.

Giảng ngày 15 tháng hai năm 1984

 

24. Lục Căn Hỗ Dụng – Diệu Bất Khả Ngôn

Người phàm thường chỉ biết: Mắt có thể thấy sắc, tai có thể nghe âm thanh, mũi có thể ngửi mùi hương, lưỡi có thể nếm mùi vị, thân có thể biết cảm giác và ý có thể biết các pháp. Nếu quý vị nói đạo lý “lục căn hỗ dụng,” họ sẽ không bao giờ tin, còn cho rằng đó là những lời nói vô căn cứ. Nhưng nếu thật sự đã đến cảnh giới nầy và đạt được công dụng nầy rồi, tự chúng ta sẽ biết được Phật Pháp thật có loại cảnh giới đúng như vậy, quả là vi diệu không thể nói, không thể nghĩ bàn.

Có người vọng tưởng rằng: “Tôi không muốn có cảnh giới như thế đâu! Tại sao? Bởi vì phiền phức quá đi thôi. Khi tôi nhìn lên trên thì thấy được các cử động của người trời, lại còn nghe được tiếng nói chuyện của họ nữa, vậy sẽ ảnh hưởng đến tâm thanh tịnh của tôi. Cũng như lúc tôi nhìn xuống lại thấy được tình trạng ở địa ngục, rồi tâm sợ thất kinh, bị ám ảnh đến đỗi tối ngủ cũng không được yên giấc. Bởi vậy, tôi không thích có cảnh giới như thế.” Cho dù quý vị có thích cảnh giới như thế đi nữa, cũng không nhất định là quý vị sẽ đạt được đâu. Tại sao? Bởi quý vị không chịu nghiêm chỉnh tham thiền, hoặc giả như có ngồi thiền thì cũng vọng tưởng, suy nghĩ vẩn vơ, tâm vượn ý mã cứ chạy ra ngoài vùn vụt, tự mình cũng không kiềm chế được chính mình. Hoặc là quý vị đang ngồi thiền bị hôn trầm, mơ màng thấy mình tán gẫu với Châu Công, rồi ngủ ngáy o o, hơi thở mạnh như sấm. Tình hình như thế thì làm sao khai ngộ, làm sao mới có thể đạt đến chỗ diệu dụng – quý vị chỉ tự lãng phí thời gian thôi!

Muốn đạt đến cảnh giới đó, quý vị phải không có vọng tưởng. Quý vị phải như: thấy mà không thấy, nghe mà không nghe, ngửi mà không ngửi, nếm mà không nếm, xúc mà không xúc, suy nghĩ mà không duyên cảnh. Nếu không bị cảnh giới lay chuyển, như vậy quý vị mới có thể đạt đến cảnh giới đó. Nếu quý vị bị cảnh giới lay chuyển như: “A! Mình có thể thấy tận đến cảnh trời xa tít như thế! Rồi không biết là mình có thể ngủ được hay không nữa hả?” Để tôi nói hết cho quý vị nghe, một khi đạt đến cảnh giới đó rồi, quý vị vẫn ngủ được như thường. Lúc nào quý vị muốn ngủ thì ngủ, còn không muốn ngủ thì không ngủ. Tha hồ mà tự tại, tuyệt nhiên quý vị không phải miễn cưỡng làm gì cả. Vi diệu như vậy đó! Người mà vừa có vọng tưởng như trên, sau khi nghe tôi nói như vậy, họ lại dấy niệm: “Mình có vọng tưởng, nhưng Sư Phụ làm sao mà biết được? Hay là Sư Phụ có tha tâm thông?”

Tại sao quý vị có vọng tưởng đó? Nếu quý vị có vọng tưởng đó, thì tôi làm sao mà không thể biết được chứ? Nếu sợ tôi biết, thời quý vị đừng khởi vọng tưởng đó. Quý vị nên biết rằng, vì lục căn hỗ dụng với nhau, cho nên ai ai cũng có thể đạt được cái diệu dụng nầy, chỉ xem là quý vị có tu hành hay không tu hành mà thôi!

Tôn giả A Na Luật Đà không dùng mắt, mà có thể thấy cả tam thiên đại thiên thế giới rõ ràng như thấy trái Am-mala trong bàn tay. Đó là bởi tuy mắt ông bị mù, nhưng ông đã đạt được thiên nhãn thông. Long Bạt Nan Đà tuy không có lỗ tai, nhưng có thể dùng thiên nhãn lắng nghe âm thanh để cứu người bị nạn. Sáu căn của nữ thần Căng Già (thần sông Hằng) đều có thể ngửi được các mùi hương; bất luận căn nào cũng đều có tác dụng ngửi biết được hết. Tôn giả Câu Phạm Bát Đề không dùng lưỡi mà có thể nếm được mùi vị, bởi ông dùng mũi để thay thế cho lưỡi. Thần Thuấn Nhã Đa (thần Hư Không) tuy không có thân thể, nhưng có thể dùng các căn khác để tiếp xúc và vì thế mà biết được tất cả các pháp đều là không. Cho nên ông là thần tự nhiên. Tôn giả Ma Ha Ca Diếp không dùng ý căn mà biết được đạo lý thật tướng của các pháp, tức là vô tướng. Vô tướng cũng có nghĩa là “vô sở bất tướng,” không gì là không có tướng. Trên đây là các thí dụ dẫn chứng về những vị đã đạt được chỗ diệu dụng hỗ tương của lục căn.

Giảng ngày 16 tháng 2 năm 1984

 

25. Trong Cái Không May Có Cái May Lớn

Hỡi các em học sinh! Thời gian tốt nhất của đời người là lúc trước hai mươi tuổi, đó gọi là: “Thời đại hoàng kim.” Trong thời kỳ nầy, Phật tánh vốn có của các em chưa bị mất và tự tánh thanh tịnh vẫn còn tồn tại. Lúc bấy giờ, nếu các em được tiếp xúc với người tốt, các em sẽ làm người tốt. Còn nếu các em qua lại với người xấu, các em sẽ làm người xấu. Các em rất dễ bị ảnh hưởng theo hoàn cảnh chung quanh. Như có câu nói: “Gần son thì đỏ, gần mực thì đen” tức là đạo lý đó.

Nếu gặp được thầy tốt, bạn hiền, các em sẽ thâu thập được nền học vấn chân chánh và có được phẩm hạnh đoan nghiêm. Trái lại, nếu gặp những vị thầy, những người bạn không giữ quy củ phép tắc, các em sẽ chịu ảnh hưởng của họ, rồi sẽ thành người không giữ nề nếp quy củ. Nếu nhỏ thì “hại quần chi mã” tức là một con ngựa làm xấu hại đến cả bầy ngựa; lớn hơn nữa thì làm xã hội bại hoại.

Hãy nhớ lấy! Tự tánh của các em ví như tấm vải trắng thuần khiết, nếu các em đem nhuộm màu xanh thì nó xanh, nhuộm màu vàng thì nó vàng. Các em đang trong hoàn cảnh học hành tốt đẹp như vầy, tương lai nhất định phải làm người có lợi ích cho xã hội, và cải thiện xã hội theo chiều hướng tốt hơn. Các em nên có tinh thần hy sinh tiểu ngã ích kỷ của mình để thành đại ngã lo cho quần chúng.

Hỡi các em học sinh! Đa số các em từ nước ngoài đến (như học sinh từ Việt Nam, Cam-bu-chia và các nước Đông Nam Á), đã từng bị dập vùi lưu lạc với nỗi khổ bỏ nhà mất nước. Trong thời kỳ sôi động bất an, mà các em có được nhân duyên đặc biệt đến Vạn Phật Thánh Thành để học hành, ngõ hầu xây dựng nền móng làm người tốt, đây có thể nói là trong cái bất hạnh không may nhưng có cái may mắn lớn. Bởi vì tông chỉ của trường Tiểu học Dục Lương ở Vạn Phật Thánh Thành là bồi dưỡng học sinh thành người ưu tú lương thiện, khiến học sinh biết thế nào là hiếu thảo với cha mẹ, biết tôn sư trọng đạo, biết chọn lựa bạn lành và trung thành với quốc gia. Còn tông chỉ giáo dục của trường Trung học Bồi Đức là bồi dưỡng học sinh có quan niệm đạo đức, biết về bốn đạo lý: lễ, nghĩa, liêm, sỉ, hầu tương lai các em sẽ làm người tốt lành, đường đường chánh chánh. Đây là hoài bão căn bản của trường học ở Vạn Phật Thánh Thành vậy.

Các em đã được hoàn cảnh học tập tốt đẹp như vầy, các em nên biết quý tiếc thời giờ, sanh mạng của mình, cũng nên biết thương tiếc tất cả chúng sanh và tất cả các thứ vật chất. Đừng để “thời đại hoàng kim” quý báu của các em trôi qua một cách trống không. Các em không nên xem tiểu thuyết, xem truyền hình, mà hãy nên nỗ lực học hành, gọi là: Miệng thì đọc, tâm suy tư, sáng cũng thế, chiều cũng thế (Khẩu nhi tụng. Tâm nhi duy. Triều ư tư. Tịch ư tư.) Miệng đọc sách nào, thì tâm nên suy nghĩ đạo lý trong sách đó; sáng hay chiều cũng đều nghĩ đến đạo lý trong sách. Thời thời khắc khắc đừng quên những điều đã học trong sách, lúc nào cũng nên ôn luyện lại những bài đã học.

Trong sách Luận Ngữ có ghi: “Ôn cố nhi tri tân,” ôn tập lại bài cũ có thể đạt được sự học thức mới, tức là đạo lý đó. Hiện nay các em đang trong thời kỳ học hỏi, ngoại trừ những lúc phụ giúp việc nhà, các em nên chăm lo học hành. Hãy nắm chắc lấy thời gian, đừng để lãng phí. Người xưa nói: “Một tấc thời gian là một tấc vàng, nhưng một tấc vàng khó mua được một tấc thời gian.” Các em xem đấy, thời gian quý báu biết là bao! Cho nên nói: Trẻ mà không cố gắng, khi già mới luống tiếc. Đang trong thời đại hoàng kim mà các em không chịu học hành, đến già có hối tiếc cũng không kịp!

Hỡi các em học sinh! Các em trong thời niên thiếu đã gặp nhiều hoạn nạn, phải rời bỏ quê hương, bôn ba tìm tự do trên lộ trình lưu ly thất tán, khổ không kể xiết. Các em đã trải qua biết bao là khốn khổ, mới đến được vùng đất bình an. Đó là do nhân nhiều kiếp trước, các em không biết tu phước tu huệ, hoặc đã gây hoạn nạn cho người, khiến người ta đau khổ. Bởi nhân đó, ngày nay các em mới chịu khổ nạn. Đó đều là do nghiệp lực của tiền nhân hậu quả mà thọ cảm. Tuy các em hãy còn trẻ tuổi, nhưng đã từng nếm đủ mùi vị tai ương. Như nếu các em lại không phát Bồ Đề tâm, không biết cố gắng học hành, thì tương lai của các em xem như sẽ là hắc ám đen tối nhiều hơn là quang minh xán lạn. Các em có hiểu không?

Bây giờ các em học tại Vạn Phật Thánh Thành, đã biết được Lục Đại Tông Chỉ: không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ và hiểu được cái tinh thần làm người chân chánh. Đây là cơ hội tốt cho các em sửa đổi lỗi lầm để làm lại cuộc đời mới, ngõ hầu tạo dựng cho mình một tiền đồ xán lạn. Các em đừng để nó trôi qua một cách luống uổng, mà phải hiểu rõ tánh cách trọng yếu của nó. Đây là điểm then chốt quan hệ đến cả cuộc đời hạnh phúc của các em đấy.

Hiện nay các em đã đến đây, ngoài thời giờ chăm lo học tập, nếu các em lại biết nắm giữ cơ hội tốt nầy mà thường tu trì, thành tâm niệm Phật, lễ Phật, tham thiền, tĩnh tọa và tu hành như thế, tức các em có thể sẽ đạt được một năng lực siêu quần như: Thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thậm chí đến cả thần túc thông hay lậu tận thông nữa. Bây giờ tôi chỉ giảng bốn thông, sau nầy tôi sẽ giảng tiếp về hai thông còn lại. Sao gọi là thiên nhãn thông? Tức là tại quả địa cầu mà các em có thể thấy được nhất cử, nhất động, từng lời nói, từng việc làm của người trời một cách thật rõ ràng, không có chi chướng ngại. Hiện ở Trung Hoa, có rất nhiều em nhi đồng tuy ở trong nhà mà thấy được sự vật phía ngoài tường vách. Chúng lại có thể biết trong tay người khác đang nắm giấu vật gì. Đó gọi là thiên nhãn thông, cũng tức là tác dụng của cái nhìn thông suốt. Sao gọi là thiên nhĩ thông? Là có thể nghe được chư thiên nói chuyện, lại có thể nghe Phật, Bồ Tát nói, hoặc cũng có thể nghe rõ ràng được tiếng người nói chuyện từ xa ngàn dặm. Hiện nay ở Trung Hoa có một số trẻ em dùng thính giác để đọc chữ viết trên giấy. Tức là có người trước đó đã bí mật viết chữ vào giấy, sau đó chúng để tờ giấy áp vào bên tai và lắng nghe một chút là biết ngay. Trăm lần thử, trăm lần đều đúng chứ không phải đoán mò. Những cảm ứng nầy là do thiện căn từ kiếp trước chúng đã tu được. Nhưng nếu không có bậc Thiện tri thức hướng dẫn chúng, thì khi đã qua tuổi nhi đồng, chúng sẽ mất đi các công năng đặc thù nầy. Sao gọi là tha tâm thông? Tức là trong tâm người khác nghĩ gì mình cũng đều có thể biết rất rõ ràng, thông suốt, không chút trở ngại. Sao gọi là túc mạng thông? Là có khả năng biết được rất rõ ràng về nhân quả quá khứ của người khác, như biết họ đã từng tạo qua nghiệp lành gì, hoặc làm nghiệp ác gì? Nếu các em chịu nghiêm túc tu hành thì sẽ càng đạt được năng lực đặc biệt nầy hơn, và lại càng có thể khai mở đại trí tuệ chứng đắc thần thông về biện tài vô ngại. Nhiều em nhi đồng ở Trung Hoa có được năng lực kỳ đặc siêu phàm nầy. Nhưng rất tiếc là không có người hiểu được các loại tài năng như vậy. Cho nên những bậc nhân tài có thần thông nầy đều bị lãng quên mai một. Đối với Phật giáo mà nói, thì đó quả thật là điều bất hạnh! Nếu chúng ta biết tích cực vun bồi, giúp đỡ cho các em tiểu thần đồng nầy phát triển khả năng như hiện thân thuyết pháp, tức khiến cho người đời sẽ có lối nhìn khác đối với Phật giáo. Ví như người ta từ cơn ác mộng vừa mới thức tỉnh và giác ngộ rằng, Phật Pháp quả là tôn giáo cứu nhân độ thế.

Hiện các em đang học tại Vạn Phật Thánh Thành. Nếu các em lại chịu chuyên tâm nhất chí học tập Phật Pháp, tôi tin rằng các em đều có cơ hội đạt được những năng lực chuyên môn như thế. Những điều đó cũng không phải mê tín dị đoan, mà là sự thật đấy. Giống như truyền hình, ra-đa, máy thâu băng, điện thoại, điện báo v.v… cũng có công năng thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, nhưng mấy thứ nầy là thần thông do người sáng chế, chứ không phải là thần thông tự nhiên. Nếu do tham thiền chứng được thần thông, đó mới là thật sự vận dụng thần thông tự tại. Chỉ cần các em có ý muốn thì các em cũng có thể tu đạt được những cảnh giới như vậy.

Giảng ngày 5 tháng 3 năm 1984

26. Sao Gọi Là Lòng Nhân?

Nhân giả ái nhơn là người có lòng thương yêu mọi người. Chữ nhân nầy nếu đối theo con người mà nói, nhân là sự biểu hiện lòng nhân từ, có tư tưởng tự đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, gọi là: “Chuyện gì mình không muốn thì đừng đẩy cho người.” Việc gì tự bản thân mình không thể chấp nhận, thì chớ gán cho ai. Nếu gán ép cho người những việc mà tự mình đã không thích, đó là người không có lòng nhân.

Người có lòng nhân là người chịu thiệt thòi, chịu nhẫn nhục, gọi là:

“Sơ nhi miễn cưỡng, cửu nhi tự nhiên”

Nghĩa là lúc đầu mình cảm thấy như gượng gạo, khó chịu, nhưng thời gian lâu dần rồi cũng quen thành tự nhiên, không còn thấy bị miễn cưỡng chút nào.

Chữ nhân nầy nếu nói theo sự việc, là mình cần có lòng nhẫn nại và làm chuyện gì cũng làm cho đến nơi đến chốn. Cho nên nói: “Sự dục cầu tinh, tu dụng khổ công, công phu kỹ đáo, xúc loại bàng thông.” Muốn được việc tốt, cần phải chịu khó, khi công đã đủ, gặp chuyện biết ngay. Bất luận khi làm chuyện gì, chúng ta nhất định phải là: đã làm tốt rồi còn muốn làm cho tốt hơn, làm cho đến lúc toàn thiện toàn mỹ mới thôi. Nhưng phải làm như thế nào mới được đây? Tức là chúng ta phải có khổ công phu.

Sao gọi là khổ công phu? Tức là một chữ “Nhẫn”.

Chữ nhẫn ( ) ví như hình ảnh của trái tim () đang bị cái dao () cắm vào, cho nên đau nhức vô cùng. Đây có nghĩa là chúng ta phải nhẫn đau, phải chịu khổ, phải nhịn đói, nhịn khát, nhịn gió, nhịn mưa, nhịn nóng, nhịn lạnh, nhịn tất cả. Chúng ta phải nhịn! nhịn! nhịn! Nhẫn nhịn tất cả những chuyện không thể nhẫn nhịn. Đối với hết thảy các việc, chúng ta đều phải chịu khó, chịu khổ mà làm. Chúng ta phải ráng chịu khổ công, khi công phu đầy đủ thì tự nhiên mình sẽ được thành tựu. Đến lúc đó, chúng ta có thể “nghe một mà biết mười.” Chúng ta sẽ khai mở cửa trí tuệ và đối với mọi việc về sự, lý, chúng ta cũng sẽ hoát nhiên quán thông thấu suốt hết, tức nhìn thoáng qua một cái là biết ngay, không có gì chướng ngại cả.

Lại cũng có thể đem các hạt giống chủng tử để nói về chữ nhân nầy. Ví như khi trồng ngũ cốc, chúng ta nhất định phải chọn hạt giống lớn tốt. Bởi vì giống tốt sẽ nẩy mầm mạnh mẽ, khi đến mùa thu mới có thâu hoạch nhiều. Mỗi người nông dân đều hiểu rõ về việc nầy. Nếu chúng ta không chọn giống tốt, không cày cấy, không tưới bón thì mùa thu đến, chúng ta sẽ chẳng thâu hoạch được gì, gọi là: “Cày cấy một phần thì thu hoạch một phần.”

Tình hình các học sinh học tại trường cũng giống như thế. Khi ở trường nếu các em chịu ra công học hành và nghiên cứu hiểu rõ những đạo lý trong sách vở, đương nhiên là sau nầy các em sẽ trở thành các bậc nhân tài hữu dụng. Nhưng nếu các em không cầu hiểu ý giải thâm sâu, chỉ học qua loa cho xong chuyện, đến chừng sau khi tốt nghiệp thì chẳng có nghề nghiệp sở trường gì, cho nên các em sẽ không có khả năng tìm kế mưu sinh. Để rồi các em trở thành gánh nặng cho gia đình, là ký sinh trùng trong xã hội và bị người khinh rẻ.

Hạt giống chủng tử được phân ra làm hai loại là: chủng tử hữu tình và chủng tử vô tình. Chủng tử hữu tình có thể sanh ra bốn loại động vật như: thai, noãn, thấp, hóa. Chủng tử vô tình sẽ sanh ra thảo mộc thực vật và các loại khoáng chất như sắt, đá.

Chúng sanh hữu tình là loài có tình có tánh. Chúng sanh vô tình là loài không có tình nhưng có tánh, gọi là: “Hữu tình vô tình, đồng viên chủng trí.” Tánh của hữu tình và vô tình thì tương thông với nhau, vì chúng vốn là một. Vô tình là tạm thời vô tình, nếu chúng có thể phản bổn hoàn nguyên trở lại bản thể, chúng cũng sẽ biến thành hữu tình. Nhưng việc nầy không phải dễ dàng vậy đâu, vì chúng phải trải qua một thời gian rất lâu mới có cơ hội phản bổn hoàn nguyên được. Cơ hội đó giống như một hạt bụi rất nhỏ trong ba ngàn đại thiên thế giới đấy. Vả lại cho dù chúng nó có chuyển thành chúng sanh hữu tình đi nữa, chúng cũng đều là loài động vật hạ cấp như con lăng quăng, con trùng, con kiến mà thôi.

Chúng ta tuy là loài hữu tình, nhưng chỉ là tạm thời chứ không phải vĩnh viễn. Nếu như chúng ta không làm người tốt thì linh tánh sẽ biến hóa suy tàn, rồi hóa thành loài thực vật vô tình. Do đó, các cây cổ thụ đều có quỷ thần trú ngụ ở bên trong. Tại sao? Bởi vì cổ thụ và quỷ thần có sự gắn bó tương thông với nhau. Người và quỷ thần cũng gắn bó tương thông với nhau, không có gì ngăn cách. Người tu hành phải hiểu rõ đạo lý nầy, đừng nên đọa lạc làm loài thực vật. Thực vật tuy có tánh, nhưng chúng không dễ gì biến thành loài hữu tình.

Hỡi các em học sinh! Mọi người đều có thể phản bổn hoàn nguyên, đều có thể thành Phật, chỉ cần các em sớm phát Bồ Đề tâm và cố gắng dụng công tu hành; nếu không, đến khi các em bị đọa lạc vào loại vô tình, biến thành loài thực vật rồi mà muốn tu hành thì khó lắm đấy. Lúc đó các em có hối hận cũng đã quá muộn màng!

Giảng ngày 6 tháng 3 năm 1984

 

27. Phật Giáo Hưng Vong – Người Người Có Trách Nhiệm

Khi Phật Pháp sắp đến bờ mé diệt vong, bất luận là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc hay Ưu-bà-di cũng đều nên lấy việc phục hưng Phật giáo làm nhiệm vụ của mình, gọi là:

“Thiên hạ hưng vong, thất phu hữu trách.”

Bây giờ chúng ta có thể nói là: “Phật giáo hưng vong, nhân nhân hữu trách.” Đã là Phật tử chúng ta lại càng nên có trách nhiệm hơn nữa, chứ đừng thoái thác cho người khác. Chúng ta nên tự hỏi lòng rằng: Chúng ta phải làm sao để phục hưng và phát huy Phật giáo cho rạng rỡ thêm hơn? Đây tức là tự mình nên có sự phản tỉnh sâu sắc! Từng giờ từng khắc nên tự kiểm xét lấy mình! Những việc đáng làm, mình đã làm chưa? Nếu chưa, vậy tại sao mình chưa làm? Hoằng dương Phật Pháp là công việc của mọi người. Nhưng chỉ khi nào mọi người cùng phân công hợp tác làm việc với nhau như: Người có tiền thì góp tiền, ai có sức thì góp sức, và cùng nhau nỗ lực nhất trí đoàn kết thì mới có thể làm cho Phật giáo hưng thịnh trở lại. Cho nên có câu nói: “Đoàn kết là sức mạnh.” Chúng ta không nên phân tán như mâm cát rời rạt, cũng đừng nên có quan niệm tụ thủ bàng quan, tức là chỉ biết khoanh tay đứng nhìn.

Là đệ tử Phật, một khi đã hiểu rõ nhiệm vụ của mình, chúng ta lại càng không nên có tâm ỷ lại rằng: “Dù sao cũng đã có người hoằng dương Phật Pháp rồi, tôi bất quá chỉ là một phần tử thì có ảnh hưởng gì đâu.” Nếu ai ai cũng có tư tưởng như vậy, thế thì đến bao giờ Phật giáo mới được phục hưng, được vẻ vang khác thường đây? E rằng sẽ không bao giờ!

Trong thời đại nầy, nếu trên thế giới không có ai chân chánh phát tâm tu hành để làm người lãnh đạo, e rằng Phật giáo nhất định sẽ suy sụp dần dần rồi đi đến chỗ diệt vong. Chúng ta đã là Phật tử thì nên tận tâm tận lực lo cho Phật giáo. Trong thời kỳ hoằng dương Phật Pháp, chúng ta nên dõng mãnh tiến tới, không nên nhát gan lo trước lo sau, cũng đừng sợ người ta ghen ghét, hay sợ bị người gây chướng ngại, vì đó đều là khảo nghiệm thử thách đấy thôi. Bởi một khi trải qua lò lửa hồng tôi luyện thì cũng phải ngàn lần nung nấu, trăm lược trui rèn mới thành được thép tinh, gọi là: “Ngật đắc khổ trung khổ, phương vi nhân thượng nhân.” Chịu được cực khổ trong cảnh khổ mới là hơn người. Đó là lời bàn của người có nhiều kinh nghiệm từng trải. Chúng ta nên thành tâm cống hiến cho Phật giáo, nên đem ý chí kiên cố và lòng quyết tâm chân thật của mình để làm Phật sự. Được như vậy, Phật giáo mới có thể mỗi ngày một chuyển biến tốt đẹp trở lại.

Vạn Phật Thánh Thánh là đạo tràng tu hành chân chánh. Mọi người đều biết chúng ta tuyệt đối không phải là dân bịp bợm giả dối. Cho nên chúng ta phải thật lòng y theo giáo pháp thi hành, chứ đừng giả mang mặt nạ để lừa gạt người đời. Chúng ta cũng không nên có ý tưởng tham muốn những chuyện viễn vông, xa rời thực tế. Mình biết bao nhiêu thì làm bấy nhiêu, như vậy mới đúng là bổn phận của người tu hành. Nếu chúng ta chỉ biết nói suông mà không chịu làm thì chỉ là những lời nói đầu môi, không tốt chút nào. Như vậy chúng ta làm sao có hy vọng phục hưng Phật giáo trở lại cho được?

Giảng ngày 6 tháng 4 năm 1984

 

28. Tất Cả Do Tâm Tạo

Trong kinh Hoa Nghiêm có nói: “Nếu ai muốn biết rõ, tất cả Phật ba đời, nên quán tánh pháp giới, tất cả do tâm tạo.” Tức là tất cả các đạo lý đều do tâm hiển hiện. Tất cả Phật ba đời cũng là do tâm mà hiển hiện. Nói tóm lại, tất cả đều do tâm tạo. Con người có thể tạo nên thiên đường, thì con người cũng có thể tạo ra địa ngục. Thực hành theo mười điều lành là tạo nên thiên đường, làm mười điều ác là tạo thành địa ngục. Tâm cũng có thể tạo ra con người, A-tu-la, súc sanh và ngạ quỷ. Tâm của con người thì vi diệu như thế đó. Vì nó thiên biến vạn hóa không rời khỏi một niệm, cho nên nói “tất cả do tâm tạo.”

Mỗi khi tâm chúng ta khởi động niệm, chư Phật đều thấy biết hết. Nhưng con người chúng ta hầu như đều là bịt tai để trộm chuông, tự mình lừa dối mình, cứ tưởng rằng, chắc Phật Bồ Tát không biết, quỷ thần không biết, ai ai cũng không biết. Khi có ý nghĩ như thế, chúng ta sẽ tạo ra biết bao chuyện điên điên đảo đảo, hại người hại mình, gây thành những điều sai lầm to lớn.

Đối với Phật giáo, chúng ta nên ủng hộ đạo tràng và xem việc chấn hưng Phật giáo là trách nhiệm của mình. Chúng ta không nên tạo các nghiệp ác ở trong đạo tràng và nên hiểu rằng tất cả đều do tâm tạo. Cho nên tại Vạn Phật Thành, trường Đại Học Pháp Giới, Trung Học Bồi Đức và Tiểu Học Dục Lương đều lấy Lục Đại Tông Chỉ: không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ để làm lời răn dạy.

Giảng ngày 12 tháng 4 năm 1984


29. Quả Báo Sát Sanh

Sự thù oán lớn nhất của thế giới không gì hơn là “sát sanh”. Cho nên nói: “Giết người đền mạng, thiếu nợ trả tiền.” Nếu quý vị giết cha, anh của người ta thì người ta sẽ giết cha, anh của quý vị. Cứ như vậy mà tàn sát lẫn nhau, không bao giờ chấm dứt. Bởi nhân sát sanh quá nhiều, cho nên quả báo đến rất mau, gọi là: “hiện thế hiện báo” tức quả báo hiện tiền.

Tại sao người thời nay hay phát sanh nhiều chứng bệnh lạ kỳ như vậy? Nói tóm lại một câu, đó là từ sát sanh mà ra. Quý vị giết mạng chúng sanh, thì chúng sanh sẽ tìm đến quý vị để đòi mạng. Đối với những thứ bệnh tật kỳ quái đó, bác sĩ cũng đành bó tay thôi. Thế thì quý vị nên làm sao đây? Tức là quý vị phải nên thành tâm sám hối, sửa đổi lỗi lầm để làm lại con người mới và làm nhiều việc công đức có lợi ích cho chúng sanh, như thế mới có thể tiêu trừ được các tội nghiệp từ xưa nay. Nếu quý vị không làm như thế, e rằng quý vị sẽ không dễ gì lành bệnh được. Đây là chân lý chứ không phải là mê tín đâu.

1. Mụt Nhọt Mặt Người Đời Hiện Tại

Hôm nay tôi sẽ kể hai công án về chuyện sát sanh. Vào khoảng năm 1945, có Hòa Thượng Đại Minh, trụ trì chùa Thừa Thiên, tỉnh Tô Châu, Trung Hoa. Hòa Thượng nầy tuy là người theo đạo Phật, nhưng tin theo ngoại đạo và trong chùa lại thờ cúng Tiên Hồ Ly. Do đó hồ ly ở chùa nầy ra vào tự do mà không bị ai xua đuổi, và nó cũng không sợ người. Người và hồ ly cùng ở chung một cách bình an.

Lúc bấy giờ, Hòa Thượng đang bế quan nhập thất ở chùa nầy để duyệt đọc Đại Tạng kinh. Hồ ly cũng đến phòng Hòa Thượng cùng tu. Trong lúc Hòa Thượng đọc kinh, nó nằm ngủ trên tấm đệm lạy Phật của Hòa Thượng. Đến khi Hòa Thượng muốn lạy Phật thì Hòa Thượng nói với nó: “Ta muốn lạy Phật, mầy ra ngoài đi!” Lúc đó hồ ly bèn ngoan ngoãn bước ra khỏi phòng. Chờ khi Hòa Thượng lễ xong, nó lại trở vào và tiếp tục ngủ trên tấm đệm bái Phật. Ngày nào cũng như vậy, trải qua một thời gian dài và hai bên trở thành như bạn đạo.

Một ngày kia, Hòa Thượng có chút hơi nóng tính. Đến lúc muốn lễ Phật, Hòa Thượng bảo nó: “Mầy mà không đi ra ngay, tao sẽ đánh chết mầy đấy!” Hồ ly trừng mắt nhìn một cái như không màng gì đến Hòa Thượng, rồi nó lại nhắm mắt ngủ tiếp. Có lẽ nó nghĩ đại khái là: Dù sao người xuất gia cũng có hoài bão từ bi, dùng phương tiện làm cửa ngỏ. Cho nên nó không đi.

Thế là lúc bấy giờ, Hòa Thượng phát giận nói: “Sao lại thế! Thật quả là khách mà muốn lấn át luôn cả chủ nhà à! Tao đánh chết mầy đây!” Nói xong Hòa Thượng lấy cây gậy ra oai để dọa cho nó đi. Nhưng hồ ly vẫn không thèm để ý đến. Đang trong cơn nóng giận, Hòa Thượng quơ gậy quất xuống một hơi. Không ngờ trật tay, Hòa Thượng đánh bể đầu hồ ly, khiến máu chảy nhuộm đỏ cả tấm đệm lễ Phật. Quả thật là Hòa Thượng đã đánh chết nó rồi. Hòa Thượng vì phạm tội sát sanh, cho nên trong lòng hối hận vô cùng và không biết giải quyết thế nào cho ổn thỏa. Nghiệp tội nầy làm sao tiêu được đây? Nghĩ qua nghĩ lại, cũng nghĩ không ra cách nào. Bỗng nhiên linh tánh Hòa Thượng chợt nhớ có người đã nói là: nếu đánh chết hồ ly và đem thịt nó cho người khác ăn thì sẽ tiêu được nghiệp sát. Thế là Hòa Thượng lóc da hồ ly và đem thịt cho mấy người làm công ăn – tưởng như vậy là đã xong chuyện.

Không ngờ bảy ngày sau, linh hồn hồ ly đến nói với Hòa Thượng rằng: “Tôi đã đến Diêm Vương tố cáo ông rồi, ông phải đền mạng cho tôi!” Hòa Thượng đang trong lúc thiền định mà nghe như vậy, cho nên kinh sợ muôn phần. Thế là Hòa Thượng bắt đầu niệm chú Đại Bi. Nhờ sức gia trì của bài chú, hồ ly không thể đến gần Hòa Thượng, cho nên nó không có cách nào làm hại được ông. Nhưng nó cũng không chịu bỏ đi, và lúc nào nó cũng đến quấy nhiễu ông. Bảy ngày sau, hồ ly biết là tự mình không thể báo thù, nên nó đi xin viện binh. Quý vị đoán thử xem, nó xin viện binh nào đây? Thì là âm hồn binh sĩ Nhật Bổn chết trận trong thời Nhật Bổn xâm lăng Trung Hoa. Hồ ly chiêu tập được rất nhiều đội quân đến, rồi chúng dùng đại bác bắn vào thân Hòa Thượng. Nhưng chúng oanh tạc rất nhiều ngày cũng bắn không trúng Hòa Thượng. Tại sao? Bởi vì Hòa Thượng lo tập trung hết tinh thần để tụng trì chú Đại Bi, không rời khỏi chỗ ngồi, cho nên đạn pháo bắn không trúng mà cứ rớt rơi chung quanh Hòa Thượng.

Trải qua nhiều ngày không ăn, không uống, Hòa Thượng thực sự đã sức cùng lực kiệt. Trong phút chốc, Hòa Thượng cảm thấy tinh thần mơ màng hốt hoảng và chẳng may đầu gối bên phải của Hòa Thượng bị trúng pháo. Thế là âm binh Nhật Bổn liền rút lui ngay. Hòa Thượng thoát được trận uy hiếp pháo kích, cho nên trong lòng sung sướng vô cùng vì tưởng đã hết chuyện. Vừa mới nghĩ như thế, Hòa Thượng cảm thấy đau nhức ngay chỗ bị trúng pháo. Hòa Thượng cúi đầu nhìn xuống thì thấy đầu gối bên phải mọc lên một mụt nhọt giống hình mặt người, cũng có miệng, có răng. Vết thương vừa sưng, vừa đau nhức, không thuốc men nào chữa khỏi.

Vào một ngày kia, có người nói với Hòa Thượng: “Lấy thịt mỡ đắp lên miệng mụt nhọt thì sẽ hết đau.” Hòa Thượng thử làm theo và quả nhiên có hiệu quả. Nhưng khi miếng thịt mỡ bị mụt nhọt mặt người ăn hết, Hòa Thượng lại bắt đầu bị đau nhức trở lại. Và cứ vậy mà Hòa Thượng bị mụt nhọt hành hạ hoài, khổ không kể xiết. Trải qua nhiều ngày đau đớn, Hòa Thượng chợt giác ngộ rằng: chỉ có tiêu diệt hết nghiệp chướng mới có thể khỏi khổ đau. Thế là Hòa Thượng hết lòng lo tu hành và không đếm xỉa đến sự đau nhức nữa. Hòa Thượng cố nhẫn chịu trăm phần đau đớn và nhất tâm lo lễ Phật, sám hối nghiệp sát sanh. Trải qua ba năm sau, Hòa Thượng mới hết bệnh.

Hòa Thượng nầy là vị chân thật tu hành, Ngài đã thường đi các nơi tham vấn, học hỏi cùng các bậc Thiện tri thức và cũng từng đi triều bái bốn ngọn núi lớn danh tiếng (Ngũ Đài Sơn, Nga Mi Sơn, Cửu Hoa Sơn, Phổ Đà Sơn) và tám ngọn đại tiểu sơn ở Trung Hoa. Hòa Thượng là vị rất có đạo hạnh. Tuy lỡ tay đánh chết hồ ly, nhưng Hòa Thượng cũng phải sám hối lễ Phật mới tiêu trừ được nghiệp chướng. Do đó chúng ta nên biết nghiệp báo sát sanh là tệ hại nhất. Quý vị chú ý đấy! Không được sát sanh mà nên làm nhiều công đức phóng sanh. Nếu quý vị tùy ý sát sanh thì sẽ bị mấy thứ bệnh kỳ quái, không cách nào chữa trị được, hoặc nữa sẽ thành người tàn phế, rồi hối hận trọn đời!

2. Mụt Nhọt Mặt Người Đời Quá Khứ

Thời vua Ý Tông đời Đường, có vị Quốc Sư tên gọi là Thiền Sư Ngộ Đạt. Khi Thiền sư ở chùa Cư An, tỉnh Trường An giảng kinh, vua Ý Tông đã thân hành đến nghe pháp và đặc biệt ban tặng cho Thiền sư một bảo tòa bằng trầm thủy đàn hương. Lúc bấy giờ, Thiền sư sanh tâm kiêu ngạo, tự cho mình là bậc cao tăng nhất đời, không ai sánh bằng. Không ngờ trong tâm vừa mới khởi vọng tưởng, tức thần Hộ Pháp liền bỏ Thiền sư mà đi. Thế là oan gia trái chủ đã theo Thiền sư mười đời, nay tìm được cơ hội phục thù, nó bèn đánh một chưởng vào ống quyển Thiền sư. Rồi từ đó, đầu gối Thiền sư phát nổi lên một mụt nhọt mặt người, có lông mi, có mắt, có miệng, có răng. Mỗi ngày nó phải được ăn thịt, uống rượu. Nếu không cho nó thịt rượu thì mụt nhọt lại hành đau nhức, khổ không thể tả. Bao nhiêu thầy thuốc cũng bó tay, vô phương cứu chữa.

Trong lúc Thiền Sư Ngộ Đạt chưa được chức vị Quốc Sư hiển đạt vẻ vang. Có một năm ở chùa tại Trường An, Thiền sư gặp một vị tăng đang khổ sở vì bị mọc mụt độc quái ác. Mụn nhọt chảy nước, chảy máu trông thật là dơ bẩn, lại còn xông lên mùi hôi thúi, khiến cho người ta muốn nôn mửa cả ra. Ai nấy cũng không dám đến gần vị tăng bệnh. Lúc đó Thiền Sư Ngộ Đạt đang ở phòng kế bên, ngày ngày sang chăm sóc vị tăng bệnh nầy. Thiền sư hết lòng phục dịch, dâng cơm nước và rửa ráy vết thương cho vị tăng mà không ngại gì đến mùi hôi thúi bẩn thỉu. Thời gian trôi qua chẳng hay chẳng biết, hè qua rồi thu lại. Đến lúc khí hậu trở nên mát mẻ, mụt độc của vị tăng cũng dần dần lành lặn. Lúc sắp chia tay, vị tăng bệnh nói với Thiền sư Ngộ Đạt rằng: “Cám ơn ngài đã chiếu cố đến tôi. Sau nầy nếu ngài có chuyện gì nan giải, hãy đến Mông Sơn ở Tứ Xuyên tìm tôi. Trên núi có hai cây đại tùng làm dấu hiệu. Tên tôi là Ca Nặc.”

Thiền Sư Ngộ Đạt hồi tưởng lại chuyện xưa, bèn lên Mông Sơn tìm vị Tăng bị mụt độc lúc trước.

Từ xa trông lên lưng chừng núi, Thiền sư đã thấy có hai cây tùng cao ngất tầng mây. Khi đến trước hai cây tùng, Thiền sư phát hiện có một ngôi chùa bằng vàng chói sáng rực rỡ. Vừa định đi tìm thì đã thấy vị tăng đang đứng đợi trước cửa chùa mỉm cười, rồi đưa Thiền sư vào. Sau khi Thiền Sư Ngộ Đạt đảnh lễ vị Tăng, Thiền sư bèn kể rõ về nỗi khổ của mình. Vị Tăng bảo Thiền sư sáng hôm sau xuống phía mỏm đá dưới con suối để tẩy rửa vết thương, như thế sẽ lành bệnh.

Sáng ngày thứ hai, chú tiểu đồng đưa Thiền sư đến mỏm đá dưới con suối. Vừa lúc định rửa vết thương, mụt nhọt mặt người bèn phát ra tiếng nói: “Hãy khoan rửa! Giữa chúng ta có mối oán thù chưa hết. Ngài là bậc cao tăng, từng đọc rất nhiều kinh sách, nhất định là Ngài đã đọc qua lịch sử Tây Hán rồi. Vậy Ngài có biết chuyện Viên Án chém ngang lưng Triệu Thố không? Viên Án là Ngài bây giờ, còn Triệu Thố chính là tôi lúc trước. Ngài đã mười đời làm thầy tăng, tu hành nghiêm chỉnh, cho nên tôi không tìm được dịp báo thù. Bởi Ngài sanh tâm kiêu mạn nên tôi mới có cơ hội chui vào. Ngày nay nhờ Tôn giả Ca Nặc từ bi, muốn hòa giải mối oán cừu giữa chúng ta, Ngài dùng pháp thủy tam muội tẩy rửa cho tôi, vậy từ nay về sau, tôi sẽ không còn oán hận Ngài nữa.”

Sau khi Quốc Sư Ngộ Đạt nghe xong, hồn phiêu phách tán đến chín tầng mây. Ngài vội vàng vốc nước rửa mụt nhọt độc, nhưng lại cảm thấy đau nhói tận xương tủy, rồi ngã ra hôn mê bất tỉnh. Sau một thời gian lâu, khi chợt tỉnh lại và nhìn xuống đầu gối thì không còn thấy dấu vết mụt nhọt độc nữa. Bấy giờ Quốc Sư mới biết vị tăng đó là bậc thánh tăng. Quốc Sư định trở lại chùa để chiêm ngưỡng và lễ bái vị tăng, nhưng vừa quay đầu nhìn lại thì chẳng thấy ngôi chùa đâu cả. Thế rồi Quốc Sư kết cỏ dựng lều ở tại nơi đó và sớm chiều chăm lo lễ tụng. Quốc Sư là tác giả của bài Sám Pháp, như ngày nay chúng ta biết đó là bản “Từ Bi Tam Muội Thủy Sám” gồm có ba quyển vậy.

Qua hai câu chuyện trên, tuy có khác chút ít, như phần lớn là giống nhau, đều là cảnh giác cho người ta biết rằng nhân quả báo ứng thật không sai sót mảy may.

Chuyện thứ nhất là sự báo ứng hiện ngay đời nầy, còn câu chuyện thứ hai là sự báo ứng đến mười đời sau. Nói tóm lại, khi nghiệp duyên thành thục là thời vận của chúng ta cũng đã đến lúc và rốt cuộc phải chịu quả báo thôi. Hôm nay tôi nói về hai công án nầy để cho mọi người hiểu rõ sát sanh là có hại, và đừng nên xem đó như trò chơi con nít. Hiện nay khoa học ngày càng tiến bộ, cho nên vũ khí giết người cũng sẽ càng tệ hại hơn. Bao thứ nhân quả họ đã gây ra thì làm thế nào tiêu trừ cho được?

Hiện nay thế giới đang trong cảnh đen tối đầy chướng khí, đụng một chút là cuộc đại chiến sẽ bùng nổ. Bọn ma quỷ oán hờn sẽ mượn cớ nầy để báo thù. Nhưng oan oan tương báo, biết đến bao giờ mới hết đây? Trừ phi là không sát sanh; nếu không, chúng ta vĩnh viễn sẽ không có ngày được bình an.

Giảng ngày 15 tháng 4 năm 1984

 

30. Sao Gọi Là Lục Đại Tông Chỉ?

Quý vị hãy nhìn xem! Hiện nay đa số con người trên thế giới hầu như đang phát điên phát cuồng, trông giống như người mắc bệnh tâm thần vậy. Thế giới nầy sắp sửa biến thành thế giới điên cuồng mất. Bất luận là nam hay nữ, già hay trẻ cũng đều không nhận thức được về các điều kiện cơ bản làm người. Cho nên mới có cảnh anh tranh, tôi đoạt. Vì muốn đạt được mục đích cá nhân mà con người bất chấp mọi thủ đoạn, thấy lợi quên nghĩa, bán rẻ bạn bè. Thật đáng sợ thay! Vậy điều kiện cơ bản làm người là gì? Tức là Lục Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thánh Thành. Nếu ai ai cũng chịu tuân theo như vậy thì thiên hạ sẽ được thái bình.

Lục Đại Tông Chỉ là:

1- Không tranh: Không tranh với bất cứ người nào. Tự giữ những gì mình nên có, và không nên có những thứ mình không cần. Tuyệt đối là không nổi nóng.

2- Không tham: Bất luận những gì về vật chất, hễ mình có đủ dùng là được rồi, và cái gì cũng không tham. Đồ vật của tôi, nếu anh cần thì tôi sẽ cho anh. Chúng ta đừng nên keo tham tiếc của.

3- Không cầu: Không tìm cầu những thứ bên ngoài, gọi là: “Nhân đáo vô cầu phẩm tự cao,” người không tìm cầu tức là người có nhân cách cao thượng. Phàm người có nhân cách là người thiểu dục tri túc, ít muốn biết đủ. Người nào không tham tài, không tham sắc, không tham danh, không tham ăn, không tham ngủ thì tâm người ấy sẽ được nhiều an lạc và lòng họ cũng không cảm thấy lo sợ gì cả.

4- Không tự tư, ích kỷ: Bất cứ vật gì thuộc về công cộng để mọi người thuận tiện dùng, chúng ta không được cất dấu cho riêng mình. Quý vị có thể bố thí, tức là quý vị không có lòng tự tư, ích kỷ, gọi là: “Xem tất cả người già như cha mẹ ta, thương tất cả trẻ thơ như thương con em mình.” Đó là sự biểu hiện của người không có lòng tự tư ích kỷ. Sự thành lập các trường đại học, trung học, tiểu học và viện dưỡng lão tại Vạn Phật Thánh Thành vốn cũng từ tư tưởng đó.

5- Không tự lợi: Là xả mình vì người. Việc gì có lợi thì ta nhường cho người khác làm. Trái lại, việc gì không lợi thì để lại mình làm. Tuyệt không bao giờ có tham đồ về danh văn lợi dưỡng, mua danh câu tiếng, vì đó là những tư tưởng tự tư, tự lợi.

6- Không vọng ngữ: Miệng có bốn tội ác là: vọng ngữ, ỷ ngữ, ác khẩu và lưỡng thiệt. Người mà phạm một trong các tội ác nầy, tương lai sẽ bị đọa địa ngục bạt thiệt cắt lưỡi. Vọng ngữ là một trong Năm Giới. Người học Phật Pháp, nhất định nên nghiêm giữ Năm Giới. Vọng ngữ là gì? Là nói lời giả dối, gọi là: Thấy – nói không thấy; không thấy – nói thấy; nghe – nói không nghe, không nghe – nói nghe; không hiểu – nói hiểu, hiểu – nói không hiểu; biết – nói không biết, không biết – nói biết. Đó tức là vọng ngữ.

Tại sao người trên thế gian lại phát điên, phát cuồng như thế? Bởi vì họ có tâm tranh, tâm tham, tâm cầu, tâm ích kỷ, tâm tự lợi và tâm vọng ngữ. Cho nên suốt ngày họ cứ điên điên đảo đảo chẳng được tự tại. Đây là vấn đề rất nghiêm trọng, chúng ta không nên xem đó như những lời hý luận mà hãy mau cải thiện tập quán xã hội, nếu không thì sẽ nhận lãnh hậu quả không thể tưởng tượng được.

Giảng ngày 16 tháng 4 năm 1984

 

31. Con Cháu Của Ma Vương

Đức Phật đã dùng định lực để thắng lực thần thông của ma vương trong khi đấu pháp với chúng. Lúc đó ma vương bèn nói với Phật rằng: “Bây giờ tôi không có cách gì để thắng được ông, nhưng chờ đến tương lai sau nầy, khi đệ tử của ông không có đủ định lực, tri kiến lại bất chánh, lúc đó tôi sẽ đục cửa chui vào nhà ông mà mặc áo của ông, ăn cơm của ông, sau đó tôi lại còn tiểu tiện vào trong bát của ông, thử xem ông sẽ làm sao!” Đức Phật Thích Ca điềm nhiên nói: “Thế thì ta không có cách gì cả.”

Rõ ràng hiện nay, đã có người xuất gia công khai nói Kinh A Di Đà là giả, với lý do là trong kinh có những câu không có căn cứ để khảo chứng như: “Từ đây đi về phương tây, trải qua mười vạn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc.” Ông ấy hỏi rằng: “Vị quan địa phương nào đo vậy? So ra khoảng cách của mười vạn ức cõi Phật có lẽ là nhiều hơn một chút, hoặc cũng có lẽ là ít hơn một chút. Thế thì có chắc là mười vạn ức cõi Phật không?” Đúng là những lời lý luận ngu si xằng bậy, chỉ làm trò cười cho thiên hạ!

Gần đây, lại có vị xuất gia tuyên bố với mọi người rằng Kinh Lăng Nghiêm là ngụy tạo, đừng nên tin. Bởi căn cứ vào đoạn kinh văn: “Nhân ngày húy kỵ của vua cha, vua Ba Tư Nặc thiết trai thỉnh Phật vào cung điện. Nhà vua đích thân nghênh đón đức Như Lai, và thiết bày đầy cả thức ăn quý,” vị đó cho rằng đoạn văn nầy không phù hợp với phong tục Ấn Độ lúc đương thời – bởi ở Ấn Độ không giảng về đạo hiếu. Nhân đó ông quyết đoán rằng Kinh Lăng Nghiêm là ngụy tạo, không phải do Phật thuyết giảng. Đó chính là hành vi hủy kinh báng Phật, và quả báo của sự hủy báng nầy khó mà tưởng tượng nổi. Tư tưởng của sư nầy thật quá ấu trỉ! Tâm sư ở đâu, quý vị có thể suy ra thì biết!

Trong Kinh Pháp Diệt Tận nói rằng: “Tương lai khi đến thời kỳ Mạt Pháp, bộ kinh Lăng Nghiêm sẽ bị hủy diệt trước hết.” Bởi vì Kinh Lăng Nghiêm là đại biểu cho thời đại Chánh Pháp. Nếu không có kinh Lăng Nghiêm, tức là không có Chánh Pháp. Hiện nay có rất nhiều sơn yêu thủy quái, chúng chủ trương là Kinh Lăng Nghiêm không phải do Phật nói, và muốn mọi người đừng tin. Nếu không tin Kinh Lăng Nghiêm, vậy bao nhiêu Kinh điển khác đều có thể lấy bút quẹt bỏ hết mà không tin luôn à! Vì sao? Bởi không có căn cứ chăng! Cho nên quý vị có thể thấy rằng tâm địa của ma vương quả thật quá cay độc!

Đây cũng bởi vì Kinh Lăng Nghiêm nói lên sự thật quá rõ ràng. Trong khi ma vương lại không thể giữ được Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối tức bốn lời răn dạy thanh tịnh, cũng không thể tu được Pháp Môn Viên Thông của hai mươi lăm vị Thánh, và càng không dám đọc về cảnh giới của Năm Mươi Loại Ấm Ma. Vì nó sợ bại lộ nguyên hình, khiến cho người ta biết được bộ mặt thật của nó, cho nên nó mới tìm cách hủy diệt Kinh Lăng Nghiêm. Hủy diệt đây không phải là đốt kinh điển, mà là hủy diệt kinh từ trong tâm chúng sanh, khiến cho mọi người mất lòng tin đối với Kinh Lăng Nghiêm.

Chuyện trên đời là kỳ diệu như thế đấy. Thật rất ít có ai nhận biết được. Cũng giống như nghề buôn, người bán thuốc giả thì rất đắc hàng, trong khi người bán thuốc thật lại chẳng có ai mua. Tại sao? Bởi không có người chân chánh nhận biết được giá trị của nó. Cho nên tôi bảo là sự thật thì không ai nhận biết, còn giả thì lại làm cho mọi người say mê. Đó là đạo lý rất dễ hiểu thôi!

Hiện nay là thời kỳ Mạt Pháp, có nhiều người phỉ báng và không tin các vị thầy chân chánh tu trì Phật Pháp. Nhưng các thầy giả, bởi giảng pháp quá náo nhiệt nên có rất nhiều người đến nghe Pháp, đến nỗi trong giảng đường không còn chỗ chứa, người ta chen chúc như hộp cá mồi, chật thở không ra hơi. Thế mà lại có người xuất gia đề xướng khẩu hiệu không ăn chay. Ông thầy nầy nói với mọi người rằng: “Phàm hễ là người ăn chay đều có tâm tham; còn người không ăn chay mới không có tâm tham.” Lý luận như vậy thật là chọc cười cho cả thiên hạ, là làm mù mắt người, khiến cho người ta hồ đồ – hồ đồ qua, hồ đồ lại, hồ đồ cho đến lúc xuống địa ngục, vĩnh viễn không bao giờ thoát khỏi.

Cho nên khi học Phật Pháp, chúng ta cần nên có trạch pháp nhãn, con mắt biết chọn lựa Pháp thì mới có thể phân biệt được phải hay trái, đúng hay sai và thiện hay ác một cách rõ ràng. Nếu không vậy, chúng ta chẳng khác gì như người mù sờ voi, mò không ra được đạo lý chân chánh. Người ta nói sao thì mình lập lại y như vậy, nghe rồi phụ họa theo. Người ta nói con voi như bức tường, mình cũng nói theo là voi như bức tường. Người ta nói con voi giống như cây cột, mình cũng phụ họa nói voi giống cây cột. Rốt cuộc thì con voi giống như cái gì? Chúng ta đều chẳng biết. Khi học Phật Pháp, chúng ta phải hiểu cho được đạo lý, chứ đừng đi theo một cách mù quáng. Mọi người nên đặc biệt chú ý điểm nầy!

Giảng ngày 17 tháng 4 năm 1984

 

32. Chẳng Phải Là Ra Vẻ Khác Lạ Đâu

Tôi xuất thân từ miền quê và được giáo dục ở học đường rất ít, cho nên tôi hiểu biết không được nhiều. Đó là lý do vì sao tôi muốn mọi người cùng tập hợp lại với nhau, như câu: “Tập tư quảng ích,” là tập trung lại nhiều ý kiến hữu ích. Dùng trí tuệ của mọi người để cùng thảo luận các vấn đề. Nếu ai có ý kiến gì quý báu xin cứ việc nêu ra. Chúng ta vì công việc cải thiện nền giáo dục mà tham khảo với nhau.

Sau khi xuất gia, tôi nhận thấy tình trạng Phật giáo mỗi ngày càng một đi xuống, cho nên tôi muốn cải thiện lại. Tôi cảm thấy nền giáo dục cũng mỗi ngày một xuống dốc, cho nên tôi hy vọng sẽ sửa đổi cho tốt hơn. Tôi nguyện đem hết chút sức lực mình để làm chút lợi ích cho người. Bởi chí nguyện nầy, hiện nay tôi thành lập trường Đại Học Pháp Giới Phật Giáo, trường Trung Học Bồi Đức và trường Tiểu Học Dục Lương tại Vạn Phật Thánh Thành. Và để thực hiện nguyện vọng đó của tôi, tất cả các lớp học đều miễn phí.

Tại sao tôi muốn làm như vậy? Có phải vì tôi háo danh, ham tiếng, hay là vì muốn làm kiểu cách cho khác lạ chăng? Không phải đâu. Dụng ý của tôi là hy vọng tu chỉnh lại chế độ cửa hàng kinh doanh của nhà trường, khiến cho những người chỉ vì tiền trong ban giáo dục sẽ cải thiện lại các tư tưởng bất chánh nầy. Họ nên lấy việc giáo dục và đào tạo học sinh thành người lương thiện, tài giỏi để làm tông chỉ. Tuy tư tưởng nhà trường như là kinh doanh đã thâm căn cố đế, nhất thời không dễ gì thay đổi. Nhưng tôi xin mọi người hãy đồng tâm hiệp lực để làm lại sự nghiệp nầy, ngỏ hầu dần dần sẽ cảm hóa được những người chủ ban kinh doanh ở nhà trường, khiến họ tự thấy được lương tâm và nhận thức rằng giáo dục là công tác thần thánh. Bởi vì giáo dục là đào tạo nhân tài trong thiên hạ, là việc làm vui vẻ, khoái lạc. Nếu họ vẫn mê muội, không chịu tỉnh ngộ, cũng chỉ vì kiếm chút đồng tiền hôi thối, mà không biết hối tiếc là đã làm hại tiền đồ tương lai của học sinh. Tội nầy thật không thể dung tha và họ sẽ ân hận ngàn đời. Chúng ta nên biết rằng, tiền là vật ngoài thân, sanh không mang đến, chết không đem theo. Cho nên nói: “Muôn thứ không đem được, chỉ có nghiệp tội theo mình.” Nghiệp chướng mà chúng ta đã tạo khi còn sống, sẽ cùng xuống theo địa ngục để ta chịu khổ vô gián đoạn. Đến lúc đó, dù chúng ta có hối hận thì cũng đã muộn rồi!

Ngày 27 tháng 5, 1984 trường Đại Học Pháp Giới Phật Giáo sẽ cử hành lễ tốt nghiệp. Những sinh viên đạt tiêu chuẩn tốt về đạo đức và học vấn, khi mãn khóa sẽ được phát bằng chứng thơ học vị. Thông thường trong buổi lễ, các sinh viên tốt nghiệp đại học sẽ đội mũ đen có bốn góc vuông. Dù là cử nhân, thạc sĩ hay tiến sĩ, tất cả đều mang cùng một loại mũ như vậy và thế giới cũng đều công nhận điều nầy.

Các sinh viên tốt nghiệp trường Đại Học Pháp Giới Phật Giáo cũng được đội mũ, nhưng có chỗ cải tiến như: Cử nhân sẽ đội mũ bốn góc, Thạc sĩ sẽ đội mũ năm góc và Tiến sĩ sẽ đội mũ sáu góc. Tại sao phải là như vậy? Bởi vì mỗi loại hàm chứa các ý nghĩa khác nhau. Bốn góc là đại biểu cho người trong bốn biển đều là anh em, kiêm thêm ý là tứ thông bát đạt, bốn phương đều thông suốt; lại cũng biểu hiện của Tứ Vô Lượng Tâm: từ, bi, hỷ, xả. Năm góc đại biểu cho Ngũ Hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ; hoặc là Năm Giới căn bản: sát, đạo, dâm, vọng, tửu; hoặc cũng đại biểu cho năm châu: Âu, Á, Phi, Mỹ, Úc. Sáu góc đại biểu cho Lục Độ: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ; hoặc đại biểu cho sáu phương: đông, nam, tây, bắc, trên và dưới; cũng có thể nói sáu góc là đại biểu cho sáu nghề: lễ, nhạc, xạ, ngự, thơ, số. Đó là những ý kiến của tôi, hy vọng mọi người sẽ đưa ra ý kiến để chúng ta cùng nhau nghiên cứu rồi quyết định.

Có người nói: “Vì theo truyền thống, cho nên tất cả các sinh viên khi tốt nghiệp đại học đều đội mũ bốn góc.” Nhưng theo cách nhìn của tôi, nếu có phương pháp tốt mà chúng ta không dùng và vẫn cứ khư khư giữ khuôn phép cũ, thế thì phải nói là quá cố chấp, cũng có thể nói là ngu si nữa.

Ở phương Tây, tôi chưa gặp qua người tốt nghiệp Đại học Phật giáo chân chánh nào cả. Phật giáo ở đây chỉ là mới bắt đầu, nên chưa có quy chế nhất định. Trường Đại Học Pháp Giới Phật Giáo là tận hư không, biến pháp giới, quảng đại vô biên. Bây giờ tạm thời không có người nào biết, nhưng trong tương lai sẽ có rất nhiều người bắt chước theo cách thức như trường học của chúng ta. Cho nên nay tôi đề nghị là sinh viên tại gia khi tốt nghiệp đại học sẽ đội mũ đen, còn sinh viên xuất gia khi tốt nghiệp đại học sẽ đội mũ vàng. Tôi cũng chẳng biết ý kiến nầy có giá trị không nữa!

Giảng ngày 20 tháng tư năm 1984

 

33. Phương Châm Giáo Dục Của Vạn Phật Thánh Thành

Bất luận làm việc gì, chúng ta cũng phải có lòng nhẫn nại, từ từ làm chứ không được gấp rút. Quý vị nên biết thành phố La Mã (Rome) không phải chỉ trong một ngày mà hoàn thành được. Cùng như lý lẽ trên, việc giáo dục học sinh, không phải một hay hai ngày là có thể dạy cho chúng hiểu rõ được. Mà cần phải có tâm bền chắc, lâu dài để dạy chúng làm sao trở thành người tốt, và làm sao tạo cơ sở cho nhân cách tốt. Chứ không phải dạy học sinh làm sao có được việc làm tốt và kiếm được nhiều tiền để tự mình được hưởng thụ. Đó là lối giáo dục theo chủ nghĩa vị lợi.

Phương châm giáo dục của Vạn Phật Thánh Thành là dạy học sinh học tập về nhân nghĩa đạo đức. Trong tương lai, khi chúng ra phục vụ cho xã hội, dù ở cương vị nào, chúng cũng sẽ dựa theo đạo đức nhân nghĩa mà làm việc. Chúng tuyệt đối sẽ không hùa nhau làm bậy, cũng không có hành vi làm tổn hại người để lợi mình.

Quý vị nhớ đấy! Chúng ta không nên ham danh háo tiếng, cũng đừng học theo thói ngụy quân tử, giả bộ là nhà từ thiện, làm được chút việc rồi đến đâu cũng quảng cáo, tuyên truyền cho mình. Chúng ta nên học tập theo đức hạnh chân chánh, và thực hành một cách thực tiễn. Phương pháp giáo dục của chúng ta hoàn toàn khác biệt với phương pháp giáo dục của mấy chỗ khác. Không phải là chúng ta muốn đánh đổ cách giáo dục của họ để nêu lên nền giáo dục của mình; cũng không phải là chúng ta muốn tranh giành hay muốn thi đua gì với ai. Mà chúng ta chỉ muốn giữ vững lập trường giáo dục để dạy dỗ cho thế hệ kế tiếp. Không cần biết là người ta làm đúng hay không, chúng ta chỉ muốn làm việc cho đúng, và không làm trái với lương tâm, thế là đủ rồi.

Giảng ngày 25 tháng 4 năm 1984

 

34. Từ Bi Hỷ Xả Là Cơ Bản Tu Đạo

Người tu hành nhất định là phải bồi dưỡng Tứ Vô Lượng Tâm. Khi có Tứ Vô Lượng Tâm rồi, mình mới có thể giáo hóa chúng sanh và khiến cho chúng sanh lìa khổ được vui. Nếu người tu đạo không có Tứ Vô Lượng Tâm, tức là làm ngược lại với đạo và dù có tu đến tám vạn đại kiếp, cũng vẫn còn xa Phật đạo đến cả tám vạn bốn ngàn cây số.

Tứ Vô Lượng Tâm là điều kiện cơ bản mà mỗi người tu nên có. Sao gọi là Tứ Vô Lượng Tâm? Tức là từ, bi, hỷ, xả. Vô lượng là không có hạn lượng, có nghĩa là không bỏ dở nửa chừng, hoặc không đến giữa đường rồi tự vạch mức giới hạn cho mình, không muốn tiến tới. Như mới được chút đỉnh đó thì lấy làm đủ và nghĩ là xong rồi. Thật ra, Từ Bi Hỷ Xả không có lúc nào là đủ cả, mà có được càng nhiều thì càng tốt. Chúng ta nên mở rộng, tăng cường từ bi hỷ xả cho đến khi đạt đến cảnh giới toàn thiện mới thôi.

1. Từ là có thể cho niềm vui. Chúng ta có cho chúng sanh niềm vui không? Nếu như không có, đó tức là chúng ta không dùng hết lòng từ của mình. Chúng ta nên tiến đến mục tiêu “vô duyên đại từ,” là dùng lòng từ bi đối xử với những người không có duyên với mình. Chúng ta không những thông cảm với người cùng trong hoàn cảnh khó khăn, mà chúng ta cũng nên thông cảm với cả loài động vật trong cảnh hoạn nạn nữa. Nếu có chuyện không may xảy ra, chúng ta nên ra tay tiếp đỡ, giúp chúng sanh thoát vòng khổ hải. Đấy là công việc mà Phật tử nên làm. Chúng ta đừng nên có thái độ dửng dưng, chỉ biết đứng nhìn mà không chịu giúp, vì thế là đánh mất tinh thần cứu thế của Phật Giáo. Trái lại, Phật Giáo lấy từ bi làm hoài bão, dùng cửa phương tiện của đạo Phật để tiếp nhận chúng sanh.

2. Bi là có thể bạt trừ khổ não. Chúng ta có thể bạt trừ sự đau khổ của chúng sanh không? Nếu không thể, thì đó là vì chúng ta chưa dùng hết lòng bi của mìmh. Chúng ta nên có tư tưởng “đồng thể đại bi,” cũng tức là thấy người chết chìm như chính mình bị chết chìm, thấy người đói như chính mình bị đói. Phật giáo lấy bi làm tông chỉ, vì bi là lòng lân mẫn, thương xót. Trong khi các nhà Nho nói rằng “bi thiên mẫn nhân” lại cũng phù hợp với ý nghĩa trên. Do đó mà biết rằng tư tưởng của thánh nhân trong thiên hạ đều giống nhau, như cùng xuất phát theo vết bánh xe, không tách rời lòng trắc ẩn xót thương. Phật giáo chủ trương từ bi, Nho giáo đề xướng trung thành và tha thứ. Tâm tâm tương đồng, đấy là cốt tủy của tôn giáo, nếu không thì là dị thuyết của ngoại đạo.

3. Hỷ là tâm vui vẻ. Chúng ta có hoan hỷ vui thích học Phật Pháp không? Chúng ta có sanh ưu sầu, phiền não, hoặc có tâm tư bực dọc không? Nếu quả là có, chúng ta hãy mau sửa đổi, đừng phát sanh tánh tình như thế. Nếu còn chút ít tập khí, rồi dụng công phu từ thất tình lục dục, thì đó là quan niệm sai lầm. Nên hiểu là chúng ta không được tiếp tục có thứ quan niệm sai lầm như thế. Nếu không, chúng ta không thể nào tưởng tượng nỗi hậu quả của nó sẽ ra sao.

4. Xả là tâm buông xả. Chúng ta có tâm buông xả không? Nếu có, vậy là lớn hay nhỏ? Là nhất thời hay là vĩnh viễn? Xả cái gì? Là phát tâm cho chúng sanh sự vui vẻ, bạt trừ cái khổ của chúng sanh và giúp họ trong hoàn cảnh nguy khốn. Nếu làm được như thế, chúng ta sẽ sanh lòng hoan hỷ đến mức vô hạn, nhưng chúng ta đừng nên chấp vào đó – làm xong việc rồi nên quên hết chứ đừng lưu giữ trong tâm thức. Nếu chúng ta chấp mà không quên được, đó không phải là hạnh nguyện của Bồ Tát. Chúng ta nên có tinh thần thi ân bất cầu báo thì mới được xem là người Phật tử chân chánh.

Giảng ngày 26 tháng 4 năm 1984

 

35. Nhẫn Là Bảo Vật Vô Giá 

Đã là Phật tử, chúng ta nhất định phải biết nhẫn. Nhẫn cái gì? Là nhẫn nhịn những cái người ta không thể nhẫn. Có người nói: “Tôi thật là nhịn hết nổi rồi!” Nếu chúng ta nhịn hết nổi, tức là không thể “hết” được. Hết cái gì? Là hết nghiệp chướng. Nếu nghiệp không tiêu, tình chưa không, tức là còn có sanh tử. Cho nên nói: “Nghiệp bất trọng, bất sanh Ta-bà. Ái bất đoạn, bất sanh Tịnh độ.” Chừng nào nghiệp tận, tình không, đến lúc đó chúng ta mới hết sanh tử và được giải thoát thật sự.

Người tu hành nên có công phu tu nhẫn nhục. Nhẫn đói, nhẫn khát, chịu gió, chịu mưa, chịu nóng, chịu lạnh, đến nỗi phải nhẫn sự chửi mắng, và nhẫn sự đánh đập luôn. Những cảnh nầy đều là thử thách. Như tôi thường nói: “Tất cả là khảo nghiệm, xem bạn sẽ làm sao? Đối cảnh mà không biết, phải luyện lại từ đầu.” Dù gặp nghịch cảnh như thế nào đi nữa, chúng ta cũng nên tiếp nhận với tâm lý “nghịch lại thuận thọ.” Chúng ta đừng để cảnh giới xoay chuyển, hoặc dựng cờ trắng mà đê đầu xin hàng phục. Người xưa nói: “Việc nhỏ mà không nhịn tức sẽ làm hư chuyện lớn.” Nhẫn nhịn là bảo vật vô giá: “Nhịn giây lát, gió yên sóng lặng; lui một bước, biển rộng trời xanh.” 

Khi đức Phật Thích Ca còn tại thế, có một hôm Ngài đi ngang qua bờ sông và thấy một con dã can (thuộc loài lang sói), muốn ăn thịt con rùa. Nhưng con rùa thì rút đầu, thụt cả chân tay vào trong cái mai, rồi nó nằm yên không động đậy một lúc thật lâu. Dã can vì không có tâm kiên nhẫn nên bỏ đi, còn rùa nhờ có lòng nhẫn nại mà bảo tồn được sanh mạng. Đức Phật nói với Tôn giả A Nan rằng: “Người tu hành cũng nên như vậy.” Bậc cổ đức nói: “Gần đây tôi mới học được cách của con rùa, lúc nào đáng rút đầu thì hãy rút đầu.”

Trong lúc nóng giận mà quý vị nhịn được, thì quý vị sẽ miễn lo âu cả trăm ngày. Nếu người ta chửi mình, xem như mình đang thưởng thức một bài hát đang thịnh hành. Nếu có người đánh mình, xem như mình đi đường vô ý va vào cột cửa. Nếu quý vị quán tưởng như thế, dù là giáo mác gì cũng tự nhiên biến thành ngọc lụa. Nếu không, ngọn lửa vô minh nổi cơn lôi đình sẽ bốc cao ba trượng, mà phát thành một trận đại chiến. Kết quả hai bên đều bị thương, không những tổn thương tình cảm, lại còn mất cả nhân cách và bị người ta chê bai là mình thiếu tánh điềm tĩnh.

Cho nên nói: “Thọ tận thiên hạ bá ban khí, dưỡng tựu hung trung nhất đoạn xuân,” tức là chịu được hết trăm lần lời chỉ trích của thiên hạ, sẽ nuôi dưỡng thành khúc nhạc xuân trong tâm ta. Chúng ta có thể lấy những lời vàng ý ngọc nầy để làm câu châm ngôn cho mình.

Giảng ngày 5 tháng 5 năm 1984

 

36. Có Lòng Tham Sẽ Không Thành Tựu Được Gì

Người tu hành nên trong sạch như con mắt của mình – không thể dung chứa dù chỉ một hạt cát. Ví như trong mắt quý vị có hạt cát, nhất định quý vị rất khó chịu và lo tìm cách để lấy nó ra ngay. Nếu không, cả thân tâm quý vị cũng chẳng sao yên được. Tu đạo cũng giống như thế. Hạt cát đó là gì? Là lòng tham. Có lòng tham thì mọi việc sẽ bắt đầu biến đổi. Bản lai vốn trong sạch, nhưng một khi trong đầu có ý tham, tức khởi động tác dụng hóa học, biến nước trong sạch thành nước dơ. Như vậy đã không có lợi cho người, trái lại còn hại cho mình nữa.

Người tu hành hễ có một phần thành tâm là có một phần thành tựu và cảm ứng, có mười phần thành tâm, sẽ có mười phần thành tựu và cảm ứng. Khi có được thành tựu và cảm ứng rồi, chúng ta không nên chấp chứa ở trong tâm. Vì là “ưng vô sở trụ” nên chúng ta hãy quên phức nó đi. Mục đích chủ yếu tu đạo của chúng ta là vì muốn liễu sanh thoát tử, chứ không phải vì cầu cảm ứng. Quý vị nên nhớ lấy! Chúng ta tu hành thì không nên có ý đồ, như cầu được thành tựu, muốn được cảm ứng, vì đó là điều sai lầm to lớn. Mọi người nên hiểu cho rõ về điểm nầy. Nếu quý vị chuyên tâm nhất chí tu hành, khi công phu đến mức thành thục rồi, tự nhiên quý vị sẽ được thành tựu và cảm ứng. Nhưng nếu tu hành mà có ý đồ, quý vị vĩnh viễn sẽ không thành đạt gì và cũng không có cảm ứng chi.

Như câu nói: “Có tâm là vọng tưởng, vô tâm là cảm ứng.” Cảm ứng thì có thể hy vọng, nhưng không nên cầu xin.

Người tu hành nên: “Chỉ hỏi chuyện cày bừa, chứ không hỏi việc thu hoạch.” Bất luận làm việc gì, chúng ta cũng nên tận lực làm và đừng màng đến kết quả sẽ ra sao. Dù như thế nào, mình cũng nên quang minh chánh đại, điểm xuất phát là chỉ vì công chứ không vì tư, không có tâm ích kỷ riêng tư khi làm việc và không tính toán lo rầu về chuyện thành hay bại. Khi làm việc cho công chúng, chúng ta cũng nên như vậy. Chúng ta không nên lo sợ, giống như phía trước đang có sói, còn phía sau thì có cọp. Vì nếu có chuyện xảy ra, ai cũng không dám đứng ra gánh vác, rồi xô đẩy trách nhiệm cho nhau. Chuyện nhỏ mà như vậy, còn chuyện lớn thì cứ suy ra thì sẽ biết.

Đừng có vọng tưởng như người ngu, là không đi học mà muốn được bằng Tiến sĩ; không trồng trọt mà muốn thu hoạch ngũ cốc; không mua vé đua ngựa mà đòi trúng giải nhất. Đâu có chuyện tiện lợi vậy. Như mùa xuân quý vị phải lo gieo giống, cày cấy, tưới nước, bón phân, thì đến mùa thu mới có thâu hoạch được. Cho nên nói: “Một phần cày bừa, được một phần thâu hoạch,” là đạo lý tự nhiên thôi!

Quý vị hãy chú ý, chớ nên khởi tâm tham cầu, tham thành tựu, tham cảm ứng, vì đó là chuyện mơ mộng, như đi trong cõi mịt mờ và cũng đừng nên tự dối gạt mình. Nếu như không nhận rõ được mục tiêu, bỏ gốc lấy ngọn, là quý vị lãng phí thời gian quý báu của mình mà chẳng được gì, sau có hối hận cũng đã trễ mất!

Giảng ngày 17 tháng 5 năm 1984

 

37. Vô Minh Là Căn Bản Của Sanh Tử

Vô minh tức là tham, sân, si, mạn, nghi. Năm thứ ác nghiệp nầy có thể khiến cho con người điên đảo đến phát cuồng.

1. Tâm tham: Là đối với cảnh thuận, chúng ta sẽ khởi lòng tham ái đến nỗi không có thì không được. Thậm chí có người vì muốn được mục đích của mình mà bất chấp các thủ đoạn, bằng không họ chẳng cam lòng.

2. Tâm sân: Là khi gặp cảnh nghịch, chúng ta sẽ giận hờn và nổi nóng, như không chửi người thì cũng đánh người, thậm chí còn giết hại người nữa. Đó đều là do tâm sân hận tác quái, nó khiến con người mất cả lý trí và ý chí xử sự mọi việc. Người có tâm như thế, ắt sẽ làm cho xã hội chẳng được an ninh, trật tự.

3. Tâm si: Là người không có trí huệ, không biết phải trái, cũng không phân biệt được thiện ác, cho nên hồ đồ điên đảo, hậu quả là thành kẻ bất lương, tạo nhiều nghiệp tội.

4. Tâm mạn: Là tự đề cao mình và đè ép người khác. Tự cho chuyện gì mình cũng hay hơn, nổi bậc hơn người. Thứ hành vi cống cao ngã mạn nầy là điều tối kỵ, chúng ta không nên có.

5. Tâm nghi: Là người đối với việc chánh đáng lại sanh lòng hoài nghi, không tin lời nói của bất cứ ai. Người có thứ tâm lý như vậy là bất thường, là sai lầm vì đã tự hạ thấp mình.

Năm loại tâm lý nầy đều là không bình thường, đều là do cái nhân vô minh dẫn đến. Người tu hành nhất định phải tiêu diệt vô minh, đừng để nó gây sóng gió thành tai họa vô cùng tận như vậy.

Vô minh khiến cho kẻ phàm phu chỉ biết dụng công vào mấy thứ tình dục. Họ nghĩ rằng chuyện tình ái ở thế gian là thật, cho nên họ không thể xa rời và cũng không nỡ buông bỏ nó. Do đó họ gắn bó với lục thân quyến thuộc một cách rối ren mà buông xả không đành. Rồi họ tạo ra biết bao thiện ác lẫn lộn, họ cũng không phân biệt được giữa ô nhiễm và thanh tịnh. Đời đời kiếp kiếp, họ cứ quay quanh trong vòng sanh tử luân hồi, vĩnh viễn không bao giờ ngừng. Cho nên nói vô minh là căn bản của sanh tử.

Người tu hành không có mấy thứ rắc rối đó đè nặng trong tâm, cho nên họ dễ được thanh tịnh, giải thoát và hết sanh tử. Nếu không cắt đứt vô minh, chúng ta vĩnh viễn sẽ bị nó chi phối, để rồi xuống địa ngục, chạy lên núi đao, hay là vào chảo dầu sôi. Lúc bấy giờ, chúng ta sẽ hối hận là lúc đầu sao mình không chịu tu hành tinh tấn. Nhưng rất tiếc là đã không còn kịp nữa.

Tôi xin khuyên quý vị nên tu hành cho kịp thời, đừng có tưởng là ngày tháng còn dài mà hẹn lần, hẹn lựa.

Bậc cổ đức có nói: “Đừng đợi đến già mới học đạo, mồ lẻ loi lắm kẻ thiếu niên.” Học đạo được một ngày là gần được Tịnh Độ thêm một chút. Như vậy từng chút từng chút, quý vị sẽ đến được cõi Tịnh Độ. Nếu quý vị không chuyên cần tu đạo mà lại muốn đến Tịnh Độ, thì sẽ không đến được đâu! Công việc trên đời, dù chúng ta có lãng phí thời gian để làm, rốt cuộc cũng chẳng được lợi ích gì. Nhưng chỉ có pháp môn tu hành là không lãng phí thời gian. Nếu quý vị tu được một phút thì được một phút lợi lạc. Cho nên nói: “Gom cát thành tháp,” tức là từng bước, từng bước không ngừng tiến tới, tự nhiên quý vị sẽ đến được bờ bên kia.

Giảng ngày 5 tháng 7 năm 1984

 

38. Người Nước Kỷ Lo Trời Sập – Tự Tìm Khổ Não

Có người trong lòng khởi vọng tưởng như: “Không biết đến lúc già, mình có bị chết đói, chết rét hay không nữa?” Đây là lối suy nghĩ chẳng có ích lợi gì. Là đệ tử chân chánh của Phật dù cho bị chết đói, chết rét chúng ta cũng chẳng thấy sao mà lại nghĩ rằng, nếu mình hy sinh vì Phật giáo, thì không còn gì quang vinh bằng.

Trong thời quá khứ Đức Phật Thích Ca đã từng trải qua ba a tăng kỳ kiếp tu phước huệ, và trăm kiếp gieo tướng tốt. Tất cả các đại địa, đất đai trong tam thiên đại thiên thế giới, không có chỗ nào, dù nhỏ như hạt bụi mà không phải là chỗ của đức Phật đã xả bỏ tánh mạng Ngài. Chúng ta nên xét lại lòng mình, xem chúng ta đã xả bỏ được cái gì rồi? Ngay cả mấy thứ đồ vật ngoài thân mà mình còn bỏ không nỡ. Chúng ta vẫn cứ bị cái tâm riêng tư, ích kỷ làm chủ, cho nên cái nầy bỏ không đặng, thứ kia bỏ không xong, huống chi đến chuyện xả bỏ sanh mạng mình thì lại càng không thể nói đến!

Quý vị nên biết rằng: bởi vì chúng ta không thể xả, không chịu bố thí, không có lòng thông cảm, không biết thương xót, cho nên chúng ta mới không ngớt xoay chuyển trong vòng luân hồi. Chúng ta cả ngày chỉ lo nghĩ đến chuyện khi mình già thì phải làm sao, nhưng không bao giờ nghĩ đến vấn đề khi mình chết thì sẽ như thế nào. Giống như có người ở nước Kỷ cứ ưu sầu cả ngày, đến nỗi mặt mày ủ rũ không bao giờ lộ vẻ vui tươi. Có người hỏi: “Tại sao anh lại buồn rầu vậy?” Anh ta đáp: “Nếu như trời sập thì làm sao, há không phải là chúng ta sẽ bị đè chết hay sao?” Đúng là lối suy nghĩ thật quá ấu trĩ đi thôi!

Chúng ta là người tu hành, nên sống một ngày là một ngày có ý nghĩa và đừng để vọng tưởng áp đảo. Nếu chúng ta suốt ngày cứ vọng tưởng lung tung. Há đó không phải là người ngu lắm sao? Vì nếu nghĩ tưởng đến những chuyện không thể có, không cần thiết, đó mới thật là tự mình làm khó lấy mình, tự chuốt khổ cho mình thôi!

Bây giờ chúng ta cần phải phản cái mê để quay về giác ngộ, nên buông cái giả để bắt lấy cái chân thật. Tôi thường nói với quý vị là: “Nếu không bỏ được cái giả, sẽ không thành đạt được cái thật; nếu không bỏ được cái chết, sẽ không đổi được cái sống.” Pháp thế gian là tương đối vậy thôi! Nếu bên kia là nghiệp chướng nặng nề, thì bên đây là thanh tịnh nhẹ nhàng. Còn như bên đây là thanh tịnh hơn, thời nghiệp chướng bên kia sẽ nhẹ bớt. Chỉ là xem quý vị muốn làm thế nào. Đây đều do quý vị tự quyết định theo ý thích của mình, chớ kẻ bàng quan không có cách gì can thiệp được.

Phàm là người xuất gia, chúng ta nên có nhân cách cao thượng, nên là người xuất chúng, vượt hẳn mọi người. Người xuất gia đừng nên hùa nhau đồng lõa với kẻ xấu, chỉ biết ăn rồi chờ chết, khiến cho khí thế Phật giáo trở nên nặng nề, không có khí thế hăng hái chút nào.

Giảng ngày 15 tháng 7 năm 1984

 

39. Bồi Dưỡng Nhân Cách Cao Thượng

Vạn Phật Thánh Thành là nơi tu đạo, cho nên các vị Thiên Long Bát Bộ lúc nào cũng hộ trì đạo tràng nầy. Nếu quý vị phát Bồ Đề tâm, họ nhất định sẽ hộ trì quý vị và khiến cho thân tâm quý vị được khinh an nhẹ nhàng, được đại thành tựu và có đại cảm ứng. Nhưng trong lòng quý vị đừng có hy vọng mình sẽ được như thế, thì những điều đó mới tự nhiên hiện tiền. Nếu quý vị còn có lòng hy vọng được thành tựu và cảm ứng thì đó là tham, cũng là phạm vào Lục Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thánh Thành.

Các sinh hoạt hằng ngày của người tu hành ở Vạn Phật Thánh Thành, đều không rời khỏi sáu điều mục như sau:

1. Không tranh. Tuyệt đối không tranh với bất cứ ai. Cũng không tranh danh, tranh lợi. Phàm đồ vật gì mà người khác thích thì mình nhường cho họ, chứ không cần phải tranh giành, gọi là: “Tranh chi bất túc, nhượng chi hữu dư,” nghĩa là tranh thì không đủ, nhường thì có dư.

2. Không tham. Không phải là miệng nói không tham, nhưng khi cảnh đến thì chỉ lo tham, chẳng thể bỏ qua, thế là sai rồi. Chúng ta cần phải là: Lời nói theo đúng việc làm, và làm đúng theo lời nói, đừng để chúng mâu thuẫn với nhau. Người không có lòng tham mới bồi dưỡng được nhân cách cao thượng.

3. Không cầu. Nếu chúng ta có cầu muốn điều gì, tức là chúng ta sẽ có phiền não. Cầu mà không được, đương nhiên là chúng ta sẽ phiền não. Cho nên nói: “Vô cầu tiện vô ưu,”không cầu sẽ không lo – thật là một danh ngôn chí lý. Một khi chúng ta đạt đến trình độ vô cầu, phẩm cách của chúng ta tự nhiên sẽ cao quý. Nhân đáo vô cầu phẩm tự cao, tức là vậy. Trong Bát khổ có “cầu bất đắc khổ,” như cầu không được cũng khổ, mà cầu được cũng khổ luôn. Vì lo được lo mất mà tự tìm cái khổ cho mình. Vậy bởi tội gì mình phải khổ như thế. Nếu như quý vị thấy rõ ra mà buông hết tất cả thì quý vị sẽ không còn phiền não nữa.

4. Không tự tư, ích kỷ. Ai ai cũng có lòng ích kỷ. Chuyện gì chúng ta cũng tính toán cho mình trước, lo nghĩ cho con cháu của mình trước hết. Cho nên người tu hành là phải tu đến cảnh giới vô ngã. Vô ngã rồi thì chúng ta còn muốn tranh cái gì, tham cái gì, cầu cái gì nữa đây? Chúng ta phủ nhận hết, và cái gì cũng không muốn. Chúng ta phải học theo tinh thần của Bồ Tát là xả mình vì người. Tại sao thế giới nầy lại ngột ngạt đầy chướng khí, và không lúc nào trong sạch, xán lạn vậy? Bởi vì ai nấy đều tự tư, tự lợi, như nói: “Cái nầy là của tôi, cái kia thuộc về tôi,” nên khiến cho thiên hạ đại loạn, thế giới chẳng được an ổn.

5. Không tự lợi. Nếu mọi người đều không có tánh tự lợi, lúc nào cũng biết đủ, gặp hoàn cảnh nào cũng cảm thấy an ổn, vậy tự nhiên ai nấy cũng sẽ chung sống hòa bình với nhau. Nếu như người có tâm tham thì giống như cá theo mồi, thấy lợi là quên mất hết tình nghĩa, rồi làm những chuyện tổn hại đạo lý. Có bao nhiêu người đã vì lợi mà thân bại danh liệt, tán gia bại sản. Thậm chí có kẻ còn làm cho nước mất nhà tan, đến nỗi phải lưu lạc, không nơi nương náu.

6. Không vọng ngữ. Bất luận trong hoàn cảnh nào, chúng ta tuyệt đối cũng không nên vọng ngữ. Hễ thấy thì nói thấy, nghe thì nói nghe, chúng ta cứ thật thà mà nói, chớ nói những chuyện không có căn cứ. Chúng ta nên biết, vọng ngữ là nói những lời bịa đặt, làm tổn hại người mà chẳng có lợi ích gì cho mình, và sau khi chết nhất định bị đọa vào địa ngục cắt lưỡi. Điều đó không có chút nghi ngờ gì cả. Cho nên chúng ta phải hết sức cẩn thận.

Hôm nay tôi nói với quý vị những lời tuy rất cạn cợt, nhưng nếu quý vị chịu y chiếu theo đạo lý đó mà làm, thì sẽ hữu dụng vô cùng. Cho nên có câu: “Nói cho hay! Thuyết cho diệu! Nhưng nếu không thực hành thì không phải là Đạo. Đạo là hành, không hành sao có Đạo? Đức là làm, không làm sao có Đức?” Nếu quý vị có thể thực hành theo Lục Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thành, tự nhiên nhân cách của quý vị sẽ cao thượng hơn.

Tôi nói thêm một câu sau chót là: Quý vị đừng nên làm những chuyện ngu si như: “Yểm nhĩ đạo linh” tức bịt tai để trộm chuông. Vì quý vị không thể tự dối mình, mà cũng không thể gạt được Phật! Hà tất bụng dạ phải chứa đầy chuyện quỷ quyệt, rồi tưởng là mình có thể che đậy được hết để dối trên lừa dưới. Há như thế chẳng phải là tự chuốc lấy cái vô lý cho mình hay sao? Tôi hy vọng mọi người ở Vạn Phật Thánh Thành đều biểu hiện là người lương thiện, mẫu mực, để kẻ thế nhân nhìn vào bằng cặp mắt khâm phục.

Giảng ngày 25 tháng 9 năm 1984

 

40. Hoan Nghênh Hành Giả Đến Thánh Thành

Vạn Phật Thánh Thành là đạo tràng mới phát khởi. Có thể nói đây là vùng phát nguyên địa của Phật giáo, lại cũng có thể nói là vùng quy nguyên địa của Phật giáo. Sao gọi là vùng phát nguyên địa của Phật giáo? Bởi vì đạo Phật trên thế giới nầy đã đến thời đại Mạt pháp, và những người chân chánh y theo giáo pháp tu hành thì thưa thớt, không có mấy ai. Có người tuy mang danh nghĩa là Phật tử, song những hành vi của họ lại hoàn toàn trái ngược với Phật giáo. Vì xét thấy như vậy, cho nên Phật tử cần phải trùng tân chỉnh đốn để xây dựng lên một tân Phật giáo, khiến cho Chánh pháp trụ mãi trên thế gian. Vạn Phật Thánh Thành quyết sẽ trùng tân và phục hưng Phật giáo trở lại, cho nên nói là vùng phát nguyên địa của Phật giáo.

Sao lại gọi là vùng quy nguyên địa của Phật giáo? Hiện nay các nơi trên thế giới thường xảy ra nhiều hiện tượng đau lòng, như hủy Phật đốt kinh. Thậm chí đến cả chùa chiền cũng bị sửa thành các công trường, hãng xưởng, hoặc các hí viện vui chơi giải trí. Vùng đất thanh tịnh lại biến thành nơi ô uế, người xuất gia bị bức bách đến đỗi không còn nơi trú ngụ. Thậm chí có người phải chạy lên núi, và có kẻ phải xuống vùng ven biển hẻo lánh. Người tu hành trên núi dùng rau dại làm bữa qua ngày, kẻ tu ở ven biển thì dùng rong biển cho đỡ cơn đói. Họ chịu đựng hết những thử thách, với biết bao sự giày vò gian khổ, nhưng họ một lòng không thay đổi ý chí và vẫn chuyên tâm lo tu trì. Với tinh thần bất khuất đó, thật đã làm cho mọi người ngưỡng mộ. Nếu những vị tu hành chịu nhiều khổ nạn đó muốn đến Vạn Phật Thánh Thành để tu đạo, chúng tôi tuyệt đối hoan nghênh. Chúng tôi chẳng những hoan nghênh những người bất hạnh đó, mà đồng thời cũng hoan nghênh luôn các vị tu hành chân chánh trên khắp thế giới đến Thánh Thành để cùng chúng tôi tu tập.

Phàm hễ ai thành tâm đến Vạn Phật Thánh Thành làm công quả, chúng tôi đều nhất nhất hoan nghênh. Đây là nơi không phân biệt tông phái, chủng tộc, quốc tịch hay chức vị và mọi người đều được đối xử như nhau. Ai nấy ở Vạn Phật Thánh Thành đều được thọ hưởng sự bình đẳng và tự do. Vạn Phật Thành là nơi không thuộc về bất cứ người nào, mà thuộc về tất cả các tôn giáo và chúng sanh trên toàn thế giới, kể cả Thiên Chúa giáo, Cơ Đốc giáo, Đạo giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo v.v… Đây không phải là khẩu hiệu trống không mà là lời hứa chân thật.

Tóm lại, bất luận tôn giáo nào, phàm hễ ai chân thật phát tâm tu hành, Vạn Phật Thánh Thành cũng đều hoan nghênh cả. Cho nên nói Vạn Phật Thánh Thành là nơi để trở về, là vùng quy nguyên địa của Phật giáo.

Giảng ngày 29 tháng 9 năm 1984

 

41. Giới Luật Căn Bản

Giới luật căn bản chỉ có một, tức là không tự tư ích kỷ. Người có lòng ích kỷ sẽ phạm giới, nếu không có tâm ích kỷ sẽ không phạm giới. Cùng lý lẽ trên, ai có lòng ích kỷ sẽ phạm pháp, và người nào không có tâm ích kỷ sẽ không phạm pháp. Như có một số người bị tòa án pháp luật phán xét không công bình. Đó là vì thuở xưa họ đã có những hành vi không công bình đối với kẻ khác, cho nên ngày nay kẻ khác cũng đem việc không công bình mà gán vào cho họ.

Quý vị nên mở lớn mắt ra để chỉnh đốn lại tư tưởng của mình và hãy nhìn xem: Những người phạm pháp trên cõi đời nầy, thật ra đều là do lòng ích kỷ của họ dẫn khởi. Tất cả những người không giữ đúng quy củ đều phát nguồn từ lòng ích kỷ. Nếu như họ không có lòng ích kỷ, họ sẽ không phạm các pháp luật trên thế gian nầy.

Cho nên nếu quý vị có thể thực hành theo Lục Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thánh Thành: không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ thì quý vị chẳng những sẽ làm người tốt trên thế gian, mà quý vị cũng có thể là Thánh nhân xuất thế nữa. Nguyên nhân thế giới hỗn loạn là bởi người ta ích kỷ, chưa có thể vì đại công mà vô tư được.

Như có một số đảng phái, họ luôn miệng nói là đại công vô tư, nhưng trên thực tế, họ làm những việc hoàn toàn vì chính họ thôi. Bởi vậy mới làm cho thế giới hỗn loạn, khiến mọi người phập phồng lo sợ không được bình an. Tất cả những mặc cảm không được bình an, lo sợ đó đều là do từ lòng ích kỷ dẫn dắt đến.

Hiện nay chúng ta đang nghiên cứu giới luật. Một khi hiểu rõ giới luật rồi, chúng ta sẽ biết cách làm người như thế nào. Một khi hiểu rõ bổn phận làm người, chúng ta cũng sẽ biết rõ bổn phận làm bậc Thánh nhân. Cho nên việc nghiên cứu giới luật là vô cùng trọng yếu. Vậy muốn giúp cho thế giới nầy, trước hết chúng ta phải không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ. Chúng ta nên đem bản thân mình để làm phép tắc, làm gương mẫu cho kẻ khác. Có vậy thế giới nầy mỗi ngày mới càng được bình an hơn. Cho nên khi học giới luật vào mỗi thứ sáu, chúng ta phải hết sức thành tâm cung kính thì mới đạt được chỗ lợi ích.

Giảng ngày 5 tháng 10 năm 1984

 

42. Cải Biến Tập Khí Cũ – Tuyển Chọn Tông Chỉ Mới

Hôm nay là ngày cuối cùng của năm Giáp Tý và ngày mai sẽ bắt đầu năm Ất Sửu. Lúc bấy giờ chúng ta hãy nên sửa đổi lại các thói quen, tập khí cũ của mình. Những việc làm của chúng ta trong quá khứ, đều do từ các tập khí không tốt, cho nên có nhiều chỗ bất hợp pháp. Vậy bắt đầu từ ngày mai trở đi, chúng ta nên lựa chọn tông chỉ mới và làm lại con người mới. Như nếu chúng ta vẫn cứ không “biết nay là đúng, khi xưa là sai,” thì sự tu hành của chúng ta sẽ không có tiến bộ mà lại uổng phí thời gian thôi!

Quý vị! Đừng bao che những chỗ thiếu sót của mình, mà hãy nên phát huy những cái hay của mình, gọi là: “Kiến hiền tư tề,” tức là thấy người hiền bèn lo chấn chỉnh lấy mình để được như họ. Chúng ta nên noi gương và học tập theo tác phong của thầy Tăng Tử. Trong Luận Ngữ có ghi rằng:

“Tăng Tử viết: Ngô nhật tam tỉnh ngô thân.
Vị nhân mưu nhi bất trung hồ.
Dữ bằng hữu giao nhi bất tín hồ.
Truyền bất tập hồ,”

Thầy Tăng Tử nói: “Mỗi ngày tôi có ba việc cần phải tự kiểm điểm bản thân là: Trong việc làm, mình có thật lòng làm hết khả năng chưa? Khi giao tiếp với bạn bè, mình có chỗ nào không thành thật chăng? Các bài tập được học mỗi ngày, mình có ôn luyện, nghiên cứu lại không?”

Vì vậy chúng ta cũng nên noi theo những câu nói đó để làm gương soi lấy mình.

Tam Tự Kinh đã bắt đầu bằng những câu nói như: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện. Tánh tương cận. Tập tương viễn, cẩu bất giáo, tánh nãi thiên.” Nghĩa là: Lúc các hài nhi mới lọt lòng mẹ, bản tánh của chúng đều là lương thiện. Bởi vì bản tánh và cái thiện gần nhau, cho nên nói “tánh tương cận,” khi lớn lên, dần dần chúng bị huân tập theo hoàn cảnh và bị ô nhiễm bởi các tập khí. Như câu nói: “Nhuộm xanh sẽ thành xanh, nhuộm vàng sẽ thành vàng.” Thế là tánh tình của chúng dần dần rời xa cái thiện, cho nên nói: “Tập tương viễn.” Trong thời kỳ nầy, nếu con người không được giáo dục đàng hoàng để sửa đổi lại các tập khí cũ và phục hồi tánh thiện hảo, thì tánh tình của họ sẽ bị biến đổi.

Lúc tuổi còn trẻ, chúng ta được cha mẹ, thầy cô dạy dỗ, sửa đổi những thói hư nết xấu của chúng ta để trở nên tốt lành hơn. Nhưng khi lớn lên thì đâu còn ai dạy dỗ ta nữa. Vì vậy, nếu chúng ta muốn sửa đổi tánh tình cho tốt, tất phải do tự mình sửa đổi lấy mình. Bởi vì cớ nầy, nên đề tài hôm nay là: “Cải Biến Tập Khí Cũ, Tuyển Chọn Tông Chỉ Mới.”

Chúng ta nên nhận rõ mục tiêu của mình. Chúng ta muốn làm người như thế nào? Thế nào mới có thể trở thành người Phật tử chân chánh? Phương châm mới của chúng ta là gì? Tông chỉ mới của chúng ta ra sao? Đó là những vấn đề mà chúng ta cần phải hiểu cho rõ ràng. Nếu không, chúng ta sẽ chẳng có cách gì sửa đổi các tập khí, thói quen cũ của mình, cũng không có cách nào lựa chọn một tông chỉ mới cho được. Vì vậy quý vị hãy nên chú ý điểm nầy.

Nói tóm lại, những vấn đề đó cũng đơn giản lắm thôi. Tức là chúng ta cứ tận tâm thực hành: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành,” nghĩa là các việc xấu không làm, vâng làm những điều lành, như vậy là tốt rồi. Nếu ai nấy đều thực hành y theo phương châm nầy, tự nhiên chúng ta sẽ đạt được mục tiêu làm người.

Phương châm mới là hãy tiêu diệt hoàn toàn các tật bệnh ghen ghét, gây chướng ngại, cống cao, ngã mạn, không cho chúng nó hoành hành. Chúng ta làm sao mới tiêu diệt được bốn loại tâm lý bất chánh đó? Tức là dùng Tứ Vô Lượng Tâm: từ, bi, hỷ, xả để điều trị chúng. Người có tâm từ sẽ không có lòng ghen ghét; có tâm bi thì sẽ không gây chướng ngại; có tâm hoan hỷ thì sẽ không cống cao; có tâm buông xả thì sẽ không ngã mạn. Quý vị nghiên cứu đi, xem thử như thế là có đạo lý hay không?

Tông chỉ mới là không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ. Thật ra, những điều đó vốn là tông chỉ cũ xưa của Vạn Phật Thánh Thành. Tuy quý vị đã nghe qua nhiều lần, nhưng không có ai nghiêm chỉnh thực hành theo. Phàm việc gì mà quý vị chưa thực hành qua, thì xem như là mới vậy. Khi nào quý vị có thực hành rồi, đó sẽ không còn là mới nữa. Hôm nay tôi lập lại giọng điệu cũ, bàn về ý nghĩa của Lục Đại Tông Chỉ đó nữa, hy vọng quý vị sẽ chú ý!

Vì sao chúng ta có phiền não, có lo âu? Đó đều là do – có tranh, có tham, có cầu, có ích kỷ, có tự lợi, có vọng ngữ, chúng nó đang tác quái đấy. Chúng chi phối đến nỗi cả thân tâm chúng ta chẳng được an ổn, tự tại. Nếu hàng phục được chúng, thì mình sẽ không bị điên điên đảo đảo. Khi đó chúng ta sẽ đạt đến cảnh giới không phiền não, không lo âu và bất luận lúc nào, chúng ta cũng đều được tự tại. Vì sao chúng ta không được tự tại? Nói tóm lại, là vì chúng ta bị sáu cảnh giới đó xoay chuyển.

Lúc tôi còn nhỏ, tôi thích tranh cãi với người và thường hay xen vào những chuyện bất bình. Như có chuyện gì không công bình xảy ra, trừ phi không biết thì thôi, nhưng hễ mà biết được thì tôi nhất định sẽ xông ra để tranh luận phải trái. Tôi cũng có tham, mà tham cái gì vậy? Thì là tham ăn, con nít đều hay có tật xấu nầy. Như có món gì ngon mà tôi không có phần, tôi nhất định phải tranh giành cho bằng được mới thôi. Lúc lên mười hai tuổi, tôi bắt đầu biết phản tỉnh, tự xét lại tánh nết của mình – Tại sao mình lại ngang ngạnh như thế? Đến khi đã tỏ rõ rồi, tôi liền sửa đổi lỗi lầm để làm lại con người mới. Từ đó, tôi bắt đầu khấu đầu quỳ lạy cha mẹ để tỏ lòng sám hối. Vì trong quá khứ, tôi đã từng làm nhiều chuyện khiến cho cha mẹ tôi phải nhọc lòng lo lắng. Từ đấy về sau, tôi cũng không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi. Tôi cảm thấy làm được như vậy rất có hữu dụng, cho nên tôi vẫn một mực áp dụng tuân theo cho mãi đến ngày hôm nay và cho đến trọn đời không hề thay đổi.

Sau đó, trừ việc đảnh lễ tạ tội với song thân, tôi lại đảnh lễ trời, đất, vua, bà con thân quyến, và thầy giáo. Tôi lại còn khấu đầu đảnh lễ các vị đại thánh, đại hiền, đại thiện, đại hiếu trong thiên hạ, và cả đến người đại ác, tôi cũng lạy luôn. Tại sao vậy? Vì tôi muốn họ cũng cải ác hướng thiện. Mỗi ngày tôi lạy hơn tám trăm lạy ở phía sau vườn, mất khoảng hai tiếng đồng hồ, và dù có mưa gió gì đi nữa cũng không cản trở việc lễ bái của tôi (*). Lần trước khi đến chùa Kim Phật ở Canada, tôi có nói với hai vị Tam Bộ Nhất Bái (thầy Hằng Thật và thầy Hằng Triều) rằng: “Các vị thử xem, nếu không tranh, không tham, không cầu như vậy thì vi diệu biết dường nào! Không ích kỷ, không tự lợi, đó là sự vi diệu trong cái vi diệu, và chẳng có pháp nào vi diệu hơn thế nữa. Nếu như ai nấy đều chân chánh thực hành theo Lục Đại Tông Chỉ, các vị thử hỏi là còn có pháp nào siêu xuất hơn pháp nầy nữa chăng?”

Quý vị! Hãy nỗ lực thực hành theo Lục Đại Tông Chỉ, có vậy quý vị tu hành mới tiến bộ được. Bằng không, tất cả chỉ là lời nói suông, cũng như ăn bánh vẽ không thể hết đói, như nấu cát thì không thể thành cơm được. Lục Đại Tông Chỉ nầy ở Vạn Phật Thành, người người nên nhớ ghi khắc trong tâm chớ quên. Bởi có nó cho nên cái gì ta cũng buông xả, cái gì ta cũng bố thí cho người, chứ không phải bảo người bố thí cho mình. Đương nhiên là nếu có người bố thí cho ta, ta cũng không từ chối. Nhưng ta nên hết sức mình làm việc bố thí, hễ có cơ hội là ta bố thí một ít. Phàm làm việc gì, nếu ta có thể làm được thì hãy làm, còn việc gì làm không được thì ta cũng không nên miễn cưỡng.

Quý vị nghĩ thử xem! Nếu chúng ta làm được như thế thì còn cái gì để ưu sầu, còn cái gì mà buông bỏ không được chớ? Nếu chúng ta nghiêm chỉnh thực hành theo Lục Đại Tông Chỉ nầy, thế mới thật sự hiểu rõ được Phật Pháp. Nói cách khác, chân đế của Phật Pháp đã bao quát trong Lục Đại Tông Chỉ rồi.

Không tranh: Là không phạm giới sát. Vì sao phải sát sanh? Bởi vì muốn tranh, anh tranh tôi đoạt, rồi phát sanh những hành vi giết người, phóng hỏa. Hơn nữa nếu không tranh sẽ không sát, như vậy là giữ được giới sát rồi.

Không tham: Thì không phạm giới trộm. Vì sao phải trộm cắp? Bởi là tham, tham muốn vật của người làm của riêng mình. Nếu không tham tức là giữ được giới không trộm cắp.

Không cầu: Thì không phạm giới dâm. Người nam truy tìm người nữ, đó là cầu. Người nữ truy tìm người nam, đó cũng là cầu. Cầu mà không được thì thần hồn điên đảo. Thậm chí trong giấc ngủ cũng mơ mộng truy cầu, thân tâm không an ổn.

Không ích kỷ: Thì không phạm giới vọng ngữ. Vì sao phải nói dối? Bởi vì muốn bảo vệ cái quyền lợi của bản thân, cho nên đi đến đâu cũng nói dối để gạt người. Nếu người không ích kỷ, đến đâu họ cũng nói lời chân thật, và không bao giờ có những hành vi dối trá.

Không tự lợi: Thì không phạm giới rượu. Người uống rượu cho rằng rượu làm máu huyết lưu thông, có lợi ích cho thân thể, nhất định sẽ được tráng kiện. Khi say rượu, người ta cảm thấy tâm thần lâng lâng như ở cõi thần tiên. Đó là do lòng tự lợi của họ đang tác yêu tác quái đấy.

Không vọng ngữ: Chúng ta đã nói bao quát năm giới trên, nhưng vì muốn đề cao cảnh giác mọi người và đặc biệt nhấn mạnh chỗ xấu xa của vọng ngữ, cho nên chúng ta lại cộng thêm mục nầy để nhắc nhở vậy.

Hiện chùa Kim Phật ở Vancouver, Canada, chúng ta thường hay giảng về Lục Đại Tông Chỉ để dạy mọi người, gồm cả người già, thanh niên và trẻ em, để cho họ biết rõ tánh cách trọng yếu của Phật Pháp. Như nếu con người có thể thật sự không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ, thế thì xã hội nhất định sẽ được an ninh và gia đình nhất định sẽ được hạnh phúc.

Nếu con người trên thế giới có thể nghiêm chỉnh giữ năm giới và không có những hành vi như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, rượu chè thì họ sẽ không có phiền não, không lo âu gì cả. Cho nên tôi nói Lục Đại Tông Chỉ nầy là pháp môn tối mầu nhiệm. Quý vị cũng có thể nói đó là:

“Pháp vi diệu thậm thâm vô thượng,
Trăm nghìn muôn kiếp khó được gặp,
Nay con thấy nghe được thọ trì,
Nguyện hiểu Như Lai chân thật nghĩa.”

Tôi xin nói thêm một câu nữa: Như thân đã là đệ tử Phật, tối thiểu là chúng ta phải nghiêm trì năm đại giới cơ bản nầy và triệt để thực hành theo. Như vậy chúng ta mới được an vui tự tại. Giả dụ như chúng ta không giữ được năm giới đó, thế thì 250 giới của Tỳ Kheo, hoặc 348 giới của Tỳ Kheo Ni lại càng không dễ gì giữ đặng. Cho nên tại rừng cây Song Thọ, lúc Đức Phật Thích Ca sắp nhập Niết Bàn, Ngài đã căn dặn tôn giả A Nan nên “lấy giới làm thầy.” Do đấy, chúng ta cũng biết được giới luật là trọng yếu như thế nào!

Giảng ngày 19 tháng 2 năm 1985

Ghi chú ban Việt dịch:

(*) Ở đây Hòa Thượng chỉ đề cậo sơ qua, thật ra trong hơn 10 năm, Hòa Thượng đã lạy mỗi ngày hai lần mỗi lần hơn 830 lạy, tổng cọng hơn một ngàn sáu trăm lạy nỗi ngày. Trong sách : “In Memory of the First Anniversary of the Nirvana of Venerable Master Hsuan Hua and the Twentieth Anniversary of the City of Ten Thousand Buddhas” trang 49, Hòa Thượng đã kể lại: “For more than ten years, I bowed two hours in the morning and two hours in the evening, making eight hundred and thirty-some bows twice a day. I was bowing four hours a day.”

 

43. Thượng Đường Thuyết Pháp Tại Chùa Kim Luân,Los Angeles

I. 

Pháp vương trí thủy lợi vạn vật.
Y sinh dược thạch giải chúng độc.
Chư Phật bổn nguyên quang minh tạng.
Cần gia phất thức mạc nhiễm ô.

Nghĩa là:

Trí thủy Pháp Vương lợi muôn loài.
Thuốc lương y giải hết các độc.
Chư Phật vốn là quang minh tạng.
Gắng công lau chùi đừng nhiễm nhơ.

Pháp vương tức là đức Phật. Ngài dùng nước Bát Nhã tẩy rửa bụi trần trong tâm chúng sanh, hầu làm lợi ích cho muôn loài.

Thuốc của các vị lương y có công hiệu là giải trừ hết các chứng bệnh tật.

Chư Phật là kho tàng ánh sáng quang minh ở cõi thanh tịnh thường tịch tĩnh. Nhưng bổn lai không một vật thì chỗ nào dính bụi trần đây?

Chúng ta phải quét sạch hết các tạp niệm vọng tưởng thì gương trí tuệ tròn đủ mới hiện tiền. Khi vật đến thì gương chiếu soi, lúc vật đi thì gương im lìm. Chiếu là tùy duyên, tùy cảnh, không có gì chướng ngại.

Bổn thể Phật tánh tại Thánh không tăng, tại phàm không giảm: Bổn thể Phật tánh tức là chân lý. Chân lý nầy ở trong bậc Thánh hiền không tăng, ở phàm phu không giảm. Thánh, phàm mỗi mỗi vốn đều có đủ trí tuệ quang minh.

Chỉ do một niệm bất giác mà tam tế tượng thành, rồi lưu lạc trong ngũ thú, luân chuyển theo lục đạo: Nhưng vì chúng sanh có một niệm bất giác vô minh mà sanh thành tam tế tướng, là ba tướng vi tế: hiện tướng, nghiệp tướng và chuyển tướng. Rồi từ đấy lưu lạc trong năm thú: trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và luân hồi theo sáu nẻo, gồm ba đường thiện: thiên, nhân, a tu la; và ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Chúng sanh do khởi nghi hoặc mà tạo tội, rồi phải chịu quả báo ở mãi trong lục đạo, không trồi đầu ra được.

Trôi dạt ngàn dặm, phân tán thành vạn mối: Tự tánh của chúng sanh điên đảo như nước trong bình tuôn ra, phân thành vô số chi nhánh, ngàn đầu vạn mối, càng tán càng loạn. Càng loạn thì nó lại càng khó quy tụ trở về.

Như nước biển vỡ bờ, như núi lửa bộc phát, oai lực của nó còn hơn bơm nguyên tử, thần kỳ còn hơn cả máy điện toán, computer: Một khi tự tánh phân tán thành vạn mối thì như nước tràn vỡ đê, lại cũng như núi lửa bộc phát, thế lực của nó còn hơn cả bom nguyên tử nổ. Nó thiên biến vạn hóa, thần kỳ còn hơn cả computer. Ví như nghiệp lực đáng sợ của chúng sanh, thiện ác cứ qua lại với nhau, ràng rịt lẫn nhau. Bởi nó bất khả tư nghì nên con người không thể nào tưởng tượng ra nổi.

Tràn lan vô thứ tự, chúng ta không sao thâu gộp lại cho được, không biết là nó lung tung đến cỡ nào: Thứ nghiệp lực tràn lan đó lại ngày càng khuếch đại thêm ra, đến nỗi không thể nào sửa chữa tình cảnh lại được. Những thứ nợ ô nhiễm đó chúng ta phải trả mãi cũng không xong. Chẳng ai biết tương lai rốt cuộc rồi sẽ ra sao?

Bởi vậy chúng ta nên biết thời đại ô nhiễm với bao trào lưu hỗn độn mà lo hồi đầu tỉnh ngộ, phát tâm Bồ Đề, dùng trí Bát Nhã và nhận rõ mục đích để tiến bước: Do đó nên biết rằng, chúng ta đang ở trong thế giới ô nhiễm, cho nên đất nước, hoàn cảnh, không khí cũng đều bị nhiễm ô. Vậy những thứ ô nhiễm đó từ đâu tới? Nguồn căn là từ một niệm vô minh của chúng ta đấy. Vì vô minh thuộc về lửa, cho nên lửa càng thiêu, càng đốt mạnh mẽ thì thế giới càng sẽ bị màng khói đen mịt mù bao phủ. Rồi khiến cho tánh tình con người ô nhiễm, gia đình cũng nhiễm ô. Quý vị thấy đó! Người mà hút thuốc thì cả lục phủ, ngũ tạng cũng biến thành màu đen luôn. Vì sao tâm tánh con người ngày càng mù mờ, đen tối? Bởi vì ai nấy cũng đều tham lợi lộc, chứ không có người nào chịu bị thiệt thòi. Mỗi mỗi đều là tự tư, tự lợi thì thế giới làm sao không hư hoại cho được? Cho nên, lúc nầy chúng ta cần nhận rõ là thời đại hỗn trược, dơ bẩn, để biết quày đầu tỉnh giác, phát tâm giác đạo Bồ Đề. Chúng ta nên dùng đại trí huệ của mình, chứ đừng dùng cái trí ngu si. Khi hiểu rõ được chân lý rồi, chúng ta nên chắc chắn thực hành theo, chứ đừng làm một cách gian dối.

Cửa Hiền bờ Thánh, lo chi không đến được? Nếu làm được như vậy, tức là chúng ta đã noi gương cùng các bậc Thánh Hiền, và tương lai chúng ta ắt sẽ đến được cảnh giới của Thánh Nhân.

Hôm nay có các vị hộ pháp của chùa là bác sĩ Hồ Kiến Quốc, Trần Quốc Bối và Quả Cảo cùng đến chùa làm lễ thỉnh Sơn Tăng thượng đường thuyết Pháp: Ba vị cư sĩ hộ pháp nầy có lòng thành tha thiết cầu Pháp, cho nên họ thiết lập đàn tràng cúng trai tăng để kết mối thiện duyên.

Nay thuyết Pháp một câu, mà nên nói gì đây? Các Pháp là rời tướng ngôn thuyết, rời tướng văn tự, rời tướng tâm duyên. Thật ra lại còn có Pháp gì để nói nữa?

Vô Pháp khả thuyết cưỡng thuyết Pháp,
Hữu thùy giác ngộ hựu ngộ thùy,
Phản bổn hoàn nguyên quy gia lộ,
Vận chuyển tam xa niệm Pháp Hoa.

Nghĩa là:

Không Pháp để nói mà phải nói,
Ai giác ngộ, giác ngộ cái chi,
Quay về nguồn là đường về nhà,
Vận chuyển ba xe niệm Pháp Hoa.

Vô Pháp khả thuyết cưỡng thuyết Pháp: Pháp vốn không thể nói ra được, gọi là: “Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt.” Tuy không lập văn tự, nhưng chúng ta phải miễn cưỡng dùng lời lẽ văn tự để thuyết Pháp.

Hữu thùy giác ngộ hựu ngộ thùy: Cứu cánh là có ai giác ngộ, mà lại giác ngộ cái gì? Trên căn bản thì người được ngộ và chỗ để ngộ cũng đều mất hết.

Phản bổn hoàn nguyên quy gia lộ: Quay trở về với tự tánh của kho tàng ánh sáng đại quang minh, tức là Phật tánh vốn có sẵn của chúng ta.

Vận chuyển ba xe niệm Pháp Hoa: Thường tụng trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa, và kéo được ba xe là chúng ta có thể lên đường trở về nhà. (Ba xe trong Phẩm Thí Dụ của kinh Pháp Hoa là: xe dê, xe hươu, xe trâu, ví dụ cho Thanh Văn, Duyên Giác và Đại Thừa.)

II.

Nhất lạp vi trần hàm Pháp giới,
Vạn tượng sum la tức Pháp thân,
Chư Phật vô tâm thuyết kinh điển,
Bồ Tát hữu chí hóa chúng sanh,
Ngũ uẩn bất trược, nhân phiền não nhi đắc danh,
Bát khổ phi khổ, phá chấp trước tự giải thoát,
Tam tâm vị liễu, bộ bộ kinh la,
Ngũ dục nhược không, xứ xứ liên hoa,
Bất tranh, bất tham, bất cầu đắc,
bất tồn tự tư, tự lợi tâm.
Tái năng thành thực bất vọng ngữ,
nhật cửu công thâm tánh tự chân.
Chư nhân giả, hội đắc ma?
Niệm tư tại tư, vật niệm vật trợ,
Dịch đảo càn khôn, đả toái hồ lô,
Thử thời thiên túc vạn túc,
Cực Lạc thế giới nhãn để thâu,
Hà tu hướng ngoại vọng trì cầu?

Nghĩa là:

Một hạt bụi chứa cả Pháp giới,
Muôn vật bao la là Pháp thân.
Chư Phật không tâm giảng kinh điển,
Bồ Tát có chí độ chúng sanh.
Ngũ uẩn thì không nhơ, vì phiền não mới có tên.
Tám khổ là không khổ, phá được chấp sẽ tự thoát.
Ba tâm chưa dứt, từng bước từng bước chông gai.
Nếu không ngũ dục, thời nơi nơi có sen nở.
Không tranh, không tham, không cầu để được,
không còn tâm ích kỷ, tự lợi.
Lại thành thật chứ không dối láo,
lâu ngày công tu thâm hậu chân tự tánh.
Các vị hiền nhân có hiểu được chăng?
Niệm niệm hằng nhớ, đừng quên cũng đừng trợ giúp.
Đá vỡ càn khôn, đấm nát hồ lô.
Lúc bấy giờ tất cả đều đầy đủ,
Thế giới Cực Lạc ngay trong tầm mắt,
Cần gì phải tìm cầu ở bên ngoài?

Giảng ngày 10 tháng 3 năm 1985

 

44. Cơ Sở Học Phật

Học Phật tu đương trúc thiện cơ,
Tài bồi phước huệ dưỡng ma ni.
Thân cận tri thức tập giới định,
Triêu văn Thánh đạo tử khả hĩ.

Nghĩa là:

Học Phật giống như xây cất nhà,
Bồi phước huệ, dưỡng ngọc ma ni
Thân cận tri thức học giới định,
Sáng nghe giảng, tối chết cũng cam.

Học Phật tu đương trúc thiện cơ: Trúc là kiến trúc. Giống như xây cất nhà cửa, đó là kiến trúc. Muốn thành Phật, chúng ta phải kiến trúc, xây dựng cơ sở thành Phật. Thiện cơ là làm công đức, cũng tức là làm các việc lành. Chúng ta muốn học Phật Pháp, trước tiên phải xây dựng cơ sở thành Phật. Một khi có công đức, có phước, có trí huệ rồi, chúng ta mới có thể đạt được mục đích.

Tài bồi phước huệ dưỡng ma ni: Vun bồi phước của quý vị là nên làm nhiều công đức. Vun đắp huệ của quý vị là nên đọc tụng kinh điển Đại thừa. Siêng tu Bát-nhã là học tập pháp môn trí huệ. Ma ni là Ngọc Như Ý; cũng tức là Tứ Vô Lượng Tâm: từ, bi, hỷ, xả. Chúng ta nên tùy thời, tùy hoàn cảnh mà siêng năng tu hành Tứ Vô Lượng Tâm nầy. Đây là pháp môn mà người tu đạo không thể nào thiếu sót được.

Thân cận tri thức tập giới định: Người học Phật Pháp nên gần gũi những bậc thiện tri thức. Như khi có sự việc gì không hiểu, chúng ta nên thỉnh giáo các vị thiện tri thức chỉ dạy. Trong Luận Ngữ có nói:

“Mẫn nhi hiếu học, bất sỉ hạ vấn,”

Nghĩa là người cần mẫn hiếu học sẽ không hổ thẹn khi hỏi kẻ dưới mình. Vì chuyện học tập, dù là người không bằng mình, mình cũng nên theo họ để học tập. Người tốt là Pháp sư giảng dạy mình, kẻ không tốt thì là Giới sư răn dạy mình. Mục đích tu tập: giới, định, huệ là để phá trừ ba độc: tham sân si của chúng ta. Nếu như không tham, không sân, không si, đó tức là chúng ta có định lực, có trí huệ và sẽ không bị cảnh giới bên ngoài lay chuyển.

Triêu văn Thánh đạo tử khả hĩ: Giả dụ như buổi sáng chúng ta được nghe bậc Thánh nhân giảng thuyết về đạo thành Phật, rồi đến tối có chết, mình cũng không có chi hối tiếc.

Quý vị! Học Phật là nên đem công phu chân thật của mình ra, chứ đừng sợ bị thiệt thòi. Thời thời khắc khắc nên chịu khó gánh lấy trách nhiệm, chịu bị oán trách và cống hiến tất cả tâm lực của mình cho Phật pháp. Chủ yếu của Pháp bảo là không sanh phiền não, không nổi giận. Chúng ta phải nhẫn nhịn tất cả: Nhịn những chuyện mà người khác không thể nhịn; chịu những việc mà người ta không chịu đựng nổi; ăn những gì người ta không thể ăn; mặc những thứ mà người ta không thể mặc. Nếu được như vậy thì chúng ta mới là người chân chánh tu đạo. Cuối cùng tôi xin nói với mọi người rằng, Nhẫn nhịn là bảo vật vô giá, gọi là:

“Nhịn giây lát, gió yên sóng lặng;
Lùi một bước, trời biển bao la.”

Được vậy thì tiêu dao, tự tại biết là bao! Nếu như gặp người không biết gì đến đạo lý và chuyên môn moi móc, bới lông tìm vết, chuyện vô lý cũng gây thành náo loạn thì chúng ta phải nhẫn nhịn, chứ đừng cãi lý với họ. Như vậy thì tự nhiên gió sẽ yên, sóng sẽ lặng. Nếu gặp người thị phi, chuyên đặt điều, đồn nhảm về mình, dù mình có bị oan uổng như thế nào, hoặc họ có nói những chuyện không đúng sự thật, mình cũng phải nhẫn nhịn! Vì đó là những nghiệp oan trái mà mình đã nợ từ xưa. Kiếp nầy họ đến đòi thì mình đừng nên chống cự, mà chẳng chịu trả nợ. Một khi mình trả hết nợ rồi thì tự nhiên trời biển bao la, tức sẽ tự tại, không phiền
không não, không lo không sầu.

Giảng ngày 16 tháng 3 năm 1985

45. Bồ Tát Quán Âm Đến Thánh Thành

Hôm nay là bắt đầu mùa xuân Quán Âm thất. Tôi hy vọng quý vị đem hết tâm chân thành của mình mà chí thành khẩn thiết niệm thánh hiệu “Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.” Chẳng những miệng niệm mà tâm cũng phải niệm. Tâm khẩu tương ưng sẽ tạo thành một khối, tự nhiên cảnh giới cảm ứng sẽ hiện tiền. Quý vị hãy chú ý! Có tâm là vọng tưởng, vô tâm là cảm ứng vậy.

Chúng ta tuy không thể từ Vạn Phật Thánh Thành, ba bước một lạy đến đạo tràng Quán Âm Bồ Tát ở Phổ Đà Sơn. Nhưng nếu chúng ta có thể niệm với lòng chân thành thì cũng giống y như thế, là sẽ cảm ứng được Bồ Tát Quán Âm đến gia trì, khiến cho chúng ta khai ngộ và được đại trí huệ.

Tục ngữ nói: “Ông tu thì ông được, bà tu thì bà được, không tu thì không được.” Câu nói nầy rất có đạo lý, gọi là:

“Tự mình sanh tử, tự mình dứt,
Tự mình ăn cơm, tự mình no.”

Người khác tuyệt đối không giúp được mình gì đâu. Đừng tưởng rằng khóa đả thất nầy là việc chung như thường lệ, rồi làm qua loa cho xong chuyện. Vì vậy chúng ta nên hiểu rằng thời gian rất là quý báu và đừng để nó trôi qua một cách vô ích.

Nếu quí vị thành kính niệm thánh hiệu, nhất định Bồ Tát Quán Âm sẽ gia trì, giúp quý vị tiêu diệt hết các nghiệp xưa nay và tăng trưởng thêm căn lành. Cho nên biết rằng, khi quý vị tưởng nhớ đến Bồ Tát Quán Âm, Bồ Tát Quán Âm cũng sẽ nhớ tưởng đến quý vị. Đây gọi là “cảm ứng đạo giao.” Quý vị niệm Bồ Tát là cảm, Bồ Tát đến gia trì quý vị là ứng. Cũng giống như trẻ con kêu gọi mẹ, mẹ nghe là trả lời ngay. Đó là đạo lý cảm ứng đạo giao vậy.

Tóm lại, quý vị dự khóa đả thất là tinh tấn lại càng tinh tấn hơn, và tuyệt đối không được giải đãi, buông lung. Tại sao chúng ta tu hành? Vì liễu sanh thoát tử, ngõ hầu vượt ra khỏi luân hồi. Nếu chúng ta không nỗ lực tu hành, thời sanh tử sẽ vĩnh viễn không chấm dứt được. Mọi người nên mau mắn, vững chân bước vào vùng thật địa để tu hành. Đừng dụng công hời hợt ở bên ngoài, vì như thế chúng ta sẽ không đi đến đâu cả!

Giảng ngày 1 tháng 4 năm 1985

 

46. Đều Là Người Một Nhà

Hôm nay là ngày kỷ niệm đức Quán Thế Âm đản sanh. Hỡi các vị cư sĩ! Các vị từ Los Angeles, Seattle và Vancouver, Canada đến Vạn Phật Thánh Thành để tham gia đại pháp hội nầy. Quý vị đã đến với lòng thành như vậy, thật quả là đáng khen ngợi.

Phàm hễ người nào đến Vạn Phật Thánh Thành thì là một phần tử của chùa Vạn Phật, cũng đều là người cùng một nhà. Quý vị nên có cảm giác như đang trở về nhà mình. Đã là người cùng một nhà thì bữa cơm chay hôm nay, chúng ta đâu có màng chi đến chuyện ăn ngon hay không. Tôi hy vọng mọi người đừng khách sáo và nghĩ như là đang ăn cơm ở nhà mình vậy. Nếu có chỗ nào tiếp đãi không được chu đáo, mọi người cũng sẽ thứ lỗi bỏ qua, bởi vì chúng ta đều là người nhà cả.

Vạn Phật Thánh Thành là vùng đất phát nguyên của Phật giáo thế giới, cũng là chỗ Phật giáo trở về nguyên bổn. Quý vị xem đấy! Phật tử các nơi trên thế giới đã hiểu được rằng: Vạn Phật Thánh Thành là một đạo tràng Chánh Pháp trụ thế, cho nên họ nhộn nhịp tìm đến để nương tựa.

Trong số quý vị, nếu có ai muốn đến Thánh Thành tu hành, chúng tôi đều nhất loạt hoan nghinh. Tuy thức ăn ở đây không ngon, nhưng quý vị sẽ không bị đói đâu. Cho nên nói: Người quân tử mưu cầu tầm đạo chứ không lo kiếm ăn, tức quý vị đến là vì tu đạo, chứ không phải là vì ăn ngon mới đến.

“Nhà có phép nhà, tiệm quán có quy luật tiệm quán.”

Bất luận đoàn thể nào cũng đều có quy củ riêng của họ. Không quy củ ví như không có com-pa thì sẽ không vẽ thành tròn, cho nên đương nhiên là Vạn Phật Thành cũng có thành quy của nó. Thành quy là gì? Là tại trai đường thì không được nói chuyện, và tại Phật đường thì nên lễ bái. Khi tham gia pháp hội, ai nấy đều nên theo đại chúng và không được hành động riêng lẻ. Người đến Vạn Phật Thánh Thành, nhất định là cấm hút thuốc, uống rượu. Dân híp-pi không được đến. Tại sao vậy? Bởi vì Vạn Phật Thánh Thành là đạo tràng thanh tịnh, e rằng bọn họ sẽ gây náo loạn, khiến cho tâm thanh tịnh của người tu hành bị xáo trộn.

Vạn Phật Thánh Thành là nơi của vạn Phật hội tập lại. Cho nên mỗi năm vào mùa xuân, chúng ta cử hành đại pháp hội, với ba mươi ngày lễ bái Vạn Phật Bảo Sám, chuyên cầu nguyện cho thế giới hòa bình. Công đức lễ bái sám hối thì không thể nghĩ bàn, vì nó có thể tiêu tai tăng thọ và diệt tội tăng phước.

Khóa Lễ Vạn Phật Bảo Sám, Vạn Phật Thành – 05/2008

Rất ít người ở vùng châu Á bái lạy Vạn Phật Bảo Sám, cho nên ở châu Á không ngớt sanh ra những chuyện bất hạnh như thiên tai nhân họa. Tại sao có nhiều dân châu Á tỵ nạn như thế? Nếu xét kỹ cái nhân từ trước, bởi thuở xa xưa họ đã không biết tu hành, không biết lạy sám hối, thành thử đã trồng quả ác cho ngày nay. Bây giờ chúng ta phải nên phản tỉnh, và nhân cơ hội Vạn Phật Thánh Thánh cử hành khóa lễ sám hối, chúng ta nên tham gia lễ bái để tiêu diệt bao lỗi lầm trước. Tôi hy vọng mọi người sẽ tỉnh thức! Có câu nói: “Mất dê mới lo làm chuồng, cũng chưa trễ lắm đâu.”

Vạn Phật Thánh Thành vì mưu cầu hạnh phúc cho toàn nhân loại, nên chúng ta mới tạo dựng một đại tùng lâm để tu đạo. Bất luận ai muốn đến Thánh Thành tu hành, họ đều có thể báo danh bất cứ lúc nào cũng được. Thánh Thành có thể dung chứa hai mươi ngàn người trú ngụ. Hiện nay chưa đầy người, chờ đến lúc đầy rồi, quý vị có muốn đến cũng không kịp đâu. Bây giờ là đúng thời đúng lúc đấy, cho nên quý vị đừng bỏ qua quyền lợi riêng nầy. Còn tôi bất quá chỉ là người giữ cửa cho quý vị thôi. Tương lai những người từ các nơi trên thế giới đến đó, họ đều sẽ là chủ nhân. Tôi chỉ là người làm công, giữ cho đạo tràng sạch sẽ để quý vị chuyên tâm tu hành hầu được ly khổ đắc lạc.

Giảng ngày 7 tháng 4 năm 1985

47. Xuất Gia Hoàn Tục Sẽ Đọa Lạc

Người người đều muốn thành Phật, nhưng thành Phật cũng cần phải có điều kiện. Ai nấy muốn làm người tốt, nhưng làm người tốt thì phải trải qua thời gian dài thử thách mà không đổi chí nguyện của mình. Cũng như lúc nào chúng ta cũng làm tất cả điều lành, không làm chuyện ác, như thế mới đủ tư cách để làm người tốt.

Trong tâm chúng ta thì muốn làm người tốt, nhưng lại có những hành vi không chịu hợp tác với mình. Như không có điều ác nào mà không làm, còn dù có chuyện thiện đi nữa cũng không chịu làm. Nếu tâm và hành động không hợp nhất với nhau, vậy chúng ta làm sao có thể bàn đến chuyện làm người tốt cho được? Lúc mới phát nguyện, chúng ta rất nghiêm chỉnh, nhưng thời gian lâu dần lại sanh tâm giải đãi, không lười biếng thì cũng là sống cho qua ngày tháng, rồi quên hết bao ý nguyện của thuở ban đầu mới phát tâm.

Như nói về người xuất gia chúng ta, thời gian mới xuất gia, chúng ta rất có tâm đạo và nỗ lực tinh tấn. Nhưng từ từ ý nguyện thuở ban đầu của chúng ta thay đổi, không biết tiến lên, mà bắt đầu làm những chuyện trái với lương tâm. Rốt cuộc chúng ta chẳng những không được thành Phật, mà lại còn bị đọa địa ngục nữa. Có người xuất gia được vài năm, nhưng không chịu nổi các khảo nghiệm thử thách. Vì bị hoàn cảnh chuyển biến, lại không đủ định lực, thế là họ hoàn tục ra đời. Từ đó họ làm những chuyện theo ý họ. Hoặc là họ sẽ phát tài lớn, hoặc sẽ làm quan to; bất quá các việc đó chỉ là những thứ huyễn hóa trước mắt. Nhưng quả báo của họ thì lại như bóng theo hình, khó mà trốn tránh.

Hôm nay tôi thành thật nói cho quý vị biết. Phàm hễ người xuất gia nào muốn hoàn tục, nhất định sẽ bị đọa lạc và chịu khổ không ngừng. Đó là sự thật và tôi cũng không khách sáo chút nào khi nói về điều nầy. Một niệm lúc mới ban đầu là xuất gia thành Phật và một niệm sau rốt là hoàn tục để làm quỷ. Đây là hai con đường mà quý vị phải lựa chọn, sự quyết định là ở trong tay quý vị đấy.

Chuyện thế gian nếu không tốt thì là xấu, không thành tức là bại, không thịnh tức là suy. Cho nên nói: “Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt,” người quân tử đi lên, kẻ tiểu nhân đi xuống. Quý vị hướng thượng đi lên là đến bốn quả vị Thánh; quý vị muốn tuột đi xuống thời đọa trong ba đường ác, gọi là: “Thiện ác hai đường, tu thì tu, tạo thì tạo.”

Người có căn sâu dầy thì tu theo đường lành, người mang nghiệp nặng thì tạo đường ác. Nếu chúng ta nói những lời thành thật với họ, họ sẽ không tin. Trái lại, nếu chúng ta nói lời giả dối thì họ lại tin ngay. Vì sao? Bởi vì nghiệp chướng của họ nặng nề. Chúng ta học Phật đã nhiều năm, mà không hiểu rõ đạo lý trên, thật đáng thương thay! Tôi vốn không muốn nói về đạo lý nầy, vì nghĩ rằng quý vị đều đã biết rõ hết rồi. Nhưng giờ đây tôi mới biết là mọi người chưa hiểu rõ một cách triệt để và vẫn còn lẩn quẩn ở ngã tư đường vì đã thất lạc phương hướng.

Bây giờ tôi sẽ nhắc lại cho mọi người nghe là: Con người chúng ta đang sống trong cái biển lớn sanh tử, nếu không nổi lên được thì chỉ có chìm xuống thôi.

Tục ngữ có câu: “Trèo cao, té nặng!” Hướng thượng muốn thành Phật, nhưng chúng ta không đi lên thì không thành Phật được; còn nếu té ngã xuống thì sẽ đọa địa ngục, vĩnh viễn khó mà thoát ra.

Có người hỏi: “Rốt cuộc là có địa ngục hay không?” Tôi xin nói với quý vị rằng, như con người đang sống đây là đang ở trong địa ngục đấy. Quý vị xem, có số người phiền phiền não não, tranh cãi láo nháo không bao giờ ngừng dứt. Như thế không phải giống như ở địa ngục sao? Con người sống như thế thì có ý nghĩa gì? Lại còn có hỏa tai, phong tai, chiến tranh và những tai họa do con người gây ra, vậy cũng như là sống trong địa ngục trần gian thôi! Hãy nhìn xem, khi người mang bệnh tật trên thân thì khổ không thể nói, như lúc chứng ung thư hoành hành, họ đau đớn đến nỗi không còn muốn sống. Như thế há không phải là địa ngục sao? Nhưng người ta vẫn không nhìn thấy, buông không được, bỏ không đặng, cứ lo tham luyến cố chấp, lại không có tâm từ bi, thấy lợi quên nghĩa, thừa nước đục thả câu. Cho nên cuối cùng họ vẫn là quanh quẩn trong vòng luân hồi, không bao giờ ngừng dứt.

Thôi được rồi, tôi sẽ không nói nữa, nếu không thì mọi người sẽ sợ hãi mà bỏ chạy hết!

Giảng ngày 4 tháng 5 năm 1985

 

48. Tiêu Diệt Ngoại Tam Ác Và Nội Tam Độc

Sao gọi là ngoại tam ác? Đó là sát, trộm, dâm. Xã hội vì sao không được an ổn? Cũng bởi vì ba cái ác đó tác quái đấy. Mỗi ngày các tin tức đăng trên báo chí, thì đã hơn một nửa tin là có liên quan đến ba ác: sát, trộm, dâm nầy. Cho nên nói: “trong vạn ác thời dâm đứng đầu,” cũng bởi trong thiên hạ có đến tám hoặc chín phần mười người vì dâm mà sanh ý sát hại. Loại phong độc nầy, thật đáng sợ thay! Nếu chúng ta không phạm sát, trộm, dâm thì vô hình trung, chúng ta đã giúp cho xã hội được an ổn và duy trì sự hòa bình cho thế giới.

Sao gọi là nội tam độc? Đó là tham, sân, si. Tham mà không chán thì vĩnh viễn không bao giờ biết đủ. Tham mà được vào tay thời ta vui mừng, tham mà không được thời ta sân giận. Một khi chúng ta khởi lòng sân là vô minh sẽ gây sóng gió, thúc dục đấu tranh. Lúc bấy giờ chúng ta mất hết lý trí, cho nên ngu si bèn xuất hiện, khiến gây ra những chuyện điên đảo mà ta không suy nghĩ gì về hậu quả. Chuyện nhẹ là trái với nhân tình, còn nặng thì làm tổn hại lý trời.

Chúng ta làm thế nào để tiêu diệt được nội tam độc? Đức Phật Thích Ca đã để lại cho chúng ta một phương thuốc rất hay, đó là giới, định, huệ. Người tu đạo nhất định phải giữ giới. Do giới phát sanh định lực, rồi từ định lực mới sanh ra huệ lực. Những thứ nầy có mối quan hệ liên đới với nhau. Nếu có thể giữ giới, chúng ta sẽ không có tư tưởng tham dục. Khi chúng ta có được định thì mới không có tâm sân hận. Nếu chúng ta có thể phát sanh trí huệ, chúng ta sẽ không có những hành động ngu si.

Ba cái ác của thân chúng ta là do từ thân tánh bên ngoài mang lại. Ba độc trong ý tưởng của chúng ta là do từ tâm tánh bên trong phát sanh. Vì một khi đã có tham, sân, si thì người ta sẽ phạm sát, trộm, dâm. Nếu chúng ta có thể đem tham, sân, si biến thành giới, định, huệ, tức sẽ không có sát, trộm, dâm.

Ba độc làm ô nhiễm tự tánh, khiến cho tự tánh không được thanh tịnh. Chân tâm bị che khuất, vọng tâm bèn vào nhà làm chủ nhân ông và chỉ huy tất cả. Rồi nó khiến cho con người điên đảo, mê muội hồ đồ, không lúc nào được rõ ràng minh bạch. Kiếp sống của người nầy ví như cái thây thịt biết đi, vậy có gì đáng vui thú để mà nói!

Chúng ta phải rửa sạch tự tánh của mình. Vậy rửa bằng cách nào đây? Thì dùng Lục Đại Tông Chỉ: không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ nầy để tẩy rửa, để quét dọn, và nhất định rửa sạch cho đến không còn một chút nhơ bẩn nào. Nếu không tranh thì thế giới tự nhiên sẽ không có chiến tranh. Không tham danh, không tham lợi thì mọi người sẽ chung sống hòa thuận với nhau. Không cầu tức nhân cách mình tự nhiên sẽ cao thượng, ở đâu cũng được người ta cung kính. Không ích kỷ là việc gì cũng nên nghĩ cho người khác mà quên mình, và không tính toán với người, cũng không phân biệt bốn tướng: ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Không tự lợi là khi được lợi ích thì ta chia đồng đều, chứ không có tư tưởng muốn độc chiếm. Thậm chí ta còn theo nguyên tắc tự chịu thiệt thòi, khiến cho người khác được vui vẻ. Không vọng ngữ là bất luận việc gì, ta cũng dùng lòng tin cậy để đối xử với nhau. Khi nói lời chân thật sẽ không sanh ra những chuyện phiền phức không cần thiết.

Chúng ta dùng Lục Đại Tông Chỉ nầy để thân làm, tâm nhớ, như vậy là gián tiếp giúp đỡ chính quyền quốc gia và trực tiếp giúp đỡ cho chính mình. Chúng ta nên nhận rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình là trọng yếu như thế nào. Vì vậy chúng ta nên làm một phần tử vẹn toàn và ưu tú, chứ không làm người dân hư xấu gây nhiễu loạn trong nhân dân. Nếu làm được như thế, chúng ta mới không hổ thẹn là người Phật tử. Hy vọng mọi người nên dụng công về phương diện nầy. Nếu quý vị chuyên đi tìm cầu những pháp huyền diệu viễn vong, thế là bỏ gốc để chạy theo ngọn, tức quý vị vĩnh viễn sẽ không tìm được pháp chân thật.

Sau hết tôi hy vọng mọi người sẽ ném bỏ nội tam độc, ngoại tam ác ra khỏi chín tầng mây, và vĩnh viễn đừng bao giờ giao du với bọn chúng. Vì bọn chúng là những kẻ tiểu nhân, hễ thấy lợi là quên mất tình nghĩa. Cho nên nếu không cẩn thận, chúng ta sẽ bị rơi vào cạm bẫy của chúng. Vì bọn chúng cũng rất hoan nghênh chúng ta hợp tác với chúng, để cùng chúng trôi giạt vào bùn nhơ. Hãy nhớ kỹ! Chớ để lọt vào bẫy rập của chúng. Chúng ta phải nên đề cao cảnh giác, và phải có trí huệ để bội trần hợp giác, tức là quay lưng với trần tục để hòa hợp với giác ngộ. Nếu như không biết nhận thức rõ ràng, tức là chúng ta hòa hợp vào trần nhơ mà quay lưng với bờ giác, là hợp với lục trần để lập thành một công ty cổ phần với chúng.

Giảng ngày 5 tháng 5 năm 1985

49. Câu Châm Ngôn Của Phật Tử

Chúng ta cùng nhau tụ họp về đây để nghiên cứu Phật Pháp, nhưng mọi người cũng không nên chấp trước vào Phật Pháp. Chúng ta nên quán sát mọi việc một cách khách quan và phân tích sự vật bằng trí huệ vốn có của mình. Đừng mê tín hay tin tưởng một cách mê muội, gượng gạo. Chúng ta cũng không nên nhận giặc làm con, lấy trái làm phải, đen trắng chẳng phân minh, thiện ác điên đảo. Điều quan trọng nhất là chúng ta nên làm người Phật tử chân chánh trong việc tìm cầu chân lý, chớ chẳng dùng thủ đoạn như người đui dẫn người mù, thôi miên dân chúng khiến họ tin theo một cách hồ đồ, rồi làm những việc thiện ác hỗn độn để nhầm lẫn về nhân quả. Người học Phật nên chú ý về điểm nầy.

Tại sao chúng ta cần phải học Phật Pháp? Có phải vì chúng ta có chỗ tham cầu chăng? Nếu người nào có tham cầu thời đừng nên học. Học Phật nhất định là phải loại bỏ lòng tham, nếu không thì sân, si sẽ dễ phát sanh. Một khi ta có lòng tham, lòng sân và lòng si sẽ phát sanh theo, như vậy thì khỏi bàn gì đến giới, định, huệ nữa.

Bởi tự tánh của chúng ta vốn đã là Phật, cho nên khi nghiên cứu học tập Phật Pháp, chúng ta không nên tham cho mau, tham được tự tại, hoặc tham có thần thông. Vì những sự theo đuổi đó đều trái ngược với đạo, khiến ta quên mất ý nghĩa chân thật của việc học Phật. Chúng ta vốn muốn xuất ly biển khổ, ra khỏi nhà lửa của tam giới và rời khổ được vui, mà lại tham cầu tức là càng học thì càng khổ thêm.

Lục Đại Tông Chỉ: Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ chính là câu châm ngôn của những người Phật tử. Nếu lúc nào, ở đâu chúng ta cũng có thể thực hành theo, tức chúng ta mới là người Phật tử thật sự hiểu rõ được Phật Pháp.

Nói đi nói lại gì, tôi cũng nói bấy nhiêu đạo lý đó thôi, tuy có vẻ rất cạn cợt đấy, nhưng quý vị cũng không dễ gì làm được đâu. Nếu quý vị làm được thì cũng sẽ sớm thành Phật. Nếu quý vị cung hành thực tiễn theo Lục Đại Tông Chỉ nầy mà không thành Phật, thì tôi sẽ ở mãi dưới địa ngục và không bao giờ thoát ra. Tôi tin tưởng và bảo đảm rằng: Người nào tu hành theo Lục Đại Tông Chỉ nầy, tương lai nhất định sẽ thành Phật.

Giảng ngày 20 tháng 5 năm 1985

 

50. Khai Thác BảoTàng Trong Tự Tánh

Từ nhiều năm qua cho đến bây giờ, đều chỉ là tôi nói cho quý vị nghe. Vậy bắt đầu từ nay trở đi, quý vị sẽ là người nói cho tôi nghe. Tại sao? Vì như vậy là dạy quý vị mỗi người biết khai thác vật bảo bối trong quặng mỏ trí huệ tự tánh của mình. Chúng ta đem các vật báu như vàng, bạc, kim cương, xa cừ, mã não, ngọc thạch… trong quặng mỏ ra để cho mọi người thưởng thức, như vậy mới công bình. Nếu không, rốt cuộc không ai biết được trong kho tàng của quý vị có những thứ bảo bối gì.

Kỳ giảng thuyết về kinh Niết Bàn nầy được gọi là Ban Nghiên Cứu Phật Pháp. Bất luận là người xuất gia hay tại gia, ai nấy đều nên tranh đua nhau để lên bục giảng trước.

Quý vị nên lấy việc nghiên cứu Phật Pháp, hoằng pháp, bố thí và việc phổ độ chúng sanh làm trách nhiệm của mình. Quý vị phải có tư tưởng như thế thì mới có tư cách làm người Phật tử.

Quý vị! Hiện quý vị có cơ hội tốt để nghiên cứu Phật Pháp như vậy, đây thật là ngàn năm khó gặp. Cho nên quý vị nên nắm lấy thời cơ, đừng để vuôït mất cơ hội. Nếu không thì cũng như mình vào trong núi báu mà về tay không, đó là việc đáng tiếc lắm thay!

Quý vị hãy suy nghĩ đi, tới đâu mà có thể tìm được một đạo tràng thanh tịnh như vầy. Tôi dám nói là tìm khắp cả trên thế giới, e rằng tìm cũng không ra! Chúng ta may mắn đã gặp được, thì nên chuyên tâm nghiên cứu Phật Pháp, và tự phát huy tài ba của chính mình. Vậy tại sao khi đến giờ lên bục giảng, thì người nầy đẩy qua người kia, chứ không chịu lên trước? Thật là làm cho tôi thất vọng vô cùng.

Tôi đã từng nói, khi người thứ nhất giảng sắp xong, thì người thứ hai phải chuẩn bị đi lên. Như vậy mới không lãng phí thời gian. Ý tôi muốn huấn luyện cho quý vị có kinh nghiệm hoằng pháp, vì mỗi một cá nhân đều có đủ biện tài vô ngại. Như vậy chờ đến lúc quý vị chánh thức đi hoằng dương Phật Pháp, thì sẽ có cảnh “Thiên hoa loạn trụy, địa dũng kim liên,” tức là hoa trời rơi xuống, đất mọc sen vàng. Như thế quý vị mới đảm nhiệm được sứ mạng “tiếp tục huệ mạng” của Phật!

Đây gọi là: “Sư Phụ đưa đến cửa, tu hành do mỗi người.” Lúc tôi mới học Phật Pháp, không có ai chỉ dạy, không có ai khuyến khích, lại cũng không có ai đề bạt, nâng đỡ tôi cả. Cho nên tôi hy vọng quý vị sẽ tự lực tự cường, không ngừng tiến bước và đừng sanh tâm ỷ lại. Nếu như chuyện gì quý vị cũng có tâm lý ỷ lại vào Sư Phụ, quý vị sẽ vĩnh viễn không bao giờ được giải thoát.

Chúng ta học Phật Pháp, tức là học trí huệ chân chánh. Một khi đã có trí huệ rồi, chúng ta sẽ giải quyết tất cả vấn đề một cách dễ dàng. Bất luận làm công việc gì, chúng ta cũng có thể làm được một cách hoàn toàn mỹ mãn. Còn như chỉ dùng tâm ý thức để giải quyết vấn đề, chúng ta sẽ do dự và thiếu nghị lực để quyết đoán mọi việc. Vì thế dù làm chuyện gì, chúng ta tuyệt đối cũng không thể thành công được.

Muốn học được trí huệ chân chánh, trước hết là chúng ta phải đoạn dục. Làm sao để đoạn dục đây? Tức là không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ. Lục Đại tông chỉ nầy là Pháp bảo để đoạn dục, khiến cho quý vị thâu hoạch được trí huệ chân chánh. Lúc bấy giờ, đối với duyên khởi của vạn sự vạn vật, quý vị sẽ thân thuộc như lòng bàn tay mình, và biết phân tích rất là rõ ràng. Như vậy quý vị có thể phân biệt được phải trái, thiện ác và tuyệt đối không làm những chuyện điên đảo.

Giảng ngày 24 tháng 6 năm 1985

51. Âm Nhạc Trong Tự Tánh

Tất cả các chữ Hoa đều có ý nghĩa và được cấu tạo theo những quy tắc nhất định. Mỗi chữ khi được tạo thành là đều có sự giải thích riêng của nó. Các văn tự Trung Hoa được cấu tạo theo sáu cách như: chỉ sự, tượng hình, hình thanh, hội ý, chuyển chú và giả tá.

Về Tượng hình: như chữ “mã” ngựa (馬 có bốn chân, chữ “lộc” hươu (鹿 thì bên trên có một chấm, còn chữ “dương” dê (羊 thì bên trên có hai chấm, vì chữ hươu và dê đều là biểu thị cho loài có sừng. Chữ “ngưu” trâu bò (牛 có nét phẩy bên trái, biểu thị cho cá tánh của loài trâu bò rất mạnh và thường cụng húc qua một bên. Cho nên mỗi chữ đều có ý nghĩa riêng của nó, và chúng ta cũng nên biết thêm về sáu cách cấu tạo chữ nầy. Ngoài ra cũng có lục nghệ, tức sáu nghề là: Lễ, nhạc, xạ, ngự, thơ, số. Ngài Khổng Tử có ba ngàn học trò, nhưng tinh thông lục nghệ thì chỉ có bảy mươi hai người. Lễ là lễ nghĩa; nhạc là âm nhạc; xạ là bắn cung và cũng bao gồm cả võ thuật; ngự là chỉ về cưỡi xe ngựa ở thời xưa, nhưng hiện nay là bao gồm cả lái xe, lái máy bay, lái tàu thủy… Thơ là phương pháp viết chữ, đại thể thì phân thành năm cách viết: triện, lệ, khải, hành, thảo. Số là số học, cho nên nói: “Tri mỗ số, thức mỗ danh,” người biết số học thì sẽ hiểu văn học.

Hiện nay người ta chế ra hỏa tiễn, phi đạn vốn phát minh từ trong ngành toán số. Như việc dùng điện não computer để điều khiển hỏa tiễn bay bao xa cũng đều không ngoài môn toán số.

Cho đến như âm nhạc, thì trong thời tụng niệm của Phật Giáo là thuộc về âm nhạc. Cho nên hễ ai đánh mõ có nhịp nhàng tiết tấu sẽ có công đức. Còn nếu người nào gõ mõ với tâm bực dọc, hoặc gõ quá lớn tiếng, hoặc gõ quá nhỏ thì sẽ có tội. Tán tụng cũng như là dùng âm nhạc để cúng dường Phật. Cho nên nếu một mặt cúng dường, một mặt lại giận hờn, quý vị nghĩ như thế Phật có hoan hỉ không? Dùng âm nhạc để cúng dường Phật vốn có rất nhiều công đức, nhưng khi phát giận quý vị không tán tụng được, mà lại còn dộng chuông gõ mõ loạn xạ cả lên, vậy tức là có tội rồi.

Tu hành là từ mỗi việc làm về mọi phương diện, không có nơi nào mà chẳng phải là nơi tu hành. Mà cũng không phải chỉ là ngồi thiền, hoặc lạy Phật mới là tu hành. Vì vậy ăn cơm, mặc áo, cho đến nhất cử, nhất động đều là tu hành cả. Tu hành tức là phải điều phục thân tâm. Điều thân là làm cho thân thể không sanh bệnh tật và giữ cho mình được khỏe mạnh. Nhưng cũng không phải là quá yêu quý nó: lạnh cũng không được, nóng cũng không được, khát cũng không được, đói cũng không được, không phải là quá nuông chiều cho thân xác. Chúng ta phải ra công kiềm chế để rèn luyện thân thể, chỉ cần không tổn hại nó là được rồi. Chứ không phải vì yêu quý thân thể mình như tấm gương dễ bể, không ai đụng đến được.

Trong các sinh hoạt hàng ngày, chúng ta cũng nên tự rèn luyện lấy mình, vậy mới là tu hành. Đi đứng nằm ngồi, không lúc nào là không tu hành. Tu hành không có nghĩa là chỉ có hai thời tụng niệm sớm tối mới là tu hành. Mà lúc bình thường, nhất cử, nhất động, nhất ngôn, nhất hành, chúng ta đều nên hòa hợp với tiết tấu, phù hợp với qui tắc, bởi tự tánh trong mỗi chúng ta đều có “âm nhạc” cả. Chúng ta phải tu sao cho được tâm bình khí hòa, không sanh phiền não, không nhân, không ngã và không có vô minh. Nếu chúng ta ghen ghét người hiền tài, hoặc thích làm những chuyện viễn vông, hoặc tự vỗ ngực khoe tài để mình được danh tiếng, thì đó không phải là âm nhạc đâu. Nếu mỗi ngày chúng ta tu hành đúng pháp, thì đó mới là âm nhạc.

Tự mình tu cho được tâm bình khí hòa và rèn luyện tánh tình, vì chúng ta vốn không cần phải tìm kiếm âm nhạc ở bên ngoài. Bởi vì tâm chúng ta không hòa bình, cho nên phải giả mượn âm nhạc bên ngoài để tự thăng bằng lại.

Nếu tâm có thể bình hòa được thì lúc nào chúng ta cũng sẽ tràn đầy khí khái tốt lành, đó mới chính là “âm nhạc” chân thật đấy. Còn về lục nghệ: lễ, nhạc, xạ, ngự, thơ, số; sáu thứ nầy vốn đã bao gồm trong tự tánh của chúng ta rồi. Nếu trọn ngày chúng ta có thể không nói lời vô ích, không nghĩ điều vô vị và có thể tự điều phục tâm mình cho được bình thản, an ổn, không bị câu thúc, không vướng mắc chướng ngại, không nhân, không ngã, không phải không trái, thì quý vị nói đi, đó không là âm nhạc thì là cái gì?

Khi Khổng Tử ở nước Tề nghe nhạc Thiều, ông đã không biết gì đến mùi vị thịt trong ba tháng trời. Nếu quý vị hiểu được âm nhạc của tự tánh, đâu cần nói đến mùi thịt, mà ngay cả đến mùi nước, quý vị cũng không biết, hoặc có chua, ngọt, đắng, cay gì, quý vị cũng đều không biết luôn. Khi đó mới gọi là quý vị đã đạt đến cảnh giới “nhìn mà không thấy, nghe mà không nghe, ăn mà không biết mùi vị.” Quý vị nên chú ý: Chớ xem tự tánh của mình như bãi chiến trường để đấu tranh, nếu thế thì không phải là âm nhạc đâu.

52. Học Phật Pháp Nên Giữ Bổn Phận

Khi thuyết pháp, quý vị không nên ca ngợi rằng “Hòa Thượng” là như thế ấy, như thế ấy. Tôi kỵ nhất là được người ta tán thán. Nếu như có lời phê bình tôi, tôi khiêm tốn tiếp nhận ngay, và mượn đó làm gương để soi sáng, phản tỉnh. Tôi và hư không giống nhau, đều không có ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng. Nếu như có ngã thì tôi đã không đến nước Mỹ nầy. Nguyên nhân tôi đến Mỹ là để mở mang vùng đất mới cho Phật giáo, hầu truyền bá Phật Pháp đến toàn thế giới!

Bất luận trong trường hợp nào, tông chỉ của tôi là tuyệt đối không bao giờ tự đề cao địa vị mình, mà cũng không cầu kỳ, lập dị khác người. Tôi không cảm thấy là mình cao hơn người khác, hoặc lớn hơn người khác. Tôi không có lối suy tư như vậy, vì nếu có, đó là sự biểu hiệu của tánh tự mãn đấy.

Phàm hễ là người tự mãn thì tuyệt đối sẽ không thành tựu được việc gì. Con người nên có tư tưởng “Hữu nhược vô, Thật nhược hư” là có như không, thật như giả. Cho dù mình có đạo đức cao thượng, thì mình cũng giống như không có gì; dầu mình đúng thật có tài ba, nhưng mình cũng giống y như không có chi. Quý vị hãy chú ý! “Tự mãn” là biệt danh của tự đại đó. Tự đại tức là “xú” (臭, nghĩa là thúi, xú là chữ Hán, gồm chữ tự (自nằm bên trên chữ đại (大). Khi hơi khí hôi thúi xông lên ngất trời như vậy, ai mà dám gần mình? Lúc đó mọi người phải bịt mũi đi qua, không dám đến gần mình đâu!

Tôi hy vọng quý vị dùng Lục Đại Tông Chỉ để làm nguyên tắc. Nếu không làm được những điều như “không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ,” dù quý vị có tài ba, có trí tuệ như thế nào, hoặc miệng nói lưu loát như nước chảy và biện tài vô ngại ra sao thì cũng là làm trái với đạo. Như vậy, dẫu cho quý vị có làm gì cũng sẽ không đạt được thành tựu viên mãn.

Tôi chỉ công nhận những ai thật thà và biết an phận giữ mình, chứ không biết đến những người xảo quyệt thường hay biện luận. Từ nay về sau, bất luận là ai, tất cả đều phải chân thật và giữ bổn phận mình. Quý vị không được cống cao ngã mạn, cứ tưởng rằng mình là phi thường, trên đời không ai sánh bằng. Người nào có thứ hành vi như thế thì sẽ không tồn tại lâu dài trong Phật giáo, sớm muộn gì y cũng sẽ bị thất bại thôi.

Cho dù quý vị thật có tài ba xuất chúng đi nữa, nhưng quý vị cũng không cần phải biểu lộ ra ngoài. Quý vị nên học tập tác phong của những vị đại đức xưa nay, mà hãy chú trọng vào đức hạnh. Đối với tất cả mọi việc, quý vị nên thực hành theo Tứ Vô Lượng Tâm: từ, bi, hỉ, xả. Đừng tồn chứa sát khí trong lòng, mà không chịu tha thứ cho người.

Chúng ta nên hiểu rằng: “Từ bi là hoài bão, cửa ngỏ làm phương tiện.” Hôm nay tôi muốn nói với quý vị bấy nhiêu đó thôi, còn sửa đổi hay không là tùy quý vị.

Giảng ngày 30 tháng 7 năm 1985

 

53. Học Tập Theo Tinh Thần Của Bồ Tát Di Lặc

Chúng ta nên học tập theo công phu nhẫn nại của Bồ Tát Di Lặc. Như Ngài đã nói:

Lão khờ mặc áo vá,
Cơm lạt bụng no nê,
Vá áo để che lạnh,
Muôn sự để tùy duyên.
Có người mắng lão khờ,
Lão khờ chỉ nói tốt.
Có người đánh lão khờ,
Lão khờ nằm xuống ngủ.
Khạc nhổ trên mặt lão,
Cứ để nó tự khô.
Lão cũng không phí sức,
Mà người cũng không phiền.
Ba La Mật như vậy,
Là vật báu huyền diệu.
Nếu ai biết lẽ nầy,
Lo gì không đạt đạo.

Quý vị nói, như vậy có huyền diệu hay không? Bởi vậy mà miệng Ngài thường hay cười và cái bụng thì to lớn, gọi là: “Tâm rộng rãi thì thân thể mập phì,” không có phiền não.

Tên của Bồ Tát Di Lặc là A Dật Đa. Di Lặc dịch là Từ Thị, A Dật Đa dịch là Vô Năng Thắng. Sao gọi là Vô Năng Thắng? Có người nói: “Tôi biết rồi, vì vị Bồ Tát nầy ăn nhiều hơn ai hết. Nếu không vậy, bụng Ngài sao mà lớn như thế? Vì không ai có bụng lớn như Ngài, cho nên gọi là Vô Năng Thắng.”

Người khác lại nói: “Vị Bồ Tát nầy có đại khí lực, một tay có thể xô nhào cả quả núi to. Vì không có ai sánh bằng Ngài, cho nên gọi là Vô Năng Thắng.” Nếu nói như vậy cũng không đúng đâu. Vậy thì Vô Năng Thắng là gì? Là bậc tu pháp môn Lục Độ đến bờ bỉ ngạn và không ai có thể thắng hơn Ngài, cho nên gọi Ngài là Vô Năng Thắng.

Vị Bồ Tát nầy thường vác trên vai một bao bố lớn. Ngài đi mọi nơi hóa duyên xin mọi người. Ngài xin gì đây? Ngài hóa duyên xin phiền não, hầu mong mọi người trên đời đều không có phiền não để rời khổ được vui. Cho nên nói:

“Mở miệng là cười, cười những người đáng cười trên thế gian; bụng lớn để chứa đựng, chứa những gì mà thiên hạ khó có thể dung chứa.” Ngài và cái bao bố không bao giờ rời nhau, cho nên Ngài có biệt danh là Hòa Thượng Bố Đại, gọi là:

“Đi cũng Bố Đại, ngồi cũng Bố Đại,
Buông Bố Đại xuống, tự tại biết bao!”

Do đó chúng ta nên học tập tư tưởng và hành vi của Ngài.

Giảng ngày 25 tháng 7 năm 1985

 

53. Nhân gì Phát Sanh Tam Tai?

Tam tai chia ra làm hai phần là: đại tam tai và tiểu tam tai. Đại tam tai là ba tai ách lớn về lửa, nước và gió. Tiểu tam tai là ba tai ách nhỏ về đao binh, mất mùa và bệnh dịch. Đó cũng tức là tai kiếp. Trong một đại kiếp có bốn trung kiếp gồm: thành, trụ, hoại, và không. Mỗi trung kiếp có hai mươi tiểu kiếp. Vào cuối thời kỳ giảm kiếp của mỗi trụ kiếp thì phát sanh hiện tượng tiểu tam tai. Còn đại tam tai thì phát sanh trong thời kỳ hoại kiếp của mỗi đại kiếp. Bây giờ chúng ta hãy bàn đến nguyên nhân phát sanh đại tam tai.

Bởi con người có tâm tham mới phát sanh ra hỏa tai; con người có tâm sân hận mới sanh ra thủy tai; con người có tâm ngu si mới sanh ra phong tai. Cho nên tam tai đều là do tam độc mà sanh khởi. Trong tâm chúng ta, ai ai cũng có đầy đủ cả ba độc. Tâm nầy mỗi ngày càng một khuếch đại ra và khi đến một mức độ nhất định, nó sẽ hình thành đại tai kiếp.

Tam tai phát sanh cũng có thứ lớp, bởi con người có thất tình: hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục, tức là vui, giận, buồn, sợ, thương, ghét, muốn. Bảy loại tình cảm nầy dần dần phát triển rộng ra. Và mỗi một loại tình sẽ phát sanh một lần tai nạn, cho nên mới hình thành bảy lần hỏa tai. Sau bảy lần hỏa tai thì sẽ phát sanh một lần thủy tai. Trong bảy tình, mỗi một tình lại chia ra làm bảy, cho nên mỗi cái “thất hỏa nhất thủy” nầy sẽ theo thứ tự mà lập đi lập lại bảy lần. Rồi lại trải qua bảy lần hỏa tai. Đến lúc sau cùng phong tai phát sanh và hủy diệt toàn cả thế giới.

Khi hỏa tai phát sanh, nó có thể thiêu đốt đến tầng trời Sơ thiền của Sắc giới, tức gồm cõi: Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên và Đại Phạm Thiên.

Lúc thủy tai phát sanh thì có thể ngập đến tầng trời Nhị thiền của Sắc giới, tức gồm Trời Thiểu Quang, Trời Vô Lượng Quang và Trời Quang Âm. Khi phong tai phát sanh thì có thể thổi đến các tầng trời Tam thiền của Sắc giới, là gồm Thiểu Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên và Biến Tịnh Thiên. Cho nên nói:

Cõi Trời Lục Dục có năm suy,
Cõi Trời Tam Thiền có phong tai,
Dẫu như tu đến Phi Phi Tưởng,
Không bằng về Tây rồi trở lại.

Phong tai từ đâu tới? Nó đến từ sự tổng kết của bảy thứ tình: hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục. Phong tai thì tượng trưng cho si độc. Khi con người đã lâm vào tình cảnh ngu si, thời cái gì cũng quên sạch nhẵn. Do đó đại phong phát khởi, rồi từ trên trời Tam Thiền đến dưới tận địa ngục, cái chi cũng không còn, tất cả đều bị quét sạch. Dù cho hỏa tai, thủy tai hoặc phong tai có phát sanh đi nữa, nhưng nội viện cõi trời Đâu Suất của Dục giới cũng vẫn tồn tại, chẳng bị ảnh hưởng mảy may nào. Tại sao vậy? Bởi đó là cõi Tịnh độ của Phật và Bồ Tát. Hiện nay, Bồ Tát Di Lặc đang ngự tại nội viện trên cung trời Đâu Suất, chờ đến khi trụ kiếp thứ mười trong thời kỳ Hiền Kiếp, Ngài mới giáng lâm thế giới Ta Bà để giáo hóa chúng sanh (hiện tại đang là Giảm Kiếp của Trụ Kiếp thứ chín).

Tham sân si hình thành biết bao loại ác khí, giống như nguyên tử trong bom nguyên tử; nguyên tử là thứ vật chất đáng sợ, nhưng bom nguyên tử do tự chúng ta phát sanh từ lửa tam muội lại càng đáng sợ hơn nữa. Loại nguyên tử nầy không phải đến từ bên ngoài, mà nó vốn đã có sẵn trong tự tánh. Chân hỏa tam muội trong tự tánh chúng ta vốn thuần là dương, nhưng vì bị ta lạm dụng nên nó biến thành lửa dục.

Trong thân người có tam tiêu hỏa là: thượng tiêu hỏa, trung tiêu hỏa và hạ tiêu hỏa. Tam tiêu hỏa nầy có thể hình thành hỏa tai, hoặc biến thành bom nguyên tử để hủy diệt tất cả. Bởi bên trong có bom nguyên tử, cho nên bên ngoài mới có bom nguyên tử. Chúng được hình thành bởi có sự tương ứng và tương tục với nhau. Hiện nay trên thế giới xảy ra nhiều vấn đề cũng đều là từ điểm nầy.

Trong tâm có cái gì thì bên ngoài có cái đó. Nếu trong tâm chúng ta không có chiến tranh, bên ngoài cũng sẽ không có chiến tranh. Cho nên nói “tất cả do tâm tạo” là vậy.

Giảng ngày 29 tháng 7 năm 1985

55. Tật Bệnh Cùng Nghiệp Chướng

Phàm các ác bệnh nan y, độc địa như sốt rét, ung thư… đều do quỷ từ phía sau chi phối, khiến cho ngũ tạng trong thân con người bị xáo trộn vị trí, và tứ đại không điều hòa.

Đó đều là do nghiệp chướng quỷ tác quái. Bởi con người có nghiệp chướng từ lâu đời, cho nên đến thời đến lúc thì quỷ tới đòi nợ. Mà cũng bởi vì con người không đủ dương khí, tức âm thịnh dương suy, cho nên quỷ mới có thể tùy tiện được. Nếu quý vị thường không phiền não và trí huệ luôn hiện tiền, thì sẽ không có sơ hở để ma quỷ thừa cơ lợi dụng.

Nhưng một khi quý vị khởi dục niệm và vô minh, quỷ bèn thừa cơ hội mà lẻn vào một cách dễ dàng.

Từ đó suy ra, tám vạn bốn ngàn tật bệnh là đều có tiền nhân hậu quả cả. Thậm chí khi quý vị bị con muỗi cắn, con ong chích, cho đến tất cả những tai nạn mà quý vị gặp phải, đều là do nhân quả đan dệt với nhau. Người hiểu rõ đạo lý nầy thì một chút lầm lỗi cũng không dám làm, vì hễ có lỗi là tự mình phải chịu báo ứng. Nhất là những ai tu Lục Độ Vạn Hạnh, họ càng phải chân thật khi dụng công, chẳng chút tơ hào hư dối. Cho nên nói: “Nhân địa bất chân, quả chiêu vu khúc,” gieo nhân không ngay thật thì gặt quả cong vẹo. Và đến lúc quả đã thành rồi thì có rất nhiều phiền phức.

Bởi vậy quý vị nên “tùy duyên tiêu nghiệp cũ, đừng tạo nghiệp ương mới” và không được có một chút nào buông thả trong mọi hành động. Dù lúc nào hay nơi đâu, mọi người cũng nên đề cao cảnh giác. Nếu không làm hại người và chỉ làm lợi cho người, vậy là mình sẽ không sanh bệnh gì cả, mà ma quỷ cũng không tìm được mình đâu.

Nói đến quỷ thì hôm qua có con quỷ “khai ngộ” từ San Jose đến tìm tôi. Quỷ đó nhập vào một bà và bà tự cho rằng mình đã khai ngộ. Chồng bà ta cũng cho rằng bà đã khai ngộ. Nhưng bà ta nói: “Con người không cần phải tu hành, cũng không cần phải giữ giới.” Thật ra mục đích của bà là tìm tôi để đấu pháp. Bà nầy đã quy y tôi năm 1980 tại Hội Cư Sĩ Lâm ở Singapore. Bà đến Mỹ được vài năm, học ngồi thiền, rồi tự cho mình đã khai ngộ. Vừa bước vào bà liền cúi đầu lễ tôi, nhưng không để cho chồng con bà nhìn thấy. Chỉ một mình bà hướng đến tôi đảnh lễ. Ban đầu không có chuyện gì, nhưng khi cúi đầu đến lần thứ ba thì bà lại cứ tiếp tục lạy mãi, rồi bắt đầu khóc, càng khóc càng lớn tiếng.

Tôi hỏi: Bà khóc cái gì?
Bà đáp: Con không biết, không phải là con khóc, mà là một người khác bên ngoài đang khóc.
– Ai bảo bà khấu đầu lạy thế?
– Là tự con muốn lạy.
– Bà đang giở trò gì vậy?
– Không biết! Tóm lại, không cần tu, không cần học, không cần giữ giới.
– Bà là sinh viên tốt nghiệp đại học ở Nam Dương. Có phải là bà không cần học mà được tốt nghiệp chăng?
– Không phải!
– Tu đạo cũng như vậy. Ngay đến cửa mà bà còn chưa bước vào được, vậy nếu bà không tu hành thì làm sao đắc đạo chớ? Có phải bà không đi học mà biết được chữ không?

Lần nầy thì con quỷ của bà cũng đành phải nói thật thôi. Nó là quỷ “tự nhiên” từ cõi trời Lục Dục. Nó vốn muốn đấu pháp với tôi, nhưng khi đến đây thì lại không có cách gì để đấu. Thế là nó giở ám chiêu, dùng phương pháp mềm diệu để công kích! Nó vừa khóc, vừa phun độc, nhưng độc nầy cũng không có tác dụng gì. Sau đó tôi nói chuyện với con quỷ đó cho đến khi nó lý cùng trí tận, nó mới thật tình xuống nước. Lúc bấy giờ bà Phật tử nọ cũng tỉnh lại và không còn náo loạn nữa.

Giảng ngày 30 tháng 7 năm 1985

56. Không Thể So Sánh Giữa Ma Với Phật

Vào thời Triều Minh, Đại sư Liên Trì (1535-1615) sau khi xuất gia đã đi khắp nơi để tìm minh sư học đạo. Sau khi vào kinh đô, Ngài đến tham bái hai vị đại lão đạo cao, đức trọng trong Thiền Tông là Biến Dung và Tiếu Nham. Đại sư Liên Trì sau khi được nhị vị lão sư khai pháp chỉ điểm, Ngài bèn đi đến Đông Xương và khi nghe tiếng trống thì bỗng nhiên giác ngộ. Nhân đó Ngài làm bài kệ:

Nhị thập niên tiền sự khả nghi,
Tam thiên lý ngoại ngộ hà kỳ!
Phần hương trịch kích hồn như mộng,
Ma Phật không tranh thị dữ phi.

Nghĩa là:

Mối nghi từ hai mươi năm trước
Lạ thay cái ngộ ngoài ngàn dặm!
Đốt nhang ném kích như trong mơ
Ma Phật, phải trái uổng công tranh.

Bất luận là đọc Kinh hay xem Luận, chúng ta cũng phải dùng trí tuệ để phân biệt phải trái. Điều tối kỵ là chúng ta dùng tâm, ý và thức để suy đoán. Vì tâm, ý và thức chỉ là để dối lừa người. Ba thứ nầy có sức mê hoặc rất lớn, khiến cho con người không phân biệt được phải trái, lý sự chẳng minh bạch, đen trắng lẫn lộn thành ra hỗn độn không rõ ràng. Có một số lý luận, mới nghe thì hình như có đạo lý, nhưng người có trí vừa xem qua là biết không đúng, còn người vô trí thời bị mắc lừa và nghe theo một cách thích thú. Có một số khác thì như người mù dắt kẻ đui, không phải vì cố ý, mà vì tự bản thân họ cũng chưa hiểu rõ. Cho nên họ đưa đẩy người khác lạc hướng vào lối rẽ, cuối cùng chẳng đến được nơi tốt lành. Bởi vậy chúng ta đừng nên xem thường việc phát biểu ý kiến của mình. Nếu trên vấn đề căn bản mà chúng ta luận giải xằng bậy, thì đó sẽ như câu nói: “Sai một hào một ly thì khác biệt một trời một vực,” thậm chí còn làm cho cả thế giới rơi vào hoàn cảnh đen tối, không ánh sáng. Do đó, trên nguyên tắc lý luận, chúng ta phải có sự nhận thức chính xác, rõ ràng. Nếu chúng ta chỉ dựa vào tâm, ý, thức mà suy đoán, rồi phê bình lung tung và tùy ý khen chê, tức là bỏ Phật để gia nhập vào bọn ma quỷ, là chuyện không thể được.

Như nói về vấn đề ma và Phật, chúng ta không nên chạy theo lý luận xằng bậy. Ví như có một số người cho rằng: “Ma, Phật như một, hai mà không hai.” Nhưng người Phật tử đâu thể nào giống như ma quỷ; nếu giống thì người ta đâu cần phải tin Phật mà cứ tin theo những lời ngông cuồng của ma quỷ cũng được vậy! Có người nói: “Ma là bộ mặt trái của bậc Thiện tri thức đến giúp đỡ chúng ta.” Đó vốn là nói về hoài bão của lòng từ bi, cũng là một lối nói để an ủi cái tự ngã, dùng tâm lý dỗ dành trẻ con là bảo nó chớ quá giận dữ. Cách nói như thế cũng vẫn là để hóa giải việc phân tranh và oán hận ở bên trong, bởi không muốn xem ma quỷ như kẻ thù địch. Nếu nói mặt trái của ma quỷ là giúp đỡ người, nhưng nó cứ lần lượt nuốt sống con người, hoặc là đưa con người vào chỗ chết, như thế thì gọi là “giúp đỡ” sao?

Do đó chúng ta cần phải giữ vững lập trường căn bản, giờ khắc nào cũng giữ chánh niệm. Một khi chúng ta sanh tâm tham, hoặc tham mau, tham thần thông, tham có hiệu quả nhanh chóng, tham linh cảm thì ma liền nhân đó mà xâm nhập vào. Có một số người rất thông minh, nhưng tại sao cũng có lúc họ bị tâm ma khí quỷ? Là bởi đối với những nguyên tắc căn bản, họ chưa có nhận thức rõ ràng. Nếu họ nắm được căn bản rõ ràng, thời bùa chú của ma cũng không linh nghiệm đâu. Chúng ta không cần phải niệm chú, mà chỉ cần không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ là ma sẽ không có cách gì nhập được.

Sau nhiều năm học Phật, tôi kết luận rằng “Lục đại tông chỉ” nầy là có nhiều hữu dụng nhất. Phật Pháp không phải là bàn luận cao xa, rộng lớn hoặc nói chuyện huyền diệu, lạ kỳ. Lại càng không phải là đoán xằng nói bậy về họa phước, hoặc bói toán hung kiết, hên xui. Trên thế giới nầy không biết đã có bao nhiêu người biết bói đoán tiên tri như thế. Nhưng đó là mánh lới của bọn giang hồ thích nói về thần thông, dùng những lời lẽ yêu quái hoang đường để mê hoặc dân chúng. Đó là họ đang rao bán thuốc cao thuốc dán đấy. Và đúng thật là những người đó có thể biết được quá khứ vị lai. Ví như họ nói với quý vị rằng: “Tôi biết ngày mai sẽ có người đến thăm anh, người đó lại còn nói với anh như thế nầy, thế nầy…” Hoặc như: “Trước kia anh đã làm những việc gì, tôi đều biết rõ cả…” Nhưng họ đều có chỗ sơ sót là không dứt được dâm dục, hoặc háo tài, hoặc luyến sắc. Đó đều là cảnh giới của ma quái. Nếu người nào có tâm tranh, tâm tham, cầu danh cầu lợi, hoặc tuyên truyền đề cao cá nhân mình để cho người khác sùng bái mình, lại còn ích kỷ tự lợi và không nói lời chân thật thì chúng ta nên biết rằng, người nầy đang trong cảnh giới của ma.

Nhân dịp Đại Sư Liên Trì tham bái hai vị Lão Sư Biến Dung và Tiếu Nham, Đại Sư được hai vị khuyên bảo rằng: “Người xuất gia tu đạo là vì sanh tử đại sự. Đừng để danh lợi làm liên lụy!” Lúc bấy giờ tại đạo tràng đó cũng có một số người tham gia học tập, nhưng không mấy ai để ý gì đến lời khai thị nầy. Duy chỉ có Đại Sư Liên Trì là thâm hiểu được ý nghĩa sâu xa mà tâm trí đầy hứng khởi. Cho nên khi rời Kinh Sư đến Đông Xương, Đại Sư bỗng hoát nhiên khai ngộ bèn làm bài kệ trên. Thật ra bốn câu thơ đó chỉ là thứ yếu. Còn lời lẽ tối trọng yếu là không được tìm cầu danh lợi, đó mới là chìa khóa chủ yếu của câu chuyện nầy.

Quý vị đừng tưởng rằng Đại Sư Liên Trì đến Đông Xương mới khai ngộ. Mà ngay từ lúc đầu, Đại Sư đã từng bước, từng bước đi trên con đường khai ngộ rồi. Đến lúc đứng trước mặt hai vị Lão Sư Biến Dung và Tiếu Nham, bị hai Ngài hét cho một tiếng lớn vào đầu khiến Đại Sư hoát nhiên khai đại ngộ ngay. Sau khi xuất gia thì không đam mê danh lợi, đó là bài chú có hiệu quả nhất, có thể chiến thắng tất cả bọn ma quân. Chúng ta hãy xem lời văn của bài kệ như sau:

Mối nghi từ hai mươi năm trước. Chuyện sanh tử đại sự nầy đã khiến Đại sư Liên Trì bối rối nghi hoặc từ lâu. Bởi chưa hiểu nên Đại Sư phải xuất ngoại tham vấn, cầu bậc Thiện tri thức giải quyết dùm mối nghi ngờ.

Lạ thay cái ngộ ngoài ngàn dặm. Trải qua ba ngàn dặm, sau đó Đại Sư đến Đông Xương thì đột nhiên khai ngộ. Điều nầy sao mà kỳ diệu quá! Bao chấp trước của Đại Sư bỗng nhiên tiêu tán hết!

Đốt hương ném kích như giấc mộng. Thắp nhang cúng Phật là chuyện tốt, còn ném đao kích, đánh lộn với ma quân là chuyện xấu. “Trịch kích” cũng có thể là ném bỏ khí giới, tức là không đánh nhau nữa. Tất cả những điều đó cũng giống như giấc mộng thôi! Vì sao giống như giấc mộng? Bởi vì mình chưa hiểu rõ một cách triệt để.

Ma Phật, phải trái uổng công tranh. Bây giờ Đại Sư đã hiểu rồi. Trước đây vì Đại Sư cứ dụng công ở chỗ hư vọng thị phi, phải trái, cho nên đều là uổng phí tâm sức! Đại sư Liên Trì cũng không nói rằng: Phật và Ma như là một. Mà ma là ma, Phật là Phật. Hai bên đều đã không quan hệ với nhau thì có thị phi, phải trái gì đáng phải tranh cãi hả? Những cuộc bàn luận phải trái lúc trước đều là hư vọng, chẳng phải thật.

Nếu muốn hàng phục bọn ma, quý vị phải có chút ít công phu chân thật, không phải chỉ thiền nơi miệng mà có thể làm được.

Còn một cách khác là: “Vô ma bất hiển Phật, Vô Phật bất hiển ma,” không có Ma thì Phật chẳng hiện, không có Phật thì Ma chẳng hiện. Ma và Phật cũng là pháp tương đối với nhau, chứ không phải khi Phật khai ngộ rồi thì Ma và Phật nhất như là một đâu. Sau khi Phật khai ngộ rồi thời Ma, Phật cũng vẫn như trước, chỉ ngoại trừ – Phật thì không có tư tưởng thù địch. Phật xem tất cả chúng sanh bình đẳng và Ma cũng là một phần tử trong chúng sanh, cho nên Phật xem Ma là đồng đẳng. Nhưng Ma đối với Phật có bình đẳng hay không? Tuyệt đối là không! Vì lúc nào Ma cũng muốn lật đổ Phật.

Qua hai mươi năm sau, Đại sư Liên Trì mới hiểu rõ đạo lý không tranh. Đại Sư giác ngộ rằng trước đây mình chỉ tranh cãi phải trái ở bề ngoài một cách vô ích. Lúc đó Đại Sư đã không hồi quang phản chiếu và không quét dọn sạch sẽ cái tự tánh của mình, cho nên hễ người ta tranh là Đại Sư liền phiền não.

Tôi nói đạo lý rất là đơn giản, hy vọng quý vị ngẫm nghĩ lại cho kỹ càng. Bởi vì trên nguyên tắc, chúng ta không được phạm lầm lỗi. Quý vị đều còn trẻ, và cũng không nên tùy tiện nói “Ma Phật như là một.” Hoặc giả người đã đại triệt, đại ngộ rồi thì có thể nói như thế, bởi vì cảnh giới hiểu biết của họ không giống với quý vị. Nhưng chúng ta hãy còn là trẻ con, cho nên không được dối mượn đạo lý của người xưa, để rồi gượng gạo luận giải một cách sai lầm. Ví như trẻ con chưa biết lái xe, mà quý vị để cho nó lái thì rất dễ gây ra tai nạn, đến nỗi mất mạng là khác.

Có một số người khi nghe nói “Ma Phật Nhất Như” thì họ nghĩ rằng: “Thế thì mình lạy Phật để làm gì? Mình làm nghiệp ma thì cũng không phải là nghiệp Phật hay sao?” Vì vậy trên nguyên tắc phân biệt, chúng ta phải hiểu cho rõ ràng, chớ có nghe ngóng một cách lẫn lộn như vậy, rồi cho rằng mắt con cá là ngọc trai.

Giảng ngày 29 tháng 8 năm 1985

57. Vì Sao Đức Phật Lại Phóng Hào Quang Khi Thuyết Pháp?

Khi thuyết pháp, đức Phật đã thường phóng hào quang. Vì sao vậy? Bởi Ngài muốn cho chúng sanh mau giác ngộ.

Khi đức Phật thuyết giảng kinh Niết Bàn vào lúc cuối, Ngài phóng hào quang từ nơi mặt, rồi thâu hồi lại vào trong miệng. Đó là sự biểu thị đi cũng là như như, đến cũng là như như. Đi cũng là đi đến kho tàng trí tuệ quang minh, trở về cũng vẫn là trở về kho tàng trí tuệ quang minh. Nhưng chúng sanh chỉ biết đi mà không biết trở lại, gọi là: “Năng phóng bất năng thâu.” Đó cũng tức là chỉ về cái vọng tưởng của chúng ta mà nói. Quý vị phóng ra được thì sau đó phải biết thâu hồi lại. Nếu quý vị chỉ có thể phóng quang ra, mà không thể thâu quang lại thì sẽ không thể nào đi lại tự tại như như được. Đó gọi là học mà không biết dùng. Chúng ta nên có thể phóng thì có thể thâu, có thể lớn thì có thể nhỏ, có thể có thì có thể không, chẳng gì mà không làm được, tùy tâm như ý, tự tại vô ngại.

Phật phóng quang cốt để cho người ta thấy, phải không? Không phải! Vậy Ngài phóng hào quang cho người xem để làm gì? Ngài có giống như người phàm chúng ta là muốn làm quảng cáo phải không? Hoăëc vì Ngài muốn khoe sở trường đặc biệt của mình để cho người ta biết? Không có chuyện đó đâu. Phật phóng quang vì muốn phá trừ vô minh của chúng sanh. Hào quang Phật chiếu qua mỗi vị chúng sanh trong pháp hội, gọi là: “Phật quang phổ chiếu, vũ lộ quân triêm,” là Phật chiếu hào quang đến khắp nơi như mưa cam lồ tưới thấm đều hết thảy. Lúc bấy giờ tất cả chúng sanh đều được hào quang Phật gia hộ, đó là họ đang gieo hạt giống thành Phật và tương lai nhất định sẽ thành Phật. Phật phóng quang chỉ vì muốn cho chúng sanh thành Phật, muốn chúng sanh nghiệp tận tình không, khiến chúng sanh sanh tâm giác ngộ, được đầy đủ trí tuệ để không phải cả ngày từ sáng đến tối ngu si mê muội, không có trí tuệ, rồi cứ ở trong biển khổ chuyển tới chuyển lui. Bởi vậy vào lúc cuối đời, đức Phật đã chiếu hào quang đến tất cả chúng sanh đang tham gia Pháp hội, khiến trong tương lai họ sẽ có duyên phần thành Phật.

Sau đó đức Phật lại thâu hồi hào quang, là thâu hồi trở về bản thể của Ngài. Điều đó cũng muốn dạy người ta chớ có khoe khoang mà phải biết ẩn quang dấu tích, đừng để lộ hào quang ra ngoài một cách thái quá. Nếu người nào để lộ tài năng mình ra một cách rõ rệt như thế, đó chính là hành vi ngu si. Thế thì cố ý tàng dấu đi cái hào quang của mình là có trí huệ hay sao? Cũng không phải thế. Đây có ý là lúc nào nên dùng thì chúng ta mới dùng, lúc nào không nên dùng thì không dùng. Ví như quý vị tiêu xài tiền bạc một cách hoang phí thì dù quý vị có bao nhiêu tiền đi nữa rồi cũng sẽ hết cạn. Còn tuy có hơi nghèo nàn, nhưng quý vị chỉ tiêu dùng chút ít thôi thì quý vị vẫn sẽ còn tiền xài.

Vì sao con người phải ẩn quang dấu tích? Điều nầy có thể dùng đèn dầu để làm thí dụ. Đèn dầu thì phát ra ánh sáng, nhưng nếu chúng ta dùng thường thì dầu sẽ khô cạn, và tim đèn cũng tàn lụn thôi. Nhưng nếu khi cần chúng ta mới đốt lên, còn lúc không cần thì không đốt, như vậy chúng ta sẽ dùng nó được rất lâu. Trí huệ quang minh của con người cũng là như vậy. Đức Phật có thể ngày ngày phóng quang. Vì sao Ngài phóng ra rồi lại thâu hồi trở vào? Đó là dạy con người biết tiến biết thối, biết động biết tĩnh, biết theo biết dừng. Ai có thể biết đủ thời thường đủ. Cho nên nói: “Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi,” biết đủ khỏi bị nhục, biết dừng không bị nguy hiểm. Nếu mình biết là không nên làm thì đừng làm, đó là biết dừng. Nếu người nào làm được như thế thì mới có thể nói là hiểu được Phật Quang. Còn như mình không làm được như thế, tức giống như con kiến muốn ăn dưa hấu mà nó cứ bò ngoài vỏ, tuy cảm thấy ngọt đó, nhưng rốt cuộc có ăn được đâu. Quý vị hãy suy nghĩ về đạo lý nầy thì sẽ rõ.

Giảng ngày 1 tháng 10 năm 1985

 

58. Động Tĩnh Nhất Như

Tại Vạn Phật Thành, chúng ta chỉ có thọ khổ. Tuy thọ khổ nhưng chúng ta cũng có thể tiêu trừ được nghiệp tội. Bởi vì từ vô lượng kiếp, chúng ta đã có rất nhiều chướng ngại nên mới cả ngày cứ phiền phiền não não, tranh tranh cãi cãi và trong tâm chúng ta không lúc nào được bình an. Nếu quý vị đến Vạn Phật Thành mà chịu được chút khổ, đó gọi là bồi bổ ngoại công. Khi có ngoại công rồi, sau đó quý vị mới có nội quả. Nếu quý vị không có ngoại công thì nội quả cũng sẽ không thành tựu được. Ngoại công là làm việc đức hạnh trong động, là tu phước. Nội quả là tu huệ trong tĩnh.

Quý vị cần phải đem động tĩnh tôi luyện cho được nhất như, gọi là: “Động không trở ngại tĩnh, tĩnh không trở ngại động; động là tĩnh, tĩnh là động; động tĩnh không phải hai.”

Một khi quý vị luyện tập công phu nầy gom thành một khối thì định lực sẽ hiện tiền.

Lăng Nghiêm Đại Định không phải là nói chúng ta tọa thiền mới có. Khi quý vị đi, đứng, nằm, ngồi mà không bị cảnh giới bên ngoài lay chuyển, không bị ngoại cảnh dao động và không bị vọng tưởng quấy rầy, đó tức là định. Nếu quý vị ngồi ở đấy mà cứ vọng tưởng lung tung, không nghĩ đông thì nghĩ tây, như thế là không có định lực. Hay là quý vị thấy được cảnh giới gì thì liền bị cảnh đó lay chuyển, đó là không có định lực. Định lực là động tĩnh không hai, khi động mà mình không bị cảnh giới lay chuyển, đó là tĩnh. Lúc tĩnh mà mình không bị vọng tưởng quấy nhiễu, đó cũng là động.

Nếu quý vị tu được động tĩnh như nhau, thời công phu liền thành một khối. Công phu đã thành một khối rồi thì không phải là động, cũng không phải là tĩnh, không phải không, cũng không phải có, đó chính là Trung Đạo đấy.

Giảng ngày 12 tháng 10 năm 1985

 

59. Vì Sao Thế Giới Suy Đồi?

Vạn Phật Thành tuy ở thế gian, nhưng có thể nói là nó cách biệt với thế giới bên ngoài. Bởi người thế gian đều thích hưởng thụ, như họ không hút thuốc thì là uống rượu. Nam nữ tham vui buông lung theo dâm dục, khiêu vũ, hút sách v.v… không gì mà họ không làm. Nhưng tại Vạn Phật Thành không có những thói hư tật xấu nầy. Có thể nói đây là một đạo tràng thanh tịnh, là nơi hoàn toàn khác hẳn với thế gian. Tuy Vạn Phật Thành mở trường đại học, trung học và tiểu học, nhưng chúng ta chỉ chú trọng về chất lượng chứ không coi trọng về số lượng. Mọi người đều phải tuân theo quy củ nề nếp, như vậy mới có thể ở trong Vạn Phật Thành được. Nếu ai không tuân theo quy củ, tuyệt đối không được  cùng ở chung. Và Vạn Phật Thành không cần phải đuổi họ đi, mà tự họ cũng cảm thấy ở không được. Cho nên người sống tại Vạn Phật Thành như là đãi cát tìm vàng, tìm người chân thật trong toàn nhân loại trên thế giới.

Những ai đến Vạn Phật Thành, trước hết phải không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ. Được vậy mới là người đủ tư cách để cư trú ở Vạn Phật Thành. Nếu họ vẫn không sửa đổi những tập khí xấu, thì dù là ông Trời hay Hoàng Đế đi nữa, cũng không được thâu nhận. Thậm chí Tổng Thống có đến đây, nếu ông ta không giữ đúng quy củ thì cũng không được thâu nhận.

Vạn Phật Thành không phân biệt nghèo giàu, hay sang hèn. Mà mọi người đều là bình đẳng, cùng chung nhau tuân thủ không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ. Ai có thể giữ sáu điều kiện nầy mới được xem là người tốt.

Vì sao thế giới nầy suy đồi? Bởi vì tranh. Tự mình tranh với mình, là để lửa cọp (dữ) sân hận và lửa vô minh đều chạy tuôn ra ngoài. Người tranh với người, gia đình tranh với gia đình, lớn rộng hơn thì quốc gia tranh với quốc gia. Thậm chí hiện nay địa cầu cũng sanh chuyện xung đột với nguyệt cầu. Do vậy mà chữ tranh sẽ hại chết con người. Nhưng dù có chết rồi, con người vẫn không hiểu được cảnh giới nầy đâu.

Thứ đến là tham. Đại đa số những nhà cách mạng trên thế giới nầy đều là do tham. Họ vì tham danh tham lợi, cho nên dẫn đến chuyện giết người và vượt cả quyền hạn mình để đoạt chức phận. Họ cứ tham mà không chán. Do đó họ làm cho thế giới mỗi ngày một thêm hỗn loạn, càng ngày càng đổi khác.

Tật xấu thứ ba là tìm cầu, là cầu lợi cầu danh, cầu trai cầu gái. Con người đều vì có tìm cầu, cho nên họ không thể nào an định được. Khi cầu chưa được thì họ lo lắng, nhưng lúc được rồi thì họ lo bị mất. Cầu cũng có thể hại chết người. Cầu đến chết mà cũng không biết tại sao mình chết.

Thứ tư là người ích kỷ, là người không có tư tưởng đại công vô tư, không có tinh thần xả mình vì người. Cứ luôn đặt mình lên trên trước.

Vì sao con người phải ích kỷ? Vì muốn lợi riêng cho mình, đó tức là tật xấu thứ năm; tiến tới nữa là họ bất chấp thủ đoạn, không nói lời tín nghĩa, lại nói lời giả dối để lừa gạt người, vì vậy mà họ phạm tật xấu vọng ngữ thứ sáu. Bởi vậy người học Phật nên lấy sáu điều kiện nầy để mỗi ngày tự kiểm thảo mình và lấy đó làm quy tắc cho sự tu hành.

Giảng ngày 15 tháng 10 năm 1985

60. Cư Sĩ Thuần Đà Cúng Dường

Hôm nay ai nấy đều phát huy ý nghĩa của bản văn kinh Niết Bàn rất rõ ràng chính xác và rất hợp lý. Mỗi cá nhân đều có kiến giải độc đáo và trí tuệ độc đáo. Trong nguồn suối trí tuệ của quý vị, quý vị sẽ lấy không hết, dùng không cạn và nó cứ nối tiếp nhau đến, không ngừng dứt, cũng không bao giờ khô cạn. Nếu biết lợi dụng nó, quý vị nhất định có chỗ cống hiến đối với Phật giáo, khiến cho đạo Phật phát dương một cách quang minh quảng đại. Nếu không biết dùng nó, thì trí tuệ quý vị sẽ mỗi ngày một giảm bới đi. Tại sao? Bởi bộ não không được dùng tức sẽ thoái hóa thôi.

Lý do mà tôi bảo tất cả quý vị nên lên bục giảng kinh trước, là vì muốn huấn luyện cho quý vị có khẩu tài giảng kinh và kinh nghiệm hoằng pháp. Trong trường hợp nầy, quý vị nên phát huy nguồn trí tuệ vốn có của mình. Đừng tự buộc chân mình mà không chịu tiến bước, hay mới tới giữa đường liền vạch mức tự giới hạn, không chịu tiến thêm lên.

Quý vị nên hiểu rằng, đây là cơ hội rất khó gặp, bởi vậy chớ có bỏ qua quyền lợi của mình. Bây giờ chính là thời kỳ học tập, nếu như quý vị bỏ lỡ cơ hội tốt nầy thì sau có hối tiếc cũng đã muộn rồi!

Có hai câu rất tương tự với nhau trong đoạn kinh văn: “Nhất giả thọ dĩ đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Nhị giả thọ dĩ nhập ư Niết Bàn.” Cho nên có người nêu câu hỏi rằng: “Không biết ai là người Thọ và ai là kẻ Đắc? Người nhận cúng dường đắc, hay người bố thí cúng dường đắc?” Khá lắm! Quý vị mà có nghi vấn đối với câu kinh nầy, tức quý vị có thể hiểu được đấy. Nên hiểu rõ chữ “Dĩ” nầy, là bao gồm kẻ bố thí và người thọ nhận đều được lợi ích cả. Nếu như chỉ có một bên được lợi ích tức là không hợp lý. Nói cách khác, chẳng những người thọ nhận được lợi ích, mà kẻ bố thí cũng đặng lợi ích luôn.

Ông Thuần Đà cúng dường và đức Phật đương nhiên là người nhận. Có người trong lòng nghĩ rằng: “Chắc là Phật bị đói nên mới tiếp nhận sự cúng dường của ông Thuần Đà.” Có thể nói như thế, nhưng người bị đói tệ hại nhất vẫn là ông Thuần Đà. Tại sao lại nói thế? Bởi Thuần Đà là một công nhân thuộc giai cấp lao động, nhưng ông lại chịu đem tất cả lương thực của mình để cúng dường Phật, gọi là “Xả kỷ vị nhân,” xả mình vì người. Chúng ta có thể suy ra để biết rằng, ông Thuần Đà đã không còn lương thực để ăn. Thế thì chẳng lẽ ông ta bị đói hay sao? Không phải đâu. Vì ông ta đã nhận được Pháp Thực, cho nên nói là: “Thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn.”

Ông Thuần Đà tuy là dân lao động, nhưng ông có tín tâm, kiên tâm, hằng tâm và tấm lòng thành; trong tâm ông không có chút gì là dối trá. Ông cũng không có ý đồ gì, chỉ ước nguyện là Phật sẽ từ bi vạch ra cái căn gốc nghèo cùng của ông và hy vọng Phật sẽ giáng xuống trận mưa Pháp, ngõ hầu tưới nhuần pháp thân khô cằn của ông. Phật biết, Phật thấy tất cả, bởi vậy Ngài mới tiếp nhận sự cúng dường cuối cùng của ông Thuần Đà. Đây là cách nhìn của riêng tôi. Xem bề ngoài ông Thuần Đà như đang biện luận với đức Phật, mà thật ra thì không phải là biện luận. Bởi ông Thuần Đà có tâm lượng rất nhỏ, ông không rõ được đạo lý Phật thuyết giảng, nên mới nói: “Đúng nghĩa thì không phải vậy.” Ông nghĩ rằng những đạo lý mà Phật nói là không đúng. Tại sao? Bởi người nhận sự cúng dường trước tiên thì vẫn còn có phiền não, cũng không đắc được Nhất Thiết Chủng Trí, cũng chưa có thể khiến cho chúng sanh Bố thí một cách đầy đủ. Còn người nhận cúng dường sau rốt, so ra thì khác, vì người đó đã hết phiền não, không còn cuộc sống hiện hữu về sau và đã đạt được Nhất Thiết Chủng Trí, có khả năng khiến tất cả chúng sanh cúng dường đầy đủ đàn Ba-la-mật. Ông Thuần Đà dùng lý lẽ đó để giải thích. Nhưng sau đó đức Phật đã giảng giải cặn kẽ cho ông hiểu.

Cư sĩ Thuần Đà không phải cố ý bác bỏ ý kiến của Phật, mà bởi vì trình độ cảnh giới của ông, gọi là: “Người ở Sơ địa không biết cảnh giới Nhị địa, người ở Thập địa không biết cảnh giới Đẳng Giác.” Và vì ông không hiểu rõ đạo lý nầy, cho nên ông muốn nghiên cứu, chứ không muốn nuốt trửng hết để chấp nhận đại mà không cầu hỏi sự giải bày, đó là điều dĩ nhiên. Khi nghiên cứu kinh điển, chúng ta cũng nên có tinh thần như thế, là hiểu một cách triệt để. Đừng nên làm qua loa cho xong chuyện và nghĩ rằng mình hiểu tàm tạm là được rồi. Ai có tư tưởng như thế thì không thể chấp nhận được!

Giảng ngày 20 tháng 10 năm 1985

61. Học Phật Phải Giữ Giới Luật

Chúng ta học Phật, học cả thiên vạn kinh điển, Tam Tạng và Mười Hai Bộ Kinh. Nhưng bất luận học bao lâu đi nữa, việc đầu tiên là chúng ta phải khống chế tình cảm mình. Khống chế tình cảm là giữ giới luật. Nếu giữ giới luật thì mình sẽ không khóc. Bởi người giữ giới luật đối với mỗi sự việc, họ đều làm tất cả điều lành, không làm các điều ác. Người không giữ giới luật sẽ thường hay khóc. Vì khóc cũng là một điều ác của thân chúng ta, giống như loại vũ khí của bọn thổ phỉ cướp bóc có thể giết người, đó là biểu hiện cho điều không kiết tường đấy. Nếu trì giới thì quý vị sẽ không dễ khóc. Từ cái khóc hay không khóc, có tình cảm hay không có, nổi giận hay không nổi giận là có thể chứng minh rằng người đó có trì giới luật hay không?

Nếu hiểu giới luật thì đối với tất cả Phật Pháp và quý vị đều có thể thâm nhập được. Nếu không hiểu giới luật, quý vị sẽ giống như vầng mây trên hư không, trôi nổi bồng bềnh, không có căn cơ gốc rễ gì hết. Cho nên là người học Phật, bất luận xem một bộ kinh nào, chúng ta cũng thấy rằng tất cả kinh điển đều dạy người giữ giới luật, chớ đâu có dạy người ta làm điệu bộ giả tạo với tác phong sai lệch quá đáng, hoặc là tranh, hoặc là ngụy biện. Quý vị thật tình giữ giới luật thì có gì mà ham tranh, có gì mà háo biện luận?

Nếu quý vị không chú trọng đến giới luật, đợi đến lúc xuống địa ngục rồi thì thoát ra không khỏi đâu. Quý vị dối được người nhưng không dối được chính mình. Nếu mình thật sự trì giữ giới luật thì thứ nhất là mình sẽ không khóc. Thế tức là thường hay cười phải không? Cũng không phải vậy.

Trước đây tôi đã nói qua rằng: Ngồi ở đâu cũng đừng lay động đầu gối. Đứng ở đâu cũng không rung quần. Khi mừng chớ cười to như phát cuồng. Lúc nổi giận cũng không cao giọng gào thét. Cho nên gọi là: Nghĩ trước nói sau, vui rồi thì cười, phải nghĩa mới lấy, đến đâu cũng đều nghĩ về người khác, chứ không nghĩ cho cá nhân mình. Cho nên người học Phật, thứ nhất là phải giữ giới luật. Vì sao ai đó có thể không khóc, không cười? Không khóc, không cười tức là có định lực. Người không có định lực mới khóc, mới cười. Quý vị có được định lực thì mới có trí tuệ. Quý vị không có định lực, tức là quý vị không có giữ giới. Quý vị nói mình có trí tuệ, nhưng lại không dùng được chút nào.

Do đó, chúng ta học Phật nhất định phải chú trọng đến việc giữ giới. Giữ giới luật là mình luôn luôn tự xem xét lỗi lầm của chính mình, chứ không phải là để ý đến chỗ sai lầm của người khác. Vì chỉ thấy lỗi người mà chẳng chịu sửa đổi tật xấu của mình thì cũng giống như mình giặt quần áo cho người, trong khi quần áo mình vẫn còn dơ bẩn.

Hôm nay tôi nói với quý vị đều là những lời khuyên bảo tận tình, đều là dạy quý vị ly khổ đắc lạc, liễu sanh thoát tử. Nếu quý vị hiểu được tinh thần của lời tôi nói, thì quý vị mỗi người đều có phương pháp rồi. Còn như quý vị không hiểu, tôi cũng không cách gì cứu giúp quý vị cho được. Dù cho đức Phật Thích Ca Mâu Ni có đến cũng không cứu nổi quý vị, bởi vì cái tình cảm mê muội của quý vị đấy. Tôi thành thật nói ra những lời nầy, quý vị cũng nên thật lòng mà nghe, chứ đừng làm tài khôn như bọn quỷ quái linh tinh.

Giảng ngày 21 tháng 10 năm 1985

 

62. Sao Gọi Là Đạo?

Hôm nay chúng ta nghiên cứu về đề tài: Sao gọi là đạo? Đạo tức là con đường mà mọi người đều cùng tuân hành theo. Con đường đạo lộ là gì? Đó là đại công vô tư. Trong quyển Lễ Vận Đại Đồng nói: “Đại đạo chi hành dã, thiên hạ vi công.” Đó là chủ đề, đoạn văn tiếp sau chẳng qua chỉ là giải thích nghĩa lý của con đường đại đạo.

Tôi thường nói rằng: “Nho giáo giống như Tiểu học, Đạo giáo giống như Trung học, và Phật giáo giống như Đại học.” Học trò Tiểu học không hiểu bài vở của bậc Trung học, học trò trung học không hiểu bài vở của bậc Đại học.

Có người hỏi: “Nói thế thì có gì làm căn cứ?” Sau khi Khổng Tử hỏi Lão Tử về lễ nghi, Khổng Tử tán dương Lão Tử như con Rồng du phương, lúc ẩn lúc hiện không lường và biến hóa vô cùng. Do đó mà thấy hình như Khổng Tử đã không hoàn toàn hiểu đạo của Lão Tử. Có phải thật là không hiểu sao? Không phải đâu, ông hiểu nhưng không muốn nói ra đấy thôi. Vì sao? Bởi học sinh của ông lúc bấy giờ không đủ trình độ. Họ vẫn chưa đến bậc Trung học, cho nên ông không thể giảng pháp môn nầy.

Lão Tử đối với Phật giáo thì hiểu, nhưng ông cũng không giảng. Vì sao? Bởi lúc bấy giờ con người không đủ trình độ, cho nên ông chỉ nói đạo lý của Đạo giáo mà không nói đến nghĩa lý của Phật giáo. Đạo Nho và Đạo Khổng là mở đường cho đạo Phật. Ngoại đạo là lót đường cho chánh đạo. Và tà giáo là trải đường cho chánh giáo. Họ dọn dẹp trước, làm cho con đường đạo lộ được sạch sẽ để không có vật chướng ngại.

Bàng môn tả đạo là kích động cho tâm con người khai mở cửa trí tuệ, rồi sau đó mới có thể tiếp thu được chất đề hồ cam lồ của Phật giáo.

Khổng Tử nói: “Sáng sớm được nghe Đạo, tối chết cũng đành lòng!” Điều nầy nói lên tánh trọng yếu của Đạo và cái chết. Nghe đạo là để hiểu rõ đạo lý làm người, so ra vẫn còn trọng yếu hơn cái chết. Nếu biết làm người như thế nào rồi, thời chết mới nhắm mắt. Đừng nên nhìn vào chữ mà giải thích ý nghĩa của nó. Quý vị nên chú ý về điểm nầy! Đấy không phải nói là buổi sáng tôi được nghe đạo, rồi đến chiều tối thì tự sát. Nếu mà tự sát thì còn có ý nghĩa gì nữa?

Nghĩa cạn cợt của đại công vô tư là không ích kỷ, không tự lợi. Đại công vô tư cũng tức là không có dục niệm ham muốn, là đã thoát khỏi những mối quan hệ với ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy; không tham, không ái. Ai có thể thực hành Lục Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thánh Thành, tức người đó có đủ tư cách làm Phật tử.

Lục Đại Tông chỉ: Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ nầy, nếu dùng đạo lý Phật giáo để giảng cũng được, nếu dùng đạo lý Lão giáo để giảng cũng được, dùng đạo lý Nho giáo mà giảng cũng được luôn. Nói tóm lại, giảng giải thế nào cũng được, vì đạo lý nầy là viên dung vô ngại và rất hợp với lôgíc luận lý học. Thế tại sao không có ai giảng đạo lý đó? Để tôi nói cho quý vị nghe! Đây là Lục Đại Tông Chỉ mà tôi phát minh ra cho Phật giáo trong thời đại khoa học. Lục Đại Tông Chỉ nầy bao gồm các giáo lý của hết thảy tông giáo, là phương pháp rất thực dụng. Nếu giảng về giới luật của Phật giáo, thì giảng tới giảng lui gì cũng đều không rời khỏi phạm vi của Lục Đại Tông Chỉ đó.

Đạo (道) là do chữ Thủ (首) và chữ Tẩu (走) hợp thành. Thủ là đầu, cũng tức là trước nhất; Tẩu là đi, cũng tức là thực hành. Sự kiện trước nhất là dạy quý vị đi thực hành. Nếu không thực hành thì dù quý vị có nói bao nhiêu cũng đều là giả dối, là lừa phỉnh người. Cho nên có câu: “Nói một trượng, không bằng đi được một tấc.”

Đạo nầy không phải là đạo nào khác mà chính là đạo làm người. Đạo làm người nầy so với đạo sanh tử còn trọng yếu hơn nhiều. Có sanh tất có tử, cho dù là những bậc thánh hiền hào kiệt cũng không miễn được cái chết. Nhưng phân biệt thì chết có khi nặng như núi Thái Sơn, có lúc nhẹ tợ lông hồng. Buổi sáng được nghe đạo, đến tối chết là cũng có giá trị rồi. So với người chết không được nghe đạo “đại công vô tư” thì mình hay hơn nhiều. Chữ “nghe” nầy là hiểu rõ, sau khi hiểu rõ thì mới biết đạo lý làm người.

Lại nói thêm: Đạo là gì? Tức là chân lý, và không ai có thể lật đổ được chân lý nầy. Chân lý là tuyệt đối không phải là tương đối. Chân lý chỉ có một, chứ không có hai. Đạo nầy là đạo chung cho tất cả những người tu hành chân thật. Và Đạo có thể giảng theo Nho giáo, có thể giảng theo Đạo giáo và lại càng có thể giảng theo Phật giáo. Đạo là chân lý. Bất kỳ tôn giáo nào cũng có thể giảng, không có ai là chuyên quyền. Không thể nói là chỉ mình tôi mới được phép giảng, còn người khác thì không được giảng. Nhưng giảng đạo là phải có căn nguyên lịch sử. Quý vị không thể nói về chuyện Khổng Tử đã giảng Phật Pháp như thế nào, bởi vì lúc bấy giờ, e rằng danh hiệu của Phật vẫn chưa được ai biết đến.

Cho nên chúng ta phải hiểu rõ ràng về lịch sử, vậy mới khỏi làm trò cười cho thiên hạ.

Giảng ngày 28 tháng 10 năm 1985

63. Tâm Bình Đẳng Cúng Dường

Khi cúng dường chúng sanh, chúng ta không thành tâm, nhưng khi cúng dường Phật thì chúng ta mới thành tâm. Nếu có tư tưởng như thế, tức là sai lầm rồi. Hôm nay tôi xin đề cử ra một thí dụ để nói rõ về điểm nầy. Quý vị chỉ biểu hiện sự cung kính khi cúng dường lương thực cho Sư Phụ, còn khi đem thức ăn cho người khác thì quý vị đâu có thành tâm như thế. Vậy nghĩa là tâm phân biệt của quý vị đang tác quái đấy. Quý vị không nên nghĩ như: “Tôi cúng dường người nầy thì công đức lớn, hoặc cúng dường người kia thì công đức nhỏ.” Nếu ai nghĩ như thế thì dù có đại công đức cũng sẽ biến thành tiểu công đức, còn như công đức nhỏ thì càng biến thành nhỏ hơn nữa.

Vì đức Phật rất lo ngại sẽ không có ai cúng dường cho đệ tử Ngài trong tương lai, cho nên Ngài mới nói: “Cúng dường Phật và cúng dường chúng sanh đều có công đức như nhau.” Phật có tâm đại từ đại bi. Và muốn cho chúng đệ tử có cơm ăn, Ngài mới dạy người ta đừng có tâm phân biệt, xem ai ai cũng như nhau mà nên bố thí một cách bình đẳng.

Quý vị hãy chú ý! Nếu quý vị tranh nhau cúng dường cho Sư Phụ, nhưng lại để chúng đồ đệ của ổng bị chết đói, đó là việc làm tàn nhẫn lắm đấy! Do đó những thức ăn mà quý vị cúng dường tôi, tôi đều không ăn, vì nếu như hôm nay tôi ăn quá nhiều, đến nỗi đầu óc bị choáng váng, vậy quý vị nói là quý vị có công đức hay không!

Giảng ngày 29 tháng 10 năm 1985

(Còn tiếp)

 

 


 

Bách Niên Đại Sự Hỗn Như Mộng

Trăm Năm Đại Sự Rối Như Mộng  

(Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng “Trung Quốc Bách Niên Dự Ngôn Thi” của Đại Sư Bộ Hư)

 

 

Trong nhiều Pháp hội, các buổi phỏng vấn, hoặc các cuộc hội đàm, Hòa Thượng Tuyên Hóa đã từng phân tích bài “Trung Quốc Bách Niên Dự Ngôn Thi” một cách rất tường tận. Đó là do nguyên nhân nào?

Lịch sử ví như tấm gương sáng của các bậc tiền nhân lưu lại cho hậu thế, ước mong con cháu đời sau có thể “xem tích xưa mà hiểu chuyện nay” hầu khỏi phạm cùng sai lầm, và có thể sửa đổi sai sót cũ, bồi đắp cho mai sau. Có lẽ Hoà Thượng cũng cùng một ý này vậy!

 

 

Quý vị Thiện Tri Thức!

Đa số quý vị hiện diện ở đây là người Trung Hoa, vì thế chúng ta nên tìm hiểu về các biến cố trọng đại cùng các nhân vật liên hệ trong khoảng một trăm năm gần đây của nước Trung Hoa. Thiển nghĩ, tuy chúng ta là người Phật tử, chúng ta chẳng thể không quan tâm đến chuyện gia đình của riêng mình, và cũng chẳng thể không quan tâm đến sức khỏe bản thân. Do đó, tại Los Angeles cũng như ở các nơi khác, tôi đã từng giảng qua, và bây giờ về lại Đài Loan, tôi cũng muốn miêu tả và giải thích sơ lược về những biến cố xảy ra ở Trung Hoa trong vòng một trăm năm trở lại đây.

Chúng ta, những người học Phật, chẳng thể không có tổ quốc, chẳng thể không có gia đình, và cũng chẳng thể không có “tự thân”. Thân thể là “vốn liếng” mà chúng ta “đầu tư” cho việc học Phật của mình. Còn gia đình thì sao? Gia đình là ngọn nguồn của sanh mạng chúng ta. Còn tổ quốc? Chúng ta, bất luận là người xuất gia hay tại gia, đều được sự bảo hộ của chính phủ. Do đó, chúng ta phải yêu tổ quốc, tận trung với tổ quốc, tận hiếu với gia đình, và thành tín với tất cả mọi người; bởi:

Tín là ngọn nguồn của Đạo, là mẹ của công đức. 

Và nuôi dưỡng tất cả mọi căn lành. 

(Tín vi Đạo nguyên công đức mẫu, 

Trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện căn.) 

Có câu:

Người không có thành tín thì không lập thân được.

(Nhân vô tín bất lập.) 

Cho nên, chúng ta phải giữ chữ tín. Ở nhà, nếu chúng ta không hết lòng hiếu thảo tức là lỗi đạo, là trái ngược với luân thường; do đó, chúng ta cần phải làm tròn chữ hiếu. Có câu:

Nam nữ chung sống là đạo lý thường tình của con người, 

Đạo của người quân tử bắt đầu ở quan hệ vợ chồng. 

 

(Nam nữ cư thất, nhân chi đại luân. 

Quân tử chi đạo, triệu đoan hô phu phụ.) 

Lại có câu:

Người quân tử lo việc gốc. Gốc lập rồi thì Đạo nảy sanh, 

Hiếu đễ là nền tảng của con người! 

 

(Quân tử vụ bổn, bổn lập nhi Đạo sanh. 

Hiếu đễ dã giả, kỳ vi nhân chi bổn dư!) 

Nhằm bảo hộ chúng ta, quốc gia và chính phủ cần phải có một nguồn nhân lực tương đối để lo việc phòng thủ, bảo vệ đất nước. Lập thân ở đời, chúng ta cần phải giữ chữ tín trong việc xử thế; không được thiếu sự thành tín.

Đức Khổng Phu Tử từng nói:

Người không có tín nghĩa thì chẳng biết có được việc gì chăng? 

(Nhân nhi vô tín bất tri kỳ khả dã?) 

Những người không chú trọng tín nghĩa thì chẳng biết có làm nên việc gì hay không? Cho nên, chữ “tín” rất quan trọng đối với chúng ta. Vậy, chúng ta đối với tổ quốc thì phải trung thành, đối với gia đình thì phải hiếu đạo, đối với bản thân thì phải chú ý sức khỏe của mình. Như thế thì chúng ta mới khỏi trở thành gánh nặng cho quốc gia.

Tôi đã nhiều lần giảng về các biến cố trọng đại xảy ra tại Trung Hoa trong một trăm năm gần đây cùng những nhân vật liên hệ. Tuy nhiên, các nhân vật như thế thì rất nhiều, nên nay chúng ta chỉ chọn ra một vài hình ảnh để thảo luận thôi.

Bài thơ này là do ai nói? Đây có thể gọi là bài sấm tiên tri và được lưu truyền vào năm thứ 30 triều vua Quang Tự nhà Thanh. Đương thời, lão cư sĩ Cao Tĩnh Hàm, chủ nhân Thanh Hư Lâu tại Bích Vân Tự trên ngọn Tây Sơn ở ngoại thành Bắc Kinh, vì quan tâm đến quốc gia đại sự nên đã cung thỉnh được Đại Sư Bộ Hư đời nhà Tùy giáng luận. Dưới đời nhà Tùy, vào thời của Đại Sư Bộ Hư, bởi đất nước gặp cảnh rối ren, giặc giã nổi lên khắp nơi, nên mọi người đều muốn tìm một nơi yên ổn để ẩn náu. Sinh thời, Hòa Thượng Bộ Hư vốn là một vị Đại Tướng Quân và đã giết rất nhiều người. Về sau, nhận thấy hành động như thế là không đúng, Ngài lui về ẩn dật và đến núi Thiên Thai tu hành. Ngài có sáng tác bài thơ như sau:

Tích nhân Tùy loạn thái Bồ Đề,

Ngộ nhập Thiên Thai Thạch Cổ tây. 

Triêu ẩm lưu hà thả chỉ khát; 

Dạ phạn ngọc lộ lược sung cơ.

Diện bích cửu niên thùy Đại Đạo, 

Chỉ đàn thập đại hoán tân nghi. 

Dục ngã tịch đồ, đồ ngộ ngã, 

Thiên cơ nan tiết, tiết Thiền cơ. 

Tích nhân Tùy loạn thái Bồ Đề (xưa kia, bởi nhà Tùy rối loạn nên ta đi tìm Bồ Đề, cầu đạo giác ngộ). Đương thời, Đại Sư Bộ Hư là một tướng lãnh của nhà Tùy, nhưng vì nhận thấy không thể cứu vãn nhà Tùy được nữa nên Ngài phát tâm đi tu. Tuy nhiên, vì không có một mục đích rõ rệt nào cả nên Ngài cứ rày đây mai đó, vân du khắp chốn. Do đó, Ngài nói là “tích nhân Tùy loạn thái Bồ Đề”, tức là khi xưa bởi nhà Tùy loạn lạc nên Ngài quyết định đi theo con đường “Bồ Đề Đại Đạo”, tìm nơi tu hành.

Và chính trong thời kỳ đi tìm nơi tu hành này, Ngài đã Ngộ nhập Thiên Thai Thạch Cổ tây (tình cờ vào được phía tây Thạch Cổ, trên núi Thiên Thai). Một cách hết sức tình cờ, Ngài lạc bước tới phía tây của một nơi có tên là Thạch Cổ (trống đá), trên ngọn Thiên Thai, và khám phá ra nơi ấy có một sơn động nên Ngài đã lưu lại đó để tu hành.

Triêu ẩm lưu hà thả chỉ khát (sáng uống sương mai tạm qua cơn khát). Ngài ở trên núi tu hành, sống đời khổ hạnh. Sáng sớm thức dậy, Ngài chỉ nhấp chút ráng mây—thứ khí mù màu đỏ thường thấy lúc mặt trời sắp mọc. Đó là thứ ráng trời sáng chói, kết tinh của hàng vạn tia sáng rực rỡ trên trời cùng hàng ngàn luồng khí may mắn trong không; và cũng có thể gọi là tinh hoa của mặt trời và mặt trăng. Vì Đại Sư bận tu hành, có chịu đói đôi chút cũng cam lòng, nên Ngài chỉ cần uống chút đỉnh cho đỡ khát mà thôi.

Dạ phạn ngọc lộ lược sung cơ (tối ăn sương ngọc qua loa trừ bữa). Buổi tối, Ngài chỉ nhấp chút sương để dịu cơn đói. Tuy rằng chẳng no dạ, nhưng vẫn có thể duy trì sanh mạng.

Diện bích cửu niên thùy Đại Đạo (đối mặt với vách đá suốt chín năm, Ngài đã đến gần Đại Đạo). Ngài nói rằng suốt chín năm trời ròng rã, Ngài ở trên núi ngồi xoay mặt vào vách đá để hàm dưỡng “Đạo thai” và việc tu hành đã đạt đến chỗ “rõ tâm thấy tánh” (minh tâm kiến tánh). “Đến gần Đại Đạo” tức là sắp sửa thành tựu, chứng đắc Đại Đạo.

Chỉ đàn thập đại hoán tân nghi (thoáng chốc mà mười triều đại đổi nghi lễ mới). Ở đây, “chỉ đàn” tức là “đàn chỉ”, nghĩa là trong khảy ngón tay. (Hai câu này đối nhau: Vì vế trên là “diện bích cửu niên thùy Đại Đạo”, cho nên ở vế dưới, Ngài muốn để chữ “chỉ” là ngón tay nằm đầu câu để đối với chữ “diện” là mặt). Như vậy, trong quãng thời gian ngắn ngủi bằng khảy ngón tay, thoáng chốc mà đất nước trải qua đến mười lần thay ngôi đổi chủ, mười lần thay đổi người lãnh tụ quốc gia. Mười triều đại này có lẽ là bao gồm năm triều đại Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, và “Ngũ Đại Tàn Đường” (năm triều đại ngay sau nhà Đường). “Hoán tân nghi” tức là đổi nghi lễ, thể thức mới. Mỗi triều đại đều có nghi lễ phép tắc khác nhau, cho nên mỗi lần bắt đầu một triều đại mới thì đều có sự thay đổi về lễ nghi, quy củ.

Dục ngã tịch đồ, đồ ngộ ngã (các ngươi muốn ta mở đường, nhưng đường dẫn ta đi lạc). Tất cả các ngươi đều muốn ta mở đường chỉ lối, nói cho các ngươi biết trước về thế cuộc và những việc sẽ xảy ra trong tương lai. Thế nhưng, bởi chính ta cũng không hiểu rõ được nên ta mới đi tu. “Đồ ngộ ngã”—ta cũng không chắc là mình biết được.

Thiên cơ nan tiết, tiết Thiền cơ (bởi không thể tiết lộ thiên cơ nên ta tiết lộ Thiền cơ vậy). Các ngươi hỏi ta về thiên cơ, nhưng ta không thể tiết lộ được vì tiết lộ cơ trời là mang tội. Cho nên, ta sẽ tiết lộ Thiền cơ, nói vài lời tiên tri vậy. Ở đây, “Thiền cơ” tức là “dự ngôn”—lời báo trước những việc chưa tới hoặc sẽ xảy ra. Ta có thể nói sơ lược đôi chút.

Những lời tiên tri này nói về các nhân vật có ảnh hưởng đến tình hình đất nước Trung Hoa, và đều đã được chứng thực là linh ứng. Tuy nhiên, khi Ngài giáng dụ thì người đương thời không biết nói về ai vì ý tứ rất hàm súc, chữ dùng lại bí ẩn; cho nên, chúng ta phải tự phỏng đoán lấy.

I) Bài thơ đầu tiên nói về ai? Bài này nói về Hoàng-đế Tuyên-Thống, vị vua cuối cùng của nhà Thanh.

Thơ như sau:

Vân ám ám, vụ sầu sầu,

Long quy nê thổ tố mị hầu, 

Tam tuế hài đồng tam tải phúc, 

Nguyệt hạ vô chủ thủy không lưu, 

Vạn khoảnh yên ba nhất đán thu.   

Vân ám ám, vụ sầu sầu” (mây u ám, sương mịt mùng). Ở đó mây đen giăng kín, âm u vô cùng và có một màn sương mù bao phủ trông rất ảm đạm, thảm sầu. Mây đen và sương mù ám chỉ sự thiếu chân lý; bấy giờ là lúc “người âm” nắm chính quyền. Người âm, được tiêu biểu bởi sự đen tối, là chỉ Tây Thái-hậu Từ-Hy. Khi Tây Thái-hậu ngồi sau rèm nghe việc triều chính, thì mặt trời và mặt trăng đều không tỏa sáng nữa. Thế gian dường như vắng ánh thái dương vậy; cho nên mây cũng u ám, sương cũng ảm đạm. Vì sao?

Bởi vì “Long quy nê thổ tố mị hầu” (rồng trở về với đất, đất sét nặn thành con khỉ mặt đỏ). Lúc bấy giờ, vua Quang-Tự đã băng hà, tức là rồng đã chui xuống đất. Rồng về với đất thì đương nhiên cũng trở thành đất sét. Rồng sống mà thành đất sét tức là không  còn rồng nữa—cũng có nghĩa là không còn hoàng đế nữa. Thiên tử không còn nữa vì rồng đã biến thành đất. Dùng đất nặn hình khỉ chơi với khỉ. Con khỉ này ám chỉ ai? Đó là Hoàng-đế Tuyên-Thống, vị vua cuối cùng của nhà Thanh.

Tam tuế hài đồng tam tải phúc”  (đứa bé ba tuổi chỉ được ba năm phước báo). Lúc này, một “ông vua bù nhìn” được lập làm vua –một chú bé ba tuổi được đưa lên kế vị ngôi vua, làm hoàng đế. Đứa bé lên ba mà lên ngôi làm vua há chẳng như đóng kịch, làm trò hề sao?

Ngày lễ đăng quang của vua Tuyên-Thống, có Nhiếp-Chính Vương bồng ẵm nhà vua. Nhưng ấu vương chẳng biết thời thế, ngồi trên ngai vàng mà khóc lóc. Có lẽ vị vua mới lên ba này cảm thấy làm hoàng đế chẳng có gì là thích thú, lại cũng chẳng có đồ chơi để chơi nữa. Thời ấy cũng chưa có đồ chơi súng ống để chơi bắn “pằng pằng pằng.” Vì thế, cậu bé vua chỉ biết khóc.

Thấy vua khóc, Nhiếp-Chính Vương buột miệng dỗ dành: “Xin Bệ-hạ đừng khóc nữa. Chỉ một chốc là xong thôi mà.” Đây cũng có thể gọi là một câu “sấm ngữ,” một lời tiên tri (nói gở); tương tự như “điềm” vậy. Qúy vị thử nghĩ xem, “một chốc là xong,” có nghĩa là trong một thời gian rất ngắn là xong xuôi, finish! Đây là điềm Tuyên-Thống chẳng ở ngôi vua được lâu—chỉ có “một chốc” mà thôi; và cũng có thể là điềm báo trước triều đại nhà Thanh sắp sửa sụp đổ. Đó là nói gở, là điềm không may.

Ở Trung-Hoa, người tỉnh Quảng-Đông khi nghe ai nói lời xui xẻo thì họ liền nói: “Đại kiết lợi thị, đại kiết lợi thị!” Họ còn mê tín như thế đấy. Vậy, trong trường hợp này thì thế nào? Thì cũng “đại kiết lợi thị” thôi!

Như vậy, tam tuế hài đồng tam tải phúc,” đứa bé này có được ba năm phước báo—chỉ làm vua được ba năm mà thôi. Ba năm này tức là “một chốc.” Hết ba năm là không còn nữa, tức là “một chốc là xong” vậy.

Như thế, xong rồi thì sao? Câu thơ kế tiếp nói rất rõ ràng: Nguyệt hạ vô chủ thủy không lưu(dưới trăng chẳng có chủ, nước cạn khô). “Nguyệt hạ vô chủ” tức là dưới chữ “nguyệt’(月) không có chữ “chủ” (主). Thế nhưng, chẳng có chữ nào mà trên là chữ “nguyệt”, dưới là chữ “chủ” cả. Vậy trên chữ “nguyệt” thì sao? Trên chữ “nguyệt” là chữ “chủ” thì có. Trên chữ “nguyệt” (月)mà có chữ “chủ”(主) và bên cạnh có ba chấm (bộ thủy (氵), tức là chữ “thanh” (清), chỉ triều đại nhà Thanh.

Đại-sư Bộ-Hư nói “nguyệt hạ vô chủ,” nhưng muốn quý vị hiểu là trên chữ “nguyệt” không có chữ “chủ”. Ngài không thể nói rõ ra là “nguyệt thượng vô chủ” vì như thế thì quá lộ liễu, mọi người sẽ biết đó là chữ “thanh” ngay.

“Thủy không lưu” tức là không còn nước nữa, nước đã chảy hết, đã khô cạn rồi. Nước cạn khô ám chỉ sự suy vong của nhà Thanh. Ba chấm thủy khô rồi, dưới trăng cũng không còn chủ nữa vì chủ đã chạy lên trên trăng rồi. Vậy, đây là chữ “thanh” ám chỉ Thanh-triều.

Mặc dù đương thời là năm thứ 30 của triều vua Quang-Tự (cuối đời nhà Thanh), nhưng không có ai hiểu được sự tương quan này. Cho tới ngày nay, e rằng cũng chẳng có ai hiểu nổi. Vậy, “nguyệt hạ vô chủ thủy không lưu”  tức là dưới trăng không có chủ, trên trăng cũng không có chủ, và cũng chẳng có nước nữa—thế thì Thanh-triều dời đi đâu? Qúy vị hãy tham cứu, suy gẫm về ý nghĩa của chữ này. Đây là ám chỉ sự cáo chung, sụp đổ của nhà Thanh — chữ “thanh” đã biến mất.

Nhà Thanh diệt vong, cho nên câu thơ kế tiếp cho biết nhà Thanh mất bởi tay ai. “Vạn khoảnh yên ba nhất đán thu(cả vùng khói sóng mênh mông bị xâm chiếm nội trong một ngày), “Vạn khoảnh yên ba” tức là “vạn lý giang sơn”—non sông muôn dặm. Câu này ngụ ý rằng sẽ có ngày cả giang sơn gấm vóc của Trung Hoa sẽ bị mất vào tay kẻ khác—đất nước lại thêm một phen thay ngôi đổi chủ.

“Nhất đán” có nghĩa là “một ngày.” Tuy nhiên, nếu ghép hai chữ “nhất (一) và đán (旦)” lại thì thành chữ “tuyên (宣)” của Tuyên-Thống, song phía trên thiếu mất bộ “miên(宀).” Chữ “tuyên” nếu bỏ đi bộ “miên” thì còn lại chữ “ hoàn(  ), chữ “hoàn” này có thể tách ra thành hai chữ “nhất đán (一旦).”上邊沒有「穴」字蓋兒,底下是一個「旦」字﹔這「宣」字把它分開來,就是「一旦」

Về sau, Nhật-Bản lập ra nước Mãn-Châu và đưa Tuyên-Thống lên làm ông vua bù nhìn ở đó, đặt quốc hiệu là Khang-Đức. Nước Mãn-Châu này khác với Đại Thanh và Trung-Hoa Dân Quốc. Trên đây là sơ lược về Hoàng-đế Tuyên-Thống.

II)Bài thơ thứ nhì là nói về ai? Đó là nói về Tôn Quốc Phụ, cha đẻ của nền Cộng Hòa (nước Trung Hoa); thơ như sau:

Quân tác tổ, chất bân bân,

Vạn lý trường hồng phá lãng chinh,

Hoàng Hạc Lâu trung xuy ngọc tiêu,

Bát phương tề tấu khải ca ngâm,

Tinh kỳ ngũ sắc hoán tân tân.

Quân tác tổ, chất bân bân (ông, người có tư chất hòa nhã, được làm ông tổ). “Quân” nghĩa là ông hoặc anh. “Quân tác tổ” có nghĩa là ông là người được làm ông tổ, là tổ tiên. Là ông tổ thì tất nhiên phải có con cháu gọi mình bằng “ông”; như vậy ở đây ắt có một chữ “tôn” (孫 nghĩa là “cháu”) được hiểu ngầm. [“Tôn” (孫) cũng là họ của Tôn Quốc Phụ].

“Chất bân bân” vốn không phải là một câu văn đủ nghĩa, mà chỉ là nửa câu lấy từ Luận Ngữ, trọn cả câu là:

Văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử.  

(Người có dáng bề ngoài [văn] và bề trong [chất] tương xứng nhau thì mới là người quân tử.)

Trong câu thơ trên, quân tác tổ, chất bân bân, không có chữ “văn,” nó chỉ được hiểu ngầm trong nửa câu sau mà thôi. Cho nên, người tinh ý thì sẽ đoán ra ngay câu này có tiềm ẩn chữ “tôn” và chữ “văn”—ngầm chỉ Tôn Văn [tức Tôn Dật Tiên, cha đẻ của nền Cộng Hòa nước Trung Hoa].

Vạn lý trường hồng phá lãng chinh (mống cầu vồng dài muôn dặm đã phá bỏ những chuyến đi xa trên sóng). Câu này ám chỉ việc Tôn Quốc Phụ bôn ba khắp nơi để hô hào, vận động cho cuộc cách mạng. Từ Honolulu ông đáp thuyền về Trung Hoa, rồi lại từ Trung Hoa lặn lội trở sang Honolulu , đương đầu với bao sóng gió hiểm nguy để đề xướng công cuộc cách mạng–ông chẳng khác nào một đạo cầu vồng dài bắc ngang qua đại dương.

“Mống cầu vồng dài muôn dặm” (vạn lý trường hồng) lẽ ra phải nằm trên trời, nhưng vì đạo cầu vồng này “dẹp bỏ cuộc hành trình trên sóng nước” (phá lãng chinh), do đó chúng ta biết được rằng đây là ám chỉ việc ngồi thuyền vượt biển, “cưỡi mây lướt sóng.”

Hoàng Hạc Lâu trung xuy ngọc tiêu (trong lầu Hoàng Hạc thổi tiêu ngọc). Lầu Hoàng Hạc vốn tọa lạc tại thành phố Vũ Xương, ở tỉnh Hồ Bắc. Chính từ trên lầu Hoàng Hạc này, tiếng tù-và đã trỗi lên để làm hiệu lệnh cho Lý Nguyên Hồng tham gia cách mạng, trợ giúp Tôn Quốc Phụ trong công cuộc “phá lãng chinh”—lật đổ nhà Mãn Thanh, thành lập Dân Quốc. Vì thế, “Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc tiêu,” có nghĩa là tiếng tù-và hiệu lệnh cho cuộc cách mạng đã vang lên từ lầu Hoàng Hạc.

Bát phương tề tấu khải ca ngâm (tám phương cùng hát bài ca mừng thắng lợi). Khi cuộc Khởi Nghĩa Vũ Xương bùng nổ (ngày 10 tháng 10 năm 1911-cuộc Cách Mạng Tân Hợi), dân chúng khắp nơi đều đồng lòng hưởng ứng, nô nức đáp lời kêu gọi tham gia cuộc cách mạng, khí thế như “gió cuốn mây dồn.” Nơi nơi, mọi người đều hân hoan hát vang khúc ca mừng chiến thắng.

Tinh kỳ ngũ sắc hoán tân tân (lá cờ năm màu mới tinh bay phất phới). Lúc ban sơ, khi nền Cộng Hòa mới được thành lập, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc dùng lá cờ ngũ sắc làm quốc kỳ; về sau mới đổi sang cờ “thanh thiên bạch nhật,” tức là lá cờ có hình mặt trời màu trắng nổi bật trên nền trời xanh thẳm như hiện nay.

Vậy, trên đây là bài thơ thứ nhì, nói về cuộc Khởi Nghĩa Vũ Xương do Tôn Quốc Phụ khởi xướng.

Có câu:

“Hữu đạo thị chân phú quý,

vô đức nãi thanh bần.”

(Người có đạo hạnh là thật sự giàu sang, 

kẻ không có đức hạnh là hạng nghèo cùng.)  

Cho nên, hai chữ “đạo đức” không phải là sáo ngữ – ngôn từ trên sách vở của các nhà nho cổ hủ, mà chính là danh ngôn chí lý chứa đựng nhiều chân lý xác đáng. Luận về các triều đại lấy được cả thiên hạ, cũng như những nhân vật đã từng nắm quyền cai trị quốc gia của nước Trung Hoa, chúng ta có thể thấy rõ một điều: “Người có đức thì ở giữ quyền, kẻ không có đức thì chịu mất mát.”

Trong số những nhân vật từng giữ các vai trò thiết yếu trong một trăm năm gần đây của lịch sử nước Trung Hoa mà chúng ta đã đề cập đến ở phần trước, có nhiều người chỉ xuất hiện trong chốc lát ngắn ngủi, giống như hoa quỳnh “thoáng nở thoáng tàn” vậy. Vì sao? Chính là vì họ không có đức hạnh! Người không có đức hạnh thì có thể chiếm được cả thiên hạ, song lại chẳng thể nào nắm giữ được thiên hạ. Trong khi đó, người có đức hạnh có thể là không lấy được thiên hạ, song lại có khả năng thâu phục được nhân tâm của cả thiên hạ. Do đó, đạo đức rất quan trọng, rất thiết yếu. Cổ nhân đã từng nói:

“Đức giả, bổn dã; tài giả, mạt dã;

ngoại bổn nội mạt, tranh dân thí đoạt.”  

(Đạo đức là gốc, tiền tài là ngọn;

nếu con người bỏ gốc theo ngọn thì những gì họ có được đều sẽ bị kẻ khác tước đoạt.)

Nếu quý vị quên cái gốc, chỉ biết lo kiếm tiền, thì vì thiếu đức hạnh, bao nhiêu tiền bạc quý vị có được sẽ bị người khác cướp đoạt hết. Tuy nhiên, nếu quý vị có đức hạnh, thì quý vị sẽ được mọi người dốc lòng quy phục, ngưỡng mộ; và đó là điều mà quý vị sẽ mãi mãi trọn hưởng.

Điển hình là trường hợp của vua Tuyên Thống nhà Thanh, vì vua không có đức hạnh cũng chẳng có đạo hạnh, cho nên triều đại nhà Thanh đã bị diệt vong. Tôn Quốc Phụ, người khởi xướng phong trào cách mạng ở Trung Hoa, thì “có trí mà chẳng có phước”—không đủ đức hạnh; cho nên sau khi cách mạng thành công liền bị Viên Thế Khải cướp hết mọi quyền hành.

III) Bây giờ là đến bài thơ thứ ba, bài này nói về Đại Tổng Thống Viên Thế Khải—Viên Hoàng Đế. Lời thơ như sau:

Cát sĩ hoài nhu,

Tam thập niên biến,

Khởi phàm nhân tai?

Đàm hoa nhất hiện,

Nam bắc đông tây,

Long tranh hổ chiến,

Thất bát số định,

Sơn xuyên thô điện.

Cát sĩ hoài nhu  (người tốt mà có lòng ôn nhu, hòa nhã). Trong chữ “cát sĩ” (吉 士)  thì “sĩ” (士) là tiếng trợ từ ngữ khí. “Nhu” (柔)có nghĩa là mềm mỏng, dịu dàng. Giảng theo nghĩa của từng chữ thì phải chăng ở đây muốn nói về một vị quan rất thanh liêm (cát sĩ) đi bình định, ủy lạo những kẻ phản nghịch? Không phải! Trong chữ “hoài ” (懷) nửa dưới có chữ tương tự như chữ “y” (衣) chỉ thiếu một nét chấm và một nét ngang; nếu đem ghép chữ này vào dưới chữ “cát” thì được chữ “viên” (袁). Cho nên, “cát sĩ hoài nhu” chính là ám chỉ chữ “viên” (袁) vậy.

Tam thập niên biến (ba mươi năm thì biến đổi). Căn cứ theo từ ngữ để giải thích thì đa số mọi người đều cho rằng câu này ngụ ý là sẽ có một sự biến chuyển sau ba mươi năm. Thật ra thì không phải như vậy; thế thì như thế nào? Đó là dưới chữ “tam thập” nếu thêm vào một nét ngang thì sẽ biến thành chữ “thế” (世)

Câu thơ kế tiếp là Khởi phàm nhân tai? (há phải người phàm ư?) Nếu chiếu theo mạch văn thì câu này có nghĩa rằng đó không phải là một người tầm thường; song le, ở đây chẳng phải như thế. Chữ “khởi” () mà có thêm chữ “phàm” (凡) đứng bên cạnh thì là chữ “khải” (凱).Tổng hợp cả ba câu “cát sĩ hoài nhu, tam thập niên biến, khởi phàm nhân tai” lại, thì thành ba chữ “viên thế khải” (袁世凱).

Vì thế, hễ chưa đến thời điểm, chưa đến đúng lúc, thì không ai biết gì về sự hiện diện của Viên Thế Khải cả. Song, đến đúng thời điểm rồi, mọi người vẫn chưa biết rằng những câu thơ này là ám chỉ họ Viên [袁世凱 Viên Thế Khải]. Vì không thể biết chắc được nên mới gọi là “dự ngôn” (lời đoán trước). Đối với dự ngôn, người ta cần phải suy đi ngẫm lại mới nghiệm ra được ý tứ hàm chứa bên trong. Vậy, trên đây là dự ngôn về ba chữ “Viên Thế Khải.”

Đàm hoa nhất hiện (hoa quỳnh thoáng nở). Câu này nghĩa là gì? “Đàm hoa nhất hiện” ám chỉ một khoảng thời gian rất ngắn ngủi, như hoa quỳnh chỉ nở rộ trong chốc lát mà thôi. Đây là nói về việc Viên Thế Khải do kém đức hạnh nên chỉ làm hoàng đế được vỏn vẹn có tám mươi ba (83) ngày. Tám mươi ba ngày làm hoàng đế của ông ta có thể ví như hoa quỳnh thoáng nở thoáng tàn về đêm vậy.

Nam bắc đông tây, Long tranh hổ chiến (khắp các phía đông, tây, nam và bắc đều có rồng tranh cọp đấu). Vào thời của Viên Thế Khải, tức là thời đại Hồng Hiến, thì ở Nam Kinh có Phong Quốc Chương, Bắc Kinh có Đoạn Kỳ Thụy, Tây Kinh và Đông Kinh cũng có những nhân vật khác. Đây là thời kỳ “quân phiệt cát cứ”—những người này đều có tham vọng làm bá chủ, tranh nhau chia cắt lãnh thổ nước Trung Hoa, mỗi kẻ chiếm cứ một phương. Họ đóng đô ở khắp các phương đông, tây, nam, bắc; rồi tranh giành, xâu xé lẫn nhau như rồng và cọp. Có câu:

“Bát tiên quá hải, các hiển thần thông.”

(Tám vị tiên vượt biển, mỗi vị hiển lộ thần thông của riêng mình.)

Thế thì, tình trạng “quân phiệt cát cứ” này kéo dài trong bao lâu?

Thất bát số định (số bảy số tám đã được ấn định). “Thất bát” ở đây không có nghĩa là bảy năm hoặc tám năm, cũng chẳng phải là bảy nhân với tám thành năm mươi sáu; không phải như thế! Đây là bảy năm rồi cộng thêm tám năm nữa, vị chi là mười lăm năm. Do đó, câu này không phải nói về Dân Quốc năm thứ bảy hoặc năm thứ tám, mà là bảy cộng với tám thành mười lăm—ám chỉ Dân Quốc năm thứ mười lăm (1926), tức là lúc cuộc Bắc Phạt thành công. “Thất bát số định”—số mạng đã sớm định sẵn như thế rồi.

Sơn xuyên thô điện (núi sông được tạm ổn định). Lúc bấy giờ, đất nước Trung Hoa mới bắt đầu được thanh bình, yên ổn đôi chút.

IV)Bài thơ thứ tư là đến lượt nói về Tổng Thống Tưởng Giới Thạch của chúng ta. Bài thơ ấy như thế nào? Đó là:

Can qua khởi, trục lộc mang,

Thảo mãng anh hùng tương xuất sơn,

Đa thiểu chẩm qua hào kiệt sĩ,

Phong vân tụ hội đáo Giang Nam,

Kim Lăng nhật nguyệt hựu trùng quang.

Can qua khởi, trục lộc mang, Thảo mãng anh hùng tương xuất sơn (huơ khiên múa giáo, bận rộn đuổi nai; bậc anh hùng trong bụi rậm sắp rời núi). “Can” là cái khiên, “qua” là cái giáo; “can qua” là ám chỉ chiến tranh. Người người đều trang bị vũ khí—kẻ cầm dao, người cầm súng sẵn sàng chém giết lẫn nhau; đó gọi là “can qua khởi,” chiến tranh bùng nổ. Đây là nói về thời kỳ “quân phiệt cát cứ,” trong nước xảy ra giặc giã, loạn lạc.

“Trục lộc mang” tức là ai nấy đều xông xáo, hăm hở đuổi bắt con nai—tranh nhau nắm quyền thống trị Trung Nguyên. Mọi người đều hăm hở muốn xưng vương xưng bá, nắm giữ những vai trò chủ chốt trên lãnh thổ Trung Hoa — như làm Tổng Thống, Chủ Tịch, hoặc Ủy Viên Trưởng. Nói chung, tất cả đều có tham vọng muốn được làm chủ “con nai” Trung Nguyên này.

Chúng ta hãy chú ý câu “Thảo mãng anh hùng tương xuất sơn” ám chỉ Tổng Thống Tưởng Giới Thạch. Trong chữ “tưởng” (蔣 – họ của Tổng Thống Tưởng Giới Thạch), ở trên có bộ “thảo” [vì thế chữ “thảo mãng” được dùng trong câu này], và dưới là chữ “tương” (將 sắp sửa) [cũng nằm trong câu này]. Như vậy, câu này ngụ ý rằng Tổng Thống Tưởng Giới Thạch, vị anh hùng đang ẩn nấp trong bụi cỏ, sắp sửa rời khỏi núi — sắp xuất hiện để bình định thiên hạ.

Cho nên, những câu kế mới nói là: Đa thiểu chẩm qua hào kiệt sĩ, Phong vân tụ hội đáo Giang Nam , Kim Lăng nhật nguyệt hựu trùng quang” (Bao nhiêu hào kiệt đã sẵn sàng, Giang Nam gió mây cùng tụ hội, Kim Lăng trời trăng lại sáng ngời).” Đây là ám chỉ sự thành công của Tổng Thống Tưởng Giới Thạch trong cuộc Bắc Phạt. Đương thời, khắp lãnh thổ nước Trung Hoa, các nhóm quân phiệt tranh nhau chiếm cứ đất đai, mỗi kẻ tự xưng làm bá chủ một phương; và kế đến, Tổng Thống Tưởng Giới Thạch đã xuất hiện và bình định tất cả. Do đó, câu trên nói là “thảo mãng anh hùng tương xuất sơn.” [anh hùng áo cỏ sắp xuống núi]

“Đa thiểu chẩm qua hào kiệt sĩ (có rất nhiều bậc hào kiệt đã sẵn sàng chờ đợi). Lúc bấy giờ có biết bao vị anh hùng hào kiệt chống đối nhau vì tranh giành quyền lực, muốn làm chủ “con nai” Trung Nguyên.

“Phong vân tụ hội đáo Giang Nam”  (tụ họp ở Giang Nam như gió thổi dồn mây lại). Khi ấy, mọi người lũ lượt kéo nhau đến Nam Kinh — các anh hùng hào kiệt đương thời của nước Trung Hoa đều tựu về tụ tập ở Giang Nam, tức là Nam Kinh.

“Kim Lăng nhật nguyệt hựu trùng quang” (ở Kim Lăng, mặt trời và mặt trăng lại chiếu sáng). Kim Lăng là một tên khác của Nam Kinh. Lúc này, ở Kim Lăng như được ánh mặt trời và mặt trăng soi sáng trở lại, không còn đen tối u ám nữa. Vầng thái dương lại ló dạng, Nam Kinh lại được thấy ánh mặt trời. Điều này có nghĩa là vào năm Quang Tự thứ ba mươi của nhà Thanh [tức là khi dự ngôn này được nói ra], đã sớm có sự chủ định là Tổng Thống Tưởng Giới Thạch sẽ xuất hiện để trị lý thiên hạ.

Tuy nhiên, có lẽ nghiệp sát của người dân Trung Hoa quá nặng nề, cho nên họ không được hưởng niềm hạnh phúc của cảnh mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Vì thế, khi các cuộc nổi loạn trong nước sắp được dẹp yên, thì quốc gia lại gặp nạn ngoại xâm. Kẻ ngoại xâm đó là ai? Đó chính là Nhật Bản!

Trong suốt mấy ngàn năm, Nhật Bản luôn dòm ngó, lăm le thôn tính nước Trung Hoa. Quý vị biết có một thứ thuốc mà người Nhật đem bán có tên là gì không? Đó là thuốc Khinh Khoái Hoàn (輕 快 丸 qing kuai wan: viên thuốc nhẹ và nhanh). Trong từ ngữ “khinh khoái hoàn,” chữ “hoàn” vốn là “hoàn tán cao đơn,” và có nghĩa là thuốc viên. Khi bị mắc bệnh, người ta thường đi mua thuốc Khinh Khoái Hoàn về uống. Thế nhưng, cái tên thuốc này là ám chỉ triều đại nhà Thanh sắp “xong” rồi, sắp “hết” rồi. Theo tiếng Trung Hoa, chữ “hoàn” trong tên thuốc này đồng âm với chữ “hoàn” (完) có nghĩa là xong rồi, hết rồi; còn chữ “khinh” (輕) thì đồng âm với chữ “thanh” (清). Vì thế, “khinh khoái hoàn” (viên thuốc nhẹ và nhanh) có thể được hiểu là “Thanh khoái hoàn” (清 快 完 nhà Thanh sắp hết rồi), bởi đều đọc là “qing kuai wan” cả.

Quý vị xem, Nhật Bản đã có dã tâm thôn tính nước Trung Hoa từ lâu. Họ uống thuốc Khinh Khoái Hoàn để trị bệnh, song với thâm ý: “Nếu chúng ta lật đổ được nhà Thanh, chiếm được nước Trung Hoa, thì tất cả chúng ta đều không bị bệnh. Không bị bệnh gì ư? Không bị bệnh đói! Chúng ta sẽ không bị đói khát nữa!” Đó là câu chuyện về “qing kuai wan.”

Lại nữa, các loại bánh như bánh nướng, bánh hấp, bánh quấn thừng, thì người Nhật không gọi đó là những món điểm tâm hay thức ăn lót dạ; thế thì gọi là gì? Họ gọi đó là “Trung Quốc.” Phàm là thức ăn, các món điểm tâm, bánh hấp, họ đều gọi chung là “Trung Quốc” cả. Họ cầm bánh lên ăn, và họ nhai nuốt “nước Trung Quốc” vào bụng!!! Đây là một cách “nhồi sọ,” gieo vào đầu óc mọi người tư tưởng “ta sẽ thôn tính nước Trung Hoa trong một ngày rất gần” vậy!

V) Bài dự ngôn nói tiếp:

Doanh châu hổ, độ hải lang,

Mãn thiên hồng nhật cánh hôn hoàng,

Mãng mãng thần châu thương phá toái,

Thương sanh đáo xứ khốc da nương,

Xuân lôi sạ hưởng kiến thanh dương.

Doanh châu hổ (cọp ở cồn đảo). Đây là ý nói người Nhật ở tại đất nước Nhật Bản thì ví như hùm như cọp vậy. Mặc dù Nhật Bản là một nước nhỏ song Hội Quốc Liên cũng có phần nể sợ. Tại sao? Vì người Nhật có lòng can đảm, rất dũng mãnh, không sợ chết.

Có một lần, trước Thế Chiến Thứ Hai, Hội Quốc Liên cho tổ chức một cuộc thao diễn quân sự trên biển. Lúc bấy giờ người ta gọi đó là Hội Quốc Liên, chứ chưa gọi là Liên Hiệp Quốc. Lần ấy xảy ra vào ngày tháng nào thì tôi không rõ, bởi tôi không phải là nhà khảo cổ hoặc là người chuyên nghiên cứu lịch sử. Tuy nhiên, chỉ biết rằng lúc đó quân đội của các quốc gia đều lên tàu để diễn tập. Quân đội của quốc gia nào—Anh, Pháp, Đức, Mỹ cùng nhiều nước khác—thì diễn tập trên tàu của quốc gia đó. Lúc diễn tập, khi vị giáo quan hô to: “Đằng trước, bước!” thì tất cả binh lính trên tàu liền rầm rập tiến bước về phía trước. Quân đội của các quốc gia khác một khi bước đến mé tàu của mình rồi thì ai nấy đều đứng dậm chân tại chỗ—hai chân đều đặn dậm lên dậm xuống ở một vị trí, không tiến thêm nữa. Thế nhưng, quân đội của Nhật Bản thì thế nào? Khi đến mé tàu, họ vẫn tiếp tục tiến tới trước, bước thẳng vào lòng biển cả, không hề nao núng sợ hãi! Kể từ đó, quân đội của Hội Quốc Liên không dám coi thường quân đội của Nhật Bản nữa; mọi người đều nghĩ: “Ồ! Thật là có tinh thần thượng võ, không sợ chết!” Do đó, người Nhật khiến cho quân đội của Hội Quốc Liên phải một phen khiếp vía! Và, chính vì thế mà họ được ví với loài cọp—họ dũng mãnh như cọp vậy.

Độ hải lang (loài lang sói vượt biển). “Độ hải” là vượt qua biển cả—từ nước Nhật Bản, người Nhật đã vượt đại dương để đến nước Trung Hoa. Ngay tại đất nước của họ thì họ là loài cọp—người ta sợ họ như sợ cọp vậy. Thế sau khi họ vượt đại dương thì sao? Thì họ biến thành một bầy chó sói! Chó sói thì còn độc ác hơn cả cọp beo nữa. Ban đêm, chúng đi lang thang khắp nơi, gặp trẻ con thì xé xác ăn thịt, gặp heo con thì vồ lấy tha đi—chúng toàn là cướp đoạt đồ vật của người khác [về làm bữa ăn cho riêng mình] để sinh tồn.

Người Nhật sau khi vượt đại dương thì chẳng khác nào loài lang sói. Lúc xâm lược nước Trung Hoa, họ còn đáng sợ hơn cả loài cọp nữa — họ đã biến thành một bầy chó sói! Họ dùng những thủ đoạn cực kỳ xấu xa để đối xử với người dân Trung Hoa, và giết hại không biết bao nhiêu là đồng bào Trung Hoa của chúng ta nữa.

Cho nên, lúc bấy giờ Mãn thiên hồng nhật cánh hôn hoàng” (trên bầu trời, mặt trời màu đỏ càng mờ nhạt). Có mặt trời đấy, song rất mờ nhạt u ám, không được sáng sủa. Trên không trung, vầng thái dương vốn đỏ rực, nhưng lúc bấy giờ vạn vật lại nhuộm một màu vàng héo hắt, ảm đạm. Vì sao ư? Vì mặt trời và mặt trăng không còn chiếu sáng nữa! “Hôn hoàng” tức là cảnh sắc mờ nhạt, tranh tối tranh sáng, vì hai vầng nhật nguyệt không tỏa ánh sáng nữa.

Do đó, lúc này nước Trung Hoa, mãng mãng thần châu thương phá toái (vùng đất thiêng liêng rộng mênh mông bị tàn phá, chia cắt). Đất nước Trung Hoa còn được mệnh danh là “thần châu” (đất thiêng), bởi từ ngàn xưa đã có rất nhiều người ở Trung Hoa tu hành và thành thần tiên. “Thần châu” có nghĩa là nơi tụ hội của thần và tiên, song bấy giờ, nơi này lại bị tàn phá, chia cắt. Lúc này người Nhật đi lùng sục, gieo rắc tai ương trên khắp đất nước Trung Hoa. Họ đốt phá, giết hại, cướp bóc, hãm hiếp … , làm tất cả mọi việc đồi bại để tàn phá, xâu xé đất nước này.

Thương sanh đáo xứ khốc da nương (khắp nơi dân chúng đều than khóc cha mẹ). Khi ấy, dân chúng đều phải tản cư để tránh thảm họa chiến tranh, rất nhiều em bé phải chịu cảnh bơ vơ, không nơi nương tựa, lang thang phiêu bạt khắp nơi tìm cha gọi mẹ. Tình cảnh loạn lạc, bỏ nhà bỏ quê đi lánh nạn chiến tranh của thời ly loạn này thật thương tâm đến nỗi chẳng dám nhìn. Đó là cảnh tượng “thương sanh đáo xứ khốc da nương.”

Xuân lôi sạ hưởng kiến thanh dương (sấm mùa xuân vừa nổ vang thì thấy được bầu trời quang đãng). “Xuân lôi” ám chỉ bom nguyên tử. Khi bom nguyên tử phát nổ, tức là lúc tiếng sấm xuân rền vang, thì bầu trời sẽ trở nên trong sáng, mọi người lại thấy được vầng thái dương rực rỡ.

VI) Kế đến là bài thơ thứ sáu, nói về biến cố Tây An. “Tây An sự biến” được đề cập đến như sau:

Tế liễu doanh trung,

Quần hùng hào ẩm,

Nguyệt yểm trung thu,

Ham túy vị tỉnh,

Song sư bác cầu,

Nhất đọa kỳ tỉnh,

Hồng phấn giai nhân,

Diện diệp anh cảnh.

Ba nhân vật giữ vai trò chủ yếu trong biến cố này là Tổng Thống Tưởng Giới Thạch, Trương Học Lương, và bà phu nhân họ Tưởng — Tống Mỹ Linh [vợ của Tưởng Giới Thạch].

Tế liễu doanh trung (trong doanh trại). “Tế liễu doanh” là ám chỉ Tây An, nơi xảy ra sự biến. Thế thì, trong doanh trại của quân đội, Quần hùng hào ẩm (các anh hùng hào hứng uống rượu). Bấy giờ, có Trương Học Lương, Tưởng Giới Thạch, Dương Hổ Thành cùng rất nhiều người khác nữa. “Quần hùng” nghĩa là rất nhiều vị anh hùng, những người có tướng mạo, phong cách của bậc anh hùng. Và, họ quây quần, cùng nhau uống rượu, chén thù chén tạc. Đó là vào ngày nào? Lúc đó là gần dịp Tết Trung Thu, cho nên nói:Nguyệt yểm trung thu (trăng sắp vào giữa thu)—có lẽ lúc ấy mặt trăng còn đang bị mây che khuất, vẫn còn một chút nữa.

Ham túy vị tỉnh (say sưa chưa tỉnh). Lúc này, mọi người đều đã uống quá nhiều, đều say mèm và ngủ mê mệt. Thế nhưng, trước khi mọi người tỉnh dậy thì có Song sư bác cầu (hai con sư tử giành nhau trái cầu). Trong khi xảy ra biến cố Tây An, có một vị liên trưởng tên là Tôn Danh Cửu hay Tôn Danh Thập gì đó (tôi không rõ lắm), đã bắt Tổng Thống Tưởng Giới Thạch. Bấy giờ, có hai con sư tử cùng tranh nhau một trái cầu; trái cầu này là gì? Đó chính là mảnh đất Trung Hoa. Cả hai con sư tử đều chiến đấu để đoạt trái cầu này cho bằng được.

Song le, Nhất đọa kỳ tỉnh (một rớt xuống giếng)—có một con sư tử vì thiếu cẩn thận nên bị rớt xuống giếng. Con sư tử bị rớt xuống giếng có thể là Tổng Thống Tưởng Giới Thạch, mà cũng có thể là Tướng quân Trương Học Lương. Dù thế nào đi nữa, nói tóm lại là cả Tổng Thống Tưởng Giới Thạch lẫn Trương Học Lương đều có lúc bị “rớt xuống giếng.”

Có thể nói rằng kẻ bị rớt xuống giếng lúc này là Tổng Thống Tưởng Giới Thạch. Bấy giờ có hồng phấn giai nhân, diện diệp anh cảnh (người đẹp phấn hồng, má lúm đồng tiền, mặt như hoa anh đào). Hồng phấn giai nhân” chính là nữ sĩ Tống Mỹ Linh, phu nhân của Tổng Thống Tưởng Giới Thạch. Tưởng phu nhân và Tống Tử Văn, cùng với nhiều người khác nữa, đều đến Tây An để giảng hòa với Trương Học Lương.

Trương Học Lương cũng không phải thật sự muốn bắt Tổng Thống Tưởng Giới Thạch, mà chỉ muốn dùng cách này để can gián họ Tưởng. Vì thế, khi Tưởng phu nhân đến đó và vừa ngỏ lời, thì Trương Học Lương, vốn là người trọng nghĩa khí, liền nói: “Được, tôi sẽ hộ tống Tưởng Chủ tịch trở về!” Thế là ông ta đích thân đi theo bảo vệ Tổng Thống Tưởng Giới Thạch về tận Nam Kinh.

Về tới Nam Kinh, ngờ đâu con sư tử này leo ra khỏi giếng rồi, thì con sư tử kia lại bị rớt xuống hầm và bị giam lỏng hơn năm mươi năm. Khi con sư tử thứ nhất bị rớt xuống giếng thì có “hồng phấn giai nhân” đến và, Diện diệp anh cảnh bằng nụ cười cùng nước mắt, đã làm biến đổi lịch sử nước Trung Hoa.

Vậy, vào năm Quang Tự thứ 30 (1904), biến cố Tây An đã sớm được dự đoán là sẽ xảy ra.

VII) Bài thơ kế tiếp nói về sự đầu hàng của Nhật Bản:

Xuân lôi sạ, thụ bạch kỳ,

Thiên vạn hoạt quỷ khốc đề đề,

Thạch Đầu thành trung phi phù đáo,

Hựu kiến trùng chỉnh Hán cung nghi,

Đông sơn hựu hữu hỏa quang chiếu.

Xuân lôi sạ, thụ bạch kỳ (sấm xuân nổ, cờ trắng giương lên). Ngay sau khi quả bom nguyên tử được thả xuống, Nhật Bản không biết phải xoay sở thế nào, đành phải giương cờ trắng, chịu đầu hàng vô điều kiện.

Thiên vạn hoạt quỷ khốc đề đề (ngàn vạn con quỷ sống khóc hu hu). Bấy giờ, người Nhật giống như một bầy quỷ sống. Đội quân cảm tử của Nhật Bản vốn không sợ chết, giờ đây đều kêu gào than khóc, lớp thì tự sát, lớp thì chán nản, không muốn sống nữa; cho nên nói “thiên vạn hoạt quỷ khốc đề đề.”

Người Nhật vốn đều có tinh thần thượng võ, hùng dũng hiên ngang, phô trương võ lực ở khắp nơi. Họ làm thành một đội quân hung hãn như hổ lang, đến đâu cũng gieo rắc sự kinh hoàng, khiếp đảm; thế mà nay phải chịu đầu hàng vô điều kiện, khiến ai nấy đều không cầm được nước mắt. “Thiên vạn hoạt quỷ” — họ bấy giờ chẳng khác nào một bầy quỷ sống. Vẻ oai phong không còn, nét vũ dũng cũng biến mất; cho nên cả ngàn vạn con quỷ sống đều khóc sướt mướt. Đương thời, khi họ đã đầu hàng, người Trung Hoa liền bắt nạt, lấn lướt họ như để báo thù, bởi họ đã sang xâm lược lãnh thổ và sát hại vô số đồng bào Trung Hoa.

Trước đây tôi đã từng nói với mọi người rằng: “Chúng ta chớ nên xem thường người Nhật. Chớ nên đánh giá thấp người Nhật. Hai mươi năm nữa Nhật Bản sẽ là một cường quốc trong cộng đồng quốc tế!” Tại sao tôi nói như thế? Bởi vì tuy chiến bại, nhân dân Nhật Bản vẫn đoàn kết, yêu nước, và luôn luôn tìm cách làm cho đất nước được cường thịnh trở lại. Thế nên, hai mươi năm sau khi đầu hàng, Nhật Bản đã dùng chiến thuật kinh tế để áp đảo toàn thế giới, và lại trở thành một quốc gia giàu mạnh.

Thạch Đầu thành trung phi phù đáo (có tin nhanh đưa đến thành Thạch Đầu). Thành Thạch Đầu tức là Nam Kinh, và cũng chính là Kim Lăng. Có mệnh lệnh từ Nam Kinh truyền xuống; mệnh lệnh gì? Đó là phải làm lễ mừng thắng lợi của cuộc kháng chiến tám năm. Mọi người đều được lệnh phải ăn mừng thắng lợi thành công.

Hựu kiến trùng chỉnh Hán cung nghi (lại thấy nghi lễ của cung điện nhà Hán lần nữa). Bấy giờ, vì ăn mừng thắng lợi, mọi người đều mặc lễ phục tươm tất. Nước Trung Hoa với “ba trăm nghi lễ, ba ngàn oai nghi” nay đã được xuất hiện trở lại!

Thế nhưng, mọi người cần phải biết là: Đông sơn hựu hữu hỏa quang chiếu (ở rặng núi phía đông có ánh lửa lập lòe). Về phía đông của rặng núi lại có ánh lửa lóe sáng. Ánh lửa này là gì? “Đông sơn” là ám chỉ Mao Trạch Đông, kẻ thành lập Bát Lộ Quân ở vùng Đông Bắc. Còn Lâm Bưu, con chó sói, dẫn theo một bầy lang sói, thì ví như ánh lửa lập lòe vậy. “Hỏa quang” cũng ám chỉ màu đỏ của Đảng Cộng Sản. Ánh lửa ở phía đông ngọn núi lại cháy bùng lên sáng rực.

VIII)  Bài thơ kế tiếp nói về sự xuất hiện của Đảng Cộng Sản Trung Hoa:

Nhật nguyệt thực, ngũ tinh hy,

Nhị thất giao gia quải thái y,

Dã nhân cử túc bách kim hổ,

Biến địa hồng hoa biến địa cơ,

Phú quý bần tiện vô cao đệ.

Quý vị xem, đấy không phải là khẩu hiệu của Đảng Cộng Sản thì là cái gì? Nhật nguyệt thực, ngũ tinh hy (mặt trời và mặt trăng bị che khuất, năm ngôi sao thì hiếm có). “Nhật nguyệt thực” ý nói là sắp tới những ngày đen tối. Tuy rằng có mặt trời nhưng lại bị che khuất, mặt trăng cũng bị che khuất. Mặt trời và mặt trăng đều không còn chiếu sáng nữa.

“Ngũ tinh hy” tức là các ngôi sao cũng thưa thớt, ít ỏi. “Ngũ tinh” có nghĩa là năm ngôi sao, ám chỉ lá cờ của Đảng Cộng Sản — cờ năm sao. “Nhật nguyệt thực”  là hiện tượng mặt trời và mặt trăng bị che khuất, ngụ ý là lá cờ “thanh thiên bạch nhật” không còn nữa. “Ngũ tinh hy” tức là năm ngôi sao rất hiếm hoi — cờ “năm sao” cũng không được nhiều lắm, ý nói là họ còn hoạt động bí mật, chứ chưa được công khai rộng rãi.

Thế nhưng, nhị thất giao gia quải thái y (hai bảy thêm vào, khoác y phục nhiều màu sắc). Chữ “nhị” (二) mà có ghép thêm chữ “thất” (七) thì thành chữ “mao” (毛), rõ ràng là muốn nói đến Mao Trạch Đông. Trong câu thơ này có tiềm ẩn hai chữ “mao trạch”. “Mao” mà “quải thái y.” “Thái y” tức là y phục có màu sắc rực rỡ. “Trạch” là “nhuận trạch” (thấm nhuần), cũng hàm ý tươi tắn, có đôi chút rực rỡ. Đó gọi là “quải thái y.”

Dã nhân cử túc bách kim hổ (người quê mùa giơ chân bức bách con cọp vàng). “Dã nhân” nghĩa là gì? “Dã nhân” tức là người không có văn hóa — công nhân, nông dân, quân nhân — quân đội của Bát Lộ Quân. “Cử túc bách kim hổ” có nghĩa là giơ chân đá ngã con cọp vàng, ám chỉ việc những người này đi lùng sục khắp nơi để ruồng bắt, thanh toán các đại địa chủ, đem các địa chủ ra tòa để xét xử, đấu tố. “Kim hổ” (con cọp vàng) là ám chỉ các đại địa chủ. Đảng Cộng Sản gọi các đại địa chủ là “kim lão hổ” vì họ có rất nhiều tiền. Bởi họ bóc lột nhân dân cho nên họ được mệnh danh là “cọp,” con cọp vàng. “Bách” tức là áp bức, chèn ép. Những người quê mùa (dã nhân) giơ chân đàn áp “con cọp vàng” — mặc dù họ quê mùa, song những “con cọp vàng” đều phải kiêng dè nể sợ bởi vì họ ngang ngạnh, bất chấp lý lẽ.

Biến địa hồng hoa biến địa cơ  (khắp mặt đất là hoa màu đỏ, khắp nơi toàn là những người đói khát). Lúc này, toàn nước Trung Hoa đều tràn ngập một màu đỏ—màu đỏ Cộng Sản—giống như hoa màu đỏ đang nở rộ trên khắp đất nước vậy.

“Biến địa cơ” có nghĩa là khắp nơi đều đói khát. Chữ “cơ” (飢) này có nghĩa là đói khát, chứ không phải là chữ “kê” (雞 con gà), mặc dù trong tiếng Trung Hoa hai chữ này phát âm giống nhau (đều đọc là “ji” cả). Nếu hiểu đó là chữ “kê,” thì “biến địa kê” có nghĩa là khắp nơi đều nhung nhúc những gà vịt, và chúng ta không phải nuôi, không phải cho chúng ăn; mà lúc nào cần thì chỉ việc bắt vô giết, làm thịt — không phải như vậy! Đây là chữ “cơ,” có nghĩa là đói khát. Bấy giờ, khắp mặt đất đều là hoa màu đỏ, thế nhưng, khắp đất nước dân chúng lại đều bị đói khát.

Phú quý bần tiện vô cao đệ (giàu sang nghèo hèn, không cao thấp). Bấy giờ, khẩu hiệu của Đảng Cộng Sản là “Không có giàu, không có nghèo. Người người đều có cơm ăn, ai nấy đều có việc làm.” Tuy nói là “vô cao đệ,” tức là trong xã hội không còn giai cấp cao thấp nữa, song lúc họ vừa thành công thì lại bày ra đủ loại đặc quyền đặc lợi. Vì thế, giữa người giàu và kẻ nghèo, cũng như giữa người sang và kẻ hèn, lại càng cách biệt nhau hơn cả trước kia nữa. Vậy, đoạn này là nói về Mao Trạch Đông.

Tôi còn nhớ trước khi tôi rời Đông Bắc thì nơi đây đã có người của Đảng Cộng Sản đang bí mật hoạt động. Bấy giờ tôi là một thầy tu, đã xuất gia rồi. Một người trong bọn họ tuyên truyền với tôi về những điểm ưu việt của Đảng Cộng Sản—mọi người đều bình đẳng như thế nào, rồi tài sản được phân chia đồng đều ra làm sao… Ông ta nói thao thao về quyền bình đẳng và tài sản chung (cộng sản), và về viễn ảnh mọi người đều có cơm ăn, ai nấy đều có áo mặc, tất cả đều có việc làm. Bất luận thế nào thì mọi người cũng đều như nhau cả—không có người giàu cũng chẳng có kẻ nghèo, mà chỉ có bình đẳng, hoàn toàn bình đẳng, một sự bình đẳng tuyệt đối!

Lúc đó, tôi chẳng nghĩ ngợi, liền lý luận lại rằng: “Cộng sản các ông chỉ có thể cộng chung cái tài sản hữu hình; còn tài sản vô hình thì các ông cộng chung không được. Các ông chẳng có cách nào cộng chung được thứ tài sản không hình tướng.”

Ông ta nói gì ư?

Tôi nói tiếp: “Lấy thí dụ, nhà cửa, đất đai, của cải—đây là những thứ mà ông có thể cộng vào, và cũng có thể chia ra. Thế nhưng, tài sản vốn có trong bản thân của mỗi người thì ông chia không được mà cộng cũng chẳng được nốt. Vì sao ư? Như con mắt chẳng hạn, nếu ông thật sự cộng sản thì ông phải chia bớt một con mắt của mình cho người mù mới phải. Tôi thử hỏi những người trong Đảng Cộng Sản các ông, chẳng hay có ai sẵn lòng cho bớt người mù kia một con mắt chăng?”

Ông ta lặng thinh, không nói gì cả. Tôi lại nói tiếp: “Chẳng có ai bằng lòng chia bớt một con mắt của mình cho người khác cả. Mà dầu có đi chăng nữa, thì cũng chỉ có một hoặc hai người được chia cho mà thôi—không thể nào chia đều cho tất cả mọi người được. Lại nữa, cho dù ông có cho người mù nọ một con mắt đi nữa, thì sau khi được đem cấy vào trũng mắt của anh ta, cũng chưa chắc là anh ta có thể nhìn thấy được. Vì vậy, người mù nọ vẫn không thể hưởng tài sản này được.

“Tai của ông nghe được, thế thì ông có sẵn lòng cho người điếc kia bớt một cái tai để hắn cũng có ‘tài sản’ tai không? Có thể như thế được chăng?”

Tôi nói tiếp: “Như người câm không nói được, vậy ông có vui lòng cho anh ta bớt nửa cái lưỡi của ông không? Nếu ông chia cho anh ta một nửa cái lưỡi của ông thì chính bản thân ông cũng chẳng thể nói được nốt—thế là cả hai đều bị câm cả! Nếu ông cộng chung con mắt thì cả ông lẫn người mù nọ đều bị mù, ông cộng chung lỗ tai thì cả ông cùng người nhận đều bị điếc. Thậm chí, tay, chân, và năm giác quan của cơ thể đều như thế cả—ông có thể cộng chung với người khác được chăng?”

Nghe tôi nói như thế, ông ta không còn gì để nói nữa, bèn lẳng lặng bỏ đi. Hôm sau, ông ta đến rất sớm và nói với tôi: “Những điều Thầy nói hôm qua cũng khá hữu lý đấy! Người như Thầy cũng rất hiếm, Thầy nên ra làm việc để phục vụ quốc gia. Thầy nên đi theo cách mạng. Hãy tiếp tay với chúng tôi, chúng ta cùng nhau thành lập Đảng Cộng Sản.”

Ông ta muốn lôi kéo tôi tham gia Đảng Cộng Sản, nhưng tôi tự nghĩ: “Mình chẳng có tài sản gì để cộng với người ta, mà mình cũng không muốn cộng tài sản của người khác vô mình làm chi. Hơn nữa, cả đời tôi, tôi không hề muốn bất cứ thứ gì. Tôi không muốn cộng tài sản của người khác, người ta cũng chẳng muốn cộng tài sản của tôi. Mà tôi cũng chẳng có tài sản gì để cộng được cả!”

Tôi bèn nói với ông ta: “Để tôi suy nghĩ xem! Phục vụ quốc gia cũng là điều tốt, hãy để tôi nghĩ lại xem!”

Thế là ông ta ra về. Sang hôm sau thì tôi cũng ra đi; và kể từ đó, tôi từng bước từng bước đi đến Hoa Kỳ; song từ Hương Cảng đến Hoa Kỳ thì tôi đi bằng máy bay.

Phần kế tiếp là nói về Đài Loan. Nói gì về Đài Loan?

Nhị thất tung hoành,

Nhất ngưu song vĩ,

Vô phục nhân hình,

Nhật hành hằng quỹ,

Hải thượng kim ngao,

Huyền phục luật lữ,

Thiết điểu lăng không,

Đông nam tận hủy.

Nhị thất tung hoành (hai bảy dọc ngang.) [Chữ “nhị”(二) ghép với chữ “thất” (七) thì thành chữ “mao” (毛) ám chỉ Mao Trạch Đông.] Câu này mô tả sự kiêu căng, ngang ngược của Mao Trạch Đông lúc mới bắt đầu nắm được chủ quyền tối cao ở Trung Hoa lục địa. Tại quảng trường Thiên An Môn, họ Mao hô hào quần chúng: “Nhân dân Trung Hoa hãy đứng dậy!” Ông ta lấy làm đắc ý, tự cho rằng trước đây chưa có ai được như mình và sau này cũng chẳng có ai bằng được mình; bởi ông ta ngạo mạn như thế cho nên nói “nhị thất tung hoành.”

Nhất ngưu song vĩ (một con trâu có hai đuôi). Quý vị đã có bao giờ trông thấy con trâu hai đuôi chưa? Quý vị thấy có kỳ lạ hay không chứ? Đó ắt hẳn là một con quái vật!? Song, ở đây không phải nói tới con trâu hai đuôi; mà ngụ ý là dưới chữ “ngưu” (牛 con trâu) có thêm hai nét phẩy (八), và đó là chữ “chu” (朱).

“Nhị thất” thì ám chỉ Mao Trạch Đông, còn “nhất ngưu song vĩ” là ám chỉ Chu Đức. Đương thời, hai nhân vật này thường được nhắc tới với danh xưng “Chu Mao, Chu Mao.”

Vô phục nhân hình (không còn hình dạng con người). Hình dạng của họ trông không còn giống của con người nữa.

Nhật hành hằng quỹ (mặt trời đi theo một quỹ đạo không đổi). Lúc ấy, mặt trời và mặt trăng vẫn luân chuyển như thường lệ; và tình hình sinh hoạt hằng ngày của người dân cũng cứ thế mà trôi qua, không có thay đổi gì mấy.

Hải thượng kim ngao (con rùa vàng trên biển). Đây là nói về Đài Loan. Địa thế của hòn đảo này trông giống như một con rùa vàng khổng lồ nằm giữa biển khơi vậy. Phật giáo ở nơi đây rất hưng thịnh—giống như Bồ Tát Quán Âm đặt chân trên lưng con rùa vàng này—và có rất nhiều người xuất gia rời lục địa Trung Hoa để sang Đài Loan. Vì thế, hòn đảo này được ví như “con rùa vàng trên biển.”

Huyền phục luật lữ (y phục màu đen và âm nhạc). “Huyền phục” tức là lễ phục màu đen. “Luật lữ” có nghĩa là hòa nhạc, ca hát. Câu này ngụ ý rằng mọi người reo mừng hòa bình, và ai nấy đều được trải qua những tháng ngày an lành, sung túc.

Thế rồi, thiết điểu lăng không, đông nam tận hủy (con chim sắt bay lượn trên trời cao, đông nam bị hủy sạch). “Thiết điểu” (chim sắt) tức là máy bay. “Thiết điểu lăng không” có nghĩa là máy bay vần vũ trên không trung. Còn nhớ vào năm bốn mươi mấy hoặc năm mươi mấy gì đó, Đảng Cộng Sản Trung Hoa đã dùng máy bay để dọ thám tình hình quân sự của Đài Loan. Bấy giờ, Đài Loan đã có hỏa tiễn [rattlesnake missiles] nên đã bắn rơi được các máy bay dọ thám. Và kể từ đó, phía Cộng Sản không dám trở lại để đột kích nữa.

“Đông nam tận hủycó nghĩa là phía đông nam bị thiêu hủy toàn bộ. Câu này ám chỉ sự cắt đứt quan hệ giữa Đại Lục với Đài Loan—họ không còn giao thông, liên lạc với nhau nữa. Và trong suốt mấy thập niên, dân chúng của đôi bên vẫn sinh hoạt như thế, và Đài Loan được hưởng cảnh thái bình, phồn thịnh.

Hồng hạ uý, bạch vân chưng,

Lạc hoa lưu thủy lưỡng vô tình,

Tứ hải thủy trung giai xích sắc,

Bạch cốt như khưu mãn cương lăng,

Tương tướng ngọc thổ tiệm đông thăng.

Những câu này có lẽ đề cập đến tình hình hiện tại.

Hồng hạ uý, bạch vân chưng (ráng mây đỏ thành xanh, mây trắng bốc hơi). Cộng sản vốn được tượng trưng bằng màu đỏ nhưng rồi sẽ đổi sang màu xanh lam, tức là Chủ Nghĩa Cộng Sản sẽ được đổi thành Chủ Nghĩa Tư Bản. Và, đó chính là tình hình hiện tại của Cộng Sản. Cửa ngõ đuợc rộng mở. Chẳng phải bây giờ Trung Quốc cũng tự xưng là “kinh tế đại quốc (nước lớn mạnh về mặt kinh tế)” sao? Như vậy, màu đỏ biến thành xanh lơ và không còn đỏ nữa. Màu xanh lơ tiêu biểu việc con người chỉ lo nhậu nhẹt vui chơi, phung phí tiền bạc. Tương tự như ở Trung Quốc đại lục hiện nay, dân chúng ra sức ăn uống, hưởng thụ (bất kể đến ngày mai). Cộng Sản vốn là màu đỏ nhưng nay biến thành màu xanh lơ – phải thay đổi thì mới cải cách được.

“Bạch vân” tức là “thanh thiên bạch nhật kỳ” – lá cờ có hình mặt trời màu trắng nổi bật giữa nền trời màu xanh- cờ của Quốc Dân Đảng. Câu nầy ngụ ý rằng Quốc Dân Đảng ví như một áng mây trắng được chưng cất và bốc hơi hết vậy. Mây đã thành hơi nước và tan biến vào hư không – chẳng còn mây nữa!

Cho nên, Lạc hoa lưu thủy lưỡng vô tình (hoa rơi, nước chảy – cả hai đều vô tình). “Lạc hoa” ám chỉ Đảng Cộng Sản, còn “lưu thủy” là chỉ Quốc Dân Đảng. Hai đảng phái nầy xưa nay chẳng có thiện cảm với nhau. Đôi bên đều không thành thật và đều tìm cách lường gạt lẫn nhau. “Lưỡng vô tình” – cả hai bên đều không có cảm tình với nhau, không bên nào nể nang bên nào cả. Do đó thế lực của họ đều kiệt quệ, hầu như không còn nữa.

Bởi cả hai đảng phái đều không chịu nhượng bộ, chẳng ai chịu nhường ai cả, cho nên Tứ hải thủy trung giai xích sắc (nước trong bốn biển đều thành màu đỏ). Nước trong bốn biển đều biến thành màu đỏ – đây là cảnh “sông nhuộm máu đào”.

Bạch cốt như khưu mãn cương lăng (xương trắng chồng chất như gò khắp cả núi đồi). Xương người chết nhiều và chồng cao như gò núi. Khắp vùng núi non sơn dã, đâu đâu cũng toàn là hài cốt.

Tương tướng ngọc thố tiệm đông thăng (con thỏ ngọc sẽ từ từ nhô lên ở phương đông). Khi đất nước loạn lạc đến cực điểm, mọi người đều mơ ước cảnh thái bình thịnh trị. Cho nên vào lúc này, mọi việc dần dần khôi phục tốt đẹp hơn. “Thỏ ngọc” tức là mặt trăng. Trăng sẽ từ từ nhô lên ở phương đông và dần dần phát ra ánh sáng trở lại. Do đó, mọi người sẽ thấy lại được vầng trăng sáng tỏ.

Quan cái định, công tội phân,

Mang mang hải vũ kiến thừa bình,

Bách niên đại sự hỗn như mộng,

Nam triều kim phân thái bình xuân,

Vạn lý sơn hà xứ xứ thanh.

Lúc nầy vầng thái dương sẽ lại xuất hiện ở Trung Hoa – đất nước thái bình, dân chúng an cư lạc nghiệp, trời đất mưa thuận gió hòa.

Quan cái định, công tội phân (nắp quan tài đóng lại, công tội được phán xét phân minh). Phải đến khi người ta chết rồi, nắp quan tài của họ đã đậy lại rồi, mới có thể luận định về họ được. Bấy giờ, ai có công, ai có tội đều được phán đoán phân minh và được ghi chép rõ ràng trong sử sách.

Mang mang hải vũ kiến thừa bình (đất nước mênh mông chứng kiến cảnh thái bình). Bấy giờ là lúc thái bình. Có câu:

Vật cực tắc phản, bỉ cực thái lai.

(Hễ tới tột cùng thì sẽ trái ngược lại; xấu tới cực điểm thi tốt đến.)

Khi sự rối loạn lên đến cực điểm là đến lúc hòa bình được lập lại; lúc hòa bình đến cực điểm thì cũng là khi hỗn loạn xảy ra. Từ xưa đến nay, quốc vận của nước Trung Hoa đều là “hết hưng tới suy, hết yên tới loạn” nên nói:

Ngũ bách niên tất hữu vương giả hưng, kỳ gian tất hữu danh sĩ giả.

(năm trăm năm tất có vua chúa hưng khởi, trong thời gian đó ắt có bậc danh sĩ xuất hiện.)

Mang mang hải vũ là chỉ lãnh thổ Trung Hoa. Lúc bấy giờ có thể thấy được dải giang sơn mênh mông như chẳng có ranh giới nầy sắp được thái bình.

Bách niên đại sự hỗn như mộng (việc lớn trong một trăm năm rối ren mờ mịt như giấc mộng). Tính từ cuối đời nhà Thanh cho đến nay là ngót một trăm năm, những biến cố trọng đại xảy ra trong thời gian này giống như trong chiêm bao vậy.

Nam triều kim phân thái bình xuân (màu xanh thái bình rộn rã và phấn vàng tràn ngập vào thời Nam triều). Trong tương lai, kinh đô sẽ được đặt tại Nam kinh. “Nam triều” ám chỉ Nam Kinh (kinh đô ở phương nam). Bấy giờ, đất nước như sống trở lại thời ca vũ thái bình, khắp nơi tưng bừng tiếng nhạc reo vui. Không khí hoan lạc lại trở về với Nam kinh. Kinh thành này sẽ tràn ngập với niềm vui mừng cảnh thanh bình, dân chúng an hưởng cuộc sống sung túc, đất nước giàu mạnh, yên ổn, người người đều ấm no hạnh phúc.

“Thái bình xuân” tức là thời kỳ hết sức tốt đẹp huy hoàng. “Kim phân” là chỉ những người con gái sống trên thuyền chuyên hát xướng và uống rượu với khách ở Nam Kinh. Những cảnh sống giàu sang, xa hoa lộng lẫy lại tái diễn. Đó là điều chắc chắn.

Vạn lý sơn hà xứ xứ thanh (non sông muôn dặm chốn chốn xanh tươi). Khắp nơi, đâu đâu cũng chú trọng đến trang phục màu xanh. Trong tương lai, lực lượng quân đội thay thế vai trò của Đảng Cộng sản đều chú trọng màu xanh. Màu xanh là tiêu biểu cho sự tang tóc, do đó ngụ ý là “thăm dân, trị tội” – tức là nhận thấy đối phương quá sức bạo ngược nên muốn thay mặt muôn dân mà sửa trị. “Xứ xứ thanh” tức là áo quần của mọi người và đồng phục của quân đội đều là màu xanh.

Khắp cả vạn dặm sơn hà đều có quân đội chiếm đóng, cho nên nói rằng “Vạn lý sơn hà xứ xứ thanh”. Lực lượng quân đội đề cập ở đây là đội quân mới và sẽ xuất hiện trong tương lai, chứ không phải của Đảng Cộng Sản hay Quốc Dân Đảng. Mặc dù vậy, nó vẫn là thoát thai từ hai đảng này. Định luật “hết trị tới loạn, hết hưng đến suy” chính là quốc vận của quốc gia vậy.

Đường Cao tổ, khởi nghĩa sư,

Trừ Tùy loạn, sáng quốc cơ.

(Đường Cao Tổ dấy binh khởi nghĩa,

Dẹp nhà Tùy, sáng lập quốc cơ.)

Đây là thời quật khởi, tương tự như buổi đầu của Trung Hoa Dân Quốc, lúc Lý Nguyên Hồng dấy binh khởi nghĩa và được toàn dân nhiệt liệt hưởng ứng vậy.

Đoạn thơ kế tiếp như sau:

Thế vũ tam phân, hữu thánh nhân xuất.

Huyền sắc kỳ quan, long chương kỳ phục. 

Nhật nguyệt phục minh, xử trị vạn vật.

Tứ hải âu ca, ấm thọ kỳ phúc.

Thế vũ tam phân (thế giới sẽ được chia làm ba). Đây không phải chỉ đơn thuần đề cập đến nước Trung-Hoa; mà ngụ ý rằng thế giới sẽ do ba nước lớn lãnh đạo. Ba đại quốc ấy là gồm những nước nào thì chưa thể khẳng định được. Có thể là nước Mỹ, Trung-Hoa và Nhật-Bản; hoặc nước Liên-Sô, Nhật-Bản và Trung-Hoa. Nói chung, Trung-Hoa sẽ là một trong ba nước làm bá chủ hoàn cầu. Ba đại quốc này sẽ như ba chân vạc, chia nhau trị vì và quản lý thiên hạ.

Hữu thánh nhân xuất (có bậc thánh nhân xuất hiện). Trong tương lai sẽ có bậc thánh nhân xuất hiện ở nước Trung-Hoa.

Huyền sắc kỳ quan (mũ màu đen). Vị thánh nhân ấy sẽ đội mũ màu đen.

Long chương kỳ phục (huy hiệu con rồng rực rỡ trên y phuc). “Chương” tức là “chương minh biểu trứ”–sáng rỡ, dễ thấy. “Long chương” nghĩa là phù hiệu hình con rồng gắn rõ ràng, lấp lánh trên áo. Phần lớn những người trong quân đội đều có đeo phù hiệu trên vai–như cấp bậc Thượng-tướng thì trên vai áo có đính quân hàm hình năm ngôi sao. Trong trường hợp này, huy hiệu gắn trên vai của bậc thánh nhân nọ sẽ có hình con rồng.

Nhật nguyệt phục minh (mặt trời và mặt trăng lại sáng tỏ). Trời đất sẽ bình thường trở lại–vầng thái dương sẽ xuất hiện. Lúc này, trời đất bắt đầu sáng sủa trở lại.

Xử trị vạn vật (coi sóc vạn vật). Lúc này, vị thánh nhân kia sẽ cai quản thế giới, ngày ngày giải quyết những việc quan trọng, vì nhân loại trên thế giới mà mưu cầu hạnh phúc.

Vì vị thánh nhân này lo nghĩ và mưu cầu hạnh phúc cho muôn dân, cho nên, tứ hải âu ca (bốn biển âu ca), nơi nơi đều tưng bừng múa hát trong cảnh thái bình, người người đều được an cư lạc nghiệp, ai nấy đều sinh sống vui vẻ, không còn lo âu phiền não nữa.

Ấm thọ kỳ phúc (được che chở bởi phước đức ấy). Toàn thể nhân loại trên thế giới đều được hưởng sự che chở do phúc ấm của vị thánh nhân này mang lại. Có câu:

Nhất nhân hữu khánh, triệu dân lại chi.

(Một người có đức, triệu dân được nhờ–cậy nương.) 

Nếu người ấy thông minh thì hào quang từ phúc ấm của người ấy sẽ tỏa khắp tất cả bá tánh trên toàn thế giới.

Cho nên, nước Trung-Hoa sẽ lãnh đạo thế giới ở thế kỷ thứ hai mươi mốt. Thế nhưng, nếu người dân Trung-Hoa đều hướng thiện thì mới mong lãnh đạo được thế giới; còn nếu không hướng thiện thì Trung-Hoa khó có thể tồn tại được bởi các nước ngoài đều lăm le dòm ngó, rình chờ lúc Trung-Hoa suy yếu, hoặc trong nước có sự phân tán, chia rẽ. Có câu:

Cáp bạng tương tranh, ngư ông đắc lợi. 

(Nghêu sò đánh nhau, ngư ông được lợi.) 

Nếu người Trung-Hoa đàng hoàng, lương thiện, thì trong tương lai họ sẽ lãnh đạo thế giới; bằng không, nếu họ không hướng thiện, không đi theo con đường sáng sủa, quang minh chánh đại, e rằng họ sẽ bị người khác lãnh đạo, điều khiển!

Trên đây là lời thơ của Đại Sư Bộ-Hư. Tiếp đến, Ngài nói thêm bốn câu thơ như sau:

Mang mang thiên số bổn nan tri,

Duy tại thương sanh cảm thái hư,

Lão tăng bất cảm đa nhiễu thiệt,

Tiết lộ thiên cơ khủng bị tru.

Mang mang thiên số bổn nan tri (số trời mù mịt vốn khó biết). Ở đây lại đề cập đến thiên số (số phận do trời định sẵn) một đạo lý bao la, không giới hạn. Thứ đạo lý vô cùng vô tận này vốn không dễ gì mà biết được.

Duy tại thương sanh cảm thái hư (chỉ có chúng sanh làm thái hư cảm động). Bất luận quý vị có biết hay không và bất kể đạo lý thiên số rộng lớn bao nhiêu, nếu quý vị đều có thể “sửa ác, theo thiện,” thì có thể làm cho trời đất cảm động, khiến cho nơi nơi đều thái bình an lạc, khí lành trùm khắp đất trời.

Lão tăng bất cảm đa nhiễu thiệt (Sư già này không dám lắm lời). Vị Đại Sư Bộ-Hư này nói rằng: “Lão tăng chẳng dám nói quá nhiều!”.

Tiết lộ thiên cơ khủng bị tru (ta sợ bị phạt vì dám tiết lộ thiên cơ). Nếu ta tiết lộ toàn bộ thiên cơ, ta sợ mình sẽ bị trời trừng phạt khiển trách, cho sét đánh chết.

Trên đây là sơ lược về các nhân vật thời sự của Trung-Hoa trong ngót một trăm năm cận đại. Tôi hy vọng chúng ta đều sẽ không lãng quên tổ quốc, không thờ ơ với gia đình, và cũng không lơ là đối với sức khỏe của mình. Chúng ta chẳng những chăm sóc sức khỏe bản thân, mà còn phải yêu tổ quốc, yêu gia đình. Đây là hy vọng của tôi đối với tất cả Thiện-tri-thức ở Đài-loan. Vì sao tôi lại nói những điều này với quí vị? Đó là để làm cho mọi người thức tỉnh và ý thức được rằng: tất cả đều là số trời, đều đã được quyết định. Con người chẳng qua chỉ như một cái máy — phải chịu sự chi phối, điều khiển của trời đất. Vì thế mà họ trở nên điên đảo, làm những việc tán tận lương tâm, chỉ biết tranh giành quyền lợi. Thật ra, quý vị tranh giành thì cũng vậy mà không tranh giành thì cũng vậy thôi. Mọi người nên học lấy gương của Đại Sư Bộ-Hư — đừng tranh quyền đoạt lợi nữa, mà hãy gấp rút lo tu hành!

***********

Ghi chú: Nhà Tùy (581-618), Nhà Thanh (1644-1911), Đường (618-907), Ngũ Đại Tàn Đường (Hậu Lương 907-923, Hậu Đường 923-936, Hậu Tấn 936-946, Hậu Hán 947-950, Hậu Chu 951-960), Tống (Bắc Tống 960-1127, Nam Tống 1127-1279), Nguyên (1271-1368), Minh (1368-1644), Thanh (1644-1911).