ĐƯỜNG TAM TẠNG THỈNH KINH
Thích Thiện Phương

 LỜI TỰA

Sự thật ở đời ai cũng muốn, nhưng mấy ai sống đúng với sự thật. Vì thế cuộc chiến giữa thật và giả, giữa chân và nguỵ, giữa tà và chánh muôn đời không khoan nhượng.

Ngài Huyền Trang không những là một nhà hành hương chiêm bái nơi đất Phật mà còn mang nhiều ý nghĩa khác như là một nhà học giả, nhà thuyết giáo, nhà hùng biện , nhà thần bí, nhà dịch thuật, nhà ngôn ngữ thiên tài, nhà thám hiểm v.v..

Sự việc Đường Huyền Trang đi thỉnh kinh là nhân vật có thật, nhưng tất cả những người tin theo đạo Phật có được mấy ai, được biết và tin là sự thật. Còn các nhân vật trong phim truyện Tây Du Ký do Ngô Thừa Ân dựa theo chuyến Tây du thỉnh kinh của Ngài Huyền Trang mà hư cấu trong câu chuyện các nhân vật Tề Thiên, Bát Giới, Sa Tăng. Thế mà ai cũng tin là sự thật, rồi bình phẩm từng nhân vật và từng tình huống xảy ra trong cốt truyện. Thật là việc tưởng tượng, như nói chuyện  trong chiêm bao, thế mà được rất nhiều người tin là thật và ngưỡng mộ.

Rất có nhiều sự ngộ nhận về giáo lý Phật đà khi xem xong phim truyện Tây du ký. Do đó, chúng tôi cần phải có đôi lời ghi lại một số nét chính cuộc thỉnh kinh của Ngài Huyền Trang, để Phật tử có cái nhìn trung thực, rồi phát tâm phấn chấn, tinh tấn trên con đường tu tập, cảm thấy mình nhỏ nhoi và vô tích sự trong vòm trời Phật pháp. Đồng thời noi gương hạnh nguyện của Ngài để thay đổi cách sống, cách nhìn về việc tu học của đời mình.

Con tằm trước khi chết còn nhả tơ, thân nó tuy chết nhưng tơ vẫn còn để lại làm lợi, làm đẹp cho đời. Các vị Bồ tát, các vị thánh nhân cũng vậy, quý Ngài đã đi xa lắm rồi, nhưng hạnh nguyện độ sanh vẫn lưu truyền mãi mãi làm cầu tế độ cho muôn loài trong muôn thuở.

Quý vị cùng chúng tôi theo dõi từng bước chân Ngài Huyền Trang đã đi qua 128 nước trong 17 năm trường cách nay hơn 1300 năm. Thế mà dấu chân của Ngài vẫn còn in đậm nét không những trên những đoạn đường Ngài đi, mà nó còn in dấu trong lòng mỗi người có tin phật hoặc không tin, khi đã được đọc, hoặc được xem phim truyện Tây Du, với lòng tán phục vô bờ.

Thích Thiện Phương

*********

LỜI DẪN NHẬP

Ngài Huyền Trang là một đại công thành Phật giáo Trung Hoa, cũng như Phật Giáo Á Châu. Có nhiều học giả viết về Ngài Huyền Trang, ở Việt Nam cũng như ở phương Tây. Căn cứ vào Đại Đường Tây vực ký, chỉ cá bản dịch của Nguyễn Hiến Lê là gọn, dễ đọc, ông có đem sự so sánh Ngài Huyền Trang với các nhân vật nổi tiếng khác.

Ngài Huyền Trang suốt đời thanh đạm, can đảm, cần cù, hiếu học, lễ độ, khiêm tốn, trong sạch và hy sinh. Ngài không phải là một nhà văn hoá, khoa học, nhà thám hiểm, chỉ là một pháp sư đi hành hương đất Phật. Sự nghiệp của Ngài rất quan trọng đối với Phật giáo Trung Hoa. Ngài đã hiến tặng Trung Hoa 75 bộ kinh dịch từ Phạn ngữ ra Hoa văn gồm có 1.335 quyển, làm giàu cho văn hoá Trung Hoa trên một vạn từ và lưu lại cho nhân loại vô số tài liÖu rất quý như phong tục, khí hậu, sông núi, cỏ cây, di tích những miền hoang vu huyền bí, Ở Á Châu và Ấn Độ. Những nhà thám hiểm phương Tây tới sau ngài đều phải khen ngợi và thán phục sự ghi chép của Ngài rất đích xác, rất quý báu. Trong lịch sử nhân loại không thể có một vị danh nhân nào thứ hai như Ngài. Ngô Thừa Ân, người con dân tộc Trung Hoa đã thần kỳ hoá công cuộc thỉnh kinh của Ngài thành Bộ Tây Du Ký. Tây Du Ký do Ngô Thừa Ân chế tác từ công cuộc thỉnh kinh của Ngài không đúng như nguyên vẹn nhân vật và nội tình của cuộc Tây du của Ngài nhưng nó có tác động mạnh nhờ sự hấp dẫn ly kỳ của những tình tiết éo le giữa tình và lý, giữa lý và tình mà mọi người ai cũng thích. Ngài Huyền trang là một nhân vật vinh dự từ xưa đến nay cho đất nước Trung Quốc, cái vinh dự ấy chưa từng ai nhận được. Đọc lại Đại Đường Tây Vực Ký ta mới thấy tấm gương của Ngài để lại cho ta soi. Ngài suốt đời thanh đạm, can đảm, cần cù, hy sinh, hiếu học, lễ độ, khiêm tốn. Cái phong cách, khí tiết, công hạnh, sự nghiệp của Ngài đáng để ta suốt đời noi theo học hỏi.

Cuộc hành hương thỉnh kinh đơn thân độc mµ đầy uy dũng của vị cao tăng Huyền Trang đã trải qua cách đây hơn 1300 năm nhưng nó vẫn còn sáng chói và gợi ý tò mò theo dõi lại những bước đi xưa của Ngài, càng tò mò câu chuyện viễn du của Ngài người đọc dù già hay trẻ, dù trí thức hay bình dân, dù đồng hay khác tín ngưỡng đều thán phục không chê. Ngài đã đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi, vượt qua bao nhiêu địa hình hiểm trở, bao vùng khí hậu khắc nghiệt, độc hại cũng như bao thử thách do con người, do ma chướng gây nên. Nhờ niềm tin dũng mãnh, tài năng siêu việt và ý chí kiên cường, Ngài đã vượt thắng tất cả.

Đất nước Trung Hoa tự hào về vị cao tăng kiệt xuất ấy, Người đã thực hiện một kỳ công thỉnh kinh rực rỡ trong lịch sử Phật Giáo Trung Quốc và cả thế giới. Ngài là một nhân vật lịch sử đích thực, chứ không phải nhân vật huyền thoại, sự nghiệp thỉnh kinh của Ngài là một sự kiện lịch sử hiển nhiên. Các vị học giả, các nhà nghiên cứu trên thế giới đều nhất trí đánh giá Ngài không những là một trong các nhà thám hiểm bậc nhất mà còn là một nhà ngôn ngữ học thiên tài. Ngô Thừa Ân của Trung Quốc đã đưa những nhân vật tưởng tượng, hư cấu vào cuộc thỉnh kinh như Tôn Hành Giả, Sa Tăng, Trư Bát Giới vào truyện tây Du Ký với dụng ý tạo sự hấp dẫn nhằm dễ phổ biến sâu rộng trong quần chúng. Tuy nhiên ý niệm tốt này cũng có mặt phản tác dụng vì đã tạo ra sự ngộ nhận trong quần chúng về Ngài Huyền Trang. Nhân vật Tề Thiên thì nổi bật về tài nghệ siêu phàm có thần thông quảng đại, trÝ tuệ siêu phàm, còn Đường Tăng – nhân vật chính của lịch sử – lại trở thành một hình tượng yếu kém, thụ động, có lúc phạm phải sai lầm. Mọi người xem qua phim Tây Du Ký đều có cảm giác nhân vật Đường Tăng là người có bản tính yếu đuối, lương thiện, hiền lành, nhưng lại độc đoán, không phân rõ phải trái. Dưới sự bảo hộ của Tôn Ngộ Không, thần thông quảng đại, Trư Bát Giới biếng nhác lại ham ăn, mê sắc, Sa Tăng thì bộc trực. Đường Tăng phải trải qua 81 nạn, cuối cùng thì hoàn thành chuyến Tây Du thỉnh kinh.

 

Phần I.  HUYỀN TRANG THỜI NIÊN THIẾU

Ngài Huyền Trang họ Trần, tên Vỹ, con thứ tư của ông Trần Huệ, sinh năm 612 sau công nguyên, tại thôn Trần Hà gần Lạc Dương, tỉnh Hà Nam. Trong nhà có 5 anh em, Ngài là người thông minh nhất. Khi Ngài lên 4, mẹ Ngài qua đời, cha Ngài phải gánh vác trách nhiệm gia đình. Cha Ngài vốn xuất thân Nho học, chuộng cổ trọng hiền, thích đọc sách không hề biết mỏi mệt, vì bất mãn cuối triều Tuỳ loạn lạc nên lui về ở ẩn. Kinh điển Nho học, cầm kỳ, thi họa phụ thân đem tất cả những truyền thống tinh tuý văn hoá của Trung Quốc truyền đạt lại cho các con. Huyền Trang thích được nghe cha dạy nhất, từng lời từng lời đều rót vào tim. Một hôm phụ thân giảng cho Ngài nghe một đoạn trong “Hiếu kinh”, phụ thân vừa dứt lời, Huyền Trang đã đứng dậy, sửa áo chỉnh tề, cúi đầu cung kính lắng nghe, phụ thân có chút ngạc nhiên hỏi “con sao vậy?”, Huyền Trang đáp “Tăng tử cũng không ngồi khi trả lời thầy, con nghe cha dạy, làm sao mà dám ngồi”. Lúc đó ngài mới 8 tuổi. Điều bất hạnh nữa đến với Ngài là lúc lên mười tuổi thì phụ thân qua đời. Cha mẹ đều mất, chị lập gia đình, người anh thứ hai Trần Tiệp xuất gia tại chùa Tịnh Độ tại Lạc Dương. Người anh dẫn Ngài đến chùa Tịnh Độ chỗ mình ở dạy tụng kinh và học tập kinh điển. Điều khiến người anh ngạc nhiên là Huyền Trang được ở trong chùa như dịp cá gặp nước, dường như trở về lại nhà xưa. Không đầy mét năm, Huyền Trang đã thuộc làu không ít kinh điển. Năm Ngài 13 tuổi, Tuỳ Dạng Đế ban chiếu thế độ cho 27 vị tăng tại Đông Đô Lạc Dương, Huyền Trang tuổi còn nhỏ quá, ngay cả việc dự tuyển còn không được huống chi là. Ngài đứng rất lâu bên ngoài trường thi, không chịu đi, mặt không rời nhóm người cầu thế phát và chư tăng đi đi lại lại, vừa ngưỡng mộ, vừa tiếc rẻ. Đột nhiên, một vị mặc quan phục tiến về phía Ngài. Đây chính là quan chủ khảo thế độ Trịnh ThiÖn Quả. Ông chú ý thấy Huyền Trang đứng bên ngoài rất lâu, liền hỏi “Cháu là con nhà ai?” Huyền Trang trả lờ: “Con nhà họ Trần, làng Du Tiên, huyện Hậu Thị, Lạc Châu”. Trịnh Thiên Quả thấy cậu bé dung mạo tuấn tú, lời nói lưu loát, cử chỉ tự nhiên, trong lòng cũng cảm thấy mến. Ông thấy Huyền Trang tuổi còn nhỏ, hơi do dự, nhưng ở nơi Huyền Trang ông thấy sự thành tâm và thông minh nên chấp thuận.Trịnh Thiên Quả liền hỏi tiếp “Cháu cũng muốn xuất gia sao?”, “Dạ vâng, nhưng vì tuổi quá nhỏ, lại thêm Phật học còn nông cạn, không thể dự tuyển”, “Vì sao cháu muốn xuất gia?”, “Nói xa, vì muốn kế thừa giáo huấn của Phật Tổ, nói gần muốn hoằng dương chánh pháp đang bị mai một”, “Thế thì ngươi sẽ được như ý, ta đặc cách độ cho ngươi làm tăng”. Trịnh Thiên Quả đã làm đúng theo lời mình vì nhận thấy cái khí phách, trang mạo khác thường, cách đối đáp trôi chảy của cậu bé. Để các vị giảm khảo khỏi phản đối, ông giải thích : tụng kinh là việc dễ làm, còn có được phong cách thì rất khó. Câu bé thế phát hôm nay tương lai sẽ là vị lãnh đạo trong nhà Phật. Tôi và những vị hiện ngồi đây e rằng không có cơ hội thấy được ngày đó. Người này, nếu làm tăng thì chắc sẽ thành một bậc cao tăng đại đức trong chốn thiền môn không ai sánh kịp. Trịnh Thiện Quả đã tiên đoán không sai, cậu bé sau này chính là Pháp sư Huyền Trang Đường Tam Tạng, vị sự Trung Hoa danh tiếng nhất ở thế kỷ thứ 7 Tây nguyên, người đã đi 50.000 dặm đường bộ, trải qua 128 nước lớn nhỏ, 17 năm lưu học ở Ấn Độ, 18 năm trước tác phiên dịch không gián đoạn của Trung Hoa. Một nhà sư đã được toàn thể vua chúa thời bấy giờ kính trọng, được  toàn thể dân chúng Ấn Độ và Trung Hoa hoan hô, nhiều nhất trong các hội trường đấu lý. Một người mà khi chết có trên  một trăm vạn người đi đưa đám tang, ba vạn người làm lều ở bên mộ, một nhà sư mà bóng dáng luôn thấp thoáng trong các kinh viện Phật Giáo, cuộc đời luôn được hàng trí thức nhắc lại một cách kính cẩn, đầy cảm phục qua tập Đại Đường Tây Vực Ký và người bình dân toàn câi Á Đông thích thú say mê kể lại cho nhau nghe qua bộ truyện Tây Du hoang đường. Hơn 1300 năm trở lại đây, kinh văn đọc tụng đa phần do Ngài phiên dịch. Ngài Huyền Trang rất được dân Ấn Độ tôn sùng, quý mến, tôn lên hàng bậc thánh của người dân Ấn. Vì thế Ấn Độ có lập đền thờ kỷ niệm Ngài Huyền Trang, gọi là Kỷ niệm Đường Huyền Trang nay vẫn còn. Nếu không có tập Đại Đường tây Vực Ký của Ngài Huyền Trang, lịch sử Ấn Độ cổ đại vẫn còn lưu một màn đen, thậm chí họ không biết đức Phật Thích Ca là người Ấn Độ. Ngài Huyền Trang không chỉ là một vị cao tăng mà còn là sứ giả văn hoá, nhà du hành vĩ đại. Các vị học giả tôn Ngài là “thiên cổ nhất nhân ” từ đó có thể thấy địa vị quan trọng của Ngài trong lịch sử Trung Quốc. Từ khi Ngài Huyền Trang được chính thức triều đình chấp thuận cho xuất gia để thành tăng rồi Ngài gia công học quên ăn quên ngủ. Càng học Huyền Trang hoang mang thấy có bao nhiêu tông phái có mỗi chủ trương, Ngài không thấy thoả mãn khiến cho Ngài nghi vấn.

 

Phần II. LẬP NGUYỆN LỚN

Ngài Huyền Trang khao khát cầu pháp. Chưa đầy 2 năm, đối với điển tích Phật Giáo cũng như giáo nghĩa các bộ phái, Huyền Trang đều tinh thông. Thế nhưng càng biết nhiều, Ngài càng thấy mơ hồ. Có lúc cùng một bộ kinh, chư đại đức cao tăng lại giảng giải không như nhau, thêm vào các kinh văn dịch ra cũng không giống nhau, Huyền Trang tuần tự thỉnh giáo, nhưng không sao giải quyết được, những nghi vấn trong lòng. Do phiên dịch Phật kinh không chính xác? Hay do lý giải có sai lệch?. Vào giữa thế kỷ thứ nhất, Phật Giáo bắt đầu truyền vào Trung Quốc. Mấy trăm năm nay, có một 100 đến 1000 vị tăng sĩ các nước đặc biệt là Ấn Độ và Trung Á từ vạn dặm xa đến Trung Quốc truyền giáo, họ đã phiên dịch kinh Phật sang tiếng Hán sớm nhất. Điều khiến họ phấn khởi là Phật Giáo vừa truyền vào Đông Đé đã được sự hoan nghênh nồng nhiệt của người Trung Quốc. Trung Quốc có nền văn hoá và lịch sử lâu đời, có tín ngưỡng Nho và Lão riêng. Nh­ng Nho giáo cường điệu vấn đề trật tự xã hội. Còn Đạo giáo chuyên chú vào sự thống nhất giữa con người và vũ trụ, mục đích của nó là tìm cầu trường sinh bất lão trong hiện tại. Nho và lão không giải đáp được vấn đề mà con người muốn biết nhất: Con người sau khi chết đi về đâu?. Phật Giáo tin tưởng nhân quả báo ứng, người hành thiện tích đức nhất định được sinh vào thế giới an lành, điều này đã giải thích được nổi lo của con người đối với đời sau, đồng thời cũng đáp ứng được khát vọng của con người về tình thương yêu, chính nghĩa và bình đẳng. Tuy gặp nhiều khó khăn nhưng Phật Giáo cuối cùng cũng bắt đầu đâm chồi trên mảnh đất vốn có nền văn minh lâu đời, nay lớn mạnh và trở thành một bộ phận quan trọng nhất trong truyền thống tư tưởng văn hoá Trung Quốc. Để Phật Giáo càng thích nghi với tâm lý và văn hoá nước nhà, các vị tăng Trung Quốc từng tốp từng tốp phiên dịch chú giải kinh văn, sau đó tuỳ thời mà sáng lập ra các tông phái như : Thiên Thai Tông, Duy Phúc Tông, Tịnh Độ Tông, Thiền Tông, Mật Tông, Luật Tông, v.v…Thiên Thai Tông lấy tông chỉ của kinh Pháp Hoa là cơ sở, đi sâu vào nghiên cứu hoằng dương tư tưởng Đại Thừa Phật Giáo, cho rằng người người đều có Phật tánh, tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật. Căn cứ theo giáo nghĩa Thiên Thai Tông thì chân lý vũ trụ bao gồm trong kinh Pháp Hoa là Bộ Kinh Phật Đà thuyết sau cùng, đọc qua kinh này sẽ hiểu rõ được lý Phật. Thiền Tông thì lấy việc kiến tánh để thành Phật. Muốn kiến tánh phải dứt bặt muôn duyên đưa đến định tâm thì tánh chơn hiển lộ. Tịnh Độ lấy câu danh hiệu Phật mà trì niệm, cho được nhất tâm, thì vọng niệm sẽ dừng nghỉ, vọng niệm dừng nghỉ, tâm thanh tịnh hiển lộ , Tịnh Độ Tông còn tin vào thần lực của Phật A Di Đà cùng với sự tự lực của hành giả thì sẽ đạt đến mục tiêu giải thoát như sức thuyền chèo cộng với sức gió thì mau đến chỗ. Vả lại phương pháp niệm Phật là pháp phổ bị ba căn, ai cũng có thể thực hành được. Câu niệm Phật nó giống như sợi dây theo mũi con trâu ý thức, không rõ ý thức buông lung của ta chạy rông được, cho nên dễ hành trì ít đi xa lạc, gọn, dễ thành công. Tịnh Độ Tông đề xướng nhất tâm niệm danh hiệu Phật, cho rằng niệm Phật sẽ được Phật hộ niệm, sẽ được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc của Phật A Di Đà, Bồ Tát Quan Âm là trợ thủ đắc lực nhất của Phật A Di Đà. Thiên thủ thiên nhãn không có chỗ nào mà không có Ngài, không có người nào không được cứu, chỉ cần chuyên tâm niệm danh hiệu của Phật A Di Đà, tất sẽ được cứu vãng. Đối với người dân khổ nạn trầm luân, cõi Tịnh Độ Tây Phương là Phật A Di Đà là tuyệt vời nhất của họ. Những vấn đề căn bản của Phật tánh, các học ph¸i giải thích không thống nhất. Có phải mọi người đều có khả năng thành phật không ? .Huyền Trang nói với Ngài Huệ Lập “Nay cách thời Phật Tổ quá xa , đối với sự lý giải phật giáo có quá nhiều sai lệch, giáo nghĩa các học phái lại không tương đồng, không ngừng tranh luận thương thay”.

Ngài Huyền Trang ôm nặng mối nghi ngờ , quyết đi tìm các cao tăng cầu giáo. Nhưng người anh Trần Tiệp cho rằng , cuộc sống tại Ba Thục đã ổn định, hơn nữa cả hai anh em giảng kinh thuyết pháp có ảnh hưởng sâu rộng, được tôn xưng là “Đôi cánh họ Trần” nên không muốn bỏ công danh, tìm mọi cách khuyên ngăn em ở lại. Thế nhưng lòng đã quyết, vào lúc chạng vạng tối của ngày xuân năm 623 Huyền Trang rời bỏ anh, cùng một vài thương gia làm bạn, xuôi dòng Tam Hiệp từ Kinh Châu đÕn Dương Châu, từ Giang Nam đến Hà Bắc, du học khắp nơi, tầm sư hỏi đạo. Bất luận trị viên xa cách mấy, chỉ cần có cao tăng ngài lập tức đến bái.Trải qua 2 mùa đông, cuối cùng Ngài cũng đến được Trường An. Đến Trường An không bao lâu Ngài gặp được vị danh tăng tªn Bo Po từ Ấn Độ sang Đại Đường dịch kinh. Theo cao tăng truyện ghi chép Bo Po rất thông thạo kinh điển, am tường các học thuyết Phật Giáo, Huyền Trang lập tức đến cầu giáo. Sau khi giải đáp các nghi vấn của Huyền Trang. Ngài Bo Po giới thiệu chùa Na Lan Đà, nơi mình từng ở học cho vị tăng Trung Quốc hiếu học này nghe, đây là đại học Phật Giáo có ảnh hưởng rất lớn nhất tại Ấn Độ đương thời, Huyền Trang càng nghe càng kích động. Ngài sớm biết Phật Giáo giống như Đại Dương mênh mông, nhiều năm cần mẫn nghiên cứu, cầu giải nghi hoặc, chỉ như cảm giác nhỏ bé đứng trước biển cả. Lúc này trong lòng Ngài khởi niệm: phải đến tận thánh đÞa Phật Giáo để triều bái, vào Na Lan Đà để nghiên cứu Phật pháp, mới xác thực kinh phật H¸n dịch và lời phật dạy, đây là phương pháp tốt nhất tìm cầu chân đế, tu luyện giác ngộ. Ý đã quyết, Huyền Trang lập tức chuẩn bị, chư tăng người Ấn Độ trở thành người dạy tiếng Phạn cho Ngài. Các thương gia qua lại trên con đường tơ lụa cung cấp cho Ngài thông tin về các quốc gia họ đã đi qua, Ngài thường ra ngoài thành Trường An đi bộ, tập leo núi để luyện thân thể tráng kiện, đọc lại những điều ghi của các vị tăng Trung Quốc lần đầu sang Ấn Độ cầu pháp càng nung đúc tinh thần Ngài. Việc cuối cùng là chọn pháp lữ đồng hành. Ngài cho rằng đến thánh địa Phật quốc truyền bá là niềm mơ ước của mỗi người xuất gia, lo gì không có bạn?. Thế nhưng khi hỏi các vị  trong tu viện, hay chư tăng đến tạm trú, không một lời đáp ứng. Nguyên nhân là mùa hạ năm 626 trong lúc Vương triều Đại Đường mới thành lập chưa hoàn toàn ổn định, thì lại phát sinh biến cố Huyền Võ Môn chấn động triều đình.Tần Vương Lý Thế Dân mưu sát huynh đệ Lý Kiến Thành, Lý Nguyên Kiết bức vua cha Lý Uyên thoái vị, tự đang cơ xưng đế gọi là Lý Thái Tông. Năm 627, Đường Thái Tông đổi hiệu là Trinh Quán. Trong năm này Huyền Trang đã vài lần dâng sớ lên triều đình xin quan văn, đều không được phê chuẩn. Sau khi bãi chầu chư tăng khuyên Ngài gắng chờ, không chừng triều đình bãi bỏ lệnh cấm xuất quan. Thế nhưng lòng Ngài như lửa đốt, một ngày cũng không thể chờ. Được hay không được phê chuẩn của Hoàng Đế Ngài vẫn đi.

Nước Trung Hoa vừa ổn định chưa củng cố xong, triều đình sợ không dám giao dịch với các dân tộc lân cận như Đột Quyết, Hung Nô, hai nước này đã từng xâm lấn nước Trung Hoa, nên vua không cho Ngài xuất hành ra khỏi nước. Những người với Ngài đồng cầu không được bèn bỏ ý định, riêng Ngài ngày đêm học tập và cầu nguyện. Để nuôi chí xuất ngoại, Ngài bỏ ra công trong hai năm chuyên tâm học tập tiếng nói và văn tự các nước Tây vực và Ấn Độ. Ngài biết trước đường đi sẽ gian khổ muôn vàn khó khăn hiểm trở, Ngài tập chịu đựng gian khổ, thức khuya dậy sớm, bớt ăn, bớt ngủ, giải nắng dầm sương, làm tất cả mọi thứ khó nhọc khổ sở để thử xem lòng mình có chịu đựng được không. Tuy đã cảm nhận được sự kiên gan bền chí của mình, Ngài vẫn không quên cầu nguyện sự hỗ trợ lớn lao của Chư Phật và Bồ Tát. Đêm đêm Ngài quỳ trước bàn Phật, ngước nhìn tượng đức Như Lai, thành kính nguyện cầu, sự gia hộ cho cuộc Tây Du của mình được thành tựu. Một đêm vào năm 629, Ngài nằm mộng thấy núi Tu Di cao chót vót nổi lên giữa biển mênh mông. Ngài nhảy xuống biển, không ngại ngùng sóng to gió lớn, quyết tâm bơi cho tới chân ngọn núi. Bỗng một toà sen nổi lên dưới chân Ngài và đưa Ngài đến chân núi. Nhưng ngọn núi này quá hiểm trở, khó có thể leo lên được, Ngài chưa biết tính sao, thì bỗng có một nguồn gió lạ nổi dậy nâng ngài lên đỉnh núi. Một chân trời mênh mông hiện ra dưới chân Ngài, chung quanh khung cảnh bao la rực rỡ, bao nhiêu đất nước, xứ sở đều hiện rõ ra trước mắt làm Ngài sảng khoái vô cùng, Ngài sực thức dậy và càng thêm tin tưởng vào sự thành tựu  nguyện vọng mình. Từ đó Ngài càng quyết chí tin rằng thế nào cũng thành công, chính lòng quyết tâm đó giúp ngài thành công vượt qua mọi gian nan thử thách sau này.

Giấy tờ tấu xin triều đình xuất ngoại không được phê chuẩn, đợi mãi vẫn không thấy gì đáp lại, Ngài nhất quyết ra đi. Năm Trinh Quán thứ 3 đời Đường Thái Tông (629) miền phụ cận kinh đô Trường An lúc bấy giờ gặp phải nạn mưa đá, mất mùa, dân chúng đói khổ, nhà vua mới ra lệnh hạ chiếu cho dân chúng tản mác ra các miền phong phú mà mưu sống. Ngài thừa cơ hội đó, đi về phía Tây. Năm ấy Ngài đã 34 tuổi (có chỗ nói 28 tuổi).

 

Phần III. TRỐN RA NGOÀI BIÊN CƯƠNG

Nhân cơ hội triều đình cho dân chúng đi nơi khác làm ăn, Ngài theo nhóm người di cư tiến về phía Tây, mở đầu cuộc du hành từ đó. Vào lúc tuổi của Ngài 28 – đến năm 45 tuổi, Ngài mới trở về, xa quê hương 17 năm. Tuổi đó là tuổi hăng hái tin tưởng, bản tính ông nghiêm cẩn ôn hoà, được rất nhiều người mến trọng, da hơi sạm, mắt sáng, nét mặt uy nghiêm tươi sáng rực rỡ, giọng nói trong trẻo tao nhã rõ ràng thanh thoát du dương ai nghe cũng mê, nhìn Ngài người ta thấy sự dung hoà giữa đạo Phật và đạo Khổng, lòng thương người, từ bi đại độ của đạo Phật. Ở nơi Ngài, mọi cử chỉ mọi hành động nói năng thể hiện nếp sống đạo đức, lễ độ, vừa thương người, vừa cương quyết lại bình tĩnh thong thả như bông sen trên mặt nước.

Cuộc hành trình của Ngài chia làm 4 giai đoạn.1/ Từ Trường An đến Ngọc Môn Quan hết địa phận Trung Hoa. 2/ Từ Ngọc Môn Quan đến địa phận nước Ca Bi Ca là biên giới địa phận Ấn Độ, phải qua những nước nhỏ ở Trung bộ Á Châu. 3/ Giai đoạn ở Ấn Độ. 4/ Giai đoạn trên đường về. Lúc về do sự tình cờ, Ngài lại đi theo một con đường khác lúc đi, thành thử ghi chép thêm được nhiều nhận xét, những việc còn bí mật.

Lúc đi tại địa phận Trung Quốc từ Trường An Ngài đến Tân Châu, Lan Châu, Lương Châu là ngã ba của các con đường mòn đưa các đoàn thương buôn từ phương Tây hoặc từ Mông Cổ tiến vào Trung Hoa. Các thương nhơn đó gồm nhiều giống người, nhiều ngôn ngữ phong tục khác nhau, họp chợ trao đổi hàng hoá, tin tức với nhau, và chắc chắn cũng có thành phần để do thám cho nên canh phòng rất cẩn mật.

Ngài Huyền Trang rời Trường An với một nhà sư là Hiếu Đạt. Vị sư này quê ở Tần Châu, trở về làng sau một thời gian lưu học ở Trường An. Huyền Trang đến Tần Châu trọ lại một đêm, rồi theo người bạn khác đến Lan Châu. Đến đây Ngài cũng chỉ trọ lại một đêm. Sáng sớm nhân cớ người giữ ngựa của quan cai trị Lương Châu dắt ngựa về huyện, Ngài theo người này đến Lương Châu. Lương Châu là đô thị lớn đất Hà Tây, yếu địa quốc phòng miền tây của triều Đường. Quan đô đốc là Lý Đại Lượng trấn thủ vùng ấy vâng sắc lệnh nghiêm cấm nhân d©n đi về phía Tây. Huyền Trang ở lại Lương Châu đến 1 tháng nấn ná chờ đợi cơ hội mà chưa biết làm thế nào để trốn ra khỏi cửa thành. Một buổi sáng thừa cơ lính giữ cửa thành lơ đễnh, Ngài lẫn ra khỏi thành đi về phía Tây. Không rõ vì ai báo tin, sự trốn thoát của Huyền Trang bị Lý Đại Lượng biết được. Viên quan này có tên Đại Lượng nhưng lại không đại lượng chút nào, lập tức cho vệ binh đuổi theo bắt lại. May thay một pháp sư tên là Tuệ Uy nghe thấy Huyền Trang có chí lớn đi Tây Du cầu pháp rất lấy làm khâm phục, mật sai 2 đệ tử Tuệ Lâm và Đạo Chỉnh dẫn đường cho Ngài đi. Bấy giờ 3 người lẫn lút, ẩn nấp, ban đêm mới dám đi. Họ ngủ trong cỏ rác, nằm dưới sương lạnh, chịu đựng bao nhiêu khó nhọc mới lần hồi đi đến được Trường dịch, ra khỏi cửa Gia Cốc, rồi đến Qua Châu. Khi nghe tin Ngài đến, quan thứ sử Qua Châu là Độc Cô Đạt, một tín đồ Phật Giáo không làm khó khăn gì đối với Ngài. Ông ta cho Ngài biết con đường đi về phía Tây khó khăn như thế nào.Từ qua Châu đi về phía Bắc 50 dặm, có con sông Qua Lô phía dưới rộng, lòng sông sâu, nước chảy xiết không thể qua được, phía trên hẹp, nhưng lại có đồn trấn thủ đóng, gọi là đồn Ngọc Môn Quan. Muốn đi về phía Tây, tất phải qua đó. Ra khỏi Ngọc Môn Quan, lại phải đi qua 5 toà phong hoả đài, mỗi đài cách nhau vào khoảng 100 dặm, có quân đội canh giữ. Những đài này xây bằng đá, chỉ phụ cận đồn mới có nước và một ít cây cỏ, ngoài ra là những bãi cát mênh mông. Qua phong hoả đài thứ 5 là đến địa phận nước Y Ngô (nay là xứ Tân Cương).

Con ngựa của Ngài Huyền Trang không may bị chết, trong hai đồ đệ đi theo thì Đạo Chỉnh đã trở về Đôn Hoàng. Còn Tuệ Lâm thì tự nhận thấy không thể đi xa hơn được nữa, nay lại nghe quan thứ sử Qua Châu cho biết con đường khó khăn, trở ngại như thế, nên cũng thoái thác không đi nữa. Ngài Huyền Trang đã đau xót vô cùng. Thêm vào nổi đau ấy, tờ lệnh truy nã của Đô Đốc Lý Đại Lượng ở Lương Châu lại đến nơi. Tờ trác viết :”Nghe có thầy tăng là Huyền Trang muốn sang Tây Vực. Vậy sức cho Châu huyện các nơi phải nghiêm mật xét hỏi mà bắt giữ lại”. Có người thuộc ở Qua Châu là Lý Xương lén đem tờ trác ấy đến hỏi Ngài: “Thầy có phải là Huyền Trang không?”. Ngài lo ngại bất trắc chưa trả lời, thì Lý Xương nói tiếp: “Thầy phải nói thực, nếu mà nói đúng là thầy, đệ tử sẽ lo liệu”. Ngài đành phải nhận mình là Huyền Trang. Lý Xương lấy làm thán phục khen ngợi Ngài rối rít và nói :”Pháp sư đã có chí nguyện lớn lao, đi được như thế này thì tôi xin vì pháp sư xé bỏ tờ điệp này”. Nói xong Lý Xương xé ngay tờ điệp trước mặt Ngài và giục pháp sư lo liệu mà đi cho sớm. Nhưng Ngài Huyền Trang chưa đi ngay được vì con ngựa của Ngài đã chết, chưa mua lại được, và cũng chưa tìm ra được người dẫn đường. Một hôm Ngài đang đi đi lại lại, lòng bồn chồn lo nghĩ việc ra đi, thì có một tín đồ người giống Hồ tên là Thạch Bàn Đà đến xin làm đệ tử và tình nguyện hộ tống Ngài đi. Huyền Trang quá đỗi vui mừng, sắm áo quần cho Bàn Đà và mua 2 con ngựa thầy trò cùng đi. Bàn Đà được Huyền Trang nhận làm đệ từ thì mừng rỡ và cáo từ về nhà, chốc lát trở lại đem theo quà bánh dâng cóng Ngài. Thấy người đệ tö mới thân hình tráng kiện, cử chỉ cung kỉnh, Huyền Trang ngõ ý sắp đi cho người ấy biết và chuẩn bị hành lý cùng hẹn ngày lên đường. Ngày hôm sau chú tiểu Hồ ấy lại cùng một ông già người Hồ cưỡi một con ngựa hồng, già và gầy đến. Bàn Đà nói :” Ông già này thuộc đường đi Tây Vực lắm, kể ra đã đi lại nước Y Ngô trên 30 lần rồi. vậy nên đệ tử mời lão đến đây để hầu chuyện với thầy”. Ông lão lấy tình thật khuyên Huyền Trang đừng đi, ông nói :” Đường đi về phía Tây rất hiểm ác, bãi sa mạc ở nước Y Ngô dài 800 dặm, trên không chim bay, dưới không thú chạy, rủi cơn bão cát thì tính mạng không còn. Người ta kết đoàn kết lũ còn lo đi lạc, huống chi nhà sư một mình thì làm sao đi được, xin tự liệu trước chớ để hoài mất tánh mạng”. Ngài Huyền Trang trả lời :”Cảm ơn ông đã chỉ bảo, nhưng chí tôi đã quyết. Sang Tây Vực để cầu Phật Pháp, nếu không đến được đất Ấn Độ thì nhất định không trở về đây nữa. Giả sử chết ở giữa đường tôi cũng không ân hận”. Ông già thấy sự cương quyết của Huyền Trang, biết không thể lay chuyển được lòng Ngài nên đề nghị đổi con ngựa già của lão để cưỡi đi, “tuy nó già những khoẻ, dai sức và lanh lợi. Nó đi qua lại Y Ngô hơn 10 lần rồi nên nó thuộc đường lắm, con ngựa của nhà sư không kinh nghiệm, sợ đi không được”. Huyền Trang nghe theo đổi ngựa của mình cho ông lão. Ông già mừng rỡ kính chào rồi từ biệt.

Chiều hôm ấy hai thầy trò sửa soạn hành lý lên đường, đến tối thì ra đi. Đến canh ba Huyền Trang và Bàn Đà đi đến bờ sông Qua Lô. Trông xa xa đã thấy Ngọc Môn Quan. Ở thượng lưu, cách phía trên cửa quan độ 10 dặm, hai bờ sông hẹp lại chỉ độ một trượng, trên bờ có mấy cây ngô đồng thẳng vút. Hai thầy trò đến đấy, chặt cây làm cầu, trải cỏ rác lên trên để dắt ngựa qua. Người ngựa qua sông được bình yên. Huyền Trang khoan khoái mở yên ngựa và trải chiếu nằm nghỉ. Tiểu Hồ nằm cách Ngài độ 50 bước. Hừng hừng sáng, nó rút dao đi nhẹ nhẹ đến phía Huyền Trang . Còn cách độ 10 bước nó dừng rồi quay trở lui, nằm xuống ngủ lại. Huyền Trang nhận thấy nhưng làm ra vẻ thản nhiên không hay biết gì cả. Đến sáng Ngài thức nó dậy, bảo đi lấy nước súc miệng, rửa mặt để sửa soạn lên đường. Nó làm một cách miễn cưỡng. Lúc gần ra đi nó nói :” Đệ tử thấy đường đi còn xa mà hiểm nghèo lắm, lại không có nước cỏ gì cả. Nếu muốn có nước và cỏ thì phải đến gần các vọng canh đài lấy trộm. Nhưng nếu lính gác vọng canh đài mà biết được thì tánh mạng thầy trò chúng ta không còn, chi bằng trở về là yên ổn”. Huyền Trang nhất định không nghe. Bàn Đà nói:” Nếu thế thì đệ tử không đi theo được vì việc nhà còn bận nhiều, mà phép vua đệ tử cũng không dám xúc phạm”. Huyền Trang thuận cho Bàn Đà trở về Qua Châu một mình, nhưng nó trù trừ không chịu trở lui. Hồi lâu nó nói :”Sư phụ đi, nếu bị người ta bắt được mà cung xưng thất họ tên tôi ra, thì vợ con tôi và cả nhà tôi thế nào?”. Huyền Trang chỉ lên trời mà thề rằng: “Nếu chẳng may ta bị bắt, người ta băm vằm ta ra làm muôn mảnh, ta cũng nhất quyết không nói rõ họ tên ngươi ra, ngươi hãy yên tâm”. Được lời cam kết ấy, Bàn Đà mới yên tâm vỗ ngựa quay về.

Phần IV. QUA 5 PHONG HỎA ĐÀI VÀ SA MẠC GOBI

Từ đây, một mình một ngựa, Ngài Huyền Trang thui thủi bắt đầu đi vào sa mạc mênh mông, một biển cát rộng lớn không biết đâu là bờ mé, sóng cát nhấp nhô, lồi lỏm không có lối đi, chỉ lần theo những đống xương khô cùng phân ngựa, lạc đà mà tiến bước. Ngựa đi từng bước chậm chạp, khó khăn trong gió cát, từng hồi. Ngài thấy hiện ra trước mắt mình hàng trăm ngàn binh mã ở phía chân trời, khi thì tiến lên, khi thì dừng lại. Những binh lính ấy ăn mặc theo Qua Bích, lạc đà và ngựa trang bị lộng lẫy, giáo mác sáng loà. Trong chốc lát binh đội ấy biến đâu mất cả, rồi những hình tướng quái dị khác lại hiện lên, nhưng đến gần lại không thấy đâu nữa! Ngài Huyền Trang tưởng mình đang bị đạo quân của Ma Vương quấy rối. Nhưng không, đây chỉ là những ảo ảnh của sa mạc do hơi nóng gây ra. Trước những cảnh tượng ấy, Ngài không sợ hãi, tự bảo :”Chết ta chẳng sợ, còn sợ cái gì?”.

Đi được 80 dặm, Ngài trông xa xa thấy toà phong hoả đài thứ nhất hiện ra. Sợ đi giữa ban ngày lộ tung tích, Ngài ẩn núp ven một cái khe cát, đợi tối mới tiếp tục đi. Khi hoàng hôn xuống, Ngài đi lần đến bên phong hoả đài, thấy có một ao nước trong, Ngài xuống ngựa, cúi lấy cái túi bằng da định múc nước thì một mũi tên bay qua đầu, và tiếp theo một mũi tên khác gần trúng đầu gối. Nhận thấy hành tung mình bị bại lộ, Ngài kêu to: “Xin đừng bắn tôi, xin đừng bắn tôi, tôi là nhà sư ở Tràng An đến đây!”. Nói xong Ngài dắt ngựa đến bên cửa thành. Bọn lính mở cửa thành và dẫn Ngài vào hội kiến với quan Hiệu uý là Vương Tường.

Vương Tường cũng là một Phật tử, sau khi xét hỏi xong, biết được chí nguyện cao cả của Ngài, viên quan này rất lấy làm khâm phục. Nhưng nhận thấy đường đi khó khăn, Vương Tường có ý mời Ngài ở lại về trụ trì tại một ngôi chùa ở Đôn Hoàng là quê hương của mình. Ngài Huyền Trang phân trần : “Bần tăng đau lòng thấy kinh Phật thiếu sót, mỗi người hiểu một lối không biết đâu là đạo chân truyền, bần tăng nguyện qua Ấn Độ học đạo để về bổ sung cho sự thiếu sót ấy. Từ lâu bần tăng đã xót xa sự thiếu sót về kinh điển và sự kém khuyết của kinh điển Phật giáo nước nhà. Bần tăng đã nguyện hi sinh thân mạng, không quản ngại gian lao nguy hiểm để sang Ấn Độ thỉnh kinh mà Đức Bổn sư để lại. Đáng lẽ ngài phải khuyến khích bần tăng mới phải, có lý nào khuyên bần tăng trở lại nước nhà. Ngài bảo là ngài cũng chia sẻ với bần tăng lòng từ bi đối với chúng sanh đang lặn hụp trong bể sanh tử luân hồi và sẵn sàng giúp bần tăng tìm phương thuốc giải thoát cho nhân loại, thì sao ngài còn buộc bần tăng phải ở lại hay lui về Trường An? Nếu ngài nhất quyết không cho đi, thì bần tăng xin nhận hết hình phạt, chứ nhất quyết không lui một bước về phía Đông”. Vương Tường nghe Ngài nói đuối lý, vừa cảm động trước ý chí sắt đ¸ ấy. Giữ Ngài lại một đêm, đến sáng hôm sau, Vương Tường biếu nước uống lương khô và tiễn Ngài ra ngoài 10 dặm. Trước khi từ giã, Vương Tường còn căn dặn :” Pháp sư cứ theo đưêng tắt này thì sẽ đến toà phong hỏa đài thứ 4. Quan Hiệu uý giữ đài là Vương Bá Lung, là người nhà tôi, tâm địa lương thiện, pháp sư đến đó nói là tôi đưa đến, chắc Bá Lung sẽ giúp đỡ cho pháp sư”.

Sau khi từ giã Vương Tường, Huyền Trang ra đi. Đến chiều thì đến được phong hoả đài thứ 4. Sợ người giữ đồn làm khó cầm giữ lôi thôi, Ngài định lén lấy trộm nước rồi trốn đi. Trong khi đang lấy nước, một mũi tên ở đâu bay ngang qua đầu, Ngài đành kêu lên như lần trước, lính canh dẫn Ngài đến yết kiến quan Hiệu uý là Vương Bá Lung. Sau khi nghe Ngài kể tự sự, Vương Bá Lung biếu Ngài một túi da đựng đầy nước, lương khô, cỏ cho ngựa và dặn Ngài : “Quan Hiệu uý đồn thứ 5 tính khí hung bạo, khó lường được sự bất trắc. Vậy pháp sư nên tránh đồn thứ 5 đi đường khác, thẳng đến suối Dã Mã. Từ suối Dã Mã lại đi về phía Tây là Mục Hạ Duyên Tích. Đường này dài 800 dặm, tên là Sa Hà (Tức sa mạc Qua Bích)” hay là Gibi ngày nay. (800 dặm = 500 km)

Ngài Huyền Trang từ biệt Vương Bá Lung, đi vào trong biển cát, nhắm suối Dã Mã và Mạc Hạ Duyên Tích mà đi. Trừ Ngài và con ngựa, sự sống chết lịm ở nơi đây. Không một bóng chim, một ngọn cỏ, một giọt nước. Bão cát rơi xuống như mưa giông, đánh vào mình Ngài và ngựa nghe rào rào. Từng đám mây cát bay lại, mờ mờ, mịt mịt, che lấp cả chân trời. Ngài đi suốt ngày gần được 1 trăm dặm, nhưng không tìm được suối Dã Mã. Thì ra Ngài đã lạc đường ! Ngài mệt nhừ, xuống ngựa lấy nước ra uống. Nhưng túi nước của Vương Bá Lung tặng cho to nặng quá, mà Ngài thì đuối sức sau một ngày xông pha trong bão cát, nên tuột tay đánh đổ túi nước xuống cát. Thật là một tai hoạ lớn lao nhất của người đi qua sa mạc. Một giọt nước là một giọt máu. Ngài cảm thấy tất cả sinh lực, cuộc đời, bao nhiêu hi vọng đều bị cái khát khao của sa mạc hút mất trong nháy mắt theo với túi nước. Ngài buồn rầu lên ngựa quay lại, định bụng trở về phong hoả đài thứ 4 để lấy nước. Ngài theo hướng Đông đi được 10 dặm, bỗng Ngài hồi tâm : “Ta đã phát nguyện nếu không đến được Tây Trúc thì không lui về Đông một bước, nay sao ta lại quay lui? Thà đi sang phương Tây mà chết, còn hơn là quay về hướng Đông mà sống”.

Các nhà thám hiểm như Cô Lâm Bố khi gặp giông tố, gặp nguy hiểm nhưng bên cạnh họ còn có bầu bạn, tuy lênh đênh trên biển cả mênh mông cũng có người theo dõi, và mỗi khi đi đến đâu thì có người chào đón. Còn Huyền Trang thì thui thủi một mình trên sa mạc mênh mông. Ban ngày chỉ có ánh nắng gay gắt của mặt trời, ban đêm chỉ có ánh sáng mờ mờ của các vì sao, cảnh cô độc thật là ghê rợn mà kim cæ xưa nay chưa có ai bì kịp.

Lập tức Ngài quay ngựa về hướng Tây, Ngài đi như vậy suốt 4 đêm 5 ngày, 1 giọt nước cũng không có ở cổ họng. Ban đầu chỉ thấy môi lưỡi khô khan, sau cảm thấy toàn thân nóng rát, đến mắt cũng khô không mở ra được, con ngựa cũng cứng đờ, không bước nổi. Người ngựa nằm vật trên cát. Nhưng mặc dù đã kiệt lực, Ngài không ngớt niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngài khấn : “Lạy Đức Quán Thế Âm Bố Tát, trong chuyến đi này, con không vì giàu sang chức tước, con chỉ cầu pháp độ sanh. Ngài hãy thương xót con , như đã thương xót bao nhiêu quần sanh chìm đắm trong biển khổ, rủ lòng từ bi cứu vớt con khỏi bước cùng này”. Ngài cầu nguyện như thế cho đến 1/2 đêm thứ 5. Bỗng một trận gió mát tê người thổi đến, như một thùng nước lạnh dội lên toàn thân, Ngài dần dần hồi phục, mắt mở ra được, con ngựa cũng đứng lên được. Thấy dễ chịu trong mình, Ngài nằm thiu thiu ngủ, được một chốc bỗng Ngài mộng thấy một người cao lớn, dị thường, tay nắm cờ, tay nắm giáo đứng trước mặt Ngài nạt lớn : “Tại sao không mau mau tinh tấn lên mà còn nằm ngủ nữa?” Ngài vùng đứng dậy, hối hả lên đường, con ngựa gắng gượng đi được 5, 6 dặm, bỗng nó quay sang lối khác, chạy hăng lên, Ngài không làm sao cản được. Biết chắc con ngựa đã nhận ra đường cũ, Ngài cứ để cho nó đi. Một chốc, một khoảng cỏ xanh biếc hiện ra trước mắt, giữa đám cỏ có dòng nước ngọt trong vắt. Ngài mừng quá, vội nhảy từ ngựa xuống khe nước, người ngựa uống no nê, rồi nằm ngã trên cỏ suốt 1 ngày. Hôm sau Ngài đi tiếp, 2 ngày nữa mới ra khỏi sa mạc Hạ Duyên Tích và đến được địa giới nước Y Ngô. Như vậy Ngài đã nhận chịu sự khó khăn nhất mới vượt qua sa mạc đó mất hết 8 – 9 ngày.

Vào nước Y Ngô, Ngài Huyền Trang đến trọ ở một ngôi chùa. Có 3 vị sư người Trung Hoa. Ba vị ra đón tiếp Ngài, ôm nhau mà khóc, không ngờ tha phương mà còn gặp được người cố quốc. Ngài Huyền Trang cũng không cầm được lệ.

Phần V. MỐI TÌNH HUYNH ĐỆ 1000 NĂM CÒN THẮM THIẾT

Ngài Huyền Trang ở nước Y Ngô đưîc hơn 10 ngày, một hôm được tin sứ thần vua nước Cao Xương đến yêu cầu quốc vương Y Ngô mời Ngài sang nước ấy. Nước Cao Xương ở về phía Tây, nhưng cũng là dòng Hán, và theo Phật Giáo. Vua nước ấy là Khúc Văn Thái, một tín đồ nhiệt thành của Đạo Phật.

Ngài Huyền Trang trước kia định từ nước Y Ngô theo rừng phía Bắc Thiên Sơn đến thẳng Ấn Độ. Nhưng nay có lời thỉnh mời của vua nước Cao Xương nên buộc lòng phải rẽ sang nước ấy. Ngài theo sứ thần đi về hướng Tây Nam, lặn lội 6 ngày trong vùng sỏi đá, tới ngày thứ 6 thì đến địa giới Cao Xương, vào thành Bạch Lực. Vua cùng các quan thị vệ đốt đuốc trước sau, tự ra khỏi cung, long trọng đón rước Ngài vào hậu cung, mời Ngài ngồi trong bảo trướng tầng lầu trong. Quốc Vương nói : “Sư phụ một mình một bóng, lặn lội qua sa mạc, là sự rất lạ lùng. Đệ tử đã từng gặp nhiều vị danh tăng mà đệ tử không hâm mộ vị nào cả. Chỉ từ khi nghe được đại danh pháp sư, vui mừng quên cả ăn ngủ. Đệ tử tính hành trình biết rằng hôm nay pháp sư có thể đến được, cho nên cả vợ con chưa dám ăn ngủ, chỉ ngồi xem sách để đợi pháp sư đến nghe kinh”. Một lúc sau, Vương phi và cung nữ trên mấy chục người đến bái chào. Khúc Văn Thái ngồi chuyện vãn với Ngài đến gần sáng. Ngài mệt nhừ, đến gần sáng mới đi nằm được một lát. Sáng hôm sau, trong lúc Ngài Huyền Trang nằm chưa dậy được, Khúc Văn Thái đã đến tận bảo trướng hỏi thăm sức khoẻ và nói :

– Đệ tử kính mến sư phụ, giận trọn đời không được cung phụng, mong rằng sư phụ đừng nghĩ gì đến việc Tây Du nữa, hoan hỷ ở lại nơi đây để cho dân nước đệ tử đều được chịu sự giáo hoá của sư phụ.

– Tâu Đại Vương, bần tăng ra đi chuyến này không phải để nhận lãnh phú quý vinh hoa. Bần tăng đã bao năm khổ tâm, vì tại nước nhà, nghĩa lý Phật Pháp đang còn hoang mang, kinh điển còn nhiều thiếu sót, nên mới phát nguyện Tây Du để nghiên tầm kinh điển, không quản ngại đường sá gian lao có thể tổn hại đến tính mạng. Bần tăng mong rằng rồi đây mưa pháp sẽ thấm nhuần không phải chỉ ở Ấn Độ mà toàn cõi Trung Quốc bao la. Vì thế, xin Đại Vương đừng bắt bần tăng phải bỏ dở cuộc hành trình. Bần tăng rất lấy làm cảm kích về sự tiếp đãi ân cần của Đại Vương, nhưng không thể nghĩ chuyện ở lại đây được. Xin Đại Vương hiểu thấu cho.

Nhưng vua Cao Xương vẫn không từ bỏ ý định, nói một cách cương quyết:

– Đệ tử một lòng quy kỉnh sư phụ, tha thiết mong mỏi sư phụ ở lại đây để đệ tử được may mắn sớm hôm hầu hạ. Lòng đệ tử đã quyết thì mặc dù núi Tu Di có dời đổi, ý nguyện của đệ tử cũng không đổi thay.

Ngài Huyền Trang vẫn một mực từ chối. Vua Cao Xương bây giờ đổi sắc mặt, đứng dậy vung tay áo:

– Đệ tử đã hết lời cầu khẩn mà pháp sư vẫn không nghe. Vậy đệ tử có cách khác đối xử với pháp sư. Pháp sư không thể đi được, hoặc pháp sư lưu lại đây, hoặc đệ tử đưa pháp sư trở về nước, xin pháp sư hãy lựa một trong hai điều.

Nói xong, Khúc Văn Thái bỏ đi ra. Huyền Trang thở dài, nức nở không thể nói ra lời. Từ đó Khúc Văn Thái lại tăng thêm đồ cúng dường, săn sóc Ngài rất chu đáo, cung cấp từ ăn uống, áo quần, đồ dùng không thiếu một thứ gì. Mỗi ngày đến bữa ăn, Khúc Văn Thái tự mình bưng mâm dâng lên chấp tay đứng hầu bên cạnh. Huyền Trang không thể không cảm kích trước lòng chân thành của Khúc Văn Thái, nhưng nhận thấy nếu cứ như thế này mãi  thì khó đi đến Ấn Độ được. Một hôm ngài nói với Khúc Văn Thái: “Bần tăng lặn lội xa xôi, cốt là cầu lấy kinh phật, hiện giờ bị Đại Vương ngăn giữ. Đại Vương chỉ giữ được hài cốt của bần tăng thôi, chứ tinh thần, ý chí của bần tăng thì Đại Vương không giữ được”. Từ đấy, Ngài thề nhịn đói, không ăn không uống nữa để cảm động lòng vua. Ngài xếp b»ng ngồi yên, ba ngày không có một hạt cơm, một giọt nước vào miệng. Hơi thở Ngài yếu dần, thân hình ngày không còn ngồi thẳng được, xem chừng nguy kịch. Đến ngày thứ tư, Khúc Văn Thái sinh lòng lo lắng và hối hận, cúi đầu lạy và nói rằng: Thôi đệ tử xin tạ tội với pháp sư. Đệ tử không dám cầm giữ nữa. Pháp sư muốn sang Tây Trúc thì cứ sang, nhưng xin hãy xơi cơm cho. Đệ tử chỉ xin pháp sư hai điều, một là giảng cho một tháng kinh Nhân Vương Bát Nhã, hai là được cùng pháp sư kết nghĩa anh em. Ngài Huyền Trang sợ Khúc Văn Thái không giữ lời, mới yêu cầu vua thề trước bàn Phật. Khúc Văn Thái ngoan ngoãn làm theo và Ngài Huyền Trang lại ăn uống như cũ. Theo lời yêu cầu của vua Ngài ở lại thêm một tháng để giảng kinh Nhân Vương Bát Nhã. Khúc Văn Thái truyền dựng một cái lều có thể chứa được 300 thính giả. Vua, Hoàng Hậu các trưởng lão Hoà thượng đình thần đều đến nghe giảng một cách kinh cẩn. Mỗi ngày, đến giờ giảng, vua thân hành bưng một lư hương, đến thỉnh Ngài và rước Ngài đến diễn đàn. Đến rồi, vua quỳ xuống đỡ chân Ngài lên ngồi vào pháp toà. Trước khi Ngài lên đường, Khúc Văn Thái sắm sửa các thứ cần dùng cho Ngài không thiếu một thứ gì, và có thể dùng đi xa trong khoảng 20 năm. Vua truyền cho bốn vị sa di và 25 thủ hạ lực lưỡng theo hầu Ngài. Chế 30 bộ áo rét, bao tay, nịt chân, khăn trùm, lại biếu Ngài 100 lượng vàng, 30.000 ngân tiền, 500 tấm lãnh và 30 con ngựa. Nhưng điều quý nhất cho Ngài trong chuyến đi này là 24 bức thư cho 24 quốc Vương mà Ngài sắp đi qua để yêu cầu họ giúp đỡ Ngài. Mỗi một bức thư lại kèm theo một tấm lãnh để làm tín. Riêng đối với vua Đột Quyết là một nước mạnh nhất trong miền Trung Á, vua phái một viên tướng đưa Ngài sang và cùng với 500 tấm lụa và lãnh, hai xe các thứ hoa quả cùng đồ quý giá với một bức thư giới thiệu Ngài Huyền Trang và vua nước ấy là Diệp Hộ. Trong thư vua giới thiệu Ngài Huyền Trang là em của vua, đi cầu pháp ở bên nước Bà La Môn, xin vua rộng thương pháp sư cũng như tôi, và xin vua sắc cho các nước phương Tây cấp cho pháp sư ngựa ô lạc (ngựa trạm) để đưa ra khỏi bờ cõi.

Cả triều, cả tăng lữ đưa Ngài ra khỏi cửa thành Tây. Huyền Trang cảm tấm lòng thành của nhà vua hứa trên đường về sẽ ghé thăm ở lại, rồi bùi ngùi ngài lên ngựa. Lúc sắp lên ngựa, vua nắm chặt tay Ngài và khóc to, mọi người đều không cầm được giọt lệ. Nhưng dù cảm tình có sâu đậm bao nhiêu cũng không thể bịn rịn mãi được. Ngài quay lưng ra đi, Khúc Văn Thái đứng nhìn theo cho đến khi cát bụi và nước mắt làm mờ hẳn hình bóng Ngài trên đường, mới sụt sùi trở về cung. Lúc chia tay Ngài Huyền Trang hứa lúc về sẽ ghé thăm, nhưng sau này Ngài không giữ được lời hứa, vì lúc đó bộ lạc Khúc Văn Thái đã bị diệt vong bởi Đường Thái Tông. Bắt đầu từ đây danh tiếng của Ngài được mọi người biết đến, cuộc hành trình của Ngài được dễ dàng hơn trước nhiều, được mọi người đón đưa long trọng. Khúc Văn Thái đã có công lớn trong cuộc thỉnh kinh của Ngài. Ngài Huyền Trang khi ra đi là một kẻ phạm pháp của triều đình, đêm ngày trốn tránh như một tên tù vượt ngục. Từ đây, do lòng kiên quyết của mình và lòng thành của vua Cao Xương, nghiểm nhiên Ngài trở thành một quốc khách của các nước Trung Á và được họ giúp đỡ đưa đến tận biên giới xứ Ấn Độ.

Phần VII. QUA 24 NƯỚC TRUNG Á VÀ VƯỢT QUA TUYẾT SƠN

Từ Cao Xương, Ngài Huyền Trang đi về phía Tây, sang nước A Ky Ni (Nay là huyện Yên Kỳ, xứ Tân Cương). Nước Cao Xương và A Ky Ni là hai nước láng giềng, nhưng đường đi rất nguy hiểm, vì có nhiều bọn cướp hoành hành. Giữa đường Ngài nhận thấy có nhiều thi hài của bọn lái buôn giàu có, vì muốn vượt đi trước đồng hành của mình để bán cho được giá, nên đã bị bọn cướp giết. Chính Ngài cũng bị một toán cướp đón đường mãi lộ.

Khi đến kinh đô A Ky Ni, vua nước ấy cũng là một tín đồ nhiệt thành, đem cả đình thần ra nghinh đón Ngài và mời vào cung. Vua truyền cung cấp cho Ngài những thứ cần thiết để đi đường và tiếp đãi Ngài rất chu đáo. Nhưng vua chỉ hậu đãi một mình Ngài mà thôi, còn những người nước cao Xương đi hộ tống đều không được tá túc và cũng không được cung cấp ngựa trạm, vì giữa 2 nước này thường hay có những vụ xung đột về biên giới. Ngài Huyền Trang chỉ nghỉ tại đây một đêm, và sáng hôm sau lên đường tiếp tục cuộc hành trình.

Ngài vượt qua con sông lớn Gia Hà, vòng quanh chân núi Ngân Sơn, và vào nước Khuất Chi (hay Nhục Chi hoặc Quy Tư). Khuất Chi là một nước phồn thịnh, có một nền văn hoá tiến bộ. Dân nước này theo Tiểu Thừa Phật Giáo. Chính ở đây 2 thế kỷ trước đã xuất hiện một vị Tổ sư danh tiếng là Ngài C­u Ma La Thập. Thân phụ Ngài là người Ấn Độ, thân nẫu Ngài là bà công chúa của nước Khuất Chi. Khi còn nhỏ Ngài sang học đạo ở Ấn Độ, đến 20 tuổi Ngài trở về Khuất Chi. Một đạo quân viễn chinh của Trung Hoa sang xâm chiếm nước này và bắt Ngài về Trung Hoa. Ở đây Ngài truyền giáo Đại Thừa và phiên dịch kinh điển từ chữ Phạn ra chữ Hán.

Ngài Huyền Trang đến đây không khỏi thành kính gợi lại kỷ niệm của vị Tổ sư đã cùng một chí nguyện như mình đã du nhập và phiên dịch kinh điển từ Ấn Độ sang Trung Hoa. Vua nước này cũng là một tín đồ Phật Giáo theo phái Tiểu Thừa. Nghe tin Ngài đến, vua cùng đình thần và tăng lữ trong xứ ra nghinh tiếp rất trọng thể. Khi đám rước vào thành, một vị tăng già dâng cho Ngài một liễn hoa tươi để Ngài rải trước tượng Phật và làm lễ bái yết. Ở đây Ngài gặp sự bất đồng ý kiến về giáo lý giữa ngài và vị trưởng lão hoà thượng rất có danh tiếng là Ngài Mộc Xoa Cúc Đa. Vị danh sư này theo phái Tiểu Thừa, đã du học ở Ấn Độ 20 năm, hiện là quốc sư của vua nước Khuất Chi. Ngài Huyền Trang ở lại nước Khuất Chi 60 ngày vì tuyết đang còn bao phủ núi Thống Lĩnh chưa thể đi được. Nhân lúc lưu lại 2 tháng, Ngài có dịp ghi chép những phong tục tập quán và những nhận xét về văn minh ở đây, lưu lại những tài liệu rất quý cho các nhà khảo cổ sau này. Vương quốc đó rộng khoảng 1000 dặm, từ Đông qua tây, và từ Nam tới Bắc 600 dặm. Chu vi kinh đô đo được 17- 18 dặm, đất trồng lúa mạch kê đỏ, nho làm rượu, dân thuần lương, văn tự phỏng theo của Ấn Độ, âm nhạc tiến xa hơn nước láng giềng nhiều. Vị trí nằm trên đường tơ lụa từ La Mã đến Trung Hoa nên phố xá buôn bán rất thịnh, hàng phú gia bằng những hàng gấm vóc rực rỡ.

Tuy rằng không đồng ý với nhau về giáo lý Tiểu Thừa, nhưng trong thời gian lưu lại này, 2 vị thường lui tới đàm đạo giáo lý với nhau. Nhờ sự gặp gỡ đó Ngài biết thêm nhiều về Đạo Phật và ở Ấn Độ. Đôi khi đàm luận, có lần biện luận gay gắt xảy ra. Ngài Mộc Xoa Cúc Đa cho rằng giáo lý Tiểu Thừa mới chính thức do Phật Thích Ca nói ra. Còn giáo lý Đại Thừa là thứ nguỵ tạo. Nếu là chơn chính đệ tử Phật thì không nên đọc và học. Với sự uyên bác thấm sâu giáo lý Đại Thừa và sự hùng biện của Ngài Huyền Trang, cuối cùng Mộc Xoa Cúc Đa cũng nhìn nhận ra rằng vì hòa thượng Trung Quốc này học thức cao rộng khó có người đối đáp nổi. Sợ rằng ở Ấn Độ vị tất đã có vị học giả nào uyên bác sánh kịp.

Khi tuyết bắt đầu tan Ngài tiếp tục cuộc hành trình. Lúc từ giả Khuất Chi, vua nước này cấp cho Ngài những bộ hạ theo hầu, lạc đà, ngựa, cả một lữ đoàn, và cùng tăng lữ và tín đồ tiễn Ngài ra xa ngoài kinh thành. Ngài Huyền Trang từ Khuất Chi đi về phía Tây 60 dặm, qua một sa mạc nhỏ, đến nước Bộc Lộc Già và A Khắc Tố thuộc Tân Cương. Ngài trọ ở đây 1 đêm rồi đi tiếp về phía Tây, đến núi Tăng Sơn thuộc Thông Lĩnh (Thiên Sơn). Đường đi qua núi này rất cheo leo, nguy hiểm. Núi cao như chọc trời, quanh năm đều có tuyết phủ, băng tuyết trùng điệp chạy dài đến tận chân trời và lẫn với mây. Có nhiều phiến đá khổng lồ chận cả lối đi, muốn vượt qua, thật là nguy hiểm. Suốt ngày chỉ nghe tiếng gió reo, và tuyết theo gió, đổ xuống từng trận. Giá rét căm căm mặc bao nhiêu lớp áo cừu vẫn thấy lạnh buốt đến xương tuỷ. Lữ hành phải dò từng bước một, khi thì bám sát vào vách đá cheo leo, khi thì đu cả người từ mỏm đá này sang mỏm đá khác. Không có một chỗ nào khô ráo, muốn nấu ăn thì phải treo nồi lủng lẳng giữa hư không, muốn nằm ngủ thì phải trải chiếu trên băng tuyết. Đoàn lữ hành của Ngài phải đi trong 7 ngày 7 đêm mới ra khỏi dãy núi ấy. Đoàn người đi hộ tống Ngài, có kẻ không chịu nổi khổ sở, nửa đường đã bỏ trốn về, có người chết rét ở giữa núi, lừa và ngựa lại càng chết nhiều hơn. Kiểm điểm lại chỉ còn mấy người theo Ngài. Đoàn Ngài Huyền Trang qua núi Thống Lãnh này cao 7000 m, trong núi Thiên Sơn. Ngài tả dãy núi này rất kỹ, nó rất nguy hiểm, ngọn núi cao đụng trời, từ khai sơn lập địa tuyết phủ quanh năm không tan, băng trải thành từng lớp rực rỡ tới tận chân trời lẫn với mây, nhìn chói mắt, leo trèo thật khó khăn nguy hiểm, lại thêm lúc nào cũng có cơn giông tuyết, thành thử dưới giày có 2 lớp da mặt đủ áo bằng lông cừu cũng vẫn run cầm cập, muốn ăn hoặc ngủ không có chỗ nào khô để chân, chỉ có cách treo nồi chỗ nào đó để nấu ăn. Vì thế đoàn leo núi của Ngài chết hơn chục người, vì đói lạnh, chỉ còn lại lơ thơ ít người.

Ra khỏi dãy núi Thiên Sơn, Ngài theo dòng sông Cáp Lạp Thập, vượt qua núi Khánh Lạt Côn Luân đến một cái hồ lớn gọi là Nhiệt Hải thuộc tiểu bang nước Liên Xô. Hồ này được gọi tên như thế vì tương đối ít lạnh hơn các vùng lân cận và không bao giờ có băng giá. Hồ rộng, chu vi có trên 1000 dặm, xung quanh bao bọc toàn núi, có nhiều sông suối đổ vào. Nước mặn và có màu xanh đen. Nước chảy xoáy và luôn rạt rào sóng cả. Ngài Huyền Trang đi theo bờ hồ về phía Tây Bắc độ 500 dặm, đến thành Tô Diệp (thuộc một tiểu bang của Liên Xô), Ngài gặp Đại Vương của nước Đột Quyết là Diệp Hộ đang đi săn ở đấy. Diệp Hộ là một đại vương có rất nhiều uy quyền và nhiều chư hầu trong vùng Trung Á này. Chính Khúc Văn Thái đã ân cần dâng thư giới thiệu Ngài Huyền Trang với Diệp Hộ.

Khi Ngài Huyền Trang đến thì gặp Diệp Hộ đang cùng triều thần cỡi ngựa đi săn về. Vị vua này đầu quấn khăn lụa, để thông hai dải dài ra sau, mặc áo choàng bằng sa tanh xanh, oai phong lẫm liệt ngồi trên ngựa, quanh mình có trên 200 dũng tướng theo hầu. Những người này để tóc búi, mặc áo choàng bằng gấm. Theo sau là quân lính cưỡi ngựa, hoặc lạc đà, mặc áo bằng lông thú, mang giáo mác, cung tên, đi thành đoàn dài. Diệp Hộ sau khi được thư giới thiệu của Khúc Văn Thái, mời Ngài Huyền trang về doanh trại của mình ở Tô Điệp. Vua ở trong một cái lều bằng nỉ rất lớn có kết hoa bằng vàng. Vua ngồi ở giữa và trong cùng, trước mặt là 2 hàng dũng tướng, ngồi xếp bằng trên những chiếc chiếu, sau lưng các vị tướng này là 2 hàng ngự lâm quân, khí giới sáng loà, nghiêm chỉnh đứng hầu. Vua thiết tiệc khoản đãi Ngài Huyền Trang và các sứ giả của vua Cao Xương. Chỉ riêng Ngài Huyền Trang được ngồi trên một chiếc ghế bành có tay dựa, còn những sứ giả khác thì ngồi chung với các tướng lĩnh. Rượu và những khúc thịt cừu và bê thui được đặt chồng chất trước mặt các tân khách. Riêng Ngài Huyền Trang thì vua truyền dọn những thức chay như bánh ngọt bột gạo, sữa, đường mật ong, nho. Trong lúc ăn có ca nhạc. Sau buổi tiệc, vua kính cẩn thỉnh Ngài Huyền Trang giảng cho một thời Phật Pháp. Ngài giảng về thuyết từ bi và những phương pháp tu hành để được giải thoát và giác ngộ. Nghe xong, vua đứng dậy đảnh lễ Ngài và với vẻ mặt hoan hỷ, cam kết xin thọ lãnh những lời Ngài dạy. Nhưng cũng như vua Khúc Văn Thái nước Cao Xương, vua Diệp Hộ cũng yêu cầu Ngài đừng tiếp tục cuộc hành trình sang Tây trúc nữa. Ông nói :

– Bạch pháp sư, đệ tử khuyên Ngài đừng sang Tây Trúc nữa. Xứ ấy mùa Đông cũng như mùa hạ khí hậu quá nóng bức. Đệ tử sợ rằng pháp sư đến đấy thì mặt mũi Ngài sẽ tan ra thành nước mất. Dân cư ở đấy đen đíu và phần nhiều trần truồng như nhộng, không biết lễ nghĩa là gì. Thật không đáng để cho Ngài phải mệt sức đi đến xứ ấy.

Ngài Huyền Trang trả lời một cách nhẹ nhàng  :

– Tâu Đại Vương, bần tăng chỉ muốn sang đấy để mưu tầm giáo lý và thỉnh kinh Phật chứ không có mục đích gì khác. Bần tăng nóng lòng muốn đi tìm dấu vét của đức Bổn Sư, xin Đại Vương hãy cho bần tăng được như nguyện.

Vua Diệp Hộ không cản trở nữa, và sai quan biên thư gửi gắm Ngài với các nước chư hầu mà Ngài sắp đi qua, và cho người thông ngôn đi theo Ngài nữa. Ngài Huyền Trang từ tạ vua Diệp Hộ ra đi. Không thể ngờ lần ấy là lần vĩnh biệt. Vì mấy tháng sau, vua Diệp Hộ bị mưu sát và nước Đột Quyết hùng mạnh bị phân chia thành nhiều mảnh.

Từ giã nước Đột Quyết, Ngài đi tiếp sang phía Tây, đến Thiên Toàn là một xứ phì nhiêu, ba mặt đều là đồng bằng, phía Nam giáp núi tuyết. Ở đây có đến nghìn suối nước nên gọi là Thiên Toàn. Khí hậu điều hoà.

Ngài đi tiếp đến nước Chữ Thì, thuộc nước cộng hoà Cát Nhĩ Cát Tư (Liên Xô bây giờ). Dân nước này khi theo đạo Phật, khi theo đạo thờ lửa. Lúc Ngài mới vào nước này, một số dân chúng nắm những thanh củi đỏ đuổi theo Ngài. Vua cũng tiếp Ngài một cách lạnh nhạt. Nhưng ngày hôm sau, Ngài Huyền Trang xin phép giảng một thời kinh, và sau khi nghe, vua bỗng đổi thái độ, tỏ ra rất niềm nở đối với Ngài và truyền bắt những kẻ đã nắm lửa đuổi theo Ngài hôm trước đem ra chặt tay chặt chân. Nhưng Ngài Huyền Trang động lòng từ bi, xin vua giảm tội, bằng cách đánh mỗi người mấy trượng thôi. Sau vụ trừng phạt ấy, dân chúng đủ các hạng, vừa sợ vừa cảm phục lòng đại độ của Ngài Huyền Trang, đến xin quy y với Ngài rất nhiều. Ngài liền triệu tập một hội nghị các tăng già. sắp đặt lại ngôi thứ trong giáo hội và chấn chỉnh lại những ngôi chùa đã bị ngoại đạo xâm chiếm.

Từ giã nước này, Ngài đi về phía Nam, trên 300 dặm đường núi non hiểm trở. Dọc đường không thấy có nước và cây cỏ. Từ đây con đường mỗi lúc một tăng thêm khó khăn, nguy hiểm, vì là sắp gần đến dãy núi đồ sộ và cao nhất thế giới là Hy Mã Lạp Sơn. Trước tiên, Ngài phải vượt nốt các đoạn đường khó khăn của dãy núi Ba Đạt Khắc là Đèo Thiết Môn. Hai bên là vách đá thẳng vút, cao đến nghìn trượng, giữa chỉ có một lối đi nhỏ hẹp quanh co hiểm hóc. Nếu vô ý trật chân có thể rơi xuống hố sâu và thân hình nát như cám. Sắt đá đen xanh như sắt, ở lối đi vào hang núi có một cái cửa có hai cánh bằng sắt, ở phía trên cửa có treo nhiều chuông nhỏ. Ra khỏi núi này, là đến nước Thổ Hoa La (địa giới nước A Phú Hản ngày nay). Đáng lẽ đi thẳng về phía Nam để sang Ấn Độ. Ngài rẽ về phía nước Tất Già Thì (thuộc xứ Batrane, nước A- Phú – Hản) Ngài muốn đến thăm vị vua nước này, là con ruột của vua Diệp Hộ nước Đột Quyết và là con rễ của vua Khúc Văn Thái, nước Cao Xương. Ngài đem tin tức và thư từ của hai vị vua này đến cho tiểu vương Tất Già Thì. Nhưng khi Ngài đến đây thì nội biến trong Hoàng cung đang xẩy ra. Nguyên là vợ của vua này tức con gái của vua Cao Xương, vừa mất thì vị tiểu vương này liền lấy một người vợ kế. Bà sau này trước kia là tình nhân  của vị hoàng tử con bà vợ trước, vì thế bà sau này có âm mưu giết vua và đặt hoàng tử, tình nhân của mình lên ngôi. Vị tiểu vương mới này cũng rất hậu đãi Ngài Huyền Trang, vua mời Ngài đi đến thành tiểu vương xá là một nơi có nhiều di tích Phật Giáo. Thành này bây giờ đã hoang phế điêu tàn. Nhưng trong thời gian ngài Huyền Trang đi qua, thì đây là một thành phố phồn thịnh có trên 100 Tịnh Xá, chứa gần 3.000 tăng thuộc phái Tiểu Thừa. Trong các chùa có rất nhiều di tích của đức Phật Thích Ca. Trong số các vị sư ở đây có rất nhiều vị rất tinh thông giáo lý Tiểu Thừa. Chính ở tại đây, Ngài Huyền Trang đã học hỏi rất nhiều về những bộ kinh chính yếu của giáo phái này.

Ở đây, Ngài gặp được một vị sư trẻ tuổi và thông thái là Tuệ Tĩnh người nước Thổ Hoà La. Vị này tôn Ngài làm sư phụ và tình nguyện cùng đi theo Ngài sang Ấn Độ. Đây cũng là điều may mắn cho Ngài, vì Ngài sắp vượt qua Hy Mã Lạp Sơn mà những người theo hộ tống Ngài từ nước Đột Quyết thì đã quay về hết rồi.

Hai thầy trò đi về phía Đông Nam, trèo lên dãy Tuyết Sơn . Con đường núi này thật muôn vàn hiểm trở hơn tất cả những đoạn đã đi qua. Núi luôn luôn có tuyết phủ, vì thế nên người Trung Hoa gọi là Tuyết Sơn. Sương tuyết phủ mờ tất cả, người ta có cảm tưởng đi trong trăng mờ, thỉnh thoảng may ra mới có được một khoảng bằng phẳng độ 4, 5 thước vuông. Núi lởm chởm nằm ngang lưng trời, mất hút trong mây, lạnh thấm đến cốt tuỷ. Hai người đi như thế trên 2.000 dặm, chịu đựng biết bao gian khổ mới đến được Ba Mi Đăng, là một xứ nằm cheo leo trên đỉnh núi, giữa con đường đi qua Hy M· Lạp Sơn. Xứ này cũng theo Phật Giáo  Tiểu Thừa, có độ 10 ngôi chùa và mấy ngàn Tăng đồ.

Đến đây, Tuệ Tĩnh người đệ tử mới của Ngài bị vua nước Thổ Hoà La cho người đến thỉnh về. Tuệ Tĩnh đành phải luyến tiếc từ giã Ngài trở lui.

Từ đây, Ngài chỉ một mình tiếp tục cuộc hành trình qua núi tuyết, đi 600 dặm về phía Đông Nam, có một lần Ngài bị lạc trong núi, may nhờ có những người đi săn đưa Ngài ra đường chính. Sau khi vượt qua Tuyết Sơn, Ngài bắt đầu đặt chân lên Hắc Lĩnh, tøc là những ngọn núi về phía Nam Hy Mã Lạp Sơn sát biên giới Bắc Ấn Độ. Sau khi vượt qua Hắc Lĩnh, Ngài đặt chân vào địa đầu biên giới Bắc Ấn Độ.

Kể từ nước Cao Xương đến Đây, Ngài Huyền Trang đã đi qua 24 nước lớn nhỏ ở Trung Á giữa hai biên giới Trung Hoa và Ấn Độ, và đã vượt qua dãy núi cao nhất thế giới là Hy Mã Lạp Sơn.

Phần VII. VIẾNG BẮC ẤN ĐỘ

Đặt chân vào Ấn Độ, Ngài đi ngang qua 2 Tiểu quốc là Ca Bi Ca và Lăm Ba. Là những nước thuộc Tiểu Thừa Phật Giáo. Sau khi ở đấy vài tháng để nghiên cứu kinh điển Tiểu Thừa, Ngài đến một nước rất hùng cường trong 5 xứ Ấn Độ thời xưa là Kiền Đà La. Nước này trong quá khứ đã có những vị vua anh hùng cái thế và rất sùng mộ ®ạo Phật như vua Di Lan Đà (Ni lan da), Già Nhị Sắc Già (Ka nish ka).

Nước này cũng là quê hương của những vị luận sư xuất chúng, hay những Tổ Sư đã sáng lập các Tông Phái như Ngài Na – Tín-Tỳ Kheo, Pháp Cữu, Như Ý, Hiếp Tôn Giả.

Trước khi đến nước này, Ngài nghe nói có một cái hang mà bóng đức Phật Thích Ca thường hay xuất hiện nên Ngài định đến chiêm ngưỡng. Hang này, theo người ta kể lại là nơi đức Phật đã hàng phục con Long thần Go Pa La và còn để lại hình bóng Ngài. Nhưng con đường đến hang ấy rất hoang vu và có nhiều trộm cướp hoành hành. Từ bấy năm rồi không còn ai dám đến đấy nữa. Những người đồng hành với Ngài đều khuyên Ngài không nên ghé đến. Ngài trả lời: – “Trong mấy ngàn A Tăng kỳ kiếp, chưa chắc đã có một lần thấy được hình ảnh của Phật. Tôi đã đến đây, làm sao không thể đến chiêm ngưỡng được?. Các Ngài cứ đi trước đi, tôi ghé đây chút rồi đi sau.”

Nói xong, Ngài một mình rẽ đi về phía hang bóng phật. Khi Ngài đến một ngôi chùa gần đấy, không ai dám dẫn Ngài đi, Ngài đành đi một mình. Giữa đường, Ngài gặp một ông già bằng lòng hướng dẫn Ngài đến hang. Đi được vài dặm, hai người gặp 5 tên cướp tay nắm giáo mác đang tiến về phía Ngài. Ngài cộtt mũ và chỉ vào bộ áo quần nhà sư của mình. Bọn cướp hỏi:

– Nhà sư muốn đi đâu?

– Tôi muốn đi chiêm bái bóng đức Phật.

– Nhà sư không biết rằng trong vùng này lắm kẻ cướp sao?

Ngài ôn tồn trả lời.

– Kẻ cướp cũng là người. Tôi đi chiêm bái đức Phật thì dù có gặp thú dữ, rắn độc, tôi cũng không sợ. Các anh là người, nghĩa là trong lòng đã có sẵn mầm từ bi, sao tôi lại sợ?

Bọn cướp nghe Ngài nói rất cảm kích và tình nguyện đi theo Ngài đến hang. Hang này ở phía Đông một dãi suối chảy giữa hai trái núi. Cửa hang mở ra một thành đá, Ngài nhìn vào cửa hang không thấy gì khác hơn là một khoảng tối om. Ông già bảo Ngài “Pháp sư hãy đi vào trong, khi Ngài đến đụng vách đá phía đông. Ngài hãy lùi lại khoảng 50 bước và đứng nhìn vào vách đá, sẽ thấy bóng đức Như Lai.

Ngài Huyền Trang đi vào một mình, làm như lời ông lão dặn. Ngài xoay mặt về phía vách đá, lạy 100 lạy, nhưng vẫn không thấy gì. Ngài oà lên khóc vì thấy mình bạc phước và chứa nhiều tội lỗi nên không được bóng đức Phật hiện ra. Bấy giờ với một tấm lòng thần khẩn. Ngài tụng những bài sám hối và sau mỗi đoạn lại đảnh lễ Phật. Quả thật, sự linh diệu bắt đầu xuất hiện ra. Sau khi Ngài đã lạy trên 100 lạy, một điểm sáng và vụt tắt ngay. Vừa mừng vừa tủi, Ngài lạy nữa và lần này, Ngài thấy một khoảng sáng lớn bằng cái thau xuất hiện rồi vụt tắt, nhanh như chớp. Bấy giờ lòng tràn ngập hân hoan và thành kính. Ngài thề nguyện quyết tâm ở lại đây mãi cho đến lúc nào thấy được hình bóng thiêng liêng của đức Phật mới thôi. Ngài tiếp tục niệm và thành kính, tất cả hang đá đều sáng rực lên và hình ảnh đức Phật Như Lai hiện ra trắng toát. Một đường ánh sáng viền quanh khuôn mặt đầy giác ngộ, thân hình Ngài và chiếc y rực lên một màu sáng chói. Từ hai đầu gối Ngài trở lên, những tướng tốt hiện ra trong ánh sáng, nhưng phía dưới toà sen ánh sáng mờ nhạt như ánh sáng hoàng hôn. Hai bên tả, hữu Ngài có rất nhiều hình bóng của các vị Bồ Tát. Ngài Huyền Trang ngây ngất đứng nhìn những hình ảnh nhiệm mầu, thiêng liêng ấy một hồi rồi gọi 6 người đi theo ngài đứng ngoài cửa hang, đem đèn đuốc và hương hoa vào thì đức Như Lai biến mất. Ngài Huyền Trang bảo tắt đèn đuốc và hình ảnh trước lại xuất hiện. Trong 6 người đi theo Ngài, ông lão và 5 tên cướp chỉ có 5 người nhận thấy hình bóng đức Phật, còn một trong 5 tên cướp không nhìn thấy gì hết.

Ngài Huyền Trang quỳ xuống dâng hương hoa và tán thán Đức Phật một hồi thì bóng đức Phật tắt hẳn. Ngài lạy tạ rồi đi ra.

Sau khi được chứng kiến rõ ràng hiện tượng  kì diệu ấy, Ngài Huyền Trang đi thẳng đến nước Kiền Đà La (Bắc Ấn Độ). Ở đây, trước kia là nơi chứa rất nhiều di tích Phật Giáo. Hoàng đế Ca Ni Sắc Ca (Kanishka) xưa kia có dựng trong vùng trong vùng này trên 1000 tịnh xá để chư tăng ở. Nhưng khi Ngài Huyền Trang đến đây thì quang cảnh thật là buồn bã, hoang phế. Dân cư thưa thớt, dinh thự, đình đài, tịnh xá, thành quách đều bị quân Hung Nô nhiều lần đến tàn phá. Những di tích quý báu của đức Phật đều bị cướp đem đi. Cho đến cái bảo vật quý nhất là bình bát mà xưa kia lúc đức Phật còn tại thế đã dùng đi khất thực cũng không còn.

Trong hơn 1000 tịnh xá trước kia, nay chỉ còn lại một cái. Đó là tịnh xá mà Đại Đế Ca Ni Sắc Ca đã dựng lên cho Ngài Hiếp Tôn Giả. Sau khi lễ bái các Phật tích ở đây và đem các tặng phẩm mà Nhà vua Cao Xương đã biếu cho Ngài như vàng, bạc, lụa là, y phục…, phân phát cho các tu viện, Ngài Huyền Trang đi lần về phía Đông Nam. Ngài đi đến nước Ca Thấp Di La. Vị trí nước này ở phía Tây dãy Hi Mã Lạp Sơn, thượng lưu sông Na Bô và sông Xa-Lâm. Là những chi lưu của sông Ấn Độ, diện tích độ 1.900 dặm vuông anh. Nước này là nơi phát nguyªn Đại Thừa Phật Giáo. Trong thời vua A-Dục trị vì Ngài đã đặt ở đây thủ đô của tỉnh miền Tây Bắc và cử Hoàng tử Càn Na La, con Ngài làm thủ hiến vùng này.

Trong thời Ngài Huyền Trang đến đây, ảnh hưởng của phật giáo Đại Thừa vẩn còn đang mạnh mẽ trong dân chúng. Khi Ngài đến gần kinh thành, vua nước ấy thân chinh đem triều thần, tăng chúng, quân lính ra nghênh đón. Có trên 1000 người cờ quạt ngập trời, hương hoa đầy đất. Vua thân hành tới trước mặt Ngài, rải hoa dưới chân Ngài và mời Ngài lên ngồi trên một thớt voi lớn, còn Ngài và đám rước thì đi theo sau. Sau khi biết được ý định của Ngài sang Ấn Độ để sưu tầm kinh điển, vua truyền cho 20 người ở lại đi theo Ngài để biên chép. Ngài đến trọ tại một ngôi chùa Amira trong kinh thành. Chùa này có 30 vạn hiến kinh cộng 96 vạn câu và một vị tăng đã 70 tuổi là Xưng lão pháp sư rất tinh thông kinh điển Đại Thừa. Ngài ở đây biên chép kinh điển và theo học với vị cao tăng này trong hai năm. Ngài đã tìm thấy ở đây một vị sư xứng đáng với hoài bảo của mình. Ngài thường ca ngợi vị sư này là người nghiêm trì giới luật, thông minh xuất chúng, học thức uyên thâm và đức hạnh hoàn toàn. Do sự mến phục ấy, Ngài theo học với vị cao tăng đêm ngày không biết mệt mỏi. Và vị cao tăng này, khi Ngài Huyền Trang từ giả ra đi, đã tuyên bố với đại chúng rằng:” Thầy tăng người Trung Hoa này trí lực hoằng thâm, trong bọn chúng ta không ai hơn được. Ông là người thông minh đức độ, đủ nèi được cái phong thái và sự nghiệp của anh em Thân Thế Bồ Tát”.

Ngài diễn tả xứ sở nước ấy khí hậu phong tục đều khác hơn các miền trước, dân chúng thì vui vẻ thích ca hát, dáng người tuy nhỏ nhưng nhanh nhẹn, áo màu rực rỡ, đúng dân tộc Ấn Độ , khí hậu hơi nóng, cây cối mọc um tùm và có nhiều khỉ. Ngài đến Ca Xi La, Thuộc về Kasmia tạm dịch là Kế Tân, Ca Thấp Di La một nước rất thuần đạo, có khoảng 100 chùa và 5.000 sư, chính nơi đó là nơi phát nguyên phái Đại Thừa sang Trung Hoa. Nhà vua nghe Huyền Trang cũng theo phái Đại Thừa nên rất kính trọng , thân hành ra biên giới mà thỉnh lên ngồi trên lưng voi, một thớt tượng cùng song hành qua kinh đô, nơi đây Ngài gặp được một pháp sư đã 70 tuổi rất làu thông Tam Tạng, lại tìm được rất nhiều kinh điển, Huyền Trang ở lại Kasmia hai năm để học đạo, trò rất kính thầy và thầy rất mến trò, thầy trò tương đắc lẫn nhau, khi đã hiểu rõ kinh điển rồi, Ngài từ giả vua và thầy học để đi về đất phật.

Phần VIII. TRÊN ĐƯỜNG ĐI ĐẾN CÁC THÁNH ĐỊA PHẬT GIÁO

Tính ra Ngài Huyền Trang xa quê hương trải qua biết bao gian lao hơn gần 4 năm nhưng đã gần tới đích. Rời Kásmia đi được mấy ngày, qua một khu rừng rậm rạp và những bạn đồng hành bị bọn cướp trọn áp lột hết hành trang, Ngài phải trốn trong một cái hang, sau nhờ có một đám nông dân hay tin đến cứu đưa Ngài đến một chùa Bà La Môn nọ, ông chủ chùa này theo đạo Bà La Môn nhưng cũng thích nghiên cứu đạo Phật. Huyền Trang xin ở lại một tháng để tìm hiểu thêm về đạo Bà La Môn rồi mới đi. Từ đây cuộc du hành của Ngài gặp nhiều thích thú vô cùng, tới đâu Ngài cũng gặp di tích của Phật, tha hồ mà đọc kinh điển và thảo luận với các pháp sư và thỉnh giáo với các vị tu hành uyên bác. Ấn Độ nổi tiếng là một xứ huyền bí, một phần vì địa thế, một phần vì tôn giáo. Địa thế nước đó gần như tách biệt với các xứ xung quanh bởi phía Đông Tây Nam là biển, phía Bắc có dãy Hy Mã Lạp Sơn cao chót vót rất bất tiện cho việc giao thông. Về tôn giáo có hai đạo chính là đạo Bà La Môn và đạo Phật và một ít là đạo Hồi từ Ba Tư truyền vào. Riêng đạo Bà La Môn và đạo Phật có rất nhiều giáo phái và lý thuyết khác nhau. Đất đai rộng mênh mông như một lục địa nhỏ, chia ra làm 100 nước, có nước nhỏ bằng 1% nước khác, vàng bạc châu báu rất nhiều, đền chùa chỗ nào cũng có, dân rất mê tín, lại chia ra nhiều giai cấp, bộ quý phái mơ mộng trong cung điện, hết đi săn thì hưởng thanh sắc, bọn Bà La Môn chẳng làm việc gì, chỉ tu hành và rất được trọng vọng. Hạng thương nhân nhờ giàu có mà được nể, hạng nông dân bị khinh bỉ như bọn nô lệ, cuối cùng là bọn tiện dân Ba ri a bị các giai cấp kinh tợn, hơn là ta kinh tởn người cùi, đến nỗi không ai dám đến gần họ và cái bóng của họ chiếu vào vật nào thì vật đó bị nhơ bẩn, phải ném đi chỗ khác, không ai chịu mò vào. Tóm lại từ văn minh đến phong tục khác hẳn Trung Hoa. Ngài Huyền Trang sống gần 10 năm trên đất Ấn, Ngài có dịp đi khắp các nơi được trông thấy nhiều điều lạ, rồi lại nảy sinh ra sự nhận xét vi tế, ghi lại các việc qua cuộc du hành, những sự việc mắt thấy tai nghe thành tập Du Ký là một tài liệu quý giá chẳng những giúp cho người Trung Hoa thời đó mà còn giúp cho nhiều học giả thời nay hiểu Ấn Độ nữa. Các nhà viết sử rất thán phục Ngài về những nhận xết thật là chân chính nhất thời cổ. Ngài Huyền Trang diễn tả sông Hằng y như một nhà khoa học và rất chính xác. Nguồn sông rộng 3 dặm, gần cửa biển rộng 10 dặm nước bình thường, trong xanh nhưng thường thay màu, mặt nước mênh mông, rất nhiều sinh vật kỳ dị trong sông, phần nhiều không làm hại người, vị của nước ngọt và dễ chịu, cát mịn vô cùng. Người bản xứ coi sông đó là một vị thần, người nào tắm nước sông thì gội hết tội lỗi, nếu uống nước hay rửa mặt thôi cũng làm tiêu tan đi những khổ não nếu chết đuối trên sông thì sẽ được lên trời, lúc nào ở bên bờ sông cũng có vô số người tụ họp đàn ông lẫn đàn bà để cầu nguyện. Ngài cho như vậy là dị đoan, đối với người tín đồ Ấn Độ giáo, sông Hằng là một con sông linh thiêng, bắt nguồn từ trên trời mà chảy xuống đất. Mọi người đến từ sáng sớm tới chiều tối với nhiều hạng người ra bờ sông, ngâm mình xuống nước để cầu nguyện để rửa tội.v.v…và cứ như thế họ làm hết tháng này đến tháng khác, hết năm này qua năm nọ cho đến mãi về sau với mục đích cầu giải tâm hồn thoát kiếp luân hồi.

Dọc theo sông Hằng, Ngài Huyền Trang đi đến thành Khúc Nữ là kinh đô của nước Yết Nhược Cúc Đồ. Nước này thuộc trung Ấn Độ, là miền đất có nhiều thánh tích đức Phật Thích Ca. Khi Ngài Huyền Trang đến nước này là nước đang thời thịnh trị dân cư giàu có, thái bình, vị vua đang trị vì nước này là Giới Nhật, là một minh quân rất sùng mộ đạo Phật, có thể so sánh với A Dục Vương thời trước. Kinh thần Khúc Nữ nằm trên bờ Tây sông Hằng có đến 100 ngôi chùa, tăng lữ có trên vạn người. Khi Ngài Huyền Trang tới đây, vua Giới Nhật không có ở kinh đô, nên không được vua tiếp đón như những nước mà Ngài đã đi qua. Ngài ở lại đây ba tháng trọ lại chùa Bạt Đạt Di Kha La, để học hỏi Tam Tạng kinh điển. Sau ba tháng ở lại thành Khúc Nữ, Ngài lại vượt sông Hằng đi về phía Đông, đến một thành có nhiều di tích  rất thân thiết theo với Ngài đó là thành A-du-đà, thành này có danh rực rỡ của hai vị Bồ Tát có công lớn với việc xiển dương giáo lý Đại Thừa Phật Giáo là những vị đã thành lập ra môn Duy thức học, đó là hai anh em Ngài Vô Trước và Thế Thân Bồ Tát, Ngài Vô Trước là anh tu theo phái Đại Thừa, Ngài Thế Thân là em tu theo phái Tiểu Thừa.

Một hôm Ngài Vô Trước mời em tới tịnh xá của mình tại rừng Xoài chơi. Đêm đến, Ngài Vô Trước dẫn Ngài Thế Thân ra một cái gác dựng bên bờ sông, để em nằm hóng mát còn mình thì trở vào. Đêm ấy là một đêm thu, có trăng rất đẹp, trăng và nước hoµ hợp trong một bầu trời thu, mênh mông huyền ảo. Bỗng một giọng tụng niệm trong trẻo thanh thoát ngân lên, ngân lên, bay trong gió, hoà hợp trong không trung. Đó là một bài luận về Đại Thừa, qua ý nghĩa bài luận, thế giới vật chất như tan biến, mông lung, mộng ảo như ánh trăng, như hơi nước đang bàn bạc trên sông. Trước mắt Ngài vật chất chỉ là thế, nghĩa là hư ảo, là duy tâm, là duy thức. Ngài Thế Thân xúc động đến tận đáy lòng và cảm thông được cái cao thâm huyền diệu của giáo lý Đại Thừa, Ngài vừa xấu hổ vừa hối hận, đi vào nhà xin cắt lưỡi trước mặt anh để chuộc cái lỗi đã phỉ báng Đại Thừa. Ngài Vô Trước can em: Sao lại cắt lưỡi? Em đã dùng cái lưỡi ấy để công kích Đại Thừa thì nay cũng nên dùng cái lưỡi ấy để xiển dương Đại Thừa mới phải chứ!

Ngài Thế Thân nghe theo lời anh dạy. Trước kia Ngài đã viết 500 bài luận về Tiểu Thừa để kích bác Đại Thừa, thì từ đấy Ngài lại viết 500 bộ luận về Đại Thừa để thuyết minh giáo lý Đại Thừa. Do đó người đời tôn xưng Ngài là “Thiên Bộ Luận Sư” vị luận sư tạo 1.000 bộ luận. Ngài huyền Trang đến thăm tịnh xá của hai vị Bồ Tát này, không thể không xúc động mãnh liệt vì giáo lý Duy thức mà hai vị này đã phát huy ra trước Ngài hai thế kỷ, chính là giáo lý mà sau này Ngài đã dùng làm cơ sở cho bộ luận Thµnh Duy Thức đồ sộ của Ngài và là căn bản của pháp Tướng Tông. Từ giả tịnh xá và hai vị Bồ Tát này, Ngài đi thuyền xuôi theo sông Hằng về phía Đông để tiếp tục viếng các phật tích. Trong thuyền có tới 20 hành khách, thuyền xuôi theo dòng sông, độ vài mươi dặm thì xẩy ra một tai nạn lớn, có thể nói là lớn nhất trong cả cuộc hành trình của Ngài từ trước đến nay và có thể làm ngài bỏ xác nơi đây. Thuyền đi vào một khúc sông, hai bên có nhiều cây cối rậm rạp. Dưới những tán cây đỗ ra sông, có 10 chiếc ghe của bọn cướp đang ẩn núp đợi mồi. Khi thấy thuyền Ngài gần đến, bọn cướp hò nhau bơi thuyền ra chặn đường. Nhiều hành khách sợ quá nhảy ùm xuống sông và mất xác, những người còn lại bị đưa vào bờ và bị bọn cướp lột hết quần áo, của cải. Bọn cướp này thờ “Durga” một nữ hung thần thường bắt các đệ tử cuồng tín phải làm lễ hy sinh người sống cho mình. Thường năm, đến mùa thu, họ tìm một nạn nhân, phần nhiều là đàn ông có hình dáng cân đối, mặt mũi khôi ngô để lấy huyết và thịt dâng cúng cho nữ thần. Khi bọn cướp này nhìn thấy Ngài Huyền Trang có khuôn mặt tuấn tú, hình dáng oai nghi, chúng nhìn nhau mừng rỡ. Chúng nói với nhau: Chúng ta đã trễ quá thời hạn làm lễ tế thần. Nhưng bây giờ chúng ta gặp được nhà sư mặt mũi khôi ngô thân hình đẹp đẽ này, chúng ta hãy làm lễ tế ngay, để nữ thần ban phước.

Ngài nghe nói bình thản trả lời “Nếu thân xác của bần tăng này đáp đúng ý nguyện của các người, để dâng cúng cho nữ thần, bần tăng thật tình không dám tiếc. Nhưng bần tăng từ phương xa lặn lội đến đây để chiêm bái các Phật tích cung thỉnh các kinh điển và học hỏi giáo lý của đức Thích Ca. Sở nguyện thiết tha ấy chưa thành,  mà nay các người đành tâm giết bần tăng thì bần tăng e rằng các người đã không được phúc mà trái lại còn mang thêm nhiều tai hoạ”.

Những người hành khách quỳ xuống xin bọn cướp tha chết cho ngài. Nhưng bọn cướp đều từ chối, tên đầu đảng truyền lệnh cho bộ hạ vào rừng lấy nước trong và dựng một cái bàn thờ với đất bùn lấy ở dưới sông lên. Xong xuôi nó truyền hai tên thân tín rút giáo lôi Ngài lên bàn thờ để làm lễ hy sinh ngay. Trong lúc đó sắc mặt Ngài vẫn không đổi, bình thản như thường. Bọn cướp lấy làm ngạc nhiên và không khỏi xúc động. Riêng Ngài, thì Ngài thấy giờ phút cuối cùng sắp đến, nên yêu cầu bọn cướp trì hoãn cho Ngài một lúc để Ngài cầu nguyện và đừng lôi kéo Ngài như thế. Ngài bảo:” Các ngươi hãy để cho bần tăng được nhập Niết Bàn một cách thanh tịnh và hoan hỷ”. Nói xong, Ngài ngồi kiết gìa, xưng tán đức Di Lặc và chư Bồ Tát trong mười phương, mong cầu được nhập vào hàng thánh chúng để được nghe pháp và giác ngộ hoàn toàn. Rồi Ngài lại nguyện sau khi được giác ngộ sẽ trở về cõi Ta Bà này khai thị cho bọn cướp, đưa chúng về con đường chính và làm các việc công đức để chuộc những lỗi lầm. Cuối cùng, Ngài nguyện sẽ hoá độ toàn thể chúng sanh và đưa họ vào cảnh giới an lạc. Nguyện xong, Ngài nhập định và chú toàn tâm lực vào đức Bồ Tát Di Lặc.

Bỗng Ngài nhận thấy tâm hồn lâng lâng siêu thoát, như bay bỗng đến núi Tu Di và sau khi lên đến tầng trời thứ ba. Ngài thấy đức Di Lặc đang ngồi trên toà sen rực rỡ và quanh Ngài chư thiên đang ngồi nghe pháp. Trong khi tâm hồn Ngài còn đang phiêu diêu trong cảnh giới thanh tịnh ấy, Ngài không còn nhận thấy rằng mình đang ngồi trên bàn thờ tế nữ thần, bên cạnh bọn cướp khát máu đang nóng lòng chờ đợi cắt da sẻ thịt mình và dưới chân Ngài, chung quanh Ngài, những người đồng đội, đồng thuyền với mình đang khóc tiếc thương Ngài.

Bổng một trận cuồng phong nổi lên, làm cây cối gẩy ngã, cát bụi tung đầy trời, sóng cuồn cuộn gầm thét và lật úp ghe thuyền trên sông. Bọn cướp hoảng sợ, hỏi những người bộ hành cùng đi theo Ngài.

– Nhà sư này ở đâu đến và tên ông ta là gì?

Một người trong đám hành khách trả lời.

– Đó là một vị cao tăng từ Trung Hoa đi sang đây thỉnh kinh. Nếu các người giết vị sư ấy thì tai hoạ lớn lao sẽ đến với các ngươi. Các ngươi thấy chưa, gió bão đang nổi dậy đó chính là triệu chứng giận dữ của chư thiên trước hành động bạo tàn của các ngươi. Các ngươi hãy mau hối cải mới được.

Bọn cướp sợ hãi, sụp quỳ xuống bên chân Ngài xin tha tội, Ngài vẫn điềm nhiên tịnh toạ,  không  nhận thấy sự thay đổi đột ngột đang xảy ra xung quanh mình. Một tên cướp xích lại gần nắm lấy chéo áo của Ngài,  Ngài mới sực tỉnh. Khi biết được bọn cướp đã hoảng sợ mà đổi ý, Ngài nhận tin ấy một cách bình tĩnh không thay đổi sắc mặt. Ngài khuyên bọn cướp cải Tà quy Chánh . Bọn cướp ngoan ngoãn tuân theo và trận cuồng phong dịu dần rồi tắt hẳn.

Phần IX- CHIÊM BÁI CÁC PHẬT TÍCH

Sau khi được toàn tính mạng và thoát khỏi tay bọn cướp hung ác một cách bất ngờ, Ngài Huyền Trang đi về phía Đông Bắc là nơi có nhiều Phật tích quý báu, trong số ấy có sáu đại thánh địa mà mọi phật tử, khi sang Ấn Độ hành hương, đều ao ước được đến chiêm bái. Sáu đại thánh tích đó là: Vườn Lâm Tỳ Ni – nơi Đức Phật giáng sinh, Thành Ca Tỳ La Vệ – nơi trưởng dưỡng Ngài khi chưa xuất gia, Bồ đề đạo tràng – nơi Đức Phật thành Đạo, vườn Nai – nơi Ngài thuyết pháp lần đầu tiên cho nhóm ông Kiều Trần Như, vườn Trúc Lâm hay Cấp Cô Độc nơi Ngài thường thuyết Pháp và rừng Sa La Song Thọ – nơi Ngài nhập Niết Bàn.

Trong cuộc chiêm bái của pháp sư Huyền Trang, Ngài không theo thứ tự, nhưng theo sự thuận tiện trong cuộc hành trình mà tuần tự chiêm bái.

1. Chiêm bái vườn Trúc Lâm hay Cấp Cô Độc

Vườn này có tên là Cấp Cô Độc vì do một vị trưởng giả giàu có, ông Tu Đạt Na mua của Thái Tử Kỳ Đà, con của vua Ba Tư Nặc để cúng cho Đức Phật làm nơi thuyết pháp. Ông Tu Đạt Na là người giàu lòng bố thí, thường cung cấp nuôi dưỡng những người mẹ goá, con côi, nghèo khổ nên được mọi người tặng biệt hiệu là Cấp Cô Độc trưởng giả. Ông Tu Đạt Na xây dựng tịnh xá này phải mua đất đổi bằng vàng, đem vàng lót đến đâu thì đất được mua đến đó. Sự sùng kính Đức Phật trọng đại như thế, động lòng Thái Tử, cuối cùng bằng lòng cùng chung với ông hiến cúng ngôi vườn để xây dựng tịnh xá. Từ đó, một Tịnh xá đồ sộ được dựng lên ở trong vườn này. Mấy thế kỷ sau khi Phật nhập diệt, khách hành hương đến chiêm bái ở đây vẫn còn say ngắm những phong cảnh ngoạn mục nên thơ, nào hồ, ao, bồn hoa, cây cảnh, nào giảng đường, trai đường, v.v…Nhưng đến khi Ngài Huyền Trang đến thì Tịnh xá này hoang vắng, điêu tàn, tất cả cảnh tượng đồ sộ ngày xưa, chỉ còn trơ lại hai trụ đḠcủa vua A – Dục đã truyền dựng lên, mang ở trên đỉnh một bánh xe  pháp và dưới mấy hàng chữ ghi dấu vết một nơi thánh địa đã có cái vinh dự làm bối cảnh cho bao cuộc thuyết pháp của Đức Phật, mười ba thế kỷ trước.

2. Chiêm bái vườn Lâm Tỳ Ni và thành Ca Tỳ La Vệ

Sau khi rời khỏi vườn Cấp Cô Độc, Ngài Huyền Trang đi 800 dặm về phía Đông Bắc, đến thành Ca Tỳ La Vệ, quê hương của Đức Phật (Nay thuộc nước Nepal). Thành này khi Ngài Huyền Trang đến chiêm bái, là một nơi hoang địa. Thành quách, đền đài bị tàn phá, may ra chỉ còn lại những móng gạch của kinh đô xưa. Cỏ cây hoang dại loang cùng mặt đất, năm bảy cái chòi tranh che không kín gió những người dân thưa thớt nghèo nàn. Vài ba chục Tỳ Kheo Tiểu Thừa cố gắng gìn giữ một cách bất lực, thảm thương với sự hiện diện nghèo nàn của mình, cái huy hoàng rực rỡ ngày xưa của nơi chôn nhau cắt rốn của vị siêu phàm đã làm vẻ vang cho nhân loại. Mười ba thế kỷ qua rồi, tang thương đã mấy lần thay đổi, Ngài Huyền Trang còn mong gì tìm thấy lại vang bóng của thời oanh liệt xưa? Nhưng cũng may, nhờ sự sáng suốt nhìn xa của vua A – Dục, những trụ đá đã được dựng lên khắp nơi để ghi lại cho hậu thế những biến chuyển đầy ý nghĩa trong đời sống của Đức Phật khi còn sanh trưởng trên mảnh đất phì nhiêu này.

3. Chiêm bái rừng Sa La, nơi Đức Phật nhập diệt

Từ giã thành Ca Tỳ La Vệ, Ngài Huyền Trang đi về phía Đông, qua 500 dặm rừng rậm, đến xứ Câu Thi Na (Bây giờ là Kasi) là nơi Đức Phật đã nhập diệt. Ngài gợi nhớ lại những lời di huấn sau cùng của Phật trong kinh di giáo : “…Này, các người hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi! Hãy lấy pháp của ta làm đuốc, hãy nương theo giáo pháp mà tự giải thoát. Đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác…”. Hoặc “…Này các Tỳ Kheo! Các ngươi đừng nghe theo dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi vật ở đời không có gì quý giá. Thân thể rồi sẽ tan rã, chỉ có Đạo ta là quý báu. Chỉ có chân lý của Đạo ta là bất di bất dịch. Hãy tinh tấn lên để giải thoát!”.

Chiêm bái ở đây xong, Ngài Huyền Trang vượt nhiều rừng núi để đi đến thành Ba La Nại viếng vườn Lộc Uyển.

4. Chiêm bái vườn Lộc Uyển

Lộc Uyển là nơi mà Đức Phật đến thuyết pháp lần đầu tiên, sau khi thành đạo, cho 5 người bạn đồng tu của mình là nhóm ông Kiều Trần Như. Vườn này nằm ở ngoại ô Thành Ba La Nại. Lúc ban đầu Ngài tu vơi 5 vị này, theo phương pháp khổ hạnh. Được ít lâu nhận thấy phương pháp này không có hiệu quả, Đức Phật rời nhóm ông Kiều Trần Như và phương pháp tu của họ. Ngài lại ăn uống bình thường và bị nhóm ông Kiều Trần Như chế nhạo khinh rẻ. Sau một thời gian tu luyện một mình, Đức Phật đã thành đạo chánh đẳng chánh giác. Ngài trở lại vườn Lộc Uyển để trình bày sự giác ngộ của mình cho 5 người bạn đồng tu là nhóm ông Kiều Trần Như nghe. Năm người người này trở thành năm đệ tử đầu tiên của Ngài. Từ đó Lộc Uyển trở thành một đạo tràng mà Đức Phật Thích Ca thường lui tới thuyết pháp. Vua A – Dục đã dựng lên ở đây một trụ đá chạm trổ rất đẹp để đánh dấu thuyết pháp đầu tiên của Phật.

Khi Ngài Huyền Trang đến đây, mọi thánh tích của Đức Phật khi còn tại thế đều được giữ nguyên vẹn và kính cẩn. Vì ở đây đang có 1500 Tỳ kheo tu hành trong Tịnh xá dựng lên ở vườn Lộc Uyển. Nhờ thế Ngài Huyền Trang được chiêm ngưỡng những cái hồ mà Đức Phật đã dùng hoặc tắm hoặc để giặt rửa.

5. Chiêm bái Bồ Đề đạo tràng nơi Phật thành đạo

Ngài Huyền Trang đi lần về phía Nam, đến xứ Ma Kiệt đà, là nước phồn thịnh trong thời Đức Phật tại thế, và là quê hương của vua A – Dục. Chính kinh đô nước này, Vương Xá Thành, là nơi kiết tập kinh điển lần thứ 3.

Khi Ngài Huyền Trang đến thành Vương xá thì thành này đã sụp đổ điêu tàn. Ngài chỉ còn nhận thấy những vết tích của những cung điện huy hoàng ngày xưa. Và trong số hàng trăm Tịnh xá mà vua A-Dục đã dựng lên ở đây, chỉ còn lại vài ba cái còn đứng vững. Ngài Huyền Trang ở lại đây 7 ngày, rồi đi về phía Tây, luôn trong 6 ngày mới tới rừng Bồ Đề già là nơi có cây Bồ Đề mà đức Phật ngồi tham thiền ở dưới gốc cho tới khi thành đạo. Chính ở gốc cây này, Đức Phật đã phát lời thệ nguyện lịch sử :

“Nếu không thành đạo thì dù thịt nát xương tan ta cũng không rời khỏi gốc Bồ Đề này”

Khi Ngài Huyền Trang đến chiêm bái vùng này thì sông Ni Liên Thuyền, nơi Đức Phật đã tắm rửa trước khi ngồi xuèng gốc cây Bồ Đề, vẫn còn xanh, cây hai bên bờ vẫn còn tươi tốt, Ngài Huyền Trang đã tả : thân cây màu trắng ngà, lá xanh láng mướt, không tàn rụng trong mùa hè cũng như mùa đông. Chỉ đến ngày kỷ niệm Phật nhập Niết Bàn thì lá rụng, nhưng ngày hôm sau lại đâm chồi nảy lộc sum mậu như trước. Cây Bồ Đề này được vua A-Dục săn sóc chu đáo và vô cùng quý trọng. Vua cho xây thành bằng gạch chung quanh gốc cây, có trổ nhiều cửa ra vào. Cửa chính hướng về phía Đông, nhìn ra sông Nì Liên Thuyền, cửa phía Nam giáp giới một cái hồ trồng đầy sen, phía Tây giáp với một dãy đồi cao, phía Bắc có một cái Tịnh xá rộng lớn, chính giữa có mét pháp toạ gọi là Kim Cang pháp toạ.

Sau khi đứng chiêm ngưỡng cây Bồ Đề một hồi lâu, Ngài Huyền Trang sụp quỳ đất, không ngớt than khóc “Kính lạy Đức Từ phụ, khi Ngài đã chứng quả Bồ Đề thì con còn đang lặn hụp trong biển khổ si mê, cho đến ngày nay sau khi Ngài đã nhập Niết Bàn trên 1000 năm rồi, con cũng vẫn chưa thoát khỏi cảnh sinh tử luân hồi! Thật quả nghiệp báo của con quá nặng nề, và con vô cùng xấu hổ, thẹn thùng cho duyên kiếp của con !” Trước sự cảm xúc thân phận mình, nước mắt chan hoà. Trong lúc ấy có mấy ngàn tu sĩ vừa ra hạ, đến vây quanh Ngài và đều mủi lòng thương cảm trước thái độ thành khẩn của Ngài. Ngài Huyền Trang ở đây 6 ngày, rồi đến lưu học tại chùa Na Lan Đà.

Thế là Ngài đã lần lượt chiêm bái xong các thánh địa chính như ý Ngài mong ước. Về phương diện tình cảm của một đệ tử thuần thành đối với đức Từ phụ, như thế là Ngài đã được như nguyện. Bây giờ Ngài còn phải làm thế nào để được thoả mãn lý trí trong sự khao khát tìm cầu học hỏi và sưu tầm kinh điển.

Phần X. Ở TU HỌC TẠI CHÙA NA-LAN-ĐÀ

Chùa Na Lan Đà ở về phía Đông Bắc Bồ Đề Già, trong nước Ma Kiệt Đà (Trung Ấn Độ) dịch theo tiếng Trung Hoa. Chùa này được dựng từ thế kỷ thứ nhất (Sau công nguyên) và là một ngôi chùa lớn nhất và đẹp nhất ở Ấn Độ. Chùa gồm trên 10 Tịnh xá, có phòng họp, phòng Tịnh niệm, Tịnh thất cao 4 tầng lầu, có vườn hoa, hồ sen, thành quách như cả một đô thị. Ngài Huyền Trang đã ghi trong tập bút ký của Ngài “Tịnh xá ở Ấn Độ kể có hàng ngàn, nhưng không có cái nào sánh kịp chùa Na Lan Đà, cả về phương diện lộng lẫy, giàu có và đồ sộ. Vào đây người ta có cảm tưởng như đi lạc vào một rừng lâu đài, điện các, cái này chồng lên cái kia, với những pho tượng và những bức tường chạm trổ công phu. Na Lan Đà thật xứng đáng là một học phủ tối cao, một trung tâm văn hoá của Ấn Độ thời bấy giờ. Các kinh điển Đại Thừa, Tiểu Thừa, tụng tán Phệ Đà, các sách y dược Thiên Văn, địa kỳ, kỷ nghệ đều tập trung ở đó, tóm lại là đủ cả các thứ sách vở dạy Ngũ Minh”. Vị Cao tăng chủ trì tại chùa này là Ngài Giới Hiển, thường được gọi là Chánh pháp Tạng. Khi Ngài Huyền Trang đến đây thì Ngài Giới Hiển đã già trên trăm tuổi rồi, là vị học giả thông thái nhất Ấn Độ thời bấy giờ.

Số tăng sĩ ở trong chùa kể cả chủ lẫn khách, không bao giờ dưới 10 ngàn người. Các vị tăng sĩ này đều nghiêm trì giới luật và siêng năng tu học. Hằng ngày vào khoảng 100 vị giảng sư túc trực giảng dạy trên pháp toạ. Cho nên từ 700 năm nay, từ khi chùa mới thành lập cho đến khi Ngài Huyền Trang đến tu học, chùa này luôn luôn được sự trọng nể của các hàng vua chúa và dân chúng khắp nơi. Trong số 10.000 tu sĩ ở đây, có 1000 vị thông giảng được 20 bộ kinh luận, 500 vị thông giảng được 30 bộ, 10 vị thông giảng được 50 bộ và chỉ có Ngài Giới Hiển là thông hiểu hết toàn thể các bộ. Để cung cấp mọi chi phí trong chùa và tứ sự cúng dường cho toàn thể tăng chúng, nhà vua đã trích số tiền thu thuế của 100 thành phố, và mỗi ngày 200 gia đình đem cơm nước, bơ, sữa đến cúng dường. Nhờ thế chư tăng ở đây khỏi phải mất thời giờ đi khất thực và có đủ phương tiện và nhiều thời gian để tu học.

Khi Ngài Huyền Trang sắp đến, chùa phái 200 vị tăng sĩ và 1000 tín đồ đi nghênh đón với cờ quạt, lọng tàng, hương hoa. Khi Ngài vào đến chùa, toàn thể tăng đồ và cư sĩ tụ lại, vây quanh Ngài hoan hô. Họ đặt trên bệ cao một cái ghế, mời Ngài Huyền Trang ngồi. Sau khi khách chủ đều ngồi, vị phó giám đốc của chùa đứng dậy, cất tiếng mời Ngài lưu lại chùa và cùng họ chung sống trong giáo lý lục hoà.

Ngài được dẫn vào ra mắt pháp sư Giới Hiển, khi thấy pháp sư, Ngài Huyền Trang theo lễ phép Ấn Độ quỳ xuống và bò vào gần đến chân Ngài Giới Hiển, lạy Ngài làm lễ ra mắt. Sau khi hỏi han và không tiếc lời khen ngợi, Ngài Giới Hiển đem ghế và mời Ngài Huyền Trang ngồi. Ngài Huyền Trang tỏ ý định muốn được thọ giáo pháp sư Giới Hiển, khi được biết ý định của Huyền Trang, pháp sư Giới Hiển bảo một đệ tử thân tín kể lại cho Ngài Huyền Trang nghe điềm mộng mà pháp sư đã thấy trước đây ít lâu, vì mang bệnh nặng, Ngài Giới Hiển muốn nhập diệt, nhưng một hôm Ngài nằm mộng thấy ba vị Bồ Tát là Ngài Văn Thù, Ngài Quán Thế Âm, Ngài Di Lặc đến dạy Ngài phải ở lại truyền đạo và đợi một vị tăng sĩ ở Trung Hoa qua để truyền giáo.

Ngài Huyền Trang nghe chuyện ấy, hết sức mừng rỡ, một lần nữa van xin Ngài Giới Hiển hãy rủ lòng từ bi nhận cho mình được làm đệ tử. Ngài hứa sẽ luôn luôn là một đệ tử thuần thành và ngoan ngoãn vâng theo lời dạy của pháp sư Giới Hiển.

Ngài Giới Hiển, vì tuổi quá già, lâu nay không giảng kinh nữa, nhưng lần này vì Ngài Huyền Trang sẽ đặc cách giảng về Du Già Sư Địa luận. Ngài Huyền Trang thật may mắn gặp được vị sư xứng đáng như thế. Ngài Giới Hiển là học trò Ngài Pharmapala (Hộ pháp), Ngài Pharmapala là học trò của luận chủ Dignaga, Ngài Dignaga là đệ tử của hai Ngài Vô Trước và Ngài Thế Thân Bồ Tát, hai vị đã sáng lập ra tông Duy Thức. Như thế là ngài Huyền Trang đã trực tiếp hấp thụ được giáo lý chính tông của Duy Thức, thật là một sự may mắn hiếm hoi.

Ngài Giới Hiển giảng về Du Già Sư Địa luận trong 15 tháng. Mỗi khi Ngài giảng, tín đồ xa gần nô nức tới nghe có đến 3, 4 vạn người. Riêng Ngài Huyền Trang, đêm ngày không chút nào chểnh mảng, Ngài vừa nghe giảng, vừa tìm tòi nghiên cứu thêm các kinh điển khác để được thông hiểu hết ý nghĩa sâu xa. Vì thế, thanh danh bác học của Ngài được lan khắp 5 xứ Ấn Độ và được từ vua chúa cho đến dân chúng kính trọng quý mến.

Ban đầu Ngài ở trong một toà nhà hai tầng của một tịnh xá do vua nước Ma Kiệt Đà lập lên. Sau Ngài lại dời sang ở kế cạnh ngôi nhà mà trước kia ngài Luận Chủ Hộ Pháp đã ở. Mỗi tháng vua nước Ma Kiệt Đà cúng dường cho Ngài ba thùng dầu và các thứ bơ, sữa, thức ăn đủ dùng trong một tháng.Vua lại truyền cho một vị tăng sĩ và một vị Bà La Môn cứ mỗi ngày hướng dẫn Ngài đi du ngoạn đây đó bằng xe, ngựa hay cáng. Trong 5 năm ở tu học tại chùa Na Lan Đà, Ngài Huyền Trang đã nghe pháp sư Giới Hiển giảng: Ba lần luận Du Già Sư Địa, một lần Thuận chánh lý luận, một lần Hiển dương luận, một lần Đối pháp luận, hai lần Nhân minh luận, hai lần Thanh minh luận, hai lần Tập lượng luận, ba lần Trung luận, ba lần bách luận. Ngoài ra, những luận khác như Câu X¸, Bà Sa, Lục Túc v.v…, đã học ở các nơi thì chỉ hỏi lại những phần chưa hiểu thôi. Sau 5 năm thụ giáo với Ngài Giới Hiển và tiếp thu một vốn học hỏi sâu rộng, Ngài Huyền Trang lại từ giả Na Lan Đà để đi du học ở Đông bộ, Nam bộ và Tây bộ Ấn Độ.

Phần XI. CHU DU ĐÔNG, NAM, TÂY, BẮC ẤN ĐỘ

Rời Na Lan Đà Ngài Huyền Trang vượt sông Hằng, đi về phía Đông, ra vịnh Băng Gan đến cửa bể Tâm Ra Li Ti. Ngài định đến đây rồi đi thuyền vượt biển ra đảo Tích Lan, ở tận cùng bán đảo Ấn Độ về phía Nam. Tích Lan là thủ phủ trung tâm Phật Giáo Tiểu Thừa. Chính đây là nơi, lần đầu tiên công chúa vua A Dục đã chiết cành cây Bồ Đề sang truyền đạo Phật. Cũng chính ở đây là nơi có vinh hạnh độc nhất, được giữ di tích quý báu của đức phật là cái răng của Ngài.

Ngài Huyền Trang, đêm đêm ở trên bờ biển Ấn Độ, thường mơ tưởng đến cái hòn đảo xa xăm kia mà hào quang của đức Phật chiếu sáng từ “Chùa răng Phật” ra xa mấy mươi dặm. Ở chung quanh, như một ngôi sao lấp lánh giữa bầu trời quang đãng. Nhưng khi Ngài đến cửa biển Tâm Ra Li Ti, Ngài hỏi đường thuỷ đi sang đảo Tích Lan, thì người ta khuyên không nên đi bằng đường hải đạo xa như thế, sợ gặp nhiều nguy hiểm. Ngài nghe theo lời khuyên ấy và đi theo đường bộ ven biển về phía Nam, Ngài trải qua các nước Đông và Nam Ấn Độ, như các nước Cung Ngư Đàm, Yết Lăng Già (Kalinga), Ma Ha Kiền Tát La (Kosala), Án đạp la (Andara), Đà Na Yết Kiệt Ca (Dravida) v.v…

Đất nước nào, Ngài nghe có vị cao tăng, đại đức có thể chỉ giáo cho mình về các môn đạo học, triết học, thiên văn, địa lý v.v… thì Ngài liền xin được thụ giáo. Ngoài ra, Ngài còn quan sát một cách chính xác địa thế sanh hoạt, tánh tình, đạo đức của dân tộc các nước ấy. Vì thế cho nên bộ Tây Du Ký của Ngài là một tài liệu quý báu mà chính ngày nay các nhà bác học vẫn còn đến để tìm tài liệu lịch sử về các nước Ấn Độ trong thời đại mà Ngài đi qua đấy.

Khi Ngài đến cực Nam của bán đảo Ấn Độ, đối diện với đảo Tích Lan, định vượt biển qua đấy thì ngưòi ta cho ngài biết, đảo Tích Lan sau cuộc đảo chánh trong nội phủ nạn đói và loạn lạc đang hoành hành. Tích Lan không còn là một xứ thanh tịnh êm đềm như Ngài tưởng tượng, mà một nơi các tu sĩ đang lánh xa để tìm yên tĩnh ở nơi khác. Chính các vị tu sĩ ở đây đang chạy trốn sang đất Ấn Độ đã khuyên Ngài không nên đặt chân lên đảo ấy. Ngài Huyền Trang bèn huỷ bỏ dự định sang viếng Tích Lan và tiếp tục cuộc hành trình bằng đường bộ dọc theo bờ biển phía Tây Ấn Độ, để trở về chùa Na Lan Đà.

Ngài Huyền Trang đi theo con dường vòng này xa hơn, nguy hiểm hơn và khó nhọc hơn. Mục đích của Ngài không phải là đi cho mau đến đích mà là đi để biết và học hỏi. Đi là chính đến là phụ, thái độ của người đi tìm học, tìm chân lý là như thế. Trên đoạn đường đi và trở về lại chùa Na Lan Đà, pháp sư Huyền Trang đã đi qua các nước thuộc miền Nam Ấn Độ, Trung Ấn Độ và cực Tây Ấn Độ và trong các nước các vùng này, Ngài thu thập ghi chép những nét tập quán phong phú của từng nước từng vùng, văn hoá, chính trị, tập quán v.v…

Sau khi đi đã đến nước La Yết Ma cực Tây Ấn Độ, giáp ranh giới nước Ba Tư, Ngài Huyền Trang mới trở về Trung Ấn Độ và sau khi trải qua nhiều nước, Ngài trở về nước Ma Kiệt Đà và vào tu học lần thứ hai tại chùa Na Lan Đà. Kể từ ngày Ngài Huyền Trang rời chùa Na Lan Đà cho đến khi trở lại, ròng rã 6 năm. Trong 6 năm ấy, Ngài đi khắp Đông, Nam, Tây, Bắc, Trung, 5 xứ Ấn Độ, gồm trên 100 nước. Nơi nào xét cần Ngài ở lại để thụ giáo với những bậc minh sư từ một vài tháng cho đến một vài năm ở đấy.

Điều đáng quý trọng trong thái độ học hỏi của Ngài Huyền Trang và đáng để cho chúng ta noi theo là không phải Ngài chỉ sưu tầm, nghiên cứu giáo lý Đại Thừa hay Tiểu Thừa mà thôi, Ngài còn tìm hiểu học hỏi những đạo giáo, môn phái triết học khác mà có khi Ngài không thích. Nhờ thế tầm hiểu biết của Ngài thật bao la rộng lớn và mỗi khi bàn đến vấn đề gì, Ngài cũng tỏ ra thấu triệt, quán xuyến, không ai qua mặt được và bao giờ cũng nắm phần thắng lợi. Chúng ta sẽ thấy những bằng chứng cụ thể về điểm này trong các cuộc tranh luận giữa Ngài và các đạo giáo khác.

Phần XII. TRANH LUẬN VỚI CÁC PHÁI TIỂU THỪA VÀ NGOẠI ĐẠO

Sau 6 năm chu du và học hỏi khắp 5 xứ ở Ấn Độ, Ngài Huyền Trang trở về Na Lan Đà. Ở đây Ngài được toàn thể tăng chúng tiếp đón rất nồng hậu và Ngài Giới Hiển vô cùng trọng nể. Vị trưởng lão này giao cho Ngài chủ trì các khoá giảng, ngoài ra còn sai Ngài giảng về Nhiếp Đại Thừa Luận, Duy Thức quyết trạch luận cho tăng chúng cả chùa nghe.

Trong số các đệ tử của pháp sư Giới Hiển có vị Sư Tử Quang thấy Ngài được trọng đãi và làm chủ giảng, có ý không phục. Ông bèn lấy lý Trung luận, Bách luận để phá nghĩa lý Du già, Ngài Huyền Trang vốn thông suốt cả Trung luận, Bách luận và Du già nên hội thông cả ba tông, do vậy mà cho là không trái nhau và làm ra 3.000 bài tụng “Hội tông luận”, giảng rõ đại nghĩa trình lên Giới Hiển và đại chúng, ai ai cũng đều khâm phục. Sư Tử Quang tự biết sức học của mình không thể nào theo kịp Ngài Huyền Trang, lấy làm xấu hổ bỏ chùa Na Lan Đà ra đi, một năm sau mới trở lại.

Cũng trong thời gian ấy, có người Thuận Thế ngoại đạo viết ra hơn 40 điều lý luận treo ở chùa Na Lan Đà và ngạo mạn tuyên bố rằng nếu ai có thể phá được một điều nào thì anh ta cam chịu cắt đầu đền tội.

Trong chùa không ai dám bác bỏ. Ngài Huyền Trang liền xin Ngài Giới Hiển và các vị cao tăng làm chứng cho cuộc biện luận giữa Ngài và người ngoại đạo ấy. Cuối cùng người ấy thất lý đành phải cúi đầu chịu tội và yêu cầu thi hành lời thách đố của mình. Ngài Huyền Trang cười và bảo ” Đã là một kẻ tu hành thì không bao giờ giết người. Anh định để vong hồn anh theo dõi bên mình ta hay sao?”.

Trong các nước ở Ấn Độ thời bấy giờ có nước Ma Kiệt Đà là một nước lớn ở Trung Ấn Độ, ở dưới quyền thống trị của vua Giới Nhật. Vị vua này rất sùng mộ Đại Thừa Phật Giáo, và là một vị vua vừa có tài trị dân, vừa là một thi sĩ. Uy tín và ảnh hưởng chánh trị của ông lan xa trong 5 xứ Ấn Độ. Phật Giáo ở Ấn độ thời bấy giờ mất dần thanh thế, nhưng ở nước Ma Kiệt Đà, nhờ ảnh hưởng và uy tín của vua Giới Nhật vẫn còn thịnh hành.

Vua Giới Nhật đi qua nước Ô Đồ nghe tin có một vị tu sĩ theo Tiểu Thừa có danh tiếng tên là B¸t Nhã Cúc Đa làm ra 700 bài tụng “Phá Đại Thừa luận”, chê phái Đại Thừa là “Không hoa ngoại đạo”. Vua liền viết thư cho Ngài Giới Hiển xin cho người đến Ô Đồ biện luận phải trái. Ngài Giới Hiển nhận thư, thương nghị cùng các vị cao tăng đại đức trong chùa Na Lan Đà, và cuối cùng quyết định cử Ngài Huyền Trang với ba người nữa là sư Tử Quang, Hải Tuệ, Trí Quang đến đó biện luận. Ba người này lo sợ không dám lãnh sứ mệnh ấy. Trái lại, Ngài Huyền Trang không chút sợ hãi, tìm được nguyên văn 700 bài tụng “Phá Đại Thừa luận” đêm ngày nghiên cứu, có chỗ nào nghi nan thì cùng người Thuận Thế ngoại đạo mà Ngài đã thuyết phục trước kia thảo luận, rồi viết thành 1.600 bài tụng “Phá ác kiến luận”. Những bài này rất được Ngài Giới Hiển và tăng chúng trong chùa thán phục.

Ngài Huyền Trang sắp đi đến nước Ô Đồ tranh luận thì vua Cưu Ma La ở cực Đông Ấn Độ vì hâm mộ sự uyên bác của Ngài Huyền Trang nên sai sứ đến thỉnh Ngài đến nước ấy giảng đạo. Điều đáng chú ý là vua Cưu Ma La mặc dù theo Bà La Môn giáo vẫn không ngại nghe giảng về giáo lý Phật Đà. Do thái độ rộng rãi không cố chấp và luôn luôn tìm kiếm học hỏi ấy nên của Cưu Ma La được kẻ tài đức ở các nơi hâm mộ, kính yêu.

Khi vua Giới Nhật thân chinh xong trở về nước mong được hội kiến với Ngài Huyền Trang để sắp đặt cuộc đấu lý giữa Ngài và các phái Tiểu Thừa và ngoại đạo hầu làm sáng tỏ giáo nghĩa Đại Thừa nhưng Ngài Huyền Trang còn ở nước Cưu Ma La chưa trở về. Vua một mặt tức tốc phái người đi trước đến nước ấy triệu Ngài về, một mặt thân hành đi sau đón Ngài.

Vua Cưu Ma La vốn là một chư hầu của vua Giới Nhật nhận được thư của vua Giới Nhật, liền tự mình hộ tống Ngài Huyền Trang trở về. Đoàn hộ tống ngược dòng sông Hằng gồm có 20 ngàn thớt voi  và 30 chiến thuyền. Khi đến địa điểm mà hai vị vua đã hẹn gặp thì trời đã tối. Vua Giới Nhật nóng lòng muốn gặp Ngài Huyền Trang, không đợi đến sáng hôm sau, mà truyền quân tức tốc cùng mình đến đón Ngài. Đêm ấy giữa dòng sông sáng rực lên mấy ngàn ngọn đuốc và vang lên tiếng trống lớn. Cứ mỗi bước là 100 cái trống đều đánh lên một lần, đó là nghi lễ đặc biệt chỉ dành cho vị đại vương Giới Nhật mà thôi, các vị vua Ấn Độ khác không được theo nghi lễ ấy. Vua Cưu Ma La nghe báo vua Giới Nhật sắp đến cũng lật đật truyền quân đốt đuốc ra nghinh đón.

Khi gặp Ngài Huyền Trang, vua Giới Nhật liền quỳ xuống hôn chân Ngài, rồi rãi hoa trước mặt Ngài, và nhìn Ngài với vẻ vô cùng ngưỡng mộ. Sau khi không ngớt lời tán thán Ngài Huyền Trang, vua hỏi có vẻ trách móc tại sao Ngài không đến hội kiến sớm hơn (Từ khi Ngài Huyền Trang đến Ấn Độ, lần này là lần đầu tiên Ngài gặp vua Giới Nhật. Vua thường đi thân chinh, ít khi có mặt ở kinh đô Khúc Nữ).

Tuy mới gặp nhau lần đầu, 2 vị danh nhân này đã quý chuộng nhau và có cảm tình sâu đậm đối với nhau. Trước khi hỏi về đạo lý, vua Giới Nhật hỏi về tình hình nước Trung Hoa và được Ngài Huyền Trang trả lời một cách thông suốt.

Sau khi hỏi tình hình của đất nước Trung Hoa xong, vua Giới Nhật lại hỏi về công cuộc nghiên cứu đạo lý của Ngài Huyền Trang, nhất là những bài tụng mà Ngài đã làm để hiển dương giáo lý Đại Thừa và bác bỏ những lý lẽ xuyên tạc của ngoại đạo. Sau khi được biết Ngài Huyền Trang đã hoàn tất công tác mà Ngài Giới Hiển đã giao phó, vua Giới Nhật mới hội đàm với vua Cưu Na La quyết định thông tri cho các nước, mở một đại hội ở thành Khúc Nữ, kinh đô nước Ma Kiệt Đà để Ngài Huyền Trang tuyên dương giáo lý Đại Thừa và tranh luận với các phái Tiểu Thừa và ngoại đạo.

Đại hội mở ra vào những ngày đầu xuân năm 643 tại Khúc Nữ, trong một khung cảnh rất đồ sộ. Có thể nói đây là một đại thịnh hội văn hoá thứ nhất trong lịch sử Ấn Độ. Tất cả những nhân sĩ học giả uyên thâm của các giáo phái, các học thuyết ở Ấn Độ thời bấy giờ đều đến dự. Người ta đếm được 18 vị quốc vương của 18 nước, 3.000 tăng lữ thuộc Đại Thừa và Tiểu Thừa, trên 2000 người Bà La Môn và Ni Càn ngoại đạo, trên 1000 tăng lữ ở chùa Na Lan Đà đến tham dự hội nghị. Tất cả những người này, mặc dù khác tín ngưỡng, khác học thuyết, nhưng đều là những học giả cao siêu, có uy tín, có ảnh hưởng trong 5 xứ Ấn Độ. Người thì đi thuyền theo dòng sông Hằng mà đến, người thì đi voi, đi cáng dọc theo bờ sông. Mỗi người đều kéo theo nhiều đám tuỳ tùng, cờ xí rợp trời, trống kèn dậy đất. Quang cảnh thật là tưng bừng, rực rỡ và vĩ đại chưa từng thấy.Vua Giới Nhật đã truyền dựng hai dãy nhà rộng mênh mông để chứa quan khách và tăng lữ.

Ngày đầu khai mạc Đại hội, có cuộc rước Phật. Tượng Phật được cung nghinh trên một thớt voi lớn, trang hoàng lộng lẫy. Vua Giới Nhật, vấn y phục như thiên thần Indra, nắm quạt trắng đi theo hầu ở phía tay phải tượng Phật, vua Cưu Ma La vËn y phục Phạm Thiên mang lọng đi hầu ở phía trái. Trước và sau tượng Phật có trên 100 thớt voi mang những nhạc sĩ và hoa quý để tung lên sau tượng Phật. Ngài Huyền Trang và vua chúa cùng đình thần đến cỡi mỗi người mỗi thớt voi đi sau vua Giới Nhật và Cưu Ma La.

Đám rước khởi đầu đi từ doanh trại vua Giới Nhật vào lúc bình minh. Khi đám rước đến cửa hội trường mọi người đều xuống voi để rước tượng Phật vào điện thờ. Vua Giới Nhật cứ mỗi bước đi lại trải ngọc ngà châu báu xuống đất để tỏ lòng sùng kính Tam Bảo. Vua tự tay làm lễ tắm tượng Phật với nước hoa, rồi tự mình thỉnh tượng Phật lên tháp cao. Sau khi lễ Phật xong, vua Giới Nhật truyền lệnh cho 18 quốc vương thỉnh vào đạo trướng. 1000 vị cao tăng đại đức, 500 vị Bà La Môn và ngoại đạo xuất sắc, 200 vị văn võ triều thần của 18 nước. Những vị tu sĩ cư sĩ không vào được đạo tràng thì sắp hàng đứng ngoài cửa. Sau khi mở tiệc thiết đãi và cúng dường tứ sự các vị tu sĩ, hội nghị chính thức bắt đầu. Vua Giới Nhật thỉnh Ngài Huyền Trang lên pháp toạ làm luận chủ, xưng dương Đại Thừa, chế tạo luân lý và nêu vấn đề cho hội nghị thảo luận. Ngài Huyền Trang đưa ra rất nhiều lý luận của phái Đại Thừa và lấy bài “Chân duy thức luận” hữu danh của Ngài làm nội dung cho cuộc tranh luận. Ngài sai sa môn Minh Hiền đọc giữa đại chúng và dán một bản ở ngoài cửa để cho những người không thể vào được xem.

Sau khi treo bài luận ấy, từ sáng tới chiều không một người nào dám đứng ra tranh luận. Những ngày sau, Ngày Huyền Trang vẫn biện luận một cách thông suốt và không gặp một đối thủ nào ngang sức. Đến ngày thứ 5, phái đối lập thấy lý luận của mình bị đánh đổ tất cả, sanh lòng oán hận âm mưu tìm cách ám hại Ngài.

Vua Giới Nhật khám phá ra được âm mưu ấy liền ra một bản tuyên cáo, lời lẽ gắt gao “Trong đại chúng, nếu kẻ nào âm mưu làm tổn thương đạo thể pháp sư Huyền Trang sẽ bị chặt đầu, kẻ nào dèm siển, mạt sát pháp sư sẽ bị cắt lưỡi. Trái lại, kẻ nào tin tưởng vào sự công minh chính trực của trẫm mà bàn cãi một cách đường đường chính chính thì sẽ được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến”.

Trong 18 ngày liên tiếp, Ngài Huyền Trang giảng một cách minh bạch, nghÞ luận xác đáng, đưa ra những nghĩa lý tinh vi, làm cho cả hội trường không ai cãi chối vào đâu được. Sau khi hội nghị bế mạc, hàng ngàn người đã bỏ đạo lý cũ của mình để xin quy y theo Đại Thừa Phật Giáo.

Quốc vương Giới Nhật vô cùng hoan hỷ, truyền đem cúng dường Ngài Huyền Trang 10 ngàn đồng tiền vàng, 30 ngàn đồng tiền bạc, 100 bộ y bằng nỷ. 18 vị quốc vương đều tặng rất nhiều báu vật, nhưng Ngài không nhận một mảy may nào. Theo cổ lệ Ấn Độ, những người đắc thắng trong các cuộc biện luận được cởi voi đi du hành khắp nơi để được sự hoan hô của quần chúng. Bởi thế vua Giới Nhật truyền trang hoàng một con voi lớn, có 18 vị quốc vương và các vị đình thần, dân chúng đi theo hộ vệ, rồi mời Ngài Huyền Trang lên voi. Ngài từ chối 2, 3 lần nhưng mọi người đều nài ép bảo rằng đó là tục lệ nên Ngài phải làm theo. Ngài trèo lên mình voi, vua Giới Nhật n©ng chéo y của Ngài, long trọng tuyên bố với quần chúng

– Đây là vị pháp sư Trung Quốc đã lập luận về giáo lý Đại Thừa, phá tan mọi tư kiến, luôn trong 18 ngày không ai tranh luận nổi. Vậy hết thảy chúng ta phải nhận biết sự đắc thắng ấy.

Toàn thể hội trường hoan hô nhảy múa, dâng hương, tung hoa và đi theo hộ tống Ngài. Từ đây tiếng tăm của Ngài vang dội cả 5 xứ Ấn Độ.

Bên lề cuộc thắng lợi vẻ vang mà Ngài Huyền Trang đã thâu hoạch trong cuộc tranh luận với các giáo phái ngoại đạo ấy, chúng ta cũng nên biết qua những khó khăn trở ngại mà vua Giới Nhật đã gặp phải trong khi tổ chức Đại Hội có một không hai trong lịch sử văn hoá Ấn Độ.

Ở Ấn Độ hồi ấy đạo Phật đã dần dần mất thanh thế, và Bà La Môn giáo đang trong giai đoạn khôi phục thanh thế đã có từ trước khi đức Phật ra đời. Ngay ở nước Ma Kiệt Đà là một nơi đạo Phật đang còn nhiều uy tín mà trong triều đình của vua Giới Nhật, phần lớn các quan đại thần đều là tín đồ Ba La Môn giáo.

Bà La Môn giáo đang lớn mạnh, bởi thế những người lãnh đạo tôn giáo này không muốn vua Giới Nhật tổ chức đại hội nói trên mà kết quả là nâng cao uy tín của đạo Phật và Ngài Huyền Trang, một pháp sư người Trung Quốc và làm lu mờ Bà La Môn giáo và giới lãnh đạo tôn giáo ấy, trước mắt quần chúng Ấn Độ, họ tìm cách phá hoại đại hội và âm mưu ám sát cả vua Giới Nhật nữa.

Trong ngày cuối cùng của Đại Hội, lửa bỗng nhiên bốc cháy ở cái tháp mới cất để thờ Phật trong hội trường, và gian nhà 2 tầng cũng làm mồi cho lửa. Nghe tin chẳng lành ấy, vua Giới Nhật đã đau đớn và thốt lên :

“Ta đã đem hết của cải ra bố thí, và theo gương các tiên đế, ta đã xây dựng cái tháp ấy và làm các việc ích lợi khác. Nhưng vì đức ta quá mỏng nên ta không được sự ủng hộ của thần dân. Trước những tai hoạ và những điềm chẳng lành ấy, ta có cần kéo dài thêm đời sống nữa chăng?”

Nhưng cũng may mắn, có lẽ nhờ Phật gia hộ, đám lửa được dập tắt và các sự thiệt hại không lấy gì làm quan trọng. Nhưng bọn chủ mưu bà La Môn không nản lòng. Còn tiếp tục tiến xa hơn nữa trong những âm mưu đen tối. Sau khi lửa tắt, vua Giới Nhật cùng đình thần leo lên ngọn tháp để quan sát tình hình. Vua lên đỉnh tháp quan sát xong rồi theo tầng cấp bước xuống. Thình lình một kẻ lạ mặt tay cầm đoản đao phóng đến phía vua. Vua Giới Nhật nhảy lui mấy bước rồi chạy trở lên. Khi kẻ lạ mặt chạy theo gần đến, vua cúi xuống ôm lấy nó và giao cho các quan hộ vệ. Khi kẻ lạ mặt bị bắt, vua Giới Nhật không đổi sắc mặt, bình tĩnh hỏi lý do vì sao nó muốn giết Ngài. Người này khai là những người Bà La Môn tức giận vì vua đã ưu đãi tăng sĩ Phật Giáo, nên họ dự tính sau khi đốt cháy cái tháp, sẽ thừa dịp lộn xộn để ám sát vua. Nhưng đám lửa đã bị dập tắt ngay, họ không thi hành được như dự định nên thuê người ấy nắm dao đâm vua. Sau vụ mưu sát ấy, 500 người Bà La Môn bị đày ra khỏi biên giới Ấn Độ.

Phần XIII. ĐẠI THÍ TRƯỜNG “VÔ GIÀ”

Sau ngày bế mạc đại hội ở Khúc Nữ, Ngài Huyền Trang muốn từ giã Ấn Độ để về nước. Nhưng vua Giới Nhật muốn Ngài ở lại để dự Đại hội “Vô Già” là một đại hội bố thí rất lớn, tổ chức tại Bát la ra gia. Vua nói:

” Đệ tử ở ngôi vua đã hơn 30 năm nay, tích chứa của báu, cứ 5 năm một lần mở ra hội “Vô Già” đại thí trong 75 ngày. Nay đệ tử muốn mở hội lần thứ 6, vậy xin pháp sư hãy ở lại để cùng tuỳ hỷ cho vui”.

Nể lời mời của vua Giới Nhật, Ngài Huyền Trang ở lại, chứng kiến một đại hội bố thí vô cùng đặc biệt, chỉ riêng ở Ấn Độ mới có. Đại hội mở tại nước Bát la ra gia, phía Bắc giáp sông Hằng, phía Nam giáp sông Mậu na, lập trên một cái đàng rộng lớn, mỗi bề độ 15 dặm. Từ ngàn xưa, mỗi lần muốn bố thí lớn, các vua chúa đều đến đây để mở hội. Tục truyền rằng một đồng bạc bố thí ở đây có giá trị phước đức bằng 100 ngàn đồng bạc bố thí ở chỗ khác. Chung quanh đàng có hàng rào bằng tre, ở giữa có nhiều dãy nhà rộng lớn lợp tranh để chứa những vật bố thí có giá trị: vàng, bạc, châu báu, san hô, xa cừ mã não….Ngoài ra có mấy trăm kho chứa vải lụa….Trước mỗi kho, có một gian nhà có thể chứa được 1000 người. Ngoài hàng rào một dãy trại lớn được dựng lên để làm trai đường.

Khi vua Giới Nhật và Ngài Huyền Trang cùng với 18 vị quốc vương đến đại thí trường này thì có 500 nghìn người đã đợi sẵn ở đó để được bố thí.

Sau khi các vua chúa đã hạ trại xong quân lính đi theo hộ giá chia làm hai đạo, một đạo đi theo đường thuỷ, trên những chiếc thuyền lộng lẫy, một đạo đi theo đường bộ trên những thớt voi hùng dũng, tề tựu ở xung quanh thí trường, còn các vua chúa thì theo thứ tự lớn nhỏ mà đứng ở những địa điểm đã định trước.

Ngày đầu người ta cung thỉnh một tượng Phật lên điện thờ và bố thí những thứ nhất bảo và y phục vô cùng quý giá. Một bữa tiệc linh đình được thiết đãi, có hoa và nhạc.

Ngày thứ hai người ta cung thỉnh một tượng Phật thần và cũng bố thí các thứ nhật bảo và y phục quý báu nhưng chỉ bằng nữa giá trị của những thứ bố thí ngày đầu.

Ngày thứ ba người ta cung thỉnh một tượng Phật Xi-va (Civa) và cũng bố thí các thứ quý giá như ngày thứ hai.

Ngày thứ tư, người ta cúng dường cho 10.000 tăng ni. Những người này ngồi sắp thành 100 hàng dài và mỗi người nhận lãnh 100 đồng tiền vàng, một bộ y bằng vải, các thức ăn và hương hoa.

Ngày thứ năm, làm lễ cúng dường cho tu sĩ Bà La Môn và liên tiếp trong 20 ngày như thế.

Ngày thứ sáu, làm lễ cúng dường cho ngoại đạo, và liên tiếp làm trong 10 ngày như thế.

Ngày thứ bảy, làm lễ cúng dường cho các người thuộc đạo Ni Càn ở xa đến và trong 10 ngày như thế.

Sau cùng là bố thí cho các người nghèo khổ, mồ côi, vô gia đình. Lần bố thí này kéo dài trong suốt một tháng. Sau thời hạn này tất cả các kho tàng của nhà vua tích trữ trong 5 năm đều hết sạch chỉ còn voi ngựa, khí giới là những thứ cần dùng để bảo vệ an ninh, trật tự không thể đem cho được.

Đến đây Ngài Huyền Trang được chứng kiến một cử chỉ vô cùng ngoạn mục của lòng từ bi mà vua Giới Nhật đã biểu lộ trong những ngày cuối cùng của Đại thí trường Vô già. Sau khi nhận thấy quanh mình không có gì để cho nữa, vua Giới Nhật liền cởi hết cả áo mão, vòng vàng, chuỗi ngọc, tất cả những vật quý mang trong mình ra bố thí. Rồi mượn một bộ áo quần mặc thường của bà công chúa chị mình, Vua choàng vào và cúi xuống đảnh lễ 10 phương Phật. Vua chấp 2 tay trong dáng điệu vô cùng hoan hỷ và nói :

“Xưa kia đệ tử thân nhặt bao nhiêu ngọc ngà châu báu và cứ sợ kho tàng không đủ chắc chắn để thu giấu kín đáo. Nhưng bây giờ sau khi làm bố thí, đã gieo tất cả vào phước điền, đệ tử thấy rất yên lòng, vì biết không bao giờ chúng có thể mất mát đi đâu được”.

Nhưng mặc dù vua Giới Nhật đã tỏ vẻ vô cùng hoan hỷ trong cử chỉ bố thí cao cả của mình, 18 vị quốc vương nhận thấy áy náy vì không thể để cho 1 vị Đại Vương ăn mặc tầm thường như thế được. Họ phải xuất tiền của mình trong kho chuộc lại những thứ áo mão, vòng vàng, chuỗi ngọc, hoa tai, v.v…mà vua Giới Nhật đã bố thí, và đem dâng lại cho vua.

Sau khi đại hội Vô già bế mạc, Ngài Huyền Trang xin từ giả vua Giới Nhật để lên đường về nước.

Bấy giờ Ngài đã 48 tuổi, và tính ra ở Ấn Độ đúng 15 năm. Trong thời gian ấy không một giờ phút nào Ngài không nhớ đến tổ quốc. Mặc dù biết thế vua Giới Nhật vẫn còn muốn cầm Ngài ở lại nữa. Ngài Huyền Trang phải dùng những lời lẽ vô cùng vững chắc và cảm động mới làm xiêu lòng được vua Giới Nhật. Vua đề nghị nếu Ngài đi đường thuỷ sẽ cho người theo họ tống. Nhưng Ngài Huyền Trang đã có ý định từ trước là trở về bằng đường bộ, qua ngã Trung Á. Bao nhiêu cảm tình nồng hậu và kỷ niệm quý báu đang đợi Ngài ở đấy. Nhất là Ngài không thể quên lời hẹn với vua Khúc Văn Thái sẽ trở về ở lại nước Cao Xương trong một thời gian vài năm. Lời hẹn ấy có giá trị như một lời thề không thể làm ngơ được. Vì thế mặc dù Ngài có thể đi sang cực Đông Ấn Độ đến nước của vua Cưu Ma La rồi vượt núi, thẳng đường lên phía bắc là đến Trung Hoa, con đường này rất gần, nhưng Ngài không đi. Có người cho rằng Ngài không  đi đường này vì sợ gặp nhiều nguy hiểm. Nhưng đối với một người đã có lòng cương quyết, nhiêu kinh nghiệm, không hề sợ gian nguy, hiểm trở như Ngài, thì có bao giờ lại lùi bước trước một con đường rút ngắn như thế? Lý do Ngài không đi đường ấy chính là để khỏi thất hứa với vua Cao Xương. Ngài không ngờ rằng vua Cao Xương khi ấy đã chết rồi.

Khi Ngài Huyền Trang ra về, vua Giới Nhật trao tặng Ngài rất nhiều lễ vật và truyền lệnh cho một số quan lính theo hộ tống Ngài đến tận biên giới Ấn Độ để bảo vệ Ngài khỏi bọn giặc cướp rất nhiều ở sườn núi Hy Mã Lạp Sơn. Vua lại tặng Ngµi một thớt voi quý để chở Ngài đi và viết thư cho các tiểu vương các nước Ngài sắp đi qua để họ giúp đỡ, tiếp đón Ngài. Còn kinh sách và tượng Phật mà Ngài đã sưu tầm thì vua truyền lệnh cho một tiểu vương ở Bắc Ấn Độ chở đi bằng ngựa hay bằng xe trận.

Vua Cưu ma La cũng trao tặng Ngài một bộ áo bằng lông rất quý để phòng khi mưa gió, khi vượt qua rừng núi. Hai vị vua ấy còn kéo cả một đạo quân tuỳ tùng theo đưa tiễn Ngài đến mấy mươi dặm đường trên đồng bằng xứ Bạt La Ra Gia. Phút chia tay, chủ và khách đều không thể cầm được nước mắt và những tiếng thở dài thương cảm.

Ba hôm sau, khi Ngài Huyền Trang đi rồi, vua Giới Nhật và Cưu Ma La cùng mấy trăm kỵ mã lại ruỗi theo Ngài, mong gặp lại lần cuối, và tiễn Ngài thêm mấy dặm đường nữa mới lui trở về.

Phần XIV. TRÊN ĐƯỜNG VỀ TRUNG QUỐC

Trên đường về của Ngài Huyền Trang, mặc dù có quân lính của vua Giới Nhật đi hộ tống, nhưng biên giới phía Bắc Ấn Độ là những nơi đầy dẫy bọn cướp núi, nên nhiều người vẫn lo ngại sẽ có nhiều sự bất trắc xảy đến cho Ngài. Nhưng Ngài Huyền Trang vẫn tỏ ra bình tĩnh và tự tin. Ngài sai mét tăng mở đường đi trước nói với bọn cướp :” Chúng tôi là những tu sĩ ở từ phương xa đến Ấn Độ để nghiên tầm kinh điển Phật pháp. Hành lý chúng tôi chỉ gồm có kinh sách di bảo phật tích và tượng Phật. Chúng tôi tin tưởng ở sự rộng lượng của các người, nên đến để xin các người bảo bọc và giúp đỡ chúng tôi”. Ngài Huyền Trang đi sau với các đệ tử và những người hộ tống. Đi đến đâu, bọn giặc cướp đều để cho Ngài tự do đi qua.

Khi qua sông Tín Độ, là một trong 2 con sông lớn nhất của Ấn Độ, Ngài cỡi voi lội qua, còn kinh sách, hành lý và đoàn hộ tống thì đi bằng thuyền lớn. Đến giữa dòng sông, đột nhiên sóng gió nổi lên dữ dội, thuyền bị lay động mạnh sắp đắm, kinh sách trong thuyền bị rơi mất hết 50 bộ, và những hạt giống hoa quả lạ ở Ấn Độ cũng rơi theo. Người phụ trách việc chuyên chở hốt hoảng vội nhảy xuống dòng sông những may các bạn đồng hành vớt lên được. Tai nạn này đã làm cho Ngài Huyền Trang buồn rầu nhất trong chuyến Tây Du của Ngài. Nhưng cũng may lúc ấy vua nước Già Thấp Di La nghe tin Ngài sắp đến, đã đem quân ra đón Ngài ở trên bờ sông, và trước tai nạn ấy, vua đã an ủi Ngài bằng cách cho người đi chép lại những bộ kinh đã mất. Vị vua này còn hộ tống Ngài đi qua những nước chư hầu của mình, và đến đâu cũng truyền  tổ chức những cuộc đón rước Ngài rất trong thể và mở những hội bố thí khắp nơi. Sau khi từ giả vua Già Thấp Di La, Ngài đi đến phía Tây chân núi Đại Tuyết. Vua cho người hộ tống Ngài và chuẩn bị chu đáo để Ngài vượt qua ngọn núi đầy nguy hiểm này. Một vị sĩ quan và độ 100 binh sĩ đi theo mang hành lý, lương thực cho Ngài, tuy thế cuộc vượt núi này vẫn vô cùng gian khổ. Sau 7 ngày đường họ trèo lên được một quả núi lớn đầy dẫy những chóp nhọn toàn đá, hình thù quái dị. Đến đây, không còn có thể đi ngựa được nữa, Ngài Huyền Trang phải xuống ngựa, chống gậy đi trước mở đường. Sau 7 ngài nữa, họ mới đến được làng nhỏ gồm 100 gia đình sống bằng nghề nuôi cừu. Ngài Huyền Trang nghỉ lại đấy 1 ngày, rồi khuya hôm ấy lại tiếp tục leo núi lại. Đường đi bây giờ lại càng hiểm trở hơn lúc đầu. Đây đó nhan nhản những suối và sông đóng băng, nếu không có những người bản xứ dẫn đi từng bước thì rất dễ bị rơi xuống vực thẳm. Đoàn lữ hành bây giờ chỉ còn lại 7 nhà sư, 20 người hầu, 1 con voi, 10 con lừa và 4 con ngựa.

Sau 2 ngày đường họ mới leo lên được một chóp núi cao, toàn đá trắng mà nhìn từ xa, người ta cứ tưởng là tuyết. Chóp núi này cao đến nổi tuyết và mây không thể bao phủ được ngọn. Thảo mộc cũng không thể mọc được. Gió thổi mạnh và lạnh buốt đến nổi không một người nào đứng thẳng đước. Chim cũng không thể vượt ngang chóp núi, mà phải bay vòng quanh ven sườn.

Đoàn lữ hành đi dần xuống phía dưới và hạ trại ven sườn nằm nghỉ một đêm. Sáng hôm sau họ lại tiếp tục cuộc hành trình trong gió tuyết. Sau khi vượt qua được núi Đại Tuyết, Ngài Huyền Trang ở trọ 1 tháng tại Diệp Hộ Nha, trong doanh trại của 1 vị tiểu vương ở vùng ấy để lấy lại sức và chuẩn bị cuộc vượt qua núi Thống Lĩnh.

Thống Lĩnh là một dãy núi cao độ chừng 4,5 ngàn thước, quanh năm có tuyết phủ, cây cỏ mọc sơ sài, ngoại trừ một loại cây hành thì lại mọc rất nhiều và tốt, vì thế nên người Trung Hoa mới đặt tên miền núi ấy là Thống Lĩnh. Miền này quá lạnh lẽo nên dân cư thưa thớt và phải ở trong hang đá, lẫn lộn với súc vật cho đỡ lạnh. Qua khỏi dãy núi này thì đến một thung lũng nằm giữa hai trái núi cao đồ sộ, quanh năm có tuyết và gió gào thét một cách ghê rợn. Đoàn lữ hành của Ngài Huyền Trang lội suối trèo đèo, đi quanh co, trong những dãy núi tuyết ấy hết ngày này sang ngày khác, nếm đủ những lao khổ cùng cực. Vượt qua Kiệt Bàn Đà, Ô Sắt mới đến được nước Khư Sa (Thuộc xứ Tân Cương). Từ Khư Sa, Ngài đã đi qua nước Tích Cư Già và cuối cùng đến nước Vu Điền. Vu Điền là một nước phồn thịnh có văn hoá cao, dân cư sinh sống về nghề nuôi tằm dệt lụa, làm len dạ và khai thác cẩm thạch. Tín đồ Phật Giáo ở đây rất đông, tu sĩ có đến 5000 người, hầu hết theo Đại Thừa. Chùa chiền có đến 100 cảnh. Vua Vu Điền là một Phật tử rất hâm mộ Ngài Huyền Trang, nên mời Ngài lưu lại Vu Điền trong 7 tháng. Trong thời gian này Ngài vừa giảng dạy Phật pháp cho dân chúng ở đây, vừa phái người đi đến các nước Khuất Chi, Khư Sa để dò tìm sao lại các bản kinh bị thất lạc khi qua sông Tín Độ. Nhưng công việc chính của Ngài trong lúc ở lại Vu Điền là viết một tờ biểu sai người theo bọn lái buôn mang về Tràng An dâng lên vua Đường Thái Tông. Sở dĩ có tờ biểu ấy là vì, khi ra đi, Ngài Huyền Trang đã trái lệnh cấm của triều đình. Ngài sợ bây giờ trở về vua Thái Tông sẽ truy trách cái lỗi trước, nên viết biểu về vừa tạ tội, vừa có ý báo tin sự thành công của mình trong cuộc Tây Du.

Sau khi sai người đem tờ biểu đi rồi, Ngài Huyền Trang ở lại Vu Điền, đêm ngày trông ngóng tin tức. Thế rồi một buổi sáng kia, sứ giả trở về, mang theo tờ sắc chiếu của vua Đường Thái Tông. Tờ chiếu có ý như sau :

“Trẫm nghe tin nhà sư đi phỏng đạo cõi xa, nay mới trở về, hoan hỷ vô chừng ! Mong kịp về đến nơi cùng trẫm tương kiến. Nếu có những thầy tăng nước ấy mà biết chữ Phạn, hiểu nghĩa kinh thì cũng cho đem về. Trẫm đã sắc cho các đạo Vu Điền sai các nước đem quân tiễn tống, cùng là sức người, xe cộ phải cung ứng cho đủ. Lại sai các quan ty Đôn Hoàng đón tiếp ở bãi Lưu Sa, người nước Nghiệp đón tiếp ở bến Thư Mạt (Nay là huyện Nặc Khương xứ Tân Cương)”.

Phần XV. NGÀY KHẢI HOÀN

Từ đây, con đường về của Ngài Huyền Trang như có trải nhung lụa. Mỗi đoạn đường là có người đón tiếp hoan nghênh, phục dịch. Qua rồi những cảnh tượng hãi hùng của biển cát mênh mông của đèo cao hố hiểm, của mưa tuyết gió băng, của sông sâu sóng cả. Qua rồi những ngày dµi đói khát, những đêm đen lạnh lùng, những thú dữ rừng thiêng, những cướp rừng cướp biển !

Đến Đôn Hoàng, Ngài dừng lại nghỉ ngơi một thời gian và dâng thêm một tờ biểu nữa để báo tin mình sắp về Tràng An. Vua Đường Thái Tông tiếp tờ biểu, biết Huyền Trang sắp về tới, liền sai các quan sửa soạn nghênh tiếp Ngài.

Tin Ngài Huyền Trang ở Ấn Độ trở về lan khắp Trung Quốc một cách nhanh chóng. Khi Ngài ra đi, tin tức được giữ kín đáo bao nhiêu, thì ngày nay, khi Ngài về, tin tức lại loan truyền rộng rãi bấy nhiêu. Dân chúng vừa ngạc nhiên, vừa khâm phục, vừa hiếu kỳ trước một cuộc đi vô cùng mạo hiểm mà họ chưa bao giờ tưởng tượng được, nên đã tề tựu về Tràng An, đổ xô ra các ngã đường để được chiêm ngưỡng dung nhan của một bậc vĩ nhân đã làm vẻ vang cho nước nhà và cho nền đạo pháp. Tràng An hôm ấy được trang hoàng như một đại hội hiếm có. Dân chúng đứng đông đặc ở các đường phố, làm nghẽn tất cả lối đi, đến nỗi khi Ngài Huyền Trang xuống thuyền sang sông rồi, nhưng không thể nào lên bờ để vào thành được. Đêm ấy, Ngài nghỉ lại ở trên sông. Sáng hôm sau, rút kinh nghiệm ở hôm trước, cuộc tiếp rước Ngài được tổ chức một cách vô cùng rực rỡ và chu đáo.

Tất cả các vị tăng, ni các chùa ở Tràng An đều tề tựu đông đảo tại đường phố Chu Tước để rước Ngài về chùa Hồng Phúc. Mọi người đều nô nức mang theo nào hương án, tµng lọng, tràng phan, bảo cái, hương hoa. Đám rước diễn hành từ đầu đường Chu Tước cho đến chùa Hồng Phúc, kéo dài đến mấy dặm đưòng. Các vị tăng, ni đều mặc lễ phục, vừa đi vừa tán tụng theo điệu nhạc Thiền. Những kinh điển, Phật tượng, xe dù, hoa phan và các sản vật đem từ Ấn Độ về được sắp đặt rải rác trong các đám rước để dân chúng được chiêm ngưỡng tận mắt.

Hai bên đường, các nhân sĩ, quan khách và dân chúng đứng chật ních, nhìn đám rước đi qua với một dáng điệu vô cùng cảm phục. Người và xe ngựa nhiều quá đến nổi các người có nhiệm vụ giữ gìn trật tự, để tránh những tai nạn xảy ra, bắt buộc ai đứng chỗ nào thì ở yên chỗ ấy mà đốt hương trầm hay tung hoa chứ không được đi theo, đám rước chỉ dành riêng cho giới tăng ni.

Có lẽ đây là lần đầu tiên ở Tràng An được thấy một cuộc đón tiếp trang nghiêm và đồ sộ như thế. Hôm ấy là ngày 24 tháng giêng năm 645 (Năm Trinh Quán thứ 19 đời Đường). Sau 17 năm xa cách, Tràng An đã có nhiều sự thay đổi. Nhưng đối với bản thân Ngài sau cuộc viễn du vĩ đại, lại có nhiều sự thay đổi hơn. Về thể chất Ngài đã là một ông già 50 tuổi, nhưng về tinh thần Ngài thu thập được bao nhiêu kinh nghiệm nhân loại về đủ mọi địa hạt, bao nhiêu tinh hoa của nhân loại, bao nhiêu nguồn sáng của ánh Đạo Vàng.

Về Tràng An được mấy hôm, Ngài Huyền Trang lật đật lên đường đến Lạc Dương, kinh đô thứ hai của vua Đường để kịp yết kiến Đường Thái Tông. Đây là lần đầu tiên, Ngài Huyền Trang được yết kiến Đường Thái Tông. Mặc dù mới gặp nhau, câu chuyện giữa một cao tăng với một vị anh hùng cái thế, xem như đã tương đắc. Sau khi đón tiếp và uỷ lạo rất hậu Ngài Huyền Trang, Đường Thái Tông mới gợi chuyện xưa :

– Khi pháp sư ra đi, sao không báo cho trẫm biết?

Ngài Huyền Trang kính cẩn trả lời :

– Trước khi Huyền Trang ra đi, đã hai ba lần tâu xin, chỉ vì lòng thành nhỏ mọn không đạt tới, nên không được chuẩn y. Song vì lòng mộ đạo khôn xiết, mới tự lẻn đi, cái tội tự chuyên ấy, bần tăng rất lấy làm sợ hãi.

– Không, trẫm đâu có trách. Nhà sư đã bỏ tục mà xuất gia, thế mà còn liều mình đi cầu pháp để mong làm lợi dân sinh, thì thật đáng khen. Trẫm rất lấy làm ngạc nhiên là non sông cách trở xa xôi thế kia, mỗi phong tục mỗi khác, thế mà sao nhà sư lại đạt tới được cả?

Trước lời khen ngợi ấy, Ngài Huyền Trang đã đáp lễ bằng một câu rất khéo :

– Từ ngày bệ hạ lên ngôi cửu ngũ, bốn phương được phẳng lặng, oai đức của bệ hạ lan xa đến bên kia Thống Lĩnh. Vua tôi các rợ chư hầu mỗi khi thấy một con hồng nhạn cỡi mây từ phương Đông lại cũng thành kính đón chào, Huyền Trang được đi về vô sự cũng nhờ ở cả thiên uy.

Vua đáp lại một cách khiêm tốn :

– Lời bậc trưởng th­îng nói như vậy, trẫm đâu dám nhận.

Vua lại hỏi tình hình ở ngoài cõi Tây vực, từ Thống Lĩnh trở về phía Tây cho đến xứ Ấn Độ. Ngài Huyền Trang tâu trình một cách thông suốt, rõ ràng như vẽ ra trước mắt vị vua thông minh và hiếu học ấy. Đường Thái Tông rất lấy lòng vừa ý đẹp lòng trước sự uyên bác, lịch thiệp của pháp sư nên khuyên Ngài Huyền Trang hoàn tục để ra tham chính giúp vua. Ngài Huyền Trang một mực từ tạ với những lý lẽ rất xác đáng.

– Huyền Trang từ nhỏ đã theo dòng Chi Môn, học về Phật đạo, chuyên tâm Huyền Môn, chưa từng nghe Khổng giáo. Nay bệ hạ bắt hoàn tục thì chẳng khác gì con thuyền đang thuận dòng, mà bắt phải bỏ nước lên cạn, chẳng những là vô ích mà còn thêm hủ bại mà thôi. Xin bệ hạ cho Huyền Trang này được toại nguyện, suốt đời hành đạo để báo quốc ân.

Biết không thể lay chuyển được một người đã có dư can đảm và nghị lực để làm theo ý nguyện tìm đạo của mình, vua không nài ép Ngài hoàn tục nữa, nhưng lại đề nghị một chuyện khác : Đường Thái Tông sắp đi chinh phạt Liêu Đông, muốn mời Ngài Huyền Trang đi theo để sớm hôm trò chuyện. Trước lời mời này, Ngài cũng đã từ chối một cách khéo léo, và còn ngụ ý không tán thành sự chinh chiến của nhà vua.

– Bệ hạ đi Đông chinh đã có đại quân hộ vệ, đánh dẹp loạn quân trừ kể tặc thÇn, thế nào cũng có cái công chiến thắng như trận Mục Dã, các tin báo tiếp như trận Côn Dương. Huyền Trang tự lượng sức không thể hỗ trợ cho công việc trận mạc được, chỉ thêm thẹn là làm tốn thêm tiền của lộ phí mà thôi, vả lại việc binh nhung chiến đấu, luật nhà chùa cấm không được dự, không được xem. Đức Phật Tổ đã có lời dạy cấm sát. Vậy cúi xin thánh thượng mở lòng thương xót miễn cho”.

Một lần nữa, Đường Thái Tông, một vị đế vương uy quyền lẫm liệt, chưa từng bị ai làm trái ý, đã hoan hỷ nhượng bộ Ngài Huyền Trang, và để Ngài trở về Tràng An lo việc phiên dịch 657 bộ kinh điển mới đem từ Ấn Độ về.

Phần XVI. PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN

Ngài Huyền Trang sau khi yết kiến Đường Thái Tông, trở về Tràng An vào ngày 01 tháng 03 năm 645, ở chïa Hồng Phúc. Công tác chính của Ngài bấy giờ là lo tổ chức việc phiên dịch những kinh điển mà Ngài đã mang từ Ấn Độ về.

Ngài triệu tập một số rất đông các cao tăng học rộng nghe nhiều để cộng tác với Ngài vì công tác sẽ phức tạp. Về các việc như chứng nghĩa, xuyết văn, bút thụ, thủ thư … thì có trên 50 người sa môn đảm nhiệm, còn việc dịch cho chỉnh nghĩa thì có đến 23 vị học thức trác tuyệt. Ngài đã tổ chức một hệ thống phiên dịch rất hoàn chỉnh gồm có :

– Vị dịch chủ : là người chỉ huy, tinh thông Hán, Phạn, nghĩa lý phán đoán xác thực. Chức vụ này do Ngài Huyền Trang đảm nhiệm.

– Vị bút thụ : dịch nghĩa Phạn văn ra Hoa văn.

– Vị độ ngữ : thạo tiếng Phạn, đọc lên để nghe âm vận, nếu không ổn thì phiên âm lại.

– Vị chứng Phạn : để đem so lại với Phạn văn có đúng không.

– Vị nhuận văn: làm công việc nhuận văn cho hợp với văn pháp Trung Hoa.

– Vị chứng nghĩa : đem bản dịch so lại nghĩa nguyên bản, nếu sai thì chữa lại.

– Vị tổng khám : xét chung lại một lần cuối cùng trước khi hoàn thành bản dịch.

Công tác phiên dịch bắt đầu trung tuần tháng 5 năm 645 đến cuối năm ấy hoàn tất được bốn loại như : Đại Bồ Tát tạng kinh (12 quyển), Phật địa kinh (1 quyển), Lục môn đà la ni kinh (1 quyển), Hiển dương thánh giáo luận (20 quyển). Mùa thu năm sau, phụng mệnh vua Thái Tông, Ngài thuật cho đệ tử là Biện Cơ chép lại cuộc Tây du của Ngài trong 17 năm, trải qua 138 nước một cách tường tận. Những điều Ngài đã nghe thấy, học hỏi về lịch sử, phong thổ, vị trí, sơn xuyên, thổ sản, nhân tình ở những nơi Ngài đi qua đều được ghi chép thành 12 quyển nhan đề là “Đại Đường Tây Vực ký“. Bộ sách này không những là một bộ du ký vĩ đại cổ điển, mà còn là một bộ lịch sử, địa lý trọng yếu ghi chép các nước Trung Á và Ấn Độ. Nhiều nhà học giả chuyên môn ngoại quốc nghiên cứu bộ sách này đều phải công nhận đó là một bộ sách vô cùng quý báu, có một phạm vi rất lớn, kỹ thuật chính xác và nội dung phong phú, có giá trị nhất trong các loại sách du ký thời xưa. Vì thế các nước Liên Xô, Nhật Bản, Anh, Đức, Pháp, Mỹ đều có phiên dịch ra tiếng nước họ. Ngày nay các nhà bác học chuyên nghiên cứu về sử, địa dựa vào bộ sách ấy rất nhiều để chỉnh lý những lịch sử, địa lý mơ hồ về nước Ấn Độ thế kỷ thứ VII.

Tháng 5 năm 648, Ngài Huyền Trang đã dịch xong 9 bộ kinh, lấy đề chung là “Tân phiên kinh luận”. Vua Đường Thái Tông muốn kỷ niệm cuộc Tây du của Ngài Huyền Trang và ghi công đức của Ngài, nên đích thân tự viết bài tựa cho tập phiên dịch ấy. Bài tựa nhan đề là “Đại Đường Tam Tạng Thánh giáo” gồm 781 chữ. Đây là một đặc ân vô cùng quý báu mà vua Thái Tông đã dành cho Ngài.

Tháng 10 năm ấy, Hoàng Thái tử Lý Trị, vì muốn kỷ niệm báo ân mẫu thân mình nên xây dựng tại Tràng An một cảnh chùa đồ sộ, lấy tên là chùa Từ Ân, trong chùa có một sở đặc biệt dành cho việc phiên dịch gọi là “Phiên kinh viện”. Vua triệu Ngài Huyền Trang đến đấy để tiếp tục phiên dịch cho đủ tiện nghi.

Cuộc đón rước Ngài Huyền Trang đến chùa Từ Ân đã được triều đình tổ chức rất trọng thể. Mở đầu đám rước là một pho tượng lớn cung nghinh trên một cổ xe, 2 bên tả hữu có 2 tràng phang lớn nêu cao trên 2 xe khác. Tiếp theo sau là 1500 chiếc xe trang hoàng lộng lẫy, 300 lọng gấm, 200 ảnh tượng thêu hay vẽ trên lụa, 500 tràng phang bảo cái thêu bằng kim tuyến. Rồi đến tất cả những kinh điển đã thỉnh ở Ấn Độ về cũng được rước trên những hương án chở trên xe. 50 vị trưởng lão hoà thượng được rước trên 50 chiếc xe, còn tăng, ni thì đi bộ theo sau, vừa đi vừa tung hoa và tụng niệm. Sau nữa là văn quan và võ quan sắp hàng theo thứ tự cấp bậc. Cuối cùng là 9 ban thanh nhạc trong nội phủ dàn ra thành 2 hàng dài, vừa đi vừa tấu nhạc.

Dân chúng Tràng An đều đổ ra xem, ban tổ chức phải huy động đến 1000 binh lính để theo giữ trật tự ở hai bên đường. Vua Thái Tông, Hoàng Thái Tử và cung phi đều đứng trên lầu Nhân Phúc Môn, kính cẩn bưng lư hương, trầm nghi ngút nhìn theo đám rước đang diễn hành vô cùng ngoạn mục và trang nghiêm trên các đường phố đi đến chùa Từ Ân.

Đường Thái Tông lúc bấy giờ đã già yếu. Sau một cuộc đời tung hoành ở các trận mạc vô cùng sôi nổi hiên ngang, Thái Tông cảm nghe mệt mỏi, chỉ thích nơi thanh nhàn tĩnh mịch. Do đó, mối thân tình giữa Thái Tông và Ngài Huyền Trang càng tăng lên. Vua thường mời Ngài vào cung giảng đạo và nhất là kể lại cuộc Tây du đầy mạo hiểm kỳ lạ của Ngài cho vua nghe hay cùng vua đi dạo. Sau khi Đường Thái Tông mất (10/07/649), Ngài Huyền Trang ít khi bước chân ra khỏi chùa Từ Ân, chỉ chuyên tâm vào phiên dịch. Ngài sợ thọ mệnh của mình hữu hạn, không làm xong công tác nặng nề, khó khăn ấy nên lại càng sách lệ mình tinh tấn làm việc, hết ngày lại đêm không biết mệt. Ngài Huệ Lập là một đệ tử thường túc từng theo bên Ngài 20 năm, thuật lại sự tinh tấn của Ngài :

“Ngài ở chùa Từ Ân, chuyên lo phiên dịch, ngày nào gặp việc, dịch chưa xong, thì đêm đến, dịch thế lại, dịch cho đến chỗ đã làm dấu trước trong nguyên bản mới dừng bút. Khi dịch xong, Ngài xếp sách đi lễ Phật, kinh hành đến canh ba mới tạm nghỉ. Sang canh năm Ngài đã trở dậy, đọc to bản kinh chữ Phạn, lấy điểm son làm dấu thứ tự, định trước những đoạn sẽ dịch trong ngày. Mỗi ngày sau giờ thọ trai, và lúc hoàng hôn, Ngài giảng kinh luận mới dịch, và giải đáp những nghi nghĩa mà các học tăng khắp nơi thường đến thỉnh giáo. Ngoài ra vì chức vụ trụ trì tại chùa của Ngài, nên mọi tăng sự, mọi công quả trong chùa Ngài phải đặt mắt đến và giải quyết. Tối lại, hàng 100 đệ tử trong chùa đều cầu Ngài dạy bảo. Đầy nhà, đầy hiên đều là nơi thù đáp, không bỏ sót một ai. Tuy phải nhiều việc bận rộn như thế, mà lúc nào thần khí của Ngài cũng vẫn thư thái, chẳng chút ủ trệ” (Đại Từ Ân Tam Tang pháp sư truyện).

Vua Cao Tông, kế vị vua Thái Tông đối với Ngài cũng rất kính mến, nhưng thỉnh thoảng Ngài mới đến yết kiến, vì sợ mất thì giờ cho công tác phiên dịch mà Ngài cho như là công tác chính sau cuộc Tây Du.

Tháng 3 năm 652 (Năm Vĩnh Huy thứ 3) Đường Cao Tông vì muốn làm nơi chứa kinh điển và tượng Phật đem từ Ấn độ về, mới dựng một toà tháp 5 tầng ở phía Tây chùa Từ Ân. Từ ngày khởi công, cứ sáng sớm, người ta thấy một vị sư già ngoài 50 tuổi vác gạch đá, mới nhìn không ai có thể nhận ra vị sư ấy chính là Ngài Huyền Trang, người đã được cả vua chúa từ Ấn Độ đến Trung Hoa kính bái như một bậc thầy cao cả. Ngài cùng công nhân xây dựng tháp ấy trong 2 năm mới xong, toà tháp ấy ngày nay vẫn còn đứng sừng sững ở thành Tây Ân, tỉnh Thiểm Tây.

Sau đó 5 năm, Ngài lại dịch được thêm 10 bộ kinh luận nữa. Bấy giờ Ngài đã già yếu, vì đã dùng sức quá độ trong cuộc Tây Du và trong việc phiên dịch, Ngài thường có chứng đau ngực mà Ngài đã mắc phải trong khi vượt núi Thống Lĩnh. Đau thì Ngài dùng thuốc chứ không bao giờ nghỉ việc phiên dịch và dạy học.

Lạc Dương là quê quán của Ngài, và đây là lần đầu tiên Ngài được dịp về thăm quê hương sau gần 40 năm xa cách. Thân thuộc của Ngài bây giờ chỉ còn một người chị già, lấy chồng ở Doanh Châu. Ngài cho người đi đón chị về. Chị em gặp nhau, mừng mừng tủi tủi, không nói nên lời. Ngài nhờ chị dẫn đến mộ phần song thân qua đời đã gần 40 năm trước lúc nhà Tuỳ đang ở trong cảnh hoạn lạc. Nhận thấy mộ phần song thân lâu ngày bị bỏ đồi tệ, Ngài tự đi tìm đất, sắm quan cách cải táng hài cốt của song thân. Trong cuộc cải táng này, cả tăng lẫn tục có trên 10 ngàn người.

Đến 65 tuổi, tại Ngọc Hoa Cung, Ngài bắt đầu dịch bộ kinh sau cùng bằng chữ Phạn là bộ Đại Bát Nhã kinh, tổng cộng có 200 ngµn bài tụng là công việc rất to tát và khó khăn.

Các đệ tử đều cho rằng số chữ nhiều quá nên rút ngắn lại, Ngài Huyền Trang trái lại, có quan niệm rằng việc phiên dịch không nên vì số chữ nhiêu mà cắt bớt nguyên văn và dịch tiết để làm mất nguyên ý. Ngài chủ trương không bỏ một chữ nào, cứ phiên dịch thật đúng toàn bộ. Thật là một quan niệm rất sáng suốt và phương pháp làm việc của Ngài cũng rất khoa học : Ngài lấy 3 bộ “Đại Bát Nhã” không cùng một mẫu đem từ Ấn Độ về, kể đến đoạn nào ngờ thì đem ra so sánh, hiệu duyệt cẩn thận đến 2,3 lần mới dám hạ bút.

Trước khi cầm bút dịch bộ kinh đồ sộ này, Ngài nói với Chư tăng :”Trang nay đã 65 tuổi, tất sẽ lâm chung tại Già Lam này, mà kinh bộ thì quá lớn, sợ e dịch không trọn được. Vậy chư vị hãy gắng sức gia công, chớ từ lao khổ”.

Ngài và các đệ tử tinh tấn làm việc, không một chút trễ biếng, trong hơn 3 năm trời mới dịch xong bộ kinh gồm 600 quyển ấy (tháng 11/663). Năm ấy Ngài đã 68 tuổi. Và ngày từ giã cõi đời cũng sắp đến với Ngài rồi!

Phần XVII. TỪ GIÃ CÕI ĐỜI

Sau khi phiên dịch xong tổng cộng 75 bộ kinh chữ Phạn, gồm 1.335 quyển, Ngài Huyền Trang nhận thấy sức lực mình đến đây đã suy nhược lắm rồi và ngày từ giã cõi đời cũng không còn bao lâu nữa.

Vào cuối tháng giêng năm Lân Đức nguyên môn (664), các vị đại đức dịch kinh và đồ chúng ân cần xin Ngài dịch tiếp bộ kinh Đại Bảo Tích. Mặc dù đã 69 tuổi và trong mình đã suy yếu lắm rồi, Ngài vẫn nắm bút gắng gượng dịch để khỏi phụ lòng tha thiết của chúng tăng. Dịch được ít dòng, Ngài đặt bút xuống, xếp bản sách chữ Phạn lại bảo đại chúng rằng :

“Số lượng bộ kinh này cũng bằng số lượng Đại Bát Nhã, Huyền Trang tự lượng khí lực không còn dịch nổi. Giờ chết sắp đến, thế không lâu nữa, nay ta muốn qua hang Chi Lan lễ từ Phật tượng mà thôi”.

Môn nhân tăng chúng cùng đi với Ngài. Lạy Phật xong Ngài trở về chùa, nghỉ hẳn việc dịch, chuyên tinh hành đạo. Nửa đêm ngày 05/02 Ngài viên tịch. Trước khi viên tịch, Ngài hội đệ tử lại dạy rằng :

“Ta nhận biết ngày lâm chung của ta sắp đến rồi. Sau khi ta mất, các người hãy tống táng ta một cách đơn sơ giản dị. Hãy bỏ di hài ta vào một manh chiếu và an táng ở một nơi nào thâm u tĩnh mịch chứ đừng bày vẽ nhiều điều vô ích”.

Vài giờ trước khi mất, sau một giấc ngủ, Ngài thức dậy và hoan hỷ kể cho các đệ tử nghe rằng Ngài vừa nhận thấy một toà sen rất lớn vô cùng đẹp đẽ nở ra trước mắt. Ngài lại chiêm bao thấy những người rất cao lớn ăn mặc toàn gấm vóc, nắm những dãi lụa thêu hoa và thất bảo, từ phòng Ngài sang phòng phiên dịch để trang hoàng, từ trong cho đến ngoài phòng. Ngài lại nói với các đệ tử:

“Các người hãy bình tĩnh và hoan hỷ từ giã thân giả tạm này sau khi nó đã làm xong nhiệm vụ. Ta nguyện đem công đức này hồi hướng khắp tất cả chúng sanh, và cùng chúng sanh chứng nhập cung trời Đạo Lợi. Ta nguyện trong những kiếp sau, trở về cõi ta bà này để hoá độ chúng sanh cho đến khi được giác ngộ hoàn toàn.

Nam mô Di Lặc Tôn Phật, xin Ngài hãy thị hiện trong cõi ta bà này để đệ tử và chúng sanh được chiêm ngưỡng. Nam mô Di Lặc Tôn Phật, xin Ngài hãy độ cho đệ tử được vào hàng thánh chúng của Ngài”

Pháp sư Huyền Trang nhập định và trút hơi thở cuối cùng. Sắc mặt Ngài vẫn hồng hào và nét mặt Ngài phản chiếu một niềm hoan lạc vô biên.

Ngài mất vào giữa đêm 05/02/664, tại Ngọc Hoa Cung, hưởng thọ 69 tuổi. Nghe tin Ngài từ trần, vua Đường Cao Tông và quan dân tăng chúng không ai không cầm được nước mắt vì thương tiếc Ngài. Tại cung vua bãi triều 3 ngày.

Lễ an táng Ngài cử hành vào Ngày 14/04 tại Bạch Lộc Nguyên, với sự tham dự của hơn 100 vạn người (1000.000) ở Tràng An và các miền phụ cận, trong số ấy có 3 vạn người làm lều ở cạnh mộ Ngài mà ở.

Với con số người hộ táng ấy đã nói lên sự cảm phục và thương mến của mọi người đối với Ngài thiết tha biết bao nhiêu!

Soạn xong lúc 9 giờ ngày 02/10/2007.

 ***********

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Đường Tam Tạng thỉnh kinh – Võ Đình Cường.
  2. Cuộc đời Ngài Huyền Trang  – HT. Thích Thiện Siêu.
  3. Muôn dặm không mây – Tôn Thư Vân – NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh 2006.