ĐƯỜNG PHẬT ĐI

HƯ VÂN HÒA THƯỢNG
TUYÊN HÓA HÒA THƯỢNG
biên soạn
Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm - Bác sĩ Trần Văn Nghĩa phiên dịch

… Lòng đà như áng mây bay,
Thì nương theo gió heo may mà về ….

PHẦN IV

4.01 A Nhã Kiều Trần Như Tôn Giả

Tôn giả người Trung Thiên Trúc, thuộc bà con bên mẹ Đức Thế Tôn. Sau khi Đức Phật thành đạo vì năm người nên chuyển Tứ Đế pháp luân. Tôn giả là vị đứng đầu trong năm người ấy, nghe pháp âm liền ngộ đạo, trở thành vị tăng thứ nhất trong tăng bảo. Đức Phật gọi tôn giả là A Nhã Kiều Trần Như, cũng gọi là Câu Lân, dịch là Dĩ Tri, hoặc Vô Tri, chẳng phải là Vô Sở Tri, mà là biết tánh Không.

Bài tán:
Ca Lợi vung nhát gươm
Vốn chẳng nghe thuyết giải
Lộc Uyển xướng đạo ca
Riêng sư đầu tiên họa.

Một lỗ tai đã điếc
Một câu nói tuôn trào
Nhiệt tâm che đại địa
Tăng nhân ngồi tòa cao.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 20 tháng 1, 1973

Phật xưa nguyện độ đầu tiên
Từ bi bình đẳng tự nhiên công bằng
Tứ chi lìa, chẳng hận sân
Sáu căn hỗ dụng siêu quần lục thông
Lộc Uyển duyên thuận tương phùng
Non Thứu căn bổn vốn trong tăng già
Tâm cuồng kiếp kiếp đã qua
Giúp người giác ngộ Phật Đà tạo duyên.

4.02 Thiên Trúc Thế Thân Bồ Tát 

Bồ tát người Phú Lâu Sa Phú La, Thiên Trúc, họ Kiều Hộ Già, hiệu Bà Tẩu Bàn Đậu. Đầu tiên sư theo Bộ Tát Bà Đa xuất gia, học rộng nghe nhiều, thông suốt sách vỡ cổ văn, thần trí trong sáng, giới hạnh thanh tịnh. Về sau trú nơi nước A Du Đồ nghiên cứu rõ ràng nghĩa lý của 18 bộ phái, giải diệu nghĩa Tiểu thừa giáo, cho đó là chỗ cùng tột, không tin theo Đại thừa. Người anh là Vô Trước lo lắng, tìm phương tiện khai thị, tức thì khai ngộ. Sư nhớ lại lỗi hủy báng trước kia nên muốn cắt lưỡi để tạ tội. Người anh nói: Xưa dùng lưỡi để hủy báng thì nay dùng lưỡi tán dương. Nhân đó, Bồ tát Thế Thân đã viết năm trăm bộ luận Đại thừa. Trước kia sư cũng đã từng viết năm trăm bộ luận Tiểu thừa nên có danh là Thiên Bộ Luận Chủ. Kim Cương, Duy Thức được đưa vào chỗ quan trọng, người đời sau tôn kính.

Bài tán
Nhị nan* đồng thời hưng
Huyền tông khởi mật ý
Chính luận trải mây lành
Giải cạn nguồn nghĩa lý

Duy Thức đà hiển minh
Tánh tướng vốn đầy đủ
Vĩnh viễn làm pháp đăng
Chiếu sáng ngàn vạn đời.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 13 tháng 9, 1985

Luận chủ ngàn bộ chẳng minh
Tiểu thừa làm chỗ thân tình không buông
Vô Trước phương tiện đưa đường
Hữu vi học giả cội nguồn thông linh
Lưỡi hủy báng, cắt tuyệt tình
Dùng lưỡi chuộc tội, xiển minh ứng thừa
Ngộ bản thể, chuyển đại tâm
Nhị nan* tiêu diệt pháp âm hưng thành.
……………
*Nhị nan hóa (二難化): Hai loại khó giáo hóa. Chỉ Dục thiên nan hóa và Sắc thiên nan hóa.
1.Dục thiên nan hóa: Chư thiên ở Dục giới chấp trước ngũ dục thượng diệu nên khó giáo hóa.
2.Sắc thiên nan hóa: Chư thiên ở Sắc giới chấp trước vào sự khoái lạc của thiền định thế gian nên khó giáo hóa.

4.03 Nhiếp Ma Đằng Tôn Giả đời Hán

kim nhân nhập mộng
hà pháp nhi đông
khai thiên khiết nhật
lực tại quyết cung

như manh thủy kiến
như lung hốt thông
nhiếp phục ngoại chúng
vĩnh bá ngô tông.

Tôn giả người Trung Thiên Trúc, dáng vẻ uy nghi, thông hiểu kinh điển Đại thừa và Tiểu thừa, thường lấy việc hoằng hóa chánh pháp làm nhiệm vụ của mình. Lúc ấy đoàn sứ nhà Hán là Trung Lang, Thái m… đang về phương Tây tìm Phật đạo, đến nước Đại Nguyệt Chi, Trung Thiên Trúc thì gặp tôn giả đang đến đất Hán, thỉnh pho tượng Phật trắng do Ưu Điền Vương làm và sáu mươi vạn lời kinh về Lạc Dương dâng lên vua. Vua liền cho lập chùa Bạch Mã để làm chỗ ở cho tôn giả, kinh Tứ Thập Nhị Chương là bản dịch đầu tiên. Vua ra lệnh cất giữ bản tiếng Phạn ở thạch thất Lan Đài, tranh tượng thì giữ ở đài Thanh Lương. Phe nhóm đạo sĩ Trữ Sĩ Lương… muốn tranh thắng bại. Tất cả sách vỡ của Đạo giáo đều cháy thiêu, kinh Phật thì đốt không cháy. Sư bay lên giữa không trung, hóa hiện thần biến, phát ra Phạm âm tuyên minh Phật pháp. Vào lúc ấy hoa trời rơi đầy, đại chúng rất vui mừng. Về sau tôn giả mất tại Lạc Dương.

Bài tán:
Người vàng báo mộng
Đưa pháp về Đông
Mở cửa mặt trời
Lực vốn tự thân.

Như mù chợt thấy
Như điếc chợt thông
Nhiếp phục ngoại chủng
Truyền bá Phật tông.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 13 tháng 9, 1985

Hán tôn giả Nhiếp Ma Đằng
Bạch Mã, Phật pháp đến lần đầu tiên
Lời vàng Tứ Thập Nhị Chương
Đèn hoa muôn kiếp bảo liên diệu kỳ
Kính tin, ngoại đạo quy y
Tiếp thụ ma quái, từ bi bao trùm
Mười tám thần biến trên thân
Hoa trời rơi khiến quỷ thần hãi kinh.

4.04 Trúc Pháp Lan Tôn Giả đời Hán

Tôn giả người Trung Thiên Trúc, có khả năng đọc tụng vạn chương kinh điển, là bậc thầy của các học giả Thiên Trúc. Lúc bấy giờ Thái m đến nước này, sư cùng với sư Nhiếp Ma Đằng là bạn cũ, cùng nhau đi Trung Hoa, cùng các học giả giải quyết những chỗ nghi ngờ trong Phật học, khi sư đến Lạc Dương, sư cùng với sư Nhiếp Ma Đằng chỉ trong thời gian ngắn học thông thạo Hán ngữ, liền phiên dịch năm bộ kinh là Thập Địa Đoạn Kết, Phật Bổn Sanh, Pháp Hải Tàng, Phật Bổn Hành, Tứ Thập Nhị Chương. Vì loạn lạc kinh đô dời đi nên bốn bộ kinh kia đã mất,chỉ còn lại kinh Tứ Thập Nhị Chương. Trước kia vua Hán Vũ Đế cho đào ao Côn Minh, thấy một thứ tro đen bèn hỏi Đông Phương Sóc. Đông Phương Sóc nói:”Không biết được, nên hỏi người Hồ ở Tây Vực”.Khi sư đến, đồ chúng hỏi chuyện này, sư nói: “Khi tận thế thì kiếp hỏa trùm khắp, chính là thứ tro này.” Sau sư mất tại Lạc Dương, thọ hơn 60 tuổi.

Bài tán:
Thánh độ chẳng một mình
Tất nhiên có trợ giúp
Ma Đằng đã về Đông
Sư cũng đến tiếp sức

Bắt đầu dịch các kinh
Sớm trút cơn mưa pháp
Là sứ giả Như Lai
Làm tổ đất Trung quốc.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 19 tháng 9, 1985

Trúc tôn giả, diệu ngữ ngôn
Dịch kinh tụng luận số muôn vạn nghìn
Dựng nền Phật đạo dưới trên
Cứu chúng sinh khắp mọi miền bắc nam.
Siêu nhật nguyệt, hạnh thanh cao
Khí trùm sông núi, suối trào mạch tuôn
Lạc Dương dị tích vẫn còn
Đức hạnh cốt cách trước sau lưu truyền.

4.05 Ngô Khương Tăng Hội Tôn Giả 

Tôn giả người nước Khang Cư, thấy Trung Quốc có ánh sáng lạ, tìm theo mà đến. Năm Xích Ô thứ 4 sư đến Kim Lăng hành đạo, quan lại trình lên Ngô vương. Tôn Quyền nói: “Có phải là Vua Minh Đế mộng thấy Phật đạo nầy không, hãy gọi đến hỏi “. Sư muốn vua thấy xá lợi thần ứng, Tôn quyền nói: “Nếu cầu được xá lợi thì sẽ dựng tháp thờ, nếu chẳng ứng nghiệm thì có luật nước có hình phạt.” Sư xin lập đàn để cầu. Trong bảy ngày đầu tiên không thấy ứng nghiệm. Bảy ngày sau đó cũng như thế. Bảy ngày sau, sáng sớm nghe tiếng như ngọc va chạm vào nhau, từ trong bình ánh sáng chiếu rạng. Dâng lên vua, Tôn Quyền và các quan cùng đến xem, tán thán sự việc hy hữu là điềm lành cho thế giới.Sư nói: “Uy thần của xá lợi không thể nào hủy hoại được. Tôn Quyền sai lực sĩ dùng chùy đập nát nhưng ánh sáng vẫn như vậy.Vua dựng tháp, lập chùa, nay là chùa Đại Báo Ân.

Bài tán:
Giang nam hội đủ duyên
Ngọn đuốc trời rạng rỡ
Theo hào quang mà đến
Sư gặp được Tôn Quyền.

Cầu thỉnh ngọc xá lợi
Trước tiên vì đại pháp
Xây tháp và dựng chùa
Đuốc tuệ vừa thắp sáng.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 19 tháng 9, 1985

Theo hào quang đến Trung Nguyên
Ngô quốc nguyên thủ Tôn Quyền là tên
Thỉnh cầu xá lợi quả nhiên
Điềm lành ứng hiện vua liền tán dương
Chùy lực sĩ, chẳng tổn thương
Quỷ thần lễ kính thanh quang bội phần
Dựng tháp, xây chùa Báo Ân
Lưu truyền thiên cổ ngàn năm lâu dài.
Ba ngàn cõi, pháp vần xoay
Mười phương hóa độ hiển bày tuyệt luân.

4.06 Tấn Phật Đồ Trừng Tôn Giả

Tôn giả người Thiên Trúc, họ Bạch. Năm Vĩnh Gia thứ tư sư đến Lạc Dương, tự nói là hơn 100 tuổi, trên bụng có lỗ dùng bông nhét kín, ban đêm thì lấy bông đi, ánh sáng chiếu khắp phòng. Lúc bấy giờ binh tướng của Thạch Lặc tàn sát nhiều người,Thạch Lặc hỏi pháp thuật để thử, sư dùng bát không niệm chú liền sinh ra hoa sen xanh màu sắc rực rỡ.Do đó, Thạch Lặc kính phục. Khi Quý Long kế vị càng thêm tin tưởng. Khi sắp thị tịch, sư đến từ biệt. Quý Long nói: “Đại hòa thượng bỏ tôi sao.” Sư nói: “Ra vào sinh tử là đạo thường, sự tu học dài ngắn phân định, không vì vậy mà tăng giảm, chẳng nên hối hận. Quốc gia còn vững tâm tin Phật pháp, nên lập chùa, độ tăng, ban phúc lành. Bạo ngược thì trái với thánh điển”. Chẳng lâu sau sư an tọa qua đời. Về sau có một vị tàng thấy sư đi vào cửa quan ải. Khi nghe kể, Quý Long liền cho mở mộ sư ra xem, chỉ thấy còn một khối đá.

Bài tán:
Thạch Lặc hung bạo
Như mãnh hổ sân
Lão sư Hồ đến
Làm khách quyết gần

Hiện ngàn hào quang
Cũng vì lòng nhân
Đến như trăng nước
Đi tựa mây tan.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 20 tháng 9, 1985

Không từ đâu có đến, đi
Hoa gương, trăng nước huyễn bày tấm thân
Thần thông khó nghĩ xa gần
Trí tuệ phương tiện báo ân quân thần
Vào sinh ra tử lẽ thường
Phân định dài ngắn phải chăng do người
Thánh tăng đức rộng thiên thời
Thấm sâu nam bắc lại dời đông tây.

4.07 Diêu Tần La Thập Tôn Giả

Sư người Thiên Trúc, sinh tại nước Quy Tư, xuất gia từ nhỏ, một ngày có thể đọc đến 32 ngàn lời. Thuở nhỏ theo mẹ vào chùa đội chiếc bình bát của Phật, tự nghĩ: “Chiếc bình bát rất lớn, nhưng có vẻ nhẹ?” thì bình bát tự nhiên trở nên nặng nhưng không thể nào đội lên được. Sư hoảng kinh kêu lớn bỏ xuống, ngộ ra rằng do tâm phân biệt nên có nặng nhẹ. Vua Sa Lặc thỉnh sư thuyết kinh, học giả tôn kính, đạo của sư vang khắp vùng Tây Vực, tiếng tăm lưu truyền Trung thổ. Vua nước Diêu Tần thừa kế đức độ Lũng Tây công đón sư về Trường An, lấy lễ tiếp đãi rất sùng kính, và thỉnh sư dịch kinh. Sư đã hiển bày nguồn vi diệu, phát huy chỗ thâm sâu. Lúc bấy giờ, hiền triết khắp bốn phương từ xa xôi cũng tìm đến, không đưa ý riêng, đều theo sư học. Phật pháp từ khi đưa vào Đông độ, đến thời sư mới bắt đầu được biên soạn. Lúc sư qua đời hỏa táng thì lưỡi không cháy, cho thấy những điều sư thuyết ra không sai lầm.

Bài tán:
Thai mẹ phát tinh anh
Trí tuệ diệu như thần
Nâng bát ngộ yếu chỉ
Tuổi nhỏ đà thuyết kinh.

Phật pháp truyền về Đông
Sai lạc nối tiếp nhau
Tạ ân sư đã đến
Phóng nguồn sáng nhiệm mầu.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 21 tháng 9, 1985

Bảy vị Phật, thầy dịch kinh
Bậc thiện tri thức tuệ minh tuyệt vời
Một ngày đọc ba vạn lời
Khắc tám trăm chữ tay người cũng chai
Nguồn thần, trí thánh hòa hài
Huyền cơ khai mở hiển bày tịch nhiên
Pháp giới trải rộng ân thiêng
Hộ trì đại pháp lưu truyền ngàn năm.

4.08 Bảo Chí Công Trưởng Lão đời Lương

Sư người Kim Lăng, họ Chu, người mẹ nghe tiếng trẻ khóc trong một tổ chim ưng nên đến bồng về nhà. Bảy tuổi xuất gia, thường tới lui vùng Hoàn Sơn, Kiếm Thủy, người đời gọi là Chí Công. Mặt sư cân đối, sáng như gương, tay chân đều có móng như chim, thường ăn cá bằm nhỏ, khi phun vào trong nước thì cá sống lại. Vua Lương Vũ Đế khiến Tăng Dao họa tượng, sư dùng tay rạch phá phần trên mặt tượng, thành 12 khuôn mặt tượng quan am rất đẹp. Tăng Dao không họa được. Năm Thiên Giám thứ 13, sư đến từ biệt vua Lương Vũ Đế. Vua kinh ngạc, nói: “Trẩm thọ được bao nhiêu tuổi?”. Sư không đáp, lấy tay chỉ nơi cổ rồi lui ra. Sư trở về núi, thắp một ngọn đuốc trao cho người nhà là Ngô Khánh. Ngô Khánh vì nghe vua than rằng tại sao đại sư không trở lại nữa mà lại cũng không dặn dò hậu sự. Sư qua đời, vua cho xây tháp năm tầng. Ngày hỏa táng, sư bất ngờ hiện ra giữa đám mây.

Bài tán:
Theo tổ chim ưng đến
Dấu vết lạ khó lường
Nét rạch trên mặt tượng
Lộ thân tướng viên thông.

Lưu tượng trên tử đàn
Dựa nương vào lý đạo
Sừng sững đứng trên mây
Vốn không vương dấu tích.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 26 tháng 9, 1985

Quán Âm nuôi tổ chim ưng
Mặt vuông, móng nhọn sáng ngần quang hoa
Bảy tuổi ngộ đạo xuất gia
Tráng niên hoằng pháp bước qua nhịp cầu.

Vua hỏi thọ mạng lặng thinh
Hầu vương vây siết đưa tin mạng cùng.
Khó lường dị tích thần thông
Từ bi hỉ xả đức công cao vời.

4.09 Trí Dược Tam Tạng Tôn Giả đời Lương

Sư người Thiên Trúc, Năm Thiên Giám thứ nhất đời Lương sư theo đường biển đến Quảng Châu, mang một cây bồ đề nhỏ ở Thiên Trúc đích thân đến trồng cạnh giới đàn chùa Pháp Tánh do đại sư Cầu Na Bạt Đà La đời Tống tạo dựng. Sư nói: “Khoảng 170 năm sau sẽ có nhục thân bồ tát bên gốc Bồ đề này diễn thuyết pháp Đại thừa, truyền Phật tâm ấn”. Trước đó sư Cầu Na có lập đàn, dựng bia nói rằng sẽ có nhục thân bồ tát ở tại đây thọ giới “. Từ năm Nhâm Ngọ, Thiên Giám thứ nhất (502) đến năm thứ năm Nghi Phượng thứ nhất (676) Bính Tí là 175 năm, Lục Tổ Tuệ Năng đã đến đây thọ giới và hoằng pháp. Sư lại theo đường Nam Hải đến cửa sông Tào Khê vốc nước lên uống, thấy nước thơm ngọt nên nói với đồ chúng: “Nước này cùng với nước Tây Thiên không khác, nơi nguồn Tào Khê tất có thắng địa, có thể lập lan nhã”.Sư tìm lên nguồn, nói rằng giống núi Bảo Lâm ở Tây Thiên, khuyên dân cư lập một ngôi chùa gọi là chùa Bảo Lâm, 170 năm sau sẽ có nhục thân bồ tát đến đây diễn pháp, số người đắc đạo nhiều như cây trong rừng”. Lời sấm đều đúng. Ngoài ra, sư còn dựng các chùa La Phù, Nguyệt Hoa. Nhục thân sư hiện còn tại chùa Nguyệt Hoa.

Bài tán:
Tây thiên đến đất này
Dương thành trồng một cây
Uống nước, tạo thánh tự
Dự ngôn chờ đại sĩ .

Sấm một trăm bảy mươi
Chúng sinh được hóa độ
Thân lưu lại Nguyệt Hoa
Mãi tuôn nước cam lộ.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 27 tháng 9, 1985

Thánh tăng Thiên Trúc, Trung Nguyên
Cây Bồ đề ấy trồng bên giới đường
Đại sĩ, trăm bảy, dự ngôn
Chúng sinh đạt đạo như cồn cây gai.
Diệu chân thân, Nguyệt Hoa đài
La Phù phong cảnh độ người hữu duyên.
Tòa xưa đảnh lễ tiên hiền
Bốn mươi dặm ấy, một miền đến đi.

4.10 Trí Giả Tuệ Ước Quốc Sư đời Lương

Sư tự là Đức Tố, họ Lâu, người Ô Thương, Đông Dương. Từ nhỏ đã hiện nét thần dị, lòng chỉ muốn thoát tục, chẳng ham thích gì. Ngày kia chợt gặp một vị tăng, liền thưa hỏi. Vị tăng chỉ tay về phương Đông, nói: “Phật pháp sẽ cực thịnh ngay nơi đó.” Nói xong thì chợt biến mất, sư liền biết đó là thần nhân. Năm 17 tuổi đến chùa Đông sơn, ở trong núi không có thức ăn nên phải ăn nhựa cây tùng。Sau trung thư lang Chu Ngung, thái tể Trữ Uyên, thái úy Vương Kiệm thỉnh sư khai pháp. Chỗ sư cư trú có sự linh hiển như thú dữ trở nên thuần thục, cùng đến nương tựa. Vua Lương Vũ Đế đại hưng giới pháp thỉnh sư làm đồ lê, tôn xưng sư là Trí Giả. Lúc sư thuyết pháp thường có một con chim Thước, hai con Khổng Tước đến nghe giới. Vua cũng từng thọ giới Bồ tát với sư. Khi sư nhập diệt, hương lạ đầy thất. Tháp dựng bên trái tháp của sư Chí Công. Lúc ấy có đôi hạc trắng bay quanh nhiễu tháp kêu tiếng bi thương một lúc rồi bay đi.

Bài tán:
Vị bồ tát ấy
Hiện thân tỳ khiêu
Giới từ tánh phát
Thông suốt tu thành.

Làm thầy đế vương
Lãnh đạo đại pháp
Xứng với Chí Công
Lưu lại tiếng thơm.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 23 tháng 9, 1985

Bẩm sinh trí tuệ khác thường
Chí mong vượt thoát chặng đường u minh
Thần tăng chỉ thẳng pháp sinh
Công thần cung thỉnh Nam Kinh hóa hoằng
Khổng tước, mãnh hổ lễ tăng
Ứng hầu, quỷ sứ, thiên long thuận tình
Thầy đế vương, chủ chúng sinh
Gió xuân, cam lộ hưng vinh giáo truyền.

4.11 Thập Đắc đại sĩ đời Đường

Khi Sư Phong Can đến thành Xích, ông nghe thấy một đứa trẻ đang khóc bên đường, sư mang về, vì vậy, đứa trẻ được gọi là Thập (nhặt được). Vị sa môn Linh Tập khiến chú Thập Đắc chịu trách nhiệm về hương và đèn trong tu viện. Một ngày, Thập Đắc đột nhiên tự ý bước lên Phật điện, đứng ngay trước tượng Phật mà ăn. Chú lại nói rằng vị thánh tăng này chỉ là hạng tiểu căn, giống xấu. Vị sa môn Linh Tập rất tức giận nên giáng chức Thập Đắc xuống nhà bếp để lo việc dọn dẹp. Một ngày nọ, sau khi đã hoàn thành việc quét dọn, vị sư trụ trì hỏi: “Tên chú là gì? Chú sống ở đâu? “. Thập Đắc đặt cán chổi xuống, chắp hai tay. Sư trụ trì không biết phải phản ứng ra sao. Hàn Sơn đấm vào ngực của mình mà than rằng : “Trời ôi ! Trời ôi! ” Thập Đắc hỏi: ” Anh làm cái gì vậy ? ” Hàn Sơn trả lời: “Bạn không nhìn thấy người ở hướng Đông chết khiến người ở hướng Tây than khóc đó ư? “. Nói xong cả hai vừa nhảy múa, vừa cười, vừa khóc. Một lần nọ, thức ăn trong nhà bếp bị chim ăn. Thập Đắc dùng một cây gậy để đánh vị thần già lam, nói: “Nếu chú mày không thể giữ gìn thực phẩm, làm thế nào chú mày có thể bảo vệ già lam?. ” Đêm đó, các nhà sư trong chùa mộng thấy thần già lam phàn nàn rằng Thập Đắc đã đánh ông ta. Sau đó, Thập Đắc và Hàn Sơn rời chùa không trở lại.

Bài tán:
Không tên không nhà
Vậy cũng tốt thôi
Gặp người bức bách
Nói toạc hết rồi.
Gặp được Hàn San
Hết khóc lại cười
Vào trong vách núi
Trăng dọi lá thu.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 28 tháng 9, 1985

Thành Xích, Phong Can nhặt tiểu đồng
Không danh, không tánh thật mông lung
Trước Phật tuy ăn mà chẳng thọ
Xúc phạm tăng đoàn khiến nổi sân
Giống xấu, mầm hư nên quét sạch
Tùng bách cang cường bậc pháp vương
Kẻ tục biết đâu chân thực tướng
Hiện thân hành khất dạo tây đông.

4.12 Hàn San Đại Sĩ đời Đường

Đường Hàn Sơn đại sĩ sống trong núi Hàn, thành Hưng Huyền, nên được gọi là Hàn sơn. Dung mạo tiều tụy, áo quần rách nát tả tơi. Ông lấy vỏ cây bạch dương làm mủ đội đầu. Ông thường đi đến Tu viện Quốc Thanh để gặp Thập Đắc mà nhận thức ăn thừa. Mọi người nhìn ông như một người khùng. Để bày tỏ lòng cảm hoài của mình, ông đề thơ trên tảng đá, tường vách, và trên thân cây. Ông thân thiện với sư Phong Can. Khoảng cuối năm Trinh Nguyên, một viên quan chức chính phủ có tên là Lư Khâu đi tuần tỉnh Thái Châu. Trong cuộc hành trình, ông bị chứng đau đầu, và đã được sư Phong Can chửa cho, sư nói với viên quan: “. Khi đến nơi, ông nên tìm gặp Văn Thù và Phổ Hiền”. Lư Khâu hỏi: “Họ ở đâu?”. Sư Phong Can trả lời, “Họ đang có mặt trong Quốc Thanh tu viện, chính là Hàn Sơn và Thập Đắc.” Lư Khâu liền đến tìm họ, nhìn thấy hai người ngồi quanh bếp, cười cười nói nói. Ông ngay lập tức cúi đầu đảnh lễ. Hai người mắng rằng: “Ông không đảnh lễ Phật A Di Đà, cớ sao lại đảnh lễ chúng tôi làm chi?”. Nắm tay nhau, họ cười, nói, “Phong Can thật lắm chuyện!” Ngày hôm sau, họ đi về núi Hàn. Làm cho cơ thể nhỏ lại, và bước vào một vết nứt trong đá, họ nói: “Các người hãy tinh tấn tu hành.” Vết đá nứt đột nhiên đóng kín lại.

Bài tán:
Người đời nhìn ta
Như điên như cuồng
Ta nhìn người đời
Đáng cười đáng thương
Hát lớn dưới tùng
Vỗ tay bên đàng
Phong Can Thập Đắc
Huyễn hóa một màn.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 3 tháng 10, 1985

Ẩn lớn hiện nhỏ như điên khùng
Phong Can hé miệng lộ hành tung
Cười cho nhân thế đà chậm trể
Vì thương sanh chúng phải thăng đường.
Sĩ phu nổ lực chớ huênh hoang.

4.13 Thạch Chung Phát Quang Thiền Sư đời Đường

Sư họ Dương người Hồ Nam, tỉnh Nhữ Dương, khi chưa xuất gia làm quan. Khi nhìn thấy người phạm tội liền than: người vốn không có tội chỉ vì vô minh vây hãm [mà tạo tội]. Địa ngục vốn là Không, nghiệp tạo địa ngục. Chẳng bao lâu phát nguyện đến chùa Thiếu Lâm xuất gia. Sư thụ giới cụ túc vào thời Khai Nguyên, tinh cần tu học giáo pháp các thừa. Sau đó sư chu du khắp nơi, thâm hiểu cùng tận pháp [của Tổ Bồ Đề Đạt Ma] từ phương Tây mang đến [Trung Quốc] nên càng hướng thượng. Sư hướng về núi Kê Túc kinh hành lễ lạy tổ Ma ha Ca Diếp. Sư ở tại đó, lập chùa Thạch Chung, chẳng bao lâu trở thành ngôi chùa khang trang, đông người lui tới.

Bài tán:
Đọc một dòng kệ
Vỡ tung mấu chốt
Mặc tình tự tại
Chẳng phí dùi, kìm.
Ẩm Quang ẩn xứ
Nhật nguyệt rạng rỡ
Chuông đá vọng vang
Dội chốn u minh.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 3 tháng 2, 1973

Vô minh tạo nghiệp thụ báo đầy
Hoạn lộ thăng trầm với ngữa nghiêng
Buông lõng lợi danh tâm tự quán
Công đức rõ bày tánh tự nhiên.
Chuông Đá dựng nền nơi Kê Túc
Núi hạc tụng lời kim ngọc thiên.
Thiệu Long giáo hóa tam bảo thịnh
Pháp vương xưng tán bậc thiện hiền.

4. 14 Vô Tận Tạng Tỳ kheo ni nhục thân đời Đường

Sư cô người thôn Tảo Hầu tỉnh Thiều Châu, và là cô của Nho sĩ Lưu Chí Lược, thường đọc Kinh Đại Niết Bàn. Khi Lục Tổ đắc pháp tại Hoàng Mai trở về, khi nghe sư cô tụng kinh liền biết được nghĩa kinh thâm diệu, và giải thích cho sư cô. Sau đó sư cô đưa ra một bản kinh và hỏi nghĩa văn tự.
Lục Tổ nói: “Tôi không biết chữ, hãy hỏi về ý nghĩa kinh. ”
“Nếu sư không thể đọc, làm thế nào sư có thể hiểu được ý nghĩa? ” Sư cô hỏi.
Lục Tổ trả lời: “Ý nghĩa tinh tế của tất cả chư Phật không dựa trên văn tự. ”
Sư cô kinh ngạc, liền nói với những trưởng lão trong làng: “Đây là bậc đại sĩ, chúng ta nên cúng dường” .
Lúc đó ngôi chùa cổ Bảo Lâm vốn đã bị tàn phá bởi chiến tranh vào cuối triều đại nhà Tùy, được xây dựng lại, cúng dường cho Đức Lục Tổ; chẳng bao lâu trở thành một nơi [quy tụ] nhiều tăng lữ.

Bài tán:
Chư Phật diệu lí
Chẳng nơi văn tự
Thường tụng Niết Bàn
Rất đổi kinh dị
Long nữ hiến châu
Thu tử rúng động
Không đâu chẳng có
Nhục thân khai thị.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 17 tháng 2, 1973

Tụng biến Niết Bàn dựa mạn thuyền
Hộ trì chánh pháp giúp người hiền
Chân đế há trong văn bát nhã
Tâm ấn ly ngôn diệu nghĩa huyền

Đưa bước chân phàm qua nẻo thánh
Dựng nền Phật quốc trải càn khôn
Nguyên dấu Tào Khê lưu vạn cổ
Nam Hoa vô tận ngát dòng hương.

4.15 Bố Đại Hòa Thượng đời Lương

Hòa thượng Bố Đại người Phụng Hóa tỉnh Minh Châu. Sư tự gọi mình là Khế thử. Dáng người mập mạp, miệng luôn cười, trán nhăn, bụng phệ, nói năng bất chợt, còn có hiệu là Trường Đinh Tử. Sư luôn mang tr ên vai một túi vải lớn . Khi vào thành, thấy gì cũng xin. Một ngày nọ, một người xuất gia đang đi trước mặt sư, sư liền vỗ vai vị tăng này. Các nhà sư quay lại, sư nói: “Hãy cho tôi một xu.” Nhà sư trả lời: ” khi đạt đạo thì mới đưa cho .” Sư đặt túi vải xuống đất, đứng chắp tay. Hòa thượng Bảo Phúc hỏi: ” Đại ý của Phật pháp là gì? ” Sư lại đặt túi vải xuống. Hòa thượng Bảo Phúc hỏi: “Chỉ vậy thôi a ? Hoặc là có gì cao hơn thế nữa? “. Sư bèn cầm lấy túi vải của mình mà đi. Thời nhà Lương, Trinh Nguyên năm thứ ba, sư ngồi thiền trên một tảng đá bằng phẳng trước tu viện Nhạc Lâm, nói kệ:

Di Lặc chân Di Lặc
Phân thân thiên bách ức
Thời thời thị thời nhân
Thời nhân tự bất thức

Nói xong liền nhập diệt. Về sau sư lại xuất hiện ở các tỉnh khác, vẫn mang túi vải mà đi.

Bài tán:
Chỉ với túi vải
Khiến người người nghi
Gặp chấp liền xin
Làm vậy mà chi
Nếu người bức bách
Nhẫn chịu hòa hài
Chớ nhìn sai đó
Chính Phật vị lai.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 4 tháng 10, 1985

Trong bầu túi vải một càn khôn
Chứa trọn tham si của thế tình
Gặp gỡ tặng người câu bởn cợt
Đúng sai ai kể có chi mình.
Tự tại buông tay không vướng mắc
Nghe Không ngộ nhập lý huyền linh
Nơi đâu chẳng phải là Di Lặc
Đông Tây luống phải uổng công tìm.

4.16 Ngô Việt Trường Nhĩ Hòa Thượng

Tại chùa Pháp Tướng tỉnh Hàng Châu, có một nhà sư với dái tai dài. Ông là con trai của bà Trần, người làng Tuyền Nam. Một đêm nọ bà mộng thấy mình nuốt mặt trời, thức giấc kinh ngạc, sau đó thụ thai. [Sau đó bà sinh ra một đứa bé trai có cái] dái tai dài đến bả vai. Đứa bé này đã bảy tuổi mà vẫn chưa hề nói. Một ngày kia, có người hỏi, và chú bé đột nhiên trả lời: “chưa gặp người [hiền] phá vỡ lầu khói”. Xuất gia tại chùa Ngõa Quan, Kim Lăng; được sư Tuyết Phong ấn chứng,”thú dữ được sư điều phục trở nên thuần thục. Sự linh ứng càng ngày càng gia tăng khác thường.”. Một vị tăng hỏi: “đôi tai dài là sao?” Sư liền kéo dái tai của mình. Vị tăng lại hỏi, “đồi Nam khó đến chăng?”. Sư trả lời, “tùy bạn có muốn đi hay không mà thôi.” Vị tăng hỏi: “đến rồi thì sao?” Sư trả lời: “Đồi hoang sống một mình.” Ngô Việt vương hỏi pháp sư Vĩnh Minh rằng hiện nay có bậc chân tăng nào không. Sư Vĩnh Minh nói: “Vị hòa thượng tai dài tai chính là Phật Định Quang ứng thân”. Ngô Việt vương liền đến đãnh lễ, xưng tán sư đã xuất thế. Sư nói: “A Di Đà nói quá nhiều” và liền nhập diệt. Vua nhà Tống dâng tặng hiệu là Tông Tuệ Đại Sư.

Bài tán:
Cửa tùng hang đá
Khổ hạnh là đường
Chim quy y pháp
Mưa hoa cúng dường
Bí truyền diệu tạng
Trải rộng thần thông
Chư tăng có mắt
Đều khắc ghi lòng.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 10 tháng 10, 1985

Tai dài mày rậm đại hòa thượng
Định Quang thị hiện cổ Phật thân
Gìn lời bảy tuổi chưa từng nói
Trăm loài nép sợ lực thế tôn
Tuyết Phong có mắt truyền tâm ấn
Vua Việt đâu ngờ gặp thánh nhân
Như nguyện cứu người nay trở lại
Tăm tối soi đời đại pháp đăng.

4.17. Cổ San Khấu Băng Cổ Phật đời Lương

Sư là con trai của bà họ Ông, người làng Từ Tín. Một đêm nọ, người mẹ mộng thấy một Tỳ Kheo chống tích trượng, thần thái an nhiên, để tích trượng xuống, hỏi chỗ tạm trú. Có người chỉ vào vị tỳ khiêu và với bà rằng đây là một bậc Duyên Giác. Sau khi bà tỉnh dậy thì biết mình đã mang thai. Sư sinh năm thứ tư Hội Xương. Khi sư sinh ra, mùi thơm đầy phòng trong nhiều ngày. Sư xuất gia năm 13 tuổi, và bắt đầu đầu vì đại chúng nói Pháp. Lần nọ, Sư đến thăm sư Tuyết Phong và mang một túi nước hạt dẻ. Ngài Tuyết Phong thấy sư, bất ngờ nói lớn: ” Trong tương lai, ông chắc chắn sẽ trở thành thầy của hoàng đế”. Năm Mậu Tử, hiệu Ứng Mân, sư nhận lời mời của Hoàng đế. Khi đang uống trà, sư nhặt chiếc đĩa và hỏi Hoàng đế : ” Ngài có biết làm thế nào để uống trà? ” Hoàng đế trả lời: “Tôi không biết.” Nhân vương và pháp vương hiểu nhau. Sư ở lại trong cung điện mười ngày, và cáo ốm, ra đi về núi Cổ. Vào ngày thứ hai của tháng mười hai, sư tắm gội, lên tòa ngồi, chia tay đại chúng, và nhập diệt. Trong lễ trà tỳ, ánh sáng tỏa quanh núi, thu được nhiều xá lợi năm màu. Sư được chôn cất trong một bảo tháp tại núi Cổ.

Bài tán:
Làm thầy hoàng đế
Tuyết Phong thụ ký
Ngồi trên đá băng
Hư không du hý.
Nâng gói trà lên
Lệch đất xoay trời
Vua người vua pháp
Trí tuệ rạng ngời.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 24 tháng 2, 1973

Cũng bởi nhân duyên thánh xuống đời
Tùy cơ giáo hóa kẻ hậu thời
Dần dà khéo tạo nên phương tiện
Tha thiết mong người trở bước thôi.
Tuyết Phong thụ ký thầy hoàng đế
Núi Cổ khoanh chân nhập Niết Bàn
Mặc tình qua lại, chân thường trụ
Sáu nẻo luân hồi một bước ngang.

4.18 Đại Thông Đạt Ngạn Thiền sư đời Tống

Sư hiệu là Chí Tĩnh, tự Đạt Ngạn, con người họ Lương tại huyện Thiều Châu, Khúc giang, tỉnh Quảng Đông, sư sinh vào năm thứ tư Trinh Minh (919) đời Hậu Lương. Thuở niên thiếu sư không thấy đời có gì vui nên xuất gia vào năm mười hai tuổi. Ở tuổi hai mươi, sư thọ cụ [túc giới] với thiền sư Vân Môn Văn Yển. Đời Nam Hán (943-958) vua là Lưu Thịnh rất kính trọng và hâm mộ sư. Một ngày nọ, sư tình cờ đi ngang qua đất Đại Thông (Đại Thông là một cửa sông phong cảnh mưa sương là cảnh tượng đẹp nhất trong tám cảnh đẹp). Vì gió mạnh, sư phải lên bờ thì thấy một ngôi chùa cổ quá đẹp khiến sư khó mà bỏ đi. Sư nhờ vua Lưu Thịnh trùng tu lại ngôi chùa, và đặt tên chùa là Bảo Quang. Đời vua Tống Thái Tông, Thái Bình hưng quốc năm thứ ba (979), sư từ biệt mọi người và nhập diệt trong ánh hào quang tỏa sáng bầu trời. Nhục thể của sư được cúng tế, và cho đến nay vẫn không bị hư hoại. [Tín đồ] các nơi gần xa đến chiêm bái, đãnh lễ. Sư thọ bảy mươi hai tuổi.

Bài tán:
Hóa thân đại sĩ
Hội duyên liền ứng
Đại Thông dấu xưa
Kế thừa tiên thánh.
Đuốc trời rực rỡ
Tan mộng triền miên
Lưu thân khuôn mẫu
Dâng hiến phước điền.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 27 tháng 10, 1973

Hiền thánh sinh trên đất Quảng Đông
Đường gươm tận diệt quỷ vạn năm
Thuyền họ Lương kia nay ghé bến
Ngoài cửa Lư còn Tổ tối cao
Người trước cách xa đều đã vậy
Người sau nào biết ngại công lao
Gia nghiệp Phật đà vai gánh nặng
Gió lộng mưa tuôn há sợ sao?.

4.19 Ứng Văn Thiền Sư đời Minh

Sư là vua Minh Ứng nhà Minh. Trong cuộc đảo chính Yến Phiên, khi cổng thành Kim Xuyên bị phá vỡ, một hoạn quan đưa ra di mệnh của tiên vương; gồm có ba tờ giấy xuất gia do chính phủ cấp cho tu sĩ, dưới tên Ứng Văn, Ứng Hiền, và Ứng Năng, cùng với ba bộ áo tu sĩ. Khi cung điện bị cháy, hoàng đế khoác lên người lớp áo tu sĩ, dùng tên giả là Ứng Văn và trốn thoát qua một lối đi bí mật. Hai người trốn theo nhà vua là ngự sử Diệp Hi Hiền và vị giáo thọ của vua Ngô là Dương Ứng Năng. Cả hai đều mặc áo tu sĩ và lấy tên là Ứng Hiền và Ứng Năng. Họ đi qua đất Ngô, Sở, Kiềm, và Thục, vào Vân Nam định cư tại núi Sư Tử trong nhiều năm. Bức tượng của sư vẫn còn lưu lại đến nay. Trong những năm cuối đời, sư trở về hướng Đông và nhập diệt trong cung điện, hưởng thọ hơn tám mươi tuổi. Sư được chôn cất tại núi Tây.

Bài tán:
Vua người vua pháp
Mỗi việc mỗi làm
Ngàn mặt trời chiếu
Cảm ứng đạo giao.
Đến chỗ rốt ráo
Chẳng thánh chẳng phàm
Lá rụng về cội
Không thiếu không dư.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 3 tháng 3, 1973

Ứng hiện thân vua tạm dùng quyền
Thoát vòng trần lụy phản hoàn nguyên
Phá vô minh bởi công tu luyện
Lậu tận thần thông chứng tịch nhiên
Cung ngọc tám mươi ngồi thoát xác
Cực Lạc chín tầng ngự đóa sen
Phong thái đời sau theo mẫu mực
Hư không pháp giới mặc tung hoành.

4.20 Chân Khả Tử Bách Thiền Sư đời Minh

Sư là con trai họ Trầm, người huyện Than Khuyết, Ngô Giang. Khi chu du khắp nơi nghe có người tụng câu kệ của Trương Chuyết. Khi nghe câu “mong muốn cắt đứt phiền não là làm gia tăng bệnh; khao khát hướng tới chân như cũng là một hành động tà”. Sư trong lòng sinh nghi. Một ngày nọ, sau bữa ăn trưa, sư đột nhiên hiểu được ý nghĩa câu kệ, liền nói: ” như tu hành theo Lâm Tế và Đức Sơn – với một cái tát liền tĩnh ngộ. Đâu cần phải như trước kia ư?.”. Mùa thu năm Quý Mão triều đại Vạn Lịch, do ghen ghét, có người hãm hại sư. Sư bị bắt giam và tra tấn, nhưng thần sắc vẫn tự nhiên. Sư không sợ chết nhưng chỉ tiếc là chưa hoàn thành việc nối ngọn đuốc pháp. Sư nói: “Đây là một trong những trách nhiệm lớn nhất của tôi khi ra đời. Chẳng có lời nào khác.” Tòa án xử tội chết. Sư nói: “Pháp thế gian là vậy. Tôi ở lại lâu làm gì”.” Sau đó, sư muốn tắm gội, nói một câu kệ, ngồi thế kiết già mà nhập diệt. Khi ngự sữ Tào Học Trình nghe tin, liền đến nơi. Sư mở mắt ra, cười tạm biệt. Tháp được xây dựng tại núi Kính. Tử Bách Tập do sư soạn nay vẫn còn lưu hành.

Bài tán:
Phong cách như sắt
Khí phách mống trời
Vai gánh đại pháp
Cứu vãn suy đồi.
Kính như vua, cha
Cúi mình tự nguyện
Tuy gặp khốn khó
Không nhục nếp nhà.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 10 tháng 3, 1973

Đầy đủ cơ duyên con họ Trầm
Đại thánh dong thuyền cõi thế chơi
Căn trần rơi vỡ hư không trống
Mất dấu ngôn từ đất hóa trời.
Ganh ghét giam mình trong góc ngục
Gông khóa xiềng treo ngược thân người
Sinh tử tựa như là phương tiện
Mở mắt miệng cười lộ bản nguyên.

4.21 Minh Hám Sơn Đức Thanh Thiền Sư

Sư người đất Toàn Tiêu, Kim Lăng, họ Thái, cha là Ngạn Cao, mẹ họ Hồng mộng thấy một đại sĩ dắt một đồng tử vào cửa, bà ôm lấy cậu bé, tỉnh mộng, mang thai. Khi sinh sư [có bọc da trắng] như bạch y bao lấy thân, thơm hương lạ. Sư đến chùa Báo n xuất gia. Sư tham yết sư Tiếu Nham, sư Tiếu Nham chỉ rõ nên dùng phần căn bổn để kiềm chế. Sư dựng am cỏ ở Bắc Đài, Long Môn. Một hôm, sau khi ăn cháo xong đi kinh hành, sư hốt nhiên nhập định, không còn thấy thân tâm, chỉ còn một luồng sáng lớn, lặng lẻ tịch tịnh như mặt gương tròn lớn. Sư liền nói kệ:

“Hốt nhiên nhất niệm, tâm cuồng dứt
Căn cảnh trong ngoài chợt triệt thông
Trở mình chạm vỡ thái không
Sum la vạn tượng theo dòng diệt, sinh”.

Việc hoằng pháp sư gặp khó khăn nhưng đạo phong vẫn thêm cao. Năm Quý Hợi đời Thiên Khải, sư an tọa mà qua đời tại Tào Khê, thọ 78 tuổi, sư soạn Mộng Du Tập lưu hành.

Bài tán:
Hoằng đạo khó khăn
Lại càng xiển dương
Nguồn tào một giọt
Ngàn dặm gió sương.

Rồng voi giẫm đạp
Chửa người tai điếc
Một túi da thiêng
Rực rỡ Lư công.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 25 tháng 8, 1973

Bồ tát hóa độ quần manh
Bạch y bao bọc điềm lành trên thân
Thân cận Tiếu Nham thấy tâm
Bắc Đài am cỏ thiên chân tỏ tường.
Xích xiềng trói, giáo hoằng dương
Vì pháp chẳng sợ vết thương hại ngầm
Truyền thiên cổ vạn đức công
Như mạch suối chảy tuôn dòng Tào Khê.

4.22 Minh Văn Cốc Quảng Ấn Thiền Sư

Sư người Gia Thiện, họ Chu. Người mẹ mộng thấy thần nhân hộ vệ dựa vào nhà, sinh ra sư. Bảy tuổi xuất gia tại chùa Khai Nguyên, tham yết sư Nghi Phong. Sư Nghi Phong khiến sư đến xem nhân duyên của Lộ Tự ở Vân Môn. Sư tham cứu quên ăn ngủ. Sư dựng am cỏ ở Song Kính, xem Lượng tòa chủ, tham cứu cơ ngữ của Mã Tổ, liền phát khởi nghi tình. Ngày kia, sư trông thấy hương hoa đẹp đẽ liền đại ngộ. Lại đến tham vấn Vân Thê, Long Trì đều được ấn chứng. Sư Long Trì đưa sư ra cửa, vỗ lưng sư, nói: “Ông nhỏ, ta lại nghi ông đó”. Sư nói: “Cái nghi thế nào?”. Sư Long Trì Hỏi: “Ông có mật ý gì vậy?”. Sư đáp: “Hôm nay không đả thiền nghi tình có thay đổi”. Long Trì cười ha ha. Sư đội nón và đi. Sau sư trụ trì ở chùa Chân Tịch, thiền phong được xiển dương.

Bài tán:
Sinh tự ý đến
Thần nhân hộ tống
Đội nón mà đi
Mặc sao cũng được

Nghi thì tham cứu
Phàm thánh chẳng chung
Giọt Thiều Khê chảy ngược
Biết bến đổ, hang cùng.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 1 tháng 9, 1973

Thần nhân hộ vệ giáng phàm
Xuất gia cạo tóc tại chùa Khai Nguyên
Lộ mối manh, phải tham thiền
Thùng sơn đen chảy thấy liền bản nguyên
Ấn tâm, thưa hỏi đại hiền
Trải thân lao khổ đại thiên qua dòng
Hộ trì Phật pháp đức công
Núi cao dừng bước ngưỡng trông người hiền.

4.23 Định Đường Bổn Thiếp Thiền Sư đời Minh

Sư người Tầm Điện, họ Dương. Năm Gia Tĩnh sư đến tham yết hòa thượng Bạch Trai ở núi Tú Tung để tham cứu thoại đầu “vạn pháp quy nhất”, thấy được đất tâm. Sau sư trụ ở đầm Kim Long bên núi Kê Túc, thường thấy rồng vàng hiện, lại cảm ứng khiến cây Tiêu phóng quang nên sư dựng am, lấy tên là Hoa Tiêu. Lúc sắp thị tịch, sư viết kệ:

Tánh không tăng giảm lại ngộ, mê
Gốc chẳng đến đi khéo vẽ ta
Trở lại lực tàn, tâm viên mãn
An tọa thoát vòng nhận thịt, da.

Bài tán:
Vạn pháp quy nhất
Được cá bỏ nôm
Kình uống nước biển
Lộ bày san hô

Cây Tiêu phóng quang
Rồng hiện điềm lành
Lực tận tâm viên
Bất khả tư nghị

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 8 tháng 9, 1973

Thuyền đại viên đi vào trong bể khổ
Đưa sang bờ phổ độ vạn chúng sinh
Tam định Kê Túc tịnh tu
Rồng vàng loài thú lục thông tựu thành
Tiêu phóng quang hiện điềm lành
Thảo mộc nuôi dưỡng mầm xanh mai vàng
Thánh nhân giảng đạo độ phàm
Huyền nghĩa sáng tỏ, thuyết đàm tướng ly.

4.24 Tam Phong Pháp Tạng Thiền Sư đời Minh

Sư họ Tô, người Tích san, nghiên cứu kinh Thủ Lăng Nghiêm, tu Quán m nhĩ căn viên thông, gặp sư Giáp Li, sư nghe tiếng một cành trúc gãy nhánh như tiếng sấm lớn, liền triệt ngộ. Sư đến Kim Túc tham kiến Mật Vân hòa thượng. Ngày nọ, Mật Vân hòa thượng nêu một đề tài: “Một vị tăng hỏi bậc cổ đức: Lúc trăng sáng giữa trời là thế nào?. Cổ đức nói: Giống như người ở dưới bậc thềm. Vị tăng nói: Tỉnh sư mời người lên. Cổ đức nói: Trăng lặn thì sẽ gặp nhau. Lại hỏi: Sau khi trăng lặn gặp nhau là sao?. Sư liền ra khỏi thiền đường, dừng lại. Sau sư khai pháp ở viện Tam Phong, đại hoằng dương pháp. Khi qua đời, tháp dựng nơi núi cũ.

Bài tán:
Tiếng nhánh trúc gãy
Thâm nhập viên thông
Sum la vạn tượng
Dung hợp một tông

Bên thềm trăng lặn
Đối mặt tương phùng
Phất áo mà đi
Độc tọa Tam Phong.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 15 tháng 9, 1973

Nhập lưu vong sở, nhĩ căn viên
Thấy tánh ngộ đạo ngay chỗ này
Ôm trọn thái hư trùm pháp giới
Lìa tướng ta người khắp đó đây .

Một niệm năng siêu vô lượng kiếp
Trăm pháp chưa sinh tam muội thông
Đạo đức Tam Phong tràn trên dưới
Giáo truyền ích lợi khắp Tây Đông .

4.25 Nga Hồ Dưỡng Am Quảng Tâm Thiền Sư đời Minh

Sư người đất Thượng Nhiêu, họ Chu, đi qua nhà người thân gặp một đạo sĩ bàn về nghĩa tứ sinh. Sư nghe lời người ấy liền thông suốt nghĩa vật và người bình đẳng. Về sau khi đi ngang sông, nghe có tiếng đẩy thuyền thì tỉnh ngộ, nói kệ:

Đêm trên sông lặng như không
Đẩy thuyền tiếng động biết trong cõi nào
Gánh này lại nhẹ một bên.

Sư treo chiếc khóa vô môn trên tường để chiêm nghiệm các phương. Sư nói kệ:

Xưa kia lưu truyền khóa
Nhờ trí anh mở cho
Nếu như chẳng pháp mở
Thì chẳng gặp làm gì.

Năm Đinh Mão, tháng 2, ngày 30 thời Vạn Lịch, sư thượng đường thuyết pháp. Đến giờ thọ trai thì từ biệt chúng, và nói kệ:

Hơn tám mươi năm mộng huyễn thôi
Trâu sắt cày trên ruộng thái không
Sắp bước chân đi, lời để lại
Nửa đêm óng ánh thái dương hồng.
Sư đoan tọa mà hóa.

Bài tán:
Lời của bậc quân tử
Người và vật bình đẳng
Đêm đi trên sông vắng
Gánh một gánh đẩy thuyền

Không khóa cánh cửa mở
Nga Hồ pháp quán đảnh
Cày vỡ nát hư không
Mặt trời hồng lóng lánh.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 22 tháng 9, 1973 

Tâm đại đạo vật và người bình đẳng
Nghe một lời liễu ngộ thấy thiên chân.
Đẩy lớp lớp đệ nhất nghĩa khai
Khóa không không pháp môn bất nhị
Ruộng hư không trâu sắt cày canh cải
Chim vàng bay ngang ánh mặt trời hồng
Cười quay về trụ cõi nước Tịch Quang
Xa quá! xa quá! Khắp cõi nhiều như bụi.

4.26 Thích Thiền Bổn Vô Thiền Sư đời Minh

Sư người đất Côn Minh, họ Trương. Sư mồ côi từ thuở nhỏ. Một hôm đến bên ao Côn Minh, thấy sen xanh nổi trên mặt nước, người khác không thể thấy, người người bàn tán cho là sư khác thường. Năm 19 tuổi, theo sư Không Công ở Tú Sơn xuất gia, thọ tâm pháp nơi thiền sư Sở Am. Sư thường than là pháp nhãn chưa sáng tỏ nên dốc lòng tham cứu. Một hôm sư khất thực trong thành Nhị Hải, nghe nhà bên cạnh có người kêu lớn: “Trương đậu hủ, Lý đậu hủ”. Buổi tối trước khi ngủ sư suy nghĩ ngàn chuyện trên đường. Sáng hôm sau trở lại mua đậu hủ, sư hốt nhiên bỏ mất túi vải. Bấy giờ Mộc công trấn thủ đất Điền Nam, đặc biệt dựng đàn bố thí, thỉnh sư khai pháp. Sư biên soạn Phong Hưởng Tập lưu hành.

Bài tán:
Khất thực từng nhà
Không quên tự thân
Một câu tuyệt dòng
Tuôn tràn hư không

Ngôn thô, ngữ tế
Nghĩa sâu công đồng
Như hổ có sừng
Quạt to, gió lớn.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 29 tháng 9, 1973 

Được trời hậu đãi bậc kỳ tài
Xưa tích đức lành tuệ nhãn khai
Mặt nước sen xanh phô dị tướng
Trên đồi mây trắng tuyệt trần ai.

Đậu hủ, đậu hủ hoát nhiên ngộ
Bồ đề, bồ đề tức khắc trồng
Lòng tưởng nhớ đầy trong pháp giới
Đến đi muôn cõi tựa hư không.

4.27 Độc Triệt Thương Tuyết Thiền Sư đời Thanh

Sư tự Thương Tuyết, người đất Trình Cống, Điền Nam, họ Triệu. Thuở nhỏ theo cha đến chùa Diệu Trạm, Côn Minh xuất gia, làm thị giả cho hòa thượng Thủy Nguyệt khá lâu thì minh tuệ mẫn đạt. Sư từng thơ nổi tiếng ăn thơ vào đời Sùng Chính. Sư đến đất Ngô, nương theo thiền sư Nhất Vũ. Sư Nhất Vũ đề cử sư làm trụ trì chùa, thay sư Trung Phong, các nơi khen ngợi. Sau sư đến núi Bảo Hoa giảng kinh Lăng Nghiêm. Một hôm sư cáo từ đồ chúng, an tọa mà hóa. Sư soạn 42 quyển Hoa Nghiêm Hải Ấn lưu hành.

Bài tán:
Lấy hư không làm miệng
Lấy vạn tượng làm lưỡi
Đưa ra chỉ một câu
Ngày đêm luôn thuyết giải

Hẹn cắm gậy Đức Sơn
Giữ tiếng hét Lâm Tế
Lại nữa,
trong lò lửa lớn vớt trăng thanh.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 7 tháng 10, 1973  

Pháp còn xả, thuyết kể chi
Vạn tượng chẳng khéo, vụng thì cũng không
Một câu thu tóm hư không
Vạn vật sinh hóa thể đồng ma ha

Biết diện mục, ngộ bản lai
Tâm hằng ghi nhớ tánh chân Phật Đà
Khắp pháp giới, thượng thệ tòa
Ma ha bát nhã ba la mật truyền.

4. 28 Thai Tông Sơ Tổ Bắc Tề Tuệ Văn Tôn Giả

Tôn giả họ Cao, vốn bẩm thụ thiên chân viên thừa tự mình giác ngộ. Khi đọc phẩm “nhất tâm tam trí” trong Đại Trí Độ Luận liền dựa theo đó mà tu tam quán. Sư cho rằng quả đã do nhất tâm mà được thì nhân sao lại có trước sau. Nếu pháp quán này thành tựu thì sẽ chứng được “nhất tâm tam trí” song vong song chiếu, tức nhập quả vị sơ trụ vô sinh pháp nhẫn. Sau đó sư đọc Trung Luận, đến câu “nhân duyên sở sinh pháp” thì hốt nhiên đại ngộ, hiểu rõ tất cả pháp đều do nhân duyên sinh ra, và những nhân duyên nay dù Có nhưng không phải nhất định là Có; Không nhưng chẳng nhất định là Không. Có Không chẳng phải là hai, gọi là Trung Đạo. Sư y theo giáo pháp của Bồ tát Long Thọ vào chỗ không phải là cái thấy biết của thế gian. Người cầu học ngưỡng nhìn như đội trời đạp đất, chẳng tường cao thấp. Lại truyền pháp tâm quán đó đến tôn giả Nam Nhạc, trở thành vị thủy tổ tông Thiên Thai.

Bài tán:
Pháp thiền phương Tây đến
Nhiều phần gieo tiệm nhân
Riêng sư vùng khởi dậy
Thấy được lý tự nhiên.
Pháp vốn từ Long Thọ
Ba trí một tâm nầy
Diệu pháp môn viên đốn
Như mặt trời vừa lên.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 1 tháng 8, 1981  

Người họ Cao vốn viên dung căn tánh
Riêng nặng lòng mong giáo hóa quần manh
Thừa kế ngài Long Thọ nối mạch nguồn
Kề Mã Tổ truyền ngọn đèn chánh pháp.
Nhân duyên sinh hốt nhiên tâm đại ngộ
Bát nhã hành thâm một sớm rõ thông
Ngọn gió mê cuồng ngừng thổi núi Nam
Kể từ đó Thiên Thai Tông hưng thịnh.

4.29 Thai Tông Nhị Tổ Nam Nhạc Tuệ Tư Tôn Giả

Tôn giả họ Lý, người Vũ Tân, ái mộ kinh Pháp Hoa, thường mang kinh vào chỗ phần mộ đọc tụng, có lúc nhìn kinh mà khóc. Mộng thấy Bồ tát Phổ Hiền xoa trên đỉnh đầu rồi đi,kinh chưa từng xem qua mà biết,tự nhiên giải được nghĩa, trên đầu tự nhiên nổi lên nhục kế. Năm 15 tuổi xuất gia, sau đó được sư Tuệ Văn trao cho ấn quyết tâm quán, hốt nhiên đại ngộ, đắc Pháp Hoa tam muội, từ đó nghe kinh không còn nghi gì nữa. Ngài kết am tranh ở núi Đại Tô, lúc đó nước Tề sắp bị diệt, nghĩ đến việc lánh nạn, chống tích trượng đến núi Nam Nhạc, nhiều điềm lành xuất hiện, có chư thiên đồng đến hộ vê. Thấy thời thế thuận lợi, liền đại tập môn đồ thuyết pháp, khẩn thiết trách rằng: “nếu có 18 người không tiếc thân mệnh tu tập Pháp Hoa sám thì ta sẽ cung cấp giúp đỡ, bằng không ta sẽ đi xa.” Không nghe ai trả lời, ngài liền ngồi ngay thẳng,bảo rằng có đức Phật đến đón, rồi an nhiên qua đời.

Bài tán:
Mang kinh ra mộ vắng
Lệ bi thiết vì đâu
Đức Phổ Hiền xoa đầu
Không thuyết mà đã thuyết.

Vốn khí chất Bắc Tề
Pháp Hoa kinh đốn triệt
Khai thác diệu nghĩa môn
Mở đường cho minh triết.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 2 tháng 8, 1981  

Linh Sơn Trung Châu một bầu huyết thống*
Thuở Pháp Hoa hội ấy lại rong chơi
Nhìn trang kinh rơi lệ xót thương đời
Nghe mối đạo liền phát tâm vô thượng.
Chúng sinh đông đầy hỏi ai cùng chí hướng
Ngồi khoanh chân nhập diệt, bậc chân nhân
Bồ tát Phổ Hiền biệt kí trao truyền
Long tượng, Thích tử, Phật gọi là kì đặc .
……………………………………………
*Nhất mạch: Sự liên hệ huyết thống. ◎ Như: nhất mạch tương truyền 一脈相傳 cùng một huyết thống truyền lại.

4.30 Thiên Thai Tam Tổ Trí Giả Đại Sư

Trí Khải Đại Sư họ Trần người Kinh Châu. Năm 18 tuổi đến chùa Quả Nguyện xuất gia, tu tập thông suốt kinh Pháp Hoa. Sau đến núi Đại Tô lễ bái sư Tuệ Tư. Sư Tuệ Tư nhìn thấy liền nói: “Xưa kia cùng nghe kinh Pháp Hoa tại núi Linh Thứu, duyên xưa nay gặp lại nơi đây”. Lại vì Trí Khải chỉ rõ đạo tràng Ngài Phổ Hiền, thuyết giảng Tứ An Lạc Hạnh. Một hôm, khi sư tụng phẩm Dược Vương trong kinh Pháp Hoa, đến câu: “là đích thực tinh tiến, đó gọi là dùng chánh pháp cúng dường Như Lai ” hốt nhiên nhập định, tâm thông suốt, liền bạch cùng sư Tuệ Tư. Sư nói: “Không phải con thì không ai chứng, không phải ta thì không ai biết chỗ chứng đắc của con chính là tiền phương tiện Pháp Hoa Tam Muội, đó là chỗ phát khởi sơ đà la ni” . Sau ở núi Thiên Thai, Dưỡng Đế tôn kính sư, ban tặng hiệu là Trí Giả. Khi lâm chung xướng danh tam bảo ba lần và qua đời. Thụy hiệu là Bảo Giác Linh Tuệ tôn giả.

Bài tán:
Nhận phó thác mà đến
Chỉ là gặp lại nhau
Chính Nam Nhạc thừa nhận
Liền sáng tỏ trước sau.

Vua kinh, đơn độc hiển
Nguồn mưa pháp thấm nhuần
Như Thầy hoằng hóa đạo
Giao phó chẳng phụ ân.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 1 tháng 12, 1979   

Pháp Hoa hội, Linh Thứu sơn cùng đến
Chấn Đán nay gặp lại há ngẫu nhiên
Con, người chứng. Người biết chính là ta.
Riêng tu đạo, cũng là duyên đưa đẩy
Nam Nhạc nếp nhà uy nghiêm lừng lẫy
Thiên Thai tông phái trải khắp đại thiên
Y giáo phụng hành thấy tánh bản nguyên
Cao vời vợi, dùi mài càng vững chắc*.
…………………………………………….
*Luận Ngữ 論語: Ngưỡng chi di cao, toàn chi di kiên, chiêm chi tại tiên, hốt yên tại hậu 仰之彌高, 鑽之彌堅, 瞻之在前, 忽焉在後(Tử Hãn 子罕) Đạo (của Khổng Tử) càng ngửng lên trông càng thấy cao, càng dùi mài càng thấy vững chắc, mới thấy ở trước mặt, bỗng hiện ở sau lưng.

4.31 Thiên Thai Tứ Tổ Chương An Quán Đảnh Pháp Sư

Sư họ Ngô người Chương An, Lâm Hải, tự là Pháp Vân. Khi mới được 3 tháng đã biết xưng tam bảo. Một vị tăng nói với mẹ của sư: “Đứa bé này là hạng phi phàm”, vì vậy nên có tên là Quán Đảnh. Bảy tuổi theo sư Tuệ Chửng tại chùa Nhiếp Tĩnh xuất gia học pháp quán với Trí Giả, sau khi nghiên cứu và học tập rất lâu được Thầy ấn chứng, sư kết tập các bộ lớn nhỏ do Thầy trứ thuật, luận giảng hơn trăm bộ. Đối với giáo quán của gia phong Thiên Thai, sư là người có công lớn. Sư soạn hai quyển kinh Niết Bàn Huyền Nghĩa, sớ gồm hai mươi quyển. Khi vừa xong thì bị hỏa hoạn nhưng bộ sách này không bị thiêu hủy. Lúc lâm chung ngồi ngay thẳng, dặn dò môn đồ, chợt chắp tay niệm Phật, xưng danh hiệu Phật A Di Đà và hai vị đại sĩ [Quán Thế Âm và Đại Thế Chí] rồi nhập diệt. Thuở trước có sư Trí Hi, lúc lâm chung nói: “Tôi sinh về cõi Đâu Suất, gặp tiên sư Trí Giả, bên cạnh có một chỗ ngồi trống. Các vị trời nói sau sáu năm pháp sư Quán Đảnh sẽ đến”.Tính thời gian thì lời nói của sư Trí Hi không sai .

Bài tán:
Giáo quán ngài Long Thọ
Đến Thiên Thai phát huy
Có chư sư kết tập
Luồng sóng pháp phô bày.

Giải kinh bao khốn khó
Thân khoác tuyết nằm băng
Lửa dữ đốt không cháy
Giềng mối đạo vĩnh hằng.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 30 tháng 12, 1979   

Mở sáng Thiên Thai công lao Quán Đảnh
Bản tánh khác thường vốn tự bẩm sinh
Ba tháng tròn đà biết niệm Phật danh
Vừa lên bảy đến núi rừng thất thánh.
Lúc ngồi xuống nhập Niết Bàn chánh định
Khi đứng lên giải đại pháp vô sinh
Mưa pháp cam lồ kết tập tàng kinh
Vào tận chốn huyền cung dòng Trí Giả.

4.32 Thiên Thai Ngũ Tổ Pháp Hoa Trí Uy Tôn Giả 

Tiền thân tôn giả là Trần Từ Lăng, làm quan Bộc Xạ, nhân nghe Thiên Thai Trí Giả giảng kinh liền lập năm nguyện. Khi mất tái sinh là người họ Chu tại đất Tấn Vân. Năm 18 tuổi dự định lấy vợ, gặp một Phạm tăng nhắc lại lời nguyện ngày xưa, sư liền đi về núi Thiên Thai bái sư Chương An (Quán Đảnh) xuất gia, riêng nhận tâm yếu, phát sinh định tuệ chứng Pháp Hoa tam muội, muốn tìm đất tốt để thuyết pháp, liền ném tích trượng lên không trung, chống trượng đến núi Luyện Đan tại Hiên Viên gọi vùng đất này là Pháp Hoa, ngày giảng pháp, tối tọa thiền, người theo học tính đến hàng trăm. Sư thân cao bảy trượng, cot cach thanh tu. Mỗi khi đăng tòa có đám mây tía che trên đầu như một cái lọng. Khi đi thọ trai tại Tiên Cư cách 80 dặm đường, sư đi về trong ngày. Người đời cho rằng sư có thần túc thông. Năm Vĩnh Long thứ nhất, ngồi kiết già mà hóa. Thời vua Đường Thái Tông đã từng ban tặng sư hiệu là Huyền Đạt Tôn Giả.

Bài tán:
Xuất thân dinh tể tướng
Nhập vào nhà pháp vương
Định tuệ cùng giao tiếp
Chứng tam muội Pháp Hoa.

Vung tích trượng tìm đất
Đánh trống pháp chẳng dừng
Tiểu nguyện thành đại nghiệp
Quyền biến hiện lại qua.

Kệ
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 19 tháng 1, 1980   

Đại quyền biến, hiện thân làm Tể tướng
Thâm nhập lời Trí Giả giảng Pháp Hoa
Tâm như nhiên, chứng tam muội dễ dàng
Trong khoảnh khắc tựu thành tâm nhất hạnh.
Áng mây tím che tàn ân đức hiện
Bóng ráng hồng bao phủ vạn chúng sinh
Ngũ tổ Thiên Thai phẩm cách cao minh
Pháp Phật tại Hoa Kỳ ngày một mới.

4.33 Thiên Thai Lục Tổ Thiên Cung Tuệ Uy

Thiên Cung Tuệ Uy tôn giả họ Lưu, người Đông Dương, Vụ Châu。Thời còn để tóc trái đào đã biết chán chường thế gian lao khổ, vào cửa Không, xuống tóc xuất gia, thọ giới cụ túc, nhân nghe thiền sư Pháp Hoa giảng giáo pháp Thiên Thai liền đến học hỏi, dốc lòng theo pháp thiền, ngày đêm chuyên cần hành trì pháp tam quán, tức thì khai ngộ, người đương thời thấy sư học hoàn hảo phong cách của sư [Trí] Uy liền gọi sư là Tiểu Uy. Sau đó sư trở về Đông Dương ẩn cư trong núi, dứt việc giao tiếp với thế tình, sau khi thiền sư Pháp Hoa nhập diệt số người đến cầu đạo thì nhiều không kể xiết, người nối pháp thì chỉ có Tả Khê [Huyền Lãng]. Nhà Đường phong là “Triều Tán Đại Phu Tứ Đại Sư”, thụy hiệu là Toàn Chân tôn giả.

Bài tán:
Gia nghiệp sư Đại Uy
Đã rộng mà lại sâu
Riêng mình sư vào được
Thuyền đại pháp tay chèo.

Quyết ẩn chốn núi sâu
Cùng nai heo du ngoạn
Tiến hoặc thoái tùy thời
Tự chu toàn giáo đạo.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 2 tháng 3, 1980     

Xuất gia thoát dòng tử sinh kềm tỏa
Chí mong rời hầm lửa đỏ đốt thiêu
Chuyên trì tam quán, đốn ngộ tự nhiên
Thâm nhập nhất môn, từ lâu thông suốt.

Ẩn chốn khe sâu giả từ thế sự
Chuyển pháp luân cứu giúp giống hàm linh
Chơi cùng nai heo, phổ độ từ bi
Phong cách thanh cao muôn loài kính ngưỡng.

4.34 Thiên Thai Thất Tổ Huyền Lãng

Tôn giả tự là Tuệ Minh, người Đông Dương, Vụ Châu, là cháu sáu đời của Phó Đại Sĩ. Năm mươi tuổi mới xuất gia. Nghe Thiên Thai Tông hoằng dương Chỉ Quán liền tự đến học 。Tông thú một nhà đều giải ngộ, không thiếu sót. Sống trong hang núi, lấy hiệu là Tả Khê, khi rửa bát có đám vượn tranh nhau bưng giúp, khi tụng kinh thì có chim bay quanh. Có một con chó mù đến núi nằm sát đất. Sư vì chó tụng sám pháp không quá bảy ngày mắt chó sáng lại. Nước ở trong núi khô cạn, sư dùng gậy cắm vào thì nước suối vọt ra. Sư nguyện sinh Đâu Suất, tâm khởi niệm hốt nhiên xá lợi từ trên không rơi xuống. Ngày 19 tháng 9 năm Thiên Bảo thứ 13 (754), sư gọi môn đồ đến, nói: “Ta đã viên thành lục tức, muôn hạnh đều không có chỗ chứng đắc, giới là gốc của tâm. Các ông nên lấy giới làm Thầy”. Nói rồi đoan tọa mà hóa, thụy hiệu là Minh Giác Tôn Giả.

Bài tán:
Muộn màng đến Thiên Thai
Một hớp thu cạn nguồn
Hạnh đầu đà tự giữ
Nước khe, hang nghỉ chân.

Cảm hóa nhiều chủng loại
Không trung xá lợi rơi
Đạo viên, hạnh thuần túy
Lỗi lạc và uy nghi.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 15 tháng 3, 1980   

Năm mươi tuổi xuất gia tuy là chậm
Hạnh đầu đà tận lực tự mình tu
Lục độ hành, vượn đến để khiến sai
Một lần chuyển, chim bay quanh chầu pháp.
Tu bái sám, chó đui mù sáng mắt
Giảng trang kinh, kẻ điếc lại được nghe
Lòng chân thành cảm ứng vạn sinh linh
Hữu tình, vô tình đồng viên chủng trí.

4. 35 Thiên Thai Bát Tổ Kinh Khê Trạm Nhiên

Tôn giả họ Thích, xuất thân từ gia đình theo Nho giáo. Năm 17 tuổi tìm đạo quanh vùng hữu ngạn Chiết giang, gặp được sư Phương Nham ở Kim Hoa học pháp Chỉ Quán. Năm 20 tuổi theo học với tôn giả Tả Khê. Mộng thấy mặc tăng phục, cặp nách hai bánh xe đi vào giữa lòng sông lớn. Sư Tả Khê nói: “Ôi, đó chẳng phải là dùng hai pháp Chỉ Quán độ quần sinh thoát vực tử sinh ?”. Liền trao giáo quán cho sư Trạm Nhiên. Năm 38 tuổi, sư xuống tóc xuất gia. Sư mở rộng diệu pháp, phô bày vạn hạnh, thuật lại sự truyền bá. Văn từ ghi lại muôn lời, khiến gia sản giáo pháp viên đốn [của Thiên Thai Tông] quy về. Người trí thức cho rằng nếu Kinh Khê không ra đời thì ý nghĩa Viên giáo sẽ còn chìm đắm. Trong những năm Thiên Bảo, Đại Lịch, có chiếu chỉ của vua ba lần mời vào cung, sư đều cáo bệnh từ chối. Khi lớn tuổi sư về Phật Lũng, có chút bệnh nhẹ. Khi giảng pháp xong, sư ngồi dựa vào ghế mà hóa, thụy hiệu là Viên Thông Tôn Giả.

Bài tán:
Gia phong còn che khuất
Đạo lớn chưa bày phơi
Thầy ta nối gia nghiệp
Tỏa ánh sáng rạng ngời.

Một thân hai vầng pháp
Chuyển pháp không một phương*
Khắp cùng nghĩa ảo diệu
Dựng ngọn cờ thanh lương.
…………………
* vô phương (无方) : Phương có nghĩa là nơi chốn hoặc phương pháp, chỉ cho việc Đức Phật giáo hóa một cách tự tại, không cố định một nơi nào. Tam Luận Huyền Nghĩa [ 三論玄義 ý nghĩa sâu sắc của Tam Luận, một tác phẩm của Cát Tạng 吉藏 ] nói: “Giáo hóa không một phương pháp nhất định, rèn luyện không phải chỉ có một cách.” 

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 19 tháng 4, 1980   

Kinh Khê, tôn giả Trạm Nhiên
Mang dòng họ Thích, nối liền Nho gia.
Mươi bảy cầu đạo thiết tha
Ba mươi tám tuổi xuất gia tu hành.
Hoằng dương giáo nghĩa viên thành
Đốn ngộ diệu lí xiển minh cho người.
Chân tăng, chiếu lệnh khó mời
Uy thời chẳng phục, giàu thời chẳng tham.

4.36 Thiên Thai Cửu Tổ Đạo Thúy Tôn Giả 

Không rõ Thiên Thai Đạo Thúy tôn giả người vùng nào。Khoảng năm Đại Lịch nhà Đường, sư theo sư Kinh Khê đến Phật Lũng, ngộ được chỗ u huyền, không còn vướng mắc sư Kinh Khê khen ngợi, nói: Con ta có thể nối đạo của ta vậy!, liền trao giáo pháp Chỉ Quán Phụ Hành, sư vì đại chúng khai pháp thuyết giảng, phát minh yếu chỉ thâm sâu, người nghe ai cũng hiểu rõ. Một người đồng môn tên là Nguyên Hạo, khi nghe sư thuyết giảng thì kinh ngạc, thán phục. Năm Trinh Nguyên thứ 21, một vị tăng người Nhật là Tối Trừng từ xa đến cầu pháp, nghe giảng dạy, ngày đêm không nghỉ, ghi chép toàn bộ nhất tông luận sớ mang về. Chọn một ngọn núi làm núi Thiên Thai, lập chùa truyền giáo, phong hóa thịnh hành, người học đông đúc. Tôn giả Đạo Thúy được xem là thủy tổ tông Thiên Thai tại Nhật Bản.

Bài tán:
Vĩ đại thay Kinh Khê
Thực khó mà thừa kế
Thầy ta, bậc linh tuệ
Riêng một lòng tương hợp.

Pháp truyền ra nước ngoài
Rực rỡ một chân trời
Mặt trời mọc phương Đông
Chiếu soi trừ tăm tối.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 25 tháng 4, 1980   

Thiên Thai long tượng hiện thân
Tôn giả Đạo Thúy pháp đăng nối truyền
Ngộ bản lai, giải nghĩa huyền
Thực tướng muôn pháp hốt nhiên rõ ràng.
Đức thịnh ra đến ngoại bang
Nhân từ tế độ hàng hàng man di*
Vầng hồng chiếu rạng đất trời
Hư không vũ trụ sáng ngời quang minh.
………………………………………
*Chỉ một dân tộc đông bộ Trung Quốc thời nhà Ân 殷, nhà Thương 商, ở vào khoảng Sơn Đông, Giang Tô ngày nay. Sau phiếm chỉ các dân tộc ở phía đông Trung Quốc.

4.37 Thiên Thai Thập Tổ Quảng Tu

Thiên Thai Quảng Tu tôn giả họ Lưu, người Hạ Bì, Đông Dương, sớm được theo sư Đạo Thúy tu học, nghiên cứu giáo quán Thiên Thai, hướng tâm đến chỗ thực hành, tụng các kinh Pháp Hoa, Duy Ma Cật, Kim Quang Minh, Phạm Võng mỗi ngạy Tứ Phần Giới Bản là thường khóa. Sáu thời hành sám pháp không biếng trể, đến cuối đời càng dốc sức tiến tu. Mỗi năm đều tu Tùy Tự Ý tam muội mỗi lần 49 ngày chưa từng bỏ qua. Quan thứ sử huyện Thiên Thai là Vi Hành thỉnh sư giảng Chỉ Quán đang ngồi nghe mà đã thông hiểu tất cả khiến mọi người đều hoan hỷ. Năm Hội Xương thứ ba, sư nhập diệt, đồ chúng táng toàn thân sư nơi đạo tràng Kim Địa. Về sau môn đồ là Lương Tử mở tháp hỏa táng, thu được hơn ngàn hạt xá lợi lớn như hạt đậu, liền dựng tháp nơi đó để thờ.

Bài tán:
Vào được pháp giáo quán
Hăm hở học yếu chỉ
Chú tâm vào thực hành
Hành vốn là chẳng hành
Dưới pháp tòa giáo hóa
Thần trí tự mở mang
Đất Kim Địa vùi thân
Rực sáng ánh bảo quang

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 25 tháng 5, 1980   

Giáo mà thiếu quán dối gian
Quán mà bỏ giáo nguy nan cận kề
Truy tầm, ngộ giải hai bề
Biện thông, dụng khéo quy về một thiên
Thuần duyên hóa độ tự nhiên
Cơ cảm tương ứng không riêng ta, người.
Thiên Thai, ngưỡng mộ cao vời
Quy tâm hướng đạo, nguyện đời phát huy.

4. 38 Thiên Thai Thập Nhất Tổ Quốc Thanh Vật Ngoại

Tôn giả Quốc Thanh Vật Ngoại họ Dương, người đất Hầu Quan, Phúc Kiến. Sư theo sư Quảng Tu học Chỉ Quán, vì người thuyết giảng, hành trì không biếng trể. Cuối đời Đại Trung, dân chúng đói kém, sư kiết già nơi tịnh thất, nhập chánh định, bảo cùng đệ tử rằng nếu sư không chết, đến mùa ngũ cốc thì đánh khánh để sư xuất đinh. Hơn một năm, vị đệ tử làm y theo lời sư dặn, quả nhiên sư xuất định. Năm thứ năm Trung Hòa, sư nhập diệt, táng bên cạnh tháp viện của Trí Giả Đại Sư.

Bài tán:
Đang trong cơn hoạn nạn
Giáo pháp phải đắm chìm
Mây tan bầy chim lạc
Chiếc bóng bên rừng sâu.

Nhập diệu vào chánh định
Bóng mất tức trần tan
Mạch sống như sợi tơ
Chờ đón ánh bình minh.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 14 tháng 6, 1980   

Quốc Thanh ẩn dật cao tăng
Siêu nhiên Vật Ngoại truyền đăng tổ thầy.
Bát nhã nhập định diệu kỳ
Niết Bàn tu chứng rõ bày vô sinh.
Đến đi tự tại an bình
Dù thuận dù nghịch mặc tình, viên thông.
Tai nghe khánh động tịnh tâm
Thường theo Trí Giả làm ông cụ hiền.

4.39 Thiên Thai Tổ XII Quốc Thanh Nguyên Tú

Tôn giả Quốc Thanh Nguyên Tú thuộc tông Thiên Thai, theo sư Quốc Thanh Vật Ngoại học Chỉ Quán đạt đến chỗ huyền ảo, giảng được nghĩa cao sâu, người theo học dù nhiều hay ít cũng không thay đổi phương cách giảng dạy. Một hôm sư thăng tòa thuyết pháp, có mười vị tăng lạ uy nghi đúng phép, từ ngoài đi vào, kính lễ và ngồi xuống phía sau nghe pháp. Sau buổi giảng, chư vị vấn an rồi bước ra ngoài. Sư bảo thị giả mời đón thì tất cả đồng bay lên hư không, vẫy tay cười, từ tạ mà đi. Thời vua Đường Hy Tông và Đường Chiêu Tông thiên hạ loạn lạc, người theo học khi đến khi đi, người muốn đắc được định tuệ cũng rất khó. Riêng hai vị Thanh Tủng và Thường Thao luôn đúng theo pháp, dần dần đạt đến chỗ thông suốt.

Bài tán:
Người biết khéo thuyết pháp
Hẳn như pháp mà thuyết
Chúng nhiều, ít, vô hình
Hư không lưỡi rộng dài.
Chư tăng lạ đến nghe
Vẫy tay chào từ biệt
Cười bay lên không trung
Nói, nghĩ đều dứt tuyệt.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 28 tháng 6, 1980   

Trời sai gánh việc chẳng đồng
Gặp thời loạn lạc đuốc hồng lớn thay
Thánh tăng nghe pháp cao bay
Hiểu kinh kẻ trí nhanh tay thực hành
Đạo đức cảm hóa thiện lành
Tâm tánh thanh tịnh, ngọn ngành hồi quy
Sa bà hằng nguyện cứu nguy
Từ bi ghi khắc, chẳng vì công danh.

4.40 Thiên Thai Tổ XIII Quốc Thanh Thanh Tủng

Quốc Thanh Thanh Tủng tôn giả người đất Thiên Thai (Chiết giang) theo pháp sư Nguyên Tú chuyên tu Chỉ Quán, ngày đêm luôn tinh tấn, chẳng bao lâu kế vị trụ trì chùa Quốc Thanh, giáo thuyết và thực hành chẳng thiếu sót. Bấy giờ họ Tiền tạo dựng nước Ngô Việt Đất Thiên Thai bên trong vương triều. Sư thường nói với đồ chúng:Bên ngoài có vua quan giúp, không lo nạn binh đao, trọn ngày an cư, lẻ nào không lo tu đạo để báo đáp ân nước. Mỗi ngày sư thăng tòa, luận giảng không thôi, đồ chúng không dám lộ vẻ mỏi mệt.

Bài tán:

Vận nhà Đường nghiêng đổ
Quần hùng tranh bá vương
Bên trong đất an bình
Duy ân vua dựa nương.

Gắng tu được lợi ích
Dùng hóa độ quốc dân.
Cao Luận hưng thịnh chúng
Bó đuốc trong đêm dài.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 23 tháng 8, 1980   

Thủ nhãn pháp tượng Thiên Thai
Kế thừa tổ vị trong tay đao vàng.
Báo quốc gắng sức tu thân
Chuyên tâm tinh tiến tạ ân đất trời.
Sư tử rống, những ngày dài,
Đêm ngày luận pháp chẳng hoài công lao.
Thời loạn giáo pháp càng cao
Công nơi cửa Phật đồng bào nhuận ân.

4.41 Thiên Thai Tổ XIV Loa Khê Tịnh Quang

Tôn giả họ Hồ, tự Thường Chiếu, người Vĩnh Gia. Xuất gia lúc còn nhỏ tuổi, học Chỉ Quán với sư Thanh Tủng, lãnh hội thông suốt như Hà Nam* soi sáng một vùng trời. Sư thường ở chùa Dục Vương đến chùa Quốc Thanh, khi thượng đường bảo tòa có lọng che đề hàng, chữ Văn Thù Đài, lan can che phủ người ngoài không vào đươc. Sư thấy Bồ tát Quán Âm từ trên đưa tay ra, sư mau chóng quỳ xuống tiếp đón,chợt thấy tự thân cùng thể với Quán Âm hợp làm một. Từ đó về sau lạc thuyết vô tận. Thời loạn, kinh điển lạc mật Sư cảm thấy đau lòng trước cảnh đời,nhân Ngô Việt Vương cho hỏi về tứ trụ có phải từ đời Tề thuyết ra chăng。Sư đáp rằng đó là chỗ diệu huyền của Trí Giả, những bản kinh đó hiện đang có ở nước ngoài. Việt vương liền sai sứ sang Nhật Bản cầu được kinh điển mang về, sư giữ kinh tại chùa Loa Khê, đề bảng là Định Tuê. Vua ban hiệu là Tịnh Quang Giáo quán hưng thịnh là nhờ công sức của sư vậy.
…………………
* Tôn giả Tuệ Tư, nhị tổ Thiên Thai Tông. 慧思 ( 515-577), cũng được gọi là Nam Nhạc Tôn giả (南嶽尊者), Tư Ðại Thiền sư (思大禪師).

Bài tán:
Thể tánh đồng Quán Âm
Chiếu soi bất tận cùng
Đầu mối sắp dứt tuyệt
Lại nhờ sư phục hưng.

Tìm tro tàn bảo tạng
Lấy tin từ bể Đông*
Vĩ đại thay tôn sư
Hằng che chở tông môn.
……………….
*Thẻ tre (dùng để ghi chép thời xưa). ◇Thi Kinh 詩經: Khởi bất hoài quy, Úy thử giản thư 豈不懷歸, 畏此簡書 (Tiểu nhã 小雅, Xuất xa 出車) Há lại không nhớ nhà mà mong về hay sao, Chỉ sợ thẻ thư (cấp báo tin có chiến tranh mà không về được thôi).

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 5 tháng 9, 1980   

Vĩnh gia đại thánh Tịnh Quang
Kế thừa, khai mở tỏa làn hương tâm
Từ bi thể tính Quán Âm
Văn Thù trí tuệ dựng làm điển chương.
Lạc thuyết vô tận biện tài
Diệu định thệ nguyện ai người tương đương
Cầu kinh đông hải Việt vương
Công sâu nối pháp Đường tăng sánh cùng.

4.42 Thiên Thai Tổ XV Bảo Vân Nghĩa Thông

Tôn giả họ Doãn, tự Duy Viễn, người nước Đại Hàn, tướng thanh tịnh khác lạ, trên đầu có nhục kế, lông mà dài đến sáu tất. Thuở nhỏ theo viện Quy Sơn xuất gia, học kinh Hoa Nghiêm, luận Đại thừa Khởi Tín. Sư sang Trung quốc đến núi Thiên Thai chiêm bái, chợt khế ngộ. Lại đến học sư Loa Khê, nghe yếu chỉ nhất tâm tam quán, tán thán rằng: cái học viên đốn, rốt ráo là con đường này!. Sư hết lòng hấp thụ giáo pháp. Quan tào sứ huyện Tứ Minh là Cổ thừa Huy cống hiến nhà ở làm nơi giảng pháp, thỉnh sư trụ trì.Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ bảy (982) đời nhà Tống, vua Tống Thái Tông ban bảng đề là Bảo Vân. Từ đó sư tận lực xiển dương giáo quán Thiên Thai có đến 20 năm. Năm Đoan Củng thứ nhất (988) sư nằm quay sang phía hữu mà nhập diệt . Môn đồ hỏa táng thu xá lợi rất nhiều, táng nơi góc Tây Bắc chùa A Dục Vương. Về sau tháp bị hư hỏng nhưng ánh sáng năm màu vẫn phát ra trên cốt.

Bài tán:
U nghi tướng thanh tịnh
Bậc kiệt xuất biển Đông
Đến Trung Hoa cầu học
Viên đốn chỗ tận cùng.

Bảo Vân khéo bồi đắp
Pháp âm vượt hư không
Ngọc xá lợi trong suốt
Cam lồ tịch diệt đồng.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 20 tháng 9, 1980   

Pháp Phật vốn cùng một tông
Giống dòng, đất nước viên dung đại đồng.
Thánh nhân Cao Ly giáng trần
Nhật Bản tiếp nối pháp đăng giáo truyền.

Đại thừa Chấn Đán trọng hưng
La Hán Tây Vực cang cường như thông
Vạn pháp một bầu hư không
Muôn dòng hòa với biển Đông một nguồn.

4.43 Thiên Thai Tổ XVI Tứ Minh Pháp Trí

Tôn giả Tứ Minh Pháp Trí họ Kim, tự Tri Lễ. Người mẹ nằm mộng thấy một vị thiền tăng dẫn một đồng tử vào nhà, để lại và bảo: Đây là La Hầu La con Đức Phật, nhân đó mang thai sinh ra sư, phong cách thuần hậu. Năm 15 tuổi thọ giới cụ túc, theo sư Bảo Vân học Thiên Thai giáo quán. Người cha nằm mộng thấy tôn giả Bảo Vân cầm một bình rót nước vào miệng sư. Từ đó giáo pháp viên đốn chỉ nghe qua là liễu đạt. Sư Bảo Vân thị tịch, sư lại mộng thấy bọc đầu Thầy mang trên vai trái mà đi. Sư tự giải thích tướng đầu biểu thị cho việcluu truyền sở học, cũng biểu thị việc nắm đầu mối chủng trí hóa đạo xuất thế. Sư đưa ra nhiều nghi vấn từ đó thấu tỏ điểm chánh yếu của Thiên Thai tông. Niên hiệu Trung Hưng, năm Thiên Thánh thứ sáu, sư niệm Phật mà qua đời. Nhục thân để lộ nơi khám trong 14 ngày, sắc diện vẫn như còn sống. Khi hỏa táng lưỡi không cháy, xá lợi năm màu nhiều vô số.

Bài tán:
Tông Thiên Thai điêu tàn
Hồi phục chưa bao lâu
Nhờ người con chân chính
Chủng trí, nắm mối đầu.

Quét sạch đường lối sai
Tiếng rống của sư tử
Chỉ một chữ cũng đủ
Khiến ngậm miệng bội phục.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 27 tháng 8, 1980   

Tứ Minh họ Kim như rồng
Như mộng ba cõi trần hồng u mê
Xuống trần, thể tánh lấp che
Thần tăng đưa tiễn như nghe dặn dò.
Tuệ thông, miệng thơm cam lồ
Rộng dài tướng lưỡi lưu truyền pháp âm
Ngũ sắc xá lợi hằng trăm
Thiên Thai từ đó dự phần trung hưng.

4.44 Hoa Nghiêm Sơ Tổ Đế Tâm Đỗ Thuận

Ung Châu Nghĩa Thiện tự Đỗ Thuận hòa thượng, họ Đỗ, người Vạn Niên, Trường ạn năm 18 tuổi thọ trì pháp định, sau đó khí chất phi thường hiện rõ như xua đuổi sâu kiến, thuần thục thú dữ, trừ tà,chữa bệnh tật, khiến kẻ điếc nghe, kẻ câm nọi Sư thường vượt sông Hoàng, bấy giờ nước cuộn tràn, sư dẫn đồ chúng vượt qua, nước liền dừng chạy Khi sư và đồ chúng lên bờ thì nước sông trở lại như cũ.Những thần tích đại loại như trên. Vua Đường Thái Tông triệu sư vào cung, ban tặng hiệu là Đế Tâm. Năm Trinh Quán 14 sư thị hiện qua đời, nhục thân vẫn như lúc còn sống,thoảng hương thơm. Có một vị tăng lễ bái nơi núi Ngũ Đài gặp một lão nhân bảo cho biết ngài Văn Thù hiện đang ở tại núi Chung Nam, chính là hòa thượng Đỗ Thuận. Vị tăng vội đến thì sư đã mất từ lâu. Với kinh Hoa Nghiêm, sư tu tập pháp giới quán và hoàn nguyên quán, truyền lại cho đệ tử là Trí Nghiễm, tổ của tông Hiền Thủ.

Bài tán:
Hoa Nghiêm đại trùng dương
Mênh mông khó so lường
Chẳng là bậc đại trí
Đáy biển ai tận tường.

Mở khai pháp giới môn
Quán hoàn nguyên quỹ đạo
Đó chính thực Thầy ta
Tất nhiên là Mạn Thù.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 19 tháng 8, 1972   

Hiện thân Pháp Thuận, Văn Thù
Ngưng dòng nước cuộn quỷ thần kính tin.
Lạ gì đổi nguyệt, dời sao
Lật trời, chuyển đất xôn xao nói cười.

Cảm đức rồng cọp quy y
Diệt tật, trừ bệnh kiên trì đạo tâm
Thương thay cho kẻ mê lầm
Ngũ Đài bên cạnh, khấn thầm non cao!

4.45 Hoa Nghiêm Nhị Tổ Vân Hoa Trí Nghiễm

Sư còn được gọi là Chí Tướng tôn giả.Trước khi xuống tóc, Sư làm lễ trước Ðại tạng và rút từ đó một quyển kinh ra để tu theo. Quyển kinh đó là quyển đầu bộ kinh Hoa Nghiêm, và từ đó Sư trì chí tụng đọc kinh này. Sư bắt đầu học Phật với ngài Đỗ Thuận, sau một thời gian, sư thông thạo các giáo lí Đại thừa, đắc được huyền chỉ. Lại được truyền giao pháp quán để nối tiếp việc giảng giải.Tình cờ sư gặp một vị tăng lạ bảo sư rằng nếu muốn diễn giải tông chỉ nhất thừa của kinh Hoa Nghiêm thì chính là nghĩa của sáu tướng trong mười địa. Sư tĩnh tâm suy tư, nhân đó nghiền ngẫm, đột nhiên quán sát thông suốt. Sư theo đó mà giảng kinh Hoa Nghiêm, đại chấn hưng tông phong,vang danh khắp nơi. Năm Tổng Chương thứ nhất (668) sư bảo môn nhân: Ta sắp đi về cõi tịnh. Không hơn một tháng sau, sư nói pháp rồi qua đời, trụ thế 72 năm.

Bài tán:
Đế Tâm bậc Thích tử
Là tôn sư Hiền Thủ
Áo nghĩa kinh Hoa Nghiêm
Đều tận tường hiểu rõ.

Định thần tĩnh tâm quán
Không điếc cũng không ngu
Mở toang mười pháp giới
Đập vỡ bầu thái hư.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 26 tháng 8, 1972   

Sư Chí Tướng tụng Hoa Nghiêm,
Nghĩa kinh huyền áo đưa duyên gặp thầy
Thập địa lục tướng chỉ bày
Chín hội, bảy xứ giải ngay cội nguồn.

Ven trời mây trắng vẫn trôi
Bể sâu trăng tỏ có lời nào đâu.
Ba la mật, đến rồi đi
Thoát vòng sinh tử khác chi Niết Bàn.

4.46 Hoa Nghiêm Tam Tổ Hiền Thủ Pháp Tạng

Sư họ Khang, húy là Pháp Tạng, người nước Khang Cư*, đến Trường An cư trú, theo hầu sư Trí Nghiễm, đắc được huyền pháp, thuyết giảng khi chưa xuất gia. Năm Ất Mùi Vũ hậu ra lệnh cho sư xuất gia, ban chiếu tuyên giảng tông chỉ kinh Hoa Nghiêm. Khi sư bắt đầu giảng đề kinh, miệng phát ra hào quang trắng kết thành lọng. Vũ hậu rất vui lòng, ban tặng hiệu là Hiền Thủ, xuống chiếu thỉnh sư giúp sư Nan Đà dịch kinh Hoa Nghiêm. Việc dịch kinh hoàn tất, sư nhận chiếu giảng tân kinh, đại địa chấn động khi sư dùng con sư tử vàng nơi góc điện làm thí dụ. Sư lại biên soạn Kim Sư Tử Chương. Vua Duệ Tông hiểu được thiền, thỉnh sư để thọ bồ tát giới. Sư từng giảng kinh Hoa Nghiêm đến hơn 30 lần, chú giải kinh Lăng Già, Mật Nghiêm, Phạm Võng, luận Đại thừa Khởi Tín, Tâm kinh Bát Nhã đều giảng sớ. Năm Tiên Thiên thứ nhất, sư thị tịch tại chùa Đại Tiến Phước, vua ban hiệu là Hồng Lư Khanh, trở thành vị tổ thứ ba tông Hoa Nghiêm.
…………………….
* Nước Khang Cư 康居国 Kangju : Hán văn còn gọi là nước Túc Đặc 粟特 Sute. Đây là một vương quốc cổ ở Trung Á ( Central Asia ) tên là Sogdiana, nằm ở vùng đất giữa ba nước Tajikistan, Kyrgyzstan và Uzbekistan ngày nay. Nằm ở giữa hai con sông Amu Darya và con sông Syr Darya. Với những thành phố lớn như : Samarland, Bukhara, Khujand và Kesh.

Bài tán:
Đến tất có nguyên nhân
Đốt ngón tay lập nguyện
Đi trên biển Tỳ Lô
Khắp tận cùng pháp giới.

Miệng phóng ánh hào quang
Kinh thành đất chấn động
Vĩ đại thay tôn sư
Ban khuôn phép muôn đời.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 2 tháng 9, 1972   

Hoa Nghiêm trải khắp tam thiên
Dạy người buông xả san tham bao trùm
Vô tận diệu lý trùng trùng
Huyền nghĩa sáng tỏ lại cùng hiền nhân.

Giảng kinh quang kết, lọng buông
Khiến dòng ngưng chảy tỏ tường công phu
Quốc sư đạo đức thiên thu
Tư tề* ngưỡng mộ dài lâu vững bền .
………………
* Một thiên trong Đại Nhã, kinh Thi, nói về việc làm của thánh nhân.

4.47 Hiền Thủ Tứ Tổ Thanh Lương Trừng Quán

Quốc sư họ Hạ Hầu, húy Trừng Quán, tự là Đại Hưu, người San m. Sư cao 9 thước 4 tấc, tay dài quá đầu gối, miệng có 40 cái răng, ban đêm mắt phát ánh sáng, ngày thì không chớp mắt, một ngày có thể ghi hàng vạn lời, một lần có thể đọc đến bảy hàng, lại có tài viết với hai chuyện một lần. Năm 11 tuổi xuất gia. Sư thường dùng mười sự để tự khích lệ, thường thỉnh vấn sư Kính Sơn về tông chỉ từ phương Tây đến. Sư thầm nhận ấn ký, trú tại Ngũ Đài Sơn viết Hoa Nghiêm kinh sớ, sau đó về làm sư trong kinh thành. Vua Đức Tông nghênh tiếp mời vào cung, ban hiệu là Thanh Lương quốc sư. Sư sống trải qua chín triều đại, làm thầy cho bảy vua. Năm Khai Thành thứ ba sư ngồi mà hóa, thọ 120 tuổi, tháp dựng nơi núi Chung Nam, gọi tên là Diệu Giác. về sau có một vị tăng đến cung vua tâu rằng sư gặp kim thần tại Thông Lĩnh lấy chiếc răng lớn của bồ tát Hoa Nghiêm về cúng dường. Vua liền truyền thánh chỉ mở tháp thì thấy tướng mạo vẫn như lúc còn sống nhưng mất hai cái răng.

Bài tán:
Báo duyên nghĩa thù thắng
Ta chẳng phải nhàn hạ
Nuôi dưỡng đức tinh túy
Mà không thể chỉ ra.

Lấy biển pháp làm tuệ
Tâm ý tận pháp giới
Làm thầy của bảy vua
Khuôn mẫu cho muôn đời.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 9 tháng 9, 1980    :

Hoa Nghiêm bồ tát Thanh Lương
Diễn thuật vô lượng huyền chương diệu kỳ
Miệng nhả sen báu đó đây
Nẻo xa sớ quý viết tay tận tường

Tay dài hiện tướng đế vương
Văn Thù điện các, thỉnh răng cúng dường
Quang minh chiếu tận vị lai
Chí tâm đính lễ dưới đài pháp vương.

4.48 Hiền Thủ Ngũ Tổ Khuê Phong Tông Mật

Sư họ Hà, người Quả Châu. Năm thứ hai Nguyên Hòa đời Đường sư đến kinh đô ứng tiến sĩ, đi qua Toại Châu nghe sư Đạo Viên thuyết pháp liền xin theo xuất gia. Một hôm, nhận lời mời thọ trai, sư được nghe tụng kinh Viên Giác, chưa nghe hết thời kinh, sư cảm ngộ. Sư Đạo Viên nói: “Kinh này do Phật trao cho con. Hãy mau đi các phương tham học.” Sau đó đến Kinh Nam gặp sư Tuệ Trụng Lại đến lạc Dương gặp sư Thần Chiếu, cả hai vị đều ấn chứng cho sư。Đọc được Hoa Nghiêm Sớ thì vui mừng cảm thán: Ta trước gặp kinh Viên giác tâm địa khai thông. Nay được sớ nầy thực là may mắn. Sư liền gởi thư đến sư Thanh Lương xin làm môn đồ. Quốc sư đáp thư chấp thuận, nói: “Biển tánh tỳ lô, ta cùng người du hành, ông là người ấy chăng”. Vua Văn Tông ban tặng áo tía. Sư biên soạn hơn 90 quyển luận sớ trước khi qua đời. Hỏa táng được xá lợi trong như ngọc. Tháp đề hiệu là Thanh Liên. Tuyên công ban tặng hiệu là Định Tuệ.

Bài tán:
Thiền giáo mau phân tán
Hợp nhất chẳng bao nhiêu
Riêng sư khi xúc chạm
Hai đường đều rõ thông.

Với giáo thì làm tổ
Với thiền làm gương mẫu
Diệt tranh chấp, trừ mê
Như mặt trời vừa lên.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 16 tháng 9, 1972   

Tài cao thiên phú chẳng đồng
Mắt nhìn chính đạo biết rồng biết voi
Gặp Viên Giác tĩnh mộng dài
Hoa Nghiêm lại thấy, dịp may ai ngờ.

Gánh vác thánh nghiệp Thế tôn
Thừa kế hiền pháp Thanh Lương cơ đồ
Tổng trì không ngã không nhân
Rong chơi trong cõi thế trần* hư không.
…………………………
*trần sát 尘刹 : thế giới nhiều như bụi trần, còn gọi là quốc độ.

4.49 Từ Ân Đường Tam Tạng Huyền Trang

Pháp sư họ Trần, người Câu Thi, Lạc Dương, xuất gia từ nhỏ. Năm Trinh Quán thứ ba (629), sư đến cung đình dâng biểu in sang Tây Vực thỉnh kinh, vua không chấp thuận, sư liền lén vượt qua cửa Ngọc Quan, chu du 130 nước thuộc Tây Vực, số kinh luận bản tiếng Phạn thỉnh được mang về là 657 bộ, đến năm Trinh Quán thứ 19 mới về. Phòng Huyền Linh đọc biểu nghinh đón tại cung đình. Vua ban chiếu phiên dịch, viết tựa thánh giáo, xây tháp lớn để giữ các bộ kinh nầy. Năm Lân Đức Giáp Tý (664), lúc sắp thị tịch, sư bảo đồ chúng đồng xướng danh hiệu Như Lai Từ Thị, rồi qua đời. Có bốn đạo cầu vồng trắng từ hướng Bắc kéo xuống hướng Nam, ngang qua sao Tỉnh. Có một vị tăng cúng dường hương chiên đàn để xoa trên thân thể sư. Khi mở khám, nhan sắc như lúc còn sống. Khi vị tăng xoa hương xong thì đột nhiên không thấy vị tăng nữa. Sư là tổ thứ nhất tông Từ Ân.

Bài tán:
Thiếu thời từng thuyết giảng
Nghe được diệu âm thanh
Vượt quan ải cầu pháp
Thọ mệnh giữ vững thành.

Hơn năm trăm bộ kinh
Cùng tuyệt chỗ cao sâu
Đại giáo pháp hoàn bị
Pháp tướng tông khởi đầu.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 23 tháng 9, 1972     

Cổ kim chỉ có một người
Quên thân vì pháp cận kề hiểm nguy
Tâm thành cảm động chư thiên
Nguyện ngày trở lại xuân riêng một trời.
Như kim cương chí chẳng vơi
Muôn nghìn ma chướng không rời đạo tâm
Sáu lần điềm nở đào hồng
Dâng hoa ngưỡng vọng Từ Ân trở về.

4.50 Từ Ân Đường Tam Xa Khuy Cơ

Pháp sư họ Uất Trì, người Đại Quận, là cháu của Ngạc Quốc Công Kính Đức, con của Kim Ngô, tướng quân Kính Tông, theo sư Huyền Trang vào đạo, tham dịch nghĩa kinh, lãnh thọ tông chỉ Du Già Sư Địa Duy Thức, soạn thuật đến trăm bộ sớ sao, có hiệu là Bách Bộ Luận Sư ttính hào phóng, mỗi khi ra ngoài mang theo đầy đủ y phục, thực phẩm, kinh thư nên có hiệu là Tam Xa pháp sư. Lúc sư Đạo Tuyên khởi đầu việc hoằng hóa Luật tạng, được thiên thần cảm ứng nên cúng dường thức ăn. Một hôm, vào buổi trưa sư đến thăm sư Đạo Tuyên đã quá giờ Ngọ mà thiên thần không đến. Lúc sư đi rồi thì thiên thần mới hiện xuống, nói rằng nhìn Bồ tát Đại thừa có hộ vệ canh phòng nghiêm trang nên không dám tự ý vào. Những năm cuối đời sư nguyện sinh về [Đâu suất] nội viện. Năm Vĩnh Thuần thứ nhất (682) sư nhập diệt. Pháp Tướng Tông do sư Huyền Trang bẩm thừa từ sư Giới Hiền khởi xướng, lại được sư giúp sức nên đạo pháp hiển bày. Sư là vị tổ thứ ba tông Từ Ân.

Bài tán:
Một tòa nhà duy thức
Nghĩa tối thắng vi diệu
Huyền Trang đạt bí quyết
Không sư ai người biết.

Biên soạn sớ thuật sao
Pháp hiển dương rực rỡ
Như đuốc sáng đêm đen
Trăm đời cùng gặp gỡ.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 30 tháng 9, 1980   

Trước mê sau ngộ cũng ba xe
Pháp luân, một chữ cũng là dư.
Khổ hạnh, định thiền, xưa tu tập
Nay góp công lao dịch đại thừa.

Trăm bộ luận kinh tham bí yếu
Sớ sao vạn quyển hóa sa bà
Tiếc bởi người trời chưa cung dưỡng
Giấc mộng đêm hương một tiếng gào.

4.51 Du Già Đường Tam Tạng Bất Không

Sư người Tây Vực, từ thuở nhỏ đã theo chú đi khắp Trung Hoa, theo sư Kim Cang Trí, được truyền ý nghĩa Du Già, trao cho Thanh Minh Luận và ngũ bộ cùng với tô tất địa nghi quỹ. Sư đi về Thiên Trúc, đến nước Sư Tử, gặp được sư Long Trí trao cho đàn pháp, truyền hơn 500 bộ kinh luận. Sư từ nước Sư Tử quay về Trung Hoa, đến Quảng Châu, đến thăm vị sứ là Lưu Cự Tế lập đàn pháp quán đảnh, cảm ứng được Ngài Văn Thù hiện thân. Năm Thiên Bảo nguyên niên, sư dùng chú thuật đánh lui giặc từ phương tây. Trên lầu cao thấy hình dáng thiên vương, sư vẽ lại đưa lên vua, triều đình tôn là Quán Đính Quốc Sư。Kinh điển sư dịch gồm có 120 quyển, 77 bộ. Năm Đại Lịch thứ 9 sư có bệnh, vua ban tước vị nhưng sư không nhận. Sư thị tịch khi trong tam muội đại ấn thân, được ban tặng thụy hiệu là Đại Biện Chánh Quảng Trí Tam Tạng. Khi hỏa táng thu được hơn trăm hạt xá lợi.

Bài tán:
Trú nơi quán đỉnh
Mang ấn tỳ lô
Tâm diệu cảm thọ
Ứng đối tùy cơ.

Văn Thù hiện thân
Thiên vương nghe lệnh
Pháp thuật huyền bí
Thánh bất tư nghì.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 7 tháng 10, 1972   

Bất Không Tam Tạng ứng không
Mi dài, mày rậm chân tông rõ ràng
Tô tất đế, diệu linh văn
Pháp vương, trên quán đỉnh đàn hiện thân.
Nước Sư Tử, sư dạo chân
Thành Ngũ Dương* độ mê tân cho người
Tây Vực, Chấn Đán, đức dư
Hướng tâm chiêm bái đại từ thế tôn.
……………………..
* Quảng Châu

4.52 Du Già Đường Đại Tuệ Nhất Hạn

Sư họ Trương người đất Cự Lộc, xuất gia từ nhỏ theo sư Kim Cang Trí kết tập tì lô giá na kinh sớ, đăng đàn quan đỉnh, thụ Du già ngũ bộ pháp. Năm Khai Nguyên thứ nhất (713) sư phụng chiếu vào cung, tấu đối xứng hợp tông chỉ và ý vua. vua việc nước đưa ra những nghi vấn, nói: “xe loan vạn lý hành, xã tắc trọn an lành”. Nói xong dâng vua một chiếc hộp vàng, dặn rằng đến Vạn Lý thì mới mở. Sau vua đi đến Thành Đô, đến cầu Vạn Lý mở hộp ra, thấy ghi: “Nên quay về”. Vua hiểu ý nên ít lâu sau quay về, được hoàn toàn yên ổn.Vua Chiêu Tông từng phong sư hiệu là Cát Vương. Sư soạn lịch Đại Diễn gồm 51 quyển. Thời Hán, lúc Lạc Hạ Hoành tạo lịch có nói trước rằng: 800 năm sai một ngày, lúc đó sẽ có bậc thánh định lại. Khi lịch Đại Diễn ra đời, nghiệm thấy lời Lạc Hạ Hoành rất đúng. Sư chế tạo Thủy Hồn Thiên Nghi. Năm Khai Nguyên thứ 15 (727) từ biệt quay về Tung sơn, thay áo ngồi mà qua đời. Vua ban tặng hiệu là Đại Tuệ.

Bài tán:
Năm bộ giáo pháp
Sư được ấn chứng
m dương sấm vĩ*
Người đời xưng thánh.

Tung sơn khế hợp
Sao học pháp khác
Dùng trí như châu
Tròn sáng dị thường.
………………………….
*Tên gọi tắt của vĩ thư 緯書. Tức là sách mượn nghĩa kinh để luận về phù phép điềm ứng, gồm có thất vĩ 七緯 bảy bộ: Dịch vĩ 易緯, Thư vĩ 書緯, Thi vĩ 詩緯, Lễ vĩ 禮緯, Nhạc vĩ 樂緯, Xuân thu vĩ 春秋緯, Hiếu Kinh vĩ 孝經緯. Tương truyền là chi lưu của kinh, cũng do tay đức Khổng Tử 孔子 làm cả. Người sau thấy trong sách có nhiều câu nói về âm dương ngũ hành nên mới gọi sự chiêm nghiệm xấu tốt là đồ vĩ 圖緯 hay sấm vĩ 讖緯. (Trích Hán Việt Tự Điển Trích Dẫn).

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 15 tháng 10, 1972

Theo Kim Cương Trí thượng sư
Tĩnh tâm tu niệm pháp đàn Mật tông
Dự ngôn Vạn Lí rõ thông
Bán hạ* nhất hạnh trụ trong định thần.
Thay áo thị tịch quy chân
Khoanh tay thoắt đến liên trì như chơi.
Dùng phương tiện dạy muôn người
Trần lao, Phật sự, đạo đời chuyển xoay.
………………………….
* chỉ cho nửa mùa hạ.

4.53 Luật Tổ Đường Chung Nam Đạo Tuyên

Sư là con của quan Lại Bộ Thượng Thư Tiền Thân ở Kinh Triệu. Người mẹ mộng thấy một vị Phạm tăng nói: Thai nhi tiền thân vốn là luật sư Hựu đời Lương. Lớn lên xuất gia, lấy luật làm pháp tu trì, sống tại núi Chung Nam, tu bát nhã tam muội, khiến long thần cảm ứng, thay đổi hình dáng đến nghe pháp, người trời cúng dường thực phẩm khi sư hành đạo. Một hôm, khi sư bước lên bậc thềm sắp bị té ngả thì chợt có một thiếu niên mặc áo đội mủ giáp đỡ lấy sư để khỏi bị ngả. Sư hỏi thiếu niên là ai, đáp rằng là Trương Quỳnh, con của thiên vương Bát Xoa. Vì thấy sư là bậc có giới đức nên đến chầu. Sau đó thường giáng hạ, lại trao cho sư răng Phật. Mùa xuân năm Càn Phong thứ hai (667) có thiên thần đến báo rằng báo duyên của sư sắp hết, sẽ sinh nơi nội viện Đâu Suất. Đến tháng 10 đồ chúng nghe thấy nhạc và hoa trời rơi xuống thỉnh sư về chầu đức Di Lạc. Sau đó chẳng bao lâu sư qua đời. Sư biên soạn Sớ Sao Truyện Tập gồm 81 quyển lưu hành, trở thành một vị tổ luật tông.

Bài tán:
Đệ tử trì giới Phật
Y theo giới mà trụ
Tuệ lớn đã phát khởi
Vượt qua bờ đến nơi.

Sư hoằng hóa Tứ Phần
Ánh sáng giới xa gần
Trăm đời đều dựa nương
Một pháp môn cột rường.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 21 tháng 10, 1972

Hộ trì Tỳ Ni nghiêm minh
Người trời thực phẩm dâng lên mỗi ngày
Long vương nghe pháp theo hầu
Địa thần nghe báo vội chầu người tu.
Đáo bỉ ngạn, giới luật nghiêm
Nhẫn nhục thiền định qua miền Tu Di
Bát nhã tam muội chuyên trì
Là bậc mô phạm uy nghi thánh hiền.

4.54 Luật Tông Tống Linh Chi Nguyên Chiếu

Sư họ Đường, người đất Dư Hàng*, tự là Trạm Nhiên. Năm 18 tuổi do thông hiểu kinh nên được độ.Trước tiên theo học giới luật, đôi khi tự giận mình không gặp được Thầy để thừa kế. Lúc ấy Xứ Khiêm pháp sư là người thâm hiểu giáo nghĩa Thiên Thai tông. Sư tìm đến gặp, tự nhủ: “đúng là thầy của ta rồi”, liền muốn bỏ môn đang học để theo pháp sư. Sư Xứ Khiêm nói: “Nay luật giáo suy tàn. Ông sẽ là hàng tông tượng. Nay hãy làm sáng tỏ kinh Pháp Hoa để từ đó mà hoằng hóa Tứ Phần. Đạo của Ta chẳng là ở tại đó ư?.” Sau sư bốn lần làm chủ giảng trong vùng, ngày đêm tu hành, không dừng niệm Phật. Mỗi khi sư lễ sám cầu nguyện thì đều có cảm ứng. Sư soạn kinh Quán Vô Lượng Thọ, Tiểu Di Đà kinh nghĩa sớ. Một hôm sư bảo đệ tử đọc tụng kinh Quán Vô Lượng Thọ và kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện. Khi tụng xong, sư ngồi kiết già mà qua đời. Ngày ấy ngư dân vùng Tây Hà đều nghe tiếng nhạc trời giữa hư không. Tháp dựng tại Linh Chi, thụy hiệu là Đại Trí.
…………………………
* Hàng Châu

Bài tán:
Thông suốt tam học
Lấy giới làm nền
Trong như băng sương
Giữ lòng chí thành

Nam Sơn cao ngất*
Nhờ sư hiển dương
Đủ duyên cõi tịnh
Nhạc trời vọng vang.
………………………………..
*Thi Kinh 詩經: Tiết bỉ Nam San, (Tiểu nhã 小雅, Tiết nam san 節南山) Cao vòi vọi, núi Nam Sơn kia. Ở đây cũng ngầm ví Luật Nam Sơn.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 28 tháng 10, 1972

Nam San thừa kế triển khai
Chí nguyện sâu rộng đêm ngày tinh thâm
Uy nghi đi đứng ngồi nằm
Thấy nghe nói động thuận trong lễ hình.

Tứ Niệm Xứ, kim khẩu thừa
Trú thành tam học ngăn ngừa, nhủ khuyên
Cơ cầu cảm ứng tự nhiên
Nhạc trời cõi tịnh đủ duyên đón về.

4.55 Minh Giới Đài Tri Huyễn Luật Sư

Sư họ Tưởng, người đất Giang Phố (Giang Tô), người đời gọi là thiền sư Phi Bát. Năm 30 tuổi xuất gia tại chùa Linh Cốc ở Kim Lăng, sau khi thọ giới cụ túc thì tha phương cầu đạo, tự nguyện rằng: “Nếu không đến được Tào Khê, tấc lòng chẳng dám trở về cố hương”.Sư tham thoại đầu “vô tự”, rõ được tâm địa. Niên hiệu Chánh Thống (1436-1449) sư du hóa phương Bắc, triều đình xuống chiếu ban tặng sư y màu tía, và kiến lập giới đàn, thỉnh sư khai pháp, mỗi năm đều lấy tháng 4 làm lễ truyền giới. Vì trên trán sư có phần nhô lên nên vua cho là lạ, gọi sư là tổ sư đầu phượng. Sư liền đáp: Chỉ là đầu ngỗng mà thôi, đâu dám sánh với phượng. Vua càng khen đức khiêm tốn của sư, ban tặng hiệu là Vạn Thọ.

Bài tán:
Nói dễ, làm khó
Giới là gốc đạo
Tiếp sức Nam San
Gót chân điềm đạm.
Con chó tánh Không
Miệng chẳng liên can
Trán có ngọc tròn
Thần sắc hướng thượng.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 11 tháng 10, 1972

Tào Khê đến được mới hồi
Nguyện lực dũng cảm thấu trời như nhiên
Tổ sư đầu phượng, vua khen
Công thần đỉnh Thứu người hiền chắp tay.

Long thần kính, giới tinh cần
Tu thiền định nghiệp hổ dừng, beo lui.
Chân tâm cầu pháp không thôi
Như non cao vút, vạn đời danh sư.

4.56 Minh Tuệ Vân Cổ Tâm Như Hinh

Sư họ Dương, người Lật Dương, Giang Ninh. Khi sư sinh ra có hương lạ lan đến nhiều căn nhà trong thôn xóm. Trên mặt sư có 36 nốt ruồi son, theo chùa Nhiếp San xuất gia. Xưa có nguyện hướng về Thanh Lương nhất bộ nhất bái. Sư cảm thấy như có Bồ tát Văn Thù xoa đầu bảo: Ta trao giới cho con đây。Sư nghe qua liền đốn ngộ ngũ thiên tam tụ tâm địa pháp môn, chuyên trì Phạn luật, tâm trong sáng như băng sương. Sư kiến tạo am Cổ Lâm, trung hưng giới pháp. Vua Thần Tông ban áo tía, hạ lệnh đến Ngũ Đài sơn khai hoàng giới, mây lành hiện trên không trung. Vua ban tặng hiệu là Tuệ Vân luật sư. Đệ tử đắc pháp có 12 người, đều hết lòng phát huy Luật môn.

Bài tán:
Văn Thù đưa tay ra
Giới luật Phật viên thành
Hạnh Ưu Ba Bà Sa*
Từ chủng loại hiện hình.

Cõi trời người vui mừng
Thần cơ hóa huyền diệu
Giới luật vẫn chiếu soi
Vạn cổ đạo sáng ngời.
…………………..
*Upavasa: dịch là cận trụ, gần thánh đạo

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 18 tháng 10, 1972

Son hồng điểm tướng trời sinh
Mặt ba mươi sáu minh tinh một màu
Thanh Lương xưa nguyện khấu đầu
Mà nay khổ hạnh thấy đâu não phiền
Văn Thù xoa đỉnh, giới truyền
Phổ Hiền ấn chứng xa miền trần duyên
Tuệ Vân rộng khắp tam thiên
Mười hai giới luật đại viên đắc thành.

4.57 Cổ San Trừng Phương Tính Thanh

Sư hiệu là Viễn Thanh, người đất Tân An, tỉnh An Huy, dáng điệu thanh tú, thoát tục. Sư học kinh Hoa Nghiêm, sau đó chu du khắp nơi, đến đất Việt. Bấy giờ sư Tuệ Vân đang truyền giới tại chùa Linh Ẩn, mộng thấy có người đến nói: “Sáng mai có hóa thân của Bồ Tát Văn Thù đến in thọ giới, hãy tùy phương tiện mà trao giới”. Ngày hôm sau, quả nhiên sư đến xin thọ giới. Lúc đăng đàn thọ giới sư bị nhiễm bệnh không chịu nổi gió. Sư Tuệ Vân liền dẫn đồ chúng đến trao giới cho sư. Sau khi thọ giới sư trú ngụ tại Ngũ Đài sơn, nghiên cứu về Luật tạng, lại dâng biểu xin vua lập giới đàn. Sư nối dòng pháp của sư Tuệ Vân, sau trú nơi Cổ Sơn, tuổi thọ, tăng tịch đều không khảo cứu được. Tháp dựng tại Thanh Lương.

Bài tán:
Đại sĩ xin thọ giới
Sắc thái dường lắm lời
Thọ hoặc là chẳng thọ
Há có đầy hoặc vơi?.

Vận chuyển pháp bi, trí
Như trăng tùy đó đây
Tỏa ngời đất Mân*, Tấn**
Nam Bắc sang Đông Tây.
………………………….
*Tỉnh Phúc Kiến 福建 gọi là tỉnh Mân.
**Tên gọi tắt của tỉnh Sơn Tây 山西.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 26 tháng 11, 1972

Vô duyên từ, độ chúng sinh
Sa di Diệu Cát hiện hình trong mơ
Tánh như thị, quán thời cơ
Vì người thuyết giảng tối, sơ, kinh, quyền.
Nghiêm trì giới luật uy nghiêm
Nơi thân khẩu ý, tâm viên so lường
Ngũ Đài cảnh giới hoa hương
Chư Phật tán thán, pháp vương mỉm cười.

4.58 Minh Bảo Hoa Tam Muội Tịch Quang

Sư họ Tiền,gia đình sư nhiều đời cư ngụ tại Qua Chữ. Người mẹ cảm ứng giấc mộng lạ mà sinh ra sư. Năm 21 tuổi đến am A Di Đà lễ bái xuất gia, theo sư Hồng n tại Tuyết Lãng, học giáo pháp của tông Hiền Thủ, tự đi khắp nơi tham học với chư tôn túc, thọ giới cụ túc với sư Tuệ Vân vừa nhìn thấy sư thì sinh lòng quí trọng, dặn dò cặn kẻ hoành dương Luật tạng, sau đó nhường tòa chủ tịch. Sư đi vào Hành sơn kết am tranh。Sau đến núi Bảo Hoa khai đại pháp hội, mở đàn lớn giảng pháp trong mười vùng。Sư thọ 66 tuổi。Sư không có bệnh mà qua đời。Nhiều chuyện linh ứng về đời hành đạo của sư được người đời ghi chép lại. Sư biên soạn bốn quyển Phạm Võng kinh trực giải.

Bài tán:
Phái Thiên Hoa chế luật
Cha soạn thì con thuật
Trước xướng tam đàn giới (1)
Sau hợp hòa nhị trì (2)

Tiếp nối luật Nam Sơn
Đối trị bệnh chúng sinh
Khấu đầu lạy tôn sư
Lưới pháp vớt thế nhân.
……………………………
(1) (三壇): tức Tam Đàn Đại Giới (三壇大戒), là nghi thức thọ giới đặc biệt, phân thành 3 giai đoạn là Sơ Đàn Chánh Thọ (初壇正授), Nhị Đàn Chánh Thọ (二壇正授) và Tam Đàn Chánh Thọ (三壇正授). Đàn đầu tiên thọ giới Sa Di (s: śrāmaṇera, p: sāmaṇera, 沙彌), Sa Di Ni (s: śrāmaṇerikā, p: sāmaṇerā, sāmaṇerī, 沙彌尼); đàn thứ hai thọ giới Tỳ Kheo (s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘) và Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼); đàn thứ ba thọ giới Bồ Tát (s: bodhisattva, p: bodhisatta, 菩薩). Như trong Truyền Giới Chánh Phạm (傳戒正範, CBETA No. 1128) có câu: “Tam Đàn quỹ tắc, cự tế hữu điều, thất chúng khoa nghi, tinh tường bất vặn (三壇軌則、巨細有條、七眾科儀、精詳不紊, Ba Đàn nguyên tắc, lớn nhỏ có điều, Bảy Chúng khoa nghi, rõ ràng không rối).” (Trích Phật học Tinh Tuyển)
(2) (二持) Cũng gọi Chỉ tác nhị trì, Chỉ tác. Tức Chỉ trì và Tác trì, 2 khía cạnh của giới luật. 1. Chỉ trì: Chỉ là ngăn chặn, tức là ngăn chặn thân và miệng không làm và nói các điều xấu ác. Nương vào Chỉ để giữ gìn giới thể, gọi là Chỉ trì. Chỉ trì giới dạy người chớ làm các việc ác, tức chỉ cho các điều mục của 2 bộ giới tỉ khưu và tỉ khưu ni trong Quảng luật, hoặc chỉ cho 250 giới của tỉ khưu và 348 giới của tỉ khưu ni trong luật Tứ phần. 2. Tác trì: Tác là tạo tác, tức là khích lệ thân, khẩu, ý tạo tác các nghiệp thiện. Nương vào Tác để giữ gìn giới thể, gọi là Tác trì. Tác trì giới dạy người vâng làm các việc thiện, tức chỉ cho phần Kiền độ được liệt kê sau Bản luật, hoặc chỉ cho 20 Kiền độ thụ giới, thuyết giới… trong luật Tứ phần. [X. điều Trì phạm phương quĩ trong Tứ phần luật san phồn bổ khuyết hành sự sao Q.trung, phần 4; Tứ phần luật san bổ tùy cơ yết ma sớ tự; Tứ phần luật hành sự sao tư trì kí Q.trung, phần 4; Tứ phần luật sớ Q.1, 2]. (xt. Chỉ Ác Tu Thiện). (Trích Tự điển Phật Quang).

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 2 tháng 12, 1972

Luật đường trong núi Bảo Hoa
Hương thơm giới tử thoảng xa trăm ngàn.
Sông về với biển đầu nguồn
Chiếu soi thể tính giữa muôn pháp trần
Bậc hiền Tam Muội Tịch Quang
Nhất tâm bất loạn khai hoang trí người
Giới hạnh chu biến khắp nơi
Biển Bồ Đề vẫn sáng ngời kim cương.

4.59 Bảo Hoa Kiến Nguyệt Độc Thể đời Minh

Sư họ Hứa, người Bạch Lộc, tỉnh Điền Nam, cha là Dận Xương, mẹ họ Ngô cảm ứng giấc mộng lạ sinh ra sư. Lớn lên tính tình cần mẫn, lại thông hiểu về hội họa, chuyên họa tượng Quán Âm Đại Sĩ tranh nhau mua làm bảo vật. Cha mẹ mất sớm. Năm 27 tuổi đi theo Đạo giáo qua ba năm. Sau gặp một lão tăng học kinh Hoa Nghiêm, xem qua thi giải ngộ, đến núi Bảo Hồng, lễ hòa thượng Lượng Như cầu xuất gia. Trước đó một ngày sư Lượng Như mộng thấy một vị tăng mặc ca sa dẫn chúng đến xin thế độ, nên khi thấy sư đến giống như trong mộng nên nhận cho xuống tóc. Sau sư đến Kim Lăng nhất tâm theo Tam Muội Tịch Quang Luật sư, xiển dương Luật tông. Sư biên soạn Tì Ni Chỉ Tác Nhị Trì, được nhập vào kinh tạng.

Bài tán:
Bỏ Đạo tin Thích Ca
Trong mộng mặc ca sa
Tam học thế cân xứng (1)
Phật đạo nay truyền xa.

Thường nghiêm tịnh tì ni
Khai Nhị Trì Chỉ Tác (2)
Khuôn thước cho ba cõi
Biển khổ mot con thuyền.
…………………….
(1) Theo thế chân vạc (ba mặt đối ngang nhau). ◇Tam quốc chí 三國志: Tam gia đỉnh lập 三家鼎立 (Lục Khải truyện 陸凱傳) Ba nhà đứng thành thế chân vạc.
(2) (二持) Cũng gọi Chỉ tác nhị trì, Chỉ tác. Tức Chỉ trì và Tác trì, 2 khía cạnh của giới luật. 1. Chỉ trì: Chỉ là ngăn chặn, tức là ngăn chặn thân và miệng không làm và nói các điều xấu ác. Nương vào Chỉ để giữ gìn giới thể, gọi là Chỉ trì. Chỉ trì giới dạy người chớ làm các việc ác, tức chỉ cho các điều mục của 2 bộ giới tỉ khưu và tỉ khưu ni trong Quảng luật, hoặc chỉ cho 250 giới của tỉ khưu và 348 giới của tỉ khưu ni trong luật Tứ phần. 2. Tác trì: Tác là tạo tác, tức là khích lệ thân, khẩu, ý tạo tác các nghiệp thiện. Nương vào Tác để giữ gìn giới thể, gọi là Tác trì. Tác trì giới dạy người vâng làm các việc thiện, tức chỉ cho phần Kiền độ được liệt kê sau Bản luật, hoặc chỉ cho 20 Kiền độ thụ giới, thuyết giới… trong luật Tứ phần. [X. điều Trì phạm phương quĩ trong Tứ phần luật san phồn bổ khuyết hành sự sao Q.trung, phần 4; Tứ phần luật san bổ tùy cơ yết ma sớ tự; Tứ phần luật hành sự sao tư trì kí Q.trung, phần 4; Tứ phần luật sớ Q.1, 2]. (xt. Chỉ Ác Tu Thiện).(Trích Tự điển Phật Quang).

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 6 tháng 1, 1973

Nhị trì khai triển Luật tông
Chư Phật tán thán ngữ ngôn chân truyền
Lời lời giấc mộng cổ kim
Ba lần ẩn dật dò tìm linh đơn
Quang minh bảo giới ấn tâm
Thanh tịnh diệu hạnh nối dòng thánh nhân
Pháp nhãn trợ giúp mạt thời
Chúng sinh khắp chốn đời đời ngưỡng trông.

4.60 Bảo Hoa Định Am Đức Cơ đời Minh

Sư họ Lâm, người đất Vụ Cơ. Thuở còn nhỏ đã không ăn thịt cá và các món tanh hôi. Sau khi cha mẹ qua đời sư liền đến chùa Bảo Lâm ở Tô Châu xuống tóc xuất gia, thọ giới cụ túc với luật sư Kiến Nguyệt, kế thừa pháp, khắc khổ tu trì, quên cả ăn ngủ, bắt đầu đắc được chỗ sâu kín của giới luật, khai thông tam học. Sư dẫn dạy chúng nơi Bảo Hoa, cùng chúng cam khổ, tự thân chịu lao nhọc trước người khác. Sư thường lễ bái tháp kéo dài suốt bảy ngày đêm, đột nhiên trên đỉnh tháp phóng ra ánh sáng. Khi sắp qua đời sư lấy giấy bút viết trước bảy ngày sau sẽ đi. Đến lúc đó sư tắm gội, thay áo, không bệnh mà mất.

Bài tán:
Nguồn mạch của chư Phật
Lấy giới luật làm thầy
Than thở vận chưa đến
Chánh pháp ai làm đây?.

Mong cầu luôn dựa nương
Cứu giúp thời đại này
Ánh hồng trên không chứng
Tin nhận và phụng trì.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 13 tháng 1, 1973

Rau dưa thuở tóc trái đào
Xuất gia cạo tóc khi vào Bảo Lâm
Thọ cụ túc, luật hưng long
Trì tâm lễ tháp sáng hồng đỉnh cao.
Bảy ngày đêm chẳng lãng xao
Chín phẩm sen báu ngôi cao sẳn dành
Chân tu lòng chẳng hãi kinh
Cứu người treo ngược an bình khổ đau.

4. 61 Liên Xã Sơ Tổ Tấn Lư San Tuệ Viễn

Sư họ Giả, người Nhạn Môn (Sơn Tây), thuở nhỏ hiếu học, thông suốt sáu kinh và học thuyết Lão Trạng Khi nghe sư Đạo An giảng kinh liền than: “Chín dòng Nho giáo chỉ là trấu lép mà thôi”, liền xuất gia. Sư Đạo An nói với đồ chúng: “Người khiến Đạo lưu truyền nơi Đông độ chính là sư Tuệ Viễn”. Sư du phương đến Lư Sơn, thích phong cảnh ở đó nên lập tinh xá. Một đêm nọ, trời đổ mưa lớn, sáng hôm sau thấy bìa rừng mở rộng, các loại cây Tiện, cây Nam, cây Tử mọc trên mặt đất, cát trắng phủ đầy. Quan thứ sử vì sư mà lập chùa, lấy tên là Đông Lâm, lập thành liên xã, tu niệm Phật tam muôi, cả ngàn người đến học, đạo pháp hưng thịnh. Sư ba lần thấy tướng Phật trong 11 năm. Sau đó, từ trong định, sư thấy Phật A Di Đà, hai vị đại sĩ và cảnh tượng đẹp đẽ. Đúc Phật nói: “Sau 7 ngày con sẽ sinh về thế giới của Ta”. Năm Nghĩa Hy thứ 13, sư đoan tọa thấy Phật đến nghinh đón mà qua đời.

Bài tán:
Phóng quang bát nhã
Mở rộng cửa đạo
Sóng bạc ngất trời
Thuyền từ hóa độ.

Nhân, pháp đều quên
Di Đà vô số
Lấy độc trị độc
Trường An đại lộ.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 4 tháng 11, 1973   

Tâm Tịnh Độ, chí bốn phương
Niệm hồng danh Phật, đạo trường huân tu
Di Đà, vạn pháp nhiếp thâu
Hoa nở chín phẩm ứng hầu Tây phương
Viễn công thấy Phật ba lần
Chúng ta xưng tụng từ vương hai thời
Công quả viên, Cực Lạc về
Tiêu diêu tự tại gần kề thiên chân.

4.62 Liên xã nhị tổ Đường Quang Minh Thiện Đạo

Không ai rõ hòa thượng từ đâu đến, người đời gọi hòa thượng là hóa thân của Phật A Di Đà. Năm Trinh Quán sư đến Tây Hà gặp sư Đạo Xước tại Tịnh Độ cửu phẩm đạo tràng. Sư vui mừng nói: “Đây là người hội nhập chỗ tinh yếu của chư Phật. Tu hạnh nghiệp khác thì khó thành tựu, chỉ có pháp môn này mau vượt thoát sinh tử.” Từ đó sư chuyên cần khổ tu, ngày đêm lễ tụng, quỳ gối niệm Phật, chưa kiệt sức thì chưa nghỉ ngơi.Lại khuyên người niệm danh hiệu Phật liên tục. Nếu hành giả có thể niệm tương tục thì thọ mạng sẽ theo như vậy. Mười người niệm thì mười người vãng sinh. Trăm người niệm thì trăm người vãng sinh. Khi sư niệm một tiếng tức thì có ánh sáng từ miệng phát ra. Mười tiếng hay trăm tiếng đều như vậy. Bỗng một ngày kia, sư leo lên cây liễu, hướng về phương Tây, nguyện: “Nguyện sinh An Dưỡng quốc”, rồi buông thân mà hóa. Vua Cao Tông biết là thần dị nên ban tặng bảng hiệu chùa là Quang Minh.

Bài tán:
Tinh tiến tự lợi
Ngày đêm không dừng
Lợi tha cũng vậy
Cần biết dựa nương.

Soạn văn thuyết kệ
Cần mẫn từ bi
Niệm Phật phóng quang
Khắp nơi diệu minh.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 10 tháng 11, 1973   

Người không đến tự phương nào
Họ tên càng chẳng có vào nơi đâu
Trung hưng Phật đạo, anh hào
Thế gian lãnh tụ, danh cao vang lừng
Thượng phẩm cõi tịnh an thân
Sa bà khai mở chúng tăng tôn sùng
A Di Đà, ai biết cùng
Ngắm càng sâu thẳm, ngưỡng trông cao vờ

4.63 Liên xã tam tổ Đường Bàn Chu Thừa Viễn

Sư húy là Thừa Viễn, không rõ từ đâu đến. Trước đó sư theo sư Chân Công ở Ngọc Tuyền, vâng lời đến ngụ ở Hành Sơn thiết lập giáo đạo. Người theo học lên đến hằng vạn, sư cư ngụ trong hang, thân gầy, mặt bẩn, tự vác củi, thường dạy người, lập ra trung đạo ứng hợp với pháp môn niệm Phật. Sư khắc các khẩu hiệu vào đá trên đường đi, lại chăm chú dạy môn đồ, người đời vì sư lập chùa, vua ban biển là chùa Di Đà. Trước đó có vị sa môn tên là Pháp Chiếu trong định về đến cõi An Dưỡng thấy một vị sư khoác y cũ hầu bên cạnh Đức Phật. Phật dạy: “Đây là Thừa Viễn ở Hành sơn.” Sư Pháp Chiếu xuất định, theo đó mà tìm rồi theo sư tu học, truyền đạo đến muôn người. Từ đó, vua Đại Tông phong sư Pháp Chiếu làm quốc sư vì là người có đức. Vua cũng hướng về phương Nam lễ bái, ban hiệu là Bát Chu đạo tràng. Năm Trinh Nguyên thứ 18, sư thị tịch.

Bài tán:
Hành sơn lập quyền giáo
Trung Đạo vô nhất vật
Bể khổ đến thế sao
Chuyên tâm niệm danh Phật.

Thân cư trú sa bà
Trước ở bên cạnh Phật
Thiên tử muốn chiến chinh
Hóa độ mà chẳng được.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 15 tháng 11, 1973   

Tịnh độ tam tổ Bát Chu
Dạy người niệm Phật trì tu chuyên cần
An Dưỡng, Di Đà, được gần
Sa bà vẩn đục nhiều lần độ tha
Trời Nam vua lạy dưới tòa
Tây phương từ phụ Di Đà tiếp nghinh
An tọa tự tại thoát hình
Rồng bay, sừng cọp* đại thừa ma ha.
………………………………………………
*sừng cọp: Đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ (904-975) đề xướng Thiền Tịnh Song Tu, nói: “Có thiền có tịnh cũng như cọp mang sừng hiện đời là thầy người, vị lai làm Phật tổ.”

4.64 Liên Xã Tứ Tổ Vân Phong Pháp Chiếu Quốc Sư đời Đường

Không rõ sư là người vùng nào dừng chân ở chùa Vân Phong Hành Châu, từng thấy trong bình bát hiện đám mây lành, ở giữa lại có khe nước trong vách đá, trên cột đề tên là Đại thánh Trúc Lâm Tự. Có người biết chuyện nói rằng đó là hình thể Ngũ Đài, sư liền đến Ngũ Đài, quả thấy giống như vậy. Một đêm nọ, sư thấy một luồng ánh sáng. Tìm theo luồng sáng này thì thực có vách đá trong khe núi. Sư theo hai đồng tử mà vào thì thấy đất vàng ròng, cây báu. Đến giảng đường, hai vị đại sĩ ngồi đối diện trên tòa sư tử thuyết pháp. Ngài Văn Thù bảo rằng những pháp môn khác không giống như niệm Phật. Nguyện lực của Phật A Di Đà thực khó nghĩ bàn. Nếu con niệm danh hiệu Phật tức nhiên được vãng sinh đồng thời được Phật xoa đầu thọ ký Sư tại nơi đây khắc vào bia đá ghi lại chuyện này. Sau đó sư xây chùa Trúc Lâm nơi đây. Khi hoàn thành, sư nói: “Việc của Ta làm đã xong” rồi an tọa mà qua đời.

Bài tán:
Xưa hẳn có nhân
Cho nên cảnh hiện
Kịp đến xứ ấy
Văn Thù lộ diện.
Quy về Tịnh Độ
Mạt thời phương tiện
Chỉ đường lối này
Chuyển tâm hư huyễn.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 5 tháng 12, 1973   

Nhân duyên đời trước sớm trồng
Ngũ Đài được thấy Trúc Lâm đạo tràng
Cây báu, lầu gác nghiêm trang
Cỏ ngọc, chim quý Lạc bang một trời.
Trong khe nước mát chảy xuôi
Động đá suối ngọt thơm tươi dâng tràn.
Pháp đàn thành tựu, trả thân
Là bậc tứ tổ Liên tông tiên hiền.

4.65 Liên xã Ngũ Tổ Đường Ô Long Thiểu Khang

Sư họ Chu, húy là Thiếu Khang, người đất Tiên Đô (Chiết Giang). Bảy tuổi vẫn chưa biết nói, khi vào chùa lễ Phật, người mẹ hỏi: biết chăng?. Tức thì sư buột miệng nói: Thích Ca Mâu Ni Phật. Thế là mẹ cho xuất gia. Năm Trinh Nguyên thứ nhất sư đến chùa Bạch Mã ở Lạc Dương thì thấy được một quyển kinh phóng ra ánh sáng. Sư xem kỹ thì đó là quyển Tây Phương Văn của đại sư Thiện Đạo. Sư nguyện rằng nếu như sư có duyên với Tịnh Độ thì xin được thấy ánh sáng một lần nữa. Khi nói xong thì lại thấy lóe sáng. Sư liền nói “đá có nát, nguyện của tôi này không đổi”. Sư đến chùa Quang Minh kính lễ nơi có ảnh tượng của sư Thiện Đạo, chợt thấy bức ảnh bay lên, nói: “con hãy y theo giáo pháp của ta mà rộng đường hóa độ chúng hữu tình. Ngày kia khi thành công, hẳn là sinh miền Cực Lạc”. Từ đó sư đi đến vùng Tân Định hoằng hóa giáo pháp, người đời gọi sư là Phật A Di Đà. Khi sư niệm một hồng danh Phật thì có một hình tướng Phật từ miệng sư phóng ra. Niệm mười tiếng thì có mười Phật như một chuỗi hạt châu. Sư qua đời tại nơi quê quán.

Bài tán:
Xưa sinh tịnh nguyện
Niệm Phật chuyên cần
Bát nhã dạy chúng
Bồ đề an bằng.
Độ người vô lượng
Thiện Đạo đinh ninh
Quang minh tức Phật
Phật tức quang minh.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 8 tháng 12, 1973   

Một niệm Di Đà một hào quang
Di Đà chẳng niệm, đạo quang ẩn tàng
Thiện Đạo khai thị rõ ràng
Thọ vương tiếp dẫn Liên bang dự phần
Đá dù nát, nguyện chẳng mòn
Tánh Không* tiêu tán nhưng lòng càng tăng
Cổ đức tương dung pháp trần
Gặp người hiền, hẳn muốn bằng người thôi.
………………………………………………………..
*Thuấn nhã đa (Sunyata) tức tánh Không.

4.66 Liên xã Thất tổ Tống Chiêu Khánh Tỉnh Thường

Sư họ Nhan, húy Tỉnh Thường, tự Tạo Vi, người đất Tiền Đường (Chiết Giang), bảy tuổi xuất gia, 17 tuổi thọ giới cụ túc. Năm Thuần Hóa đời Tống sư trụ ở Hàng Châu, khi đến Chiêu Khánh, sư thích cảnh đẹp Lư Sơn, tìm cách kết tập Liên xã, chạm khắc vô số tượng Phật, chích máu viết phẩm Tịnh Hạnh, kinh Hoa Nghiêm, đổi Liên Xã thành Tịnh Hạnh xã. Sĩ phu tham dự có 120 người, đều được gọi là Tịnh Hạnh đệ tử. Vương Chánh Đán là người đứng đầu, có hơn ngàn vị tỳ khiêu. Năm Thiên Hỷ thứ tư, ngày 12 tháng giêng sư đoan tọa niệm Phật, chỉ một khoảnh khắc, nói lớn tiếng: “Đức Phật đến” rồi an nhiên mà qua đời. Đồ chúng thấy màu đất hóa thành vàng ròng, rồi sắc vàng lại ẩn đi. Sư thọ 62 tuổi, đệ tử táng toàn thân, tháp dựng bên cạnh mộ của thiền sư Điều Khỏa.

Bài tán:
Nghiêm trì giới hạnh
Làm chủ Liên xã
Trước sau trung hưng
Ngàn năm thịnh đại.
Tín, hạnh, và nguyện
Như đỉnh ba chân
Đổi tên Tịnh Hạnh
Ý chỉ sâu xa

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 11 tháng 10, 1985   

Liên xã thất tổ Tỉnh Thường
Xuất gia tuổi nhỏ khác thường chúng tăng
Phẩm Tịnh Hạnh, máu chép kinh
Ôm lòng nhớ tưởng niệm danh Di Đà
Tây phương An Lạc bước qua
Như rồng voi, độ sa bà chúng sanh
Phật đã đến! Đại âm thanh!
Tịch nhiên thoát xác, đất thành hoàng kim.

4.67 Liên xã Bát Tổ Minh Vân Thê Liên Trì

Sư họ Trầm, người Nhân Hòa (Hàng Châu). Năm 17 tuổi được đưa vào trường học ở trong ấp, viết bốn chữ “sinh tử sự đại” nơi góc bàn học. Một hôm, sư lỡ tay làm vỡ bình trà liền tỉnh ngộ. Sư đến phương Bắc, yết kiến sư Tiếu Nham cầu khai thị . Sư Tiếu Nham nói: “A, chú mày từ hơn ba ngàn dặm đến khai thị cho ta. Còn riêng ta thì chẳng có gì để khai thị.” Sư hoảng hốt bèn cáo từ. Khi sư đi qua Đông Xương, nghe tiếng trống trên chòi cao trên thành vang lên thì chợt tỉnh ngộ, liền nói kệ:

“Hai mươi năm trước ngại nghi
Ngoài ba ngàn dặm thấy gì lạ đâu
Đốt hương, ném kích thuộc làu
Chẳng tranh ma, Phật, chẳng cầu thị phi”.

Vạn Lịch, tháng 7 năm Ất Mão, khi sắp qua đời, sư nói cho đồ chúng biết trước nửa tháng: “Sau này ta sẽ ở nơi khác”. Đến ngày, thị hiện có bệnh, quay mặt về phương tây mà qua đời. Bộ Vân Thê Pháp Vị, Di Đà Sớ Sao còn lưu hành.

Bài tán:
Chân thành niệm Phật
Không mong điều lạ
Thà được dung thông
Còn hơn thất bại
Một tiếng trừ độc
Chẳng thích thùng sơn
Lại hỏi vì sao
Ngoài ba ngàn dặm.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 12 tháng 10, 1985   

Đất Hàng Châu triều Minh thiện tri thức
Thượng nhân Liên Trì trí tuệ trời sinh
Cọp dữ làm thị giả thọ tam quy
Rồng biến hóa bạn cùng người tài đức.
Di Đà Sớ Sao gọi người tỉnh thức
Quán Âm chỉ dẫn biết được huyền cơ
Nửa tháng dài báo trước lúc vãng sinh
Nên hiện bệnh, nói cười mà tạ thế.

4.68 Liên xã Thập nhất Tổ Thanh Phạm Thiên Tỉnh Am

Sư họ Thời, húy là Thật Hiền, tự Tư Tề, hiệu Tỉnh Am, người đất Thường Thục. Sư vốn là con nhà Nho nhưng xuất gia từ thuở nhỏ, nghiêm trì giới luật, tìm đến chốn đạo tràng để học được pháp sáng tỏ tánh tướng,tham dự [thoại đầu] người niệm Phật là ai?, qua bốn tháng hốt nhiên khai ngộ, sư nói: “Ta đã tỉnh mộng rồi.” Từ đó đối đáp sắc bén, có tài hùng biện, sáng trú nơi tàng kinh các, tối trì niệm danh hiệu Phật. Sư tự đốt ngón tay ở núi A Dục Vương, trước tượng Phật phát 48 đại nguyện, được cảm ứng khiến xá lợi phóng quang. Sư soạn tập Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn để khích lệ tứ chúng, đa số người tụng đọc đều rơi nước mắt. Năm Ung Chánh thứ 12, vào ngày 14 tháng 4, sư quay mặt về hướng Tây an nhiên. Người đưa tiển đến nơi, sư bổng mở mắt, nói: “Ta đi tức trở về. Sanh tử là chuyện lớn. Các người nên tự tịnh tâm niệm Phật thì được.” Nói rồi chắp tay niệm Phật liên tục mà qua đời.

Bài tán:
Tâm bi quảng đại
Bồ đề tâm văn
Bốn mươi tám nguyện
Nguyện lực hoành thâm.
Hành giải chân thật
Cảm ứng vô cùng
Liên tông nguồn mạch
Nhờ đó trường tồn.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 17 tháng 10, 1985   

Gặp người hiền, tinh tiến tu
Truy tầm vượt hẳn đại Khâu* nghiệp nhà
Chuyên tâm học luật Phật Đà
Tham thiền triệt ngộ đâu là tự do.
Đại bồ đề, khuyến phát tâm
Tựu thành thệ nguyện nhàn du đất trời
Thiên thu xá lợi sáng ngời
Tôn giả ân đức vạn đời truyền xa.
…………………………………………………………………
* 孔夫子 Khổng Phu Tử, gọi tắt là 孔子Khổng Tử, tên là Khổng Khâu 孔丘, tự là Trọng Ni 仲尼

4.69 Nam Hùng Liên Xã Niệm Thuần đờI Minh

Đại sư họ Quách, húy là Trí Nhất, tự Niệm Thuần, người Thái Hòa, Giang Tây. Người mẹ mộng thấy hoa sen, mang thai sinh ra sư, thời Vạn Lịch ngày 9 tháng 10 năm Đinh Hợi, giờ Tí. Lúc sinh ra sư có ánh sáng tốt đẹp hiện khắp nhà. Từ nhỏ đã khác thường hơn chúng bạn, chẳng ưa mùi tanh của thịt cá. Năm 10 tuổi thông thạo nội điển, năm 18 tuổi đậu tiến sĩ, làm quan đến chức Đô ngự sử, tuần phủ các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây. Năm sư 25 tuổi, gặp lúc quyền thần tiếm vị, liền từ quan xuất gia, theo thiền sư Đại Tố ở Đan Hà xuống tóc. Sư Đại Tố là người chí hiếu, ngưỡng mộ nguồn pháp, thọ giới với đại sư Vân Thê Liên Trì. Sư tham học khắp nơi, phát minh được tâm địa, thiền tịnh song tu, được sư Tử Bách, Hám Sơn ấn khả, cho là cột trụ chống giữ pháp môn. Năm Thiên Khải thứ sáu (1626) sư dựng am Liên Xã, sư đào bốn ao phóng sanh, chuyên chí tịnh tu, một ngày tụng mười vạn danh hiệu Phật A Di Đà. Sư tạo lại chùa Ngao Sơn, am Thanh Liên, rừng chiên đàn, bốn chùa tiếp nhận đồ chúng, đạo phong được ngưỡng mộ cũng như sư Liên Trì.Thời Thuận Trị, giờ Ngọ, ngày 13 tháng 7, năm Ất Hợi, sư không bệnh gì lại bảo đồ chúng phải nỗ lực hoằng dương Phật pháp. Sư nói xong thì đoan tọa thị tịch, thọ 73 tuổi, tăng lạp 48, hóa độ vô số người. Sư qua đời hơn trăm ngày mà sắc diện vẫn như lúc còn sống, hương thơm không mất. Quan tri châu là La công và các thân hữu, thiện tín bảo tồn nhục thân của sư tại am Liên Xã, đến nay hơn 300 năm vẫn không hư hoại. Trứ thuật lúc chưa xuất gia có Quan Châm Thanh Loa Tập, về pháp môn thì có Thiền Tịnh Song Tu Tập, Tịnh Độ Thi lưu hành.

Bài tán:
Khí hòa hợp vừa hiện
Muôn vật mùa xuân sang
Đẹp đẽ thay cơ tạo
Điêu tàn hóa vinh quang
Một câu A Di Đà
Bốn đại vốn là Không
Thể kim cương kiên cố
Kính ngưỡng nền gia phong.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 18 tháng 10, 1985   

Liên hoa mẹ mộng điềm lành
Hào quang chiếu rạng giáng sanh một vùng
Vượt xa lứa tuổi nhi đồng
Ăn chay, chẳng thích cá nồng, thịt tanh.
Loạn thần, từ bỏ hiển vinh
Cao tăng tiếp dẫn đổi hình tóc râu.
Lập chùa, hưng đạo, phóng sinh
Nhục thân bồ tát quang minh tỏa ngời.

4.70 Bán Đường Thọ Thánh Thiện Kế đời Nguyên

Thiện Kế thiền sư họ Lâu, tự là Tuyệt Tông, hiệu Huyễn Diệt, người đất Chư Kỵ, Việt Châu (Chiết Giang). Sinh ra liền biết nói, thấy mẹ xưng tụng danh hiệu Phật A Di Đà liền chắp tay họa theo. Trong niên hiệu Đại Đức (1297-1306) nhà Nguyên xuất gia, theo pháp sư Khôi người Thiên Trúc tại Đại Sơn, học giáo pháp Thiên Thai. Sau lại đến Nam Thiên Trúc yết kiến sư Trạm Đường, được xem là pháp khí. Những năm sau đó sư chuyên tu Tịnh Độ tông, luôn niệm Phật ngày đêm không dừng nghỉ. Một hôm, sư chợt bảo đại chúng: “Ta sắp trở về đây!”, rồi không bệnh mà hóa. Đồ chúng hỏa táng thấy lưỡi còn nguyên không chạy Tương truyền sư là hậu thân của sư Vĩnh Minh Diên Thọ đầu đời Tống, hàn lâm đại học sĩ Tống Liêm là hậu thân của sư. Sư từng chích máu viết toàn bộ kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, nay được bảo tồn ở Bán Đường (Tô Châu) chùa Thọ Thánh. Trước đó, mẹ của Tống học sĩ nằm mộng thấy một vị dị tăng tay chép kinh Hoa Nghiêm, đến nói với bà: “Tôi chính là Vĩnh Minh Diên Thọ, xin nhờ vào một nhà để trọn quyển này. Người mẹ tỉnh mộng, sau đó sinh ra học sĩ. Khi học sĩ trưởng thành, thấy được kinh ấy, liền đốn ngộ sự việc ngày trước, bèn đốt hương, rải hoa cúng dường kinh. Mây hương kết thành lưới báu che phủ trên bộ kinh. Học sĩ cảm khái về điềm lành này viết bài tán ghi lại sau kinh: “Di Đà đại từ, hiện thân Phong Can, sau hóa Vĩnh Minh, lại đến Thiện Sư. Tống công ở cõi này làm Phật sự lớn”. Như Tô Đông Pha, vốn là Lỗ Công Trần Trung, cùng mười người bạn của Túc Vương đều là các bậc cổ đức chuyển thế, cũng như Đức Phật A Di Đà du hóa nơi thế gian. Ai dám bảo là kẻ đọa lạc ư?.

Bài tán:
Di Đà thác sanh
Phong Can Vĩnh Minh
Tống công viết tán
Thiện lão chép kinh
Ai nói Tô Tử
Đọa lạc hố hầm
Sông thiền trăng khuyết
Ta chẳng phí công.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 19 tháng 10, 1985   

Sinh liền biết nói, túc mạng thông
Hoặc là tái thế Tống Liêm Công
Nguyện lực thánh hiền từ bi khắp
Khí phách đại sư nhật nguyệt đồng.

Máu viết Hoa Nghiêm lưu vạn cổ
Miệng niệm Di Đà vô thủy chung
Lục tự hồng danh bao vạn pháp
Đông tây nam bắc thảy viên dung.

4.71 Liên Tông Lục Tổ Vĩnh Minh Diên Thọ đời Tống

Sư húy là Diên Thọ, họ Vương, người đất Tiền Đường, từng làm quan về thuế vụ, nhân vì dùng khoản tiền để mua sinh vật phóng sanh, bị ghép tội chết, khi tới nơi chợ sắc mặt không hề biến đổi, sư nói: “Một mạng đổi được nhiều mạng, chết cũng không tiếc gì”. Trung Ý Vương ra lệnh tha tội, sư theo thiền sư Thúy Nham tại Tứ Minh xuất gia, sau sư đến núi Thiên Thai gặp quốc sư Đức Thiều, vừa nghe lời nói của sư Đức Thiều liền đại ngộ, được nhận là đích tôn của tông Pháp Nhãn, trong thiền quán thường thấy Quán Thế Âm Bồ Tát dùng cam lộ rưới vào miệng nên được biện tài. Sư đề xướng pháp môn thiền tịnh song tu, nên nói: “có thiền lẫn tịnh như cọp có sừng. Đời nay là thầy người, mai sau làm Phật, Tổ.” Ngô Việt Vương thỉnh sư trụ trì, chùa Vĩnh Minh, núi Tuệ Nhật,ban tặng hiệu là Trí Giác thiền sư. Ngày thì làm 108 Phật sự, tối đến thì đi qua một ngọn đồi khác để niệm Phật. Người quanh vùng thường nghe tiếng nhạc trời trên hư không. Đời Tống, năm Khai Bảo thứ tám (975) ngày 26 tháng 12, sư thắp hương từ biệt chúng rồi an tọa mà qua đời, thọ 72 tuổi. sư biên soạn Tông Cảnh Lục, Vạn Thiện Đồng Quy Tập lưu hành.

Bài tán:
Một mạng đổi nhiều mạng
Tâm giữa lòng vạn hạnh
Việt vương ban ân sủng
Thọ mạng* dài vô tận.

Mười vạn hiệu Di Đà
Khoác áo và ăn cơm
Ngoài ra không gì khác
Liên miên chẳng khi dừng.
……………………
*diên thọ 延壽 thọ mạng kéo dài.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 23 tháng 10, 1985   

Một niệm Di Đà một Di Đà
Diễn thuyết Đại Thừa đóa đóa sen
Cam lồ rưới miệng sinh hùng biện
Mưa pháp nhuần tâm thoát não phiền.

Vô lượng thọ quang nay thị hiện
Hữu tình hàm thức bỏ sa bà
Đồng nhập Tây phương Cực Lạc quốc
Ba tầng, chín phẩm cười ha ha.

4.72 Liên Tông Cửu Tổ Thanh Linh Phong Ngẫu Ích Đại Sư

Sư húy là Ngẫu Ích, tự Trí Húc, họ Chung đất Cổ Ngô (nay là tỉnh Giang Tô). Cha của sư trì tụng chú Đại Bi trong suốt mười năm. Trong mộng thấy Đức Bồ Tát Quán Thế Âm ban cho một đứa bé nên sinh ra sư.

Thuở thiếu thời nghiên cứu Nho học, tự cho mình có trách nhiệm bảo vệ Nho giáo, từng bài bác Phật giáo vì cho là dị giáo. Trong mộng thấy đối thoại với Đức Không Phu Tử và ngài Nhan Hồi. Năm 17 tuổi đọc Trúc Song Tùy Bút của Đại sư Liên Trì, sư biên soạn đến mườI thiên Tịch Phật Luận. Về sau mang tất cả những sách đã soạn ra mà đốt hết. Năm 20 tuổi thân phụ qua đời, khi nghe tụng kinh Địa Tạng Bản Nguyện liền phát chí xuất thế.
Năm 24 tuổi mộng thấy lễ bái sư Hám Sơn ba lần một tháng, nhưng vì đại sư Hám Sơn trú ở Tào Khê nên không thể đi xa mà thọ giáo nên xuống tóc với sư Tuyết Lĩnh. Sư Tuyết Lĩnh vốn là môn nhân của sư Hám Sơn.
Sư vào Linh Phong sống ẩn dật và chuyên tâm tu hành pháp môn Tịnh Độ. Di mệnh để lại sau khi lâm chung nguyện nhờ người trộn tro cốt sư với bột, và bố thí cho chim, cá để kết pháp duyên nơi Tây phương.

Bài tán:
Ngũ trược đóa sen
Bùn đen chẳng vướng
Thanh tịnh trong sạch
Pháp môn diệu kỳ.
Danh tác phong phú
Bốn phương tám hướng
Trí sáng khắp nơi
Phát tâm Bồ Tát.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 24 tháng 10, 1985   

Trí sâu, thấy biết chỗ tận cùng
Tỉnh mộng lìa nhà nhập cửa Không.
Mê ngộ chê khen duyên sớm biết
Đến đi nghịch thuận vọng hoàn chân.
Văn chương chở đạo chuyên tu luyện
Đức tuệ vun bồi phủi bụi hồng.
Đề hồ pháp bảo cam lồ vị
Chúng sinh uống cạn thể tính thuần.

4.73 Liên tông Thập Tổ Phổ Nhân Tiệt Lưu Đại Sư đời Thanh

Sư húy là Hành Sách, họ Tưởng, người đất Nghi Hưng, năm 23 tuổi xuống tóc. Sư chuyên tu Tịnh độ, xiển dương Liên tông, sư thường nói: “trì danh quý ở chỗ nhất tâm bất loạn, không phải do việc niệm nhanh hoặc niệm nhiều mà cho là hơn người”. Sư soạn Liên tông tập, Tịnh độ pháp ngữ còn lưu hành. Năm Khang Hy thứ 21, sư qua đời, thọ 55 tuổi. Lúc ấy có hai người tên là Tôn Hàn Thần và Ngô thị Tử qua đời cùng ngày. Sau một đêm thì sống lại, hai người kể lại rằng: “Chúng tôi bị bắt giữ nơi địa ngục, trói dưới điện. Bổng nhiên thấy luồng ánh sáng chiếu thẳng xuống mặt đất, hoa thơm đầy hư không. Minh vương phủ phục, nghinh đón đại sư về phương Tây. Chúng tôi nhìn thì thấy người đến là Tiệt Công. Chúng tôi nhờ luồng sáng chiếu soi mà được phép trở về dương thế.”

Bài tán: 
Nhất tâm bất loạn
Trì danh tinh thông
Khẩu tụng tâm suy
Niệm niệm tương ứng.
Là như thế ấy
Chí chân chí thành
Di Đà tiếp dẫn
Bồ tát tiếp nghênh.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 25 tháng 10, 1985   

Chuyên tu tịnh nghiệp tụng Di Đà
Nửa chữ đã nhiều, tâm tịnh an
Cực Lạc đưa người vô số kể
Giữ mình biết thoát lưới mà ra.
Diêm vương phủ phục nghênh tôn giả
Thiện nhân* sống lại tả quang hoa.
Sinh tử tuyệt đường, tâm tịch diệt
Giữa lòng bát nhã diễn ma ha.
…………………………….
*Thiện tín tức thiện nam tín nữ rút gọn lại (Tự điển Hán Việt Từ Nguyên, Bửu Kế soạn)

4.74 Liên Tông Thập Nhị Tổ Hồng Loa Triệt Ngộ Đại Sư đởi Thanh

Sư họ Mã, người đất Phong Nhuận, Hà Bắc, húy là Tế Tỉnh, tự là Triệt Ngộ. Thuở nhỏ đã tỏ ra thông tuệ khác thường, tỏ tường kinh sử. Năm 22 tuổi, qua một cơn bệnh thấy được lẽ vô thường, phát chí xuất thế, sau đó xuất gia. Sư tinh thông các pháp thiền giáo. Lại trụ trì chùa Vạn Thọ, Bắc Kinh, vang danh khắp Nam Bắc. Về già sư về ở tại chùa Tư Phúc, núi Hồng Loa, đề xướng pháp môn Tịnh Độ, người bốn phương quy tụ, trở thành đạo tràng Liên Tông. Đến năm Gia Khánh thứ 15, sư biết được ngày qua đời, liền nói với đại chúng: “Duyên huyễn hóa không kéo dài lau, đời người vô thường, sinh ra như huyễn thật đáng tiếc, nên cùng hướng về niệm Phật. Một ngày kia sẽ gặp lại nhau nơi cõi Tịnh Độ. Ta đi đay!.” Đại chúng đồng niệm Phật, sư ngồi quay mặt về hướng Tay, chắp tay, nói: “niệm một hồng danh, thấy một tướng hảo”. Tay sư kết ấn Di Đà, an nhiên qua đời. Đại chúng ngửi được hương thơm lạ đầy trong phòng, khi hỏa tảng thu được hơn trăm hạt xá lợi. Sự thọ 70 tuổi, xuất gia được 47 năm. Tác phẩm lưu hành có đủ thiền, giáo, luật, tịnh, tụng.

Bài tán:
Nhân bệnh ngộ vô thường
Bồi hồi nguồn bản giác
Lập chí quyết xuất gia
Vào tòa nhà chánh pháp.
Thiền tịnh đều minh bạch
Hướng về cõi sen thơm
Biết trước thời khắc đến
Vãng sinh cõi Tây phương.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 31 tháng 10, 1985   

Mạt thời phúc tuệ chúng sinh mỏng
May thay niệm Phật vượt sa bà
Tín nguyện người tu luôn kiên cố
Đưa đường Cực Lạc A Di Đà.

Tổ Triệt chuyên tu pháp trì danh
Khắp dòng hoa hiện giống hàm linh
Chín phẩm ba tầng theo hạnh chứng
Lưới báu trời Tây dưỡng thánh linh.

4.75 Liên Tông Thập Tam Tổ Dân Quốc Linh Nham Ấn Quang Đại Sư

Sư họ Triệu, người Thiểm Tây, Cấp Dương, tên là Thánh Lượng, tự Ấn Quang. Thuở còn trẻ theo người anh học Nho, bắt chước họ Hàn [Dũ] và u [Dương Tu] bài xích Phật giáo, nhân vì bị bệnh nên biết được việc làm sai trái lúc trước, liền có ý xuất trần. Năm 21 tuổi sư đến núi Chung Nam, bái hòa thượng Đạo Thuần xuống tóc, thông suốt kinh Phật và sách vỡ ngoại đạo, chuyên tu pháp môn Tịnh Độ. Sau đi về Phổ Đà Sơn đóng cửa tu hành 18 năm, đọc suốt ba tạng kinh. Năm Dân quốc thứ 19 sư đi về núi Chung Nam ở Tô Châu lập đạo tràng Tịnh Độ. Cũng vì thấy tình đời càng ngày càng tồi tệ nên sư cố xiển dương lý nhân quả báo ứng mong sửa đổi lòng người, dạy người lấy luân thường, nhân quả làm nền tảng, niệm Phật cầu vãng sinh Tây phương. Vào mùa Đông năm 1940, sư đến chùa núi Linh Nham, ngồi niệm Phật mà qua đời. Đồ chúng hỏa táng, thu được vô số xá lợi. Pháp môn niệm Phật thật bất khả tư nghì. Sư thọ thế 80 tuổi, xuất gia 58 năm. Những quyển thuật văn sao còn lưu truyền trên thế gian.
………………………
*Hai chữ 文钞 (văn sao) có thể lấy ý từ 淨土述聞鈔 (Tịnh độ thuật văn sao) gọi tắt là Thuật Văn Sao.

Bài tán:
Hãy thật tâm niệm Phật
Chớ nên nói lải nhải
Miệng niệm thì tai nghe
Tâm không để thừa thải.
Thần cư miền Tịnh Độ
Chí độ cõi Sa Bà
Sao thuật dòng thiền pháp
Đức thiện mãi truyền xa.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 1 tháng 11, 1985   

Khí mạnh thần trong bậc tuyệt luân
Lòng ngay miệng thẳng học thánh nhân
Mặt sắt vô tư lời chính trực
Tâm vốn sẳn dành dạy cổ kim.
Hoằng dương Tịnh độ sâu công đức
Cải canh tăng phạm rộng từ bi
Phong cách Linh Nham thơm pháp giới
Chư Phật tán thán chân nhiệm mầu.

4.76 Liên Tông Đệ Thập Tứ Tổ Hư Vân Lão Hòa Thượng

Công húy là Diễn Triệt, tự Đức Thanh, hiệu là Hư Vân, họ Tiêu, người Tương Hương, Hồ Nam. Thuở nhỏ theo Nho học, thường than chẳng phải là cứu cánh nên chuyển hướng tu theo Phật, lòng luôn mong muốn được xuất gia. Năm 18 tuổi viết bài “Bì Đại Ca” lưu hành, lặng lẻ đến tỉnh Phúc Kiến lễ lão hòa thượng Thường Khai xuống tóc xuất gia. Năm sau, thọ giới cụ túc với hòa thượng Diệu Liên tại chùa Dũng Tuyền, Cổ Sơn. Sư ẩn cư trong động Sơn Nham sau núi, lễ bái Vạn Phật Bảo Sám. Ba năm sau sư xuống núi, tham bái các thiện tri thức. Năm 43 tuổi, nhân vì muốn báo đáp âm mẹ nên từ Phổ Đà Sơn ba bước một lạy triều bài Ngũ Đài Sơn. Năm 56 tuổi, sư tham dự thiền thất ở chùa Cao Mân tại Dương Châu. Nhân nghe tiếng chén rơi vỡ liền đại ngộ.
Sư nói kệ rằng:

“Chén rơi chạm mặt đất
Tiếng vang nghe rõ ràng
Hư không như tan vỡ
Tâm cuồng như tiêu tán.”

Về sau sư thuyết pháp độ người, lập chùa truyền giới, tu bổ chùa chiềng đến hơn ba mươi địa điểm như chùa Vân Thê ở Vân Nam; chùa Dũng Tuyền ở Cổ Sơn, Phúc Kiến; chùa Nam Hoa ở Khúc Giang, Quảng Đông; chùa Đại Giác ở núi Vân Môn, Nhủ Nguyên; chùa Chân Như ở núi Vân Cư, Giang Tây v.v… năm sư được 120 tuổi thì biết được ngày qua đời, liền bảo đại chúng: “Khi ta qua đời thì hỏa thiêu, rải tro cốt trong nước bố thí cho cá”. Ngày 13 tháng 10 năm 1959 dương lịch, sư nằm trong thế cát tường mà qua đời, thọ 120 tuổi. Đồ chúng làm lễ hỏa tang thu được vô số xá lợi năm màu, có xá lợi lớn như trái nhãn, trong suốt. Tháp được dụng tại núi Vân Cư. Môn đồ sư xuất bản tập niên phổ và pháp vựng lưu hành.

Bài tán:
Ra đời trong bọc thịt
Muôn khổ với nghìn nạn
Bồ tát ứng hiện thân
Hang cọp và đầm rồng.
Chẳng tránh bao hiểm trở
Nóng lạnh đều cam tâm
Cứu tinh đời ngũ trược
Phương tiện chẳng nguyên nhân.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 7 tháng 11, 1985   

Giữa dòng sóng lớn đá giữ ngăn
Cứu vớt người treo lắm nhọc nhằn
Vì pháp quên mình, thân há biết
Chúng sinh tùy thuận bởi nhân duyên.

Đèn sáng chiếu soi muôn ngỏ tối
Biển khổ thuyền từ cứu đại thiên
Vân Cư thánh tích chân như thực
Pháp giới nguồn sâu thấm khắp miền.

4.77 Liên Tông Đệ Thập Ngũ Tổ Từ Chu Đại Sư

Sư tên gọi Phổ Hải, hiệu Từ Chu, họ Lương, người Tùy Huyền, Hà Bắc. Thuở nhỏ theo cha mẹ học Phật pháp, luôn mang chí nguyện xuất thế. Vì cha mẹ vẫn còn sống nên phải theo phép nhà. Năm 34 tuổi, cha qua đời, cảm thấy đời người vô thường, được mẹ đồng ý nên bái hòa thượng Chiếu Quang xuống tóc xuất gia. Sau vào học tại học viện Hoa Nghiêm tại Thượng Hải. Sau khi tốt nghiệp, sư đến Cổ San làm giảng viên tại Đại học Pháp Giới. Lại về Bắc Kinh lập tinh xá An Dưỡng, xiển dương giới luật, tự thân theo pháp hành trì. Sư ân cần tiến cử giới trẻ, nuôi dưỡng nhân tài hoằng pháp, nhọc lòng khẩn thiết dạy dỗ tăng nhân, dạy người không ngại mỏi mệt. Năm 1957, nhằm ngày vía Phật A Di Đà, sư xả báo thân vãng sinh Tây phương, thọ 82 tuổi, xuất gia được 47 năm. Các tác phẩm như A Di Đà Kinh Giảng Nghĩa, Phổ Hiền Hạnh Nguyện, Thân Văn Kí còn lưu hành.

Bài tán:
Người trí kia trở lại
Tịnh độ diệu linh đài
Xiển minh tầm giới luật
Khai mở chỗ lầm sai.
Hoa Nghiêm đại chánh pháp
Không đâu chẳng bao hàm
Bốn biển đồng quy ngưỡng
Ba cõi tốt lành thay.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 9 tháng 11, 1985

Chánh tri chánh kiến độ quần sinh
Thân làm khuôn phép giác vô minh
Rộng dài tướng lưỡi tuôn nguồn pháp
Trọn vẹn thanh âm đạt tinh anh.

Chí nguyện Hoa Nghiêm, thần an dưỡng
Ngày mỗi tiến lên, dạy hữu tình.
Thời mạt đèn soi trừ u ám
Một trời thanh tịnh ánh quang minh.

4.78 Hoằng Nhất Đại Sư

Sư họ Lý, tên Diễn m, tự Hoằng Nhất, người Bình Hồ, Chiết Giang. Thuở nhỏ đọc sách Nho giáo. Năm 26 tuổi qua Nhật Bản nghiên cứu hội họa và âm nhạc, được thành công. Về nước giảng dạy, viết thi từ ca phú, khắc thư pháp trên bia đá, tạo thành những nghệ phẩm tuyệt đẹp nên được xem là thuận theo thời. Năm 39 tuổi, cảm thấy đời người vô thường, quyết định gột rửa duyên trần nên đến chùa Hổ Bào ở Hàng Châu, lễ hòa thượng Liễu Ngộ, xuống tóc xuất gia. Sau xót xa khi thấy Luật học ngày càng suy thoái nên phát tâm xiển dương luật Nam Sơn, tận lực thực hành, trì giới, tự mình tôn kính tứ hạng*, trở thành khuôn mẫu cho giới Phật tử trẻ. Sư rất kính ngưỡng phong cách của đại sư Ấn Quang nên một lòng siêng tu hành Tịnh nghiệp, lập chí nguyện vãng sinh Tây phương. Mùa thu năm 1942, sư niệm Phật mà qua đời, hưởng thọ 63 tuổi, xuất gia 24 năm. Môn đồ làm lễ hỏa táng, thu được trên ngàn hạt xá lợi. Sư biên soạn rất nhiều tác phẩm, người đương thời xuất bản Hoằng Nhất Đại Sư Toàn Tập lưu hành trên đời.
……………………………………….
* tứ phần luật: Bộ Luật tứ phần của phái Đat-ma Cập-đa, gồm 60 quyển, Phật-đà Da-xá 佛陀耶舎và Trúc Phật Niệm 竺佛念 dịch. (The four-division Vinaya or discipline of the Dharmagupta school, divided into four sections).

Bài tán:
Đức Thế Tôn nhập diệt
Lấy giới luật làm thầy
Chư tỳ khiêu tự luật
Bậc Bồ Tát hiển bày.
Chúng sinh theo khuôn phép
Chứng đại viên kính trí
Kim cương Biệt Giải Thoát
Muôn kiếp chẳng đổi dời.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 3 tháng 11, 1985   

Gió mát trăng thanh cốt cách cao
Quán sát cổ kim, đại văn hào
Trời bể Đông Tây cùng hoán đổi
Bắc Câu, Nam Thiệm bước qua cầu.

Miệng gấm lòng thêu gương mẫu mực
Tự thân kềm chế, động trời người
Hoa Nghiêm nối nhịp ba trăm khúc
Sen vàng chín phẩm ngự cao ngôi.

4.79 Thái Hư Đại Sư

Sư họ Lữ tên Duy Tâm, hiệu Thái Hư, người đất Chiết Giang, tỉnh Hải Ninh. Thuở ấu thơ sư được bà ngoại nuôi dưỡng. Năm sư 10 tuổi, chiêm bái Phổ Đà Sơn, ngưỡng mộ đời tu hành. Năm 15 tuổi sư lễ hòa thượng Sĩ Đạt xuất gia, đến chùa Thiên Đồng thọ giới cụ túc. Năm 19 tuổi học đại tạng kinh có phần tỉnh ngộ. Năm 26 tuổi sư đi về Phổ Đà, đóng kín cửa chuyên lo việc soạn thuật lý đạo của bốn tông phái Thiên Thai, Hoa Nghiêm, Thiền, và Tịnh Độ. Đại sư chủ trương thuyết giảng về ngũ thừa, đề xướng cải cách Phật giáo Trung quốc, vận động thành lập Phật giáo thế giới, thành lập Vũ Xương Phật học viện, Hán tạng Phật học viện để đào tạo người tài trong giới tăng sĩ. Mùa xuân năm 1947, sư viên tịch tại Thượng Hải. Sau lễ hỏa táng, trái tim không hư hại, xá lợi nhiều đến hằng trăm hạt. Sư hưởng thọ 57 tuổi, xuất gia 40 năm. Tác phẩm Thái Hư toàn tập lưu lại cho đời.

Bài tán:
Miệng hét một tiếng lớn
Lòng quyết chẳng vội vàng
Chí mưu toan sửa đổi
Giận kẻ dữ lấn càn*.
Mong tạo bậc chân tu
Đức lo gì đơn chiếc
Nguyện lớn tựa thái hư
Thường bất ngờ xuất hiện.
…………………………..
* Luận Ngữ 論語: Ố tử chi đoạt chu dã. Ố Trịnh thanh chi loạn nhã nhạc dã. Ố lợi khẩu chi phúc bang gia giả 惡紫之奪朱也. 惡鄭聲之亂雅樂也. 惡利口之覆邦家者 (Dương Hóa 陽貨) Ghét màu tía cướp mất sắc đỏ. Ghét nhạc nước Trịnh làm loạn chính nhạc. Ghét kẻ bẻm mép làm nghiêng đổ nước nhà.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 8 tháng 11, 1985   

Thanh niên Phật tử ngóng Thái Hư
Cứu nguy mây dọi bóng hồng nghê.
Quên mình vì pháp thân lao nhọc
Nương theo nhân thế dưỡng Bồ đề.

Thuyết pháp độ người chưa ấm chiếu
Giảng kinh giáo đạo chẳng ngồi im
Mang thân theo thánh tâm không đổi
Chí nguyện tinh thần sáng cổ kim.

4.80 Đế Nhàn Đại Sư

Sư họ Chu, tên là Cổ Hư, tự Đế Nhàn, người đất Hoàng Nham. Thuở nhỏ theo người cậu học ngành thuốc. Một ngày nọ, nhân thấy có một người trông có vẻ khỏe mạnh đến xin chẩn bệnh, bất chợt trở bệnh nằm bất động. Sư hỏi: “Thuốc có thể cứu mạng người không?”. Người cậu nói: “Thuốc chỉ dùng để trị bệnh, không thể cứu mạng được.” Sư hiểu được lý sâu xa, nên phát tâm muốn xuất thế. Năm 20 tuổi, người mẹ qua đời, sư vào núi Bạch Vân theo hòa thượng Thành Đạo xuống tóc xuất gia. Năm 24 tuổi, thọ giới tại chùa Quốc Thanh, núi Thiên Thai. Một lần khi tọa thiền, tiếng tam bản đập vào tai, hốt nhiên thân tâm rỗng suốt, trong sát na, tai nghe rõ âm thanh thanh tịnh. Sau đó, đọc kinh Pháp Hoa có phần tỏ ngộ, được Tổ [Thụy] Dung thọ ký kế thừa pháp là người nối truyền giáo pháp Thiên Thai Tông. Mùa hè năm 1932, thấy chư Phật tiếp dẫn, cầm bút viết kệ rằng:

Ta thường niệm Phật
Tịnh Độ hiện tiền
Chân thực thọ dụng
Chư vị cố gắng!.

Viết xong thì mỉm cười qua đời, thọ 70 tuổi, tăng tịch 51. Tháp dựng ở núi Ngũ Lỗi, Từ Khê. Môn đồ trên dưới rất đông. Có nhiều tác phẩm để đời.

Bái tán:
Thuốc khó cứu mạng người
Vô thường đà sớm biết
Ngồi nhiếp tâm tham quán
Lộ dáng vẻ hiên ngang.
Tâm khinh an chánh thọ
Hải Ấn định phát quang
Liên Hoa ba xe pháp
Vận chuyển đạo chu toàn.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 14 tháng 11, 1985   

Trí giả Thiên Thai có truyền nhân
Rạng rỡ tông môn lập đại công
Vứt bỏ sắc, tài, danh, thực, thụy
Đề cao tinh tiến, niệm tuệ căn.

Người học đủ đầy trong thiên hạ
Cõi sen kẻ trí tựa vi trần
Chư vị gắng công tu Tịnh độ
Cùng gặp Di Đà, Quán Thế Âm.

4.81 Viên Anh Đại Sư

Sư họ Ngô, tên Hoằng Ngộ, tự là Viên Anh, người Phúc Kiến, Cổ Điền. Thuở nhỏ mất cha mẹ, được một người chú nuôi dưỡng, thích ăn chay. Năm 19 tuổi, đến chùa Dũng Tuyền ở Cổ San xuất gia theo học Phật. Sau khi thọ giới cụ túc, sư đến Tuyết Phong gặp hòa thượng Bổn Đạt, xin theo tông Tào Động. Hơn 40 năm sư hoằng hóa tông môn, diễn nói pháp Phật, đã từng đến Nam Dương bảy lần hoằng pháp làm lợi cho người. Sư thường nói: “Phật pháp có thể giác ngộ tâm người, duy trì đạo đời. Nếu theo đó mà tu chứng hẳn là thoát khổ được an lạc, nên có hạnh nguyện tự giác, giác tha, khéo tìm cách khuyến tu, dạy đạo, cùng phát tâm Bồ đề, thành tựu đạo vô thượng.” Sư từng trụ trì mười chùa là nơi danh lam thắng cảnh, đảm nhận chức lý sự trưởng của Phật giáo hội Trung quốc. Mùa thu năm 1953 sư qua đời, thọ 76 tuổi, tăng tịch 56. Tháp dựng ở đồi Thanh Phong, trước núi Thiên Đồng. Sư soạn Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa, Viên Giác Kinh Giảng Nghĩa lưu hành trên đời.

Bài tán:
Viên minh chốn giảng đường
Truyền bá Lăng Nghiêm vương
Suy diễn nghĩa thâm áo
Hiển thị lý chân thường.

Cuối Thanh, đầu Dân quốc
Rực rỡ nguồn pháp môn
Tâm Chước Ca Bà La*
Truyền bốn bể xưng dương.
………………………
*thước ca la: Sakraditya (skt)—Chước Ca Bà La—Chước Ca La—Chước Yết La. 1) Luân: Cakra (skt)—Vòng bánh xe—A wheel. 2) Núi Tu Di: See Meru in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section, and Sumeru Mountain in English -Vietnamese Section. 3) Một vị vua của xứ Ma Kiệt Đà sau thời Phật Thích Ca. Vị nầy đã xây một tháp thờ Phật tại đây—A king of Magadha, some time after Sakyamuni’s death, to whom he built a temple. (Tự điển Thiện Phúc).

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 15 tháng 11, 1985   

Thân cao, tâm rộng, tướng khoan hòa
Lớn nhỏ tinh thô thảy bao dung
Bảy chuyến Nam Dương tuyên chánh pháp
Mười lần ngồi xuống dạy quần sinh.
Công đức trang nghiêm kho phúc tuệ
Trí bi lưu chuyển pháp lâu dài
Khiến mắt trời người thêm ánh sáng
Mạch nguồn Tào Động dội miền xa.

4.82 Từ Hàng Đại Sư

Đại sư họ Nghệ, tên Kế Tông, hiệu Từ Hàng, người Kiến Ninh, Phúc Kiến. Sư xuất gia từ thuở nhỏ, sau thọ giới cụ túc, đi các nơi tham học. Sư học thiền ở chùa Cao Mân, Dương Châu, học giáo nơi chùa Quan Tông ở Ninh Ba, sau lại đến Nam Dương hoằng pháp, tùy nơi mà sáng lập Phật học viện. , hoằng pháp, giáo dục tăng tài. Đối với giáo quán sư có phần tâm đắc, trong lúc giảng giải khi thì vào chỗ thâm sâu, khi thì ra nơi cạn cợt, nói cười, lộ ra trăm vẻ thâm trầm, thanh nhã và phàm tục cùng vui với nhau, người nghe quên mỏi mệt. Mùa thu năm 1948, sư đến Đài Loan giảng pháp, sáng lập nội viện Di Lặc tại Tịch Chỉ, núi Tứ Phong. Giới trẻ Phật tử quy tụ rất đông. Năm 1954 sư thị hiện nhập diệt. Năm năm sau khi mở tháp, thân vẫn an tọa tự nhiên, đồ chúng thếp vàng cúng dường. Những tác phẩm sư lưu lại được xuất bản lưu hành.
Bài tán:
Gió lộng, đuốc lớn
Lửa dữ, vàng ròng
Không tham, không nhiễm
Không si, không sân.
Thân chẳng gì quý
Chỉ có bi tâm
Nhục thân không hoại
Cúng dường chân thân.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 16 tháng 11, 1985   

Dạy cõi sa bà, Bắc học Nam giảng
Tìm người xưa, Đông đến lại Tây đi
Khô miệng do tâm mang nặng từ bi
Thay hình dạng vốn từ Đâu Suất xuống.
Như ý cát tường rộng bày ảnh hưởng
Đều vui mừng kết lại mối duyên sâu
Phát Bồ Đề tâm chánh giác tựu thành
Âm vi diệu, chẳng ai người hơn được.

4.83 Đàm Hư Đại Sư

Sư họ Vương, tên Long Đàm, tự Đàm Hư, người đất Hà Bắc. Từ thuở nhỏ sư thường chỉ vào đại chúng, nói: “Ăn chay! ăn chay”. Lên 4 tuổi vẫn chưa nghe và nói giỏi. Lớn lên sư làm nghề thuốc tại Dinh Khẩu. Tình cờ đọc được kinh Lăng Nghiêm, nhận biết được rằng Phật giáo là đại pháp thoát sinh tử nên liền có ý muốn xuất gia. Năm sư 43 tuổi, vào mùa xuân, sư buông bỏ đời sống thế tục, ra Hà Bắc đến chùa Cao Minh ở Lai Thủy lạy lão sư Ấn Khôi xuống tóc xuất gia. Mùa thu năm đó, sư qua chùa Quán Tông tại Ninh Ba thọ giới cụ túc, tu tập giáo pháp của Thiên Thai Tông, luôn giữ phẩm hạnh trung trực, kính cẩn. Sư được ngài Đế [Nhàn] quý trọng, nhận là người nối pháp tông Thiên Thai. Sư có giọng nói dõng dạc, người vui thích muốn nghe nên pháp đường thường đông đúc. Sau đó, sư lập chùa Cực Lạc tại Cáp Nhĩ Tân, chùa Trạm Sơn tại Thanh Đảo. Về già sư ở lại Hương Cảng, đến năm 1963 thị hiện viên tịch, thọ 89 tuổi, tăng tịch 46 năm. Lúc hỏa táng thu được rất nhiều xá lợi. Tháp dựng bên trong chùa Tháp Viện, Cửu Long. Tác phẩm có Pháp Hối lưu hành.

Bài tán:
Tiếng nói thường dõng dạc
Vọng mấy tầng mây xanh
Ngồi trên tòa pháp vương
Tiếng gầm sư tử chúa.
Gió xuân thơm đào lý
Tùng bách thân cao cường
Phật giáo hằng hưng thịnh
Do chỉnh đốn khác thường.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 21 tháng 11, 1985   

Khai núi đồi, khẩn đất hoang lập ruộng
Cày bừa thu hoạch chẳng mấy khi nhàn
Đào tạo nhân tài vun tưới học tăng
Trừ cỏ xấu, dưỡng mầm, dư lương thực.
Người quý phái, kẻ quan quyền kính phục
Nghĩa anh em, bè bạn chẳng ai hơn
Luôn dày công chuyển pháp khắp Bắc phương
Đàm công đức tràn tam thiên thế giới.

4.84 Thường Nhân Đại Sư

Đại sư họ Vương, tên Thường Nhân, người Cát Lâm, Song Thành, sinh cuối đời Thanh. Tuy chưa được đọc sách thánh hiền nhưng thờ cha mẹ chí hiếu, mỗi ngày sáng chiều đều lễ bái cha mẹ, ngày nào cũng vậy. Năm 28 tuổi cha mẹ lần lượt qua đời, sư dựng lều tranh bên phần mộ thủ hiếu, ăn mể cốc qua ngày, suốt ba năm không nói một lời. Sáu năm mãn hạn, sư định vào Thiên sơn tu hành. Một hôm, khoảng buổi trưa, có một vị lão hòa thượng đi đến ( lão hòa thượng vốn là người triều Minh). Sư thành tâm hỏi: “Tôn giả từ đâu đến?”. Vị tăng đáp: “Tôi từ Thiên Sơn, chính vì ông mà đến đây đến. Ông chính thực có pháp duyên tại Song Thành chứ không phải Thiên sơn.” Vị tăng ra khỏi cửa thì không thấy đâu nữa. Ngày xả tang, khắp 48 thôn làng chung quanh vui mừng cầu chúc. Sư thệ nguyện ủng hộ tam bảo, kiến lập chùa Tam Duyên, đạo tràng Vĩnh Tố, đàn bà con trẻ đều đến thọ giáo, người sang quý đến quy y, độ người vô số. Năm 1949 sư thị tịch tại chùa Niêm Hoa ở Bắc Kinh, hưởng thọ 72 tuổi. Sự tích cảm ứng đạo giao khó nghĩ bàn không kể xiết. Xin đọc thêm trong quyển Thủy Kính Hồi Thiên Lục.

Bài tán:
Trời riêng phần ưu đãi
Trở về chỗ thuần chân
Một chữ cũng không biết
Muôn pháp tự đến gần.
Hiếu đức đều cùng cực
Có nghĩa lại có nhân
Như muôn vì sao sáng
Cùng quy về Bắc Thần.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 22 tháng 11, 1973   

Trầm mặc ít lời, nói năng chậm rãi
Tự thân làm, thực tiển chẳng trái thời
Khẩn thiết chí thành tôn kính song thân
Lòng kính ngưỡng làm vui lòng thầy, tổ.
Tu phạm hạnh sáu năm nơi lều cỏ
Lưu tiếng thơm thiên cổ bậc tri âm
Nghe gió thầm giáo hóa đức cao thâm*
Người tin pháp, nghe đây mà tưởng niệm.
………………………………………………..
* 风 phong: giáo hóa, dạy dỗ. ◎Như: xuân phong phong nhân 春風風人 gió xuân ấm áp thổi đến cho người, dạy dỗ người như làm ra ân huệ mà cảm hóa.

4.85 Quảng Khâm Lão Hòa Thượng

Sư pháp danh là Chiếu Kính, tự Quảng Khâm, người Huệ An, Phúc Kiến, mồ côi từ thuở nhỏ, nhận ra đời người vô thường. Năm 13 tuổi, vào chùa Thừa Thiên ở Tuyền Châu, theo sư Thụy Phương xuất gia. Tuy thể chất yếu đuối nhưng sư luôn tinh tấn, tu khổ hạnh, không ăn quá giờ Ngọ, đêm không nằm, suốt ngày không rời điện Phật. Một lần, vị tri khách trước đại chúng cho biết là chùa bị mất tiền, chúng tăng nghi sư là người lấy cắp. Sư chỉ im lặng bày tỏ sự trung thực của mình. Sau đó mọi sự được sáng tỏ.

Sau khi thọ giới cụ túc, sư mang theo một túi gạo đi vào núi sâu tìm chỗ ẩn tu. Tìm được một động trong núi, sư nguyện: “Không ngộ đạo thì không ra khỏi nơi này.” Trong khoảnh khắc chợt có cọp đi vào động. Sư vì cọp nói pháp, cọp nghe rồi liền lùi ra ngoài. Gạo hết, sư ăn lá cây khiến loại khỉ cảm động hái trái cúng dường. Từ đó, sư ăn trái rừng để duy trì sắc thân. Đây là thời gian sư thường nhập định phóng quang. Sau bảy năm, sư xuống núi, danh vang gần xa, người quy y ngày một đông, hàng công khanh, người chợ búa đều có cả. Năm sư 53 tuổi, đến Đại Loan hoằng pháp, dựng chùa Thừa Thiên ở Thổ Thành, chùa Diệu Thông ở Cao Hùng. Mùa thu năm 1985 sư truyền bá giới đàn, 500 người thọ giới, sự hưng thịnh chưa từng thấy. Ngày 13 tháng 2 năm 1986, sư ngồi kiết già thị tịch tại chùa Diệu Thông, thọ 95 tuổi, môn đồ của sư vô số.

Bài tán:
Đại thừa vốn căn tính
Vì người quên cả thân
Từ bi tâm cứu thế
Vui đạo trong khốn bần.
Gió lộng thì đuốc lớn
Lửa dữ gặp vàng ròng
Dồi mài và tôi luyện
Ma Phật tự rõ ràng.

Kệ:
Tuyên Hóa thượng nhân viết ngày 18 tháng 2, 1986   

Đệ nhất hạnh đầu đà ngài Ca Diếp
Chư thánh tăng Chấn Đán sánh bằng trời
Sư Quảng Khâm Phúc Kiến được ấn tâm
Cơ duyên ấy, người Đài Loan vun bón
Tuổi chín mươi lăm hẳn là trở gót
Đức từ bi trải thế giới ba ngàn
Hằng nguyện sa bà nơi cõi Tịch Quang
Quay thuyền lại chẳng sinh tâm nghi hoặc.


Thiên Thai Sơn
(Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm cảm tác)

Gió theo lối đào hoa xuôi thuyền non vắng
Áo ai gởi vàng mây bay trong hoàng hôn.
Ngọc Tuyền còn reo
Lời vàng đưa theo
Hoa lá hát lời kinh bối
Tiếng rơi trên suối
Dáng ai xa vời
Đất như còn mới thơm lối hoa đào rơi.
Thiên thai. Đóa sen ngát hồng tay
Âm vang mười phương tấu khúc sum vầy
Thiên thai. Phiến kinh biếc ngàn hoa
Non xanh truyền câu hát thái hòa
Ai mang tờ kinh cũ tìm về
Trong tiếng chuông giục lòng quê.
Thiên tiên. Núi cao mây xanh, tiên lồng bóng hoàng hoa
Hóa thân thiên duyên ai ngờ đã bao lần qua dòng đời.
Thiên thai. Đứng trông xa xăm non lồng bóng trời mây
Biết chăng đâu đây ba nghìn cõi trong một tâm vơi đầy.
Về đây đêm nay lòng đã như mây theo gió xuân vàng non biếc
Lòng suối ngọc xưa quyện từng hạt sương mai trong mắt hồng thơ ngây.
Hồn quê theo chân về chốn cũ
Nhìn non tiên, lòng vui khúc hát đoàn viên.
Thiên thai. Bóng ai xưa kia trăng cài áo trầm vương
Bút son đôi câu bao lần đã thay ngọc châu tặng người.
Ngắt cánh đào cuối đông
Ném xuống lòng suối trong
Hóa muôn nghìn cánh bướm bay về giữa trời Không.
Đào nguyên đó, mây nước đâu quên người
Vườn đào xưa, dòng kinh thiên thu
Khói thơm quyện dòng kinh thơm
Áo hoa nhuộm vàng trên cõi tiên.
(2005)

Hết Phần IV

(Trọn tập)

Trang: 1 2 3 4