ĐƯỜNG PHẬT ĐI

HƯ VÂN HÒA THƯỢNG
TUYÊN HÓA HÒA THƯỢNG
biên soạn
Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm - Bác sĩ Trần Văn Nghĩa phiên dịch

… Lòng đà như áng mây bay,
Thì nương theo gió heo may mà về ….

PHẦN III

3.01 Thanh Nguyên Hành Tư Thiền Sư

Tổ Thanh Nguyên [Hành] Tư người đất An Thanh, Cát Châu, họ Lưu, xuất gia từ thuở bé, mỗi khi cùng người luận đạo sư chỉ im lặng. Nghe pháp Tào Khê liền đến tham vấn: “Nên làm thế nào để không rơi vào thứ bậc?”. Tổ hỏi: “Ông từng làm những gì rồi đến đây?. Sư thưa: “Thánh đế cũng không làm”. Tổ hỏi: “Rơi vào thứ bậc gì?”. Đáp: “Thánh đế còn không làm thì đâu còn có thứ bậc”.Tổ nói: “Đúng vậy, đúng vậy. Hãy khéo gìn giữ”. Tổ liền khiến sư làm thủ chúng, chẳng lâu sau, tổ bảo: “Ông hãy phân hóa ra một phương, không nên đình trệ ở đây.” Sư trở về quê cũ, kiến lập chùa Tĩnh Cư, núi Thanh Nguyên, thuyết pháp hơn ba mươi năm. Năm Khai Nguyên thứ 18, ngày 13, tháng 11, sư thăng đường cáo chúng, kiết gia thị tịch. Vua Hy Tông tặng hiệu là Hoằng Tế Thiền Sư, tháp hiệu là Quy Chân.

Bài tán:

Thánh đế còn chẳng làm
Thứ bậc há còn rơi
Hoa sen trong biển lửa
Núi tuyết hồng mặt trời.

Phát huy đại thần cơ
Bay lượn trên dấu cổ
Khuôn mẫu của ngàn đời
Ba tông làm thủy tổ.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 9 tháng 1, năm 1984

Đại thần thông đại cơ đại dụng
Thánh đế chẳng trụ há còn tông
Đạo ngôn tuyệt, thứ bậc vong
Tâm hành xứ diệt tây đông bao gồm
Đến một phương dựng nền đạo pháp
Căn bổn Không, dạy khắp quần manh
Ngàn sau truyền lại hậu sinh
Vô công vô tướng, “như vầy tôi nghe”.

3.02 Thạch Đầu Hi Thiên Thiền Sư 

Sư sinh tại Thụy Châu, Cao An, họ Trần. Năm 20 tuổi đến Tào Khê được thế độ. Sau khi tổ Đại Giám thị tịch, sư vâng theo di ngôn đến yết kiến sư Thanh Nguyên. Sư Thanh Nguyên hỏi: “Ông từ đâu đến?”. Sư đáp: “Từ Tào Khê đến”. Hỏi: “Đến đây được chút gì không?” Đáp: “Khi chưa đến Tào Khê cũng không mất gì”. Sư lại hỏi: “Đại sư Tào Khê có nhận biết hòa thượng chăng?”. Sư Thanh Nguyên hỏi: “Ông nay nhận biết ta chăng?”. Đáp: “Nhận biết”. Lại hỏi: ‘Thế nào là nhận biết?”. Sư Thanh Nguyên nói: “Các con vật có sừng tuy nhiều nhưng chỉ một con Lân cũng đủ”. Sư theo lời mang thư đến thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng, khi trở về sư xin ở lại đây. Hòa thượng  hứa khả cho cái rìu cùn này ở lại núi. Vậy nay xin được đi. Sư Thanh Nguyên bỏ chân xuống. Sư đảnh lễ từ tạ. Sau trụ tại Nam Đài núi Nam Nhạc, Lương Đoan thuyết pháp tại chùa Đâu Suất. Năm Trinh Nguyên thứ 6, đời vua Đường Đức Tông, tháng 12, sư thị tịch, vua tặng thụy là Vô Tế Đại Sư, tháp tên là Kiến Tướng.

Bài tán:

Nguy cơ đơn độc
Cơ trí song toàn
Thân theo di chúc
Yết kiến cao phong
Sao là nhận biết
Sừng, chỉ sừng lân
Đường Thạch Đầu trơn
Phát đại trí năng.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 10 tháng 1, năm 1984

Hai mươi tuổi Tào Khê tìm đạo
Đăng đường nhập thất chứng bồ đề
Vâng theo di mệnh cầu thầy
Phát minh tâm địa độ bầy tâm mê
Không đâu đến nơi về chẳng có
Không bợn nhơ há lại uốn quanh
Thạch Đầu đường hẹp gập ghềnh
Khắp cùng pháp giới tây đông tung hoành.

3.03 Dược Sơn Duy Nghiễm Thiền Sư

Sư họ Hàn, sinh tại Giáng Châu, 17 tuổi xuất gia, thông kinh luận, nghiêm trì giới luật. Buổi sơ cơ sư tìm đến thất của sư Thạch Đầu, chưa khế hợp được. Vâng lời đến gặp sư Mã Tổ, ngộ được tiền duyên, sư trở lại với sư Thạch Đầu. Một ngày nọ, trên bệ đá, sư Thạch Đầu hỏi: “Ông ở đây thường làm việc gì?” Sư đáp: “Một việc cũng chẳng làm”. Hỏi: “Chỉ ngồi yên chăng?. Đáp: “Ngồi yên tức là có làm”. Hỏi: “Ông nói không làm, vậy cái không làm đó là gì?. Đáp: “ngàn thánh cũng không biết”. Sư Thạch Đầu nói kệ khen rằng:

“Cùng đến trú đây chẳng rõ tên
Nhậm vận tùy cơ chẳng tướng hình
Kẻ trí trước đà không thấu suốt
Người sau  cũng chẳng rõ ngọn ngành”

Sau sư khai pháp tại Dược Sơn. Năm Giáp Dần hiệu Thái Hòa thứ 8 (834) đời vua Đường Vân Tông, sư tạ thế. Tháp dựng phía Đông của viện, vua tặng hiệu là Hoằng Đạo đại sư, thụy là Hóa Thành.

Bài tán:

Hai lạy Thạch Đầu
Vàng đà luyện thuần
Một việc chẳng làm
Ngàn thánh không biết.
Trên đá nở hoa
Ngàn gió đưa hương
Một tiếng kêu dài
Như sấm như chớp.

Bài kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 11 tháng 1, năm 1984

Trước lạy Thạch Đầu chưa khế cơ
Dưới tòa Mã Tổ ngộ tánh chân
Một việc chẳng làm, như vô sự
Ngàn thánh, ngôn từ chẳng biện phân.
Cùng trú một nơi mà chẳng biết
Mới rõ cơ duyên tự thuở nào
Một tiếng kêu dài như sấm chớp
Lay kẻ ngàn năm giữa mộng đời.

3.04 Thiên Hoàng Đạo Ngộ Thiền Sư 

Sư họ Trương, sinh tại Vụ Châu, Đông Dương, xuất gia năm 14 tuổi, tham kiến sư Thạch Đầu, hỏi: “Lìa định tuệ thì lấy pháp gì để dạy người?”. Sư Thạch Đầu nói: “Trong ta không còn nô bộc thì còn lìa cái gì?”. Sư nói: “Như vậy đã rõ ràng”. Sư Thạch Đầu hỏi: “Ông nắm bắt được hư không chăng?”. Sư thưa: “Như vậy không kể từ hôm nay trở đi”. Sư Thạch Đầu nói: “Chưa hỏi ông từ sớm đến chiều hướng về đâu mà lại?” Sư đáp: “Ngộ đạo thì chẳng còn là người từ bên nào cả”. Sư Thạch Đầu nói: “Ta đã biết nơi ông đến.”. Sư thưa: “Thầy có bằng chứng gì mà lại vu oan cho người?”. Sư Thạch Đầu nói: “Ngay nơi thân của ông đây”. Sư thưa: “Tuy là vậy, nhưng làm thế nào để chỉ rõ cho người sau?”. Sư Thạch Đầu nói: “Ông nói ai là người sau?”. Sư nghe qua liền đốn ngộ. Sư đến trụ ở chùa Thiên Hoàng. Năm Nguyên Hòa thứ 2 (807) đời vua Đường Hiến Tông, ngày 13 tháng 4, sư thị tịch, có bốn người nối pháp là Sùng Tín, Tuệ Chân, Văn Tê U Nhàn.

Bài tán:

Đường Thạch Đầu trơn
Lừa phỉnh anh tài
Một trượt ngã nhào
Ba học khó thu
Lỗ mũi chọc trời
Trên đất dong thuyền
Đến thẳng đầm rồng
Mở mắt sau đầu.

Bài kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 25 tháng 1, năm 1984

Rời định tuệ còn có gì để thuyết
Há ngữ ngôn, văn tự ấy diệu khoa
Đường Thạch Đầu dễ trượt khéo mà qua
Lối ông Mộc quanh co đừng vụng bước.
Chẳng giữ bộc nô, cần luôn tinh tấn
Lao nhọc khéo bày chỉ uổng công phu.
Chia bên này, bên kia lại nhiếp thu
Chỉ một niệm ta bà ha phàm với thánh.

3.05 Đại Điên Bảo Thông Thiền Sư 

Sư là con cháu của vua nhà Trần, người Dĩnh Xuyên. Ông nội làm quan nên khoảng giữa thời Khai Nguyên sinh ra sư trong triều quận. Từ thuở nhỏ đã hâm mộ Vân Lâm và sư Dược sơn Duy Nghiễm, thờ thiền sư Huệ Chiếu làm thầy. Sau khi thọ giới, đồng đến Nam Nhạc tham kiến hòa thượng Thạch Đầu, được pháp vô úy. Năm Trinh Nguyên thứ nhất đời Đường sư vào núi La Phù đến Triều Dương, lập chùa Ngưu Nham và Linh Sơn. Hàn Dũ hỏi đạo, tôn kính lưu áo lại, sự việc này có ghi trong Truyền Đăng Lục. Năm Trường Khánh thứ tư (824), một hôm sư cáo biệt chúng rồi thị tịch, thọ 93 tuổi. Sư soạn kinh Kim Cang, Tâm Kinh Thích Nghĩa. Tháp dựng bên trái chùa Linh sơn.

Bài tán:

Chứng cùng tột lý
Há nệ viên, thiên
Nhướng mày, nháy mắt
Chuốc lấy đảo điên.
Lời không động tĩnh
Hiển lý u huyền
Muôn người bái phục
Y thư lưu truyền.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 17 tháng 1, năm 1984

Đại Điên thiền sư đứng đầu
Dòng vua xe áo châu du khắp miền
Gắng công khuyên nhủ bạn hiền
Tri âm ý chí tham thiền hiển minh
Văn công quy mệnh giáo trình
Thứ dân ngưỡng đức cầu xin khấu đầu
Trời cao đất rộng dài lâu
Núi sông đen trắng một màu mông mênh
Pháp bổn lưu biến tam thiên
Thập phương phổ hóa lưu truyền tuyệt luân.

3.06 Vân Nham Đàm Thịnh Thiền Sư 

Sư họ Vương, người Kiến Xương. Sư sinh ra có phần thịt nhô lên ở chỗ vai bày ra khi mặc áo ca sa. Đầu tiên đến tham học với sư Bách Trượng hai mươi năm nhưng nhân duyên không khế hợp. Sau sư tìm đến sư Dược Sơn Duy Nghiễm. Một hôm, đang đứng hầu Thầy, sư Dược Sơn hỏi: “Sư Bách Trượng thuyết giảng điều chi?”. Sư đáp: “Đạo của sư Bách Trượng ngoài ba câu thì bỏ ra, trong sáu câu thì lấy vào.” Sư Dược Sơn nói: “Ngoài ba ngàn dặm vui vì mất giao tiếp”. Lại hỏi: “ Còn nói pháp gì nữa?”. Sư đáp: “lúc chúng lên tòa tu định thì sư Bách Trượng dùng gậy đuổi đi, sau thì gọi chúng, khi chúng quay đầu lại, sư hỏi: “Cái gì đó?”. Sư Dược Sơn nói: “Sao không sớm nói với ta, nay nhân ông đến đây mà ta mới thấy Hải huynh”. Sư nghe xong liền đốn ngộ, lễ bái. Sau đó sư khai pháp ở Vân Nham. Năm Hội Xương Tân Dậu thứ nhất đời vua Đường Vũ Tông sư thị tịch, hỏa táng thu được hàng ngàn xá lợi, thụy hiệu là Vô Trụ đại sư, tháp tên là Tịnh Thắng.

Bài tán:

Hai mươi năm Bách Trượng
Chẳng rõ lời khuyên lơn
Trở lại nơi đỉnh Dược
Siêu xuất vượt quần môn.
Cái đó là cái gì?
Một lời tan thành bụi
Linh phù ngay trong tay
Là bảo kinh tam muội.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 18 tháng 1, năm 1984

Ba câu, sáu câu, chẳng câu nào
Gọi đến, đuổi đi, theo với nhau
Là chi? Phá chấp vọng cầu
Lành thay! hoàn thuở ban đầu bản lai
Sớm chẳng thuyết vì thời chửa đến
Thành cơ duyên, thỏa mối ưu tư
Xưa nay lắm chuyện, tổ sư
Chẳng màng lao khổ, có dư phiền hà.

3.07 Long Đàm Sùng Tín Thiền Sư 

Sư người Chử Cung, lúc chưa xuất gia làm việc tại một tiệm bánh trước chùa, mỗi ngày đều cúng dường thiền sư [Đạo Ngộ] Thiên Hoàng mười cái bánh. Thiền sư nhận lấy rồi đưa lại cho ông một cái, nói: “ Tặng lại ông làm ân đức cho con cháu”. Sùng Tín thưa: “Đã là tương lai của con, sao Thầy lại nóí là tặng cho con?”. Thiền sư nói: “Tương lai của ông thì đưa cho ông, như vậy có lỗi gì?”. Sùng Tín nghe liền tỏ ngộ, xin xuất gia. Một hôm sư hỏi Thầy: “Từ ngày con vào đây đến giờ vẫn chưa được dạy tâm yếu.” Thiền sư nói: “Từ lúc ông vào đây, ta chưa từng không chỉ rõ tâm yếu cho ông”. Sư hỏi: “Chỉ ở chỗ nào?”. Đáp: “Ông mang trà đến, ta vì ông nhận lấy. Ông mang cơm, ta vì ông thọ thực. Ông cúi chào, ta vì ông trả lễ, như vậy chỗ nào là chẳng chỉ rõ tâm yếu?”. Sư suy nghĩ hồi lâu. Thiền sư Thiên Hoàng nói: “Thấy thì thấy liền, suy nghĩ thì không đúng nữa”. Sư theo đó mà tỏ ngộ.

Bài tán:
Dâng sư mười chiếc bánh
Đổi lại một tầm nhìn*
Ngay đó mà nhận biết
Cơ phàm thánh hiển minh.
Nơi thiên tánh tiêu dao
Dù sao dời chớp cuốn
Rồng ẩn đáy vực sâu
Bầu hư không trăng hiện.
…………………………
* độc cụ chích nhãn 獨具隻眼 có nhãn quan hoặc kiến giải đặc thù, riêng biệt.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 24 tháng 1, năm 1984

Điểm tâm nướng bánh đỡ lòng
Ban ân con cháu thoát vòng ly tan
Thể vô tướng, thực cúng dàng
Dạy người đại trí rõ chân Bồ đề.
Mặc áo, ăn cơm bày pháp yếu
Đón người, đãi khách hiểu thiên cơ
Tùy duyên ngộ được nguyên sơ
Miễn cưỡng tạo tác đường tơ lạc lầm.

3.08 Động Sơn Lương Giới Thiền Sư

Sư người Cối Khê, họ Du xuống tóc tại núi Ngũ Tiết yết kiến sư Đại Duy tham cứu công án “vô tình thuyết pháp” nhưng chẳng khế ngộ. Sư Đại Duy chỉ đến gặp sư Vân Nham thì tĩnh ngộ. Khi từ giả sư Vân Nham, nhân lội qua sông thì chợt đại ngộ, nói kệ:

Rất ngại hướng ngoại cầu
Xa xôi cùng ta thông
Nay riêng ta tự đến
Nơi nơi được gặp sông.
Sông nay chính là ta
Mà ta chẳng phải sông
Cần theo đó mà hội
Mới khế hợp như như.

Sư thuộc đời Đường, cuối đời Đại Trung, khai pháp tại Động Sơn ở Tân Xương, h ưng thịnh khắp nơi. Lại được Tào Sơn [Bản Tịch] nối truyền tông chỉ nên huyền chỉ của Động Sơn truyền rộng khắp trên dưới. Một hôm, sư đánh chuông từ biệt chúng, an tọa sắp hóa. Đồ chúng kêu khóc, không ngăn được bi thương. Sư hốt nhiên mở mắt, sai bày trai tăng kéo dài đến bảy ngày sau mới mất. Lúc đó là năm Hàm Thông thứ mười, sư thọ 63 tuổi, thuỵ là Ngộ Bản thiền sư, tháp tên là Tuệ Giác.

Bài tán:
Trên cao gặp chân sư
Thực là bậc kỳ tài
Chân bước trên bóng nước
Như hỗ mọc cánh dài.
Năm vị cùng mở bày
Gạt ra ngoài thiên kiến
Nêu cao nghĩa huyền thâm
Một vòng giáp đất trời.

Bài kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 2 tháng 2, năm 1984

Động sơn, sơn động ai cư trú
Nước sâu, khe thẳm ta lội qua
Thật hư, nhiễm tịnh một nhà
Ta, người hoán chuyển há là khác nhau.
Ngộ được chân như cùng thể dụng
Giải thoát tức nhân pháp tánh không
Đến đi hai mắt trợn tròn
Trai tăng tiệc lớn ăn còn như không.

3.09 Đức Sơn Tuyên Giám Thiền Sư 

Sư họ Chu, người Giản Châu, tham kiến sư Long Đàm [Sùng Tin]. Một đêm nọ, sư Long Đàm nói: “Canh khuya sao ông không xuống phòng?”. Sư liền bước đi rồi quay lại nóí: “Bên ngoài trời tối đen”. Sư Long Đàm đốt đèn lồng rồi đưa cho sư. Sư định cầm lấy thì Long Đàm liền thổi tắt. Sư đại ngộ, liền sụp lạy. Sư Long Đàm hỏi: “Ông thấy được gì?”. Đáp: “Từ đây trở đi sẽ không còn nghi về thoại đầu lão hòa thượng truyền rao trong thiên hạ.” Ngày hôm sau sư Long Đàm thăng đường nói: “Ở đây có một Hán tử, răng như lưỡi gươm, miệng tựa chậu máu, chỉ đập một gậy thì quay đầu. Một ngày kia sẽ lên tận non vắng mà dựng đạo của ta vậy.” Sư mang sớ sao để nơi pháp đường châm lửa đốt. Đến năm Hàm Thông thứ 6, tháng 12, đời vua Đường Ý Tông sư bảo đồ chúng: “Nơi không mà truy cầu âm hưởng thì chỉ lao tâm. Biết là mộng thì cái biết đó cũng là không thì còn có sự gì nữa.” Sư đoan tọa mà hóa, thụy hiệu là Kiến Tánh thiền sư.

Bài tán:
Thổi tắt ngọn đèn
Quang minh chói rạng
Mấu chốt mở toang
Ba tâm chẳng còn
Khí thâu Phật tổ
Bồ tát nô tỳ
Một cây gậy trắng
Ôi thôi, lất phất.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 3 tháng 2, năm 1984
Chấp vào văn tự chướng bổn minh
Cống cao ngã mạn gánh tàng kinh
Sao sớ Thanh Long là của báu
Hạc vàng bay tận chín tầng xanh.
Đốt đèn, thổi tắt, tuyên chân nghĩa
Một gậy đang mê phải giật mình
Lên tận non cao hoằng đại pháp
Giáo hóa bao trùm vạn chúng sinh.

3.10 Tào Sơn Bổn Tịch Thiền Sư 

Sư họ Hoàng người Phủ Điền, thuở nhỏ theo Nho học, năm 19 tuổi vào núi Linh Thạch tại Phúc Châu xuất gia. Tham kiến sư Lương Giới, Động Sơn. Sư Động Sơn hỏi: “Tên là gì?”. Đáp: “Bổn Tịch”. Hỏi: “Là gì?”. Đáp: “Bổn tịch vốn không tên”. Sư Động Sơn biết là đây bậc pháp khí. Nhập thất được vài năm sư từ giả ra đi. Sư Động Sơn lại hỏi: “Ông đi về đâu?”. Đáp: “Đi đâu cũng bất biến”. Hỏi: “Nơi bất biến đó há có chỗ đi ư? ” Đáp: “Đi cũng là bất biến” . Sau sư khai pháp ở vùng Nghi Hoàng,Tào sơn, người đến học rất đông. Sư lại lập Tam Trụy Tứ Cấm, Quân Thần Thiên Chánh Tụng hiển phát ý chỉ Động Sơn. Năm Nguyên Phục Tân Dậu sư hỏi đồ chúng: “Hôm nay ngày mấy?”. Đáp: “thưa là ngày rằm tháng 6”. Sư nói: “Sáng mai ta ra đi”. Sáng hôm sau sư thắp hương rồi an tọa mà hóa, táng nơi chân núi phía Tây, thụy hiệu là Nguyên Chứng, tháp tên Phước Viên.

Bài tán:
Nước từ động chảy ngược
Sư thừa kế diệu tuệ
Từ phương nào đến đây
Khai mở năm vị này
Bảo kính trên đài cao
Chiếu khắp muôn chủng loại
Chẳng chấp vào hư huyền
Há còn có điều nghi.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 4 tháng 2, năm 1984

Không xưng bổn tịch cũng không tên
Chẳng từ đâu đến tích hình chẳng ghi
Dụng trí chuyển đạo uy nghi
Hành vi cao thượng tâm trì tuệ đăng
Xứ xứ bất biến khó bàn
Đến được bảo sở tâm tràn an vui
Chánh chân an tọa qua đời
Như nhiên giải thoát, độ người hữu duyên.

3.11 Nham Đầu Toàn Hoát Thiền Sư

Sư họ Kha, người Tuyền Châu. Thuở nhỏ đến lễ sư Thanh Nguyên, được sư Thanh Nguyên thí phát xuất gia, đến Trường An thọ giới cụ túc tại chùa Bảo Thọ. Sư cùng sư Tuyết Phong, sư Khâm Sơn là bạn đồng tu, cùng tinh tấn. Sư yết kiến sư Ngưỡng Sơn [Tuệ Tịch], lại tham học với sư Đức Sơn, mang tọa cụ lên pháp đường chiêm ngưỡng. Sư Đức Sơn hỏi: “Làm gì vậy?”. Sư bèn quát một tiếng lớn. Sư Đức Sơn nói: “Ông tăng già này đã qua những nơi nào?”. Đáp: “Qua hai công án”. Ngày hôm sau sư Đức Sơn lại hỏi: “Xà lê là người mới đến phải chăng?”. Đáp: “Phải”. Hỏi: “Ông học ở đâu cái pháp hư đầu* ấy rồi đến đây vậy?”. Đáp: “Toàn Hoát tôi chẳng hề kiêu mạn”. Sư Đức sơn nói: “Ông về sau chẳng nên phụ lão tăng”. Sư trụ tại Nham Đầu, Ngạc Châu. Lúc đó bờ sông nước đục khó đi, sư ở lại làm một bến đò cho người. Sư dựng tông phong, độ người khắp nơi. Năm Quang Khải nhà Đường, có giặc loạn đòi hỏi sư cung cấp tiền bạc và lương thực nhưng sư không không có gì để cung ứng sau sư bị trúng đao nhọn mà hóa. Môn nhân hỏa táng thu được 49 hạt xá lợi, dựng tháp ghi hiệu là Thanh Nham thiền sư.
………………
*Lược hư đầu hán (掠虛頭漢) Cũng gọi Lược hư hán. Tiếng dùng trong Thiền lâm. Lược là cướp lấy; Hư là giả dối không thực. Lược hư đầu hán là kẻ chỉ biết bắt chước lời nói và hành động của những người khác, chứ bản thân không có thực chất. Tắc 10, Bích nham lục (Đại 48, 150 thượng), chép: Triệu châu hỏi: Sau 3, 4 tiếng hét, ông hiểu như thế nào? Vị tăng không trả lời. Triệu châu liền đánh và nói: Đây đúng là gã Lược hư đầu hán! [X. Vân môn Khuông chân thiền sư quảng lục Q.thượng].

Bài tán:
Đá vỡ bờ tan
Đạo đức thanh cao
Sư người nối pháp
Như sấm nổ vang
Như rồng bay lượn
Đường Nham Đầu sâu
Kêu một tiếng lớn
Người nghe mất mạng.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 16 tháng 2, năm 1984

Tìm tri thức gặp Thanh Nguyên
Tâm hằng cầu pháp thân quên nhọc nhằn
Hét lên đoạn dứt tử sinh
Câu ca lay tĩnh vô minh, điếc mù.
Câu phó chúc Đức Sơn gìn giữ
Nhận ngọn đao kẻ dữ, giới trì
Nhân duyên quả báo rõ bày
Nham Đầu Toàn Hoát bậc thầy chúng tăng.

3.12 Vân Cư Đạo Ưng Thiền Sư

Sư họ Vương, sinh tại Ngọc Điền, U Châu, xuất gia từ nhỏ, 25 tuổi thành đại tăng, du phương tham kiến sư Động Sơn. Sư Động Sơn mỗi khi thấy sư cơ phong không hề câu thúc, trác tuyệt nên thường tán thán: “Dù về sau có ngàn vạn người cũng không thể nắm giữ người này được”. Một hôm, sư Động Sơn hỏi: “Kẻ đại xiển đề làm muôn tội đại nghịch thì hiếu dưỡng ở đâu?”. Đáp: “Đó là chỗ bắt đầu cho hiếu dưỡng”. Từ đó sư Động Sơn để sư là thủ chúng trong thất. Sư trụ trì tại núi Vân Cư 30 năm, hoằng pháp khắp nơi, đồ chúng lên đến 1,500 người. Nam Xương Chung Vương hộ trì, nguyện tôn làm thầy nhiều đời. Năm Thiên Phúc Nhâm Tuất thứ hai đời Đường, vào ngày 3 tháng giêng, sư hỏi thị giả: “ Hôm nay là ngày gì?”. Đáp: “Ngày mùng 3”. Sư nói: “Ba mươi năm sau chỉ nên gọi ta là căn gốc”. Nói xong thì hóa, thụy là Hoằng Giác thiền sư, tháp tên là Viên Tịch.

Bài tán:
Cơ phong không câu thúc
Chí khí luôn cương trực
Mây vương đỉnh núi xanh
Tuyết rơi đầy chén bạc.
Kẻ là đại xiễn đề
Chỗ khởi thành hiếu dưỡng
Ngọc đi thì châu lại
Con mắt cùng tỏ thông*
……………………
*Mục bất năng lưỡng thị nhi minh, nhĩ bất năng lưỡng thính nhi thông 目不能兩視而明, 耳不能兩聽而聰 (Khuyến học 勸學) Mắt không thể cùng nhìn hai bên mà trông rõ, tai không thể cùng nghe hai điều mà hiểu thông.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 17 tháng 2, năm 1984

Thần cơ phóng túng biến thông
Chiết phục ngoại đạo chánh tông quy về
Sẳn Phật tánh, đại xiển đề
Người hèn kém cũng trọn bề thiện căn
Vân Cư trụ trì độ tăng
Chung vương xưng tán thế nhân  nương nhờ
An nhiên đứng giữa gió mưa
Pháp đăng, y bát kế thừa ngàn năm.

3.13Tuyết Phong Nghĩa Tồn Thiền Sư

Sư họ Tăng, người đất Nam An, Tuyền Châu. Sư đến sư Đức Sơn tham học, hỏi: “Người học theo tông thừa có phần hay chẳng có phần?”. Sư Đức Sơn đánh cho một gậy, hỏi: “Đạo là gì?”. Sư nói: “Không hiểu.” Sáng hôm sau lại thỉnh ý. Sư Đức Sơn nói: “Tông của ta không lời, thật không có một pháp gì để trao cho người”. Về sau ta nghe sư Nham Đầu nói: “ngày sau muốn truyền đại giáo thì luôn luôn phải từ tâm mình lưu xuất. [Nếu được vậy] thì tương lai đối với ta có thể che cả trời đất”. Sư ngay lời này liền đại ngộ, liền lạy tạ, kêu lên: “Sư huynh, hôm nay mới thật được thành đạo tại Ngao Sơn.” Lại tham kiến sư Động Sơn. Sư Động Sơn nói: “Theo nhân duyên thì ông hợp với sư Đức Sơn”. Sau sư trở về đất Mẫn (Phúc Kiến), khai pháp Tuyết Phong. Năm Khai Bình thứ hai đời vua Thái Tổ nhà Hậu Lương (907-923), vào ngày 2 tháng 5 sư thị tịch. Vua Ý Tông ban áo ca sa tía, hiệu là Chân Giác Đại Sư.”

Bài tán:
Có anh, có em
Như khảy đàn sắt
Trên đỉnh Ngao sơn
Động địa kinh thiên
Vượt qua phàm thánh
Điên đảo anh hiền
Hai tông chân bước
Con cháu nối truyền.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 18 tháng 2, năm 1984

Tuyết Phong Nghĩa Tồn cao chí khí
Gậy Đức Sơn nào có tránh đâu.
Chẳng lập ngôn thuyết, lời, câu
Há còn châm chước, nông sâu so lường.
Tự tánh lộ bày chân thật nghĩa
Ngao đầu kia độc chiếm dũng nhân
Phong ba điên đảo đất bằng
Trên trời dưới đất khí thần thanh cao.

3.14 Đồng An Đạo Phi Thiền Sư

Sư khai pháp tại chùa Đồng An, Hồng Châu núi Thê Phụng. Không ai biết sư là người ở đâu.
Có một vị tăng hỏi: “Gia phong của hòa thượng là gì?”.
Sư nói: “Gà vàng về trời ôm con
Hoài thai thỏ ngọc nhập dòng tử vi”
Lại hỏi: “Hốt nhiên có khách đến nhà thì phải làm sao?”
Đáp: “Sớm mai vượn hái quả vàng
Ngọc hoa phượng ngậm chiều tàn hồi quy”.
Sư thị tịch. Tháp dựng tại chùa, trước chùa khoảng vài dặm đường.

Bài tán:
Ngọc thố hoài thai
Dưỡng dục gia phong
Tôn quý chẳng giữ
Giai cấp nào còn

Ngàn thánh mê mờ
Vạn cơ chớ tạo
Thê Phụng rạng tông
Tiếp trước mở sau.
…………………………
* Thông võng 惘. ◇Luận Ngữ 論語: Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi 學而不思則罔, 思而不學則殆 (Vi chánh 為政) Học mà không suy nghĩ thì mờ tối, suy nghĩ mà không học thì nguy hại.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 1 tháng 3, năm 1984

Chẳng rõ thiền sư tự chốn nào
Đồng An giáo hóa độ trần lao
Gà vàng bay tận trời cao vút
Thỏ ngọc tông nhà Tử Vi sao
Vượn hái đào tiên thôi đói khát
Phượng ngậm hạnh hoa giải não sầu
Tiếp trước mở sau hoằng chánh đạo
Nhiếp phàm quy thánh nhập diệu môn.

3.15 Vân Môn Văn Yển Thiền Sư

Sư họ Trương, người Gia Hưng, bản chất minh mẩn, trí tuệ biện tài, theo sư [Chí] Trừng xuống tóc xuất gia. Lúc đầu sư đến tham yết Mục Châu. Hỏi: “ Việc riêng chưa sáng tỏ, xin Thầy chỉ cho thấy”. Sư Mục Châu mở cửa nhưng khi thấy sư thì liền đóng ngay lại. Sư gõ cửa ba lần như vậy. Đến ngày thứ ba, sư Mục Châu mở cửa, sư liền sấn ngay vào. Sư Mục Châu giữ lại, nói: “Nói mau, nói mau.” Sư còn đang suy nghĩ thì sư Mục Châu đuổi ra, bảo : “Ôi, cái khoan cùn đời Tần”. Nói rồi liền đóng cửa lại. Một chân Sư bị thương, ngay đó liền đại ngộ. Lại chỉ đến tham học với sư Tuyết Phong. Sư đến gặp, sư Tuyết Phong vừa nhìn thấy sư liền hỏi: “Đến đây làm gì?’. Sư liền đê đầu lễ, từ đó rất hợp ý. Sau đó khai pháp tại Vân Môn, các phương xưng tán là Vân Môn Tông. Tháng tư năm Can Hòa thứ bảy, sư thị tịch. Tháp dựng tại Linh Thụ, thụy là Đại Từ Vân Khuôn Chân Hoằng Minh Thiền Sư.

Bài tán:
Vừa bước đến Mục Châu
Liền bị gãy một chân
Lời gởi nơi đầu núi
Chấn động núi Tượng Cốt.
Là Thầy, chỗ nương nhờ
Như sâu ở trong cây
Vân Môn khắp thiên hạ
Giáo đạo ngọn cờ bay.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 9 tháng 3, năm 1984

Tổ Vân Môn thí cam lồ
Cứu người truyền pháp, mê đồ dưới trên
Trí tuệ hùng biện cầu riêng
Từ bi hỷ xả ứng duyên cơ người
Chân trong cửa đóng, ngộ rồi.
Oai nghi đảnh lễ vì lời được nghe
Tận vị lai, giáo pháp ân
Cổ kim chẳng dễ mấy lần gặp ai.

3.16 Huyền Sa Sư Bị Thiền Sư 

Sư họ Tạ, người huyện Mân, Phúc Kiến. Sư đến tham yết sư Tuyết Phong. Sư Tuyết Phong thấy khổ hạnh của sư nên gọi là đầu đà. Một hôm sư Tuyết Phong hỏi: “Cái gọi là đầu đà ấy là gì vậy?”. Sư đáp: “Thực không dám dối gạt người”. Ngày hôm sau sư Tuyết Phong lại gọi sư hỏi: “Sư Bị đầu đà, tại sao không tham yết khắp chốn?”. Sư đáp: “Đức Đạt Ma không đến Đông thổ, nhị Tổ không đến Tây thiên.” Sư Tuyết Phong cho là phải. Mỗi khi nói đến Sư Bị Đầu Đà thì xem như là một Huyền Sa xuất thế. Một hôm sư cho người mang thư đến cho sư Tuyết Phong, sư Tuyết Phong mở ra thì chỉ thấy ba tờ giấy trắng. Sư Tuyết Phong hỏi vị tăng đưa thư: “Hiểu không?”. Thưa: “Không hiểu”. Sư Tuyết Phong nói: “Chưa thấy đạo thì người quân tử dù đi trên ngàn dặm cũng chẳng khác một luồng gió mà thôi”. Vị tăng trở về thuật lại. Sư nói: “Lão già ở đầu núi này qua rồi mà chẳng biết”. Năm Khai Bình thứ hai đời Hậu Lương, sư thị tịch, thọ 70 tuổi. hạ lạp 44 năm. Tháp do một vị tướng tại đất Mân dựng.

Bài tán:
Giấy trắng vừa dâng
Thư nhà tin thông
Cha hiền con thảo
Như không hợp không.
Huyền Sa cọp dữ
Nêu ra tông phong
Người ba thứ bệnh
Mù điếc ngọng câm.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 15 tháng 3, năm 1984

Trụ trì Phật pháp đầu đà
Tây thiên đông độ ma ha hóa hoằng
Hiếp tôn giả, ngồi chẳng nằm
Y không cất chứa, nhãn căn hợp hòa
Trang thư trắng, ngàn dặm xa
Biện tài vạn quyển cũng là Không thôi
Khác thường chân tướng rồng, voi
Chúng sinh nương tựa trau dồi Ba La.

3.17 Cổ San Hưng Thánh Quốc Sư

Sư họ Lý, thời Đại Lương, từ nhỏ đã không thích mùi thịt cá, lòng ưa thích khi nghe tiếng chuông chùa và tiếng kinh kệ. Năm 12 tuổi chợt thấy có luồng khí trắng hiện ra chỗ sư ngồi. Sư liền đề một bài kệ trên tường:

Khí trắng từ đâu mau sửa đổi
Dừng ngay việc hiển hiện điềm yêu
Định trừ tà hạnh quy chân kiến
Hẳn nhiên nhập thánh, cõi phàm siêu.

Viết xong bài kệ, luồng khí trắng tan mất. Năm 15 tuổi lại mộng thấy một vị Phạm Tăng đến bảo: “Thời kỳ xuất gia đã đến”. Sư liền theo sư [Đạo] Quy ở núi Bạch Lộc xuống tóc. Sư tham kiến sư Tuyết Phong, sư Tuyết Phong kéo lại hỏi: “Là cái gì?”. Sư hốt nhi ên ngộ đạo, buông được vọng tâm, chỉ xua tay. Sư Tuyết Phong biết sư đã ngộ nên ấn chứng. Sau đó vua đất Mân dựng chùa Dũng Tuyền mời sư trụ trì, tặng hiệu là Hưng Thánh, truyền pháp lâu dài.

Bài tán:
Đến thẳng nơi pháp hội
Mũi tên vút Tân La
Có đường lên trên trời
Một khi năng cọ mài
Chẳng nhảy qua cửa đá
Cứu cánh làm việc gì?
Đường hiểm rền sấm sét
Ngàn xưa vẫn còn đây.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 17 tháng 3, năm 1984

Thấy quái chẳng quái quái tự dừng
Khí trắng mấy luồng mê hoặc tâm
Tà chánh họa phúc đều chẳng kể
Thị phi cong thẳng há suy tầm.
Phạm tăng báo mộng thời khắc đến
Tuyết Phong tông chỉ chớ phóng tâm
Dũng Tuyền, Cổ Sơn thuyết pháp chủ
Hư không thế giới mặc thong dong.

3.18 Đồng An Quan Chí Thiền Sư 

Sư xuất thân đất Hồng Châu, Đồng An, không rõ tên họ là gì. Lúc sắp thị tịch sư thăng đường nói:

“Trước tháp đông con giòng giống đẹp
Năm ông trước núi sự ra sao?”.

Ba lần nêu ra như trên nhưng không ai ứng đối được. Sư tự nói:

“Bên rèm trăng sáng xếp thành hình
Muôn dặm nghe câu hát thái bình”.

Lại nói: Phải như lừa thì mới được.

Bài tán:
Tơ buông ngàn thước
Rồng độc nay hiện
Cấm điện sâu kín
Ngựa sắt chuông vàng.
Gia phong hưng khởi
Trang sách hoằng thông.
Là người như lừa
Chỉ tây nói đông.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 18 tháng 3, năm 1984

Đã không có họ cũng không tên
Đồng An Quán Chí há thật danh
Năm lão nhiều con nên đa sự
Tự thuở còn thơ vốn ít lời.
Vượt hẳn muôn người thâm diệu lý
Hỏi đáp đông tây ẩn đạo nguyên
Thiền sư sau trước truyền tâm ấn
Đối cơ thuyết pháp diễn hư huyền.

3.19 Song Phong Quảng Ngộ Thiền Sư 

Sư húy là Cảnh Khâm, họ Vương, người đất Ích Châu, Tây Thục. Thuở nhỏ xuất gia tại chùa Hắc Thủy, núi Nga My. Năm 21 tuổi thọ giới cụ túc, tham kiến khắp nơi, sau đến tham kiến sư Vân Môn, cơ duyên khế hợp nên được ấn chứng. Bấy giờ họ Lưu đã chiếm Lĩnh Nam, vùng này lại rất chuộng Phật giáo. Các thiền sư như Linh Thụ Tri Thánh, Vân Môn, Khuông Chân – trong đó có sư – đều được người đương thời tôn kính. Vua Nam Hán là Lưu Thịnh thường mời sư đến tham vấn Phật pháp, rất vừa ý nên ban tặng sư áo ca sa. Khoảng đầu niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ hai (977) ngày 21 tháng 2, sư và các môn đồ trò chuyện thâu đêm, sau đó thắp hương, chắp tay mà hóa. Sư hoằng pháp được 62 năm, thọ 82 tuổi. Tháp dựng tại nơi sư tu hành, táng toàn thân. Đến năm Đại Trung Tường Phù thứ 9 (1016) cửa tháp vỡ, nhục thân của sư vẫn như lúc còn sống. Môn đồ nghinh thỉnh đặt tại núi Song Phong, dân chúng địa phương sùng bái, đều cho là linh hiển.

Bài tán:
Nga My thoát tục
Kiên trì giới Phật
Sinh tử đại sự
Lễ khắp danh đức.
Phủ phục Vân Môn
Cuồng tâm liền tuyệt
Thân tại Song Phong
Ngàn sau bất diệt.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 30 tháng 3, năm 1984

Nga My đạo tràng Phổ Hiền
Sinh anh tài tụ khí thiêng khác thường
Văn chương võ nghệ tuyệt luân
Siêu phàm mộ đạo thánh tăng nhân từ
Hoằng giáo Quảng Ngộ thiền sư
Già Na tôn giả giải trừ oan khiên
Song Phong thờ nhục thân thiêng
Từ thuở quá khứ lưu truyền vị lai.

3.20 Hương Lâm Trừng Viễn Thiền Sư 

Sư họ Thượng Quan người đất Miên Trúc, Hán Châu. Lúc còn ở trong chúng đến tham kiến sư Vân Môn. Một vị tăng hỏi: “Nhìn kìa, một căn nhà của dân bị cháy”. Sư hỏi: “Cháy ở đâu?”. Đáp: “Không thấy a?”. “Không thấy”. Vị tang nói” “Ôi, đồ mù”. Lúc đó mọi người trong chúng đều cho rằng sau sư cũng sẽ chẳng làm nên việc gì. Lúc bấy giờ có một người tên là Giá Khoan nghe chuyện liền than rằng: “Người này thật đáng là sư huynh của ta, sau tất được đạo vậy.” Sau đó sư đến làm phương trượng tại Hương Lâm viện ở Thanh Thành Tứ Xuyên. Một vị tăng hỏi: “Phận sự của người tu là gì?” Đáp: “Tháng chạp lửa thiêu núi”. Lúc sắp thị tịch sư gởi lời từ biệt tri phủ Tống Công Đang, nói: “Lão tăng sắp đi đây”. Vị thông pháp hỏi: “Ông cuồng sư này, đã 80 tuổi còn đi đâu nữa?” . Lại nói: “Bậc thiện tri thức thì đi hay ở đều tự tại”. Sư n ói với đồ chúng:“Lão tăng tứ thập niên phương đả thành nhất phiến.” Nói xong thì hóa, tháp dựng tại núi nơi sư tu hành.

Bài tán:
Một câu kinh người
Đặt bày khôn lường
Thêm bạn đồng học
Thêm tuyết trên sương.
Bốn mươi năm đi qua
Vẫn chưa hết lắm lời
Công tựu thành một phiến
Chim Quy hót ra máu.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 31 tháng 3, năm 1984:

Trà trộn phàm phu ít người hiền
Trọn ngày chung đụng cơ duyên chẳng gần
Mù không thấy lửa cháy lan
Trời lạnh không ngại gọi hàng hiền nhân
Bốn mươi năm thành một lần
Tám vạn tiền kiếp như bằng ba tăng
Bước chân về cõi Tịch Quang
Trống chiều chuông sớm vang vang diệu kỳ.

3.21 Địa Tạng Quế Sâm Thiền Sư

Sư họ Lý, người đất Thường Sơn, Chiết Giang. Tham vấn sư Huyền Sa. Sư Huyền Sa hỏi: “Ba cõi duy tâm, ông hội thế nào?”. Sư chỉ chiếc ghế, hỏi: “Hòa thượng gọi vật ấy là gì?”. Sư Huyền Sa bảo: “Là cái gh ế dựa.” Sư nói: “Hòa Thượng không hội ba cõi duy tâm.”Sư Huyền Sa lại nói: “Ta nói vật ấy làm bằng tre gỗ. Ông nói nó làm bằng thứ gì?” Sư đáp: “Quế Lâm tôi cũng nói nó làm bằng tre gỗ.” Sư Huyền Sa nói: “ Khắp đại địa không dễ gì tìm được một người hiểu Phật pháp.” Sư nghe xong thì thông suốt, chẳng còn nghi hoặc. Sư khai pháp tại viện Địa Tạng. Năm Thiên Thành thứ 3 (928) đời Hậu Đường (923-936), vào mùa thu, sư có chút bệnh, vài ngày sau thì an tọa mà hóa, đệ tử hỏa táng thu xá lợi, dựng tháp nơi phía Tây của viện, thụy hiệu là Chân Ứng thiền sư.

Bài tán:
Không chân mà bước
Ba cõi duy tâm
Buông nắm giữa đời
Dọc ngang vô ngại.
Trồng lúa được cơm
Khắp nơi tôn quý
Địa Tạng Cổ Phật
Ánh sáng còn đây.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 5 tháng 4, năm 1984:

Ba cõi duy tâm dựng hội nào
Ghế ngồi, nhánh trúc cũng vào giả danh
Ông theo như vậy lìa toan tính
Tôi tuyệt suy tư, tận ngữ ngôn.
Vô tri kỷ, đại địa hư không
Ai nghe mà biết, mênh mông vi trần
Thiền sư thắp sáng ứng, chân
Môn đồ tứ chúng bước lần theo sau.

3.22 Trùng Hú Tuệ Ngộ Thiền Sư 

Sư họ Hà, người Phúc Châu. Từ nhỏ đã không ăn thịt cá, có ý nguyện xuất gia nên đến Cổ Sơn theo quốc sư Thần Yến xuống tóc, đắc pháp được thọ ký hành pháp tại Cổ Sơn. Niên hiệu Hiển Đức, đời Hậu Chu (951-960) sư theo lời mời của vua trụ trì chùa Quang Mục. Một hôm có một vị tăng hỏi: “ Thế nào là đại đạo?”. Sư nói; “Ta không có tiểu đạo”. Lại hỏi: “Thế nào là tiểu đạo?”. Đáp: “Ta không biết đại đạo”. Sau sư trụ tại chùa Khai Tiên ở Lư Sơn. Vãn niên lại trụ tại chùa Tịnh Đức ở Kim Lăng, đồ chúng quy tụ nghe pháp rất đông, tiếng tăm vang xa.

Bài tán:
Thiếu thời được nhập thất
Phá tan cánh cửa đá
Một câu vừa thốt ra
Vạn sự đều hanh thông.
Đường xa hay lối gần
Bước bước vương bụi trần
Tôi không hề biết có
Sư tử lại rên than.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 6 tháng 4, năm 1984:

Chưa mê bản tính không thịt, cá
Thoát tục ly trần chẳng tranh hơn
Trèo lên núi Cổ nhập sư thất
Ứng theo thế chủ mở pháp môn.
Có không lớn nhỏ đều hý luận
Chân ngụy thực hư lạc văn ngôn
Hàng tâm ly tướng vô sở chấp
Muôn vật khoe tươi đẹp nét xuân.

3.23 Hoàng Long Hối Cơ Thiền Sư 

Sư họ Trương, người Thanh Hà, thừa kế thiền sư Huyền Tuyền [Sơn] Ngạn làm thầy. Sư hỏi: ”Ý nghĩa của việc tổ sư từ Tây Trúc đến đây là gì?”. Sư Huyền Tuyền cầm một quả bồ kết (tạo giác: sừng đen) đưa lên, hỏi: “Hiểu không?”. Đáp: “Không hiểu”. Sư Huyền Tuyền bỏ xuống, nói: “Quả bồ kết dùng để giặt quần áo”. Sư cúi lạy, nói: “Tin biết Phật pháp không sai khác”. Sư Huyền Tuyền hỏi: “Ông thấy được gì?”. Đáp: “Con từng thưa hỏi sư Nham Đầu, sư Nham Đầu bảo: [Ông trở lại giải cứu chổ vướng mắc chăng?], giải cứu vướng mắc ấy cũng là tháo gỡ trói buộc. Hòa thượng vừa đưa ra quả bồ kết cũng là giải cứu chỗ trói buộc, thế mới biết đạo không có khác”. Sư Huyền Tuyền cười lớn, sư có chỗ tỉnh ngộ. Có người hỏi: “hai đầu cùng hợp, thỉnh sư giải rõ”. Sư đáp ”Đốt đai quần có thơm chăng?”. Hỏi: “Lúc gió yên sóng lặng là thế nào?”. Đáp: “Đầu sào trăm thước, dù thêm năm lạng cũng phải theo”.

Bài tán:
Phật pháp vốn không khác
Ha ha, giữ yếu chỉ
Chén bát bằng lưu ly
Tháo mở thì vào được.
Đốt đai thương tiếc hương
Ông nóng nảy, ta cười
Sóng yên vì gió lặng
Ai người đến buông câu?.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 7 tháng 4, năm 1984:

Tây lai có ý nghĩa chi
Đưa quả bồ kết, hiểu gì nói ngay
Giặt quần áo sạch mỗi ngày!.
Bái tạ pháp thí đức dày ân thâm
Phá mở trói buộc minh tâm
Phản hoàn nguyên bổn thiên chân thấy liền
Gắng công khiến sóng gió yên
Đầu sào trăm thước chớ nên biếng lười.

3.24 Lương Sơn Duyên Quán Thiền Sư

Sư trụ ở Lương sơn, Lãng Châu, không rõ sư họ gì, thường đăng tòa, nói:

Tơ buông ngàn thước
Ý tại đầm sâu
Một câu vang trời
Mây trắng khác thường.
Thuyền đơn tự chèo
Chẳng khua sóng trong
Đi ngang qua biển
Hiếm gặp ấn chứng.

Một vị tăng hỏi: “Sư xiển dương nhà nào, thừa tự tông phong nào?”. Đáp: “Rồng sinh rồng con. Phượng sinh phượng con”.

Bài tán:
Có tả cũng không thành
Có vẽ cũng không xong
Thong thả như sấm chớp
Nhanh chóng như dòng sông.
Đổi sách hay xuyên mành
Tay cầm sao Bắc Đẩu
Một khúc hát vô sanh
Sóng nước diễn thần chú.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 29 tháng 5, năm 1984:

Lời cao vắng kẻ tri âm
Lẻ loi, vò vỏ nhận thầm đắng cay
Ngang trời áng pháp vân bay
Thuyền đơn sóng nhẹ một tay khua dầm
Cửa Không pháp lớn voi rồng
Lão tôn bể giáo ví dòng phụng lân
Chúng tinh chánh vị Bắc thần
Cổ kim rạng rỡ một vầng chiếu soi.

3.25 Trí Môn Quang Tộ Thiền Sư

Sư trước trụ tại Bắc Tháp, sau về Trí Môn. Một vị tăng hỏi: “Thể của bát nhã là gì?”. Đáp: “như con trai ngậm vầng trăng sáng.” Lại hỏi: “Gì là dụng của bát nhã?”. Đáp: “Như thỏ mang thai”. Một vị tang ghi lại khi sư thăng đường, nói: “Một câu trong thai mẹ, ngày nay cũng nêu ra như thế. Các ngươi không thể thương lượng đạo lý. Lại có người nào thương lượng được chăng?. Nếu chẳng được thì 30 năm sau cũng đừng đưa ra.

Bài tán:
Chưa ra thai mẹ
Vùng đất hứa hẹn
Đã ra thai mẹ
Thấy chùy chẳng bén.
Giữ được lông mày
Lỡ mất chóp mũi
Ba mươi năm sau
Đạo còn ghi khắc.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 31 tháng 5, năm 1984:

Thể bát nhã, nói được chăng?
Đáp: như trai ngậm vầng trăng rạng ngời
Dụng Đại Phương Quảng diệu vời
Đáp: Như loài thỏ dưỡng nuôi giống bầy
Diện mục khi chưa xuất thai
Thành tựu đạo nghiệp bản hoài là đây
Lìa công án, lướt thướt mày
Thái hư đầy ắp mũi quay lên trời.

3.26 Pháp Nhãn Văn Ích Thiền Sư

Sư họ Lỗ, người đất Dư Hàng, tham kiến sư Địa Tạng Quế Lâm. Một hôm sư từ tạ ra đi, sư Quế Lâm hỏi: “Thượng tọa nói ba cõi duy tâm, vạn pháp duy thức.”Rồi chỉ một phiến đá trước sân nói: “Nếu phiến đá kia là đạo thì ở trong tâm hay ở ngoài tâm?” Đáp: “Trong tâm”. Sư Quế Sâm hỏi: “Người hành cước dựa vào điều gì, vì sao lại đặt phiến đá trong tâm?”. Sư không đáp được, tức thì buông bọc hành lý xuống, chưa bi ết phải làm sao. Khoảng một tháng sau, sư trình kiến giải. Sư Quế Sâm nói: “Phật pháp không phải như thế”. Sư đáp: “Tôi đã tận cùng nghĩa lý”. Sư Quế Sâm nói: “Nếu luận về Phật pháp thì tất cả đều hiện hành”. Sư nhân đó đại ngộ. Sau trụ tại Kim Lăng, ba lần tọa đạo tràng. Vào tháng 7 năm Hiển Đức thứ năm, vua đích thân đến vấn an. Sư cạo tóc, tắm gội từ biệt chúng rồi kiết già thị tịch. Thụy hiệu là Đại Pháp Nhãn Thiền Sư, tháp hiệu là Vô Tướng.

Bài tán:
Một lời khuất phục
Nửa tháng độc phát
Như đất trồi lên
Như trời hợp lại.
Dựng lập tông phong
Cơ quyền sinh sát
Thiên hạ thanh lương
Lục thao tam lược*.
……………………..
*六韜三略 Binh thư do Khương Tử Nha 姜子牙 và Hoàng Thạch Công 黃石公 soạn ra.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 7 tháng 6, năm 1984:

Đầu lại thêm đầu thạch tại tâm
Cúi đầu nín lặng thậm thâm truy tầm
Buông duyên phản chiếu nguồn tâm
Hốt nhiên thông suốt chẳng mong bên ngoài.
Pháp Phật thành chẳng bởi ai
Tự tánh thanh tịnh ly khai hồng trần
Vua cảm đức, lễ tự thân
Vũ trụ hóa hiện muôn xuân hợp hòa.

3.27 Thái Dương Cảnh Huyền Thiền Sư 

Sư họ Trương, người đất Giang Hạ, Hồ Bắc. Xuất gia làm đại tang năm 19 tuổi. Tham yết thiền sư Lương Sơn, hỏi: “Thế nào là đạo tràng vô tướng?”. Thiền sư chỉ vào bức họa Bồ tát Quán Thế Âm, nói: “Đó là do Ngô Xử Sĩ vẽ.” Sư định đáp lời thì thiền sư ngăn lại, nói: “Đó là hữu tướng ư, đó là vô tướng ư?”. Sư nghe liền tỉnh ngộ, đảnh lễ. Thiền sư bảo: “Sao không nói một câu xem sao?”Sư đáp: ”Nói tức không lời, sợ lên giấy bút”. Thiền sư cười nói: “Lời này từ bia chăng?” . Sư quán sát thần sắc của thiền sư thật hung tráng mặc dù tự thuở bé thơ chỉ ăn ngày một buổi”. Sư trụ tại Thái Dương, chân không đi quá xa, suốt 50 năm hông không chạm chiếu. Vào ngày 19 tháng 7 năm Thiên Thánh thứ năm đời vua Tống Nhân Tông (1027), sư gởi bài kệ cho quan thị lang Vương Lược:

Tôi nay tám mươi lăm
Nhân tu đến thế ấy
Nếu hỏi sẽ về đâu
Tướng đảnh trọn khó thấy”.

Sư dừng bút và hóa, tháp dựng tại núi xưa.

Bài tán:
Đạo tràng vô tướng
Nơi nào chẳng thấy
Chẳng xoay mà chuyển
Liền vượt phương tiện.
Sợ lên giấy bút
Khắc văn trên bia
Vào giữa đêm nay
Riêng mặt trời hiện.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 8 tháng 6, năm 1984:

Như nhiên vô tướng đạo tràng
Lòng người chấp cứng nguy nan chỗ này
Lừa cơn khát, mơ rừng mai*
Bánh vẽ đỡ dạ, dối bầy trẻ con
Sợ lạc văn tự, tuyệt ngôn
Giữ gìn khuôn phép chén cơm đúng thời
Khó nhìn thấy tuổi tám mươi
An tọa mà hóa khắp nơi trùng trùng.
…………………………………………
* Lấy tích Tào Tháo lừa quân sĩ trong cơn khát nước bằng cách bảo rằng đi thêm vài dặm đường sẽ gặp một rừng mai.

3.28 Tuyết Đậu Trọng Hiển Thiền Sư 

Sư họ Lý, người đất Toại Ninh. Thuở còn trẻ thâm hiểu kinh, biện luận sắc bén ít người sánh kịp. Sư tham yết sư Trí M ôn, hỏi: “Không khởi một niệm thì có lỗi gì?”. Sư Trí Môn gọi  sư lại gần. Sư vừa bước đến thì sư Trí Môn dùng phất trần đánh vào miệng sư. Sư định mở miệng thì lại bị đánh nữa. Sư hốt nhiên khai ngộ.
Sư trụ tại Thúy Phong, sau lại về trụ tại Tuyết Đậu. Một vị tăng hỏi: “Bản nguyên của chư Phật là gì?”. Đáp: “Ngàn ngọn núi lạnh”. Hỏi: “Chưa rõ được chỗ hướng thượng, có sự [pháp môn] gì hay chăng?”. Đáp: “Giọt mưa đọng trên hoa ngoài hang núi”. Ngày 7 tháng 7 sư tắm gội, thay áo, ngồi quay đầu về hướng Bắc, an nhiên mà hóa. Tháp táng toàn thân, dựng nơi phía Tây chùa. Thụy hiệu là Minh Giác Đại Sư.
Bài tán:

Một niệm chẳng khởi
Con mắt trần mê
Hốt nhiên bị đánh
Hang lạnh xuân về.
Mặt trời xuất hiện
Khôn lường đại nhân
Trăng thu Động Đình
Sáng như dòng bạc.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 9 tháng 6, năm 1984:

Cơ phong minh mẫn biện tài
Không khởi một niệm chẳng hay lỗi gì?
Gọi đến đánh liền một khi
Còn suy nghĩ khó thoát nghi cột xiềng.
Chập chùng núi lạnh lặng yên
Hoa tươi mưa điểm trên triền động xa
Động Đình một bóng trăng ngà
Vốn hàng kiệt xuất gọi là trượng phu.

3.29 Thiên Thai Đức Thiều Quốc Sư 

Sư họ Trần, người đất Long Tuyền, Xử Châu, từng tham vấn 54 vị thiện tri thức, sau đến Kim Lăng yết kiến thiền sư Pháp Nhãn. Sư Pháp Nhãn vừa nhìn thấy biết là bậc pháp khí. Khi sư Pháp Nhãn thượng đường, một vị tăng hỏi: “Thế nào là giọt nước nguồn Tào?”. Sư Pháp Nhãn đáp: “Là giọt nước nguồn Tào”. Vị tăng ra vẻ không hiểu, nhưng sư ở dưới tòa nghe được liền đại ngộ, tất cả những nghi hoặc trước kia đều như băng tan. Sư liền đem chỗ ngộ thưa với sư Pháp Nhãn. Sư Pháp Nhãn nói: “Ông về sau sẽ là thầy của hàng quốc vương, làm rạng rỡ đạo của chư Tổ. Ta thật không sánh kịp”. Sư về núi Thiên Thai, tìm những di tích của Trí Giả Đại Sư (538-597), ở lại chỗ đại sư cư trú ngày xưa. Tại đây, sư đề bài kệ:

Trên đỉnh rõ diệu huyền
Chẳng tại nơi nhân sinh
Ngoài tâm không một pháp
Mắt nhìn khắp núi xanh.

Sư Pháp Nhãn đọc bài kệ này, nói: “Như bài kệ này thì có thể dựng được tông phong của ta.” Năm Khai Bảo thứ 5, sư tập họp đồ chúng, tạm biệt rồi an tọa thị tịch. Tháp dựng tại núi xưa.

Bài tán:
Làm thầy quốc vương
Thọ ký Thanh Lương
Một giọt Tào Khê
Tràn đầy đại địa.
Đồi hoa phía trước
Cao Ly tuệ nhật
Tiếp cận Vĩnh Minh
Gương tông hiện thực.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 10 tháng 6, năm 1984:

Tham cầu tri thức khắp vùng
Pháp Nhãn khí trọng chậm chân hận lòng
Tào Khê một giọt nước trong
Dứt liền nghi hoặc chất chồng non xanh
Làm thầy hoàng đế xiển minh
Trời người, các chốn quần sinh giáo truyền
Phá tăm tối, tông cao huyền
Lìa xa tình ái, hiện tiền chánh tri.

3.30 Kim Lăng Pháp Đăng Thiền Sư 

Sư người đất Ngụy Phủ, sư không học mà biết đạo, biện tài vô ngại, được vào cửa pháp của sư Pháp Nhãn. Sư thượng đường, nói: “Ta vốn muốn ẩn trong núi rừng để che dấu chỗ vụng về cùng dưỡng bệnh qua ngày, nhưng hiềm vì tiên sư có lưu lại một công án chưa phân tỏ, nay mang ra cùng người”. Một vị tăng hỏi: “Công án tiên sư lưu lại chưa phân tỏ là gi?.” Sư liền đánh và nói: “Tổ phụ không tỏ, họa cho con cháu”. Hỏi: “Lỗi tại nơi đâu?”. Sư đáp: “Lỗi tại nơi ta mà lụy sang đến ngươi đó”. Vua nghe kể liền cho người hỏi sư: Công án tiên sư lưu lại chưa phân tỏ là gi?.” Đáp: “Hiện phân tích”. Một vị tăng lại hỏi: “Mật ý của Tổ sư từ Tây Trúc đến là gì?”. Đáp: [Diệt] khổ. Lại hỏi: “Đại ý Phật pháp là gì?”. Đáp: “Hãy hỏi tiểu ý, từ đó sẽ biết được đại ý.

Bài tán:
Chuông vàng treo cổ cọp
Sư buộc thì sư mở
Trăm hình hài, một vật
Hai tranh thì một được.
Đại ý của Phật pháp
Quên đạo lý ngàn xưa
Tổ phụ chẳng tường tận
Phân tích hiện tại chưa.

Kệ: 
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 14 tháng 6, năm 1984:

Sinh ra biết túc mạng thánh nhân
Biện tài bát nhã không ngăn tu hành
Thân đạm bạc chốn rừng xanh
Thượng đường hoằng giáo xiển minh pháp thiền
Biện bạch chẳng tận hiện tiền
Tháo mở trói buộc một miền rong chơi
Oan ương con cháu để đời
Chưa thông tự ngã, dừng thời chẳng nên.

3.31 Đầu Tử Nghĩa Thanh Thiền Sư 

Sư họ Lý người đất Thanh Xã, thuở nhỏ nghe kinh, khi nghe kinh Hoa Nghiêm đến câu: “Tự Tánh Tức Tâm” hốt nhiên tỉnh ngộ. Sư tham kiến sư Phù Sơn Viên Giám. Lúc bấy giờ sư Viên Giám mộng thấy được chim ưng rất đẹp nên nuôi dưỡng. Sư Viên Giám lại bảo sư nghiệm về câu chuyện ngoại đạo vấn Phật về vô ngôn và hữu ngôn. Ba năm sau sư Viên Giám hỏi: “Ông thấy được thoại đầu ấy chăng?”. Sư toan đáp thì sư Viên Giám liền chặn miệng sư lại. Sư khai ngộ, liền đảnh lễ. Sư Viên Giám nói: “Nay ngươi đã khế hợp được huyền cơ rồi đó”. Sư đáp: “Chỗ có được đã nhả ra ngay tại chỗ”. Suốt ba năm sau mỗi khi sư Viên Giám nói đến tông chỉ Tào Động thì sư liền hiểu dễ dàng, sáng như mặt trời hiện trên đỉnh núi. Sư Viên Giám nói: “Ông thay ta nối tiếp tông phong Tào Động, không nên lưu lại đây”. Sư trụ tại núi Đầu Tử, sau đi về Hải Hội, chỉ mặc áo cũ, không giữ vật gì quý giá. Năm Nguyên Phong Quý Hợi, vào tháng 5 đời vua Tống Thần Tông sư thăng đường để lại bài kệ và thị tịch, đồ chúng hỏa táng thu xá lợi năm màu, táng tại am Tam Phong.

Bài tán:
Mộng gặp chim ưng xanh
Trời sinh thân tuấn tú
Đạp ngã cả Phù Sơn
Dập tắt ánh mặt trời.
Lưỡi sấm gió cuồn cuộn
Luyện thánh, rèn đúc phàm
Chan hòa ánh xuân tươi
Khúc hát rung động trời.
……….
*Kinh đô nước Sở 楚 ngày xưa, nay thuộc về địa phận tỉnh Hồ Bắc.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 16 tháng 6, năm 1984:

Thi kinh vào được cửa Không
Chân tông tự tánh tức tâm, ngộ rồi!
Ngoại đạo hỏi Phật không lời
Bên trong sáng tỏ miệng người lặng câm.
Phát huy Động Thượng núi xuân
Như mưa hoa, pháp Phù Sơn nồng nàn
Lìa chấp trước, thánh siêu phàm
Tiêu diêu khoái lạc chẳng màng ngữ ngôn.

3.32 Thiên Y Nghĩa Hoài Thiền Sư

Sư họ Trần người đất Vĩnh Gia, Ôn Châu Lạc Thanh, tham yết sư Minh Giác (Tuyết Đậu). Sư Minh Giác bảo: “Như thế cũng chẳng được. Không như thế cũng chẳng được. Như thế, không như thế cũng chẳng được”. Sư định đáp thì sư Minh Giác đánh đuổi ra. Cả đến bốn lần đều như vậy. Lại khiến sư gánh nước, bửa củi. Sư chuyên tâm tu, chợt có chỗ ngộ, liền trình kệ:

Một hai ba bốn năm sáu bảy
Một mình trên đỉnh* núi lam
Minh châu quyết đoạt dưới hàm ly long
Một câu khám phá Duy Ma Cật.

Sư Minh Giác nghe xong, vỗ vào ghế tán thán. Sau đó sư trụ bảy nơi, hoằng pháp trong nước. Lúc sư sắp tịch, môn đồ hỏi: “Pháp cứu cánh là gì?”. Sư đưa nắm tay lên, nằm xuống buông chiếc gối mà hóa. Tháp dựng tại phía Đông chùa, táng toàn thân. Đời vua Tống, Sùng Ninh ban thụy hiệu là Chấn Tông thiền sư.
……………………
*Nhận, nhà Chu 周 định 8 thước là một nhận (chừng sáu thước bốn tấc tám phân bây giờ).

Bài tán:
Gánh nước chẳng dễ
Bửa củi cũng khó
Đoạt được minh châu
Tùy thuận chạy quanh.
Núi đồi thơ thẩn
Dựng cột làm chùa
Thuyền đi trên đất
Sóng gợn mấy vòng.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 28 tháng 11, năm 1984:

Dáng này kiểu nọ bất truyền
Gậy [kim cang] hét phá liền mối nghi
Đoạt châu, tháo gỡ, trình thi
Lời vàng chuyển đạo xưa nay mật huyền
Môn nhân hỏi đạo bản nguyên
Nắm tay biểu thị cơ duyên diệu kỳ
Vô bệnh an tọa hồi quy
Đốn ngộ sinh tử thoát ly buộc ràng.

3.33 Vĩnh Minh Diên Thọ Thiền Sư 

Sư họ Vương, người đất Dư Hàng, sau đến ngọn Thiên Trụ ở núi Thiên Thai yết kiến Thiều quốc sư tập tu thiền, được trọng và mật trao huyền chỉ, nói: “Ông có duyên với vị sư trước, sau này hãy đại hưng Phật pháp. Trung Ý Vương mời khai mở chùa Linh Ẩn trên núi. Năm sau đó đi về Vĩnh Minh. Một vị tăng hỏi: “Diệu chỉ của Vĩnh Minh là gì?”. Đáp: “Thắp thêm hương cho sáng tỏ”. Hỏi: “Xin sư chỉ rõ hơn”. Đáp: “Nên vui mừng vì mất tất cả giao tế”. Vị tăng lễ bái. Sư nói: Hãy lắng nghe ta nói kệ:

Muốn biết yếu chỉ Vĩnh Minh
Hãy nhìn hồ nước trước cửa
Mặt trời chiếu, hiện quang minh
Gió đưa thì sóng gợn.

Lại hỏi: “Đại viên kính là gì?”. Đáp: “Bồn cát vỡ tung”. Ngày 26 tháng 12, năm Khai Bảo thứ 8 sư thắp hương cáo biệt đồ chúng mà hóa. Tháp dựng tại Đại Từ, sau dời về Vĩnh Minh. Vua Tống thái Tông ban tặng biển ngạch là Thọ Ninh Viện.

Bài tán:
Đập vỡ bồn cát
Làm kính đại viên
Chiếu diệu càn khôn
Thấp cao đều ứng.
Hoằng khai tông môn
Bao quát thánh hiền
Mắt sông miệng biển
Tất cả là lệnh.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 4 tháng 12, năm 1984:

Thiền Tịnh như cọp mang sừng
Hồng danh Phật Tổ muôn phần chấn hưng
Ba đời pháp nhãn truyền tông
Tịnh độ chín phẩm tâm thông nối hàng
Đại viên kính rạng tuệ quang
Bản tông hiển lộ vỡ tan cát, bồn
Sóng êm phẳng lặng mặt hồ
Tác phong rạng rỡ vô cùng độc tôn.

3.34 Phật Ấn Liễu Nguyên Thiền Sư 

Sư họ Lâm, tự là Bảo Giác, người đất Phù Lương. Khi sinh ra có ánh sáng, tóc râu đều đủ. Lên 2 tuổi đã biết tụng thi thư, lúc trưởng thành lãm thông điển tịch, thường không mở sách ra hai lần. Nhân đọc kinh Lăng Nghiêm có chỗ ngộ, từ biệt cha mẹ xuất gia, lễ bái chùa Bảo Tích học kinh Pháp Hoa, thọ giới cụ túc. Sau đó yết kiến sư [Thiện] Tiêm ở chùa Khai Tiên, Lư Sơn, đối đáp sắc bén nên được khen thưởng, trở thành đệ tử nối pháp. Sư lại tham vấn sư Viên Thông [Cư] Nột. Sư Viên Thông nói: “Khí phách tương tự sư Tuyết Đậu, sẽ là hàng kiệt xuất của hậu lai”. Sư lại làm thư ký cho chùa. Sư trụ tại chùa Thừa Thiên ở Giang Châu, sau đó đến Hoài Nam, Thập Phương. Sau về chùa Khai Tiên ở Lư Sơn phát huy tông phái xưa, được bổ nhuận tại Kim Tiêu. Sau lại đến Đại Ngưỡng Vân Cư ở Giang Tây. Trong suốt 40 năm giao tiếp cùng hàng nhân sĩ đương thời. Năm Nguyên Phù thứ nhất đời Tống, vào ngày 4 tháng giêng có một người khách đến nói đã hiểu được tâm. Sư cười mà hóa, như sư Chân Chiếu.

Bài tán:
Trúng độc Lăng Nghiêm
Chết tại Khai Tiên
Răng bén ngà hung
Các phương nhức đầu.
Lấn thánh ép hiền
Vớt rồng, bắt phượng
Tả đúng như sư
Cười đời tan mộng.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 19 tháng 3, năm 1985:

Ấn thiền sư ấn Phật tâm
Đông Pha cư sĩ phương Đông nghiêng rừng
Lọt lòng râu tóc anh hùng
Lớn lên đọc tụng tinh thông điển phần
Lăng Nghiêm đại định kiên tâm
Pháp Hoa chiếu diệu kinh văn thật, quyền.
Vô sở trụ, cười qua đời
Bốn phương trên dưới tùy thời dọc ngang.

3.35 Vân Cư Đạo Tề Thiền Sư 

Sư họ Kim, người đất Hồng Châu, tham vấn các thiền hội không dừng nghỉ. Sau đó đến gặp Pháp Đăng thiền sư, cơ duyên hòa hợp. Sư có bài tụng:

“Tiếp vật lợi sinh diệu kỳ
Chủ ngoài nào có thứ gì tốt hơn
Nhà ta tự có cháu con
Tương lai hữu dụng lại còn tốt tươi”.

Sư lại bảo môn đồ: “Tổ Đạt Ma nói rằng kinh Lăng Già khả dĩ ấn tâm. Ta đọc kinh ấy, có câu kệ rằng:

“Các pháp không pháp thể
Thuyết rằng chỉ có tâm
Nếu không thấy tự tâm
Liền khởi sinh phân biệt.
Đáng là bậc cha hiền
Lời lời đều như thực.”

Một vị tăng hỏi: “Thế nào là Phật?. Sư đáp: “Ông là ai?”. Sư trụ tại ba xứ Đông Thiền, Song Lâm, và Vân Cư, sưu tập và trước tác huyền ngữ xưa, thịnh hành ở thế gian.

Bài tán:
Thế nào là Phật?
Mày tên là chi?
Tâm không thấy tâm
Xứ nào phân ly.
Dòng ngoài không giống
Đạo ta không con
Đời xưa hẳn vậy
Đại từ đại bi.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 20 tháng 3, năm 1985:

Núi Vân cao dừng chân sư tử
Đất Giang Tây long tượng đại hưng
Đạo công chiếu pháp độ tăng
Đuốc hoa kim cổ xóa tan u trầm.
Lăng Già kinh ấn tâm, khai nhãn
Bát nhã văn ly tướng, độ mê.
Từ bi hỉ xả tứ thiền
Cõi này, phương ấy khắp miền quy y.

3.36 Phù Dung Đạo Khải Thiền Sư 

Sư họ Thôi, người đất Nghi Châu. Thuở nhỏ học tịch cốc nơi núi Y Dương, sau thi Pháp Hoa kinh mà được độ. Sư tham yết sư Đầu Tử, nơi hải hội sư thưa: “Ngôn giáo của Phật Tổ như cơm nước hằng ngày, nếu ngoài những thứ này thì người và nơi chốn đều không?”. Sư Đầu Tử nói: “Ông nói đi, với các thiên tử, Nghiêu Thuấn cũng là không cả ư?” Sư định đối đáp nhưng sư Đầu Tử dùng phất trần ngăn lại, bảo: “Ông mà khởi niệm thì liền ăn 30 gậy đó”. Sư hốt nhiên khai ngộ, liền lễ bái lần nữa rồi từ tạ. Sư Đầu Tử nói: “Hãy đến chỗ xà lê”. Sư không ngoảnh lại. Sư Đầu Tử nói: “Ông hãy đến chỗ không còn nghi ngại”. Sư bịt tai, đi thẳng. Sau sư trụ tại Đông Kinh, Thiên Ninh. Sư được ban áo ca sa màu tía hai lần, và tặng hiệu là Định Chiếu thiền sư, nhưng sư đều không nhận. Ngày 14 tháng 7 năm Mậu Tuất, đời vua Tống Huy Tông, thời Trọng Hòa nguy ên niên, s ư viết kệ từ biệt đồ chúng, và thị tịch.

Bài tán:
Đạo hạnh của sư
Ngọc ẩn Kinh Sơn
Nguyện lìa danh lợi
Tán tụng chẳng cần.
Kiêu vinh ngạo quyền
Ai người chẳng thẹn
Sư biểu trong pháp
Ngàn năm tương quan.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 20 tháng 3, năm 1985:

Không thoái, nghe một ngộ ngàn
Trăm chốn vạn loại cũng bằng như như
Ba mươi gậy, khởi ngôn từ
Chẳng còn nửa chữ, suy tư tuyệt dòng
Tạ từ nhẹ bước phiêu bồng
Che tai chẳng ngó, lý thông, sự tường.
Pháp môn mẫu mực cho đời
Quy phạm, khuôn phép rạng ngời cổ kim.

3.37 Viên Chiếu Tông Bổn Thiền Sư

Sư họ Quản, người đất Vô Tích, Thường Châu, đến Trì Dương tham yết sư Thiên Y Nghĩa Hoài. Sư Nghĩa Hoài nêu câu hỏi: “Bồ tát Thiên Thân từ nội cung Di Lặc xuống trần. Bồ tát Vô Trước hỏi rằng 400 năm ở nhân gian bằng một ngày một đêm nơi cõi trời kia. Bồ tát Di Lặc trong một lúc, thành tựu cho 500 ức thiên tử chứng pháp nhẫn vô sinh, chưa rõ là pháp gì?”. Sư Thiên Thân đáp: “chỉ nói pháp ấy, pháp ấy là pháp gì?”. Sư nghe một lúc sau thì tỏ ngộ. Một hôm trong thất có người hỏi: “Tức Tâm tức Phật, lúc ấy thì thế nào?”. Sư đáp: “Giết người, phóng hỏa thì có khó khăn gì?”. Danh tiếng sư từ đó vang khắp. Tháp dựng tại Tô Châu Linh Nham, táng toàn thân.

Bài tán:
Người thuyết pháp ấy
Phạm âm thâm diệu
Tức Phật tức tâm
Chỉ một nụ cười.
Phóng hỏa sát nhân
Khảy đàn khác điệu
Vui náo cung đình
Pháp đăng tỏa chiếu.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 21 tháng 3, năm 1985:

Vô Trước hóa độ Thiên Thân
Lưỡi này hồi Tiểu, hướng căn Đại thừa
Năm ức chứng pháp vô sinh
Sáu thức thể tánh tịnh minh cũng đồng
Diệu nghĩa tiềm ẩn chưa thông
Điêu tàn thế sự, thử trông nhân tình
Kinh bốn bể, động cung đình
Đức nghiệp Tông Bổn, một vành càn khôn.

3.38 Linh Ẩn Văn Thắng Thiền Sư 

Sư thừa kế thiền sư Đạo Tề ở núi Vân Cư. Một vị tăng hỏi: “Gương xưa lúc chưa đánh bóng thì như thế nào?”. Đáp: “Là gương xưa”. Hỏi: “Sau khi đánh bóng thì thế nào?”. Đáp: “Là gương xưa”. Hỏi: “Chưa rõ về chỗ phân biệt hoặc không phân biệt”. Đáp: “Soi thì biết”. Hỏi: “Thế nào là gia phong của hòa thượng?” Đáp: “Chớ nên nghi ngờ chỗ nguyên sơ”. Hỏi: “Hốt nhiên gặp khách đến thì phải làm sao?”. Đáp: “Nên uống trà”.

Bài tán:
Gương lau chưa lau
Ai xét phân đây
Trở lại xét đoán
Hai đầu ba tay.
Chớ lạ nguyên sơ
Gia phong không khác
Khách đến tiếp đãi
Uống trà rồi đi.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 22 tháng 3, năm 1985:

Bảy Phật quá khứ Hàng Châu
Cổ đức Linh Ẩn tịnh tu ngày này
Thiền sư Văn Thắng bậc thầy
Tăng già, học giả quy lai thỉnh cầu
Chén trà mời khách, đạo sâu
Ngưỡng trông đỉnh biếc người mau tìm về
Gương tâm chiếu rạng trầm mê
Bắc Đẩu ngàn dặm bốn bề quang huy.

3.39 Đan Hà Tử Thuần Thiện Sư 

Sư họ Cổ ở Kiếm Châu. Năm 16 tuổi xuất gia, đến với sư Phù Dung và đạt được yếu chỉ. Một lần nọ sư thăng đường, nói: “Trong vũ trụ có một vật báu ẩn tại Hình Sơn. Triệu pháp sư vì sao giải nói tung tích mà không nói rõ cho người biết?. Ngày nay Đan Hà tôi mở khai vũ trụ, đập phá Hình Sơn, vì các người mà khai mở. Những người có mắt nên nắm lấy, chống giữ”. Một hôm, sư nói: “Trở lại thấy được gì chăng? Chim cốc* đứng trên tuyết thì màu sắc không đồng. Trăng sáng chiếu trên cụm hoa lau** cũng chẳng giống nó”. Mùa xuân năm Tuyên Hòa sư thị tịch, táng toàn thân, tháp dựng phía Nam núi Hồng Sơn.

Bài tán:
Nhập thất Phù Dung
Quên đường lại qua
Đập nát Hình Sơn
Không gốc mà dựa.
Vua tôi hợp đạo
Trăng lau**, chim* ẩn
Quay thuyền từ lại
Đưa người vô số.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 26 tháng 3, năm 1985:

Hai mươi tuổi tăng tìm người trí
Định tuệ trì nhập thất Phù Dung
Hình Sơn báu vật đất trời
Biển khơi nghiệp tựa mây trôi bềnh bồng
Phá chấp tướng còn đâu chỗ trụ
Tức Bồ Đề quy giác, phản mê
Ngã nhân quay chiếc thuyền về
Cùng sang bến giác chớ hề ngờ chi.
………………………………
*Lô tư 鸕鷀 chim cốc, một giống chim ở nước, lông đen mỏ dài, hơi khum khum, tài lặn xuống nước mò cá ăn.
**Lô hoa 蘆花 cỏ lau, sậy, thường mọc ở bờ nước, dùng làm mành mành, lợp nhà.

3.40 Tông Trách Từ Giác Thiền Sư

Sư họ Tôn, người đất Lạc Châu, đắc pháp với sư Quảng Chiếu, và thừa kế  Trường Lô. Một vị tăng hỏi: “Tổ Đạt Ma quay mặt vào vách, ý nghĩa như thế nào?”. Sư lặng yên một lúc, vị tăng đảnh lễ. Sư nói: “Hôm nay bị ông tăng này hỏi, tôi câm miệng”. Sư thăng đường, nói: “Đông đến tiết trời hàn thực, có một trăm lẻ năm người sống, trên đường vô số người chết. Chui đầu vào nơi gai gốc, lại bảo là chúng sinh khổ. Bái lạy xong rồi thì sao nữa?. Trên đống xương lại bồi thêm đất. Chỉ có người xuất gia, không đi trên con đường vô sinh. Này đại chúng, nên hướng về điều gì?. Nam Thiên Thai hay Bắc Ngũ Đài. Tham cứu!.

Bài tán:
Mở một mối đạo
Thiền Tịnh đối lập
Nào quyền nào thật
Ngàn thánh chẳng biết.
Đại sĩ ứng hóa
Nghịch thuận khó lường
Rừng đông lập hội
Hùng Nhĩ diện bích.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 27 tháng 3, năm 1985:

Giới Chi Thôi núi Miên hỏa táng
Âm và dương sai khác bất hồi quy.
Văn công cấm nổi lửa hồng
Người trí thuyết pháp một đồng xương khô
Xuất gia danh lợi thờ ơ
Riêng lòng siêu thoát vượt bờ bay cao
Nếu hỏi cứu cánh là đâu
Tùng xanh trúc biếc non đầu hoa mai.

3.41 Trường Lô Sùng Tín Thiền Sư 

Sư thọ yếu chỉ riêng trong thất của sư Viên Chiếu. Sau trụ ở chùa Trường Lô. Một vị tăng hỏi: “Lúc Phật chưa xuất thế thì sao?”. Sư nói: “Trời tạnh thì mang giày chạy”. Hỏi: “Sau khi xuất thế thì sao?”. Đáp: “Mưa xuống thì để chân không mà đi”.

Bài tán:
Trời tạnh mang ủng
Phật chưa xuất thế
Sau xuất ra sao
Chỉ ngay như vậy.
Như bò không sừng
Cọp lại có cánh
Gương trí tròn sáng
Đêm sông băng cuộn.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 29 tháng 3, năm 1985:

Truyền y thụ bát chỉ ngay
Thăng đường nhập thất mở bày ma ha.
Phật chưa xuất thế mang giày chạy
Tăng đã hưng thịnh chân không đi
Bò không sừng khó mà trì
Cọp kia thêm cánh dễ phi lên trời
Trí ngọc vạn dặm rạng ngời
Giúp người giúp vật khắp nơi chẳng cùng.

3.42 Trí Giả Tự Như Thiền Sư 

Sư họ Hạ, người phủ Thọ Xuân, lúc sinh ra có ánh sáng lành hiện quanh nhà. Năm 14 tuổi theo học sư Tịnh Chiếu ở Gia Hòa. Sư Tịnh Chiếu đưa ra nhân duyên Lương Toại gặp Ma Cốc. Hỏi: “Lương Toại nhận biết về nơi chốn ra sao?”. Sư tức thì rỗng suốt. Sau sư được sư Sùng Tín ở Trường Lô ấn tâm, đ ư ợc chỉ định đến Tiêu Sơn trụ trì. Một vị tăng hỏi: “Thế nào là Phật?’ Đáp: “Mặt vàng không phải là gắn vàng vào.” Hỏi: “Thế nào là việc hướng thượng của Phật?.” Đáp: “Một mũi tên, một hoa sen”. Vị tăng đảnh lễ. Sư bấm ngón tay ba lần. Sau sư trụ tại núi Linh Nham, Tô Châu. Lại lui về Bao Sơn và thị tịch tại đây. Tháp dựng phía sau chùa.

Bài tán:
Vừa lọt lòng mẹ
Chiếu sáng điềm lành
Tiếp cận liền biết
Căn xưa không che.
Dẫn người đời sau
Tâm từ cùng khắp
Đỉnh núi Linh Nham
Viên âm còn đây.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 30 tháng 3, năm 1985:

Thông túc mạng ngôi nhà rực sáng
Cao rộng thay, trí tuệ biện tài
Quy y tam bảo trọn đời
Cúi mình quy hướng về nơi thượng thừa
Truyền y pháp Tín công ấn chứng
Tiếng thần chung khai trí học tăng
Dạy người chẳng ngại khó khăn
Khoác áo dũng mãnh, Nham phong vững vàng.

3.43 Chân Hiết Thanh Liễu Thiền Sư

Sư họ Ung, người đất Tả Miên. Lúc còn bồng trên tay vào chùa thấy tượng Phật thì vui mừng, nhìn không chớp mắt, mọi người đều cho là kỳ lạ. Thi kinh đắc pháp, đến chỗ của sư Đan Hà. Sư Đan Hà hỏi: “Cái ta trước kiếp Không là gì?” Sư không trả lời được. Ông đến đây náo loạn à?. Sư bỏ đi. Một ngày nọ, sư leo lên núi Bát Vu, hốt nhiên khế ngộ, khi về đứng bên thầy. Sư Đan Hà đưa bàn tay ra, nói: “ Ta sắp nói cho ông biết đây”. Sư hoan hỷ bái tạ. Sau thăng đường nói: “Dưới một bàn tay của thầy tôi, có đủ tài nghệ, nhưng tìm kiếm chỗ mở miệng chẳng thể được”. Sư thị tịch tại Cao Ninh, Sùng Tiên, tháp dựng tại phía Tây Hoa Tướng Ô, thụy là Ngộ Không thiền sư.

Bài tán:
Dưới lòng bàn tay
Có đủ tài nghệ
Vừa nói thoáng qua
Người nghe diễu cợt.
Luồng sáng đêm trăng
Đầm trong không ảnh
Khéo vụng chẳng có
Kim vàng ẩn kín.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 31 tháng 3, năm 1985:

Dứt cuồng nghe được chuông Bồ Đề
Niệm Không, hạt bụi chẳng hề vướng thân
Đan Hà tay mở ngụy, chân
Thanh Liễu cứng miệng, tích tung chẳng còn.
Muốn hé răng, lưỡi thì khó mở
Cúi rạp mình hớn hỡ lòng vui
Đêm tràn ánh nguyệt một trời
Đầm trong ảnh hiện không dời tây đông.

3.44 Thiên Đồng Hoành Trí Thiền Sư

Sư họ Lý người đất Thấp Châu, đắc pháp tại chùa Tịnh Minh, 14 tuổi thọ giới cụ túc, 18 tuổi du phương cầu học, đến Nhữ Châu Hương Sơn thì không phát huy thêm được gì, sau đó tham vấn có chỗ tỉnh ngộ. Sau đó yết kiến sư Đan Hà, sư Đan Hà hỏi: “Trước kiếp Không thì như thế nào?” Sư đáp:

“Đáy giếng ểnh ương toan nuốt trăng
Ba canh không dựa bóng trăng vàng”.

Sư Đan Hà nói: “Chưa ở đây mà đã đổi đường” . Sư định đối đáp thì sư Đan Hà đánh một phất tử, bảo: “Đã nói rằng không nương dựa”. Sư nghe liền tỉnh ngộ, liền đảnh lễ. Sư Đan Hà nói: “Sao không nói một câu?”. Đáp: “Hoành Trí hôm nay không hợp cơ nên có tội”. Sư Đan Hà nói: “Chưa rảnh để đánh ông đấy”. Sau sư trụ tại các chùa Trường Lô, Thiên Đồng, nơi có nhiều người tu hành.  Ngày 8 tháng 10 năm Đinh Sửu Thiệu Hưng đời nhà Tống, sư đoan tọa cáo chúng, đề bài kệ, và hóa. Nhục thân quàng 7 ngày, sắc diện như còn sống. Tháp dựng tại Đông Cốc.

Bài tán:
Đan Hà một phất
Vứt bỏ hòn bùn
Vượt qua kiếp Không
Tự sờ lấy mũi
Ba canh chẳng dựa
Mất tiền chịu khổ
Một núi Thái Bạch
Pháp tuôn đại địa.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 8 tháng 4, năm 1985:

Tuổi thơ vào Tịnh Minh lìa tục
Quyết lòng xa ái, nhạt tình thân
Ếch nằm đáy giếng khó nuốt trăng
Không trung thừa sức chim Bằng bay cao.
Suy luận tức sai đệ nhất nghĩa
Biện phân tự trái nẻo ngàn trùng
Xưa nay pháp chủ Thiên Đồng
Đan Hà phất tử tỏ thông kinh huyền.

3.45 Từ Thụ Hoài Thâm Thiền Sư

Sư thừa kế thiền sư Bảo Phúc Cư Hú. Một vị tăng hỏi: “Thế nào là Phật?”. Sư đáp: “Lượng tài mà bổ chức vụ”. Vị tăng nói: “Sau khi bổ chức thì như thế nào?”. Sư đáp: “Cây tích trượng của Thiên Thai Tông”. Hỏi: “Thể chân thực là gì?”. Sư đáp: “Hôm nay thích trời lạnh”. Vị tăng nói: “Ý chỉ là gì?”. Sư đáp: “Ngàn núi vạn núi có tuyết”.

Bài tán:
Tam giác hoàn chỉnh
Lượng tài bổ chức
Cây gậy Thiên Thai
Tùy duyên du thực.
Hôm nay rất lạnh
Núi tuyết một màu
Thể tánh chân thật
Nhớ mãi ngàn thu.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 10 tháng 4, năm 1985:

Thiền tông đoạn ngay tâm ý thức
Phân biệt suy lường diệt sở tri
Hỏi đây đáp đó ngôn điên đảo
Sự lý cắt chia ngữ thị phi.
Thực tánh hôm nay ngầm ẩn chứa
Đâu là cứu cánh, Tuyết Sơn trì.
Ậm ừ ứng đối qua con tạo
Ý lời tan tác, niệm còn chi.

3.46 Bảo Lâm Văn Tuệ Thiền Sư 

Sư thừa kế thiền sư Trí Giả Tự Như tại Vụ Châu. Cơ duyên giáo pháp không để lại văn ngôn. Các thiền sư Tường Phù Lương Độ, Tuyên Hóa Đức Tế đều thừa kế pháp của sư.

Bài tán:
Chí ngôn vô thuyết
Chí đức vô công
Nghe mà không nghe
Lời thật đầy tai.
Tịch mà thường chiếu
Pháp nhãn viên thông
Bảo Lâm lá rơi
Điêu tàn ngô đồng.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 11 tháng 4, năm 1985:

Thành trụ hoại không suy rồi lại phục
Hòa thế gian bậc thánh độ hữu tình
Ly ngôn thuyết, hiển thực chân
Cửa thị phi đóng, thanh bình an vui.
Tường Phù, Lương Độ nguyên nguồn nước
Tuyên Hóa, Đức Tế cam lộ tươi
Bảo Lâm hoa nở đúng thời
Tào Khê đất ấy rạng ngời cổ kim.

3.47 Thiên Đồng Tông Giác Thiền Sư 

Sư được tâm ấn tại Trường Lô, khai pháp tại Thiên Đồng. Sư thượng đường nói: “Kiếp kiếp bước chân xoay vần đây đó, thân ngang dọc trên đời. Không thể dùng ý mà đến chỗ vi diệu được. Cái thực chứng thì lại không thể dùng ngôn từ để truyền đạt. Mặc dù đến được cảnh tượng hư tỉnh, ẩn tàng thì như đám mây trắng kia khuất sau đỉnh núi lạnh. Ánh sáng linh diệu xóa tan u tối. Ánh trăng sáng theo thuyền đêm trở lại đúng lúc. Làm gì để sinh khởi chỗ đã bước đi qua. Thiên hay chánh đều không rời bổn nguyên. Dọc ngang không liên hệ gì để nói đến nhân duyên. Một vị tăng hỏi: “Đạo là gì?” Sư đáp: “nơi ngã tư đường khéo kẻo u đầu”.

Bài tán:
Khế hợp chẳng phải ý
Thực chứng rời văn ngôn
Ngoài đường bị bể đầu
Tay chèo thuyền lạc nguồn.
Thân trải qua bao kiếp
Hết trở rồi lại xoay
Thẳng, nghiêng về ảo diệu
Như hạt châu đó đây.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 16 tháng 4, năm 1985:

Bất sanh bất diệt bất cấu tịnh
Bất lai bất khứ bất hữu tình
Hợp hòa chẳng ý ai phân
Ly ngôn thực chứng chưa từng nói chi
Biển bát nhã đồng quy tà chánh
Cõi Niết Bàn ngang dọc vãng lai
Giữa đường khéo u trán, dập tai
Tàng kinh pháp giới chẻ hai bụi trần.

3.48 Tường Phù Lương Khánh Thiền Sư

Sư kế thừa thiền sư Bảo Lân Văn Tuệ. Cơ duyên hóa độ không lưu lại văn ngôn.

Bài tán:
Giữa rừng mong tìm Thầy
Sương che beo lốm đốm
Mũi tên cùng chống đỡ
Thành bại đều về chung.
Chẳng còn điềm gì báo
Tên tuổi lạc trần hồng
Nhận thân khi lấy bỏ
Bố thí pháp khắp cùng.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 18 tháng 4, năm 1985:

Chẳng một chữ, vô vi muôn sự
Truyền pháp gì? Vật tự nương nhau.
Cơ phong bén, chẳng lời, câu
Tự thân trồng cấy, ruộng sâu ý tình
Tường cao ngất lén nhìn chẳng dễ
Cửa then cài khó thể nhìn ngang
Tào Khê thủy, Bảo Lâm san
Nước nguồn chảy mãi hòa tan sông dài.

3.49 Linh Ẩn Tuệ Quang Thiền Sư 

Sư họ Hạ Hầu, người đất Tiền Đường, kế thừa pháp của thiền sư Tuệ Lâm Hoài Thâm. Một vị tăng hỏi: “Sắc núi Phi Lai biểu thị pháp thân thanh tịnh, hòa hợp với âm thanh khe suối diễn tấu tướng lưỡi rộng dài. Chính vào lúc ấy thì thế nào? Thế nào là một khúc của Vân Môn?” Sư nói: “Mưa canh ba dội trên tàu lá chuối”. Hỏi: “Một hướng đưa ra siêu Phật Tổ, một buổi tiệc đỏ tía đều là tri âm là sao?”. Đáp: “Gặp người không được nêu ra điều sai lạc”. Thượng đường không cầu chân thực không cần thấy người cưỡi trâu ngược vào Phật điện. Một tiếng sáo trời đất đều không. Không rõ ai biết mặt ngài Cù Đàm.

Bài tán:
Một khúc hát Vân Môn
Mưa đêm trên tàu chuối
Gặp người nói lỗi lầm
Giọt nước khó mà tan.
Diện mục ngài Cù Đàm
Không đánh mà tự khai
Màu sắc núi Phi Lai
Ngưỡng trông lên cao vút.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 19 tháng 4, năm 1985:

Gọi kẻ mê, Vân Môn một khúc
Pháp tính hề nước chảy non cao
Mưa khuya tàu chuối xạc xào
Nhánh tùng đón bụi cõi nào lại đây
Diện mục Cù Đàm ai người biết
Chiếc mũi thiền sư tự biện phân
Pháp đồng thể diễn lý chân
Đâu chia đây đó, sơ thân làm gì?.

3.50 Tuyết Đậu Trí Giám Thiền Sư 

Sư họ Ngô, người đất Trừ Châu. Lúc còn bé một hôm mẹ rửa tay sư có mụt nhọt nên hỏi: “Tay này là gì?”. Đáp: “Tay con như tay Phật”. Lớn lên cha mẹ đều qua đời, theo sư Chân Hiết tại Trường Lô xuất gia. Bấy giờ sư Đại Hưu làm thủ chúng biết sư là hàng pháp khí. Sau đó sư ẩn tu nơi núi Tượng Sơn, trăm quái đều không thể làm cho mê hoặc. Một đêm khuya nọ thì khai ngộ, liền đến gặp sư Đại Hưu, được ấn chứng. Sau làm trụ trì, thượng đường nói: “Đức Thế Tôn có mật ngữ, Ca Diếp không che đậy. Một đêm mưa hoa rụng. Nước trôi hương khắp thành.”

Bài tán:
Tay con như tay Phật
A, sư thật lắm lời!
Ẩn tông tích Tượng sơn
Si cuồng chạy bên ngoài.
Cơ khế hợp Thiên Đồng
Trăm quái yêu trốn tránh
Chẳng rõ ngài Đạt Ma
Thế Tôn chẳng dấu kín.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 20 tháng 4, năm 1985:

Lời trẻ thơ: Tay như tay Phật
Tựa Tế Điên hoạt bát thiên chân
Nương Hiết Liễu học lý chân
Đại Hưu dấu ấn nguồn tâm tỏ tường
Chẳng thể biết Đạt Ma diện mục
Nương bên ngoài, truyền tụng Thế Tôn
Lánh xa trăm quái giả hình
Nụ cười hàm tiếu hữu tình hân hoan.

3.51 Trung Trúc Nguyên Diệu Thiền Sư 

Sư họ Vương, người Vụ Châu, kế thừa pháp của sư Tuệ chùa Linh Ẩn. Một vị tăng hỏi: “Một câu dứt dòng luân chuyển của chúng sinh là câu gì?” Sư nói: “Phật Tổ mở miệng đều không nói lời phân biệt”. Hỏi: “Một câu gồm thu cả càn khôn là câu gì?”. Sư đáp: “Vòng khắp đất trời”. Hỏi: “Một câu theo đuổi làn sóng gợn* là câu gì?”. Đáp: “ Khi thì vào rừng hoang, khi thì lên đỉnh vắng”. Sư thượng đường, nói: “Gà báo sáng lúc hoàng hôn, nửa đêm mặt trời mọc trên đầu. Sư tử trắng vùng đứng dậy. Con mắt mở rộng”. Sư thượng đường, nói: “Năm ngoái cây mai, năm nay cây liễu. Sắc diện thơm tươi.” Sư quát lớn, sau đó lại bảo: “Nếu không có tiếng quát này thì dường như đạo lại nêu ra lối cũ. Mà cái đạo hiển hiện ấy sau sẽ ra sao? con mắt sáng đột nhiên xuất hiện”.
……..
*ba lãng 波浪: Tỉ dụ dòng tâm tư, suy tưởng lên xuống như thủy triều.

Bài tán:
Ba câu tại Vân Môn
Sao khổ nhọc chú giải
An định bầu thế giới
Cứ từng bước mà làm.
Sư tử trắng mắt đỏ
Cáo hoang để lộ đuôi
Mai liễu hương thơm ngát
Khiến người người tấm tắc.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 21 tháng 4, năm 1985:

Nguyên Diệu tôn, Tuệ công pháp tự
Lời như sông cuộn há hàm hồ
Ai nghe gà gáy hoàng hôn
Đêm đen nào thấy rực hồng thái dương
Sửa tà quy chánh kinh hàng tục
Ngữ dị ngôn kỳ phục thế nhân
Giữ chẳng ở, mai liễu tranh xuân
Bên hoa chim hót, điếc câm gợi lòng.

3.52 Thiên Đồng Như Tịnh Thiền sư

Sư từ thuở nhỏ đã khác lạ, không giống những đứa trẻ khác, lớn lên học pháp xuất thế. Tham kiến sư [Túc] Am tại Tuyết Đậu, sư Am ra lệnh sư khán thoại đầu “cây bách trước sân” khiến sư có chỗ tỉnh ngộ, liền trình kệ:

Ý tổ Tây lai, bách trước sân
Lổ mũi cao xa đối nhãn quang
Cành khô rơi xuống văng trên đất
Cao vút tùng xanh bật tiếng cười.

Sư Am gật đầu. Sư đến Thiên Đồng, trụ trì sáu đạo tràng, hai lần sư phụng sắc chỉ ban khen cho thấy rằng đạo pháp hưng thịnh. Lúc sắp thị tịch sư nói kệ:

Sáu mươi sáu năm
Phạm tội đầy trời
Một đập nhảy tung
Vùi sống suối vàng

Tháp dựng tại núi xưa, táng toàn thân.

Bài tán:
Từ không tên mà đến
Gọi người quét sân tùng
Ban ngày lại thấy quỷ
Thật nhận lầm Triệu Châu.
Chỗ tột cùng nắm mở
Quả cân sắt kiên cố
Tự có gốc có nguồn
Tri ân và báo đức.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 23 tháng 4, năm 1985:

Khác trang lứa vốn hàng kiệt xuất
Túc mệnh xưa hết tử lại sinh
Am Tuyết Đậu bách trước sân
Cây khô hang lạnh nẩy cành xanh tươi
Quả cân sắt mấy ai người biết
Nước đóng băng hẳn lắm kẻ tường
Ngày thấy quỷ chẳng lạ thường
Pháp giới quảng đại cội nguồn bao dung.

3.53 Dĩ Am Thâm Tịnh Thiền sư

Sư người đất Ôn Châu, thừa pháp sư Trung Trúc Nguyên Diệu. Sư thượng đường, nói: “Rồng sinh rồng, phụng sinh phụng. Con chuột nọ nuôi con trên nóc nhà ở ngoài đường. Tổ Đạt Ma chẳng rõ thiền, đến Lương qua Ngụy nhiều chỗ ồn náo”. Sư thượng đường nói: “Gió hiu hiu, lá rơi rơi, mây giăng giăng, nước mênh mông, bên sông đứng nhìn ai mà thuyết, ngoài trời ba con chim Hồng bay thành hai hàng”. Phẩm hạnh sư cao thượng, mỗi khi cùng đồng đạo tham kiến sư Linh Ẩn Uẩn Trung, xướng đối, than thời mạt pháp, tìm khắp các phương khó thấy người thực chứng, cũng không có kẻ xuất gia xứng ý nên không trao truyền pháp. Tông Vân Môn từ đời sư ngừng phát triển.

Bài tán:
Rồng lại sinh rồng con
Trung Hoa nối Thiên Trúc
Theo cột trụ quên gạch
Đưa đến chỗ mất ngọc.
Cùng đồng đạo xướng họa
Khóc than bài cuồng ca
Khấu đầu trước kim điêu*
Đuôi chó liên tục vẩy.
…………………………
* Lối phục sức nhà Hán, mũ của quan Thị-trung thường-thị đều cắm đuôi con điêu, đúc con ve vàng đeo vào cho đẹp, vì thế gọi các kẻ quyền quý là nhị điêu 珥貂

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 24 tháng 4, năm 1985:

Bậc anh hào Ôn Châu Thâm Tịnh
Vượt thế tình phẩm hạnh thanh cao
Ném gạch đầy đường đổi ngọc* khó làm sao!
Tìm vật báu ngọc dao chưa được thấy.
Khúc cuồng ca, bạn vịnh thơ mà khóc
Tông khác nhau, cùng ngưỡng vọng hòa thân
Vân Môn nhất mạch dừng chân
Thiên thu vạn kiếp chửa dừng lệ rơi.
………………………………………….
* phao chuyên dẫn ngọc 拋磚引玉 đưa ngói lấy ngọc (lời khiêm tốn ý nói đưa ra ý kiến tầm thường hoặc văn chương kém cỏi mà được người khác dẫn thành lời bàn cao xa hoặc văn chương tuyệt tác). [Tự điển Hán Việt trích dẫn]

3.54 Lộc Môn Tự Giác Thiền Sư 

Sư tham kiến sư Trưởng [Ông] [Như] Tịnh. Sư Tịnh thượng đường đưa ra nhân duyên sư Linh Vân thấy hoa đào ngộ đạo. Nói kệ rằng:

Hình dáng ô mai giống in khuôn
Nhện kia giăng lưới bắt chuồn chuồn
Hai cánh chuồn chuồn sa vướng lưới
Nực cười mai nọ ngoạm chiếc đinh.

Sư chợt nín cười, thưa: “Sớm biết đèn là lửa, cơm nấu bao lâu mới chín”. Sư Như Tịnh theo đó ấn chứng cho sư. Sư khai pháp tại Lộc Môn, nói với đồ chúng: “Khắp cùng đại địa người học một quyển kinh. Tận càn khôn người học đều có mắt như nhau. Dùng mắt ấy đọc kinh ấy trong thiên vạn ức kiếp không gián đoạn. Các vị có xem được, đọc được chăng?. Nếu như xem và đọc được thì lão tăng mời người ấy ăn thứ bánh trộn dầu không làm bằng gạo này.

Bài tán:
Đèn vốn từ lửa có
Nhật nguyệt cùng chiếu sáng
Cười lớn đến khan giọng
Mũi dọc mắt thì ngang.
Bánh dầu không bột gạo
Cùng đến để gặp nhau
Cứu cánh như thế nào?
Cây mai cắn đinh sắt.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 25 tháng 4, năm 1985:

Bậc tôn giả Lộc Môn Tự Giác
Cầu thông minh hỏi đạo tìm thầy
Ngọc trong vạt áo còn đây
Biết đèn là lửa sớm bày chứng minh
Vi trần đại địa là kinh
Càn khôn pháp giới mắt tinh riêng người
Hỏi câu cứu cánh bật cười
Mắt ngang mũi dọc chớ thời đinh ninh.

3.55 Phổ Chiếu Nhất Biện Thiền Sư

Sư họ Hoàng, người Hồng Châu. Năm 11 tuổi mồ côi cha liền xuất gia. Năm 18 tuổi thọ giới cụ túc, tham vấn sư Lộc Môn, hỏi: “ Học nhân trong khắp trời đất chỉ có một thứ mắt là thế nào?”. Sư Lộc Môn nói: “Ông vướng vào một quyển sách rồi đó”. Sư định đối đáp nhưng sư Lộc Môn vẫy tay nói: “Hãy mau đi sơn lại cái thùng gỗ”. Sư nghe vậy có chỗ tỉnh ngộ. Sư trụ tại chùa Phổ Chiếu ở Thanh Châu, lại dời về chùa Vạn Thọ ở Đông Đô. Sư từng ở trong thất đưa ra 300 câu hỏi cho người tu xét nghiệm, tiếng tăm vang dậy Nam Bắc Đại Hà. Sư có bệnh nhẹ, nói bài kệ mà hóa, thọ 69 tuổi. Tháp dựng tại Ngưỡng Sơn Thê Ẩn, Dương Đài, viện Thanh Thủy.

Bài tán:
Lấy con mắt như thị
Đọc trang kinh như thị
Cùng tận đến vị lai
Quán thấu triệt thông minh.
Trăm câu hỏi mây nỗi
Thời cơ phân rồi hợp
Đạo trường đồng phát triển
Vó ngựa thần qua mau.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 26 tháng 4, năm 1985:

Phủ Hồng Đô phát sinh long tượng
Tôn giả Nhất Biện vốn khác thường
Thân côi mười một xuất gia
Mười tám thọ giới lìa xa thế tình
Mắt “như thị” đọc kinh tụng điển
Tai “ngã văn” nghe tiếng pháp chung
Vị lai tinh tiến chẳng cùng
Công phu thành thục tinh thông rõ ràng.

3.56 Đại Minh Tăng Bảo Thiền Sư 

Sư tham kiến sư Biện tại Thanh Châu. Hỏi: “Lìa tứ cú, tuyệt bách phi, xin thầy chỉ thẳng ý nghĩa việc Tổ từ Tây Trúc đến đây?”. Sư Biện nói: “Ngày hôm qua có người hỏi như vậy, ta đã đánh cho và đuổi ra ngoài”. Hỏi: “Ngày nay thì sao?”. Đáp: “Ông được cái là không bi ết đau”. Sư lễ bái. Sư Biện nói: “Đáng tiếc là gậy đã gãy”. Sư trực ngộ, toát mồ hôi. Sư lần đầu trụ tại tháp Chân Đường, Thanh Châu. Năm Ất Hợi Trinh Nguyên thứ ba dời về chùa Đại Minh bên sông Phủ Dương. Đời vua Tống Cao Tông, niên hiệu Thiệu Hưng thứ 25 sư trụ trì đời thứ 21 tại chùa Thiếu Lâm.

Bài tán:
Tứ cú bách phi
Thân toát mồ hôi
Biết ngay đường về
Sắt đúc hảo hán.
Rút ngang kiếm báu
Phạm thiên đẫm máu
Ánh thép lạnh lùng
Mắt nhìn sáng tỏ.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 2 tháng 5, năm 1985:

Nhân pháp Không, Tây qua Đông lại
Bỏ Hữu Vô giữ lấy chữ Trung
Bách phi, tứ cú lung tung
Tam độc, ngũ uẩn cũng trong bọt bèo
Đánh chết biện phân mồ hôi toát
Công phá vọng tưởng tánh viên thông
Thiền sư Bảo tựa sắt, đồng
Gió to mưa lớn nghi dung chẳng sờn.

3.57 Ngọc Sơn Sư Thể Thiền Sư

Sư một hôm đang hầu sư Đại Minh chợt thấy có một con chim sẻ trên sảnh đường đang mổ thức ăn liền vung tay khiến chim sợ bay lên. Sư Đại Minh đến gần đập tay vào lưng sư. Sư giật mình quay lại. Sư Đại Minh nói: “Nếu là con chim thì tôi phụ lòng ông. Nếu không phải là con chim thì ông phụ lòng tôi”. Sư suy nghĩ. Sư Đại Minh lại nói: “May mà còn có lòng thương người. Bỏ qua cái chuyện phụ lòng nhau”. Sư nhân đó có tỉnh ngộ. Sư theo hầu sư Đại Minh 10 năm, lòng càng kính trọng. Một hôm sư rút được cái thăm trống không nhưng lòng chẳng lấy làm quái lạ. Có người hỏi: “Cái Thể đi về đâu?”. Sư Đại Minh nói: “Các phương đến, các phương đi, đâu có ý giới hạn”. Hỏi: “Tham học thì như thế nào?”. Sư Đại Minh nói: “Nói là có tham học tức mang thêm sừng trên đầu. Nói là chẳng tham học tức giảm uy quang.”

Bài tán:
chim ở trên đài
đánh liền đứng dậy
phụ anh phụ tôi
được da được tủy
càng ngày càng trọng
mười năm ân cần
ngọc khuê ngọc chương
hoa nở miệng chày

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 3 tháng 5, năm 1985:

Phất tay chim sợ bay lên
Đánh mày sao chẳng vọt trên tầng trời
Qua lại tự do vô quái ngại
Thị phi chớ bảo có đường hay
Kẻ lạ còn độ được thay
Đến như chữ nghĩa đúng sai khó tày
Phiêu nhiên Sư Thể vãng lai
Lạ lùng hậu bối ngày ngày lo âu.

3.58 Tuyết Nham Tuệ Mãn Thiền Sư 

Lần đầu sư tham yết sư Phổ Chiếu Bảo Công. Sư Bảo Công nói: “Anh còn trẻ trung, nên gõ cửa tham kiến [thiện tri thức]. Lão tăng tuổi này mà vẫn không quên lấy Phật pháp làm sự nghiệp”. Sư liền rời chỗ ngồi, thưa: “Hòa thượng hiện nay như thế nào?”. Đáp: “Tương tự như sinh oan gia”. Sư hỏi: “Nếu chẳng phải lời ấy thì tôi đã uổng công gian khổ ngàn dặm để đến nơi này”. Bảo Công bước xuống thiền sàng, nắm tay sư nói: “Người làm”. Sau sư đến tham kiến sư Ngọc Sơn. Sư Ngọc Sơn nêu thoại đầu: “Động Sơn thấy bóng”. Sư khởi nghi. Sư Ngọc Sơn nói: “Không khởi nghi ngôn cú thì đó là kẻ mắc bệnh nặng. Khi nghi thì bệnh phát khởi. Biết bệnh thì [cái biết bệnh] đó chính là thuốc. Một hôm, sư đọc tụng Ngũ Vị, đến câu: “tán ra hợp lại ngồi trong đám tro” thì tỉnh ngộ, nói: “Hôm nay mới rõ biết bệnh tức là thuốc”. Sau đó trình với sư Ngọc Sơn, sư Ngọc Sơn nói: “Liệu mà giảm bớt sự giao tế”. Sư nói: “Hòa thượng lại dối tôi nhưng không dối được”. Nói xong sư lễ mà lui ra.

Bài tán:
Lừa tôi chẳng được
Lại chẳng lừa người
Dấu thân trong than
Kim thanh* gieo xuống.
Dọc ngang buông nắm
Hồn vũ trụ kinh
Tân Phong** hợp khúc
Đoan ngọ canh ba.
………….
*Tiếng kim, một thứ tiếng trong bát âm. ◎Như: tiếng cái kiểng, cái thanh la gọi là tiếng kim. Ngày xưa thu quân thì khoa chiêng, nên gọi là minh kim thu quân 鳴金收軍.
**Hán Cao Tổ đóng đô ở Trường An. Thái thượng hoàng muốn về đất Phong là quê cũ. Nhà vua liền cho sửa sang cảnh Trường An cho giống đất Phong, xây chùa, và cho di dân ở đất Phong đến, gọi là Tân Phong. (Tự điển Hán Việt Từ Nguyên)

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 9 tháng 5, năm 1985:

Tăng trí tuệ quy y đảnh lễ
Không phân tranh đại nghĩa Phật ngôn
Oan gia sinh chẳng tận tường
Vừa nghe lời ấy chớ thường hãi kinh
Xoay trở lại hợp hòa đốn giác
Biết bệnh là thuốc sáng thế đăng
Dốc cao núi lạnh Tuyết Nham
Mối sầu thăm thẳm dặm ngàn nẻo xa.

3.59 Vạn Tùng Hành Tú Thiền Sư 

Sư họ Sái, người đất Hà Nội (Hà Nam). Sư tham yết sư Thắng Mặc, khán thoại đầu “Trường sa chuyển tự kỷ” nhưng không hội được. Sư Thắng Mặc nói: ‘Ta chỉ mong ông hội chậm thôi”. Sư đột nhiên đại ngộ. Sư trở lại khán cùng tuyệt văn ngữ trong Huyền Sa, tham vấn sư Tuyết Nham, thấy gà gáy và bay lên, sư hốt nhiên đại ngộ. Sư Tuyết Nham truyền y, nói kệ khuyên sư lưu thông đại pháp. Từ đó vùng lưỡng Hà, tam Tấn đều ngưỡng mộ danh sư. Sư trụ tại chùa Tịnh Độ, sau dời về chùa Vạn Thọ. Năm Quý Sửu đời vua Chương Tông (Kim), sư được nghênh đón vào hoàng cung, vua tự mình vấn pháp, và ban tặng áo ca sa gấm. Năm Đinh Tị sư phụng chiếu trụ tại chùa Ngưỡng Sơn. Năm Thái Tông thứ 2, sư lại phụng chiếu trụ chùa Vạn Thọ. Sư rộng hiểu các kinh sách, nội điển, ngoại điển đều thấu triệt, ba lần duyệt lại Đại Tạng kinh, sao chép lưu hành thế gian. Mùa hạ năm Bính Ngọ đời Định Tông nhà Nguyên, sư viết bài kệ mà hóa. Môn đồ hỏa táng thu vô số xá lợi, dựng tháp cúng dường.

Bài tán:
Cưỡi Sầm Đại Trùng*
Đánh cọp Huyền Sa
Phủi đất gà bay
Không dung ngỗ nghịch.
Khô mộc long ngâm
Đan tiêu phụng múa
Giữa rừng vắng bóng
Ánh xuân khắp nơi.
…………………….
*Thiền sư Trường Sa Cảnh Sầm

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 10 tháng 5, năm 1985:

Con hỏi tự mình làm sao
Ta không ngôn ngữ kinh nào nói đây
Diệu đế, chó chạy, gà bay
Cá nhảy, rồng ẩn, phơi bày tánh linh
Đại hòa quán triệt đạo sinh
Nghiên cứu tinh tế hiển minh Đại thừa.
Cột rường muôn nhánh thông xanh
Phật quang phổ chiếu hồng danh Di Đà

3.60 Tuyết Đình Phúc Dụ Thiền Sư

Sư họ Trương, người Văn Thủy, Thái Nguyên. Sư tham kiến sư Vạn Tùng, sư Vạn Tùng hỏi: “Ông từ đâu biết tin mà đến đây?”. Đáp: “Lão lão, đại đại hướng về học nhân để thu nhận kẻ thiếu sót như tôi”. Hỏi: “Lão tăng đã từng đến những đâu?”. Sư nói: “Học nhân lễ bái, tạm vì hòa thượng mà che khuất chỗ sai lệch”. Sư Vạn Tùng nghe xong rất vui mừng. Năm Nh âm Thìn sư trụ chùa Thiếu Lâm. Năm Mậu Thân hiệu Định Tông sư nhận chiếu trụ trì chùa Hòa Lâm, Hưng Quốc. Năm Tân Hợi vua Hiến Tông vời sư đến đình Bắc hỏi đạo. Năm Canh Thân vua Thế Tổ khiến sư thống lĩnh Phật giáo, hồi phục chư tăng ni và chùa chiềng hoang phế, ban hiệu là Quang Tông Chánh Biện Thiền Sư. Tháng 7 năm Ất Hợi sư an tọa mà hóa, thuyết pháp hơn 30 năm, như sấm sét vang dội nhật nguyệt. Sau vua Nhân Tông khi còn tại vị đã truy phong hiệu cho sư, sai người soạn văn bia, rất mực cung kính.

Bài tán:
Núi hiểm lòng trần cao
Sư tử chùn chân bước
Con quy về theo cha
Cha hoàn toàn chẳng biết.
Làm thầy trời và người
Khuôn phép chư Phật Tổ
Sắc lệnh ban ân sủng
Rực rỡ ánh quang minh.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 11 tháng 5, năm 1985:

Sơn Tây Phúc Dụ sư tử rống
Lão tăng Vạn Tùng biết trốn xứ nao
Học tăng lễ bái lui sau
Tôn giả hoan hỷ lầu cao lên thềm
Hưng Quốc, Thiếu Lâm làm pháp chủ
Bắc đình, Đông đô dẫn chúng tăng
Nguyên đại kiệt xuất khai nhân
Quang Tông Chánh Biện đức ân thấm nhuần

3.61 Linh Ẩn Văn Thái Thiền Sư 

Sư họ Ngụy, sinh tại Thành Châu, Dương Thành. Sư trước tham yết sư Tuyết Phong Hằng, sau đến tham sư Thái Nguyên Thốc, đều có chỗ cầu học. Sau cùng chưa biết đi đường nào nên trở lại tham vấn sư Tuyết Đình. Sư Tuyết Đình hỏi: “Một câu đương cơ, nói thử xem”. Sư còn suy nghĩ thì sư Tuyết Đình nói liền: “Gia sản bị người mượn hết rồi nên đến đây kêu oan chăng?”. Sư đại ngộ, thưa: “Ai lại là tôi?”. Sư Tuyết Đình nói: “Cuồng phong khởi nên kẻ hảo hán xuất hiện”. Sư thưa: “Trong cái đạo nhân nghĩa, xin nhận một lạy”. Sư theo hầu thầy 10 năm, sau phụng chiếu trụ trì chùa Thiếu Lâm. Tháng giêng năm Chí Nguyên đời vua Nguyên thái Tổ, từ giờ Tị đến giờ Sửu sư không bệnh thị tịch. Trước đó sư đã bảo vị Duy Na: “Người xưa ngồi hay đứng mà hóa, với kẻ nạp tăng này đều là chuyện dư thừa. Sơn tăng thì không như thế”. Nói rồi liền hóa. Môn đồ hỏa táng phân xá lợi, dựng tháp tại Thiếu Lâm, Bảo Ứng.

Bài tán:
Mượn hết gia sản
Đập vỡ minh châu
Chiếu trời soi đất
Không thiếu không dư.
Dọc ngang diệu dụng
Thông tông thông đường
Thuyền trăng bờ lau
Hải đảo san hô.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 16 tháng 5, năm 1985:

Gần đạo nhân xa người xu nịnh
Dốc lòng tham cứu bổn lai chân
Tùy nắm mở chẳng cân phân
Tự tin nắm được lão san tặc này
Gia sản một tiếng kêu cuồng chí
Tìm bảo tàng nguyên khí tự vui
Tung hoành diệu dụng đất trời
Quang huy muôn thuở rạng ngời cổ kim.

3.62 Hoàn Nguyên Phất Ngộ Thiền sư

Sư họ Vương, người đất Hoắc Châu, Linh Thạch, sư theo thế tình đi khắp các nơi, hùng biện vô ngại. Sư nghe Linh Ẩn Thái Công đạo nhãn sáng tỏ liền đến tham yết. Thái Công vì sư mà nói: “Ta đưa ra một cây phất trần, ông theo đó mà lãnh hội. Ta đã lâu lắm rồi, ông cũng lấy cái chỗ lâu ấy mà vào. Như thế nào là biết được cái bổn phận sự?” Sư đỏ mặt toát mồ hôi, không biết đối đáp ra sao. Một hôm sư Văn Thái thượng đường, nói: “Điều cấm kỵ là không nên tìm kiếm xa xôi những lời ta đã nói”. Sư ngay đó đại ngộ. Qua 2 năm được ấn chứng. Năm Chí Nguyên Bính Tuất sư khai pháp tại chùa Vĩnh Khánh. Đến Năm Ất Mùi phụng chỉ trụ tại chùa Thiếu Lâm. Một vị tăng hỏi: “Thế nào là đại ý của việc Tây lai?”. Sư nói: “Gió đưa tiếng suối lại bên gối. Trăng chuyển bóng hoa đến trước song”. Mùa Đông năm Quý Sửu, hiệu Hoàng Khánh, đời vua Nhân Tông sư thị tịch, thọ 69 tuổi.

Bài tán:
Ngoài lời biết hướng về
Khung trời quay trác tuyệt
Tiếng trống luôn dồn dập
Khó suy lường Phật Tổ.
Ý tổ phương tây đến
Gió suối hoa dưới trăng
Ngắm nhìn mà ngưỡng vọng
Đại địa thấm nguồn ân.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 17 tháng 5, năm 1985:

Dậy phong ba biện tài vô ngại
Lý trực, khí dũng tựa dòng tuôn
Cầu anh hùng khắp mười phương
Cận kề tri thức si cuồng hiểu ra
Hoàn nguyên phản bổn về nhà
Nhân không pháp tịch bước qua núi đồi
Sum la vạn tượng lộ rồi
Ai hội tự biết, nói thời khó thay.

3.63 Thuần Chuyết Văn Tài Thiền Sư

Sư họ Diêu, người Bình Dương, Lâm Phần. Khi đọc Chứng Đạo Ca đến câu: “Huyễn hóa không thân tức pháp thân” thì vui thích, có phần tỉnh ngộ. Sau đó tham bái sư Hoàn Nguyên trình kiến giải. Sư Nguyên hỏi lại: “Như đã nói “quân bất kiến” là chỉ cho ai?”. Sư đáp: “Đối mặt trình bày lại không thuận hợp”. Hỏi: “Rơi xuống hầm lửa thì kẻ hảo hán đối đáp ra sao?” Sư nói: “Hòa thượng lại làm gì để sống lại?”. Đáp: “Hãy im ngay”. Sư nói: “Đã khám phá ra rồi, có thể là bản nguyên”. Năm Giáp Tí Thái Định thứ nhất trụ tại chùa Thiếu Lâm. Vào tháng năm Thuận Đế Chí Thánh theo lệnh vua thuật lại những giới luật cho người đời sau. Sau đó thị tịch, táng toàn thân, tháp dựng bên phải tháp sư Tuyết Đình, thọ 80 tuổi.

Bài tán:
Trên cửa một phong thư
Vượt qua pháp phương tiện
Diệu hóa không thiên tư
Chẳng màng gương ảnh hiện.
Con mắt dọc Ma Hê
Hốt nhiên mặt Na Tra
Khám phá tận cội gốc
Phiến tuyết lò lửa hồng.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 18 tháng 5, năm 1985:

Vĩnh Gia Đại Sư Chứng Đạo Ca
Chẳng sánh Mi Sơn Tô Đông Pha
Huyễn hóa không thân liền thức tỉnh
Chân như thực tướng khó thuyết ra.
Anh thấy*, thấy gì thử nói xem
Ông rơi hầm chết lại hồi sinh
Đủ Ma Hê nhãn, Na Tra diện
Quy y Bát Nhã Ba La Mật Đa
………………
* Quân bất kiến tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân (Chứng Đạo Ca)

3.64 Tùng Đình Tử Nghiêm Thiền Sư

Sư họ Phàn, người huyện Cổ Câu, Hà Nam. Đầu tiên tham kiến sư Giang Nguyệt Chiếu, sư Tức Am Nhượng, hai lần đều có chỗ sở ngộ. Sau lại tham yết sư Thuần Chuyết trình kiến giải. Sư Chuyết hỏi: “Ông chẳng nghe nói nước nơi nhà Cổ Độc chớ nên nếm thử đó chăng?”. Sư đáp: “Nuốt vào được thì nhổ ra được”. Hỏi: “Giữa trời lại có thêm oan khổ”. Sư nói: “Tạ ân hòa thượng đã biệt ký”. Sư khai pháp tại chùa Vạn An, Nam Dương, chùa Phổ Chiếu ở Trịnh Chi, chùa Thiên Ninh ở Đại Đô, chùa Vân Phúc ở Chiết giang, chùa Thiên Khánh ở Tây Kinh. Năm Kỷ Dậu đời Hồng Vũ sư phụng chiếu trụ trì chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn. Mùa Đông năm Nhâm Tuất, Chu điện hạ thỉnh sư thuyết pháp, trình với hoàng hậu Từ Hiếu ban hiệu và áo ca sa, rất mực trân trọng. Sư lui về ẩn tu khoảng năm 70 tuổi.

Bài tán:
Vượt thoát cái thấy biết
Như tấm gương Tần treo
Luồng ánh sáng trân quý
Chiếu rực rỡ thấp cao.
Cây khô sinh hoa tươi
Ven đường mây lối cũ
Ngồi dứt tuyệt đầu lưỡi
Lão tăng cầu tha mạng.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 19 tháng 5, năm 1985:

Ngựa trắng chở kinh đến Lạc Dương
Bồ Đề Đạt Ma mặt đối tường
Nghiêm công vì pháp không yêu mạng
Kẻ vụng dạy người thỏa ước mong.
Thuốc độc khó gần đâu cần mửa
Cam lồ tưới khắp dưỡng anh tài
Gương Tần treo mãi muôn người thấy
Hoa trổ cành khô hy hữu thay!.

3.65 Ngưng Nhiên Liễu Cải Thiền Sư 

Sư họ Nhậm, người Kim Điếm, Tung Dương. Sư tham kiến sư Tùng Đình, sư Đình đưa ra thoại đầu Nguyệt ấn thị chúng: Trên đường gặp rắn chết thì chớ giết. Cái giỏ xách ấy chứa đầy nhưng lại không có đáy vừa mang đến. Vậy cùng nói chuyện gì đây?. Nếu gặp kẻ lỗ mãng nói thiền thì làm sao mà thấu đắc được”. Sư đáp: “Chỗ này cùng lấy bỏ, không đến được chỗ rốt ráo chăng?”. Đáp: “ Kẻ sơn tăng cười phá lên”. Sư ngập ngừng. Sư Đình nói: “Ông đang ở trong hang quỷ mà bàn về cái bát nhỏ ư?”. Sư lại càng bất an. Một hôm sư Đình thượng đường nói: “Một câu cao xa kỳ đặc”. Sư ngay đó đại ngộ. Năm Canh Ngọ đời Hồng Vũ sư khai pháp tại tổ đình. Năm Tân Sửu hiệu Vĩnh Lạc sư không có bệnh gì, bổng nhiên tập họp đồ chúng, nói kệ từ biệt: “Tuổi đã tám mươi bảy. Đêm nay lại chia lìa. Trước Uy Âm buông tay. Quạ vàng kêu giữa trời xanh”. Nói kệ xong sư an nhiên thị tịch.

Bài tán:
Lấy bỏ đều chẳng phải
Chư Phật Tổ rảo bước
Đến thẳng chỗ đông người
Sớm trải thân khắp chốn.
Trăng sáng lạnh Tùng Đình
Móng vuốt loài sư tử
Chánh và thiên hỗ dụng
Màu trắng ẩn màu đen.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 23 tháng 5, năm 1986:

Sân tùng đêm lạnh trăng thanh
Tường cao cổng kín chớ nên kỳ kèo
Uốn, nâng, hai lối thuận theo
Âm uy xảo diệu đổi thay cát tường
Động ma tìm báu lầm đường
Nhà lửa tự biết chẳng thường an thân
Thoát ly mê chấp căn trần
Tiêu diêu tự tại quy dần cố hương.

3.66 Câu Không Khế BânThiền Sư

Sư họ Vương, người đất Bạc Ấp. Sư tham yết sư Ngưng Nhiên cầu chỗ tâm yếu. Sư Ngưng Nhiên nói: “Hướng về tổ Đạt Ma thời vị lai, nói thử một câu xem sao”. Sư không đáp được. Sau đó khá lâu nhân nhìn thấy bức tranh Tần Phong Cổ Hòe hốt nhiên tỉnh ngộ, trình thầy chỗ kiến giải. Khi sư Nhiên thoạt thấy sư liền nói: “Khế Bân đã tham đắc thiền a?”. Sư bèn quát một tiếng. Sư Nhiên nói: “Làm gì vậy?”. Sư nói: “Hòa thượng sao lại dối người?”. Sư Nhiên lại hỏi: “ Xét về cái tâm lão bà của Triệu Châu thiếu sót ở chỗ nào?”. Sư đáp: “Chỉ không có lỗ để nện búa”. Hỏi: “Ý Triệu Châu sinh khởi điều gì?” Sư đáp: “Trong rừng hiểm có thể sập bẫy”. Hỏi: “Thạch Đầu nói thư không thông, tin chẳng đến là có ý gì?”. Sư đáp: “Ngàn dặm cùng ngọn gió”. Hỏi: “Thanh Nguyên duỗi chân là sao?”. Sư đáp: “Là họa, là họa”. Sư Nhiên nói: “Một tông Tào Động ngay nơi thân ông đó”. Năm Nhâm Thân hiệu Cảnh Thái sư thị tịch, tháp dựng tại chùa Thiếu Lâm.

Bài tán:
Chùy sắt không có lỗ
Ném thẳng vào tận mặt
Tin thư không đến nơi
Núi Côn Lôn lật ngược.
Cây hòe Tần mây phủ
Núi hùng vĩ mưa rơi
Đường Thạch Đầu trơn trợt
Lại thêm gai góc thôi.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 24 tháng 5, năm 1985:

Quá khứ hiện tại vị lai
Đạt Ma diện bích lạ kỳ chưa thôi
Ly ngôn thuyết, đạo nơi đâu
Trống không chẳng lập nên câu, thành hàng
Tham thiền thủ đắc dối dang
Thấy được Phật tánh lo toan vứt rồi
Thanh Nguyên duỗi cẳng họa người
Cháu con vạn kiếp lên ngồi tòa sen.

3.67 Vô Phương Khả Tùng Thiền Sư 

Sư họ Hứa, người Lạc Dương, tham kiến sư Câu Không. Sư Không hỏi: “Ông đã từng tham kiến những ai?”. Sư đáp: “Trước núi Thiếu Thất lặng gió”. Hỏi: “Nhân đó có hiểu một hoa nở năm cánh là sao không?”. Sư đáp: “Một búa không lỗ trăm thứ nát vụn”. Hỏi: “Đánh vào chỗ hư là thế nào?”. Đáp: “Tôi chỉ thấy người trong thiên hạ đánh vào chỗ thật, chẳng ai đánh vào chỗ hư”. Hỏi: “Không đánh mà tự rước lấy là sao?”. Sư đáp: “Điều lão hòa thượng thường quen dùng, hãy nói ra đi”. Một hôm sư duyệt xét năm tướng đen trắng của Tào Sơn thì khế hội, chạy lên phương trượng trình chứng. Sư Câu Không đưa ra cái thiên y, lấy ngũ hành để đưa ra chân lý, cật vấn về nhân duyên của vị thượng tọa kia. Sư liền hội được yếu chỉ của năm vị. Sư lúc đó chưa khai pháp mà ẩn tu nơi chùa Định Quốc ở Giáp Nhục, không lâu khai pháp ở chùa Bồ Đề. Năm Quý Tị hiệu Thành Hóa, sư phụng chỉ trụ trì chùa Thiếu Thất. Năm Nhâm Dần sư an nhiên thị tịch, tháp dựng nơi Tổ Phần.

Bài tán:
Gát kiếm nơi cửa này
Màn đêm ngời ánh nguyệt
Đối mặt cùng lộ ra
Hồ trong trăng thanh hiện.
Cha nghiêm từ con hiếu
Vũ thuật và văn tài
Danh tiếng thêm lừng lẫy
Càng rạng rỡ tông phong.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 30 tháng 5, năm 1985:

Nhường thiên hạ vua Nghiêu tìm kẻ trí
Nói chẳng bằng nhàn, Sào Phủ rửa tai
Uống nước đầu nguồn họ Hứa thả trâu
Nơi răng ngà Khả Tùng mang búa sắt
Đoạt hư đoạt thực cơ phong viên mật
Trắng hay đen cùng về lại quê xưa
Thấy mặt lộ bày liền được ấn tâm
Vui vô tận đại sự đà hoàn tất.

3.68 Nguyệt Chu Văn Tái Thiền Sư 

Sư họ Vương, người Úy Châu, Quảng Ninh. Nhân đọc Niêm Cổ của sư Vạn Tùng đến câu “đến chỗ trở về là trái lời cha” thì quay mặt vào vách suy nghiệm, hốt nhiên tỉnh ngộ. Khi tham yết sư Vô Phương, sư liền hỏi: “Thầy xưa có nói chính mỗi người phải tự mình thấy được, không theo bên ngoài. Trực tiếp hướng về nơi chính mình thì hoài bảo liền tuôn tràn cùng khắp”. Sư chưa dứt lời sư Phương liền tát ngay vào mặt sư. Sư kinh ngạc, tỉnh ngộ, liền nói kệ:

“Như sét đánh vào má.
Như lửa xẹt trên đá.
Lập mệnh an thân tuyệt bóng hình.
Tháng chạp hoa sen nở đóa đóa.”

Năm đầu niên hiệu Chánh Đức, sư phụng chiếu trụ trì chùa Thiếu Lâm. Đồ chúng vân tập, sư thuyết pháp không dừng. Năm Giáp Thân hiệu Gia Tỉnh sư đã hơn 70 tuổi, sư kết am tranh gần đồi Tam Thập Lục.

Bài tán:
Sấm chớp giữa trời xanh
Một tát ngay vào má
Đèn lồng cười rộ lên
Sương đọng dưới mặt trời.
Trời trong xanh mây xanh
Lửa hồng tươi sen nở
Xứ xứ tâm quang minh
Núi mòn và biển cạn.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 31 tháng 5, năm 1985:

Sấm tan trời tạnh dứt lòng nghi
Một tát tai liền đoạn tử sinh
Đèn lồng cười rộ không thường thấy
Đọng giọt sương mai dưới mặt trời.
Sen trổ lửa hồng siêu phương tiện
Nước sâu thuyền lướt tải văn* kinh
Xứ xứ quang minh tâm vô ngại
Núi mòn biển cạn vẫn an bình.
……………………
* Văn Tải còn là tên thiền sư Nguyệt Chu

3.69 Đại Chương Tông Thư Thiền Sư 

Sư họ Lý, người Thuận Đức, tham yết sư Nguyệt Chu Văn Tải. Mỗi khi nghe sư Chu nêu thoại đầu Nạp Ba Tăng Tị thì như ăn không biết mùi vị. Cứ như vậy trải qua 8 năm, một hôm sư ngẫu nhiên nghe tiếng sấm vang trời thì đại ngộ. Sư khai pháp tại chùa Hưng Đức rồi dời sang trụ chùa Thiên Khánh năm Đinh Tị, chủ trì chùa Thiếu Lâm, sư thượng đường, nói: “Gió bấc lạnh lùng, biển hồ đóng băng các dòng nước đều ngưng chảy. Đó là cảnh giới gì?.”. Những người có mặt đều dựng tóc gáy, đứng trân người. Sư nói: “Phải chuyển đổi thân theo một đường hướng, tại sao người không thấy được đạo. Trước  cửa Thái Dương ngày ngày dài như ba mùa thu. Trước đường Minh Nguyệt như chín mùa hạ. Sơn tăng hôm nay bỏ thêm than vào lò lửa, phía sau người khách thêm áo lông điêu, làm người toát mồ hôi hột, cả người nhẹ nhỏm. Mây tan trên đỉnh núi. Mai tỏa hương thơm”. Những năm về sau sư trụ nơi am Tông Cảnh. Tháng 12 năm Ất Mảo hiệu Long Khánh sư an tọa mà hóa. Hỏa táng phân xá lợi làm ba nơi để dựng tháp.

Bài tán:
Tiếng sấm vang dậy đất
Đốn ngộ lời Tổ truyền
Thầm gạn lọc tám năm
Thiên chánh dung nhiếp nhau.
Dứt bỏ rừng kiến chấp
Phật môn sừng sững cao
Chín đỉnh uy nghi đứng
Luôn quy kính ngàn năm.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 1 tháng 6, năm 1985:

Trời xuân khói tỏa diệu kỳ
Văn chương cả khối pháp* thì hiếm thay
Sấm vang ngộ ý tây lai
Cơ duyên Đông độ biển mai sớm nhìn.
Ẩn tu tập khí chẳng sinh
Bồ Đề trưởng dưỡng khổ hình cần chuyên
Vô sở đắc, chẳng chinh nghiêng
Dứt dòng phiền não đảo điên tham cầu.
………………………
*Pháp của Tông Thư thiền sư

3.70 Huyễn Hưu Thường Nhuận Thiền Sư 

Sư họ Vương, người Nam Xương Tấn Hiền, nhân duyệt kinh Lăng Nghiêm đến câu: “Tròn sáng liễu tri, không nương vào tâm niệm” thì tỉnh ngộ. Sư tham yết Đại Phương Liên Công, chưa khế hợp, trở lại tham yết sư Tiểu Sơn, đưa ra câu thoại đầu trước kia. Sư Sơn hỏi vặn lại. Sư không đối đáp được. Một hôm, sư Sơn hỏi: “Chỗ nghi cũ đã mở được chưa?”. Sư đưa bàn tay lên. Sư Sơn nói: “Chớ nên lấy cái lưới hình tượng mà tả cảnh”. Sư nói: “Ngoài việc này ra thì còn có gì nữa?”. Đáp: “Hãy tự mở chỗ che đậy mà kiểm chứng”. Sư y theo lời, càng thêm tinh tấn tham cứu qua hai năm thì khế ngộ. Sư từ thoại đầu của Động Sơn nói về ngã và nhân trình bài kệ:

“Nếu muốn biết người ấy
Có tin tức thật đấy
Vô tướng đầy hư không
Hữu hình không lời vậy.

Sư Sơn gật đầu, phó chúc. Tháng 4 năm Ất Dậu hiệu Vạn Lịch sư báo trước sẽ thị tịch, dự bị đầy đủ kinh sách đã ghi chép. Một vị quan Đại Tông Bá lưu truyền danh tiếng của sư. Một cư sĩ họ Lục khắc những lời văn này trên đá.
Bài tán:
Biết rõ ràng tường tận
Chẳng nương vào tâm niệm
Phượng rực rỡ trời xanh
Loài báo dưới sương mờ.
Phiến gương báu sáng trong
Thần khí đầy uy phong
Kề cận bên một người
Ngũ nhũ cỏ sắc bén như tên.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 6 tháng 6, năm 1985:

Kinh điển Lăng Nghiêm nguồn trí tuệ
Muôn vàn tia sáng tỏa khôn càn
Liễu tri ly niệm viên toàn
Ảo hình ảo cảnh lo toan nổi nào
Dang tay đầy dẫy anh hào
Đê đầu mới biết tiếp giao kẻ hèn
Pháp giới vô tướng biến thiên
Tung hoành vũ trụ bảo liên hoa ngồi.

3.71 Uẩn Không Thường Trung Thiền Sư 

Sư tham kiến Tiểu Sơn Thư Công tại chùa Thiếu Lâm. Lúc sư Tiểu Sơn xuống núi, sư đón lại hỏi: “Tổ Đạt Ma diện bích nay ở đâu?”. Sư Sơn chỉ tay, nói: “Nơi xứ Ô na xanh xanh mờ mờ kia”. Hỏi: “Chỉ đông nói tây làm chi?”. Đáp: “bày đặt hòa hợp với thiền như cây gai giống như cây lúa”. Sư nói: “Người ấy ngay nơi lý mà nghĩ ra điều tà mị để gạt người.” Sư Sơn đập cho một gậy. Sư theo hầu thầy 3 năm, được thọ ký, sau trở lại ẩn cư nơi núi Cô, ngày ngày chỉ tọa thiền, suốt 20 năm chỉ ăn rau quả trong núi, không ra ngoài giao tiếp với người. Năm Vạn Lịch Mậu Tí, sư hốt nhiên cáo chúng, nói: “Ta có một sự kiện thiết yếu để am tường mọi sự, các ngươi cần phải biết”. Nói rồi đưa nắm tay lên, hỏi: “Hiểu không?”. Đồ chúng không đáp được. Sư lại xô ngã cái bàn viết, kêu lên: “Ôi, ôi! Ta vì các người đã nói xong”. Sư liền hóa, tháp dựng nơi chân núi xưa, thọ 75 tuổi.

Bài tán:
Nắn cũng chẳng thành tròn
Đập cũng không tan vỡ
Trước vách đá rộng mở
Chỗ nào còn dấu che?.
Gương tông sáng long lanh
Chiếu tận loài ma mị
Sóng nước hồ dìu dặt
Con đường đất viền quanh.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 7 tháng 6, năm 1985:

Không nắm lý náo động hỏi Thạch Đầu
Đông tây chỉ trỏ nguyên do chỗ nào
Mạo xưng khai ngộ như lau
Mượn loài ma mỵ hùa nhau gạt người.
Lưới mê ý thức phá thôi
Nối truyền đuốc tuệ phục hồi thánh nhân
Sóng tung nước cuộn khó ngăn
Gần đường gần đất nên cần mau tu.

3.72 Từ Chu Phương Niệm Thiền Sư 

Sư họ Dương, người Cổ Đường, tham sư Huyễn Hưu, sư Hưu hỏi: “Ông từ đâu đến?”. Đáp: “Từ phương Bắc”. Hỏi: “Đạo ở phương Bắc có gì giống ở đây không?”. Đáp: “Nước tuy chia ra ngàn dòng nhưng chỉ từ một nguồn”. Hỏi: “Như thế đến đây làm gì?”. Đáp: “Nước từ một nguồn phân ra ngàn dòng”. Sư Hưu gật đầu. Sư đi tìm vách đá nơi sơ tổ ngồi diện bích, hốt nhiên đại ngộ, liền nói: “Trước ngọn Ngũ Nhũ được tin tốt đẹp. Thạch Đầu lớn nhỏ, từng khối hiện rõ trên đất”. Sau khi trao pháp, sư Hưu dặn dò:”Gặp gió thì dừng, nên biết. Nên tìm một người để chấn hưng tông Tào Động”. Sư du phương, đến Hội Kê, nhiều bậc đại phu thỉnh sư thuyết pháp, dừng lại Phong Đồ, gặp Trạm Nhiên Trừng Công, cùng đối đáp. Sư vừa gặp liền thấy hợp ý, mới hiểu ra lời dặn lúc trước của sư Hưu. Sư thị tịch, tháp dựng ở Hiển Thánh, Nam sơn.

Bài tán:
Con mắt ngài Cồ Đàm
Khuôn mặt sư Đạt Ma
Sợi chỉ ngọc xuyên qua
Một tràng chuỗi thẳng tắp.
Trước ngọn đồi Ngũ Nhũ
Sừng sững núi Thiết sơn
Cành nam nơi đất bắc
Đông chìm tây trào dâng.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 8 tháng 6, năm 1985:

Huyễn hưu chân hưu, hưu chẳng hưu
Bắc cầu nam cầu, cầu những đâu
Một nguồn nước rẽ muôn dòng
Bụi bay vạn hướng tụ chung gò đồi.
Trước Ngũ Nhũ vẹn toàn chân đế
Bách Trượng đường hội nhập thánh lưu.
Thuyền từ phổ độ, bốn bể khai thông
Ngày giờ năm tháng xuôi dòng ung dung.

3.73 Vô Minh Tuệ Kinh Thiền Sư

Sư họ Bùi, người Sùng Nhân, Vũ Châu, 9 tuổi theo học trường làng, lớn lên đến với sư Lẫm Sơn, sư Sơn biết là pháp khí nên đặc biệt truyền yếu chỉ. Sau đó xuống núi, kết am tranh ở Nga Phong đọc Truyền Đăng Lục, đến chỗ một vị tăng hỏi sư Hưng Thiện: “Đạo là gì?”. Sư Thiện nói: “Núi Đại Hảo”. Sư sinh nghi nên dốc lòng nghiền ngẫm quên ăn ngủ. Một hôm, nhân dời đá mà đại ngộ, liền nói kệ: “Nếu muốn cầu đạo Bồ Đề vô thượng, hãy mau thông suốt câu Hảo sơn”. Sư liền đến gặp sư Sơn, đưa ra chỗ thông suốt. Sư Sơn vặn hỏi, sư trả lời trôi chảy. Sư Sơn rất vui, mật truyền ấn ký. Sư lại khăn gói đến Thiếu thất, vào Ngũ Đài, về phương nam ngụ tại núi Động nham tỉnh Phúc Kiến, sau lại đến trú tại Thọ Xương, chùa Bảo Phương, và Nga Phong. Năm Mậu Ngọ hiệu Vạn Lịch, ngày 16 tháng giêng sư lấy bút viết dòng chữ lớn: “Ngày nay đã chỉ rõ ràng”. Viết xong sư buông bút mà hóa. Đồ chúng hỏa táng, xương trên đỉnh đầu còn nguyên vẹn, tháp dựng tại phương trượng.

Bài tán:
Dựa vào núi Đại Hảo
Có hơn hai mươi năm
Đốn tùng lại dời đá
Ngước mũi lên trên trời.
Đưa ngũ vị về Không
Xóa bỏ tam huyền học
Tướng đẹp, hành trác tuyệt
Đại đạo tiếng vang xa.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 13 tháng 6, năm 1985:

Bảo vật giữa trời dưỡng anh tài
Sáu mươi tám đời có Tuệ Kinh
Học Khổng Mạnh thuở còn thơ ấu
Nơi Lẫm Sơn hiện dấu nghi tình.
Thỉnh đạo hỏi chỗ xuất sinh
Cầu chân lên ngọn Bảo sơn dò tìm
Như thị. Pháp đà phân minh
Các ngươi gắng sức hưng bình Phật gia.

3.74 Trạm Nhiên Viên Trừng Thiền Sư 

Sư họ Hạ, người Cối Khê, theo sư Ẩn Phong tham cứu chữ Ai suốt ba ngày đêm thì có chỗ tỉnh ngộ, suốt ba năm lưng chẳng chạm chiếu. Nhân thấy sư Phong đưa ra một thoại đầu không đưa hai thoại đầu thì hốt nhiên đại ngộ. Năm Tân Mão, hiệu Vạn Lịch sư tham yết sư Từ Châu, theo sư Châu đến Phong Đồ. Sư Châu hỏi: “Dừng tại Phong Đồ hướng Thanh sơn. Bờ biển xa xa đài Việt vương, là thế nào?”. Sư đáp: “Trăng xuyên qua đáy đầm. Sóng không chau chân mày”. Sư Châu lại mang tông chỉ của tông Tào Động ra mà biện biệt cùng sư. Sư lấy kệ đối đáp, sư Châu ấn chứng, nói: “Ông về sau hẳn vượt thiên hạ, vì đầu lưỡi đã ở đây”. Sư trụ trì tám cảnh chùa nhưng chỉ hiển đạt thánh đạo tại đạo trường hồ Kinh Sơn. Đồ chúng đông đến tám ngàn người, sư thuyết pháp suốt 30 năm, trung hưng tông Tào Động, ngày ngày chống phất tử dạy người. Năm Bính Dần, hiệu Thiên Khải sư thị tịch, táng toàn thân. Tháp dựng tại Hiển Thánh, Nam sơn.

Bài tán:
Quật khởi tâm đại giác
Sấm vang rền Vân Môn
Mưa pháp tuôn như trút
Thấm nhuần khắp ba căn*.
Gương báu treo trên cao
Voi rồng đều kinh hồn
Con cháu khắp nơi chốn
Đạo che trùm cổ kim.
…………………………
*三根; C: sāngēn; J: sankon;
Chỉ ba căn cơ của con người: Thượng, trung và hạ hoặc ba nguồn gốc bất thiện là tham, sân và si.
 
Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 14 tháng 6, năm 1985:

Nước trong đầm lặng tịch nhiên*
Gió êm sóng nhẹ bình yên đất trời
Đại chấn động minh tông hiển giáo
Nối đuốc thần tổ đạo xiển dương
Cổ kim chiếu rạng muôn phương
Cao Ly Nhật Bản cũng nương một dòng
Cháu con khắp chốn xa nguồn
Ba ngàn thế giới quỷ thần hãi kinh.
……………………………………
* Tịch nhiên nghĩa giống như trạm nhiên tức Viên Trừng Trạm Nhiên thiền sư

3.75 Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư 

Sư họ Sa, người Thư Thành, tham yết sư Thọ Xương, khán thoại đầu “Giấu thân, ẩn tung tích” thì có tỉnh ngộ. Sư Xương nói: “Con kiến tìm nơi có mùi tanh, con ruồi xanh bay đến chỗ có mùi hôi thối, đó là việc của vua hay là việc của bầy tôi? Sư đáp: “Là việc của bầy tôi”. Sư Xương quát lớn, lại nghe tiếng hộ pháp động đất, bất ngờ tỉnh ngộ, trình bài kệ nhưng sư Xương không thừa nhận. Một hôm, sư đi đại tiện thấy có người leo lên cây sư đại ngộ, đến tìm gặp sư Xương, sư Xương cật vấn, sư nhất nhất đối đáp. Sư Xương nói: “Hôm nay ông đã tin rằng ta không xem thường ông”. Năm Nhâm Dần sư đến trụ tại Bác San, sau trụ ở Động nham, Đại ngưỡng, Cổ san. Năm Kỷ Tị sư dời về chùa Thiên giới ở Kim Lăng, đồ chúng thỉnh sư hành đạo hơn 30 năm, mở rộng đại pháp, các bậc anh kiệt vân tập chung quanh, rất tôn kính. Sư thị tịch, tháp dựng tại núi xưa, vào năm Canh Ngọ, hiệu Sùng Trinh.

Bài tán:
Nơi ẩn tàng tông tích
Hốt nhiên mất dấu chân
Vì cớ gì trèo cây
Đáy thùng lại rơi mất*
Trời xuân sư trở lại
Người người đều tin nhận
Đạo hạnh sư tôn nghiêm
Lưu vạn cổ trác tuyệt.
…………………..
*đáy thùng sơn đen: Dụ cho hầm sâu vô minh. “Nói thùng sơn lủng đáy” là dụ cho phá được vô minh, tức là khai ngộ.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 15 tháng 6, năm 1985:
Chúng sinh, tâm, và Phật chẳng khác*
Thấy người trên cây đã thác lại hồi sinh
Mối con bài tiết mùi tanh
Chỉ thích hư thối, ruồi xanh bay về
Vua tôi hỗ dụng cận kề
Lớn nhỏ cao thấp bốn bề lưới ra
Đại hiền thánh, đại hóa tha
Y theo hạnh nguyện sa bà đến đi.
………………………………
* còn chỉ cho tên thiền sư Vô Dị

3.76 Hối Đài Nguyên Kính Thiền Sư 

Sư họ Phùng, người Kiến Dương, nhân đọc kinh Lăng Nghiêm đến câu “tri kiến vô kiến xứ” thì có nghi tình mới đến hỏi sư Thọ Xương. Sư Xương mắng khiến sư kinh sợ. Lại xem kinh Lăng Già có câu: “Không vô thị giả” thì hốt nhiên lãnh hội được chỗ thần diệu nhưng vẫn chưa vội mừng. Lại đọc sang kinh Viên Giác, đến bài tụng: “Nước đầu ghềnh chảy xiết như quả bóng vụt qua” thì tất cả nghi ngờ đều nhổ tận gốc. Sư trở lại hỏi sư Xương: “Tôi có điều riêng này, cầu mong hòa thượng khai nhãn cho”. Sư Xương nói: “Căn bản việc ấy là gì?”. Sư liền bấm ngón tay. Sư xương nói: “Ông vẫn còn nghi”. Sư trình kệ, sư Xương cật vấn sư đều đối đáp thuận hợp. Sư Xương nói kệ phó chúc, sư bái tạ. Năm Mậu Ngọ sư trụ tại chùa Đông Uyển. Mùa thu năm Canh Ngọ thời Sùng Trinh, một hôm, sư chỉ tay dưới hang núi, vì các hành giả mà nói rằng: “có thể chôn cất ta ở đó”. Các hành giả hỏi: “Nếu như đã qua đời, đã chôn cất, ngoài ra chúng tôi còn phải làm gì để phân phát?”. Sư cười nói: “Tốt lắm”. Hành giả toan hỏi nữa thì sư đã hóa. Tháp dựng nơi sư đã chỉ định.

Bài tán:
Tri kiến vô tri
Tức có nguyên do
Tính không rỗng suốt
Sao chẳng triệt thông.
Sự đời biết rõ
Cuồng lưu dâng cầu
Vũ dũng không yên
Ngàn năm gió lộng.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 20 tháng 6, năm 1985:

Thể thấy không, thể biết không
Ngu si lại đặt đầu chồng bên trên
Chẳng hề vướng bụi mắt tinh
Đền thiêng bên ruộng quý kim vẫn còn
Cứu cánh đệ nhất pháp môn
Triệt ngộ vạn mối bôn chôn đoạn trừ
Vô tâm tướng, chấp gì ư?
Đông tây nam bắc ai người chia phân?

3.77 Vĩnh Giác Nguyên Hiền Thiền Sư  

Sư họ Thái, người Kiến Dương, đọc kinh Pháp Hoa có chỗ tỉnh ngộ, liền đến vấn sư Thọ Xương, hỏi: “Thanh tịnh quang minh thân là như thế nào?”. Sư Xương đứng thẳng người yên lặng. Sư nói: “Cái này có gì lạ?”. Sư Xương bước đi. Sư ngay đó như trút được gánh nặng, theo vào phương trượng để tỏ bày chỗ sở đắc. Sư Xương đập cho ba gậy, nói: “ Từ đây về sau không được cẩu thả”, và đọc bài kệ:

“Ngay bước chân đi râu bạc phất
Dưới cây thiền giáo tự xoay mình”.

Sư nghi hoặc khi nghe câu “dưới gậy xoay mình”. Về sau, nhân dịp đi qua Kiếm Tân, nghe một vị tăng tụng lúc to lúc nhỏ, thêm tiếng khảy móng tay v.v… thì liền hiểu được pháp của sư Xương. Năm Giáp Tuất hiệu Sùng Trinh sư trụ tại Cổ Sơn, sau trụ chùa Khai Nguyên ở Bảo Thiện, viện Chân Tịch ở Chiết Giang. Năm Đinh Dậu sư an tọa mà hóa, tháp dựng tại Cổ Sơn. Sư tinh thông ngoại, nội điển, trước thuật, bổ sung, nối ngọn đèn pháp, sách thiền rất nhiều, hơn trăm quyển hành thế.

Bài tán:
Đến khắp mười phương
Thế giới chư Phật
Là hai âm thanh
Lanh lảnh vô ngại.
Thấy được Thọ Xương
Đánh mất Bố Đại
Gõ vào trống đá
Rồng điếc liền lại.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 21 tháng 6, năm 1985:

Thanh tịnh ngồi nằm đứng đi
Ăn cơm mặc áo chẳng ly Bồ Đề
Vô sở đắc, phá giáo cơ
Bất lập văn tự có chi lạ lùng
Tự tại, Bố Đại tay buông
Hư không nát vụn còn nương chỗ nào
Mười phương đất Phật ra vào
Ngọn bút pháp giới tơ hào chẳng nghi.

3.78 Thụy Bạch Minh Tuyết Thiền Sư 

Sư họ Dương, người Đồng Thành, tham yết sư Vân Môn. Sư Môn hỏi: “Trước kia ông làm những gì?”. Sư đáp: “Làm kệ cho hàng tì xá”. Sư Môn nói: “Tứ đại giả, vọng tâm là không, ai là người tha cái thây chết của ông đến nơi này?”. Sư lặng người hồi lâu. Sư Môn đưa ra thoại đầu “chém mèo” sư ngay đó nhận biết, liền rời bồ đoàn, nói: “Một lời xuống Từ Châu tìm người gát cửa đứng trên cầu”. Sư Môn nói: “Nước khe róc rách, ông thử nói xem”. Sư đáp: “Gõ vào không âm, đập cây không thanh”. Sư Môn hoan hỷ. Qua sáu ngày sư nghe tiếng chuông thì đại ngộ, từ đó biện tài kiệt xuất. Sư Môn phó chúc. Sư Môn qua đời, sư thừa kế Hiển Thánh. Năm Canh Ngọ hiệu Sùng Trinh sư khai pháp ở Biện Sơn, Hồ Châu, Cổ Long Hoa, chủ tọa khoảng tám đạo tràng. Tháng ba năm Tân Tị, sư bảo thị giả đưa sư vào khám thờ, viết kệ, rồi lấy tay vẫy đồ chúng. Đồ chúng đến trước sư thì sư đã hóa. Tháp dựng tại Long Hoa, táng toàn thân.

Bài tán:
Tài hoa hưng khởi
Đường mờ mờ sáng
Cha con khế cơ
Sư tử vàng rống.
Ngay giữa trang kinh
Pháp tươi cây khô
Nhìn mà ngưỡng mộ
Quang minh sư biểu.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 23 tháng 6, năm 1985:

Phất phơ tuyết đẹp* trắng ngần
Chúng sinh khắp chốn muôn lần lại qua
Ai chủ tứ đại giả hòa
Vui thay vạn mối sầu là chân không
Kéo thây chết chạy chẳng thông
Niệm hồng danh Phật cầu mong liên thành
Nhập tam muội, dội âm thanh
Thai noãn thấp hóa chớ sanh ngu đần.
……………………
*Chỉ cho thiền sư Thụy Bạch Minh Tuyết.

3.79 Thạch Vũ Minh Phương Thiền Sư 

Sư họ Trần, người Vũ Đường, Gia Hưng, nhân đọc qua kinh Lăng Nghiêm: “như ông thì cảnh giới của Văn Thù Bồ tát thân tâm và thế giới hợp thành một phiến”. Sau nhân Vân Môn thượng đường, nói: “Buông xuống thì rõ”, sư khoan khoái, trình kệ:

Đến được đầu sào thư thả ý
Phóng sinh chính thị lại buông câu.

Sư Môn quát mắng đuổi ra. Lúc đó có vị tăng nêu ra thoại đầu: “Đại Tuệ bóc trái vải”, sư nghe liền đại ngộ, ngay đó cơ phong mẫn tiệp. Sư Môn nói kệ phó chúc. Năm Tân Mùi hiệu Sùng Trinh, sư khai pháp, trụ tại chùa Tượng Điền, sau qua chùa Hiển Thánh, Vũ Hàng, Bảo Thọ, Tuyết Phong, Trường Khánh. Sư trụ trì hơn mười cảnh chùa lớn. Năm Đinh Hợi hiệu Thuận Trị sư kiết đông tại chùa Phật Nhật, hốt nhiên nói với đồ chúng: “Thế giới bất an, chi bằng quay trở về”. Qua sáng ngày thứ ba, sư thượng đường, dặn đò đồ chúng rồi cáo biệt. Đến ngày thứ bảy sư lên Long Môn, ngày thứ tám thì ngồi mà hóa. Đồ chúng hỏa táng thấy răng sư không cháy. Tháp dựng tại Long Môn.

Bài tán:
Văn Thù không hai
Làm thành một phiến
Cởi manh áo mỏng
Đầu sào chuyển biến.
Miệng biển lưỡi thuyền
Cây lệ chi trổ
Hoa ưu bát la
Ngàn năm một lần.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 26 tháng 6, năm 1985:

Lăng Nghiêm diệu trạm tổng trì
Thiên ma ngoại đạo tức thì bay xa
Hãi kinh tinh mị yêu ma
Rắn thần trâu quỷ khó mà thoát thân
Vô lượng hiền thánh xuất trần
Thọ mệnh hữu hạn thêm phần gia tăng
Thạch Vũ minh chứng khuôn vàng
Ngàn năm được gặp một lần, lành thay!.

3.80 Tam Nghi Minh Vu Thiền Sư 

Sư họ Đinh, người Tiền Đường. Sư tham yết sư Vân Môn [Viên] Trừng. Sư tiến lên thiền đường, ngồi chẳng nói gì nh ưng mong người đề bạt và phá vô minh cho sư. Bổng sư Môn vào thiền đường, nói lớn: “Buông xuống hết!”. Sư bất ngờ tỉnh ngộ. Sư Môn hỏi: “Bò ở Hoài Châu ăn rơm mà ngựa ở Ích Châu căng tròn bụng là sao?”. Sư đáp: “Hỏi lấy sương đọng trên cây cột”. Sư Môn nói: “Cây ngã cành khô rốt cuộc rơi về đâu?”. Sư đáp: “Sóng Trường giang tung trắng xóa”. Sư Môn nói: “Ông ở đây vẫn còn nghi”. Sư trình kệ: “Đến nơi gặp người tất biết câu của người”. Sư Môn chế giễu. Sư phất tay áo bước ra, nói:

“Cuối xuân hoa rụng mãi trên non
Tai nghe chim hót đường mòn về quê”.

Sư sau đó hoặc nhập định suốt ngày. Trước trụ ở Long Môn, sau về Hóa sơn. Năm Quý M ùi hiệu Sùng Trinh sư kế thừa chiếu pháp của sư Vân Môn, sau trụ chùa Chân Tịch, Phạm Thụ, Chu Minh, khoảng hơn mười chùa lớn. Năm Ất Tị sư tạ thế, dựng tháp táng toàn thân tại chùa Hiển Thánh, Vân Môn.

Bài tán:
Thích Ca đông độ
Cơ luân hào phóng
Nghịch thuận co duỗi
Minh châu Bố Đại.
Tông thông thuyết thông
Du hí tam muội
Đảnh lễ chân sư
Không đâu chẳng có.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 28 tháng 6, năm 1985:

Thấy rồi phá bỏ thật tự tại
Nghiệp tận tình không kiến bổn lai
Đáp ngoài chỗ hỏi, khéo thay
Vụng về chờ đạo nhãn khai đúng thời
Phất tay áo, lửa phát ư?
Học theo Bố Đại mặt như nụ cười
Lễ kính phong thái tôn sư
Khí phách mô phạm đức dư muôn người.

3.81 Nhĩ Mật Minh Phục Thiền Sư 

Sư họ Vương người đất Cối Khê, tham yết Trinh Bạch Sơn Công tại Đại Từ, quyết một lòng cầu học. Lại thăm người b ạn l à Đức Thanh, nhân khi ở trong thuyền nghe được tiếng thanh la vang vọng thì có chỗ tỉnh ngộ. Đưa ra những điều tương tự như sư Vân Môn, sư Môn nói: “suy tư cùng tột túc duyên này phải biết rằng còn một bước ở trên nữa。Sư vâng dạ. Một hôm, sư Môn thượng đường nói: “ Buông xuống!”. Sư hốt nhiên toàn thân nhẹ nhỏm, liền nói kệ:

Sương lạnh đêm khuya nguyệt xuống gần
Người qua đất ấy dạ băn khoăn
Mỗi bước chân đi đường rộng mở
Nghiêng vành Bắc Đẩu điểm huy quang.

Sư Vân Môn chấp thuận. Qua hai năm sư Môn giao pháp. Năm Mậu Thìn hiệu Sùng Trinh sư truyền giáo tại chùa Quốc Khánh, Đông Sơn, sau trụ ở đồi Mai, hai lần giáo pháp ở chùa Hiển Thánh. Năm Canh Thìn trở lại trụ trì Đông Sơn. Mùa hạ năm Nhâm Ngọ sư không bệnh, trước đó nhịn ăn hơn một tuần, lúc sắp mất sư nói cười như thường. Tháp dựng nơi chùa Hiển Thánh, táng toàn thân.

Bài tán:
Khi nghe tiếng thanh la
Liền quên dấu chân xưa
Thân đến đất Vân Môn
Trời xanh áng mây đưa.
Tỏa ngời chòm Bắc Đẩu
Giữa đêm thuyền cặp bờ
Hoa tường vi cửa động
E ấp dáng ngây thơ.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 5 tháng 7, năm 1985:

Quyết tham cứu bổn lai nhân
Thanh la vẳng tiếng, trăng dần về Tây
Thân tâm chẳng ngại buông tay
Nghe lại tự tánh thấy ngay Bồ Đề
Đêm sương lạnh vắng người về*
Chặng đường tu đạo chớ hề lãng xao.
Tử sanh phá vỡ hồi đầu
Chòm sao Bắc Đẩu, nao nao tiếng cười.
……………………
* tức hành giả còn chỉ cho người đi con đường tu tập, hành trì quy về Phật pháp.

3.82 Tuyết Quan Đạo Ngân Thiền Sư 

Sư họ Phó, người Tín Châu. Tham yết sư Bác Sơn, nhân có vị tăng lấy tay sờ mũi, ngoáy tai, liền có chút tỉnh ngộ liền trình kệ. Sư Sơn nói: “Thẳng vào chỗ chết thì mới thấy được tâm”. Sư liền đóng cửa tham cứu suốt sáu năm, hốt nhiên đại ngộ, viết bài Tuyết Quan Ca trình lên sư Sơn. Sư Sơn khen ngợi, truyền mở cửa làm thủ chúng. Sư Sơn hỏi: “ Con mắt trời người ra sao?”. Sư đáp: “Trên đầu cửa”. Lại hỏi: “Có cần một cái gương để tự soi không?”. Sư đáp: “Thầy không thấy đó thôi”. Sư Sơn nói: “Không uổng công ông đã đến đây tham kiến”. Sư che tai như không nghe. Năm Đinh Mão sư trụ tại Doanh Sơn. Đến năm Tân Mùi sư Sơn thị tịch. Năm Bính Ngọ đến Hổ Bào ở Chiết Giang, sau về chùa Diệu Hành. Năm Đinh Sửu hiệu Sùng Trinh sư về Cổ Sơn, có bệnh nhưng vẫn an nhiên. Mật Công hỏi: “Hòa thượng an ổn chứ?”. Sư bấm ngón tay. Mật công nói: “Cũng nên trao cho câu cứu cánh”. Sư nói: “Ông nói ta sinh chăng, tử chăng?”. Mật công quay lại nhìn thì sư đã thị tịch.

Bài tán:
Tay xoa chạm vào mũi
Liền được mắt chiếu diệu
Ánh mắt tỏa rạng ngời
Tự ngàn xưa phản chiếu.
Một mình bờ sinh tử
Dúm đất hóa thành vàng
Bậc anh tài kiệt xuất
Rừng xanh dội tiếng vang.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 6 tháng 7, năm 1985:

Đối cảnh minh tâm đạo nhãn khai
Tử tức ý thức thoát trần ai
Đóng cửa sáu năm thành đạo lớn
Đối tường ngàn ngày kết thánh thai.
Che tai chẳng nhận khen chê đến
Giấu lưỡi không cho họa phúc lai
Dựng nền bảo tự làm pháp chủ
Thấp hóa hàm linh thấm đức dày.

3.83 Giác Lãng Đạo Thịnh Thiền sư

Sư họ Trương, người Chá Phổ, nhân thấy đại phụ ngồi mà hóa thì khởi nghi tình, trên đường đi nghe tiếng mèo kêu chợt tỉnh thức. Sư xem lại thoại đầu của sư Bách Trượng liền đại ngộ nên đến tham yết sư Thọ Xương, đi qua Thư Lâm thì gặp sư Đông Uyển. Sư Uyển chợt hỏi: “Ông có nghe sư Thọ Xương đề cao kinh Duy Ma Cật chăng?”. Sư đáp: “Có nghe”. Hỏi: “Bồ tát Di Lặc được thọ ký là nhất sinh bổ xứ, thế nào là nhất sinh?”.

Đáp: “Hẳn có người nghi”. Hỏi: “Ông lại đi ư?”. Sư lấy làm lạ. Nhân ngồi quanh bếp lửa, sư nêu ra: “Bậc cổ đức nơi kiếp hỏa, khi thì hoại, khi thì bất hoại nghĩa là sao?”. Đáp: “Ông lại đến à?”. Sư trình chỗ thấy của mình. Sư Uyển hoan hỷ làm kệ phó chúc. Sư biện tài vô ngại. Năm Vạn Lịch Kỷ Mùi sư khai pháp tại La Sơn, trụ trì hơn năm mươi đạo tràng, nội ngoại điển hơn 60 loại. Năm Kỷ Hợi sư thị tịch, tháp dựng tại Nhiếp Sơn.

Bài tán:
Trong rặng núi Thạch Cổ
Dây sắn bìm rối bong
Thân rồi thân lưu chuyển
Trời rộng mặt trời hồng.
Mộng bút nẩy chồi hoa
Trăng dọi cõi trời xa
Tung hoành thanh kiếm báu
Không Phật cũng không ma.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 7 tháng 7, năm 1985:

Thấy điều chưa thấy lạ sao
Bồ Đề. Nghe tiếng mèo gào liễu thông
Một nguồn đại địa, hư không
Sum la vạn tượng trong vòng cơ duyên
Kiếp hỏa bất tận miên miên
Ngũ trược ác thế người hiền mấy ai
Phật ma kiếm tuệ chém bay
Đạo đức toàn vẹn thẳng ngay thánh hiền.

3.84 Cổ San Vi Lâm Đạo Bái Thiền Sư 

Sư họ Đinh, người Kiến An. Năm sư 15 tuổi xuất gia, 18 tuổi thọ giới cụ túc, giảng kinh khắp nơi, nhân tham yết tận tường với sư Vĩnh Giác mà khế hợp. Năm sư Giác 80 tuổi trao y và phất tử cho sư, thuyết kệ rằng:

Từng bước qua  cầu đất Thọ Xương
Thuận theo dòng tục trổ cành tươi
Nhất phát bảo tồn ngàn mạch thánh
Tâm này biết được chẳng bao người.
Lận đận cuối năm đà tám chục
Đại sự nơi này giao phó y
Ba mươi năm lẻ tương và muối
Lời xưa đã nói chớ khinh khi
Thuyền trên gió ngược ngàn lao lực
Ra công vĩnh định thái bình thì.

Ngày 7 tháng 9 năm Nhâm Ngọ thời Khang Hy, sư hội đồ chúng mà hóa, thọ 88 tuổi. Sư phục hưng chùa Bảo Phúc, Cổ Sơn, Bạch Vân, Quảng Phúc, bốn chùa Khai Nguyên, soạn Hoa Nghiêm Kinh Sớ Luận Toàn Yếu, và các kinh luận tổng cộng 28 loại, 196 quyển lưu hành.

Bài tán:
Đến Thạch Cổ bao lần
Đều đề xuất chánh lệnh
Say mê kinh Hoa Nghiêm
Ba mươi năm khảo chứng.
Cây táo, bách xanh mát
Trước sau đều tỏa sáng
Trộm ấn, dòm ngó phù
Đến được chỗ cứu cánh.
Ngước mặt nhìn chiêm ngưỡng
Tự nhiên sinh cung kính.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 11 tháng 7, năm 1985:

Như mưa rào, đồng chân nhập đạo
Thấm nhuần cây cỏ một màu tươi
Tìm người hữu đức khắp nơi
Theo Nguyên công thắp đuốc trời truyền trao
Chấn hưng tông phong tuyên chánh giáo
Hiển dương Hoa Nghiêm luận sơ thân
Ứng đối Ngũ Đài Cổ Sơn
Đồng quy về một cội nguồn giác linh.

3.85 Duy Tĩnh Đạo An Thiền Sư 

Sư họ Hồ, người Tấn Giang, xuất gia tại Đức Hóa, núi Đái Vân. Trước hết tham kiến hòa thượng Cổ Hàng nhưng không phát khởi được đại ngộ. Sau đến gặp sư Vĩnh Giác phát minh được tâm địa. Đầu tiên trụ ở Cổ Sơn, sau về Nhiếp Sơn ở Kim Lăng, vang danh tiếng. Ngày mùng 1, tháng 4 năm Mậu Thìn đời Khang Hy sư thị tịch, thọ 72 tuổi, có ngữ lục lưu hành thế gian.

Bài tán:
Thổi ống sáo không lỗ
Xướng điệu hát thái bình
Cổ Sơn và Nhiếp Sơn
Ngàn sông trăng hiện bóng.
Chư thánh không truyền đạt
Một con đường hướng thượng
Toàn thân đều buông xả
Chiếu diệu ánh quang minh.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 12 tháng 7, năm 1985:

Họ Hồ tên gọi Đạo An
Tổ tiên huyết mạch Tấn Giang nối dòng
Tải Vân lìa tục xoay vòng
Nhập thất Vĩnh Giác tỏ thông pháp thuyền
Cổ, Nhiếp đề xướng giáo truyền
Biển Nam biển Bắc người hiền độ tha
Ngàn sông in bóng trăng ngà
Mặt trời ân phúc chiếu xa muôn loài.

3.86 Tung Nhũ Đạo Mật Thiền Sư 

Sư họ Đường, người Tứ Châu. Năm 14 tuổi bà nội qua đời, thấy được nhân thế như huyễn nên vào chùa Cảnh Hội xuất gia, khi lớn đi khắp các giảng đường cầu học sau bỏ đi. Sư yết kiến sư Hám Sơn Cơ Long, nghe danh Bác Sơn Nguyên Lai hòa thượng liền tìm đến gặp. Sau đó tham yết chùa Kim Túc gặp sư Trừng tại Vân Môn, sau lại lên núi Bác sơn theo chúng hái trà, chợt thấy trên khe nước hiện hình ảnh bóng mây trắng, liền hiểu rằng cả thân tâm và thế giới đều bất khả đắc, sư xuất khẩu thuyết kệ trình sư Sơn. Sư Sơn ấn chứng nói kệ phó chúc. Sư đi về núi Uất Châu ở ẩn, sau đó xuất thế khai pháp, trụ trì bảy ngôi chùa. Sư sinh năm Mậu Tí hiệu Vạn Lịch. Ngày 11 tháng 3 năm Mậu Tuất đời Thuận Trị sư thị tịch, thọ 71 tuổi. Tháp dựng bên phải Bồ Đề Xã.

Bài tán:
Sông Hoài chảy về tây
Dấu chân tôi và ông
Hái trà nhìn mây bay
Lỗ mũi đà lạc mất.
Con cháu mang liên lụy
Hối hận vô cùng cực
Nhìn phương nam an hòa
Ngàn xưa theo mẫu mực.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 15 tháng 7, năm 1985:

Sinh tử sớm ngộ vô thường
Hám Sơn, tham vấn pháp vương gần kề
Bỏ giảng, dọn tâm tập thiền
Tuân theo quy củ cửa huyền mở ra
Sương mây thấy giữa khóm trà
Riêng lòng đã rõ chẳng là quẩn quanh
Đây vô ngã, vượt thế tình
Bảy lần chủ tọa pháp đình lành thay.

3.87 Di San Không Ẩn Tông Bảo Thiền Sư 

Sư họ Lục, người Nam Hải. Năm 16 tuổi tự cầm dao đến bên tảng đá lớn lễ Phật xuống tóc, kết am cỏ tại Long Sơn, tham cứu kinh điển. Một hôm nọ duyệt lại ngữ lục đến câu: “Đá đè trên mầm trúc. Hoa núi treo lơ lửng” thì hốt nhiên rỗng suốt như khối băng đã chảy tan. Sư chí hiếu cung dưỡng mẹ. Mẹ sư qua đời, sư dựng am tại mộ ba tháng. Sau đó tham yết sư Bác Sơn. Một hôm sư Sơn đưa ra thoại đầu ”cưỡi ngược trâu nhập Phật điện”, và ra lệnh cho đồ chúng tham cứu. Sư trình bài kệ:

Tham trình có hiểu chi đâu
Càng cầu càng lại mịt mù chuyển xoay
Gặp nhau chính thật hắn đây
Bởi lòng điên đảo hiện bày rõ thay
Kiến con khiên cái cối xay
Người đá lại vỗ hai tay mà cười
Cơ duyên linh hoạt đây rồi
Cung thương hòa điệu chẳng lơi nhịp đàn.

Sư Sơn ấn chứng. Sau sư trụ tại La Phù, Trường Khánh, Hải Tràng, hoằng dương pháp của sư Bác Sơn. Ngày 22 tháng 7, năm Thuận Trị thứ 18 sư đoan tọa mà hóa, thọ 62 tuổi. Táng toàn thân, tháp dựng tại Đài Hoa Thủ, núi La Phù.

Bài tán:
Đá đè trên măng trúc
Hoa núi treo lơ lửng
Chợt mở to đôi mắt
Canh ba mặt trời hồng.
Xứ xứ đều gặp ông
Cơ duyên như sấm chớp
Bác Sơn không manh mối
Cưỡi trâu vào Phật điện.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 17 tháng 7, năm 1985:

Nam Hải đồng tử tự tay đoạn tóc
Nơi núi sâu trồng gai trúc một mình
Đọt măng tre bên cạnh đá trồi lên
Dốc núi nọ mầm rễ cây mới trổ
Cõi thiên chân vị diệu huyền hé mở
Chốn địa linh nhân kiệt chẳng ta, người
Xứ xứ gặp ông mà chẳng biết thôi
Người đá vỗ hai tay cười khúc khích.

3.88 Phiên Quang Tịnh Xán Thiền Sư  

Sư họ Chu, người Kim Lăng, nhân tham yết sư Biện Sơn có chỗ tỉnh ngộ nên đóng cửa ẩn tu, nghe được tiếng trái cây rơi trên mái ngói liền đại ngộ, trình kệ có câu: “Mấy phen đến chỗ ấy tương phùng”. Sư mở cửa, đến tham yết sư Sơn tại núi Bách Trượng. Sư nói: “Ngàn dặm đến đây, xin thầy một lần tiếp nhận.” Sư Sơn liền đánh cho một gậy. Sư nói: “Đa tạ hòa thượng đã tiếp dẫn”. Sư Sơn nói: “Hài cỏ đáng giá bao nhiêu, ai trở lại?”. Sư đáp: “Trước hòa thượng tôn kính, đâu dám đến yết kiến”. Sư Sơn nói: “Ăn gậy rồi giờ nói thử xem”. Sư đáp: “Đầu xuân còn lạnh, xin hòa thượng cẩn thận”. Sư liền đi ra, chẳng nói gì nữa. Sư Sơn phó y và phất tử. Năm Bính Tuất hiệu Thuận Trị, sư nối pháp sư Sơn, những năm về già sư trụ tại chùa Kim Tiên, Cô Tô. Đạo hạnh sư trác tuyệt, tự mình làm gương khích lệ quần chúng. Mùa xuân năm Mậu Tuất sư an tọa mà hóa. Tháp dựng tại Biện Sơn, phía bắc cầu Sáp Thủy, táng toàn thân. Sư thọ 59 tuổi, đệ tử nối pháp hơn 20 vị.

Bài tán:
Trên cây quả rụng
Mặt trời rực sáng
Thấu triệt nguồn pháp
Đoạt cờ Bách Trượng.
Nối pháp núi Biện
Lớp lớp chân lân
Đạo truyền các cõi
Kim Tiên Cổ Phật.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 18 tháng 7, năm 1985:

Chu tôn giả Kim Lăng là Tịnh Xán
Đóng cửa ẩn tu trì tụng linh văn
Cây rung rơi cuống dưa tàn
Hoa thơm nghiêng cánh chim ngàn líu lo.
Mặt đối mặt thăm dò, kiểm chứng
Tai nghe Không ngộ lý trước khi sinh
Khuyên người mẫu mực trước tiên
Vạn đời mô phạm lập nên công trình.

3.89 Cửu Mặc Đại Âm Thiền Sư 

Sư họ Diêu, người Ngữ Khê, Gia Hòa. Sư đi khắp nơi giảng pháp, thông suốt điển tịch, tham kiến Vân Môn và chư đại lão hòa thượng tại Thiên Đồng. Lại nghe sư Thụy Bạch ở Thiết Bích liền tìm đến tham yết, thấy sư Thụy Bạch đang lợp mái nhà, ra lệnh đi chẻ tre, sư hỏi: “Chẻ như thế nào?”. Sư Thụy nói: “Lấy dao bổ xuống” sư nghe liền khai ngộ. Sau nhân việc dọn bình bát sư đại ngộ. Sư trở lại tham yết sư Thụy tại Biện Sơn. Sư Sơn hỏi: “Ngay giữa lúc ấy thì như thế nào?”. Sư đáp: “Như thị giả mang đèn đến”. Sư Sơn nói: “Sau đó thì sao?”. Đáp: “chiếu trời chiếu đất”. Sư Sơn nói: “Như ở đây thì ánh sáng tỏa khắp nơi phải chăng?”. Đáp: “Thật khó dối hòa thượng.” Sư Sơn ấn chứng. Sư thừa pháp Biện Sơn, đế nối đời thứ hai, sư thị tịch. Tháp dựng hướng bắc núi xưa.

Bài tán:
Phá vỡ tường vách sắt
Một ngọn đèn trong tay
Chiếu soi khắp thiên hạ
Cuộc pháp chiến rộng bày.
Biện tài không ngăn ngại
Mưa pháp mây phiêu bồng
Đỉnh Biện sơn cao vút
Khắp ba căn thấm nhuần

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 19 tháng 7, năm 1985:

Lão Thiên Đồng khắp Vân Môn tham vấn
Đến chỗ không người tán thán hay thay
Thụy Bạch chẻ tre trời đất lộ bày
Đại Âm niêm hoa biết đêm ngày, sớm tối.
Tứ biện vô địch dứt trừ quấy rối
Lục độ bến kia kẻ biền biệt, phiêu dao
Trên dưới nghe Cửu Mặc, một tiếng gào
Khắp pháp giới chúng sinh về cõi giác.

3.90 Cô Nhai Tịnh Thông Thiền Sư 

Sư người phủ Đức An, Hồ Quảng, từ lâu nương theo Hoàng Bách, Vân Môn, lại tham yết hòa thượng Thụy Bạch tại chùa Giới Châu, Thiệu Hưng, được đề cử vào tòa thứ hai. Một hôm, sư Bạch nói với đồ chúng: “Thế giới vốn không ô nhiễm thì sao lại tạo nơi chỗ để tẩy uế?”. Sư đáp: “Nếu không tạo thì làm sao thấy rõ là không ô nhiễm?”. Sư Thụy nói: “Ai mà chẳng biết ông chính là sư Tây Đường.” Sư phất tay áo bước ra. Sau đó sư Thụy trao y và phất tử cho sư nối pháp. Sư trung hưng Động Sơn, vang danh khắp nước, người Giang Tây gọi sư là Động Sơn cổ Phật tái lai. Một khúc Tân Phong xướng lên hiếm người phụ họa. Tháng ba năm Đinh Hợi hiệu Thuận Trị sư thị tịch, tháp dựng nơi chân núi Kim Ngưu.

Bài tán:
Ngọc quý tàng trong đá
Huyền châu ẩn ánh sáng
Vào tận thất Biện Sơn
Không dấu được cẩm nang.
Cổ Phật nay trở lại
Xứ xứ đồng tán dương
Tân Phong một khúc hát
Vang động khắp Tây giang.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 20 tháng 7, năm 1985:

Nơi Giới Châu ngăn che ánh sáng
Giá cao chờ đích đáng lộ tích tông
Ngồi tòa tây độ cõi đông
Tâm vô cấu nhiễm sạch trong, thanh tuyền.
Huyết mạch Động Sơn lưu truyền trong nước
Đỉnh Cô Nhai nhuần ân phước vạn phương
Đại thánh hiện, vạn vật hưng
Hợp hòa một khúc thiên trường mấy ai.

3.91 Nguyên Khiết Tịnh Oánh Thiền Sư 

Sư họ Trang, người Duy Dương, tham yết hòa thượng Thụy tại chùa Giới Châu, Thiệu Hưng, khán thoại đầu “niệm Phật là ai”. Một hôm sư nghe tiếng hương bảng thì thấy toàn hư không nát vụn, liền vào phương trượng trình thầy. Sư Thụy gật đầu. Một hôm sư Thụy trước đồ chúng nêu ra thoại đầu “núi cao đáy biển có trâu bùn” đển hỏi đồ chúng. Sư Thụy lại nói: “Gì là một câu có thể phóng túng, thông đạt?”. Sư chỉ vị tăng đứng bên cạnh, nói: “Vị tăng này chính là người Thiệu Hưng”. Sư Thụy liền đánh một gậy. Sư hét lớn. Sư Thụy liên tiếp đập gậy vào người sư. Sư rời thầy đến khoảng 12 năm mới thấu rõ huyền chỉ. Sư khai pháp Động Sơn, Vân Nghiêm, Biện Sơn, Hiển Thánh. Năm Tân Hợi đời Khang Hi (1672) sư thị tịch tại Hiển Thánh. Đồ chúng theo di mệnh dựng tháp tại Vân Nham, Giang Tây.

Bài tán:
Đánh bại Thiên Mục
Xem phá Hùng Phong
Đường hoàng ẩn hiện
Ngay tại một câu.
Gậy và tiếng hét
Sấm dậy vang trời
Hang sâu sương đọng
Luân chuyển muôn đời.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 25 tháng 7, năm 1985:

Duy Dương họ Trang, khí núi sông
Tiếng cây hương bản dứt chạy rông
Đáy biển trâu bùn không dấu tích
Vân Nham cọp gỗ há sống nhăn.
Một gậy Thụy Bạch hiện Hán tử
Thiệu Hưng, Giới Châu sa lưới trần
Sấm sét vạn cân tan ma chướng
Thiên hạ thái bình Phật vĩnh hằng.

3.92 Vân Tông Tịnh Nột Thiền Sư 

Sư họ Vương, người Hồ Quảng, tham kiến Thụy lão sư tại Bách Trượng, thanh minh tảo tháp của tổ Đại Trí trở về. Sư Trượng hỏi: “Có gặp tổ sư không?”. Đáp: “Xương như hóa đá. Áo phất đầy tu viện”. Sư Trượng nói: “Có chỉ rõ gì không?”. Đáp: “Gió điều hòa mát mẻ”. Sư Trượng nói: “Đúng rồi đó . Sư đáp: “Cùng theo đến”. Sư Trượng nói: “ Sau thì thế nào?”. Đáp: “núi đồi nhảy múa”. Sư Trượng nói: “Chỉ được một nửa”. Sư nói: “Cũng là nhiều rồi”. Sư khai pháp tại Nghĩa Sơn, Hồ Quảng. Ngày 23 tháng 4 năm Quý Sửu sư thị tịch. Tháp dựng tại Nghĩa Sơn.

Bài tán:
Tổ sư nay trở lại
Chấn động núi đồi
Châu lăn tròn trong khay
Cơ phong thâm áo
Sư dụng pháp nghiêm mật
Móng vuốt sắc vươn dài
Trùng trùng quang minh hiện
Gương báu chiếu đỉnh cao.

Kệ:
Thanh minh tảo mộ thấy Tổ sư
Xương cứng như đá, áo vải thô
Có chỉ bảo gì, không nghe thuyết
Một câu chẳng có, ấy thiên cơ.
Người chết thành quỷ, quỷ sợ tích*
Phàm chuyển thành thánh, thánh chẳng kỳ
Như cây cứng cõi thành nhân vậy
Ngũ trược sa bà, tịnh cõi Tây.
……………….
*Một âm là tích. (Danh) Ma chết gọi là tích 聻. ◇Liêu trai chí dị 聊齋志異: Nhân tử vi quỷ, quỷ tử vi tích. Quỷ chi úy tích, do nhân chi úy quỷ dã 人死為鬼, 鬼死為聻. 鬼之畏聻, 猶人之畏鬼也 (Chương A Đoan 章阿端) Người chết thành ma, ma chết thành tích. Ma sợ tích, cũng như người sợ ma vậy.

3.93 Bạn Ngã Tịnh Lữ Thiền Sư 

Sư họ Trương, người Đức Thanh, tham lão hòa thượng Biện Sơn. Sư Sơn hỏi: “Tự kỷ của ông là gì?”. Sư đang suy nghĩ thì bị sư Sơn đánh đuổi ra. Sư liền thấy chỗ dụng của thầy nên cười lớn. Sư Sơn nghe nói nên gọi vào phương trượng hỏi: “Đêm qua ông vì cớ gì mà cười lớn như vậy?”. Đáp: “Hôm nay thì không cười”. Sư Sơn nói: “Lại đến đâu?”. Sư rủ tay áo đi ra. Sư Sơn nói kệ có câu: “có con cá vàng đi trên tường”. Lại nói: “Ông thử đi xem”. Sư bái lạy, nói: “Kinh thiên động địa là đi”. Sư Sơn nói: “Chưa tin ông ở đây”. Sư đáp: “Theo lời người xưa nghi là hại”. Năm Kỷ Sửu hiệu Thuận Trị sư khai pháp tại Ngữ Khê, cọp rống tại Điều Chi, Tư Phúc, các chùa ở Biện sơn. Đạo đức sư cao minh như người xưa, không hề lộ vẻ buồn vui, các bậc đại hiền trong Nho lâm đều cho sư là bậc tôn tượng của pháp môn. Sư thị tịch, tháp dựng bên phải Biện Sơn.

Bài tán:
Một tiếng cười lớn
Đất động trời kinh
Đánh mất mắt tinh
Nắm được chóp mũi.
Đại đạo xưa nay
Mây cuộn mưa trút
Dòng khe chảy ngược
Không chỗ tận cùng.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 27 tháng 7, năm 1985:

Biết giả tìm chân khắp núi sông
Bối trần hợp giác thấy mối giềng
Nhận giặc làm con là kẻ ngốc
Lấy khổ làm vui giữ thây tiên.
Nhận gậy vô tình ôi Tịnh Lữ
Thầy tôi siêu xuất chốn não phiền
Qua sông thuyền đốt phân hơn kém
Long tượng pháp môn tất vững bền.

3.94 Viễn Môn Tịnh Trụ Thiền Sư 

Sư họ Trần, người Mân Chương, nhân duyệt Vân Thê thất bút có câu: “ Cảm khái cái chí xuất thế kiên trì”. Sư tham yết hòa thượng Thạch Vũ tại Tấn Minh. Sư Vũ hỏi: “Chẳng là Tâm, chẳng là Phật. Chẳng là vật. Vậy rốt ráo là cái gì?”. Sư đáp: “Các cõi Trời người đều thừa ân đức ấy”. Sư Vũ nói: “Bò ở Hoài Châu ăn lúa, ngựa ở Ích Châu no bụng. Lại sinh ra thứ gì?”. Sư nói kệ:

Xuân về hoa nở
Thu đến lá rơi
Con cháu đều đắc lực
Trong nhà chẳng biết thôi.

Sư Vũ ấn chứng sư nối pháp trung hưng chùa Long Đường. Ngày 30 tháng 12 năm Giáp Ngọ đời Thuận Trị sư tập họp đồ chúng, nói: “Người xưa kêu khổ kêu vui náo loạn như mắt quỷ tinh ranh. Kẻ sơn tăng vô tác này đi kiểu nào cũng xong.” Tháp dựng nơi Long Đường, táng toàn thân.

Bài tán:
Tâm và Phật đều Không
Xuất sinh nguồn sức mạnh
Lá rụng rồi hoa trổ
Móng vuốt lộ nguyên hình.
Phật tuệ nhật sinh khởi
Rồng voi vừa đến nơi
Y theo lệnh mà làm
Theo chế độ nhà Hán.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 1 tháng 8, năm 1985:

Phú quý danh như mộng bọt bèo
Vợ con tài lộc vốn vô tình
Ngoài vật, Phật, tâm đều chẳng phải
Vô tức Hữu Trung* chẳng bóng hình.
Khắp nơi tươi đẹp hoa xuân nở
Lá rụng tàn thu một khoảng không
Thịnh suy chốn ấy ông đà biết?
Về Tây mờ nhạt thái dương hồng.
…………..
* Trung đạo

3.95 Tam Tật Tịnh Phủ Thiền Sư 

Sư họ Lữ, người Thiệu Hưng, con nhà Nho, mang chí xuất trần, nhân tham thoại đầu “vạn pháp quy nhất” chợt nghe chim oanh hót liền đại ngộ. Sư tham yết hòa thượng Mật Vân tại Kim Túc, lời tương hợp. Sư Mật Vân nêu dẫn bài tụng “thuyền giáp núi” và bảo sư nói câu tiếp sau. Sư ứng khẩu nói câu “oanh oanh bay trở lại bên thiếu nữ xinh đẹp”. Sư Vân vừa ý. Sau đó sư tham yết sư Tam Nghi tại chùa Hiển Thánh. Sư Nghi hỏi: “Quay lại Tiên Kiều để tìm đạo gốc, ông chứng nghiệm, thu nạp được gi?”. Sư đáp: “Ngày hôm qua có sáu phân bạc thỉnh Huyền Sa Lục”. Sư Nghi nói: “Chưa nhảy qua thuyền, dây đàn và 30 gậy làm sao tránh được”. Sư đáp: “Đạo là như vậy đó”. Sư Nghi biết là hàng pháp khí mà bậc tiền bối đã không để chạy thoát. Sư khai pháp tại chùa Thanh Lương, Ngô Hưng. Năm Canh Tí đời Thuận Trị sư thị tịch, tháp dựng phía sau am Ngưng Thúy.

Bài tán:
Một câu kinh lòng người
Chùa Kim Túc rúng động
Trở lại đất Vân Môn
Sư tử gầm tiếng rống.
Lò rèn mở lớn rộng
Nghiêm túc nền gia phong
Giữa dãy núi Thanh Lương
Vầng tuệ nhật chớm hồng.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 2 tháng 8, năm 1985:

Việc quân tử làm người khó biết
Thuận nghịch tiếp nhận mấy ai đang
Cuồn cuộn sóng nước Trường Giang
Sục sôi ào ạt xóa tan não phiền
Thiếu nữ xinh khi thuyền giáp núi
Sào Hứa, đà rơi túi ngọc xanh*
Mắt thiền Tam Tật tịnh thanh
Thiên nhân sư biểu, biện minh rõ ràng.
…………………………..
*Chỉ cho Lục Châu người thiếp của Thạch Sùng đời Tấn

3.96 Thiên Ngu Tịnh Bảo Thiền Sư 

Sư họ Âu, người Tân Thành, Giang Tây, từ lâu đã từng tham yết hòa thượng Cửu Mặc ở Biện Sơn. Sư Cửu Mặc thị tịch, sư lại đến tham yết hòa thượng Thạch Vũ tại Bảo Thọ. Sư Vũ hỏi: “Ông từ đâu đến?”. Đáp: ”Biện Sơn”. Sư Vũ nói: “Ở Biện Sơn đến nơi đây làm gì?”. Đáp: “Đặc biệt đến đây để được gần hòa thượng”. Sư Vũ nói: “Ông mang cái gì lại để thân cận lão tăng?”. Sư đưa tấm khăn tay, nói: “Tấm khăn thô này”. Sư Vũ nói: “Là vật nơi chốn nhàn hạ ”. Đáp: “Cái dụng hằng ngày cũng ít, kẻ khác khó được”. Sau đó sư được ấn ký. Năm Bính Thân hiệu Thuận Trị sư khai pháp tại Nam Sơn, Vũ Hàng, Hiển Thánh tại Việt Châu, Hưng Thiện tại Gia Hòa, Tử Vân tại Hàng Châu, trụ trì bốn đạo tràng chấn hưng tông phong. Sư thọ 67 tuổi, tăng lạp 41. Ngày 13 tháng 8 năm Ất Mảo đời Khang Hy sư thị tịch, tháp dựng nơi gò bên trái Nam Sơn.

Bài tán:
Tay gõ nhịp kim thanh*
Hai tai dứt trừ sạch
Giữ được tấm khăn này
Động dụng, ôi thiện hạnh.
Ngồi quên nơi non Tượng
Sặc sỡ chim phượng bay
Khe sâu hoa lau tím
Từng giọt từng giọt đọng.
………
*Tiếng kim, một thứ tiếng trong bát âm. ◎Như: tiếng cái kiểng, cái thanh la gọi là tiếng kim.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 5 tháng 8, năm 1985:

Thiên tư u tối chẳng thông
Biện Sơn tham cứu dụng công khó hành
Giũa mài vô giá bảo thành
Vàng ròng khéo đúc chuông thanh gọi đời.
Khăn tay, sinh tử thoát rồi
Trăm ngàn tam muội độ người vô minh
Núi cao bất tận ngưỡng nhìn
Sau mùa rét lạnh thông xanh vẫn còn.

3.97 Đa Phúc Tịnh Khải Thiền Sư

Sư họ Tần, người Tiền Đường, Hàng Châu, con nhà Nho, theo hòa thượng Thạch Vũ xuất gia. Nghe kinh Lăng Nghiêm có câu: “nếu thấy thân tâm thanh thoát như cây rụng lá, tức hiểu được núi sông đại địa, đao tên không xuyên được.” Sư Vũ hỏi: “Đã cởi bỏ chỗ trói buộc chưa?”. Đáp: “Tôi chưa từng bị trói buộc, hạn chế”. Sư Vũ đi ra. Sư tham yết Tam Nghi lão nhân tại chùa Hiển Thánh. Hỏi: “Sau khi trăng lặn đến gặp tôi. Lại nói “sau khi trăng lặn thì làm thế nào gặp thầy?”. Sư trình hộp hương, đáp: “Tạ sư chứng minh”. Sư Nghi nói: “ta tha cho đấy, mới được tám phần thôi”. Đáp: “Cùng ở trên một cành, canh năm lạnh giá, cũng được rồi”. Sư ẩn tu tại núi Phụng hơn hai mươi năm, tuy đạo đức thanh cao nhưng đạo tràng vắng vẻ, pháp môn không được truyền sâu rộng. Ngày 16 tháng 9 năm Giáp Dần đời Khang Hy, sư thị tịch, tháp dựng hướng nam bên trái Phụng sơn.

Bài tán:
Dao kéo không mở được
Vật ấy như thế nào?
Đạo đắc được tám phần
Quả tự nhiên sống động.
Chân núi phượng tỏa sáng
Đạo sư đà thấu triệt
Mưa móc cây đâm chồi
Ba căn nhuần ân đức.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 9 tháng 8, năm 1985:

Đất Phật Hàng Châu có Đa Phước
Trời sinh đại đức cứu chúng sinh
Trăng tàn cùng thấy ấn tâm
Thái dương chiếu khắp pháp âm trống rền
Năm canh lạnh liền cành chung nhánh
Khác họ tên, dòng giống, độ mười phương
Thiền sư Tịnh Khải gia phong
Khắp trong ba cõi đồng tôn hàng đầu.

3.98 Vị Trung Tịnh Phù Thiền Sư 

Sư họ Lưu, người Lư Lăng, xuất gia từ nhỏ, tham yết sư Ngân ở Bác sơn, sau lại tham yết sư Minh Tuyết tại Biện sơn, không khế hợp nên trở về quê đóng cửa cầu học, chợt thấy chim ngậm trái lê rơi xuống đất thì tỉnh ngộ. Sau đó sư duyệt Truyền Đăng Lục thấy chuyện một vị tăng hỏi sư Cửu Phong: “Thế nào là tự kỷ của học nhân?”. Sư Phong nói: “Ai là người hỏi?” thì hốt nhiên sư thân buông bỏ thông suốt, ngôn giáo của chư Phật Tổ đều không còn chỗ nghi. Sư đến gặp hòa thượng Phương tại chùa Bảo Thọ trình chỗ tỏ ngộ, được giao phó đại pháp. Mùa đông năm Tân Tị hiệu Sùng Trinh, vì thích phong cảnh đẹp đẽ ở Chiết Giang nên đến trụ ở chùa Bạch Nham, chỉ trong vài năm nơi đây trở thành một đại tùng lâm. Sư biên soạn “Pháp Môn Thống Hệ Chi Thư” vang danh trong thiên hạ, tăng nhân đổ xô về như trăm sông đổ về biển lớn. Sư nhuốm bệnh nhẹ mà hóa, tháp dựng bên phải chùa, táng toàn thân.

Bài tán:
Nghe đến danh tiếng sư
Như ngọc vàng va chạm
Lãnh hội được ngôn thuyết
Như sấm chớp vang rền.
Đáy mắt long lanh sáng
Tâm địa đều không không
Chiêm ngưỡng nào bắt kịp
Trang trọng như thần long.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 10 tháng 8, năm 1985:

Ngã là ai, ai là ngã,
Cởi lừa tìm lừa luống đã uổng công
Núi Biện, Bác khó qua thông
Dễ trèo lên Cửu, Ngũ phong đi, về.
Chùa Bạch Nham, lan nhã hề
Trúc xanh đan lối bốn bề quang huy
Tịnh Phù hóa độ tam thiên
Rồng thần biến hóa nhập huyền vi cơ.

3.99 Nam Am Đại Y Thiền Sư 

Sư họ Ngô, người Bồ Điền phủ Mân. Năm 12 tuổi đi học, sau vì thấy em trai và em gái lần lượt qua đời nên lìa nhà cầu Phật. Tham yết Dự Công tại Trúc Lâm, nhân buổi tiểu tham có một vị tăng hỏi về thoại đầu, sư nghe qua hốt nhiên tỉnh ngộ. Một hôm sư nghe vị thủ tọa khai thị cho một vị tăng ngồi gần bên, bất chợt thân tâm thanh thoát, an lạc. Sư đi về phương bắc, đến Hạ Tương, kết am tranh bên hồ Bạch Lộc. Một hôm khi chèo thuyền trong hồ, ngẫu nhiên ngữi được mùi hoa thơm trong một khoảng không trung, sư tháo mở được những trói buộc hằng ngày. Sư được hòa thượng Tung Nhũ Đạo Mật phó chúc. Sư khai pháp tại sáu đạo tràng. Những năm về già sư ẩn tu tại chùa Hồ Tâm ở Hoài Chi. Ngày 17 tháng 8 năm Quý Hợi đời Khang Hy, sư thị tịch, hưởng thọ 67 tuổi. Môn nhân nối pháp có 37 vị. Táng toàn thân, pháp dựng nơi núi Tây Hoa đối diện núi Chung Lĩnh, huyện Giang Phố, Giang Ninh. Ngữ lục, thi văn có hơn trăm quyển lưu hành.

Bài tán:
Trong nước Chấn Đán
Sinh đại quốc vương
Không do lối tắt
Trực chỉ đường đường.
Độ người vô số
Đạo đời cùng đến
Hậu thế mô phạm
Trời đất dài lâu.

Kệ: 
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 11 tháng 8, năm 1985:

Thương tâm em đã qua đời
Gói vài hành lý vào nơi miếu đường
Ngõ sinh tử tiểu tham đại ngộ
Nghe lõm người dứt chỗ cuồng tâm
Hồ Bạch Lộc, lối hương trầm
Đỉnh Hoài Âm đức thấm nhuần muôn phương.
Xưa nay mấy kẻ truyền tâm
Trời cao đất rộng núi sông vĩnh hằng.

3.100 Linh Thụy Hoằng Đàm Thiền Sư 

Sư húy là Hoằng Đàm, tự Linh Thụy, họ Tô, người Chư Thành, Thanh Châu, từ nhỏ đã không theo đuổi các điều gì khác mà có chí xuất thế, khi lớn lên ý chí càng bền vững. Lúc hòa thượng Tung Nhũ Đạo Mật hành đạo tại Ốc Châu, sư liền từ giả gia đình tìm đến cầu đạo. Một hôm, sư [Tung Nhũ] đến trước tòa, sư chưa kịp lễ bái, sư Nhũ ra uy quát một tiếng lớn khiến sư đột nhiên tan mọi mối nghi, lòng cảm kích bước ra. Sư đi về phương nam, tham yết hòa thượng Thiên Đồng Viên Ngộ đứng trên núi ra vẽ cung kính, được khai ngộ liền lễ bái, đột nhiên bị đánh vào đầu, sư quát lớn, lại bị đánh một lần nữa, sư lại quát lớn rồi đi ra. Sư quay về Ốc Châu, được hòa thượng Tung Nhũ phó chúc. Sư khai pháp tại chùa Báo Ân, chùa Bồ Đề, một lòng xiển dương đạo pháp. Mùa đông năm Tân Hợi đời Khang Hy, sư an tọa mà hóa vào ngày 16 tháng 11 năm Nhâm Dần hiệu Vạn Lịch, thọ 70 tuổi. Tháp dựng bên phải chùa Báo Ân, táng toàn thân.

Bài tán:
Bồ đề trưởng tử
Bác Sơn đích tôn
Đêm xuân tĩnh tọa
Hành giải tương ưng.
Núi tuyết Bàng Mi
Cốt cách oai phong
Bậc kỳ đức ấy
Cười lăn Hồ tăng.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 15 tháng 8, năm 1985:

Đời trước trồng sâu thiện căn
Lòng mang đại nguyện thế gian xa rời
Dưới tòa Tung Nhũ tóc rơi
Trước Thiên Đồng ngộ một trời nguyên minh
Hướng theo gậy hét chẳng kinh
Ân uy cùng lúc tựu thành khắp nơi
Cam lồ quyền xảo thấm tươi
Pháp môn long tượng giữa trời vút cao.

3.101 Hằng Đào Đại Tâm Thiền Sư 

Sư người Cổ Điền, họ Tống. Năm 13 tuổi theo lão nhân Đức Hiệp tại bổn quận Thượng Sanh xuống tóc xuất gia, thọ giới cụ túc với hòa thượng Hoàng Bách Hư Bạch.  Sau đó theo học với Lâm Công tại Cổ Sơn suốt 20 năm mới được chỗ tâm yếu. Năm Nhâm Ngọ đời Khang Hy, sư Lâm hội đồ chúng thuyết kệ, giao y và phất tử cho sư rồi thị tịch. Sư tu khổ hạnh trụ trì chùa Dũng Tuyền suốt 27 năm, mặc áo cũ, ăn cơm hẫm, bỏ trăm việc không làm. Sư có phong cách của sư Bách Trượng. Ngày 25 tháng 10 năm Mậu Thân hiệu Ung Chánh, sư thị tịch, thọ 77 tuổi. Tháp dựng tại Cổ Sơn. Sư soạn các bài tụng Niêm Cổ, Hoài Cổ lưu hành tại thế gian.

Bài tán:
Dáng vẻ uy nghi
Kỳ đặc hành khổ
Sinh tử đến đi
Núi tuyết Thạch Cổ.
Vi trần tam muội
Như ngu như ngây
Bổng lộ phong quang
Điệu ngâm ngày ấy.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 16 tháng 8, năm 1985:

Phật giáo Phúc Kiến ngày một sáng
Lão nhân Đức Hiệp tạo rồng thiêng
Hư Bạch thọ giới là nền
Vi Lâm thị giả vang rền Cổ Phong.
Nhiều thập niên Dũng Tuyền tiềm ẩn
Ngàn đuốc thiêng hoằng pháp, xiển dương
Chân nhân thiên nhãn uy dung
Bổn lai diện mục chưa từng giảm tăng.

3.102 San Dữu Hoằng Năng Thiền Sư  

Sư húy Hoằng Năng, tự San Dữu, họ Phan, người đất Dư Diêu, Chiết Giang. Thuở nhỏ nhiều bệnh nên muốn minh bạch chuyện sinh tử. Đến năm 33 tuổi, đọc Cao Phong ngữ lục, lễ bái xin xuất gia. Đầu tiên tham yềt sư Thụy Quang Triệt, được lệnh tham cứu thoại đầu “trúc bề”. Sư quán trong suốt 45 ngày đêm, tay không đụng đến chiếu, có chỗ tỉnh ngộ, trình bài tụng có câu: “đạp đổ đại địa và hoa trời”. Sư Thụy nói: “Nơi nào là chỗ ông đạp đổ?”. Sư hét lớn. Sư Thụy nói: “hoa trời đấy”. Sư đáp: “xin nói lại” . Sư Thụy nói: “phải lạy ba lạy”. Sư phất tay áo đi ra, đến tham kiến hòa thượng Bồ Đề, thấu rõ tông chỉ Động sơn nên được ấn chứng. Sư trụ trì chùa Cảnh Hội, Nam Mại và Giang Phố, tăng tục theo về. Sư được thỉnh trụ trì chùa Độc Phong, sau đó ẩn tu và thị tịch tại am Dương Cấp, thọ 67 tuổi. Tháp dựng bên trái am Dương Cốc, táng toàn thân.

Bài tán:
Từng bước chân qua
Đánh mất tự kỷ
Một pháp cũng không
Không đây không kia.
Đốt đèn đáy biển
Lưới cá trên non
Không thiếu diệu dụng
Hiển hách ngưỡng trông.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 17 tháng 8, năm 1985:

Trời sanh nhiều bệnh ngộ vô thường
Xuất gia hành cước khắp bốn phương
Ân cần tham yết người có mắt
Ngày đêm đoan tọa chánh pháp đường.
Mặt đất đưa chân dừng Vô, Hữu
Đập vỡ bầu không phản cố hương.
Cao sơn lưu thủy thông kim cổ
Nam bắc đông tây kiến-tính vương.

3.103 Linh Diễm Hoằng Chúc Thiền Sư 

Sư họ Mao, người Sơn Dương, quy y với hòa thượng Mật, lại theo sư Thê Hiền Diêu Lễ ở Khuông Lư xuất gia. Sư tham kiến hòa thượng Ngân tại Bác Sơn, đột nhiên giữa đêm nghe tiếng rống trong rừng, toàn thân như buông hết xuống, từ đó mới rõ ý nghĩa của việc từ bỏ gia sản xuất gia. Sư đến Thiên Đồng tham yết hòa thượng Mật Vân [Viên] Ngộ. Sau khi trở về đất Hoài, sư trình chỗ ngộ của mình lên sư Bồ Đề và được pháp ấn. Sư đóng cửa ẩn tu tại Mai Lý. Mùa xuân năm Quý Mão hiệu Khang Hy, tại chùa Hồng Phúc, tứ chúng thỉnh sư khai pháp. Đến một đêm mùa đông năm Quý Hợi, sư nghe tiếng vang động như núi tan đất lỡ, sư vui vẻ nói: “Đã đến lúc rồi”. Khi tiếng trống canh năm vang lên, sư bảo thị giả mang nước rửa mặt và an tọa như ngày thường. Trong khoảnh khắc, thị giả đến đảnh lễ thì sư đã thị tịch, hưởng thọ 74 tuổi. Tháp dựng tại bên trái chùa Bồ Đề, táng toàn thân. Sư có hai môn đồ nối pháp.

Bài tán:
Tuệ mệnh Phật tổ
Nơi bậc hiền minh
Người hiền đã đến
Chánh đại quang minh.
Cách sư đi đứng
Như mặt trời xuân
Rực rỡ thiên hạ
Ấm áp càn khôn.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 22 tháng 8, năm 1985:

Nghe tiếng rừng đêm buông vạn duyên
Cửa nhà vứt bỏ chẳng người, ta
Hư không sinh tử như vô sự
Phú quý công danh hoang dã hoa.
Đất lỡ núi tan thời khắc đến
Biển rộng trời không đã tới nhà.
Tiêu diêu tự tại mà qua lại
Năm trược đời ác, bậc độ tha.

3.104 Phá Nham Hoằng Kế Thiền Sư 

Sư họ Bộc, người đất Liên Thủy. Năm 8 tuổi thấy người bạn học mặc áo tang nên hỏi, người bạn nói rằng bà nội cậu đã qua đời. Sư hỏi: “Con người có chết sao?”, từ đó sư lưu tâm hai chữ sinh tử. Năm 17 tuổi sư vào trường, 33 tuổi vào quốc học, tham kiến sư Tuyết Kiệu, hết lòng cầu được khai thị cho những nghi tình thiết tha kia. Sau đó sư kinh hành trong rừng, trông lên thấy một vì sao trên đầu ngọn liễu, hốt nhiên toàn thân buông xả, riêng đối với công án: “nữ tử xuất định” thì vẫn còn rất mơ hồ. Một hôm tại Lạc Dương sư ngẫu nhiên thấy hoa nở, liền phá tan những nghi ngại. Mùa thu năm Giáp Ngọ đời Thuận Trị, sư được hòa thượng Tung Nhũ phó chúc. Sư khai pháp năm 60 tuổi, trụ tại chùa Trác Dương, soạn Tạp Ngữ Lục thịnh hành thế gian. Mùa thu năm Bính Dần hiệu Khang Hy sư an tọa mà hóa, thọ 82 tuổi. Tháp dựng tại sườn núi Thanh Long, chùa Trác Dương.

Bài tán:
Theo nguyện trở lại
Từ Nho vào Phật
Giày đỏ áo lam
Dạo khắp Ngô Việt.
Cửa trí chợt mở
Tay nắm trăng ngà
Vũ trụ bừng sáng
Trời người mừng vui.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 23 tháng 8, năm 1985:

Đến vì thừa nguyện khác phàm
Thấy sinh biết tử mang mang, mịt mờ
Cầu đạo theo Phật, rời Nho
Thấy gần mà lại như xa, cầu hiền
Trăng đầu liễu, biết bản nguyên
Hoa rơi trên đất ngộ liền nguồn chân
Trông lên nhật nguyệt sáng ngần
Vô ngại giải thoát cội nguồn ban sơ.

3.105 Tử Thành Truyền Toại Thiền Sư 

Sư họ Vũ, người đất Hoài. Nhân người mẹ mộng thấy được Phật xoa đầu, sinh ra sư. Năm lên 6 theo cha là hòa thượng Tiềm Am Càn xuất gia. Năm 10 tuổi theo cha tham kiến sư Dự ở Giáp Sơn, làm sa di. Từ đó sư dụng tâm thống thiết, lặng lẽ, trầm ngâm, lúc nói cười, khi ngồi nằm đều không theo thứ tự. Một buổi tối nọ, nhân đọc câu thơ của người Hán: “Kết tóc làm phu thê, ân ái đều không nghi ngại” thì hốt nhiên đại ngộ. Từ đó, đối với các công án lạ lùng đều tiếp nhận và giải đáp được. Sư trở lại chùa Bồ Đề, nối pháp sư Tiềm Am Càn. Sau đó sư trụ trì các chùa Báo Ân, Quán Âm, Đàn Độ. Mỗi khi thăng đường khai pháp, hằng trăm chư tăng vây quanh. Sư thuyết pháp như sấm sét, đồ chúng vui mừng. Tháng 3 Canh Tí đời Thuận Trị sư thị tịch, thọ 29 tuổi. Tháp dựng nơi núi Bát Trì, táng toàn thân.

Bài tán:
Nương lực trí tuệ
Nhiều kiếp lại qua
Vừa ra thai mẹ
Pháp Chỉ siêu việt.
Như sóng biển lớn
Như trăng trời cao
Ẩn hiện tự nhiên
Chẳng hề khô kiệt.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 24 tháng 8, năm 1985:

Thấy Phật xoa đầu, mẹ lạ kỳ
Tỉnh mộng sinh sư dứt hết nghi
Sáu tuổi xuất gia đồng chân thể
Lên mười hành đạo, tướng Nhan Hồi.
Dụng công mãnh liệt thần hoảng hốt
Đọc vần thơ Hán ngộ Bồ Đề
Tuổi trẻ làm nên đại pháp chủ
Đông tây cõi Phật Tổ quy về.

3.106 Nghĩa Vân Hưng Thiền Sư

Sư họ Ngụy, người Tế Nam đời Sùng Trinh thứ 8. Năm 16 tuổi có chí nguyện xuất trần nên lễ bái hòa thượng Tung Nhũ Đạo Mật xuất gia, nghe sư Mật dạy rằng chớ nên theo tâm yêu ghét thì tự nhiên minh bạch. Một thời gian sau, một đêm nọ sư nhìn lên thấy trời sương một màu, có bầy chim Hồng bay ngang cất tiếng kêu, liền đốn ngộ hỏi hòa thượng Ân. Thầy Ân đáp: “Ông thể đã mài giũa rồi”, sư che tai mà đi ra. Nhân nghe một vị tôn túc đưa ra thoại đầu “con chó không có Phật tính”, sư buông hết bao nghi ngại. Sư lễ bái hòa thượng Đàn Độ. Hòa thượng Độ nói: “Giang Nam gần mặt trời, Phật pháp tương tự nơi này”. Sư nói: “Tháng trước tôi đã sáu lần muốn rời Dương Châu”. Hòa thượng nói: “Giặc là tiểu nhân”. Sư đáp: “Kinh hãi mà nghe”. Sư trở thành người nối pháp. Đầu tiên sư khai pháp tại Kim Phong, sau đó trụ trì Thạch Đầu, trở thành một trong những môn hạ kiệt xuất của Đàn Độ. Sư sống một mình như thế.

Bài tán:
Hết lòng tham học
Phong cách thâm sâu
Nương tòa xuất thế
Vai gánh khó khăn.
Trồng cây không rễ
Trống át tiếng đàn
Nhìn diện mục ấy
Như nghe nhã âm.

Kệ: 
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 28 tháng 8, năm 1985:

Duyên xưa ôm chí xuất trần
Dưới tòa Tung Nhũ chân nhân ra đời
Sương bay hồng nhạn giữa trời
Tiếng gầm sư tử xuân tươi đất này
Giũa mài nghe tiếng, che tai
Quán Không, ly tướng, mở bày chân tâm
Đạo tràng chánh pháp truyền đăng
Thuyền từ phổ độ mê tân chỉ rành.

3.107 Cổ Nham Hưng Hoàn Thiền Sư  

Sư họ Viên, người Hoài Quận, sinh năm Giáp Tuất, hiệu Sùng Trinh. Năm lên 9 tuổi theo cha đến lễ hòa thượng Tung Nhũ Đạo Mật tại chùa Bồ Đề xin xuất gia. Lúc sư mới sinh, miệng ngậm chặt không chịu bú sữa, người mẹ thắp hương bái lạy nguyện rằng sẽ cho con bà ăn chay, từ đó sư mới bú sữa. Năm 12 tuổi, nhân nghe thấy người tham thiền tại chùa Bồ Đề, hốt nhiên tâm giao động, nhận lấy câu thoại đầu ngày đêm tham cứu. Mùa xuân năm Bính Thân sư tham kiến hòa thượng Thụy Ông ở chùa Báo Ân, thường gặp và hỏi han những người quán thoại đầu đả thiền tinh tấn thì có chỗ tỉnh ngộ. Sau đó sư tham học các nơi khác, lại tham kiến Thiên Đồng Văn hòa thượng. Sư vừa lễ bái thì hòa thượng Đồng đập cho một gậy. Sư nói: “tôi đã thấy pháp thí nơi cửa này. Việc hòa thượng khéo điều hành Phật sự, xin chỉ dẫn cho”. Sư Đồng lại đánh. Sư thân tâm hốt nhiên thư thái, quay về lễ hòa thượng Đàn Độ, trở thành đệ tử nối pháp. Trước tiên sư trụ trì chùa Văn Thù, sau về trụ chùa Hồ Tâm. Sư soạn Tập Tục Cận Đại Tôn Túc Lục lưu hành thế gian.

Bài tán:
Bước đường xuất thế
Thiện mỹ bao gồm
Chuyên cần khẩn thiết
Ánh trăng mặt nước.
Trăng nước kề nhau
Tứ sinh trong sáng
Chiếu suốt hữu tình
Đời đời lưu chuyển.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 30 tháng 8, năm 1985:

Sinh ra chẳng đói ấy Cổ Nham
Chín tuổi theo cha lễ Bồ Đề
Tham thoại hai mươi sáu nêu bản thể
Ăn gậy ba mươi bảy dứt mê.
Thân luôn kề cận người đại trí
Hờ hững giao du, giảm bạn bè.
Khẩn thiết chuyên cần hành đại giáo
Niệm đấy tại đấy chẳng lạ gì.

3.108 Đồng Cầu Truyền Dục Thiền Sư 

Sư họ Trương con thứ của Trương Hưng tại Kim Lăng, sinh năm Mậu Dần đời Sùng Trinh. Sư xuất gia năm 23 tuổi, nhân duyệt qua Trượng Nhân Lục về câu thoại đầu đồ tể Quảng Ngạc. [Khi đọc đến câu] trong Trượng Nhân Lục nói: “Buông xuống liền an nghỉ, hà tất nói rằng ta là một trong số ngàn chư Phật” thì tỉnh ngộ, thân tâm khoái lạc. Sư kiết hạ ở Vạn Sam, một hôm nghe tiếng hương bản, cả người đều khinh an như vừa mới được tắm gội. Lại đọc câu “nơi vườn sau lừa ăn cỏ” thì trong lòng nặng nề như mang đá. Sư trở lại tham kiến hòa thượng Thê Hà. Khi sư hà thăng đường có một vị tăng hỏi: “Mặt mũi xưa nay trước khi cha mẹ sinh ra sao?”. Sư Hà đập cho một gậy. Sư hốt nhiên thấy thân tâm mình rỗng suốt như băng tan. Sư Hà mang đại pháp phó chúc cho sư. Trước tiên sư khai pháp tại Mộng Bút, Mẫn Chi (Phúc Kiến). Mùa hạ năm Ất Sửu trụ ở Hồ Tâm, sau lại về chùa Báo ân, Kiến Châu. Đến mùa thu sư thị tịch. Tháp dựng tại hướng tây chùa. Có được bốn người đắc pháp.

Bài tán:
Khéo thuyết pháp yếu
Không lưu dấu tích
Như lửa tan băng
Phật Tổ khó lường.
Kim châm người đá
Người gỗ le lưỡi
Há chẳng lạ ư?
Nghi thức tượng giáo.

Kệ: 
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 31 tháng 8, năm 1985:

Con thứ họ Trương bậc thiện căn
Buông dao đồ tề hội thiên chân
Nghi hoặc vườn sau lừa gặm cỏ
Trước núi chim bay tỉnh mộng vàng.
Cây gậy Thê Hà nêu diện mục
Thụy Tẩu khua chân ngọn hải đăng.
Ngồi đứng xả thân đều hỉ hả
Mới hay cửa Phật hiện thánh nhân.

3.109 Tử Hiền Hưng Kỉ Thiền Sư 

Sư sinh năm Ất Hợi hiệu Sùng Trinh. Năm 24 tuổi lễ sư Linh Triển là bậc tôn túc xin xuất gia, sư tham cứu thoại đầu “Thanh Châu Bố Sam” , lại tham kiến sư Đàm tại chùa Báo Ân. Sư Đàm hỏi: “Ông tu theo pháp môn nào?”. Sư đưa ra thoại đầu “Thanh Châu Bố Sam”*. Sư Đàm vặn hỏi, sư không đáp được, từ đó mối nghi càng thêm lớn, ngày đêm khắc khoải, thường đi đứng chứ không dám nằm xuống. Một tối nọ sư từ trên lầu bước xuống, chân bị vướng vào một thanh gỗ nên té xuống, hốt nhiên tâm tỉnh ngộ, lòng thông suốt, thoại đầu “Thanh Châu Bố Sam” bị phá tan. Mùa xuân năm Kỷ Dậu sư tham kiến sư [Hoằng] Kế ở Trác Tích, nhận lệnh nhập thất, nhận sự trao truyền mật yếu nên đắc được đại pháp. Năm Nhâm Tí hiệu Khang Hy, sư khai pháp tại chùa Đâu Suất, lại trụ trì chùa Trác Tích hoằng dương chánh pháp, các bậc long tượng khắp nơi tìm về.
……………………
* công án của sư Bách Trượng, vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ.

Bài tán:  
Xuất thế siêu quần
Dọc ngang khó sánh
Tâm lão bà cay
Tung ra yếu chỉ.
Phép tắc ngàn xưa
Giữa dòng tu tập
Voi rồng theo chân
Quyết hưng tông phái.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 5 tháng 9, năm 1985:Tông phong Tào Động hảo hán sinh

Thanh Châu Bố Sam hơn bảy cân
Ông giữ pháp gì buông chẳng đặng
Tôi tham thoại đầu nhíu đuôi mày.
Thường ngồi chẳng nằm luôn tinh tấn
Khởi nghi tình lớn tức khắc tham
Một đạp đá bay đường sinh tử
Gia nghiệp Như Lai trọn đảm đang.

3.110 Cổ San Biến Chiếu Hưng Long Thiền Sư

Sư họ Trần người Cổ Điền, thuở nhỏ theo Nho học, hốt nhiên không theo đòi tướng thế gian, chỉ muốn thoát tục. Sư nương theo hòa thượng Hằng Đạo tham cứu tâm pháp, xuống núi tham yết khắp nơi. Sư lễ thiền sư Văn Giác tại Bắc Kinh, phát khởi nghi tình. Một hôm sư Giác vừa trông thấy sư liền đập cho một gậy trúc. Sư lễ bái. Sư Giác nói: “Ông thấy được đạo lý gì?”. Đáp: “Tôi đâu phải loài hồ tinh ở thôn dã”. Sư Giác lấy tay che miệng sư, nói: “Không nên nói những lời như vậy”. Sư tránh ra, nói: “Có miệng chỉ để ăn cơm”. Sư trình kệ rằng:

Người câm ăn hoàng liên*
Miệng đầy chẳng nói được
Chỉ biết gục gặc đầu
Đến lúc trời nóng bức.

Sư Giác ấn chứng. Sư trở lại đất Mân (Phúc Kiến), theo lệnh sư Đào nối pháp, sau thị tịch. Tháp dựng tại Cổ Sơn. Dư công Trung Thừa cảm mến đạo phong của sư nên giữ lễ làm đệ tử, sưu tập bộ Ngữ Lục của sư để lưu hành.
……………………
*một thứ cây có hoa trắng, nhụy vàng, dùng làm thuốc.

Bài tán:
Miệng có, đạo không đắc
Không miệng làm việc ma
Hè đến khí trời nóng
Dữ dằn sư nghiến răng.
Chim yến bay vạn dặm về đất Mân, gió lùa như quạt
Thường lìa chấp trước thì khác gì khuấy động trời biển.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 6 tháng 9, năm 1985:

Bỏ Nho theo Phật lập nền
Kiếm thầy hỏi bạn tìm đường bước đi.
Đầu ăn gậy, mở nơi bế tắc
Nhổ hoàng liên đắng chát ra thôi
Miệng ngậm đắng chẳng một lời
Điếc nghe thiên nhạc đổi dời đông tây
Tha phương vạn dặm tìm thầy
Thân cận tri thức bỏ ngày si mê.

3.111 Bạch Quang Đức Minh Thiền Sư 

Sư họ Ân, người Trường Hưng, Tráp Xuyên. Năm 21 tuổi tham kiến hòa thượng Khắc Quy tại Dã Sơn. Một hôm hòa thượng Quy hỏi:

“Bình minh bóng nhật chiếu không gian
Đêm đen nguyệt trải thôn làng xa xa.
Nhật nguyệt nếu chẳng sáng lòa
Chúng sinh tai họa hẳn là rõ thay.

Vậy hãy nói thử một câu chẳng can dự gì đến sáng hoặc tối”.
Sư đáp: “Đêm nay hãy cứ uống trà”. Sáng hôm sau sư đến làm lễ chúc thánh, trình kệ:

“ Mặt nhật trên không gian
Bóng trăng chiếu thôn làng
Đến đi sau trước như không vậy
Sáng tối cùng tiêu, quán chỗ nào?.
Phá vỡ thái hư ai vá lại
Vá được, mục đồng sẽ hãi kinh mà đánh chiếc trống đá”.

Sư đến Hán Dương xây chùa Quy Nguyên. Ngày 25 tháng 12 năm Quý Hợi đời Khang Hy, sư báo trước sẽ thị tịch. Đồ chúng xin nói kệ. Sư nói:

“Đến Sở ba mươi năm
Tiếng xấu khắp nơi truyền
Cũng có người nói tốt
Không cùng ta đồng tham.
Nếu cùng ta đồng tham
A! hãy cùng ta đồng tham
Cần phải giống như vầy mới được.

Sư quẳng bút mà hóa, thọ 79 tuổi, tăng lạp 42. Tháp dựng tại phía trước chùa cũ,có để lại 2 quyển ngữ lục lưu hành.

Bài tán:
Dứt mưa mặt trời lên
Con đường đá trơn trợt
Bước đi mòn gót chân
Trăng sáng chiếu theo cùng.
Nương náu Dã Sơn
Đèn lồng, trụ đường
Cười hư không tan vỡ
Trên cây sắt hoa nở .

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 8 tháng 9, năm 1985:

Bạch Quang muôn dặm chiếu thái hư
Nhật nguyệt hòa minh dưỡng quần mê
Dã Sơn, Khắc Quy vườn ruộng ấy
Chân tánh trong ngần gốc Bồ Đề.
Cười vỡ hư không vô sở đắc
Mòn chân đạp đất có lạ gì
Ném bút qua đời, ôi bạn đạo
Nắm tay cùng tiến bước chân đi.

3.112 Liễu Đường Đỉnh Triệt Thiền Sư

Sư người Cam Tuyền, Giang Nam, là cháu đời thứ 53 của Hàn Dũ, đời Đường. Thuở nhỏ đọc sách, thâm cứu về lý tánh, đến Cổ Sơn lễ bái hòa thượng Đạo Nguyên được thế độ, tu tập nối pháp. Sư ra vào Khuê Phong, đọc sách của Động Sơn. Nơi tông chỉ ngũ vị đều phát huy được chỗ khế hợp. Sư duyệt lại Tam Huyền Tam Yếu của Đại Ngu. Lại nói: “Quẳng cái ngu kia đi, cái ngu đó thì có gì là tốt, anh dùng được chỗ nào. Nếu hôm ấy tôi mà thấy được, tôi chỉ cần liếc một cái thì hẳn là nó chẳng khác nào ngói vỡ, bang tan. Ân lớn của ông lấy chi mà đáp được. Ba mươi năm sau ghi nhớ đừng sai.”. Sư nói pháp lão nhân Đạo Nguyên.

Bài tán:
Tào Khê một nguồn
Mềm như tơ buông
Khế cơ thực dụng
Là pháp trụ trì.
Tiếng sấm vang động
Trống đá không da
Vốn dòng họ Hàn
Là con Cán Cổ*
……………
* con hiền của người có tội.

Kệ:
Tuyên Công thượng nhân viết ngày 12 tháng 9, năm 1985:

Hàn Dũ bài Phật, cháu quy y
Chẳng hay ông sống khác gì như ta.
Đạo Nguyên chẳng ngại nuôi con ác
Đỉnh Triệt hẹp lòng chuộc tổ tiên.
Xưa nay chẳng thiếu đảo điên
Diệt trừ tà thuyết khắp miền khó an
Tam thiên chấn động sấm vang
Tiếng gõ trống đá tỉnh hàng yêu ma.

Hết Phần III

Trang: 1 2 3 4