ĐƯỜNG PHẬT ĐI

HƯ VÂN HÒA THƯỢNG
TUYÊN HÓA HÒA THƯỢNG
biên soạn
Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm - Bác sĩ Trần Văn Nghĩa phiên dịch

… Lòng đà như áng mây bay,
Thì nương theo gió heo may mà về ….

PHẦN II

Đời thứ 34. Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng (677-744) 

Tổ Nam Nhạc Hoài Nhượng người Kim Châu, họ Đỗ, tham kiến (Lục Tổ) ở Tào Khê. Tổ hỏi: “Từ nơi nào đến đây?”. Đáp: “Từ Tung Sơn đến”. Hỏi: “ Là vật gì, vi sao đến?”. Sư không đáp được. Sau tám năm có chút tỉnh ngộ liền đến bạch rằng: “Nay con đã hiểu”. Hỏi: “Vì sao mà hiểu được?”. Đáp: “Nếu nói là một vật tức không đúng”. Hỏi: “Lại có tu chứng chăng?”. Đáp: “Tu chứng chẳng phải không, nhưng nhiễm ô thì chẳng được”. Tổ nói: “Chỉ cái bất nhiễm ô này chư Phật đều hộ niệm. Ông được như thế, ta cũng như thế”. Sau đó sư về trụ Nam Nhạc, năm thứ ba đời Thiên Bảo (Đường Huyền Tông, tức năm 744) vào ngày 11 tháng 8 sư viên tịch, thọ 68 tuổi. Thụy hiệu là Đại Tuệ thiền sư, tháp ghi là Tối Thắng Luân.

Bài tán:
Một vật khắc khoải trong lòng
Trải tám năm mới tỏ
Không thể nhiễm ô
Sừng trên đầu thỏ.
Hùng tráng nguy nga
Nam Nhạc an tọa
Dưới chân tuấn mã
Đạp nát thiên hạ.

Bài kệ:
Ngày 6 tháng 12 năm 1983.
Tuyên công thượng nhân viết:

Vốn không một vật há có tên
Chẳng thể nhiễm ô ấy Phật tâm
Tu chứng thì vào chân như thể
Giác rồi tự ngộ tánh hư không.
Đạo phong Nam Nhạc lưu kim cổ
Ân đức Tây giang xóa thế tình
Vó ngựa giẫm tan muôn oán địch
Miên trường thế giới hưởng thanh bình.

Đời thứ 35. Thiền sư Giang Tây Đạo Nhất (709-788)

Sư người Hán Châu, huyện Thập Phương, họ Mã, theo sư Nam Nhạc Hoài Nhượng tu tập thiền. Hòa thượng Hoài Nhượng hỏi: “Tọa thiền để làm gì?”. Đáp: “Để làm Phật”. Sư Hoài Nhượng lấy một miếng gạch mang mài trên phiến đá. Sư hỏi: “Mài gạch làm chi?”. Đáp: “Để làm gương”. Hỏi: “Mài gạch mà thành gương được sao?”. Đáp; “Mài gạch không thành gương được thì tọa thiền há thành Phật được ư?”. Sư hỏi: “Vậy thì phải làm sao mới đúng?”. Hỏi: “Như bò kéo xe, nếu không đi đến trước được thì nên đánh vào xe hay là nên đánh vào bò?”. Sư không đáp được. Sư Hoài Nhượng nói kệ:

“Đất tâm chứa chủng tử
Gặp nước tất nẩy sanh
Hoa vô tướng tam muội
Không hoại cũng không thành”.

Sư hốt nhiên khai mở được chỗ mê muội. Sư trụ tại chùa Khai Nguyên. Ngày 4 tháng 2 năm Trinh Nguyên thứ IV, sư kiết già thị tịch. Đời Nguyên Hòa sư được tặng thụy hiệu là Đại Tịch thiền sư, tháp tên Đại Trang Nghiêm.

Bài tán:
Đánh đổ xe bò
Ánh sáng gương hiện
Chiếu diệu mười phương
Như sấm như sét
Đại dụng đại cơ
Thiên hóa vạn biến
Đưa đường cháu con
Mặt nhật mặt nguyệt.

Bài kệ:
Ngày 7 tháng 12 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Mài gạch làm gương luống uổng công
Tập thiền thành Phật đuợc mà mong
Đánh bò hay đánh vào xe hử?
Dụng giả hay chân, ấy thực rồng.
Đất tâm gieo giống cần vun bón
Thiên tính không dơ vạn dặm trong
Tam muội Bảo Hoa lìa các tướng
Tự nhiên ứng hợp chẳng tận cùng.

Đời thứ 36. Nam Tuyền Phổ Nguyện thiền sư (748-834)

Sư họ Vương, người Tân Trịnh, theo học với thiền sư Đại Tuệ, thọ giới tại Nam Nhạc, tu học các bộ luật. Khi đến gõ cửa thất sư Mã Tổ thì hốt nhiên quên hết pháp phương tiện*, đắc du hí tam muội. Một hôm sư đang nấu cháo. Sư Mã Tổ đến hỏi: “Vật gì trong đó?”. Sư nói: “Ông lão này dùng cái miệng nói chuyện gì vậy?”. Mã Tổ yên lặng. Đời Đường, hiệu Trinh Nguyên, sư đến Trì Châu, hơn 30 năm không đến Nam Tuyền. Một hôm có vị thủ tọa hỏi: “Trăm năm sau hòa thượng về chốn nào?”. Sư nói: “Làm một lạch nước dưới núi cho bò đi”. Vị thủ tọa nói: “Nếu tôi theo hòa thượng thì có về lại được không?”. Sư nói: “Nếu theo ta thì phải ngậm một cọng cỏ lại”. Sau đó sư có bệnh, bảo đại chúng: “Sao mờ đèn lu. Đừng bảo rằng ta có đến có đi”. Nói xong thì hóa.
…………………………………………
*Cái nơm (làm bằng tre, để bắt cá). ◇Trang Tử 莊子: Thuyên giả sở dĩ tại ngư, đắc ngư nhi vong thuyên 荃者所以在魚, 得魚而忘荃 (Ngoại vật 外物) Nơm là để bắt cá, được cá thì quên nơm.

Bài tán:
Siêu nhiên trên vạn vật
Dưới chân bụi cát bay
Không đến đất Nam Tuyền
Cỏ nước có đầy đủ.
Một buổi mai xuống núi
Khắp đại địa chấn động
Chỉ hoa nói chuyện mộng
Chém mèo biến thành bê.

Bài kệ:
Ngày 8 tháng 12 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Tung Nhạc nạp giới tập luật nghi
Nhập thất Mã Tổ thật lạ kỳ
Như gã cuồng ngông du tam muội
Lão trượng không lời, chẳng nói chi
Trong thùng có vật làm đại dụng
Miệng nói hàm hồ lộ thiên thì
Ba mươi năm vắng Nam Tuyền ấy
Một lòng cung dưỡng chẳng sự nghi.

Đời thứ 36. Bách Trượng Hoài Hải thiền sư

Sư họ Vương sanh tại Trường Lạc, Phúc Châu. Khi theo hầu Mã Tổ, một lần đang đi trên đường thấy một đàn vịt trời bay qua chợt tỉnh ngộ. Một hôm tổ thăng đường, đồ chúng vừa tập họp, sư cuốn chiếu ngồi lại. Khi tổ xuống tòa, sư theo đến phương trượng. Tổ nói: “Ta vừa đến, chưa thuyết giảng sao ông lại cuốn chiếu?”. Sư thưa: “Hôm qua tôi bị hòa thượng véo chóp mũi đau điếng”. Tổ nói: “Hôm qua ông để tâm ờ đâu?”. Sư đáp: “Hôm nay chóp mũi hết đau rồi!”. Tổ nói: “Ông đã rõ được việc hôm qua rồi”. Về sau sư đến núi Đại Hùng, Hồng Châu, Bách Trượng hoằng pháp. Năm Nguyên Hòa thứ 9, ngày 17 tháng giêng sư thị tịch, thụy là Đại Trí thiền sư, tháp tên Đại Bảo Thắng Luân.

Bài tán:
Vịt trời vừa bay qua
Chóp mũi ôi đau điếng
Hôm qua rồi hôm nay
Trong mộng nói chuyện huyễn.
Cuốn lại được manh chiếu
Bỏ đi hai lỗ tai
Trước ngọn núi Đại Hùng
Lân đẹp, phụng ra oai.

Bài kệ:
Ngày 13 tháng 12 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Thanh quy Bách Trượng dạy chúng tăng
Pháp thiền lưu lại hàng học nhân
Vịt bay, chóp mũi đau ê ẩm
Tỉnh mộng dễ đâu mở mắt trần.
Chưa giảng vì sao mà cuốn chiếu
Giác rồi chuyện trước chẳng lần khân
Trên đỉnh Đại Hùng muôn ánh sáng
Nối nguồn Phật tuệ dựng tông phong.

Đời thứ 36. Thiền sư Đại Châu Tuệ Hải

Sư họ Châu, người Kiến Châu, theo học với hòa thượng Trí ở chùa Đại Vân. Khi mới tham vấn Mã Tổ. Tổ hỏi: “Có việc gì mà đến đây?” Đáp: “Vì cầu pháp mà đến”. Tổ nói: “Trong ta một vật cũng không có thì cầu pháp gì. Tự trong nhà ông có kho tàng mà không lưu giữ, lại bỏ nhà chạy rong”. Hỏi: “Kho báu của Tuệ Hải này là gì?” Tổ nói: “Là cái ông vừa hỏi ta đó. Kho tàng của ông vốn đầy đủ, cớ sao lại chạy ra ngoài tìm cầu”. Sư nghe liền ngộ được bản tâm, vui mừng lễ tạ, theo hầu tổ sáu năm. Sau vì vị lão sư Trí già yếu nên sư phải về phụng dưỡng. Sư soạn một quyển Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn. Khi sách truyền đến Mã Tổ, tổ xem xong, nói: “Việt Châu có đại châu, tròn sáng tự tại”. Đồ chúng biết sư họ Châu nên tìm đến học, gọi sư là Đại Châu hòa thượng.

Bài tán:
Bảo tàng chôn đã lâu
Bỏ nhà chạy đâu đâu
Gặp người chỉ cho thấy
Mới biết vốn có đây.
Không phương nào chẳng chiếu
Rồng ngâm, sư tử gào
Không môn nào chẳng đạo
Sư mở rộng cửa vào.

Bài kệ:
Ngày 15 tháng 12 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Bỏ nhà tất tả hướng ngoại cầu
Quên đi nguyên tính bởi vì đâu
Ta không một vật chi trao lại
Ông có bảo tàng sớm tiếp thâu.
Đốn ngộ chân như đầy biển tuệ
Viên dung đại trí đủ ngọc châu
Nhập đạo yếu môn truyền thế giới
Bách thiên vạn kiếp pháp trường lưu.

Đời thứ 36. Thiền sư Cổ Sơn Linh Kiệu (? _ ?)

Không rõ sư từ đâu đến, cùng thiền sư Linh Mặc ở núi Ngũ Tiết được Mã Tổ ấn tâm. Sư ẩn cư trong động trước núi Cổ sơn, do đó lấy tên sư. Chùa Dũng Tuyền vốn có cái đầm sâu là hang của một con rồng độc, thường làm hại dân. Một vị quan tòng sự tên là Bùi Trụ thỉnh sư điều phục rồng dữ. Sư đến đầm đó tụng kinh Hoa Nghiêm. Rồng trồi lên nghe kinh rồi bỏ đi. Dân chúng cảm ân đức sư nên dựng chùa nơi đây thỉnh sư trụ trì. Sư khai pháp năm thứ tư đời Đường. Vua ban hoành phi Hoa Nghiêm hoằng hóa đại pháp. Về sau không rõ sư về đâu. Đây là dựa theo quyển Hoằng Thích Lục và quyển kỷ yếu của Phúc Kiến.

Bài tán:
Khế cơ Mã Tổ
Thần châu vô giá
Xiển dương Hoa Nghiêm
Rồng nép dưới thềm.
Mở rộng Thạch Cổ
Sấm sét hóa truyền
Uy nghi muôn thuở
Tỏa sáng ngày đêm.

Bài kệ:
Ngày 16 tháng 12 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Cổ sơn Phúc Kiến diệu pháp tràng
Cao tăng dựng đạo trải thời gian
Thiền sư Linh Kiệu hàng long độc
Hổ phương* ban tặng dưới triều Đường.
Sử sách Hoa Nghiêm ghi đức nghiệp
Biển ngạch Dũng Tuyền chép ổ hang
Chẳng rõ cuối cùng đâu dấu tích
Kim cổ trong ngoài rạng nguyệt quang.
…………..
*hoành phi, tấm biển treo ngang giữ nhà

Đời thứ 36. Thiền sư Nga Hồ Đại Nghĩa (745-818)

Sư họ Từ, người Cù Châu, Tu Giang, kế thừa pháp của Mã Tổ. Vua Đường Hiển Tông thường vời vào điện Lân Đức luận nghĩa và đối đáp Phật pháp. Pháp sư thường yên lặng. Sư lấy dụ vua Thuận Tông hỏi Thi Lợi thiền sư: “Chúng sinh khắp các cõi làm thế nào kiến tánh thành Phật?”. Thiền sư Thi Lợi nói: “Phật tính như trăng trong nước. Thấy được nhưng không nắm bắt được. Vì vua mà nói rằng Phật tính không thấy tức thấy. Trăng trong nước thì làm sao mà nắm bắt được”. Vua lại hỏi: “Phật tính là gì?”. Sư đáp: “Không lìa chỗ bệ hạ hỏi”. Vua thầm khế hội. Vị thượng thư tên Lý Cao hỏi: “Cái dụng đại bi của thiên thủ thiên nhãn là gì?”. Sư nói: “Vua dùng các ông làm gì?”.

Bài tán:
Nga Hồ có biệt tài
Không phải chỉ tám đấu
Luận nghĩa nơi Lân Đức
Pháp sư thường lặng thinh.
Thế nào mới là thiền
Chỉ tay vào hư không
Phật tánh không sao thấy
Nói lời lưu đời sau.

Bài kệ:
Ngày 14 tháng 12 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Thiên địa tạo hóa ẩn diệu huyền
Núi sông linh khí lộ chân nguyên
Nga Hồ Đại Nghĩa thường im lặng
Bậc thánh Trọng Ni chẳng ngữ truyền.
Thấy đâu Phật tính mà toan đắc
Đạo pháp chuyên cần chớ thản nhiên
Từ bi nên dụng ngàn tay, mắt
Hoàng đế đâu rời trăm tôi hiền.

Đời thứ 37. Thiền sư Hoàng Bách Hy Vận (?- 850)

Sư người Phúc Châu, tham vấn tổ Bách Trượng một câu cứu cánh hằng ngày. Tổ Bách Trượng đề xướng nhìn lại nhân duyên, nói: “Trước kia lão tăng bị Mã đại sư quát cho một tiếng đến ba ngày sau tai vẫn còn điếc”. Sư nghe vậy bất giác le lưỡi. Tổ nói: “Về sau phải chăng ông không theo học Mã Tổ?”. Sư đáp: “Không phải vậy. Hôm nay nhờ thầy mà thấy được cái dụng nơi đại cơ của Mã Tổ, mà chưa thấu suốt được Mã Tổ. Nếu thừa kế Mã Tổ thì sẽ mất hết cháu con”. Tổ Bách Trượng nói: “Như thị. Như thị. Cái thấy đồng với thầy thì giảm phân nửa đức của thầy. Cái thấy vượt hơn thầy thì mới có thể truyền thụ. Ông đã được cái thấy hơn thầy rồi đó”. Khi Bùi tướng quốc tại Uyển Lăng lập chùa, thỉnh sư khai pháp. Năm Đại Trung thứ ba, đời Đường Tuyên Tông sư thị tịch. Thụy là Đọan Tế thiền sư, tháp tên Quảng Nghiệp.

Bài tán:
Cùng muốn chặt ngắn chân*
Vì Mã Tổ thè lưỡi
Uy nghi và đoan chánh
Không đến nơi Lĩnh Bắc
Gậy pháp đập mở mắt
Như lửa nung đốt đá
Con cháu ở dưới chân
Chính thị kẻ đạo tặc.
………………………………
*Cẳng chân, từ đầu gối đến chân. § Tục gọi là tiểu thối 小腿. ◇Nguyễn Du 阮攸: Tính thành hạc hĩnh hà dung đoạn 性成鶴脛何容斷 (Tự thán 自嘆) Chân hạc tánh vốn dài, cắt ngắn làm sao được.

Bài kệ:
Ngày 21 tháng 12 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Tiếng gào Mã Tổ điếc ba ngày
Cơ hồ chết dỡ sống lại ngay
Dựa nơi tuệ trí, ai thầy tớ
Nào thánh nào hiền, khế đại tông
Vườn thiền hộ pháp Bùi Hưu lập
Ông dạy tăng nhân dưỡng khí hùng
Nhập đạo yếu môn mê mộng tỉnh
Cháu con vạn thế nối dòng Không.

Đời thứ 37. Thiền sư Triệu Châu Tùng Thẩm (778-897)

Sư họ Hác, người Tào Châu, từ nhỏ đã theo thầy tại bổn châu xuất gia, sau đến Trì Dương tham vấn tổ Nam Tuyền. Tổ hỏi: “Ai là sa môn?”. Sư đến trước tổ bái lạy. Tổ nói: “Vào Đông trời lạnh, xin hòa thượng trân trọng vạn phúc”. Tổ biết là bậc pháp khí nên cho nhập thất. Một hôm, Sư hỏi tổ Nam Tuyền: “Đạo là gì?”. Tổ nói: “Đạo không dính dáng gì đến việc biết hay không biết. Biết là vọng. Không biết là vô ký. Đến được chỗ không nghi tức là đạo, như thái hư rỗng rang, không thể dùng tên gì để gọi được. Sư nghe rồi liền đốn ngộ. Sau sư đến giới đàn lưu ly thọ giới, lại trụ ở viện Quán Âm, truyền pháp huyền đến khắp thiên hạ, người người tôn kính. Ngày 24 tháng 11 năm Càn Ninh thứ tư, sư quay mặt về hướng tây mà hóa, thọ 120 tuổi, thụy là Chân Tế Đại Sư.

Bài tán:
Cải trắng đất Trấn Châu
Trái bầu nơi tường đông
Cây bách ở trước sân
Đất rộng há hồ đồ.
Cửa ải của Triệu Châu
Anh qua như không qua
Chỉ nam mà nói bắc
Đập nát bệ nấu trà.

Bài kệ:
Ngày 3 tháng 1 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Tào châu, Triệu châu lại Trấn châu
Cải trắng, dầu tùng đến trái bầu
Cho vào lò luyện cùng nung nấu
Hốt nhiên thông suốt chẳng có, không
Bản lai ngộ triệt lìa chư tướng
Sinh tử rõ thông vạn sự dừng
Chỉ vì chưa rõ nên nhiều nghĩa
Bắc Nam lặn lội luống chạy rong.

Đời thứ 37. Thiền sư Quy Sơn Linh Hựu (771-853)

Sư sinh tại Phúc Châu, họ Triệu. Năm 23 tuổi đếm tham vấn tổ Bách Trượng. Tổ Bách Trượng cho nhập thất nhân vì thấy lửa cháy mà phát ngộ, được giữ chức điển tọa. Tổ Bách Trượng tuyển chọn người trụ trì ớ Quy Sơn, cho gọi sư đến, nói: “Ta thì ở đây hóa duyên. Quy Sơn là thắng cảnh, ông nên đến ở lại đó nối truyền tông phái của ta, rộng độ người đời sau để rạng rỡ thêm.” Thưa rằng: “Tôi đang làm thượng thủ ở đây, làm sao đến đó trụ trì được?”. Tổ Bách Trượng nói: “Nếu trước tăng chúng mà có thể nói được một câu siêu xuất thì có thể cùng ở đây”. Nói rồi liền chỉ vào chiếc tịnh bình, hỏi: “Nếu không được gọi là tịnh bình thì ông gọi là gì?”. Thưa: “Cũng không được gọi là miếng gỗ vậy”. Tổ Bách Trượng toan hỏi sư, sư đá tung chiếc bình mà đi ra. Tổ cười nói: “đệ nhất tọa nên để cho Sơn tử thôi” Sau đó sư đến Quy Sơn, xưng là tông Quy Ngưỡng.

Bài tán:
Đá tung tịnh bình
Quy Sơn nổi sóng
Trâu ngủ li bì
Dưới bóng dương xanh
Chẳng tịch chẳng nhàn
Ai biết vì đâu
Một cành đâm chồi
Gió xuân đào lý.

Bài kệ:
Ngày 22 tháng 12 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Dưỡng pháp tử, Phúc Châu thiêng khí
Con người họ Triệu điển kinh thông
Đá bình, chẳng nói mông lung
Thành tựu đạo khí, minh công mới là.
Quy Sơn cao diệu đầu Nam quốc
Tổ Hựu phẩm tiết vượt Tây kinh
Mận đào nẩy lộc một cành
Vạn phương tam bảo hưng bình Phật môn.

Đời thứ 38. Thiền sư Mục Châu Đạo Minh (780-877)

Sư họ Trần, người Mục Châu, lúc sinh ra ánh sáng lạ tỏa đầy phòng, mắt có hai đồng tử, trên mặt có bảy nốt ruồi. Một dịp đến chùa Khai Nguyên, lòng thấy quen thuộc dường như đã từng đến nơi đây, sau đó xin phép cha mẹ xuất gia. Sư trì giới du phương, theo học yếu chỉ của tổ Hoàng Bách, được bổ làm thủ chúng, sư Lâm Tế Nghĩa Huyền nhân nơi sư mà khai phát. Sư Vân Môn Văn Yển đến hỏi đạo, ba lần cửa đóng, khiến sư Vân Yển cảm thấy như không được vững vàng. Khi sư Vân Yển đối đáp, ngộ nhập thì được giới thiệu đến gặp sư Tuyết Phong. Sau đó sư về chùa Khai Nguyên, đan giày cỏ nuôi mẹ. Một hôm có bọn cướp đánh vào, sư lấy một chiếc giày cỏ lớn treo trên thành. Bọn cướp dùng hết sức vẫn không nhấc lên được, kinh hãi thối lui nên trong vùng được an ổn. Lúc lâm chung, sư cho gọi đệ tử đến, nói: “Ta đã hết duyên chốn này nên ra đi”. Nói rồi an tọa mà hóa. Đồ chúng dùng củi thơm hỏa táng, được xá lợi nhiều như mưa. Lại đúc tượng thờ trong chùa. Sư thọ 98 tuổi, xuất gia 76 năm.

Bài tán:
Cơ duyên như ánh chớp
Diệu dụng tợ rồng thần
Bảy tám món cổ quái
Tìm kiếm cũng về không.
Tay buông xuống nhàn hạ
Kiến lập nên hai tông
Treo một chiếc giày cỏ
Giặc cướp sợ tránh ông.

Bài kệ:
Ngày 8 tháng 3 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Ánh sáng lạ, mắt có hai đồng tử
Chùa Khai Nguyên dường như đã cố tri
Thọ trai nghiêm tịnh tì ni
Cẩn ngôn khế hợp hành vi diệu kỳ.
Đan giày cỏ nuôi mẫu thân đạm bạc
Hết duyên trần thị tịch xá lợi thiêng
Nối liền giáo hóa cơ duyên
Đức ân vĩnh viễn lưu truyền thái không.

Đời thứ 38. Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền (?- 867)

Sư người Nam Hoa, Tào Châu, họ Hình. Tại Ho ng Bách, hỏi: “Đại ý Phật pháp là gì?”. Tổ Hoàng Bách đánh cho một gậy. Ba lần hỏi đều bị đánh như vậy nên từ giả ra đi. Tổ chỉ cho đến tham vấn sư Đại Ngu. Sư nghe được ngôn thuyết của sư Đại Ngu mà tỏ ngộ. Sư trở lại chỗ Hoàng Bách, lại hỏi lời trước. Sư Hoàng Bách nói: “Lão Đại Ngu thật lắm chuyện. Chờ đến khi bị đánh đau thì biết ngay”. Sư nói: “Nói chờ làm chi, đánh ngay đây này”. Nói rồi cung tay đấm. Tổ Hoàng Bách nói: “Thật là phong cách của kẻ điên, dám đến đây nhổ râu cọp”. Sư quát lớn. Tổ Hoàng Bách nói: “Thị giả đâu, hãy đưa tên điên này lên sảnh đường”. Về sau sư trụ ở Lâm Tế, Trấn Châu, khiến tông chỉ của tổ Hoàng Bách rất hưng thịnh. Ngày 10 tháng 4 năm Hàm Thông thứ 8, sư an tọa mà hóa. Thụy hiệu là Tuệ Chiếu thiền sư, tháp tên Trừng Linh.

Bài tán:
Nhận liền ba gậy
Gãi sai chỗ ngứa
Đầu ghềnh Cao An
Bệnh cũ gặp thuốc.
Buông duỗi móng vuốt
Mất bảy mất tám
Mở tung cửa trời
Chánh pháp diệt độ.

Bài kệ:
Ngày 27 tháng 12 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Lâm Tế một trời long tượng bay
Đại Ngu, Hoàng Bách đại từ tâm
Ba lần đánh hét cơ không ngộ
Một nắm tay đưa đoạn mê lầm.
Dám vuốt râu hùm không sợ chết
Nguyện cầu quả giác há dùng dằng
Chấn hưng tông chỉ khai tòa pháp
Trấn Châu mưa nhẹ, gió mang mang.

Đời thứ 38. Thìền sư Ngưỡng Sơn Tuệ Tịch (807-883)

Sư họ Diệp, người Hoài Hóa. Năm 14 tuổi cha mẹ muốn sư có người hôn phối, sư không ưng thuận nên cắt ngón tay hết lòng quỳ trước cha mẹ xin được xuất gia cầu chánh pháp mong đáp nghĩa sinh thành. Sư được cha mẹ cho như ý. Đầu tiên sư tham vấn sư Đam Nguyên, rõ huyền chỉ. Sau đó đến Quy Sơn, vào được chỗ huyền áo. Một hôm tổ Quy Sơn hỏi: “Từ nơi nào đến?”. Sư đáp: “Giữa ruộng”. Tổ nói: “Giữa ruộng bao nhiêu người?”. Sư dựng cuốc khoanh tay. Tổ nói: “Hôm nay trên núi Nam có người cất lều cỏ”. Sư vác cuốc đi ra. Về sau sư trụ tại Ngưỡng Sơn. Một vị tăng đến chỗ sư nằm, hỏi: “ Phải chăng pháp thân cũng thuyết pháp?” Sư nói: “Ta không giảng được, nhưng có một người có thể giảng”. Hỏi: “Người có thể thuyết giảng ấy hiện ở đâu?” Sư đẩy cái gối ra. Tổ Quy Sơn nghe chuyện, nói: “ Họ Tich sử dụng lưỡi kiếm tuyệt diệu !”.

Bài tán:
Bỏ xuỗng bỏ cuốc
Lừa giết Quy Sơn
Vác mai bước ra
Kiếm lạnh hơi sương.
Cha đó con đó
Hậu sinh khả úy*
Mây bay về núi
Cù Đàm đông độ.
………………….
*Màu xanh từ màu lam mà ra, ý nói người sau giỏi hơn người trước.

Bài kệ:
Ngày 28 tháng 12 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Hoa chưa nở, lá rụng rơi về cội
Quyết chí xuất gia cự tuyệt hôn nhân
Cắt ngón tay, toàn thân cầu chánh đạo
Dứt ái ân, hoàn phục tánh nguyên chân.
Giữa đồng trống, lắm người an nhiên đứng
Trên dốc cao, ít kẻ bạn truông, đèo
Lưỡi gươm tuệ cắt lưới tình vọng dục
Rạng rỡ hào quang Quy Ngưỡng giáo môn.

Đời thứ 38. Thiền sư Linh Thọ Như Mẫn (? – 920)

Sư người Phúc Kiến, thừa kế sư Trường Khánh từng có ảnh hưởng lớn đối với họ Lưu, được kính trọng, ban hiệu là Tri Thánh đại sư. Một vị tăng hỏi: “Lý cao siêu của Phật pháp là gì?”. Sư đưa hai tay ra. Lại hỏi: “Có duyên xứ nào?”. Sư nói: “Mặt trời mọc phương đông, mặt trăng lặn phương tây”. Trong suốt 30 năm sư chưa từng được mời giữ chức thủ tọa. Có người hỏi: “Vì sao không thỉnh mời?” Sư nói; “Ta đã là thủ tọa từ khi mới vừa sinh ra. Một ngày nói là xuất gia. Một ngày nói là hành cước”. Một hôm sư bảo đồ chúng ra cổng chùa đón một vị thủ tọa. Quả thực, sư Vân Môn đến. Sư hoằng pháp vùng núi Lĩnh hơn 40 năm, để lại nhiều kỳ tích. Vua Quảng Chủ dự định dấy binh, muốn thỉnh sư vào hỏi ý kiến. Sư biết trước nên an tọa mà hóa. Khi vua đến, hỏi một hòa thượng: “Sư bệnh khi nào?”. Đáp: “Không hề có bệnh, riêng lưu lại một phong thư cho đại vương”. Vua mở thư, thấy một tấm thiếp ghi: “Người trời có mắt. Thượng Tọa trong viện”. Vua hiểu ý nên ra lệnh lui binh. Sau đó trân trọng cung thỉnh vị sư đệ nhất khai đường thuyết pháp. Tại Vân Môn cũng dựng tháp thờ táng theo nghi lễ, Quảng Chủ ban tặng thụy hiệu là Linh Thụ thiền sư, tháp Chân Thân.

Bài tán:
Sư an tọa đạo tràng
Tôn sùng đại chánh pháp
Bảy tám điều quái lạ
Tùy cơ duyên hí lộng.
Cùng người ba mươi năm
Lưu tờ thư hồi đáp
Thành tựu được việc lớn
Trên tòa cao gánh vác.

Bài kệ:
Ngày 21 tháng 12 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Pháp tràng Linh Thụ tiếp mây xanh
Mai giữa trời đông lạnh mặc tình
Cửa Phật chân không là chân lý
Tăng già giới luật tịnh tham sân.
Trông chờ thủ tọa Văn công đến
Không mong Quảng chủ hỏi giao phong
An tọa qua đời thành đạo lớn
Tự tại thoát ra há bận lòng.

Đời thứ 39. Thiền sư Hưng Hóa Tồn Tưởng (830-925)

Lúc đầu sư đến đạo tràng Lâm Tế, tiếp đó làm thủ tọa tại Tam Thánh. Từ sư Đại Giác, sư nghe việc tiên sư Lâm Tế nhờ cái đánh hét của tổ Hoàng Bách mà hội nhập được đạo lý. Một hôm, sư khai đường, dâng hương, nói: “Nén hương này vì sư huynh Tam Thánh. Tam Thánh đối với ta rất keo kiệt. Sư Đại Giác thì đối với ta rất rộng rãi, không bằng cúng dường Lâm Tế tiên sư.” Về sau vua Đường Trang Tông thỉnh sư, hỏi: “Trẩm đến trung nguyên được một báu vật, nhưng chưa có ai lượng giá”. Sư nói: “Xin bệ hạ cho xem”. Vua mở khan bịt đầu đẻ xuống chân. Sư nói: “Vật báu của vua ai dám lượng giá”. Vua Trang Tông rất vui. Lúc sắp mất, sư hỏi đồ chúng: “Có biết lão tăng không?”. Đồ chúng không đáp được. Sư ném gậy an tọa mà hóa. Thụy hiệu là Quảng Tế thiền sư. Tháp tên Thông Tịch.

Bài tán:
Cởi bỏ chiếc tăng y
Mặt mày đà đổi khác
Thấu đáo suốt xương tủy
Toàn chánh lệnh nêu ra
Sông Hô Đà cuồn cuộn
Nước Hưng Hóa sóng tuôn
Trên cục thịt đỏ hỏn
Sinh ra sư tử con

Bài kệ:
Ngày 11 tháng 7 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Về Nam đồng tử Thiện Tài cầu
Sương khói trăm thành hỏi bến đâu
Gậy đánh, miệng gào, triệt yếu chỉ
Liễu ngộ ngoài tâm chẳng nửa câu.
Bảo vật nhà vua khôn lượng giá
Diện mục lão tăng mấy kẻ tường
Xác thân siêu thoát hào quang chiếu
Thanh cao đây ngã tịnh lạc thường.

Đời thứ 39. Thiền sư Tây Tháp Quang Mục (?-?)

Sư kế thừa pháp của thiền sư Ngưỡng Sơn Tuệ Tịch. Một vị tăng hỏi: “Nghe đúng là nghe như thế nào?”. Sư nói: “Không từ lỗ tai vào”. Hỏi: “Vậy thì từ đâu ra?”. Sư nói: “Nghe lại cái gì?”. Hỏi: “Ý của chư Tổ và ý của giáo pháp giống hay khác?”. Sư nói: “Giống cũng bỏ mà khác cũng bỏ. Nói đi, trên miệng một cái bình thì có thứ gì rót ra, đổ vào? ”. Hỏi: “Tổ sư từ phương Tây đến có ý gì?”. Sư nói: “Ông không có Phật tính”. Hỏi: ”Đốn là sao?”. Sư vẽ một vòng tròn. Hỏi: “Tiệm là sao?”. Sư vỗ tay trong khoảng không ba lần.

Bài tán:
Kế thừa pháp Duy Ngưỡng
Sừng sững tháp phương Tây
Ý Tổ và ý pháp
Bình đổ ra, rót đầy.
Nếu hỏi nghe sao đúng
Thì không từ tai này
Hình tròn, ba tiếng vỗ
Đốn hoặc tiệm đều hay.

Bài kệ:
Ngày 12 tháng 7 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Thủ nhãn tam tổ Quy Ngưỡng minh
Nghe kinh vô tự há nhĩ căn
Tự tánh bao la hư không giới
Pháp thân chu biến khắp không gian.
Lý đốn ngộ không qua thứ lớp
Sự tiệm tu hẳn nhập viên dung
Bậc đại tông, thiền sư Quang Mục
Quán cơ khế hợp độ muôn lòng.

Đời thứ 40. Thiền sư Nam Viện Tuệ Ngung (860-952)

Sư người Hà Bắc, thăng đường, nói: “Trên khối thịt đỏ này có bức vách cao ngàn nhận*”. Một vị tăng hỏi: “Bức vách cao ngàn nhận trên khối thịt đỏ có phải là đạo của Hòa thượng không?”. Sư nói: “Phải”. Vị tăng liền xô ngã thiền sàng. Sư nói: “Ông như con lừa mù làm loạn”. Vị tăng suy nghĩ, sư liền đánh đuổi ra. Sư thị tịch vào năm Quảng Thuận thứ 2 đời Chu Thái Tổ.
……………
*Nhận: nhà Chu 周 định 8 thước là một nhận (chừng sáu thước bốn tấc tám phân bây giờ).

Bài tán:
Cứu giúp Bắc tông
Vung gươm linh kiệt
Tướng mạo oai nghi
Uy quang lẫm liệt.
Mưa tạnh mây tan
Gió đưa, cỏ nép
Hiện ra mặt mũi
Lớn thay, Nam Viện.

Bài kệ:
Ngày 13 tháng 7 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Như kề vực, giẫm trên băng mỏng
Luôn đắn đo, e ngại lúc nói, làm.
Không tạo ác, thân tâm điều phục
Làm việc lành, chớ hại tha nhân.
Viên mãn quả công thành đạo lớn
Đủ đầy tuệ phúc chuyển càn khôn
Thị tịch, vô sinh nào có đến
Lưu truyền Nam Viện nối tông môn.

Đời thứ 40. Thiền sư Tư Phước Như Bảo (? _ ?)

Sư là người nối pháp thiền sư Tây Tháp Quang Mục. Hỏi: “Gì là chỗ cần yếu nhất của tăng nhân?”. Sư nói: “Chỗ ấy ngay câu hỏi này”. Vị tăng nói: “(Khi) tôi chưa đưa ra câu hỏi trên (thì sao), thỉnh sư nói rõ”. Sư nói: “Ôi!”. Hỏi: “Các phương đều là diệu dụng, không rõ hòa thượng ở đây thì sao?”. Sư nói: “Ôi”. Hỏi: “Người xưa cầm chùy, dựng phất, lý ấy ra sao?”. Sư nói: “Á”. Hỏi: “Gia phong của hòa thượng là gì?”. Sư nói: “Ăn cơm xong thì uống ba chung trà”. Một hôm sư cầm bồ đoàn đưa lên trước đại chúng, nói: “Chư Phật chư Bồ tát và thánh nhân đạt lý đều từ đây mà ra”. Nói rồi ném bồ đoàn xuống đất, lấy tay mở khuy áo ngực, hỏi: “Làm gì sinh?”. Đồ chúng không đáp được. Một hôm sư nâng bồ đoàn để lên đầu, nói: “Các ông khó ứng đối với nhau từ bao giờ vậy?”. Đồ chúng không đáp. Sư ngồi xuống, nói: “Cũng vì tâm so lường”.

Bài tán:
Nước trà Tư Phước đậm
Ăn xong uống ba chung
Phong cách của hòa thượng
Ôi a, pháp độ người.
Phật thánh và Bồ tát
Đầy dẫy trên bồ đoàn
Tất cả cùng an tọa
Sai đúng chẳng bận lòng.

Bài kệ:
Ngày 17 tháng 7 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Thiền sư Như Bảo chẳng hé môi
Ối, a đây pháp tiếp đãi người
Việc tăng cấp bách là ngay đấy
Bí quyết Phật môn há lắm lời.
Dựng phất, cầm chùy gồm diệu nghĩa
Ăn cơm, mặc áo lộ chân huyền
Đặt ngược bồ đoàn tuyên chánh ấn
Thiên ma cung kính dám huyên thuyên.

Đời thứ 41. Thiền sư Phong Huyệt Diên Chiếu (896-973)

Sư họ Lưu, người Dư Hàng, khi tham kiến sư Nam Viện, sư Nam Viện hỏi: “Một gậy ở phương Nam dùng để luận ra điều gì?”. Sư đáp: “Luận ra điều kỳ đặc”. Sư lại hỏi: “Một gậy của hòa thượng ngay đây thì luận ra cái gì?”. Sư Nam Viện cầm tích trượng, nói: “Pháp vô sanh dưới gậy này. Duyên đến thì cái thấy không phải từ thầy”. Sư nghe được lời này liền ngộ huyền chỉ, lưu lại sáu năm. Tứ chúng thỉnh sư trụ trì Phong Huyệt. Đến năm Thiên Phúc thứ hai, quan Châu Mục thỉnh khai pháp, nối pháp Nam Viện. Ngày 15 tháng 8 năm Khai Bảo thứ 6 đời Tống thái Tổ sư lên tòa thuyết kệ, an tọa mà hóa, thọ 78 tuổi, hạ lạp 59.

Bài tán:
Đặc biệt thảo luận
Như giữ của báu
Dưới gậy vô sinh
Vâng giữ chánh hạnh
Mở kho pháp khí
Riêng mình mưu sinh
Diệu dụng phồn hưng
Trời đẹp bình minh.

Bài kệ:
Ngày 17 tháng 7 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Nam phương một gậy chẳng lưu tình
Voi rồng xuất hiện liễu vô sinh
Nghĩ suy, toan tính thành nhị nghĩa
Cuồng tâm, vọng chấp nhập tam đồ.
Bảy mươi tám tuổi hưng đại giáo
Năm mươi chín hạ ngộ diệu tông
Tinh cần bất thoái hoằng thệ nguyện
Pháp như trụ đá động thiên cung.

Đời thứ 41. Thiền sư Phong Huyệt Diên Chiếu (896-973)

Sư họ Lưu, người Dư Hàng, khi tham kiến sư Nam Viện, sư Nam Viện hỏi: “Một gậy ở phương Nam dùng để luận ra điều gì?”. Sư đáp: “Luận ra điều kỳ đặc”. Sư lại hỏi: “Một gậy của hòa thượng ngay đây thì luận ra cái gì?”. Sư Nam Viện cầm tích trượng, nói: “Pháp vô sanh dưới gậy này. Duyên đến thì cái thấy không phải từ thầy”. Sư nghe được lời này liền ngộ huyền chỉ, lưu lại sáu năm. Tứ chúng thỉnh sư trụ trì Phong Huyệt. Đến năm Thiên Phúc thứ hai, quan Châu Mục thỉnh khai pháp, nối pháp Nam Viện. Ngày 15 tháng 8 năm Khai Bảo thứ 6 đời Tống thái Tổ sư lên tòa thuyết kệ, an tọa mà hóa, thọ 78 tuổi, hạ lạp 59.

Bài tán:
Đặc biệt thảo luận
Như giữ của báu
Dưới gậy vô sinh
Vâng giữ chánh hạnh
Mở kho pháp khí
Riêng mình mưu sinh
Diệu dụng phồn hưng
Trời đẹp bình minh.

Bài kệ:
Ngày 17 tháng 7 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Nam phương một gậy chẳng lưu tình
Voi rồng xuất hiện liễu vô sinh
Nghĩ suy, toan tính thành nhị nghĩa
Cuồng tâm, vọng chấp nhập tam đồ.
Bảy mươi tám tuổi hưng đại giáo
Năm mươi chín hạ ngộ diệu tông
Tinh cần bất thoái hoằng thệ nguyện
Pháp như trụ đá động thiên cung.

Đời thứ 41. Thiền sư Báo Từ Đức Thiều (891-972)

Sư nối pháp thiền sư Tư Phúc Như Báo, không lưu lại ngôn ngữ văn tự. Thiền sư Tam Giác Chí Khiêm là người nối pháp của sư.

Bài tán:
Không văn không lời
Đoạn tuyệt xướng họa
Sáng tối giao nhau
Thần quang cao khiết.
Một tông Quy Ngưỡng
Lâu không anh kiệt
Nhìn đảnh tướng sư
Tiếp nhận chân thuyết.

Bài kệ:
Ngày 19 tháng 7 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Hư vô thế sự ví vô ngôn
Trong quyền* có thực* bởi hữu duyên
Vượt trên văn tự lìa xướng họa
Thiểu dục, pháp đăng mãi kế truyền.
Tông phong Quy Ngưỡng ngời vũ trụ
Đạo cùng khắp chốn Hựu lão sư
Ý tổ, Đắc Thiều thừa kế vị
Học rồi dạy lại, chiếc thuyền từ.
……………………
 *Sự ứng biến, thích ứng, tuy trái với đạo thường mà phải lẽ gọi là quyền 權. Đối lại với kinh hoặc thực實. 

Đời thứ 42. Thiền sư Thủ Sơn Tỉnh Niệm (926-993)

Sư họ Địch, người Lai Châu, sau trú ngụ tại Phong Huyệt. Một hôm trong pháp hội, sư Phong Huyệt nói: “Hãy chuyên cần gánh vác đại pháp”. Sư nói: “Xin được nghe yếu chỉ”. Sư Phong Huyệt thượng đường, đưa ra dụ đức thế tôn cầm hoa sen xanh trước đại chúng. Sư hỏi: “Lúc này là lúc nào?. Đạo thuyết những gì?. Nếu đạo vốn không thuyết được mà lại thuyết ra thì làm mai một các thánh nhân. Đạo thuyết gì?”. Sư phất tay áo đi ra. Sư Phong Huyệt ném gậy về phương trượng. Vị tăng thị giả hỏi: “Niệm kinh Pháp Hoa mà thậm chí không đối đáp được với hòa thượng”. Sư Phong Huyệt nói: “Nhân niệm kinh Pháp Hoa nên đã hội được lời ta”. Về sau sư trụ ở Thủ Sơn. Ngày 4 tháng 12 năm Thuần Hóa thứ 4 đời vua Tống thái Tông, giờ Ngọ, sư thượng đường từ biệt đồ chúng, nói kệ, an tọa mà hóa. Đồ chúng hỏa tang, thu xá lợi dựng tháp thờ.

Bài tán:
Phất tay áo bước ra
Ghé vai vào gánh vác
Mật dụng và mật hạnh
Chùy ẩn trong túi kín.
Chợt xuất hiện Thủ Sơn
Các cửa ngõ mở toang
Này chim phượng, chim loan
Đường mây bay thênh thang.

Bài kệ:
Ngày 20 tháng 7 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Bởi khó, tu cần phải gắng công
Ghé vai gánh vác nghiệp tổ tông
Mong nghe diệu pháp cầu giảng rõ
Giáo* hòa với Mật*, đóa sen xanh.
Thuyết giảng việc gì, tay áo phất
Ném gậy dặn dò kẻ hậu sinh
Biết đã đến thời, an tọa hóa
Thoát ra ba cõi nhập thánh linh.
……………………………
*Hiển giáo và Mật giáo

Đời thứ 42. Thiền sư Tam Giác Chí Khiêm ( ?_? )

Sư là người thừa kế đại sư Báo Từ Đức Thiều tại Đàm Châu. Một vị tăng hỏi: “Thế nào là Phật”. Sư đáp: “Hãy mau lạy ba lạy”. Vị tăng đảnh lễ. Sư nói: “Một khi phất tay tức chuyển”.

Bài tán:
Thế nào là Phật
Mau lạy ba lạy
Phất tay tức chuyển
Thuyết cũng kỳ quái.
Càng đi  càng chậm
Thùng sơn chẳng khoái.
Núi Tam Giác cao
Gió vờn cỏ nép.

Bài kệ:
Ngày 24 tháng 7 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Quy Ngưỡng ít người, Chí Khiêm cao
Dừng cơn sóng đáp Báo Từ ân
Đừng hỏi lôi thôi, tánh tức Phật
Pháp là tiếp vật, chớ lăng xăng.
Vô minh quét sạch hư không vỡ
Tâm cuồng dừng lại rạng Bồ Đề
Dựng lập đạo tràng trên Tam Giác
Phổ độ muôn loài thoát bến mê.

Đời thứ 43. Thiền sư Phần Dương Thiện Chiếu (947-1024)

Sư họ Du, người Thái Nguyên, từng tham kiến 71 vị thiện tri thức, sau đó đến Thủ Sơn. Hỏi: “Ý chỉ của sự việc cuốn chiếu nơi Bách Trượng là gi?”. Sư Sơn nói: “Phất tay áo toàn thể hiện”. Sư nói: “Ý thầy thế nào?”. Sư Sơn nói: “Nơi nào có dấu chân voi chúa thì chồn cáo đều ẩn trốn”. Sư nghe xong thì đại ngộ, nói kệ:

“Trăng Không muôn thuở hiện đầm trong
Lần mò mấy lượt mới tường thông”.

Hỏi: “Thấy đạo lý gì mà tự nhận như thế kia?”. Sư nói: “Chính nơi ta buông thân mệnh”. Về sau sư trụ ở Phần Dương, thường an tọa trên giường, hơn 30 năm không ra khỏi cửa. Đại chúng không dám gọi tên, thường gọi là sư Phần Dương. Sư ra lệnh bày một bữa tiệc, và sửa soạn hành trang, nói: “Tôi đi trước”. Nói xong buông đôi đủa mà hóa, vào năm Nguyên Thánh thứ hai đời vua Tống nhân Tông. Hỏa táng thu xá lợi dựng tháp.

Bài tán:
Hai thì được một
Cuốn chiếu Bách Trượng
Trăng tròn trên không
Mịt mờ tung tích
Hơn bảy mươi người
Ăn miếng bánh Hồ
Đại đạo rực sáng
Không dừng chuyển lưu.

Bài kệ:
Ngày 25 tháng 7 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Tìm thầy nên khắp chốn lang thang
Quy về nương dựa nẻo thiện ân
Phất tay áo rộng chân như hiện
Voi múa vòi ngà cáo ẩn thân.
Thấy lý đạo gì tâm tự mãn
Nơi buông thân mệnh, ấy cội nguồn
Buông đôi đủa xuống, an nhiên hóa
Đầm trong nước biếc mạch Tào tuôn.

Đời thứ 43. Thiền sư Hưng Dương Tự Đạt (?_?)

Sư người Kỳ Châu, núi Tam Giác, thừa pháp sư Chí Khiêm. Một vị tăng hỏi: “Cảnh giới chư Phật và cảnh giới chúng sinh cách xa nhau ra sao?”. Sư đáp: “Đạo bất khả đắc”. Vị tăng nói: “Thật ư?”. Sư nói: “Có như thế”. Hỏi: “Lọng hoa che tòa báu, ngày nay thầy nào khác lúc trên ổ chim Thước”. Sư nói: “Đạo bất khả thuyết”. Vị tăng nói: “Căn gốc sư ngày nay”. Sư nói: “Phật pháp nay trao đến ông”.

Bài tán:
Chúng sinh nào khác Phật
Thuyết đạo bất khả đắc
Truyền cho ngươi một ít
Hối hận chẳng lặng thinh.
Bông tuyết giữa trời xuân
Chẳng luận bằng hay trắc
Người đất Dĩnh lỡ cười
Bắt giặc, mau bắt giặc!.
………………..
*Kinh đô nước Sở 楚 ngày xưa, nay thuộc về địa phận tỉnh Hồ Bắc. ◇Nguyễn Du 阮攸: Yên, Dĩnh thành trung lai hà vi? 鄢郢城中來何爲 (Phản chiêu hồn 反招魂) (Khuất Nguyên 屈原) Còn trở về thành Yên, thành Dĩnh làm gì?

Bài kệ:
Ngày 26 tháng 7 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Đại đức Tự Đạt tánh hoạt bát
Quán cơ thuyết giảng cái bất-thuyết
Trời mưa hoa báu diễn diệu âm
Đất trổ sen vàng ca diễm tuyệt.
Mở miệng nói liền sai Phật pháp
Động tâm rơi lạc chỗ da lông*
Nạn tai, bắt giặc thành hí luận
Bách tùng xanh mướt giữa trời đông.
………………
*thiển cận, lệch lạc như loài thú cầm.

Đời thứ 44. Thiền sư Thạch Sương Sở Viên (986-1039)

Sư họ Lý, người Thanh Sương, Toàn Châu, đến tham kiến Phần Dương, sau hai năm vẫn chưa được cho nhập thất, mỗi khi gặp tổ đều bị mắng nhiếc. Một hôm sư than thở: “Từ khi đến chiếu pháp, chưa hề được khai thi. Nghĩ đến ngày tháng trôi qua mà việc mình chưa sáng tỏ, đâu là sụ lợi ích của người xuất gia”. Sư vừa nói xong, sư Phần Dương hét lớn: “Ông là một ác tri thức, lại dám đôi co với ta”. Nói xong giận dữ vung trượng xua đuổi. Sư định cầu xin nhưng sư Phần Dương che miệng sư lại, ngay đó sư đại ngộ, thưa: “Nay mới biết tông Lâm Tế vượt trên thường tình”. Sư ở lại hầu thầy suốt bảy năm. Sư Phần Dương khen ngợi, nói: “Ta chứng được tam muội từ tòa của tiên sư. Nay ông cũng được như vậy. Hãy đi về phương Nam làm hưng thịnh đạo ta”. Ngày 5 tháng giêng năm Khánh Lịch đời vua Tống nhân Tông sư thị tịch, hưởng thọ 54 tuổi, hạ lạp 32. Tháp dựng tại Thạch Sương, táng toàn thân.

Bài tán:
Một cơ duyên riêng thoát
Núi ngàn thước an bằng
Miệng mũi kẻ nạp tăng
Chim thước chim quạ kêu
Vung lên thanh bảo kiếm
Quỷ khóc, kinh hãi thần
Thạch Sương làm trái ngược
Cưỡi trên lừa ba chân.

Bài kệ:
Ngày 27 tháng 7 năm 1983
Tuyên công thượng nhân viết:

Hỏi tìm đức lớn đến Phần Dương
Thân cận hai năm chửa thuận đường
Gặp mặt miệng la khai lối bí
Đối đầu cây nện phá hang mê
Suy luận tức sai, im miệng lại!
Dứt đường ngôn ngữ, chớ huyên thuyên!
Tam muội thiền na ông đã chứng
Phương Nam độ khắp chín muồi duyên.

Đời thứ 45. Thiền sư Hoàng Long Tuệ Nam (1002-1069)

Sư họ Chương, người Tín Châu, lúc đầu nương theo sư Trừng ở Lặc Đàm, cùng tiếp vật, đãi người. Sau đến Từ Minh lập thất. Sư Minh hỏi: “Đỉnh cao của tâm lão bà Triệu Châu khám phá là gì?”. Sư không đáp được. Hôm sau sư Minh lại gọi sư đến hết lời mắng nhiếc. Sư nói: “Mạ lị người khác có phải là ban bố pháp từ bi chăng?”. Sư Minh nói: “Ông lấy sự mạ lị thì có hội được không?”. Sư nghe xong liền đại ngộ, sau khai pháp tại Đồng An, sau về với bản gốc Hoàng Bách, cuối cùng về Hoàng Long. Khi ở trong thất sư thường hỏi ba câu: “Ai ai cũng có duyên sinh. Nơi nào là duyên sinh của thượng tọa”. Lại đưa tay ra, hỏi: “Tay ta có giống tay Phật không?.”. Lại đưa chân ra, hỏi: “Chân ta có giống chân lừa không?”. Không mấy người khế hợp ý chỉ. Ngày 17 tháng 3 năm Hi Ninh sư an tọa mà hóa, hỏa táng đưowjc xá lợi ngũ sắc, tháp dựng trước núi, thụy là Phổ Giác thiền sư.

Bài tán:
Rường cột sư Từ Minh
Cứng tợ như sắt thôi
Một khi sư nhìn thấy
Tim cùng mật rụng rời.
Khám phá tâm lão bà
Lửa hồng và bông tuyết
Tài giỏi ví như trời
Hỏi ba câu cứng lưỡi.

Bài kệ:
Ngày 1 tháng 8 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Đăng đường, nhập thất gặp Từ Minh
Mắng la há phải pháp thí kinh?
Ngộ đạo do nơi lòng tự phản
Nếu như biết dụng thảy rành rành.
Hỏi đến ba lần không kẻ biết
Trưng ra bảy lượt có ai cùng
Bông tuyết ở trong lò lửa dữ
Lửa hồng sen trổ đạo trùng hưng.

Đời thứ 45. Thiền sư Dương Kỳ Phương Hội (992-1049)

Sư họ Lãnh, người Nghi Xuân, Viên Châu, tham kiến sư Từ Minh. Khi sư Minh thăng đường, sư hỏi: “Con chim kêu chit chit nơi u tĩnh, mây phiêu du trên đồi cao lúc đó như thế nào?”. Sư Minh đáp: “Ta giẫm trên cỏ hoang, ông vào trong xóm vắng”. Sư nói: “Quan không dung một vật nhỏ như cây kim khâu, xin hỏi thêm một câu”. Sư Minh liền hét lớn. Sư nói: “Hét lớn thật”. Sư Minh lại hét, sư cũng hét. Sư Minh hét liên tiếp hai tiếng, sư liền đảnh lễ. Sư Minh nói: “Chuyện riêng này xem ông gánh vác được không”. Sư phất tay áo đi ra. Đồ chúng đón sư đến Dương Kỳ. Năm Bính Tuất, Hoàng Hựu nguyên niên đời Tống nhân Tông, sư thị tịch, tháp dựng tại Vân Cái.

Bài tán:
Đường hẹp lại gặp nhau
Nghiền nát thành tro bụi
Bước chân sư tử đi
Như Phấn Tấn tam muội.
Chim kêu tiếng chiu chít
Móng răng đã hoàn hảo
Đỏ hỏn trần trụi thân
Trời xuân lồng tiếng gió.

Bài kệ:
Ngày 1 tháng 8 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Hét đi hét lại liễu vô sinh
Bỏ mê về giác biết chủ ông
Bản lai diện mục không nơi chốn
Quê nhà chân thật tịnh hư không.
Cát làm xốn mắt, cần thể hội
Tai gặp âm thanh, chớ chấp trần
Tự do giải thoát lìa quái ngại
Vượt trên muôn vật hiện toàn thân.

Đời thứ 45. Thiền sư Long Hồ Phổ Văn (?_?)

Sư là thái tử con vua Đường Hi Tông, ăn chay từ nhỏ, lớn không đọc sách thế tục. Khi vua Hi Tông chạy vào đất Thục, sư xuống tóc vân du, tham vấn sư Thạch Sương, hỏi: “Những di huấn của tổ sư có thể nào trao lại cho tôi chăng?”. Sư Sương nói: “không nên chê bai tổ sư”. Sư nói: “Tông chỉ trong thiên hạ đâu phải việc hư vọng”. Sư Sương nói: “Thật có vậy”. Hỏi: “Xin khai thị cho”. Sư Sương nói: “Chờ núi Ấn gật đầu ta sẽ chỉ cho ông”. Sư nghe liền tỉnh ngộ. Sau sư đến Thiệu Vũ, thấy cây cối xanh tươi liền lưu lại. Một hôm, một con rồng đến cầu tránh bị sét đánh, sư cho rồng vào tay áo. Rồng cảm ân sâu nên đào một cái hang làm thành suối nước, dân quanh vùng lập chùa, nhân việc ấy gọi tên là Long Hồ. Sư trụ ở đây hơn 30 năm, hoằng dương Phật pháp. Khi sắp thị tịch, nói kệ: “ Tôi gom lại những gì đã nghe thấy, nói lại cho quý vị”. Sau đó an nhiên qua đời. Tháp dựng tại núi cũ, thụy là Viên Giác thiền sư.

Bài tán:
Con cháu nhà vua
Làm tôi pháp vương
Đắc ấn Thạch Sương
Bao che thân rồng.
Trải ba mươi năm
Chỉ giả nói chân
Ngày nay hiểu được
Trao anh cái thấy.

Bài kệ:
Ngày 3 tháng 8 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Nghiệp thiện sinh vào chốn đế vương
Đức sâu dứt đoạn sát sinh nhân
Thiện ác báo đền xen chẳng lệch
Nhiễm tịnh tương quan giả hóa chân.
Núi Án gật đầu không ngôn giáo
Biển tình hội ý biết nguyên lai
Khúc ca vô ngã nay nghe được
Bông hoa bất tử nở ngày mai.

Đời thứ 46. Thiền sư Bạch Vân Thủ Đoan (1025-1072)

Sư họ Cát, sinh tại Hàng Dương, tham vấn sư Dương Kỳ. Sư Kỳ hỏi: “Ông từng theo học với ai?”. Sư đáp: “Hòa thượng Úc ở Trà Lăng?. Lại hỏi: “Nghe nói ông qua cầu gặp một kẻ điên đão thì có tỉnh ngộ nên viết một bài kệ lạ, ông còn nhớ bài kệ ấy chăng?”. Sư dọc lại bài kệ. Sư Kỳ cười đứng dậy bỏ đi ra. Sư ngạc nhiên khiến cả đêm không ngủ được, sáng sớm liền đến nơi thưa hỏi. Sư Kỳ nói: “Hôm qua ông có thấy lễ đuổi tà chăng?”. Sư đáp: “Thưa thấy”. Sư Kỳ nói: “Ông tính ra không bằng người kia”. Sư giật mình, thưa: “Ý thầy là gi?”. Sư Kỳ nói: “Hắn thích người cười, ông ngại người cười”. Sư đại ngộ, ở lại hầu thầy rất lâu, sau đó vân du khắp nơi. Năm Hi Ninh thứ 5 đời vua Tống Thần Tông, năm Bính Tuất, sư thị tịch, thọ 48 tuổi.

Bài tán:
Hắn thích người ta cười
Ban ngày thắp đèn xanh*
Ông ngại người ta cười
Ngọc châu thôi lóng lánh.
Biết được ta với người
Cùng dây nhưng khác điệu
Muôn dặm như hư không
Con diều sắt bay bổng.
………………..
*Đèn để trên bàn học.

Bài kệ:
Ngày 21 tháng 8 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Người xưa gặp cảnh ngộ Bồ đề
Liền phá vô minh chẳng ngại nghi
Ông ngại người cười ông vụng tính
Hắn mừng ta thích chuyện thiên thì.
Lời ra sáng tỏ hư không tướng
Lập tức rõ thông tánh bản lai
Ai hay điệu khác đàn không khác
Phàm tục tuy nhiều, nhân hiếm thay.

Đời thứ 47. Thiền sư Ngũ Tổ Pháp Diễn (?-1104)

Sư họ Đặng, người Miên Châu, tham vấn sư Thạch Vân, sau đến hỏi về việc sư Nam Tuyền và ngọc ma ni. Su Vân hét lớn. Sư tỉnh ngộ. Một hôm, sư Vân hỏi: “Có một số thiền khách từ Lư Sơn đến, có chỗ tỏ ngộ, dạy họ thuyết, họ cũng thuyết được, đưa ra nhân duyên họ cũng hiểu, nói lời ra đều thông đạt, nhưng họ lại chưa đến được chỗ đó. Sư khởi nghi, tự hỏi: “Đã ngộ được, đã rõ được, đã thuyết được, vì sao lại chưa đến được?”. Sư suy gẫm mấy ngày, hốt nhiên đại ngộ liền tìm gặp sư Bạch Vân. Sư Vân múa tay chân. Sau đó sư nói: “Tôi vì vậy mà toát mồ hôi lạnh khắp thân mình liền cảm được làn gió mát. Năm Sùng Ninh thứ ba đời vua Tống Huy Tông, ngày 25 tháng 6, sư thượng đường từ biệt đồ chúng, an nhiên mà hóa. Hỏa táng nhiều xá lợi như mưa, tháp dựng phía Nam núi Đông.

Bài tán:
Viên ngọc báu ma ni
Không từ người mà được
Một câu không tại đó
Thiền khách hết ngại nghi.
Cười lớn mà qua đời
Cửa miệng thu hẹp lại
Cơn gió cuốn mang theo
Phẩm cách bậc anh kiệt.

Bài kệ:
Ngày 22 tháng 8 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Ma ni bảo châu tự tính sanh
Muốn cầu cần phải bỏ tham tranh
Thuyết ra thiện pháp dùng phương tiện
Biện tài vô ngại nối đèn tâm.
Toát mồ hôi lạnh, sư do đấy
Hoằng pháp nên ta độ tối tăm
Như mưa xá lợi phô đại định
Đông sơn tháp dựng hướng về Nam.

Đời thứ 48. Thiền sư Viên Ngộ Khắc Cần (1063-1135)

Sư họ Lạc, người Bành Châu, làm thị giả cho sư Pháp Diễn. Có một vị quan làm trong bộ sử đến viếng sư Diễn. Sư Diễn nói: (Trần) Đề Hình thuở còn trẻ nếu đọc thơ diễm tình, có câu:

Tần hô Tiểu Ngọc nguyên vô sự,
Chỉ yếu đàn lang nhận đắc thanh*.

Vị quan vâng dạ. Sư Diễn nói: ”Hãy chú ý”. Khi ấy sư đứng bên cạnh, liền hỏi: “Hình hiểu không?”. Sư Diễn nói: “Ông ta nghe được rồi”. Sư hỏi: “Ông ta đã nghe, sao vẫn chưa phải”. Sư Diễn nói: “Ý tổ sư từ phương tây đến, cây bách trước sân”. Sư nghe thì có chỗ tỏ ngộ. Sau đó nhìn thấy một con gà bay đậu trên lan can, đập cánh gáy to, sư liền đại ngộ, thông suốt chỗ sở đắc. Sư Diễn nói với đồ chúng: “Thị giả của ta đã được lý thiền”. Ngày 5 tháng 8 năm Thiệu Hưng thứ 5, sư thị hiện có bệnh an tọa mà hóa. Tháp dựng tại Chiếu Giác, hiệu là ViênNgộ thiền sư, thụy là ChânGiác, tháp tênTịch Chiếu.
………………………
*Chúng tôi tìm thấy trong Ngũ Đăng Hội Nguyên 五灯会元 bài thơ của sư Pháp Diễn đọc cho ông Trần Đề Hình:
一段风光画不成 
洞房深处恼予情 
频呼小玉元无事 
只要檀郎认得声 

Chúng tôi phiên âm và dịch như sau:

Nhất đoạn phong quang họa bất thành
Đỗng phòng thâm xử não dữ tình。
Tần hô Tiểu Ngọc nguyên vô sự,
Chỉ yếu đàn lang nhận đắc thanh.
(Một cảnh mà sao vẽ chẳng thành
Phòng hoa áo não mối tơ tình
Vô cớ lại kêu hoài Tiểu Ngọc
Bởi muốn tân lang nhận tiếng mình).

Bài tán:
Gà bay trên mặt đất
Như tỉnh một cơn mộng
Đứng trên sắc và thanh
Vô tác* nhưng diệu dụng.
Cưỡi sóng trên biển xanh
Xô núi Tu Di ngã
Một khúc phong lưu ấy
Tuệ nhãn sáng long lanh.
……………….
*Asamskrta (skt)

Bài kệ:
Ngày 28 tháng 8 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Quán cơ truyền giáo trí tuệ sâu
Đối duyên thí pháp độ quần mông
Hội tâm vi tiếu* truyền pháp ấn
Gật đầu không nói mặc nhiên thông.
Biết được âm thanh liền tỉnh mộng
Thấy, bay, nghe, gáy, bổn lai không
Xoay núi Tu Di, trời biển lật
Sơn hà đại địa diệt hoàn toàn.
………………….
*lấy tích “niêm hoa vi tiếu” của Đức Phật Thích Ca

Đời thứ 49. Thiền sư Đại Tuệ Tông Cảo (1089-1163)

Sư họ Hề, người Tuyên Thành, năm 17 tuổi đến viện Tuệ Vân Đông sơn xuống tóc xuất gia. Sư tham vấn sư Trạm Đường, theo hầu thầy. Khi sư Đường qua đời, sư theo lệnh thầy đến tham vấn sư Viên Ngộ. Khi sư Viên Ngộ thăng đường thuyết giảng, các nghi vấn của sư trước sau đều dứt, lại được khuyến khích tinh tiến. Sư hỏi: “Câu có câu không như dây leo là thế nào?”. Sư Ngộ nói: “Vẽ cùng không thành, tả cũng không xiết”. Lại hỏi: “Lúc cây ngã, dây leo khô thì sao?”. Sư Ngộ nói: “Cùng theo đến”. Sư nghe xong liền hiểu, nói: “Tôi đã hiểu”. Trương Ngụy Công thỉnh sư trụ tại Kính sơn, đồ chúng lên đến hai ngàn người. Do có người chủ mưu đố kỵ nên sư bị giáng chức, sau được ân xá. Năm Long Hưng thứ nhất, sư thị hiện có bệnh, nói: “Ngày mai ta đi”. Đến canh năm, sư đich thân viết tấm sớ, và viết thư gởi Trương Ngụy Công. Vị thị giả thỉnh sư nói kệ. Sư viết kệ xong, ném bút mà hóa. Thụy hiệu là Phổ Giác, Tháp là Bảo Quang.

Bài tán:
Bảo Phong thì nghẹt mũi
Từ Minh lại điếc tai
Tuệ nhật sáng rực rỡ
Thiền trượng đánh đuổi rồng.
Cây ngã dây leo khô
Truyền chánh pháp chánh tông
Mùi tanh hôi ô uế
Lan rộng khắp không trung.

Bài kệ:
Ngày 29 tháng 8 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Mong tìm tri thức bạn hiền nhân
Chọn con mắt pháp, thấy trăng lồng
Ba tâm chẳng được, không qua lại
Liễu đạt tử sinh, bốn tướng không.
Thậm thâm bát nhã lìa năm uẩn
Sáu căn hổ dụng đại thần thông
Lúc hội nhân duyên nhiều đố kỵ
Cổ kim một khúc đợi thời cơ.

Đời thứ 49. Thiền sư Hổ Khâu Thiệu Long (1077-1136)

Sư người Hàm Sơn, Hòa Châu. Đầu tiên tham vấn sư Sùng Tín ở Trường Lô, sau đến với sư Viên Ngộ. Sư Ngộ gặp sư, hỏi: “Thấy (mà chấp vào) cái nhìn thấy (lúc vật trước mặt) thì đó không phải là thực thấy. Thấy mà lìa (đối tượng) được thấy thì cái thầy nầy không thế đến chỗ hoàn hảo. Sư Ngộ lại đưa nắm tay lên, hỏi: “Có thấy không?”. Đáp: “Thấy”. Sư Ngộ nói: “Trên đầu lại chồng thêm một cái đầu”. Sư nghe nói hốt nhiên chứng ngộ. Sư Ngộ hét: “Ông thấy đạo lý gi?”. Đáp: “Dù cho trúc có mọc dày đặc cũng không ngăn được nước chảy qua”. Sư Ngộ gật đầu. Lại hỏi: “Người chủ kho báu nhu thuận như thế thì làm sao?”. Sư Ngộ nói: “Con cọp đang ngủ gật đó mà”. Sau đó sư khai đạo đó đây, sau thiên chương giáo, hoàn thành tại Hổ Khâu. Năm Thiệu Hưng thứ 6 đời vua Tống Cao Tông, ngày 8 tháng 5, sư thị tịch. Tháp dựng tại phía Nam núi Hổ Khâu.

Bài tán:
Thấy mà chẳng phải thấy
Sao băng trời sấm chớp
Tre rậm nước vẫn xuôi
Trên mặt đất thuyền trôi.
Hổ dữ đang say ngủ
Ven rừng một mình ngồi
Gió về buông tiếng hú
Bất tuyệt tự muôn đời .

Bài kệ:
Ngày 30 tháng 8 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Thấy như không thấy, khó thấy thay
Tham được no cơm lại áo quần
Vốn không một vật, trần không khởi
Lại còn muôn mối chấp thân căn.
Gió lộng nước xao như thuyết pháp
Mưa tạnh trời trong, điện Phổ Quang
Nguy hóa thành an, tranh tạo hóa
Trước chưa từng được gặp thánh nhân.

Đời thứ 50. Thiền sư Ứng Am Đàm Hoa (1103-1163)

Sư người Hoàng Mai, Kỳ Châu, họ Giang, theo hầu sư Hổ Khấu sớm minh bạch được đại sự. Nhân ngày giổ của sư Khâu, sư niêm hương khấn: “Trên đời hưng thịnh là lẽ thường, vô tình phạm phải sự cấm kỵ của lão hòa thượng, gây ra nhiều việc không hợp ý thầy. Từ đó đã buông đao xuống để cùng chia xẻ áo cơm suốt 20 năm. Nay làm chủ tòa ngồi trên thiền sàng treo đầu dê bán thịt chó, mà không ai biết. Tuy nhiên, mỗi năm đến ngày giỗ thầy lại dâng hương, càng tạo thành mối hận thiên thu”. Năm Tống Hiếu Tông, hiệu Long Hưng năm thứ nhất, ngày 13 tháng 6 sư thị tịch, tháp dựng phía trước núi Thái Bạch Thiên Đồng, táng toàn thân, thọ 61 tuổi, hạ lạp 43.

Bài tán:
Buông bỏ gươm đao
Không cảnh thái hòa
Đốt tan dơ xấu
Hương trầm lan xa
Trước đồi Thái Bạch
Nét họa tự nhiên
Xuân trên đất Việt
Hoa nở Diệm Khê.

Bài kệ:
Ngày 31 tháng 8 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Đại sự chưa thông tựa đại tang
Đã thông đại sự nặng bi tâm
Dâng hương đảnh lễ sư Khâu ấy
Đóa hoa cung hiến bậc trời rồng.
Ngày tháng bình an thôi chinh chiến
Gió thuận mưa hòa vui với xuân
Đào lý đưa hương thơm vũ trụ
Giác mê cam lộ thấm ngàn phương.

Đời thứ 50. Thiền sư Tế Điên Đạo Tế (1140-1209)

Sư Đạo Tế người Thiên Thai, là con cháu phò mã họ Lý, cha là Mậu Xuân lạy Tán Thiện trong thôn ẩn nơi Thiên Thai. Mẹ là Vương Thị mộng thấy nuốt mặt trời sinh ra sư. Năm 18 tuổi đến chùa Linh Ẩn theo Vĩnh Công ở Hạt Đường xuất gia đắc được yếu chỉ. Sau ngụ tại Tịnh Từ, tánh tình phóng khoáng không chừng, nói làm không câu nệ, chốn dâm phường, nơi trà rượu đều chẳng tránh né, người đương thời gọi sư là Tế Điên. Khi sắp qua đời, sư nói kệ:

“Ngổn ngang bừa bãi sáu mươi năm
Tường đông nghiêng ngã cạnh tường tây
Đến nay gom góp quay về lại
Vẫn một màu xanh nước tiếp mây”.

Sau khi sư qua đời, một vị tăng gặp sư dưới tháp Lục Hòa, gởi thư: “Còn nhớ xưa bị mũi tên trước mặt, đến nay vẫn còn rụng rời. Duy thấy mặt mà không biết người”. Về sau đến núi Thiên Thai thấy ghi sư là một trong 500 vị ứng chân (A la hán) tại đây.

Bài tán:
Không theo bản gốc
Thất đảo bát điên
Thế giới loạn cuồng
Dối lừa trời đất
Đạp đổ cối chày
Thoát vòng trói buộc
Đến ẩn Thiên Thai
Danh lưu truyền mãi

Bài kệ:
Ngày 4 tháng 9 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Mắt nhìn năm sắc chẳng nơi đây
Tai nghe tám điệu, dạ không hay
Mũi ngữi trăm hương lìa biện biệt
Lưỡi nếm bao mùi sá đắng cay?
Thân chạm đâu mong chi mềm mại
Ý duyên muôn pháp bặt dấu trần
Chê khen ưa ghét đều không bận
Như như liễu liễu kiến chân thân.

Đời thứ 51. Thiền sư Mật Am Hàm Kiệt (1118-1186)

Sư người Phúc Kiến, họ Trịnh, tham kiến sư Ứng Am. Sư Am hỏi: “Chánh pháp nhãn tạng là thế nào?”. Sư đáp: “Đá văng chậu cát”. Sư Am gật đầu. Khi hoằng hóa sư ngụ tại Ô Cự, sau dời về Hoa Tạng tại Tưởng sơn, Tường phù. Sau nhận lệnh vua trụ tại chùa Linh Ẩn, Kinh sơn. Sau về Thái Bạch thì mất. Tháp dựng giữa núi Thiên Đồng, táng toàn thân.

Bài tán:
Tịch diệt chánh pháp nhãn
Đạp chậu cát vỡ tan
Lệnh ấy đã đưa ra
An tọa dứt đất trời
Thóc và cám Phật Tổ
Vùi lấp con cháu ta
Mồ hôi và công sức
Còn nhắc đến đời sau

Bài kệ:
Ngày 6 tháng 9 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Chánh pháp nhãn tạng hỏi trước tiên
Thượng đường lại hỏi những nghi nan
Tâm trực đạo tràng thường phẳng lặng
Ý thành công đức quả nghiêm trang.
Hoa Tạng, Tường Phù làm tọa chủ
Kính Sơn, Linh Ẩn dạy cung vàng
Lui về Thái Bạch vào chân đạo
Phụng thờ dựng tháp giữa Thiên Đồng.

Đời thứ 52. Thiền sư Phá Am Tổ Tiên (1136-1211)  

Sư họ Vương, người Quảng An, tham yết sư Mật Am tại Linh Ẩn, được chia tòa ngồi. Có một vị tăng hỏi: “Con cháu người Hồ không nắm bắt được. Xin chỉ rõ cho” . Sư nói: “Bắt làm chi?. Khi gió thổi thì tự nhiên nước gợn sóng”. Tháp dựng nơi chùa Tú Phong, Cô Tô.
……………………………….
*Gốc từ đất người Hồ hoặc đến từ bên ngoài Trung quốc. Ổ đây chỉ cho Phật pháp đến từ Ấn Độ.

Bài tán:
Bắt để mà chi
Sớm đã lộ bày
Gió thổi sóng gợn
Chim mây cùng bay.
Câu sau tiếng trước
Người chết vô số
Lá rụng trời thu
Phật tràng khó thấy.

Bài kệ:
Ngày 8 tháng 9 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Phá Am Tổ Tiên con cháu đông
Tây Thục, Đông Ngô diễn đại tông
Hàm chia tòa pháp khuyên tinh tiến
Đừng ngu, khỉ vượn khó điều tâm.
Vốn không một vật nơi nào chấp
Nổi sóng muôn chiều luống uổng công
Hướng ngoại tìm cầu bao năm tháng
Mong ngóng cao xa tự nhọc lòng.

Đời thứ 53. Thiền sư Vô Chuẩn Sư Phạm (1178-1249)

Sư họ Ung, người Tủu Châu, Tứ Xuyên. Thuở đầu tham yết sư Phật Chiếu ở dục Vương. Sư Chiếu hỏi: “Ông người xứ nào?”. Sư đáp:” Thưa người Kiếm Châu”. Lại hỏi: “Có mang được kiếm đến không?”. Sư liền hét lớn. Sư Chiếu cười, nói: “Gã đầu tóc bờm xờm này cũng làm loạn”. Sau đến Linh Ẩn Phá Am làm thượng thủ, cùng đến núi Thạch Duẫn. Có người đưa ra thoại đầu “con cháu họ Hồ”, sư nhân hầu thầy mà đại ngộ, về sau khai pháp tại Kính Sơn, dâng hương cúng dường Phá Am. Năm Thuần Hựu đời Tống, ngày 15 tháng 3 năm Mậu Thân (1249), viết kệ:

Lúc đến chẳng cầu chi
Đi cũng không ngăn ngại
Muốn hỏi nơi đầu mối
Cầu đá núi Thiên Thai .

Chốc lát thì thị tịch, tháp dựng tại Chiếu Am, táng toàn thân.

Bài tán:
Trước đồi Thạch Duẫn
Bắt đước khỉ vượn
Đáy thùng bễ rồi
Cờ pháp bay cao
Như sấm như sét
Như hùm như thỏ
Giọt sông Hô Đà
Đất nhuần cam lộ

Bài kệ:
Ngày 19 tháng 9 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Ngưỡng trông cao vợi, khó mà khoan
Sư Phạm ngàn thu lưu cổ kim
Mang gươm đến đấy mong tìm giặc
Biển khơi vung mác chém yêu tinh.
Tử sinh minh bạch thành đạo lớn
Giác tha, tự độ ngự tòa sen
Nếu hỏi lão tăng duyên sự ấy
Cầu đá Thiên Thai hãy đến tìm.

Đời thứ 54. Thiền sư Tuyết Am Tổ Khâm (?-1287)

Lúc đầu sư tham yết sư Viễn ớ Song Lâm, sau đó tham sư Vô Chuẩn. Sư Chuẩn đưa ra thoại đầu chủ nhân ông, sư liền nhảy lên. Lại nói đến câu chuyện một vị sư bị kéo mũi, chuyện móng vuốt Phật Tổ, thì chẳng có lời gì nữa. Nhân có bệnh làm chướng ngại nên ở lại mười năm. Sau đó đi về núi Dục Vương, ngẫu nhiên đến trước điện Phật, bỗng dưng ngước mắt nhìn lên thấy cây tùng xưa kia hiện ra, những cảnh giới sở đắc nhất thời buông xuống, thấy rõ vùng đất chống tich trượng lại qua trong 30 năm của Kiến Sơn lão nhân là tuyệt hảo. Về sau sư khai pháp ở Đàm Châu, Long Hưng. Lúc lớn tuổi sư trụ tại Viên Châu, Ngưỡng Sơn.

Bài tán:
Phá vỡ lòng nghi
Cây bách tận trời
Kính sơn lập xứ
Kết giao tam quyền
An tọa Trung nguyên
Quét sạch mây mù
Thái bình muôn cảnh
Ngàn dặm Tuyết Nham

Bài kệ:
Ngày 20 tháng 9 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Tuyết Nham giá lạnh chẳng bao dân
Trong hàng phàm tục ít người nhân
Trước qua chốn cũ cùng lò luyện
Hiểu cạn biết sâu cũng thói thường.
Chuyên tâm trì chí về một cội
Thấy vạn mối trên lá cỏ lay
Trúc gầy tùng lớn đều có chỗ
Cơ thiền nơi cá nhảy diều bay.

Đời thứ 54. Thiền sư Vô Dụng Hiền Khoan (?-1326)

Sư người Hòa Châu, họ Chu, tham yết sư Kim Ngưu tại Dã Phụ. Vừa nhìn thấy, sư Ngưu hét lớn, sư cũng hét. Sư Ngưu nói: “Ông học được ở đâu cách mở đầu này vậy?”. Sư đáp: “Hẳn là có người nghi”. Sư Ngưu liền đánh. Hôm sau sư lại đến gặp. Sư Ngưu liền đưa vào ngồi trong phòng. Bỗng ấm nước trên lò sôi tràn ra ngoài, tro tung tóe, sư hốt nhiên đại ngộ, mồ hôi ướt áo. Sư trình kệ:

Dưới bùn trâu lớn tiếng kêu
Đại thiên thế giới thảy đều lắng nghe.

Sư Ngưu gật đầu. Đúng thời điểm, sư khai pháp tại chùa Phổ Minh ở Thái Hồ, tăng nhân đến tụ họp đông đủ, ban đêm có ánh sáng từ trên cao chiếu rạng, các nơi xa gần đều cho là kỳ lạ. Vua ban tặng hiệu là Phật Chiếu Viên Ngộ. Năm Thái Định thứ ba, ngày 15 tháng 9 sư viết kệ rồi thị tịch, tháp dựng tại Thái Hồ, táng toàn thân.

Bài tán:
Một tiếng hét Kim Ngưu
Tùng đá quên tháng năm
Mây xuân và hạc nội
Hồ thu nước lắng trong.
Phật đăng trên cao chiếu
Sáng soi cả đất trời
Đông tây và nam bắc
Tất cả đều chu toàn.

Bài kệ:
Ngày 22 tháng 9 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Thuở gặp Kim Ngưu trổi tiếng gào
Hồ xanh im sóng gợn lăn tăn
Gậy, hét giao nhau trừ chấp trước
Trang nghiêm uy đức sáng tuệ đăng.
Quét đi muôn pháp, hòa thực tướng
Buông bỏ đa đoan, hiển tánh chân
Phật quang biến chiếu hằng sa cõi
Nương dựa xa gần bậc thánh tăng.

Đời thứ 55. Thiền sư Cao Phong Nguyên Diệu (1238-1295)

Sư họ Từ, người Ngô Giang, tham yết sư Tuyết Nham. Vừa đến hỏi liền bị đánh đuổi ra. Sau nghe lời tán thán chân thật về ngũ Tổ thì có chỗ tỉnh ngộ. Một hôm sư Tuyết Nham hỏi: “Trời đất mênh mông, có làm chủ được chăng?”. Sư đáp : “Làm chủ được”. Sư Nham lại hỏi: “Ngay trong mộng, không tưởng, không thấy, không nghe thì chủ nhân ông tại nơi nào?”. Sư không đáp được bèn vào chùa Long Tu ở đó năm năm. Một hôm bỗng nhiên nghe tiếng người tiểu đồng làm rơi chiếc gối, sư hốt nhiên đại ngộ, nói:

“Trước sau cũng vẫn chính người thôi
Xứ xứ bước chân chẳng đổi dời”.

Liền đóng cửa nhập thất tại Thiên Mục, trước khi lâm chung thuyết kệ thị tịch. Tháp dựng tại chỗ sư nhập thất.

Bài tán:
Gối rơi xuống đất
Đập vỡ hư không
Tuyết Nham núi hiểm
Qua lại voi rồng.
Gậy tre một nhánh
Chấn động trần hoàn
Uy nghi một cõi
Vạn thuở đồi tây.

Bài kệ:
Ngày 25 tháng 9 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Vô lễ mắng cho, lễ đánh đòn
Hết đường tiến thoái*, khó tiếp thu
Không theo cảnh chuyển, thành tam muội
Cam phận tôi đòi đóng cửa tu.
Trí dũng hoàn toàn buông bỏ hết
Từ bi cùng cực tỉnh độn ngu
Ứng hiện thân trên sen tịnh độ
Bảo sở kim cương đã đến rồi.
……………………………..
*Thi Kinh 詩經: Tiến thối duy cốc 進退維谷 (Đại nhã 大雅, Tang nhu 桑柔) Tiến thoái đều cùng đường.

Đời thứ 55. Thiền sư Cao Ly Thiết Sơn Quỳnh (?-?) 

Sư người Tương Đàm, xuất gia năm 18 tuổi, trước tham yết sư Tuyết Nham, thường vào thất trình kiến giải, sư Tuyết Nham chỉ nói rằng còn khiếm khuyết. Một hôm sư đang nghĩ đến chữ khiếm thì hốt nhiên thân tâm thấu triệt tận cốt tủy, liền nhảy xuống thiền sàng, đến bên sư Tuyết Nham, thưa: “Tôi thiếu cái gì?”. Sư Tuyết Nham đánh cho ba tát tai, sư lễ bái, sư Tuyết Nham gật đầu. Lại đến yết kiến sư Đông Nham. Sư Đông Nham hỏi: “Tâm chẳng phải Phật, trí chẳng phải đạo, thượng tọa làm thế nào hội được?”. Sư đáp: “Ôm tang vật mà kêu oan”. Sư Đông Nham lại hỏi: “Không phải tâm, không phải Phật, không phải vật thì là cái gì?”. Sư đáp: “những con chim Cắt từ chặng mày phóng ra bay trên bầu trời”. Vua nước Cao Ly khâm phục đạo đức của sư nên thỉnh sang Cao Ly hoằng pháp. Sau sư đến chùa Từ Hóa ở Viên Châu khai đại pháp. Sư thị tịch, tháp dựng sau Quán Âm Các. Các sự việc kể trên xuất xứ từ Tăng Tập Tục Truyền Đăng Lục, quyển 5, do Kính Sơn Văn Tú soạn, niên hiệu Vĩnh Lạc nhà Minh.

Bài tán:
Phá vỡ đầu lâu
Một chùy đau điếng
Vốn không thiếu sót
Phải qua cảnh này.
Tròng mắt quỷ rồng càng khó biết
Vô cớ ngữi mùi vạn dặm bay
Chim trời xa thẳm trên mày phóng
Lưới pháp vá trời hải ngoại khai.

Bài kệ:
Ngày 26 tháng 9 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Hồ Nam, Tương Đàm hiện anh hùng
Long tượng nối truyền đại pháp âm
Thiết Sơn giáo hóa Cao Ly vậy
Ngưỡng Sơn chầu bậc thánh Cổ Nham.
Khí lửa chưa thành nên rèn luyện
Tìm vàng trong cát chớ dây dưa
Ngàn đập, trăm rèn thành đạo khí
Tám phương* điên đão mặc gió mưa.
……………………
*Bát phong xuy bất động (Tám gió thổi không động).

Đời thứ 55. Thiền sư Độc Am Đạo Diễn (1535-1418)

Sư ngươi Tương Thành, Tô Châu, họ Diêu. Mười bốn tuổi xuất gia tại am Diệu Trí trong làng, theo Hư Bạch Lượng Công tu hành theo giáo pháp Thiên Thai tông, sau đó theo sư Ngu Am, khế cơ. Sư giữ chức nội ký 3 năm, khai pháp tại Phổ Khánh, sau dời về Thiên Long, tự đề trên tranh vẽ: “Nhìn rõ cây chuối và người tựa vào cây cùng an nhàn lộ cốt cách phong lưu, lúc thì phe phẩy quạt lông rùa, thấu suốt hư không cười gật đầu”. Năm Vĩnh Lạc được vua ban thưởng quan tước đều từ chối. Một hôm vua cho người mời sư vào cung bảo sư mặc áo mão quan, phong làm thầy thái tử. Sư bất đắc dĩ phải phụng mệnh. Sư có bệnh, vua đích thân đến thăm hỏi. Khi sư thị tịch vua phong tước là Vinh Quốc Công, thụy là Cung Tĩnh. Khi hỏa táng lưỡi không cháy, xá lợi năm màu. Tháp dựng tại núi Tây, thọ 84 tuổi.

Bài tán:
Đại sĩ lưu vết tích
Biến hóa ra muôn vẻ
Ba mươi hai ứng thân
Quán âm thanh thuận nghịch
Bậc đại sư như thị
Chẳng ngại thử thánh hoàng
Hao mòn thân cứu chúng
Thần nhân cùng hân hoan

Bài kệ:
Ngày 27 tháng 9 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Tỳ khiêu lại hiện tướng tể quan
Tam muội ngao du khiếp quỷ thần
Đối cảnh vô tâm tham tạo hóa
Gặp cảnh phá tan đám địch nhân
Giúp đỡ triều đình thành nghiệp lớn
Quang vinh tổ quốc lập minh quân
Độc Am Đạo Diễn hiệu Cung Tĩnh
Mỗi ngày tu sửa mỗi ngày tân.

Đời thứ 55. Thiền sư Thạch Khê Vô Nhất Toàn (?-?)

Hành trạng của sư không khảo cứu được. Duy chỉ thấy Tục Tạng chép rằng sư và sư Cao Phong cùng được sư Tuyết Phong ấn tâm. Riêng tuu thái của sư thì còn chôn dấu nơi Cổ sơn, truyền đến 300 năm vẫn cung kính như lúc còn sống, tuyên dương đạo đức sâu kín.

Bài tán:
Thật tướng vô tướng
Cảnh tượng muôn vật
Chân thuyết vô thuyết
Tiếng suối lưỡi dài
Tùy duyên ẩn hiện
Như trăng trong nước
Chánh nhãn Tuyết Nham
Vạn cổ bất diệt

Bài kệ:
Ngày 2 tháng 10 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Trời nói gì đâu, trải bốn mùa
Thánh nhân lập đức chẳng kể công
Một vật không xưng, đây thực tướng
Xuất sinh trăm sự, ấy chân không.
Thiện mong người biết, nào phải thiện
Ác sợ ai hay, ác tận cùng
Tướng lưỡi Thạch Khê không dứt tiếng
Thiên thu muôn kiếp nối Phật đăng.

Đời thứ 56. Thiền sư Đoạn Nhai Liễu Nghĩa (1265-1334) 

Sư họ Dương, người Đức Thanh, từ thuở nhỏ đã chay lạt. Năm 17 tuổi, nghe danh sư Văn Cao khai đường thuyết giảng liền tìm đến. Sư Phong ra lệnh tham thoại đầu “vạn pháp quy nhất”. Một hôm, nhân thấy tuyết trên cây tùng rơi xuống thì có chỗ tỉnh ngộ, trình kệ lên sư Phong. Sư Phong đánh cho mấy hèo té xuống triền núi. Từ đó sư càng cầu học, đến ngày thứ 7 thì hốt nhiên đại ngộ. Sư đến cổng, kêu lớn: “Lão hòa thượng ngày nay không còn dấu ta được nữa rồi”. Lại trình kệ:

Sơn hà đại địa một phiến băng
Hiện ra liền mất, bóng thái dương
Nay chẳng còn nghi chư Phật Tổ
Đâu còn nam bắc với tây đông.

Sư Phong ấn chứng. Sau đó mới cho xuống tóc. Năm 70 tuổi sư ngụ tại chùa Sư Tử Chánh Tông, năm sau thì mất. Trước đó sư bảo thị giả: “Ngày mai lão tăng đi Thiên Thai”. Hôm sau vào giờ Ngọ, sư an tọa mà hóa. Vua ban tặng hiệu là Phật Tuệ Viên Minh Chánh Giác Phổ Độ Đại Sư.

Bài tán:
Phá vỡ vách núi
Ném tung phiến tuyết
Cơ như sấm dậy
Lời như sắt đá
Ẩn năm mươi năm
Lửa không thể đốt
Rốt ráo điên đảo
Thánh tích diệt tận

Bài kệ:
Ngày 3 tháng 10 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Chào đời chay lạt đủ thiện nhân
Duyên xưa theo học với Cao Phong
Gậy, hét, không quên Bồ đề chí
Tinh tế tham cầu bát nhã không.
Sơn hà đại địa trong phiến tuyết
Muôn phương bền vững biển vi trần
Pháp giới biến thiên không dấu tích
Như chim bay lượn mặc xa gần.

Đời thứ 56. Thiền sư Trung Phong Minh Bản (1263-1323)

Sư họ Tôn, người Tiền Đường, Hàng Châu, nhân quán nước suối chảy có tỉnh ngộ, trình lên sư Cao Phong cầu ấn chứng, sư Phong đánh đuổi ra. Sau đó có việc tuyển các đồng nam, đồng nữ vào cung, sư thưa với sư Phong: “Nếu có người hỏi hòa thượng luận về các đồng nam đồng nữ thì thế nào?”. Sư Phong nói: “Ta lấy cây trúc bề* độ nó”. Sư nghe lời này liền triệt ngộ gốc rể các pháp. Sư biện tài vô ngại, vang danh đến triều đình, vua thỉnh sư thuyết pháp, rất mực tôn kính đạo đức của sư, ban tặng hiệu là Phổ Ứng Quốc Sư. Trước khi hóa, sư thuyết kệ từ biệt đồ chúng. Tháp táng toàn thân, dựng tại Thiên Mục.
………………………
*竹篦; J: shippei, chikuhei;
Một que trúc dài khoảng 50 cm, hình khom cánh cung, sơn son. Các vị Thiền sư thời xưa thường sử dụng trúc bề để khuyến khích, tiếp dẫn đệ tử. Trong nhiều Công án được lưu lại, trúc bề đóng một vai trò như cây Phất tử. (Từ điển Đạo Uyển)

Bài tán:
Thấy nước thì biết nguồn
Thấy cầu gặp đường lộ
Vận xuất hiện trân quý
Mở các cửa lớn nhỏ
Sức tam muội biện tài
Như nước sông cuồn cuộn
Tiếng vang đến cung vua
Dựng pháp đàn độ chúng.

Bài kệ:
Ngày 4 tháng 10 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Đất Phật Hàng Châu lắm tăng tài
Long tượng pháp môn ngập cõi này
Nhìn nước trên nguồn cầu ấn chứng
Thấy cây cao lớn hóa công bày.
Đồng nam nhập đạo kim cương thể
Hào kiệt xuất gia đại giác hề
Vua thỉnh chỉ con đường tu tập
Với người lão có một que tre.

Đời thứ 56. Thiền sư Bích Phong Bảo Kim (1308-1372)

Sư họ Thạch, người Càn Châu, Vĩnh Thọ, lúc sinh ra có ánh sáng trắng đầy phòng. Đến năm 6 tuổi xuất gia, đi khắp nơi ngao du, chợt tán thán chỗ gọi là phi, liền thay áo đến tham vấn sư Như Hải tại Tấn Vân. Sư mang giỏ đi hái rau, liền nhập định ba thời mới xuất định. Sư trình kiến giải nhưng không khế hợp. Sư Hải bảo sư rằng phiền não tạm dừng khiến vọng tâm dứt tuyệt, thấu suốt chỗ tâm yếu thì đại pháp mới sáng tỏ.Vì vậy suốt ba năm lưng sư không chạm chiếu. Một hôm, nhân nghe tiếng đốn cây, hốt nhiên sư toát mồ hôi, tự nhủ: “Người xưa đại ngộ 18 lần, tiểu ngộ thì vô số, không thể lừa dối ta. Việc trước chưa sinh, ngày nay đã rõ”. Sư tìm ấn chứng, khai pháp tại Ngũ Đài, đồ chúng rất đông. Năm Chí Chánh đời Hồng Vũ, hai đời vua vời sư đến hỏi pháp. Tháng 6 năm Nhâm Tí sư thị tịch, hỏa táng có xá lợi năm màu.

Bài tán:
Ánh sáng trắng rực rỡ
Trong pháp hiện điềm lành
Nghe tiếng đốn cây ngã
Còn chuyện gì nữa ư?
Hai lần thỉnh vào cung
Nêu cao chiếc ấn Tổ
Ân vua ban thấm nhuần
Hát vang trên đường về.

Bài kệ:
Ngày 9 tháng 10 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Đi khắp quán hàng vun thiện căn
Gốc vững cành tươi ẩn dáng xuân
Thân lạnh thấu xương bao lần chịu
Tựu thành muôn đức ngát thơm hương.
Một chữ rõ bày, xong việc lớn
Thể không chẳng đổi, gốc cội nguồn
Cung điện hai lần tuyên thánh giáo
Trăm quan cùng lúc đến nghe kinh.

Đời thứ 56. Thiền sư Tùng Ẩn Mậu (1280-1364)

Sư họ Trịnh, người Thuận Hóa, 18 tuổi xuất gia, dày công tham vấn các nơi. Khi tham yết sư Bảo Ninh, sư Ninh hỏi: “Đến đây làn gi?”. Sư nói: “Sinh tử đại sự, cầu được xuất ly”. Sư Ninh nói: “Bíết rõ tứ đại ngũ uẩn là nguồn gốc sinh tử. Do đâu mà vào túi da này?”. Sư đang suy nghĩ đáp lại thì sư Ninh liền đánh, sư hốt nhiên ngộ nhập. Những năm sau sư về ẩn tại Đông Đường. Một hôm sư thị hiện có bệnh, tập họp đồ chúng từ biệt. Đồ chúng thỉnh kệ, sư đưa tay chỉ vào thân, nói: “Trong đây đã rõ thông thì cần kệ làm chi nữa. Sư an tọa trên chiếc ghế, nắm tay phải lại để lên đầu mà hóa, thọ 85 tuổi. Khi hỏa táng có điềm lành hoa trời rơi xuống, vô số xá lợi. Tháp dựng tại đồi tây Thụy Vân.

Bài tán:
Từ trong vô luợng kiếp
Ôm ấp túi da hôi
Chỉ với một quả đấm
Như tuyết gặp nước sôi.
Cả người là cái miệng
Lỗ long phóng hào quang
Trước sau đều sáng tỏ
Hoa trời bay theo gió.

Bài kệ:
Ngày 10 tháng 10 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Như mang tang mẹ, đạo chưa minh
Bỏ ăn, quên ngủ, xuất thế tình
Lọng trời tay đấm liền tan hoại
A tỳ chân đạp ngã ngục đài.
Quán thông thấu suốt hư không vỡ
Một nhảy vào trong chân tánh ngay
Lỗ lông chiếu sáng thân và miệng
Thâm sâu, Tùng Ẩn Mậu, ai hay.

Đời thứ 56. Thiền sư Tuyệt Học Thế Thành (1270-1342)

Sư nói với đồ chúng: “Phàm người có chí sống trong chúng củi khô sẳn nước, tăng đường ấm áp nên phát nguyện ba năm không ra khỏi cửa, quyết định thành đại dụng mới đáng công phu, lòng an ổn thanh tịnh trước mắt, mở lời thành kệ, miệng lưỡi nhanh nhẹn, làm được việc lớn không uổng một đời. Xưa nay nhiều người mang nhiều hoài bảo đã bỏ phế giữa đường. Khi hơi thở không trở lại thì làm sao bảo đảm được gì. Hỡi các huynh đệ, nếu muốn xuất ly sinh tử, khi tham thì phải chân tham, khi ngộ thì phải thật ngộ mới được.

Bài tán:
Sẳn nước, củi khô
Thật ngộ chân tham
Dằng dặc sinh tử
Há phải lúc nhàn
Tấm lòng lão bà
Ruột gan thống thiết
Nhà lửa ba cõi
Bên ngoài tự an.

Bài kệ:
Ngày 12 tháng 10 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Có chí tu hành mãi tất xong
Ba năm bất động diệu uy thần
Được ít tưởng nhiều đâu đại khí
Được nhiều tự mãn há kỳ nhân.
Giấu tài, ẩn tích lo tu luyện
Cất kín giáo gươm, dưỡng tuệ tâm
Hết lòng tha thiết thương đồng loại
Phổ độ muôn loài thoát tử sinh.

Đời thứ 57. Thiền sư Thiên Như Duy Tắc (?-1354)

Sư họ Đàm, người Cát An. Sau khi xuất gia sư là người nối pháp sư Minh Bản, được lệnh giữ chức thủ chúng. Đồ chúng kinh ngạc đưa ra nghi vấn, khi nghe sư thuyết pháp thì không thể chẳng khâm phục. Năm Nhâm Ngọ hiệu Chí Chánh, sư trụ tại vườn sư tử, Tô Châu nhưng không thăng đường thuyết giảng mà chỉ lấy lễ như một am chủ tiếp đãi đồ chúng. Vua nhiều lần xuống chiếu thỉnh mời nhưng sư cáo bệnh không thuận theo. Sư là người đã khế hợp tông chỉ, thường trước đồ chúng, nói: “Phải tin vào những gì mình tự có vốn tươi sáng, linh hoạt, không ngăn ngại. Chính vào lúc trực ngộ, là khi nhất niệm tương ưng bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào, nơi tâm không tâm, nơi sự không sự, tự nhiên phải trái đều quy về nguồn cội thì hẳn an vui cả đời. Sau sư hóa tại núi cũ, để lại Lăng Nghiêm Hội Giải, và bốn quển Ngữ Lục lưu hành.

Bài tán:
Người còn trong hang
Héo khô, tàn rủ
Nước chảy ven rừng
Như sáu rùa ẩn
Có thì như huyễn
Có sư trong rừng
Nào xưng am chủ
Dám làm thầy người?

Bài kệ:
Ngày 13 tháng 10 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Hiệu là Duy Tắc, nối Trung Phong
Khuôn mẫu đời sau dám biếng lười
Đồ chúng hãi kinh nghi vấn khởi
An định chư tăng lộ bản hoài.
Quay lại chính mình là bảo vật
Đài gương sáng ấy chớ cầu ngoài
Đức hạnh khiêm cung gần kẻ sĩ
Mênh mông họa phúc dứt trần ai.

Đời thứ 57. Thiền sư Thiên Nham Nguyên Trường (1284-1357)

Sư họ Đổng, người Tiêu Sơn, Thiệu Hưng, tham kiến sư Trung Phong nhận tham thoại đầu “Con chó không có Phật tánh”. Ba năm sau, nhân nghe chim hót có chỗ tỉnh ngộ, cầu sư Phong ấn chứng nhưng bị sư Phong gạt đi, sư buồn bực. Đêm đến, chợt nghe tiếng chuột chạy làm rơi xuống đất chén thức ăn của mèo gây tiếng động, sư hốt nhiên khai ngộ. Sư lại đến sư Phong cầu ấn chứng. Sư Phong hỏi: “Vì sao Triệu Châu không nói?. Sư đáp: “Chuột ăn cơm của mèo”. Sư Phong nói: “Chưa được”. Sư nói: “Chén đựng cơm vỡ tan”. Sư Phong hỏi: “Sau đó thì sao?”. Sư đáp: “Thành gạch vụn”. Sư Phong mỉm cười. Sau sư khai pháp tại Phục Long. Ngày 14 tháng 6 năm Đinh Dậu hiệu Chí Chánh, sư viết kệ:

“Bình sinh nhiều lời
Ngày nay khiếm khuyết
Một câu động trời
Chánh pháp nhãn diệt”
Sư buông bút mà hóa.

Bài tán:
Chạm phải chén mèo rơi
Vỡ nát thành gạch vụn
Bị ép rồi bị chèn
Kinh đất lại động trời
Chim Bằng bay cao vút
Cá Kình hớp sông dài
Rồng nằm trên đỉnh núi
Mưa pháp tuôn nơi nơi.

Bài kệ:
Ngày 19 tháng 10 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Chấp không chấp có dụng tâm sai
Trung đạo liễu nghĩa chẳng trần ai
Chim chóc líu lo tuyên diệu đế
Mèo vồ chuột nhảy chánh văn bày.
Vật tan, gạch đổ về tịch tĩnh
Gió động nước tung sóng gặp mây
Hốt nhiên triệt ngộ chân diện mục
Đại viên kính trí sáng xưa nay.

Đời thứ 57. Thiền sư Vô Chiếu Huyền Giám (?-?)

Sư người Phổ Lỗ Cát, Khúc Tỉnh, Vân Nam, cha làm quan An Ninh, sư sinh ra nơi đó. Khi trưởng thành sư theo sư Vân Nham Tịnh Công ở Hổ Khâu xuất gia, làm bạn với sư Niệm Am. Lúc đầu sư học giáo quán, không thấy được cứu cánh nên tham vấn các sư Không Am Nhất, Cao Phong Diệu, khế hợp tâm ấn tại Trung Phong. Sư Phong phân làm đệ nhất tòa cho sư thuyết giảng. Chẳng bao lâu sư trở về Vân Nam, khai pháp tại núi Đại Hoa, hoằng hóa tong chỉ niêm hoa của Đức Thích Ca. Sư thị tịch tại núi Đại Hoa, thọ 37 tuổi. Tháp dựng tại đây.

Bài tán:
Ý Tổ, ý giáo
Không thể so đo
Gặp sư độn căn
Phí đôi hài cỏ
Đức cao tồn tại
Hóa hoằng thành tựu
Pháp pháp vô ngại
Sáng soi trời đất

Bài kệ:
Ngày 31 tháng 10 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Người Phổ Lỗ Cát tỉnh Vân Nam
Hiệu là Huyền Giám rạng không trung
Trước học giáo quán không viên mãn
Quay sang thiền quán ngộ cội nguồn.
Chiếu pháp chia tòa nêu tâm ấn
Đại Hoa mạch tổ tiếng tơ đồng
Ân đức lưu truyền như bay lượn
Ngước nhìn núi biếc, nước xuôi dòng.

Đời thứ 57. Thiền sư Kính Sơn Lý Đàm Tông (1318-1391)

Sư người Thai Chi, Lâm Hải, 8 tuổi theo sư Tiểu Ẩn học Phật, 14 tuổi xuất gia khai pháp tại Kính Sơn nổi danh tiếng, vua Minh thái Tổ ban chiếu và nhiều ân sủng cho sư trụ trì chùa Thiên giới. Tống học Sĩ Liêm đã tán thán sư:

“Người con Tiểu Ẩn
Cháu bậc Hối Cơ
Đủ phúc đức lớn
Chứng đại trí tuệ
Người người tôn kính”

Sư biên soạn Toàn thất tập, đồng thời chú giải Kim Cương Bát Nhã và tâm kinh, ba quyển kinh Lăng Già lưu hành thế gian.

Bài tán:
Rồng bay năm bậc
Vận pháp canh tân
Như mây đưa theo
Quốc bảo ngọc trân.
Không nhiễm vinh hoa
Lời trời nồng ấm
Mai sau nghiêng đổ
Ai nối thanh âm?

Bài kệ:
Ngày 1 tháng 11 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Tám tuổi theo sư Tiếu Ẩn tu
Mười bốn xuất gia kim cổ thông
Kính sơn khai pháp vang danh tiếng
Thọ muôn ân sủng chốn hoàng cung.
Nền phước đức xưa đà thâm hậu
Khác hẳn phàm phu, trí hiện tiền
Kim cương bát nhã tâm kinh chú
Vạn kiếp lưu truyền độ hữu duyên.

Đời thứ 57. Thiền sư Hoa Đình Huyền Phong (1266-1349)

Sư người nước Sở, họ Chu, ông nội làm quan ở Điền Nam, vốn là người Côn Minh. Khi người mẹ mộng thấy mây lành nhiễu quanh nhà thì sinh ra sư. Từ niên thiếu sư đã lộ đủ uy nghi và trí tuệ. Năm 12 tuổi thông thạo Nho học, đến năm 14 tuổi thì xa trần hồng, theo pháp sư Hùng Biện xuất gia, thọ giới cụ túc. Lại tham vấn Bảo Tích Đàn Chủ, kết bạn với sư Tuyết Đình. Một hôm khán thoại đầu cây bách khởi nghi, đến ngồi thiền dưới gốc cây suốt bảy ngày. Khi nghe tiếng chim hót, chợt tỉnh. Sư lại đi về phương Đông, đến Thiên Mục, khi nghe được một câu của sư Trung Phong liền buông bỏ pháp phương tiện*, được ấn chứng. Sư đi về Vân Nam, sư Phong nói kệ:

Trăm ức nhật nguyệt tỏa bốn phương
Chiếu xuyên qua vách ngọn Ngân sơn
Trong ngoài am thất hồng quang rạng
Mầm mống tâm vương** hẳn rõ ràng.

Sư khai pháp tại Hoa Đình, tác phong đạo đức vang xa gần. Vào mùng 3 tháng 12 năm Chí Chánh thứ 9 ngày lành, sư nói với đồ chúng: “Hãy nhớ mùng 8 tháng 12 tôi sẽ ra đi”. Sư sinh năm Bính Dần đời Trung Thống, thọ 84 tuổi, hạ lạp 70. Tháp dựng tại núi này. Sư biên soạn Cao Tăng Truyện và Ngữ Lục còn lưu hành.
………………………………
*nơm là phương tiện dùng để bắt cá.
**(心王) Đối lại: Tâm sở. Vua tâm, tức chỉ cho chủ thể của 6 thức hoặc 8 thức, là Tâm pháp trong 5 vị theo cách phân loại và sắp xếp của Hữu bộ và tông Pháp tướng. Thuyết nhất thiết hữu bộ cho thể tính của 6 thức: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý là một, cho nên chủ trương Tâm vương chỉ có một; còn tong Pháp tướng thì cho 8 thức (ngoài 6 thức còn thêm thức Mạt na, thức A lại da), mỗi thức đều có thể tính riêng, cho nên chủ trương Tâm vương là 8. [X. Bách pháp minh môn luận trung sớ Q.thượng; Bách pháp minh môn luận sớ Q.thượng]. (xt. Tâm Tâm Sở, Tâm Sở). (Tự điển Phật Quang).

Bài tán:
Thoại đầu cây bách
Thậm thâm diệu huyền
Trung Phong chỉ ra
Động địa kinh thiên.
Phá tan cửa trước
Mũi còn nửa bên
Hoa Đình dưỡng tài
Tuệ đăng lưu truyền.

Bài kệ:
Ngày 2 tháng 11 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Mây về quyện thất, sinh Huyền Phong
Tuệ xưa đầy đủ phá mê cung
Bể trần sớm biết năm mười bốn
Chín mươi sáu đạo phải đổi lòng.
Pháp thoại cây tùng toàn thể hiện
Chân núi Ngân sơn ngộ bổn tâm.
Pháp đăng mãi mãi Hoa Đình chiếu
Nguyện khắp xa gần trải đức ân.

Đời thứ 57. Thiền sư Tông Chiếu Liên Phong (?-1342)

Sư họ Đoàn, người Tấn Ninh, mới sinh ra đã khác thường, bẩm tánh tuyệt luân. Năm 18 tuổi lễ sư Vân Phong xuất gia, luôn nhớ nghĩ vấn đề sinh tử, không dừng tham cứu. Một hôm, nhân nghe tiếng đốn cây ngã, sư liền đi về Vân Nam gặp sư Không Am, nhưng trở lại nơi sư Trung Phong mới được ấn chứng. Năm Chí Chánh sư trở về Vân Nam khai pháp. Nơi núi Bàn Long có một giếng sâu, rồng độc làm hang phá hại dân trong vùng. Sư lập chùa xong, viết chú ném xuống giếng khiến rồng bỏ đi. Ở Ninh Châu lại có cọp dữ hại người, sư rãy nước phép, cọp cũng trốn mất. Nhiều chuyện thần bí như vậy. Nhục thân của sư thờ trên khám tại Bàn Long cho đến ngày nay. Người không ngớt đến lễ bài.

Bài tán:
Vô số cõi trần
Tùy ứng hiện thân
Trăng trên trăm sông
Hoa hoa trời xuân
Mắt tay ngay đó
Vang tiếng đốn cây
Bàn Long khai đạo
Vạn cổ truyền đăng.

Bài kệ:
Ngày 6 tháng 11 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Bẩm sinh tính mẫn tuệ siêu nhiên
Mười tám ly trần cầu bản nguyên
Ngộ mặt mẹ sinh, nghe cây ngã
Đuổi rồng về vực đọc chú thần.
Cọp rời khỏi núi, vâng lời dạy
Quỷ thần bảo hộ giữ pháp đàn
Đạo đức Liên Phong truyền thiên cổ
Tương chiếu muôn đời vạn pháp đăng.

Đời thứ 58. Thiền sư Vạn Phong Thời Úy (1303-1381)

Sư họ Kim, người Ôn Châu, Lạc Thanh. Sư tham vấn sư Thiên Nham, sư Nham hỏi: “Đem ra thứ gì để cùng lão tăng tương kiến?”. Sư đưa ra nắm tay, nói: “Trong đây là cái cùng hòa thượng tương kiến”. Sư Nham nói: “Chết rồi, đốt rồi thì hướng về chỗ nào an thân lập mệnh?”. Sư đáp: “Bọt nước sinh thì bọt nước diệt, nước lại là nước. Gió lặng sóng im bóng trăng hiện”. Sư Nham bảo sư vào phụ giảng kinh. Sư Nham lại đưa ra thoại đầu “Không gió lá sen lay. Hẳn là cá lội quanh”. Sư lấy uy hét lớn rồi phất tay áo đi ra. Sư Nham nói: “Chủ, khách, có, không, chỉ một câu. Một tiếng kêu mà ngàn sông nước chảy nhược dòng.”

Ngày 15 tháng giêng năm Tân Dậu đời Hồng Vũ, sư an tọa mà hóa, tháp dựng tại viện phía Tây núi Niết Bàn.

Bài tán:
Tiếng hét uy phong
Chảy ngược nước sông
Thôi lấy thôi bỏ
Khách, chủ cũng xong.
Khắp trời đầy đất
Lấp mạch nước chảy
Huyết mạch Hô Đà
Đạo sáng muôn thuở.

Bài kệ:
Ngày 7 tháng 11 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Lấy gì để thấy, đạo đạo đạo
Niệm Phật là ai, nói nói nói
Nhướng mày, giơ nắm, đệ nhất nghĩa
Gật đầu, khuất phục, hiểu thượng thừa.
Tiếng hét dội vang chen tạo hóa
Thuyền trôi trên đất, sư tử gầm
Ly tướng, điều tâm, không chấp trước
Càng ngày càng lớn Bồ đề tâm.

Đời thứ 59. Thiền sư Bảo Tạng Phổ Trì (?-?)

Sư theo hầu sư Vạn Phong, sư Phong đọc kệ phó chúc:
Một đấm vào hông Đại Ngu đau
Ba yếu, ba huyền dứt chánh, thiên*
Chú sư tử nhỏ dòng Lâm Tế
Đuốc đuốc nối nhau kim cổ truyền.
………………………..
*Còn gọi là kinh, quyền.

Bài tán:
Nối đuốc rạng ngời
Sáng soi muôn tướng
Đấm váo xương hông
Khai mở đất tâm.
Trăng tròn đáy bể
Hoa nở vách núi
Ba huyền ba yếu
Riêng sư xướng khởi.

Bài kệ:
Ngày 8 tháng 11 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Trước sân gậy hét chẳng tiếng lời
Văn tự, ngữ ngôn thật rườm rà
Đại Ngu tay đấm hiện thực tướng
Hoàng Bách chân đưa, ấy Hằng Hà.
Dưới tòa Vạn Phong sư tử rống
Trên đỉnh Linh Sơn chim Bằng qua
Chết đó sinh đây lìa cuộc chiến
Đường về cùng tận biết đâu là.

Đời thứ 60. Thiền sư Đông Minh Tuệ Sảm (1372-1441)

Sư họ Vương, người Hồ Quảng, tham kiến sư Bảo Tàng. Sư Tàng hỏi: “Tâm không là Phật, trí không là đạo, ông hội thế nào?”. Sư bước ra phía trước, thưa hỏi rồi vòng tay đứng. Sư Tàng nói lớn: “Ông ở đây đã bao lâu rồi mà còn đưa kiến giải như thế này à?”. Sư thấy lòng buồn bực, đến ngày hôm sau hốt nhiên triệt ngộ tận tường, liền trình kệ:

Một đấm đạp tan cả thái không
Trăm ức Tu Di ẩn tích tung
Xin hỏi trong đây ai là chủ
Trời Đông* chợt hiện một vầng hồng.
……………………
*Phù Tang chỉ cho phương Đông.
Sau đó sư trụ tại chùa Đông Minh. Năm Tân Dậu đời Tuyên Đức, ngày 29 tháng 6 sư an tọa mà hóa, hỏa táng thu xá lợi. Tháp dựng tại hướng Đông núi xưa.

Bài tán:
Một vầng phương Đông
Chiếu rạng trời hồng
Tứ cú bách phi
Dứt huyền lìa diệu.
Cười trên sóng bể
Nhảy vọt Tu Di
An tọa Đông Minh
Hoa cười liễu rũ.

Bài kệ:
Ngày 13 tháng 11 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Vẽ hình, tạo dáng giả chiêu bài
Tiền nào của nấy chớ nợ nần
Phát cáu, quật cường đột nhiên ngộ
Vùi đầu tham cứu mở đường thông.
Đập vỡ hư không tình ý lộ
Thai sinh ẩm ướt phá cũi lồng
Giữa trời rạng rỡ vầng Phật nhật
Đài ngọc hà quang chiếu một vùng.

Đời thứ 60. Thiền sư Cổ Đình Thiện Kiên (?-1493)

Sư họ Đinh, người Côn Minh, lúc sinh sư ánh sáng hồng từ trên không tỏ rạng, hương thơm đầy thất. Năm 10 tuổi, theo sư Từ Tông ở chùa Ngũ Hoa đổi tên là Thiện Kiên. Lúc đầu sư tham vấn sư Vô Tế tại Kim Lăng (Nam KInh). Sư Tế đưa ra thoại đầu: “Vạn pháp quy nhất”. Một hôm sư đọc kinh Viên Giác đến câu: “Từ thân đến tâm đều huyễn hóa” thì hốt nhiên tỉnh ngộ. Năm 19 tuổi đến lễ sư Bách Nham, lại đổi tên như ngày nay. Sư trở lại tham vấn sư Vô Tế mới được ấn ký, trao áo và phất trần, phó chúc: “Đạo của ta từ nơi ông hưng khởi. Chớ để đoạn dứt tuệ mẹnh Lâm Tế. Sư che tai lại lui ra. Sau đó sư lần lượt trụ tại các danh lam Phù Độ, Thiên Giới. Lại trở về Vân Nam, khai pháp trực tiếp hoằng hóa tại chùa Quy Hóa. Sư soạn Sơn Vân Thủy Thạch Tập lưu hành.

Bài tán:
Phòng tỏa sáng thơm hương
Bậc thánh xưa trở lại
Lấy hoặc bỏ lông rùa
Chiếu khắp tận chín cõi
Cái này không phải khác
Trên đá lại đơm hoa
Đạo tựa như rồng nằm
Khai mở bầu cam lộ

Bài kệ:
Ngày 14 tháng 11 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Một trời ánh sáng tỏa thơm hồng
Xuất gia mười tuổi lạy Từ Tông
Trước gần Vô Tế tham muôn pháp
Sau đến Bách Nham hội một dòng.
Thân tâm như huyễn lìa chấp trước
Dứt vọng, trong ngoài thảy thảy Không
Phong thái Cổ Đình xoay vũ trụ
Nước khe, mây núi chẳng khi dừng.

Đời thứ 61. Hải Chu Phổ Từ Thiền Sư (1366-1450)

Sư họ Tiền, người Thường Thục, Tô Chi. Buổi đầu tham kiến sư Vạn Phong, khế hợp nên có chỗ tỉnh ngộ. Sau lại tham vấn sư Đông Minh. Sư Minh hỏi: “Đã từng gặp ai?”. Đáp: “Sư Vạn Phong”. Sư Minh lại hỏi: “Vạn Phong nay ở đâu?”. Sư không đáp được. sư Minh nói: “Như thế thì được gì. Từng gặp Vạn Phong thì sao?”. Sư trở về lều của mình, suốt ba ngày đên quên ăn quên ngủ. Ngẫu nhiên sợi dây buộc cây đèn bị đứt rơi xuống đất, sư hốt nhiên đại ngộ, liền đến tìm sư Minh trình lên một khúc ca ngộ đạo. sư Minh liền phó chúc. Sau đó sư thừa pháp sư Minh. Khi thị tịch sư thuyết kệ rồi hóa. Tháp dựng bên trái chùa Đông Minh.

Bài tán:
Đúng cơ bức bách
Thấy được Vạn Phong
Đưa tay sờ mũi
Biệt lập gia phong.
Gậy đánh tê giác
Móc câu rồng xanh
Mây bay mưa trút
Cam lộ chảy quanh

Bài kệ:
Ngày 15 tháng 11 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Khí thiêng tụ hội đỉnh Tô, Hàng
Long tượng lại qua, hưng pháp môn
Trước mặt lượng tài, khôn đối đáp
Sau lưng lò ngã, phá mông lung
Vằng vặc trời xanh trăng chiếu rạng
Thênh thang đất rộng ánh sao lồng
Hải Chu, Đông Minh ngồi chiếu Tổ
Đầu nguồn nguyên bổn thịnh gia phong.

Đời thứ 62. Bảo Phong Minh Tuyên thiền sư (?-1472)

Sư nhân lúc sư Hải Châu lập tháp viện sư bị búa đập trúng chân chợt tỉnh ngộ. Sau đó sư nhận việc nấu nướng trong bếp chùa. Một hôm lại bị lửa bốc cháy cả chân mày, mặt đau như dao cắt, lấy kính soi hoát nhiên đại ngộ. Sư trình kệ lên sư Hải Châu, liền bị sư Châu đánh. Sư giật cây tích trượng, nói: “Cây trượng sáu thước này mấy năm không dùng đến, hôm nay tại sao lại lấy đánh người?”. Sư Châu cười lớn. Sư trình kệ:

“Gậy đập xuống đầu chảy máu hồng
Miệng cười đao giấu phải liệu hồn
Chẳng phải tinh anh trang Hán tử
Người chết ăn gậy miệng lầm bầm”.

Sư Chu nói: “Như lời kệ này thì có thể thừa kế tông phong của ta.

Bài tán:
Cháy rụi chân mày
Nắm lấy lỗ mũi
Một gậy hợp cơ
Đồi núi xa xa.
Liệu mà nhìn kỹ
Đồ cổ gì đây
Rõ ràng sáng tỏ
Ẩn Đông hiện Tây

Bài kệ:
Ngày 16 tháng 11 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Gãy chân, mày rụi, ngộ vô thường
Lem nhem củi bếp mặt tổn thương
Lưới tử sinh, kính trong phá hủy
Vòng luân hồi, thiền trượng điểm khai
Thoát ngoài ba cõi, trang nam tử
Thượng phẩm ngự trên đại bảo đài
Diêm vương có gọi, không buồn đáp
Đâu màng quỷ khiến với thần sai.

Đời thứ 63. Thiền sư Thiên Kỳ Bản Thụy (?-?)

Sư họ Giang, người Giang Tây, Chung Lăng, tham vấn sư Bảo Phong. Sư Phong hỏi: “Từ đâu lại?”. Đáp: “Tứ Xuyên”. Sư Phong đưa ra nắm tay, nói: “Tứ Xuyên lại có người ấy sao?”. Sư đáp: “Không có”. Sư Phong nói: “Tại sao không có”. Đáp: “Không phải là cảnh giới của tôi”. Sư Phong nói: “Cảnh giới của ông ra sao?”. Đáp: “Chư Phật cũng không biết thì ai dám gọi là gì?”. Sư Phong nói: “Cái ông sinh khởi chẳng phải là chấp vào Không hay sao?”. Đáp: “Cuối cùng thì chẳng thể quay vào hang ma mà tìm cách sống”. Sư Phong nói: “Tây thiên có 96 thứ ngoại đạo, ông là thứ nhất”. Sư liền rũ tay áo bước ra. Sư Phong nói kệ phó chúc:

Gậy hét Tế Sơn như chạm nhẹ
Chết liền, tai mắt sẽ kết giao
Thánh giải phàm tình đều dứt hết
Ưu đàm* mới trổ một cành tươi.
………………………
* Đàm hoa 曇花 là hoa quỳnh. ◎Như: đàm hoa nhất hiện 曇花一現 ý nói bỗng thấy lại biến đi ngay, diễn tả sự sinh diệt mau chóng. § Ghi chú: Đàm hoa là tiếng gọi tắt của ưu đàm bà la hoa 優曇婆羅華 (tiếng Phạn “udumbara”), tức là vô hoa quả 無花果. Theo truyền thuyết Ấn Độ, hoa này chỉ nở để báo hiệu một chuyển luân vương 轉輪王 hoặc một vị Phật giáng sinh.

Bài tán:
Rũ áo bước ra
Rồng bay cọp phóng
Lưới trời bủa giăng
Làm sao mà thoát.
Quay trái quay phải
Khay tròn ngọc lăn
Chín mươi sáu đạo
Thuyết chú Iran*
……………………..
* Tên nước: Persia (Ba Tư), thuộc Á châu. Nay gọi là Y-Lang 伊朗 (Iran).

Bài kệ:
Ngày 20 tháng 11 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Trước Bảo Phong, Bổn Thụy như sư tử rống
Có có, không không, nên phát khởi phân tranh
Nhận mắng, chịu đòn, chưa thấy Phật
Giơ chân đá đạp đổ nhà anh.
Tài bậc trượng phu nay đã trọn
Nghiệp lớn anh hùng sớm tựu thành
Kim cổ khó suy tông môn ấy
Tiếng như sắt chạm, diệt tâm hành.

Đời thứ 64. Thiền sư Vô Văn Minh Thông (?-1543) 

Sư họ Hề, người Mân Trung, theo học với sư Thiên Kỳ. Sư Kỳ hỏi: “Khổ vui đều do tâm, vì sao lại hướng ngoại mà nắm giữ?”. Sư đáp : “Chỉ vì không hiểu”. Sư Kỳ nói: “Chuyện thị phi là (đa) sự, cớ sao lại nghe theo?” . Sư đáp: “Do vì nhận lầm nguồn gốc”. Hỏi: “Mê ngộ do người, sao người lại không hiểu?”. Sư đáp: “Nếu sớm biết đèn là lửa thì không tìm cầu khắp bốn phương”. Sư Kỳ đọc kệ:

Người tu tâm chẳng khác mẹ hiền
Bầy ma vây trẻ, phải giao tranh
Cầu vàng giúp bắc xuyên qua biển
Nơi không thấy Phật, biết hoàn thành.

Sau sư khai pháp tại chùa Long Tuyền, Tùy Châu. Có một vị tăng hỏi: “Bổn lai diện mục là thế nào?”. Sư đáp: “Thạch hương đình”. Vị tăng nói: “Ngay lúc qua rồi thì sao?”. Sư đáp: “Chôn xuống là rồi”.

Bài tán:
Niêm hương thạch đình
Bế thiền hòa khẩu
Vẽ tướng trăng tròn
Vui Phật đản sinh.
Quạ bay thỏ chạy*
Gió thổi cỏ rạp
Phá vỡ thành quách
Thánh phàm hãi kinh
…………………………..
*Chỉ cho nhật nguyệt.

Bài kệ:
Ngày 21 tháng 11 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Cảm thọ khổ vui cũng bởi tâm
Nương đâu chấp lấy hướng ngoại tầm
Vô minh che lấp gương tròn lớn
Hữu lậu bọt bèo chỗ sẩy chân
Thị phi mê ngộ nương vào chấp
Sinh tử niết bàn cũng rỗng không
Ví Thạch Hương Đình chân diện mục
Bồ đề không giảm cũng không tăng

Đời thứ 65. Thiền sư Tiếu Nham Đức Bảo (1521-1581) 

Sư họ Ngô, người Kim Lăng, tham kiến sư Tuyệt Học, nhân lúc rửa rau có chỗ tỉnh ngộ, liền xách giỏ rau về. Sư Học nhìn thấy, hỏi: “Xách gì vậy?” . Sư đáp: “Thưa, giỏ rau”. Lại hỏi: “Sao không nói một câu gì khác?”. Sư nói: “Thỉnh hòa thượng hỏi lại”. Nói rồi đi quanh bếp. Sư Học hỏi: “Ai ai cũng có cha mẹ tự bản lai. Vậy cha mẹ bản lai đó nay ở đâu?”. Sư nói: “Chỉ một năm lửa đốt sạch”. Lại nói: “ Như vậy thì ông không có cha mẹ sao?”. Sư nói: “Có thì cũng có, nhưng mắt Phật không thấy có”. Hỏi: “Còn ông có thấy không?”. Sư đáp: “Tôi cũng không thấy”. Hỏi: “Vì sao không thấy?”. Sư đáp: “Nếu thấy thì không phải là cha mẹ thật”. Sư Học liền ấn chứng.

Bài tán:
Vào đến được cửa
Một giỏ rau xanh
Nuôi lừa nuôi ngựa
Vượt quá cổ kim
Thân thể đỏ hỏn
Không gi che đậy
Bản lai phụ mẫu
Mặt mũi ngay đây!.

Bài kệ:
Ngày 22 tháng 11 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Chân thật dụng công không ba hoa
Rửa rau, vò gạo há qua loa
Điều tâm một chỗ linh quang hiện
Lăng xăng tạp niệm vướng vô minh
Bên bếp thăm dò câu cứu cánh
Nước kia nóng lạnh uống mới rành
Như Lai không đi cũng không lại
Không mắt sờ voi chấp ý mình.

Đời thứ 66. Thiền sư Huyễn Hữu Chánh Truyền (1549-1614)

Sư họ Lữ, người Lật Dương, nhân nghe tiếng pháo nổ có chỗ tỉnh ngộ nên tham vấn sư Tiếu Nham cầu ấn chứng. Sư Nham nói: “Hãy nói rành rõ những chỗ tâm đắc”. Sư như thực kể lại. Đang lúc sư đang kể thì sư Nham nhảy vọt lên để rơi chiếc giày, nói: “Hãy hướng về lý đạo mà nói thử một câu”, nhưng lại cắt ngang lời sư đang nói. Suốt đêm sư cả đêm không ngủ được. Sáng sớm ra đứng dưới mái hiên. Sư Nham trông thấy liền lên tiếng gọi. Khi sư quay lại thì sư Nham đưa một chân lên như A tu la che mặt trời, mặt trăng. Ngay lúc đó sư hốt nhiên đại ngộ. Sau khai pháp ở Long Trì.

Bài tán:
Nhảy lên làm rơi giày
Cắt ngang lời đang nói
Đưa chân A tu la
Hốt nhiên lòng sáng tỏ.
Nước Hoàng Hà chảy ngược
Núi xanh cao chót vót
Trên Long Trì mây bay
Thấm nhuần vào lòng đất.

Bài kệ:
Ngày 5 tháng 12 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Huyễn Hữu Chánh Truyền ngắm hoa đăng
Nghe tiếng pháo tre tỉnh muội mông
Cầu Tiếu Nham chứng, kể công lực
Ngắt lời đang nói, dứt nghi lòng.
Vất đi thế trí, chân tâm hiện
Một niệm không sinh vọng tưởng dừng
Hoàng hà chảy ngược rồng tuôn nước
Ngũ cốc xanh tươi khắp một vùng.

Đời thứ 66. Thiền sư Chân Viên Nguyệt Đàm (?-?)

Sư họ Tiêu, người Hồ Nam, cha làm quan tại Kim Lăng lúc sinh ra sư. Năm 18 tuổi xuất gia, thọ giới cụ túc tại chùa Thiên Giới. Sư tham kiến các đại danh sư khắp nơi. Các lão sư Bạch Trai, Vô Tế, Biến Dung đều rất kính trọng sư. Sau đó sư được lão sư Nguyệt Tâm ấn chứng. Đầu năm Gia Tỉnh sư sửa am tại núi Kê Túc thành danh lam là chùa Hoa Nghiêm. Bấy giờ đại pháp tại Vân Nam có các vị như Bàn Long, Cổ Đình cùng sư chấn hung những suy đồi trước đó.

Bài tán:
Đại sĩ dạy dỗ người
Tự gánh việc hoằng pháp
Trăng chiếu trên ngàn sông
Không nước thì chẳng hiện
Tánh và trăng đều tròn
Chư đức cùng ấn chứng
Vân Nam ghi đức ân
Đại pháp mãi thịnh hưng.

Bài kệ:
Ngày 12 tháng 12 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Thiền sư Nguyệt Đàm vốn họ Tiêu
Mười tám xuất gia bỏ bắn điêu
Tham vấn hiền nhân tập đại định
Nhận lấy kiềm chùy đến bậc siêu
Mạch pháp Vân Nam ngày một thịnh
Tăng đoàn Chấn Đán lập công lao
Cổ Tự Hoa Nghiêm truyền vạn kiếp
Học rồi dạy lại, bậc anh hào.

Đời thứ 67. Thiền sư Mật Vân Viên Ngộ (1566-1642)

Sư họ Tương, người Nghi Hưng, nhân gánh củi qua núi có chỗ tỉnh ngộ, liền đến tìm Huyễn hòa thượng xin xuất gia. Hòa thượng Huyễn thường la mắng sư nên sư cảm thấy lòng buồn. Nhân có dịp đi qua đỉnh Đồng Quan, sư đại ngộ liền trình sư Huyễn. Sư Huyễn hỏi: “Nếu có người hỏi ông thì ông trả lời như thế nào?”. Sư đưa nắm tay ra. Sư Huyễn nói: “Lão tăng không biết người đã chứng ngộ có ý gì.” Sư nói: “Đừng nói rằng hòa thượng không biết. Ba đời chư Phật cũng không biết”. Một hôm sư Huyễn đưa cao cây phất trần, hỏi: “Khắp nơi có cái như vầy không?”. Sư lấy uy phong hét lớn. Sư Huyễn nói: “Hét hay lắm”. Sư lại hét thêm hai tiếng nữa rồi về chỗ ngồi. Sư Huyễn phó chúc sư là người bảo trì Phật pháp. Sau sư khai pháp tại Thiên Đồng.

Bài tán:
Trên đỉnh Đồng Quan
Hiện ra rực rỡ
Ngay nơi tiếng hét
Như sấm như sét
Chư Phật bất tri
Khế ước gia truyền
Tông phong Lâm Tế
Theo đến nơi nơi.

Bài kệ:
Ngày 13 tháng 12 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Hoan hỷ vung tay Lâm Tế tông
Huyễn hữu như Vô chửa tận cùng
Trên đỉnh Đồng Quan kêu một tiếng
Bể sâu Hương Thủy sóng chập chùng.
Xưa nay đại ngộ là như vậy
Giác rồi gìn giữ chớ đa ngôn
Khó lường diệu pháp từ chư Phật
Mở miệng lầm to, chớ nói nhàm.

Đời thứ 67. Thiền sư Thiên Ân Viên Tu (1575-1635)

Sư họ Mân, người Kinh Khê, mồ côi cha, mẹ là Phan thị ở giá. Một hôm mẹ sư sai ra chợ mua đậu, sư trao tiền cho chủ tiệm rồi về tay không nên mẹ sư trách mắng. Lúc này công phu sư đã thuần thục liền đến với Huyễn Hữu hòa thượng xin xuất gia. Khi khán thoại đầu vô tự của tổ Triệu Châu sư vẫn chưa phát hiện được yếu chỉ, ngẫu nhiên sư đọc đến chỗ “Phật thân sung mãn khắp pháp giới, hiển thân khắp nơi trước quần sanh”, khi ấy lại nghe tiếng lừa kêu thì triệt ngộ. Một hôm, Hữu hòa thượng thấy sư liền làm ra dáng vẻ người nữ. Sư liền đắc được huyền chỉ, trình lên bài tụng, được ấn chứng. Sư khai pháp tại chùa Báo Ân ở Khánh sơn. Khi thị tịch môn nhân dựng tháp tại Khánh sơn, thờ toàn thân.

Bài tán:
Một tiếng lừa kêu
Đáy thùng rơi xuống
Khắp cả đất trời
Núi hang chất ngất
Cười thoát sa bà
Tạo ra lễ nhạc
Xe vàng trên đỉnh
Làm sấm làm sét .

Bài kệ:
Ngày 13 tháng 12 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Liễu ngộ Viên Tu hiểu tận tường
Khúc ca khen ngợi bậc thiện nhân
Mua rau quên cả tiền và giỏ
Tham thiền đốn ngộ niệm có, không.
Tuy là mẹ trách mà chưa rõ
Đọc lời kệ Phật, diệu thanh âm
Biển cạn non mòn cuồng vọng dứt
Pháp âm  động đất, chấn hư không.

Đời thứ 67. Tuyết Kiệu Viên Tín thiền sư (1571-1647)

Sư họ Chu, người Ngân Huyện, Ninh Ba, Chiết Giang. Năm 20 tuổi tự xuống tóc theo hạnh đầu đà. Một hôm, nhân nghe đến câu: “chim choc, cây trong rừng thảy đều niệm Phật Pháp Tăng” thì có lòng nghi, liền đi khắp đông tây, dáng như kẻ điên. Sư thường ở trong các ngôi miếu vắng. Một hôm, khi sư đang an tọa, từ trên không một bàn tay lớn đưa xuổng nhéo vào mũi sư. Sóng mũi sư vốn cao và thẳng, từ đó như cong lại, ai cũng cho là kỳ lạ, nhưng cũng từ đó, sư thấu triệt mối đạo. Có người nói: “Nếu không cong sóng mũi, há được đỉnh đầu khai”. Sư lại được hòa thượng Huyễn phó chúc. Trước lúc thị tịch, sư nói kệ:

“Bầy trẻ trong sinh tử
Đường rộng mặc tiêu dao
Trăng sớm đượm hơi sương”

Sư uống chén trà rồi thị tịch. Tháp dựng tại Vân Môn.

Bài tán:
Bẻ cong vòng lỗ mũi
Đập nát cả hư không
Đất nơi sư tử sống
Trăm thú đều ẩn thân.
Nói ra một lời cuối
Trăng sớm đượm hơi sương
Cổ kim cùng hợp lại
Âm thanh như tiếng chuông

Bài kệ:
Ngày 18 tháng 12 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Sinh ra tướng lạ, nguyện đầu đà*
Cây rừng chim suối diễn ma ha
Kinh hãi đông tây điên đảo chạy
Mở mang Nam Bắc tạm dần dà
Sóng mũi bẻ cong, trời mở cửa
Thôi dùng miệng lưỡi đất ít nhà
Phàm tục nào hay chân Hán tử
Pháp vốn không lời nay nói ra.
……………….
* Người tu hành tự nguyện sống theo cuộc sống gian nan khổ nhọc để mài dũa thân tâm, muốn nhờ hạnh này để giải thoát tất cả khổ, nói là dùng khổ để trừ khổ, gọi là khổ hạnh.

Đời thứ 67. Thiền sư Như Mãn Nguyệt Luân (?-?)

Sư họ Dịch, người Mã Long, năm 18 tuổi xuất gia, thọ giới cụ túc. Sư tham vấn sư Nguyệt Đàm, nhiều năm ở bên cạnh, đắc tâm ấn, vạn hạnh trang nghiêm nhưng vẫn chưa cho là đủ nên đi khắp nam bắc tham học từ các bậc tri thức. Sư lưu lại kinh đô 26 năm, danh tiếng vang đến triều đình, được hai lần ban áo tía và kinh tạng do vua chủ biên. Về sau sư trở lại Vân Nam, trụ trì hai danh lam là Hoa Đình và Hoa Nghiêm, xiển dương chánh pháp, để lại quyển Ngữ Lục lưu hành thế gian.

Bài tán:
Sư Nguyệt Đàm ấn tâm
Danh tiếng vang cung vua
Sáu lần xuống chiếu thỉnh
Tráp áo tía hiển vinh
Miêu tả và ghi chép
Dáng phượng vẻ oai nghiêm
Hai lần ban long tạng
Hoa Nghiêm và Hoa Đình

Bài kệ:
Ngày 19 tháng 12 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Nguyệt Luân tỏa rạng giữa không trung
Đất Nam, đất Bắc khắp núi sông
Vua nghe công đức tôn đạo nghiệp
Ngưỡng mộ gia phong dân hướng tâm
Pháp bảo tôn nghiêm long tạng giữ
Xiển dương chân lý tỉnh mê lầm
Bậc thánh hiện nơi đời cứu thế
Vui từ địa ngục đến dương trần.

Đời thứ 68. Thiền sư Bản An Vô Tâm (?-?)

Sư họ Thư, người Bình Giang, Hồ Nam, theo mẹ đi về kinh. Năm 16 tuổi xuống tóc xuất gia tại chùa Pháp Hải, nghiên cứu tông thừa. Từ lâu nương theo thiền sư Nam Minh Tuệ Quảng, nghe pháp liền được chồ khế hợp cơ mật, lại rất thân cận với sư Diệu Phong. Năm Sửu thời Vạn Lịch sư được ban áo tía, lại được ý chỉ của Từ Thánh thái hậu muốn sư cùng với sư Diệu Phong đưa kinh tạng đến chùa Hoa Nghiêm ở Kê Túc. Môn đồ thỉnh sư trụ trì chùa Đại Giác. Đạo pháp ở Điền Nam lúc đó được hưng thịnh.

Bài tán:
Quyển vàng rồi quyển đỏ
Sáng soi một trời Nam
Biên địa cùng vui mừng
Giáo hóa đếnvô biên.
Luồng ánh hồng bàng bạc
Trước đỉnh đồi Kê Túc
Ngay đây là diện mục
Giương cao ngọn cờ pháp.

Bài kệ:
Ngày 20 tháng 12 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Trời nam trời bắc trời đông tây
Trên dưới sáu phương các thánh hiền
Xướng lên giáo pháp từ bi độ
Hỉ xả ban ân giúp hữu duyên.
Hộ tống long tàng hưng chánh pháp
Hổ Khâu bảo trọng tạo lời ngay
Là kẻ Vô Tâm, nay trở lại
Suối mát thong dong đại định này.

Đời thứ 68. Thiền sư Ngũ Phong Như Học (1585-1633)

Sư họ Thường, người Bồ Bản, Hà Đông, 20 tuổi xuất gia, không chuộng văn học, chỉ theo pháp khổ hạnh để rèn luyện tánh linh, tham vấn yếu chỉ đầu đà của sư Hoàng Bách. Sau lại tìm đến hòa thượng Ngộ ở Kim Túc. Một hôm, sư thấy một vị tăng hỏi sư Ngộ: “Vạn pháp quy về một. Một quy về đâu?”. Sư Ngộ liền đánh. Sư hốt nhiên đại ngộ, đá văng được thùng nước, dập tắt đèn đuốc, mỗi mỗi cơ duyên đều khế hợp. Sư Ngộ ấn khả. Sư khai pháp tại am Tế Sanh. Sư thị hiện có bệnh qua đời, tháp dựng tại Kim Lăng.

Bài tán:
Thổi tắt đèn đuốc
Ánh sáng phơi bày
Giáo mác tam huyền
Chủ khách hợp hòa
Chỉ ngựa nói hươu
Lấy đen làm trắng
Ngọn sóng Hô Đà
Vút như tên bay.

Bài kệ:
Ngày 21 tháng 12 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Trước gặp Hoàng Bách học yếu môn
Sau gần Viên Ngộ hợp chân thường
Một trở về đâu? Liền bị đánh.
Đâu đâu chánh định cũng ly ngôn.
Thiên tư hợp đạo hùm thêm cánh
Đủ đức trời cao rồng vẫy vùng
Giọt cam lồ trải như mưa trút
Chúng sinh khắp chốn được thung dung .

Đời thứ 68. Thiền sư Phá Sơn Thông Minh (1597-1666)

Sư họ Kiển, người Tây Thục nhân đọc bài Khuyến Thế Ca của Chí Công bất giác lệ rơi như mưa. Sư ở trên đỉnh núi ba năm. Một hôm kinh hành trên bờ núi thì không còn thấy có thân tâm và thế giới nên bước trượt rơi xuống gãy chân, và đại ngộ. Sư liền tham kiến hòa thượng Vân Môn Trạm Nhiên. Sau đó lại tham vấn lào nhân Thiên Đồng, đạt yếu chỉ. Sư về đất Thục, mở rộng chánh pháp, và thị tịch.

Bài tán:
Trên đỉnh buông tay
Nhặt được lông rùa
Vào núi Thái Bạch
Trời hồng phượng múa.
Quay về Tây Thục
Một cây gậy trắng
Chấn hưng tông phong
Cam lồ cuồn cuộn.

Bài kệ:
Ngày 25 tháng 12 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Nhất tâm bất loạn để tham thiền
Nghiệp thân khẩu ý sạch sành sanh
Sẩy chân triền núi nghìn năm ngộ
Vắt tay trên trán vạn kiếp siêu.
Trạm Nhiên, Viên Ngộ cùng ấn chứng
Cầu học, Vân Môn với Thiên Đồng
Thông Minh giáo đạo cho quần chúng
Phá Sơn cây báu gỗ chiên đàn.

Đời thứ 68. Thiền sư Thạch Xa Thông Thừa (1593-1638)

Sư họ Chu người Kim Hoa, Chiết Giang, tham vấn Ngộ hòa thượng tại Kim Túc. Một hôm, sư Ngộ đưa ra chuyện Thế Tôn niêm hoa, ngài Ca Diếp mĩm cười, hỏi sư: “Ý chỉ như thế nào?”. Sư nói: “Ban ngày xỏ kim”. Sư Ngộ lấy gậy nện cho. Sư liền đại ngộ, mới thấy việc Thế Tôn niêm hoa, tổ Lâm Tế đánh hét đều phân minh rõ rệt. Về sau sư khai pháp tại Kim Túc.

Bài tán:
Thâm nhập vào vòng vây
Trải bao lâu thắng trận
Đỡ được mũi tên nhọn
Đánh mất cả tầm nhìn.
Bắt được kẻ thua trận
Thế giới hẳn thanh bình
Nêu ra toàn chánh lệnh
Ba mươi thuốc Ô Đằng.

Bài kệ:
Ngày 26 tháng 12 năm 1984
Tuyên công thượng nhân viết:

Nhẫn nhục có Thạch Xa Thông Thừa
Kim Túc Mật Tổ đại bố thí
Thế tôn niêm hoa truyền tâm ấn
Ca Diếp mĩm cười, hội pháp ý.
Đau lời châm biếm càng đúc rèn
Trong khổ giũa mài diệu trang nghiêm
Vào ra trận địa chân hảo hán
Hiểm trở không sờn chí trượng phu.

Đời thứ 68. Thiền sư Phí Ẩn Thông Dung (1593-1661)

Sư họ Hà, người Phúc Châu, theo hầu Vân Môn Trạm Nhiên hòa thượng đã lâu, đến được chỗ rõ thông. Lại tham vấn hòa thượng Ngộ tại Kim Túc. Hỏi: “Đối mặt cùng nêu đề là sao?”. Sư Ngộ liền đánh cho. Sư nói: “Lầm rồi”. Sư Ngộ lại đánh. Sư liền hét lớn. sư Ngộ lại đánh. Sư lại hét, bị đánh đến bảy lần, đầu như vỡ ra, nhìn tận tường thì tất cả đều giải tỏa. Một hôm sư Ngộ hỏi: “Gió ấm phương Nam thổi đến đây. Một góc nơi Phật điện mát mẻ. Ông hiểu thế nào?. Sư nói:

“Nước theo bờ đá chảy lạnh lùng
Hoa kia lồng gió gởi hương thơm”

Sư Ngộ nói: “Hiểu vậy thì được gì?”. Sư liền hét lớn. Sư Ngộ nói: “Hét lớn hơn”. Sư nói: “Chỗ trọng yếu nơi lời kệ đã thuyết ra”. Sư Ngộ bỏ đi ra.

Bài tán:
Đối mặt liền nêu đề
Thuốc Ô Đằng ba lần
Hốt nhiên khai chánh nhãn
Ba lùi rồi ba tiến
Hoa thơm trôi theo nước
Trang nghiêm tuân lệnh ấy
Dưới chân không riêng tư
Ven mây chim Cắt đẹp.

Bài kệ:
Ngày 1 tháng 1 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Vì đâu tu đạo khó hợp chân
Quẩn quanh tình thức u mê thân
Đối mặt bỏ qua, luân hồi chuyển
Trao tay lỡ dịp, tử sinh gần.
Gìn tâm một chỗ xong việc lớn
Kho tàng pháp giới, niệm hồi quang
Thông Dung rủ sạch muôn trần lụy
Diện kiến Từ Tôn, tự tại an.

Đời thứ 68. Thiền sư Triều Tông Thông Nhẫn (1604-1648)

Sư người Thương Châu, tham vấn hòa thượng Kim Túc. Sư Ngộ đưa ra di ngôn của thiền sư Đại Thiên, nơi với sư: “Cọp dữ là loài ăn thịt nhưng vì sao chúng không ăn thịt con mình?”. Sư nói: “Chỉ có người tự nhận biết chỗ thân cận”. Sư Ngộ nói: “Ông dựa vào đâu mà nói như vậy?”. Sư cười, nói: “Hòa thượng chỉ làm được con cháu của Đại thiên”. Sư lại nói kệ:

“Không mang một pháp đến cho người
Mới thật tâm bà tựa biển sâu
Luôn nhớ Hương Nghiêm khi đốn trúc
Thắp hương vọng bái tạ ân thầy”.

Sư Ngộ nói: “Người biết ân sâu cũng chưa đến được chỗ hợp hòa vần điệu”. Sư nói: “Xin hòa thượng đừng vì văn tự mà nhìn khác đi”. Sư Ngộ cười. Sư khai pháp tại chùa Bảo Hoa, Giang Tây.

Bài tán:
Núi sâu có loài hổ đốm trắng
Ăn thịt để nuôi sống thân mạng
Một lời khiến cả bầy hãi kinh
Đây mới chính là chân thực giác.
Hợp hòa vần điệu nhưng nào hiểu
Con mắt lúc động, định
Là cha và là con
Cửa quan sinh họ Trịnh*
……………………………………
*Trịnh Kỷ xin vua Minh miễn thuế cho quê nhà 3 năm.

Bài kệ:
Ngày 3 tháng 1 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Đại thiên thế giới lắm chuyện kỳ
Cọp không ăn con, bởi tại đâu
Hương Nham đốn trúc* duyên thuần thục
Nghe tiếng trí thông, ấy Thạch Đầu.
Tu hành cấm kỵ lầm lại lỡ
Dựng đạo nên ngừa ma gặp ma
Thông Nhẫn luôn cùng chân diện mục
Duy Sơn vọng bái tâm lão bà.
……………………..
*Hòa thượng Hương Nghiêm học đạo với Tổ Bách Trượng. Nhân chặt tre mà ngộ đạo.

Đời thứ 68. Thiền sư Thạch Kỳ Thông Vân (1594-1663)

Sư người Thái Thương, tham vấn hòa thượng Ngộ ở Thiên Đồng sau khi đắc pháp trụ ở núi Tuyết Đậu. Một vị tăng đến tham vấn. Sư hỏi: “Từ đâu đến?”. Vị tăng đáp: “Từ Kim Túc đến”. Sư hỏi: “Kim Túc hòa thượng đã khỏi bệnh chưa?”. Vị tăng nói: “Tôi không hề biết sư ấy có bệnh”. Sư nói: “Ông mới là người có bệnh, ông biết không?”. Vị tăng hỏi: “Tôi đâu có bệnh gì?”. Sư nói: “Bằng chứng rành rành đó”. Vị tăng nói: “Đã bị hòa thượng thấy hết rồi”. Sư nói: “Bệnh ông nặng lắm đó. Từ đâu trúng độc mà đến đây?”. Vị tăng suy nghĩ, sư hét lớn. Vị tăng lễ bái, sư liền đánh.

Bài tán:
Mai phục tác chiến
Lập mưu bày trận
Nếu chẳng người trí
Khó không xin tha.
Suy tính chẳng ra
Làm trái lệnh trên
Uy nghiêm tiếng hét
Trước sau chánh đại.

Bài kệ:
Ngày 3 tháng 1 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Kim Túc có bệnh ta chẳng hay
Biển ngọc không sóng ông chưa sai
Bằng chứng sờ sờ hết chối cãi
Tung tích quỷ ma ẩn chốn này.
Hết tham lại vấn thôi kiểm chứng
Ấn tâm sau ba hỏi, năm thưa
Ải quan khinh xuất thì dễ lọt
Thầy bậc trời người chánh lệnh đưa.

Đời thứ 68. Thiền sư Mộc Trần Đạo Vân (1596-1674) 

Sư họ Lâm, người Lĩnh Nam, tham yết Mật lão nhân tại Thiên Đồng, khó gặp nhân duyên nhận lời ủy thác của Mật lão nhân. Khi Mật lão nhân qua đời sư thừa kế, khai pháp tại Bình Dương, vua Thế Tổ rất kính trọng sư, xuống chiếu thỉnh sư vào cung thuyết pháp. Một vị tăng hỏi: “Ở yên bên trong cung vua, phòng vệ kín đáo, được chiếu chỉ trở về phương nam, nơi suối đá sáng rực. Xin hỏi lệnh vua ban ra là gì?”. Sư nói: “Bảy thông tám đạt”. Lại hỏi: “Thế nào là một ánh trăng in bóng trên ngàn sông, lại qua không dấu vết?”. Sư nói: “Mắc sức tung hoành”. Lại hỏi: “Đã thấm ơn mưa móc. Buông tay rời Trường An”. Sư nói: “ Chỉ nói một nữa”. Sư thị tịch, tháp dựng tại Bình Dương, thụy hiệu là Hoằng Giác thiền sư.

Bài tán:
Hợp cơ núi Thái Bạch
Nối đuốc sông Tô Đà
Bút theo cùng mây gió
Lưỡi sấm chớp tuôn ra.
Tám đạt với bảy thông
Như Côn Kình biến hóa
Tiếng trống pháp dập dồn
Từ cung điện Vị Ương.

Bài kệ:
Ngày 8 tháng 1 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Tiền bối Lĩnh Nam bậc voi rồng
Hoằng Giác chờ cơ đại hóa hoằng
Nối pháp trời tây truyền tâm ấn
Giáo hóa trung nguyên* tiếp mạch đông.
Trăng hiện ngàn sông không dấu tích
Vạn lý tình không mây cũng không
Thảy đều thông đạt tùy qua lại
Hết đi Yên, Triệu, đến Tô, Hàng**.
………………..
*Trong vùng bình nguyên. Dải đất thuộc hạ du Hoàng Hà, bao quát gần hết Hà Nam, miền tây Sơn Đông, miền nam Hà Bắc và Sơn Tây cho tới miền đông Thiểm Tây. Còn chỉ Trung Quốc.
**Hàng Châu, Tô Châu.

Đời thứ 68. Thiền sư Mục Vân Thông Môn (1599-1671)

Sư họ Trương, người Thường Thục, Giang Tô, tham vấn Ngộ lão nhân tại Thiên Đồng, trình kệ Vạn Tùng Quan có câu: “Hai mươi dặm đường xưa ngả bóng tùng. Đi ngang có ai cảm thấy mát đến tận xương da”. Sư Ngộ nói: “Sao không nói là: đi ngang qua ai mà chẳng cảm thấy mát đến tận xương da?”. Sư nghe liền tỉnh ngộ. Khi nghe tiếng chuông đêm thì đại triệt. Một hôm sư có bệnh, trình thầy một câu ca dao, tự nói ra chỗ hiểu chân thật. Sư Ngộ xem xong, bảo: “Một tí cũng chưa phải. Ông lại phơi bày cái tin tức thật”. Thấy sư đưa tay ra, sư Ngộ nói: “Chưa phải”. Sư nói: “Hòa thượng không dối tôi được đâu”. Sư Ngộ im lặng bỏ đi. Sư khai pháp tại Cổ Nam, Hạc Lâm. Sau khi viên tịch tháp dựng tại Tú Phong, Cô Tô.

Bài tán:
Mở rộng hai tay
Chằng chịt dây mây
Phô bày chân thật
Tuyết lạnh trong lò.
Cha từ con hiếu
Mưa tạnh mây bay
Đêm đen mù mịt
Đuốc tuệ đưa cao.

Bài kệ:
Ngày 9 tháng 1 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Thông Môn ra cửa bước thênh thang
Phải duyên gặp kẻ giác đưa đàng
Phiền não thuốc trừ khi nóng bức
Trong mộng mê tâm, giác ngọc hoàn*
Chẳng phải, chẳng phải, cũng chẳng phải
Cái gi, cái gi, hỏi gì đâu
Chỉ là ngôn thuyết, không thật nghĩa
Mọi đường phẳng lặng đến kinh châu.
…… ………………….
*珠還合浦 Châu hoàn Hợp Phố.Ngọc trai (trân châu) trở về Hợp Phố. Ý nói người đi rồi trở lại hoặc vật báu mất rồi tìm lại được. Còn chỉ cho viên ngọc trong chéo áo (kinh Pháp Hoa).

Đời thứ 68. Thiền sư Vạn Như Thông Vi (1594-1657)

Sư họ Trương, người Hòa Trung, Chiết Giang. Một hôm sư vào thành, nghe tiếng người đánh mắng kẻ giúp việc rằng: “Xem mày còn trốn đàng nào”. Sư hốt nhiên toàn thân vui mừng như muốn nhảy lên, liền nói kệ:

“Không chỗ trốn, không chỗ trốn
Toàn thân lộ liễu giữa phố phường
Khá cười nơi Hoa Đình bày ra chuyện độ người
Dây mây đang đánh hắn tơi tả.”

Sư trinh kệ lên hòa thượng Ngộ tại Thiên Đồng. Sư Ngộ ấn khả. Sư khai pháp tại Long Trì, khi thị tịch tháp dựng dưới vách núi.

Bài tán:
Bộc lộ toàn thân
Trận nào cũng thắng*
Một đạp tận cùng
Ào ào sóng nước
Chim Cắt ven mây
Ưu Đàm trong lửa
Trên núi Long Trì
Khói sương che phủ.
……………………
*Lạc nhị, lạc tam: Đánh thắng đa số trận.

Bài kệ:
Ngày 15 tháng 1 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Diệu nghĩa trong ngôn ngữ tế thô
Tình phàm, chuyện tục lộ huyền cơ
Không nơi cất giữ toàn chân hiện
Mất dấu đông tây, đến chỗ mô?.

Dưới ao Long Trì cố vớt trăng
Trên đỉnh Hạc sơn bắt cá chăng?
Tin tức truyền đi ai tin được
Rất nghi, rất nghi, rất nghi nan.

Đời thứ 68. Thiền sư Phù Thạch Thông Hiền (1593-1667)

Sư họ Triệu, người Đương Hồ, nhân tình cờ xem Thất Hiền Nữ Quán Thi Đà Lâm thì có chỗ tỉnh ngộ, nói kệ:

Trong đầm huyên náo ếch kêu đêm
Nơi miệng đạo kia hẳn rõ ràng
Này hỡi khách từ muôn hướng đến
Từ nay nếu chẳng gắng công tham.

Sau sư tham vấn hòa thượng Mật Vân tại Thiên Đồng, được yếu chỉ. Sư khai pháp tại các chùa Tùng Lăng, Tuần Thôn, Thạch Phật. Khi thị tịch tháp dựng tại Kính Sơn.

Bài tán:
Trong rừng Thi Đà
Mất một nụ cười
Muôn khác ngàn sai
Trời hồng sương bay.
Vào tận tinh xảo
Hốt nhiên cái thấy
Chuyển gió động mưa
Một điều phơi bày.

Bài kệ:
Ngày 16 tháng 1 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Ễnh ương với chuột chẳng ngừng kêu
Những người hiểu đạo có độn, siêu
Loại trùng giúp lúa non tươi tốt
Có giống làm thương tổn thế gian
Vạn loài diễn pháp nêu chân nghĩa
Nhất tâm bất loạn hợp diệu thiền
Khó độ chúng sinh nhưng phải độ
Tám ngàn lối hiểm chẳng nệ phiền.

Đời thứ 68. Thiền sư Lâm Dã Thông Kỳ (1595-1652)  

Sư họ Thái người Hợp Châu, Tứ Xuyên, nhân khán thoại đầu “một niệm trước khi sinh” sẩy chân té xuống lầu, có chút tỉnh ngộ. Sư tham vấn Thiên Đồng Mật Vân hòa thượng. Khi sư Đồng thượng đường, sư hỏi: “Hôm nay chư tăng khắp nơi vân tập, mỗi mỗi như đứng trên các vách cao ngàn thước, có hứa khả ngộ được gì chăng?”. Sư Đồng nói: “Ông lại ở trong mộng đó ư?”. Sư đáp: “Ngộ chính là không ngộ, có mộng là gì’. Sư Đồng đánh, nói: “Nay ông là mê hay là ngộ?”. Sư đáp: “Người học không ở nơi mê ngộ”. Sư Đồng nói: “Đánh chỗ nào?”. Sư bèn lễ bái. Sư Đồng đi ra, sau sư khai pháp tại Thê Chân. Khi tịch tháp dựng tại núi xưa.

Bài tán:
Vách cao ngàn thước
Đó là cái gì
Không qua mê ngộ
Như che chung quanh
Lạy qua một lạy
Sen trong lửa hồng
Riêng bờ sinh tử
Thu hết rắn rồng.

Bài kệ:
Ngày 18 tháng 1 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Tìm mặt trước khi sinh ra đời
Đúng cơ lầu ngã, mở chân trời
Không mê, không ngộ, không bày việc
Có thông, có tắc, có tranh mồi.
Ai người đánh mắng, đều huyễn hóa
Chê khen phi ngã, nói suông thôi
Hiểu rõ pháp thì thênh thang bước
Thê Chân lửa đỏ hiện sen tươi.

Đời thứ 68. Thiền sư Lâm Cao Thông Dự (1588-1646)

Sư đắc pháp nơi hòa thượng Khánh Sơn Thiên Ẩn, khai pháp tại chùa Trúc Lâm ở Giáp Sơn, Trấn Giang. Có một vị tăng hỏi khi từ giả: “Nếu như có người hỏi Phật pháp tại Giáp Sơn ra sao, thì nên đáp như thế nào?”. Sư nói: “Mỗi ngày chỉ gánh hai gánh bùn”. Vị tăng hỏi: “Nương vào đâu mà biết được?”. Sư đánh đuổi ra. Cư sĩ Kim Chánh Hi ở Hàn Lâm hỏi: “Người đại ngộ có trở lại dụng tâm hay không?”. Sư nói: “Có”. Cư sĩ nói: “Dụng tâm chỗ nào?”. Sư đưa nắm tay, nói: “Cái này gọi là nắm tay”. Cư sĩ nói: “Muôn thuở đầm xanh trăng cõi không. Ba lần mò vớt mới biết đường”. Chưa dứt lời sư ra uy hét một tiếng lớn. Cư sĩ lễ bái. Ngày sư sắp thị tịch, sư thượng đường từ biệt đồ chúng rồi trở lại phương trượng, an nhiên mà hóa. Tháp dựng dưới vách núi.

Bài tán:
Hai lần gánh bùn
Phép nước nghiêm túc
Chẻ xương vơ vét
Mũi tên thêm nhọn.
Ba lần mò vớt
Đưa ra ba đấm
Khiến người thoát khổ
Lão nói toạc ra.

Bài kệ:
Ngày 19 tháng 1 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Chuông trống Khánh sơn động một trời
Gọi người trong mộng tỉnh đi thôi
Trúc Lâm Phật pháp làm sao đối
Mỗi ngày hai lượt gắng công người.
Khi tỉnh, dụng tâm không khác trước
Giác rồi bương bả cuộc hành trình
Vô thủy trở ngăn ba thoi phá
Nhảy qua hầm lửa dữ bao quanh.

Đời thứ 68. Thiền sư Ngọc Lâm Thông Tú (1614-1675)

Sư họ Dương, người Trừng giang, tham kiến hòa thượng Thiên Ẩn tại Khánh Sơn, nhân khán thoại đầu: “Một hớp cạn Tây giang”, sư trình kệ:

“Chủ đích vạn pháp chẳng riêng ai
Không lập mảy may mới được gần
Có ý tìm cầu thêm xa cách
Biết không trái nghịch bởi vô tâm”

Sư Ẩn nói: “Không hỏi ông chẳng như vạn pháp, thiết yếu là ông phải vào được chỗ một hớp cạn Tây giang”. Sư nghe xong liền đại ngộ, phất tay áo bước ra, từ đó căn cơ không thoái chuyển. Sư Ẩn ấn chứng, thường nói rằng sư là người xưa ứng thân trở lại. Sư khai pháp tại chùa Báo Ân, danh tiếng vang đến triều đình. Thế tổ Chương hoàng đế thỉnh sư vào cung thuyết pháp, tặng hiệu là Quốc sư Đại Giác. Năm Giáp Dần đời Khang Hi sư thị tịch. Tháp dựng tại thung lung phía tây núi Thiên Mục.

Bài tán:
Một hớp cạn Tây giang
Không chừa lại một giọt
Xe vàng trước núi
Sư tử gieo mình
Một ép một đánh
Sấm chớp ngang trời
Vào tận chin tầng
Tràng phang rực rỡ

Bài kệ:
Ngày 25 tháng 1 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Chuyển xoay trược khí tự bẩm sinh
Chí hướng Ngọc Lâm vượt hữu tình
Trắng tợ lưu ly không tì vết
Trong như sương đọng, lộ thiên cơ.
Đạo đức tuôn tràn trong bốn bể
Trí tuệ sánh như bậc vạn thừa
Phật tử về sau đều chẳng khác
Rồng voi khắp chốn dạo trời xuân.

Đời thứ 68. Thiền sư Nhược Am Thông Vấn

Sư họ Du, người Tùng Lăng, xem kinh Lăng Nghiêm có chỗ nghi tham yết Thiên Ấn hòa thượng tại Khánh sơn, trong hỏi đáp liền triệt ngộ. Sau khai pháp trụ tại các chùa Khánh sơn Giáp sơn, Lậu Trạch. Năm Ất Mùi đời Khang Hi, ngày 27 mùa thu sư thị tịch tại chùa Ứng Thiên Ngô Giang, môn đồ táng toàn thân, tháp dựng tại Nam Giản.

Bài tán:
Chủ khách cũng chẳng phân
Biết giả thoát ngại ngăn
Trong tay thanh kiếm báu
Ánh thép lạnh như băng.
Nước sông Hô Đà dâng
Nam Giản cuồn cuộn sóng
Chánh pháp nhãn đà diệt
Sư là người trung hưng

Bài kệ:
Ngày 26 tháng 1 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Huyền nghĩa Lăng Nghiêm khó gặp cõi này
Tin nghi, tham cứu, chẳng lạ gì
Chủ khách phân minh cùng đối mặt
Sự lý vô ngại rõ ngộ mê .
Cổng cao tường kín khôn dò xét
Giới tràng tinh mật dễ theo về
Nam Giản tông phong muôn quốc độ
Lìa xa vọng dục có bao người.

Đời thứ 68. Thiền sư Dụng Chu Thủy Nguyệt (1614-1677)

Sư họ Vương người Thường Đức, thuở nhỏ theo Nho học, nhân đọc kinh Kim Cang Bát Nhã đến câu “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” thì có chút tỉnh ngộ. Năm 16 tuổi đến chùa Cổ Lâm xuất gia, nhất tâm hướng thượng, tự nhủ rằng nếu như chỉ nương vào vốn liếng của tri thức thì nhất định không phải là chỗ cứu cánh. Sư tham vấn các bậc tôn túc khắp nơi để cầu then chốt. Sư đến núi Nga Mi hốt nhiên chứng được Lưu Ly tam muội, lòng sáng tỏ, không còn chướng ngại. Sau sư đến gặp hòa thượng Viên Tín ở Tuyết Kiệu trình cái thấy của mình. Sư Tín ấn chứng. Sư về Vân Nam kết am nơi núi Kê Túc, đề tên là am Thủy Nguyệt, cũng dùng làm tên sư. Một hôm sư họp chúng khuyên lấy đạo cùng nhau tinh tấn. Nói xong an tọa mà hóa, thọ 64 tuổi.

Bài tán:
Chưa rõ việc này
Cưỡi trâu tìm trâu
Một lời khế hợp
Tan thân khó báo.
Lưu ly tam muội
Biển pháp rong chơi
Đâu là trăng nước*
Mưa tạnh mây xuôi.
……………………
*Còn chỉ am Thủy Nguyệt

Bài kệ:
Ngày 31 tháng 1 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Ngày ngày theo ngọn bỏ bổn tâm
Bối giác hợp trần phí thời gian
Am tranh Thủy Nguyệt tu đại đạo
Lưu li diệu định, ngộ chân thân.
Buông xuống vạn duyên thôi ràng buộc
Khởi lên một niệm dứt xa gần
Nhắn người hiền đức nên ghi nhớ
Họ Vương đoan tọa  kiến chân thân

Đời thứ 69. Thiền sư Ngưỡng Khê Hành Sâm (1614-1677)

Sư họ Lê, người Bát La, Quảng Đông, theo thiền sư Tín tại Tuyết Kiệu xuất gia nhưng đắc pháp với quốc sư Ngọc Lâm. Đời Thuận Trị khoảng giữa niên hiệu Canh Tử vua triệu sư vào điện nhưng sư rất mực từ chối tước hiệu vua ban gọi là Từ Ông, về ẩn tại Long Khê, Chiết Giang. Vua lại hạ lệnh đổi tên am là Viên Chiếu Tự. Năm Khang Hy, ngày 27 tháng 6, sư viết xuống ngày qua đời, rồi thị tịch tại chùa Hoa Nghiêm, Ngô Sơn. Môn đồ đưa khám thờ về chùa Viên Chiếu, dựng tháp. Sư thọ 64 tuổi, sinh vào đời Vạn Lịch, ngày 16 tháng 12 năm Giáp Dần. Đến đời Ung Chánh năm Quý Sửu được truy thụy là Minh Đạo Chánh Giác thiền sư. Những tác phong của sư lúc còn sống được ghi chép trong Ngự Tuyển Ngữ Lục, quyển 11.

Bài tán:
Một người lộ mặt
Tám hướng bình an
Nên có voi rồng
Anh tài trong tăng.
Hư không* dung nhiếp
Mắt pháp rõ ràng
Nhật nguyệt sáng ngời
Núi xanh nước biếc.
……………
*Thập hư là 10 phương hư không.

Bài kệ:
Ngày 5 tháng 2 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Cao tăng Bách Việt đại chấn hưng
Tổ sư đức lớn bậc siêu quần
Chối bỏ vinh hoa, từ bổng lộc
Buông trôi danh lợi, ngược thế trần.
Ẩn Long Khê, vua ban Viên Chiếu
Chùa Hoa Nghiêm, hóa lúc giữa đêm
Phàm tình nghi lễ vua ban thưởng
Từ bi Phật độ hữu, vô tình.

Đời thứ 69. Thiền sư Nhất Mạch Hoành Thành (1575-1641)

Sư họ Vương, người Tiền Đường, Hàng Châu, vốn là học trò xuất sắc của hòa thượng Tàng ở Tam Phong. Sư ẩn trên am Đâu Suất đỉnh Hoành sơn, không dễ nói ra lời dặn dò khi tịch diệt. Linh Ẩn Khoát Công lên tòa nói: “Sơn tăng ẩn trong Hoành sơn hơn 20 năm ở trên đỉnh chờ bắt cá chép, lại ném cây kim xuống thay lưỡi câu, khi thẳng thì không cong. May mà có con cá không tham miếng mồi thơm, há bắt chước A Nan theo cùng một đầu mối này. Sơn tăng chỉ hướng về đạo mà thôi, dựng cao cột trụ trước chùa. Nếu hoa mẫu đơn cho rằng đẹp thì cũng nhờ có lá xanh bao quanh. Tuy đồ chúng nhiều kẻ có sừng nhưng chỉ có sừng lân là quý. Ba tháng sau thì sư hóa vào ngày 24 tháng 6, Tân Tị đời Sùng Trinh. Tháp dựng tại thành Tây Huyền Mộ , Tô Chi.

Bài tán:
Ẩn đỉnh Hoành sơn
Tâm hành là gì?
Giễu cợt thế tình
Vì pháp bảo trọng.
May mắn được lân
Giữ gìn tuệ mạng
Từ gốc đến ngọn
Ngàn thu rũ bóng.

Bài kệ:
Ngày 16 tháng 2 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Ẩn đỉnh Hoành sơn chẳng nói năng
Im lời động tĩnh trước hậu thân
Chúng sinh say khướt, ai người tỉnh
Rõ rành vạn pháp như ta chăng?.
Đầu non câu cá dây không lưỡi
Khóa tâm khỉ vượn biển mò kim
Cứu giúp thế tình không theo tục
Đức ân giáo hóa trải tam thiên.

Đời thứ 69. Thiền sư Tri Không Trung Phong (1613-1689)

Sư họ Trương, người Hồ Nam, năm 10 tuổi theo sư Thủy Nguyệt xuất gia, chuyên tham học giới luật. Sư tham thoại đầu “cây bách” nhưng không hội nhập được. Một hôm, sư đẩnh lễ kinh Vạn Phật Danh, đến quyển 3, vừa xưng tán hai chữ Nam Mô thì hốt nhiên thân tâm siêu thoát, liền nói kệ:

“Thân Phật là hư không
Thân ta, thân trong đời
Tánh ta cùng Không hợp
Không Phật cũng không người”

Sư đến ngụ tại Cửu Đài, gặp được Mật Hạnh lão nhân tại Hành Châu, Nam Vân truyền người lấy y phất trao cho sư, phó chúc là Lâm Tế đời thứ 32. Sư nhận lấy, bái tạ và khai pháp. Một hôm sư bảo đồ chúng: “Ba ngày sau sẽ có mưa. Khi trời mưa thì nói cho ta biết, ta ra đi”. Đến ngày ấy quả nhiên trời mưa, thị giả liền vào báo. Sư vén râu nhiễu quanh điện ba vòng, ngồi xuống gát một chân lên mà hóa, thọ 77 tuổi. Đẻ lại Cổ Ngữ Lục và Thảo Đường lưu hành.

Bài tán:
Một tiếng Nam Mô
Chấn động tùng bách
Muôn rạch về nguồn
Ngàn núi sừng sững.
Hư không vỡ nát
Phong cách Phật Tổ
Thời vận mạt pháp
Chống ngăn sóng gió

Bài kệ:
Ngày 17 tháng 2 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Chuyên tâm trì chí học luật nghi
Tham cứu thoại đầu chửa khế cơ
Hai chữ nam mô hư không vỡ
Khấu đầu vạn Phật chẳng bao người.
Lão nhân Mật Hạnh truyền y phất
Thiên Chân thị giả báo mưa rơi
Trung Phong đứng vững bao sương tuyết
Sánh vai hiền thánh chẳng hề vơi.

Đời thứ 69. Thiền sư Thiết Chu Hành Hải (1609-1683)

Sư họ Tưởng, người Tân An, mồ côi từ nhỏ,  thường vào chơi trong Trung Linh viện, mỗi khi nhìn thấy tượng Phật đoan nghiêm sinh lòng vui thích không muốn trở về nhà, lưu lại trong viên, kinh hành lễ bái tượng Phật cung kính như một lão tăng. Khi xuất gia thọ giới cụ túc lòng luôn luôn hướng thượng, phát minh đại sự được sư Nhược Am ấn ký. Sau đó khai pháp tại chùa Giang Thiên. Sư thường mộng thấy mình bơi thuyền giữa khói sóng mênh mông. Khi sư đến trụ tại Kim Sơn thì quang cảnh giống như cảnh trong mộng. Sư thị hiện có bệnh qua đồi, thọ 70 tuổi.

Bài tán:
Ngủ say chưa tỉnh
Trong mộng nói mộng
Sóng nước mênh mông
Vì đâu phong ba?
Sư Nhược cất tiếng
Đến nhận Giang Thiên
Mở to đôi mắt
Pháp há thiếu, dư.

Bài kệ:
Ngày 18 tháng 2 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Quan quả cô độc thật xót xa
Thiết Chu Hành Hải thượng pháp tòa
Chuyên tâm tìm lối lìa sinh tử
Phát huy đại sự ngự thuyền qua.
Mộng như khói sóng không bờ bến
Thiên nhiên mặt nước hiện trăng ngà
Tỉnh rồi mới biết là hư huyễn
Chưa hề an phận một mình ta.

Đời thứ 69. Thiền sư Hoa Nham Thánh Khả (1628-1701)

Sư họ Vương, người Tây Thục, gia đình theo Nho học, sinh giờ Hợi ngày 30 tháng 7 thời Sùng Trinh nguyên niên. Năm 15 tuổi nhân tránh nạn Diêu Hoàng gặp một lão tăng dạy rằng niệm thánh hiệu Đức Quán Âm sẽ thoát nguy hiểm. Năm 27 tuổi gặp thiền sư Liêu Dương xuất gia, đổi tên là Đắc Ngọc. Sau đến thọ giới cụ túc với hòa thượng Trừng Giang ở núi Bát Diện. Lại đi khắp nơi tham kiến chư danh tăng, và gặp lão nhân Song Quế, suy nghiệm cơ duyên tam cú được ấn khả. Năm 41 tuổi đi về nước Thục, đến Du Thành, theo lời thỉnh cầu của dân chúng sư trụ trì động Hoa Nghiêm, dựng nên chùa Hoa Nghiêm. Sư vì pháp mà lao nhọc, để lại 9 quyển Ngữ Lục lưu hành thế gian.

Bài tán:
Ta không giấu giếm gì *
Giữ tấm lòng son sắt
Tinh cần không lười mỏi
Mắt không dám nhắm lâu
Cháy bỏng lớp da môi
Hư không dòng máu chảy
Ba câu nơi Song Quế
Rốt ráo vô sở đắc.

Bài kệ:
Ngày 19 tháng 2 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Sùng Trinh phúc bạc, dân cơ hàn
Hiến Trung phản loạn giết Tứ Xuyên
Điềm nhiên Thánh Khả thiền sư hiểu
Hòa thượng Trừng Sơn giới hạnh viên.
Lão nhân Song Quế truyền tâm ấn
Cổ Tùng học giả nối pháp thuyền
Nhân gió duyên mây thời tiết hội
Rồng bay voi chạy chúng dân yên.
………………….
*Luận Ngữ 論語: Nhị tam tử dĩ ngã vi ẩn hồ, ngô vô ẩn hồ nhĩ 二三子以我爲隱乎, 吾無隱乎爾 (Thuật nhi 述而) Hai ba anh cho ta là giấu giếm gì chăng, ta không có giấu giếm gì cả.

Đời thứ 70. Thiền sư Hình Sơn Siêu Bảo (1635-1709)

Sư họ Lưu, người Lư Lăng, Dự Chương. Lúc 9 tuổi bị bệnh nặng, cha liền đưa đến chùa Kỳ Đà trong thành ấp, lễ sư Từ Thừa xuống tóc xuất gia. Năm 19 tuổi, thọ giới với hòa thượng Thanh Nguyên My Am, ở lại cầu học hơn 10 năm. Sau khăn gói đi Hàng Châu theo sư Khê ở Viên Chiếu tận lục suy cứu tâm chỉ, khế hợp đại cơ, đắc pháp chánh tông, trụ lại Viên Chiếu ba năm. Đến năm Đinh Sửu đời Khang Hi, theo lời thỉnh cầu của đồ chúng tại núi Thiên Mục, sư đến thuyết pháp ba lần. Đến năm Canh Thìn, sư theo nguyện của chư vị hộ pháp về an dưỡng nơi an Hoạt Mai cho đến cuối đời. Sư lưu lại 8 quyển Ngữ Lục hành thế, thọ 75 tuổi. Sư sinh ngày 6 tháng 7 năm Quý Mão; thị tịch ngày 17 tháng 2 năm Kỷ Sửu đời Sùng Trinh. Tháp dựng tại núi cũ, phía Đông của Nam Am.

Bài tán:
Báo ân pháp nhủ
Ăn gậy nhuốm máu
Chưa hiển lộ gì
Sớm giữ ba điều
Núi cao Thiên Mục
Hang sâu sư tử
Độc giác truyền tông
Nghiệp lớn động trời.

Bài kệ:
Ngày 25 tháng 2 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Đồng chân nhập đạo đủ thiện căn
Chín tuổi xuống tóc đến cửa Không
Tận tâm tra cứu hốt nhiên ngộ
Truy tìm cốt tủy thảy đều thông.
Ba năm Viên Chiếu căn cơ hợp
Thiên Mục duyên lành mãi ngóng trông
Công thành thân thoái vào diệt tận
Nổi danh xuất chúng bậc siêu quần.

Đời thứ 70. Thiền sư Khoát Đường Tế Nham (1597-1670)

Sư họ Quách, người Nhân Hòa, Hàng Châu. Năm 10 tuổi đến chùa Linh Ẩn theo sư Tĩnh Chủ xuất gia. Vốn bản tính thông minh, chỉ xem qua kinh sách liền ghi nhớ. Lúc đầu sư tham kiến hòa thượng Tam Phong Tạng tại chùa Tịnh Từ, tham cứu thoại đầu Trúc Bề Tử không dám chợp mắt suốt bảy ngày đêm. Một hôm, hốt nhiên nghe tiếng đánh bản, toàn thân toát mồ hôi, liền nói kệ:

Đất bằng không động gió
Sao sóng lại cuộn cuồn
Tràn đầy khắp bốn hướng
Chợt hiện đỉnh Nam sơn.
Rùa ngóc đầu nổi lên
Một hớp liền uống cạn.

Sư Tàng ấn chứng. Sư Hoành Sơn tánh khác thường, muốn làm cho đồ chúng rõ nghĩa nên giáng hang đệ tử xuống làm đệ tôn, đưa hang sư huynh lên làm sư phụ. Được  sự phó chúc của sư Hoành Sơn, sư đến trụ tại Phá Đường, Linh Ẩn, trung hưng chùa Tịnh Từ. Ngày 20 tháng 7 năm Canh Tuất đời Khang Hy, sư viết thư từ biệt đàn na, và để lại di ngôn. Sau đó sư ném bút mà hóa. Tháp dựng bên phải chùa Tịnh Từ, táng toàn thân.

Bài tán:
Ân lớn khó đáp
Tài năng chẳng phí
Bỏ sang theo hèn
Hoành sơn thụ ký.
Lòng son từng phiến
Chín đỉnh* nối nghiệp
Khuôn mẫu đời sau
Chiếu trời soi đất.
…………………..
* Tượng trưng 9 châu thời vua Hạ Vũ. Theo lệnh vua mỗi châu phải dâng một đỉnh đồng lớn để vào trong thái miếu tượng trưng cho lòng trung thành với triều đình trung ương.

Bài kệ:
Ngày 26 tháng 2 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Hàng Châu bảy vị Phật hiện thân
Khí thiêng hội tụ xuyên Đẩu, Ngưu
Đất không nổi gió hồ im sóng
Trời mịt mù sương dễ lạc đường.
Mở miệng hớp khô luôn bốn biển
Đốm than thiêu sạch vạn cây rừng
Chấp nê giai cấp đà phá bỏ
Tự do xoay chuyển chẳng bi thương.

Đời thứ 70. Thiền sư Tánh Âm Ca Lăng (?-1726)

Sư họ Lý, gốc người Thẩm Dương. Năm 24 tuổi theo sư Cao Dương chùa Tỳ Lô xuất gia, thọ giới cụ túc. Sư tham thoại đầu “bản lai diện mục” có chỗ tỏ ngộ. Sư đến Hàng Châu tham bái sư Mộng Am tại chùa Lý An, trình sở kiến. Sư Am ấn chứng. Sư lần lượt trụ trì các danh lam như chùa Lý An, đi về lại các chùa ở vùng Bách Lâm, mở rộng đạo pháp, danh vang cung đình. Ngày 29 tháng 9 năm Ung Chính thứ tư, sư thị tịch, vua ban thụy hiệu là Viên Thông Diệu Trí Đại Giác Thiền Sư. Sư biên soạn Ngữ Lục, 20 quyển; Tông Giám Pháp Lâm, 72 quyển; Thị Danh Chánh Cú, 8 quyển; Tông Thống Nhất Ti, 12 quyển; Tạp Độc Hải, 8 quyển, Tông Giám Chỉ Yếu, 1 quyển lưu hành thế gian.

Bài tán:
Đây là vị sư
Đã dùng hết lời
Gậy hét tung hoành
Không mất đạo lý.
Cháu con nhớ đức
Không thể khen chê
Làm thầy vua chúa
Người trời hoan hỷ.

Bài kệ:
Ngày 27 tháng 2 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Đông bắc Thẩm Dương hiện voi rồng
Ca Lăng hòa nhã diệu thanh âm
Mặt trước khi sinh đà thấu suốt
Liễu ngộ quá khứ Phật tổ tâm.
Viết chương ngữ lục khôn lường giá
Chép ghi Tông Giám lẫy lừng văn
Viên Thông Diệu Trí Đại Giác sĩ
Ngàn thu muôn thuở pháp đạo tông.

Đời thứ 70. Thiền sư Hải Hội Minh Ba (?-?)

Sư họ Quách, người Vũ Thanh, Kỳ Nam, bảy tuổi cha mẹ đưa sư đến miếu Thiên Tiên trong làng xuất gia, sau thọ giới cụ túc, cùng các sư Đức Tâm, Thể Chân kết bạn tha phương. Sư đến chùa Như Am tại Thiên Tân, lễ bái sư Đại Bác, hỏi: “Bản lai diện mục của chính con là gì?”. Sư Đại Bác đưa nắm đấm. Sư nói: “Ngoài cái ấy ra thì còn có gì khác nữa?”. Sư Bác liền đánh sư, do đó nghi tình phát khởi mạnh, suốt 4 đêm ngày không chợp mắt, nhân khi cởi giày bước lên giường chợt có chỗ tỉnh ngộ. Sư lưu lại ba năm, dày công tham cứu mới được ấn chứng. Sư kết am tranh ở Tây sơn, qua 10 năm sau mới thuận theo lời thỉnh cầu của đàn na khai pháp nơi chùa Hải Hội. Sư biên soạn Ngữ Lục lưu hành.

Bài tán:
Khai phá núi hoang
Mở rộng cửa pháp
Hoa vàng trúc biếc
Suối chảy chim về.
Pháp thân bát nhã
Nào hai cảnh lạ
Hiền thánh nghiêng tai
Người trời mỉm cười

Bài kệ:
Ngày 28 tháng 2 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Xuất gia từ bé bởi khó nuôi
Ươm Bồ đề hạt bảy tuổi đời
Kết bạn đồng tham hỏi tôn đức
Một thân tìm đến tỏ hoài nghi.
Vâng theo, gần gũi, hòa như nước
Học tập chuyên cần chí chẳng vơi
Mười phương mở hội như mây tụ
Nghiêng nghiêng suối đổ bóng mặt trời.

Đời thứ 70. Thiền sư Pháp Nhũ Siêu Lạc (1642-1702)

Sư họ Trần, người Hải Diêm, cha mẹ đều vui thích hành thiền nên dựng am thỉnh chư tăng đến ở lại. Mỗi khi sư nghe tiếng tụng niệm thì lòng rất hâm mộ. Khi cha mẹ qua đời liền xuất gia tại nơi đó, đắc pháp với sư Thíết Chu Hải. Sư nghiên cứu đại sự, kế thừa chùa Giang Thiên. Khi vua Thánh Tổ nhà Thanh tuần du phương Nam, vua tiếp sư, thấy ứng đối hợp ý, vua ban tặng ca sa tím. Sư viết bài tụng cổ, có bài tụng về con vịt trời:

Ven trời bầy vịt vút cao bay
Cần chi đánh tiếng nổi thị phi
Căm giận Mã Sư ra độc thủ
Mang chiếc mũi đau biết trở về.

Bài tán:
Cảm kích lời kinh kệ
Đâu phải việc tình cờ
Trống vàng vang dậy đất
Khơi lại mối duyên xưa.
Bài tụng loài vịt trời
Trời cao hố thẳm cách ly
Khiến lòng vua tôn kính
Vai rộng khoác tử y.

Bài kệ:
Ngày 1 tháng 3 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Cha mẹ tin Phật, vui tham thiền
Tự dựng am tranh dưỡng tánh hiền
Nghe câu kinh Phật mơ tiền kiếp
Nối pháp Giang Thiên hóa hiện duyên.
Bài tụng vịt trời nghe sợ đíếc
Áo tím vua ban nhuận cửu trùng
Thừa tự Thiết Chu chèo nước ngược
Vạn dặm Tào Khê há ngại ngần.

Đời thứ 71. Thiền sư Sở Vân Minh Tuệ (1664-1735) 

Sư người Gia Hưng, Chiết Giang, rất giỏi thư pháp và thi văn. Khi trưởng thành theo dòng pháp thiền sư Hình sơn xuất gia. Người người biết sư là một vị tăng thi sĩ nhưng không biết sư là long tượng của tông môn. Sư dừng lại nơi Tú Thủy, kết am tranh một mình ẩn cư. Năm Quý Sửu đời Ung Chánh vua xuống chiếu vời sư vào kinh đô, ban ca sa tím, tặng hiệu là Ngộ Tu thiền sư, lập công khoản xây chùa, vua tự tay đề tên chùa là Giác Hải Tự, và thỉnh sư ở lại đó. Sau vua lại ban sắc đưa sư về Hàng Châu trụ trì chùa Thánh Ân hóa hoằng đạo đức, một thời thịnh an. Khi sư lưu lại kinh đô, thường thuyết pháp và đưa ra các buổi vấn đáp cho các vương công và đại thần, các pháp hội này được ghi lại trong “Đương Kim Pháp Hội” trong Ngự Tuyển Ngữ Lục. Sư hưởng thọ 72 tuổi, sinh vào đời Khang Hi, ngày 5 tháng 11, năm Giáp Thìn; thị tịch vào đời Ung Chính, ngày 28 tháng 2 năm Ất Mão. Tháp dựng tại chùa Quảng Nhân, Lư Sơn thuộc Bắc Giao, Hòa Thành.

Bài tán:
Đâu chỉ trọng thi văn
Chuyên duy trì đạo đức
Năm bảy mươi hai tuổi
Vẫn chưa được phất trần.
Khiêm hòa gặp thánh quân
An nhiên không một vật
Ngay trong Ngự Tuyển Lục
Một kỳ lân xuất hiện.

Bài kệ:
Ngày 4 tháng 3 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Thi ca từ phú gấm thêu hoa
Thiên tư trong sáng khác thế trần
Ẩn thân dấu tiếng dưỡng tâm tánh
Chân tu chánh đạo gọi cao tăng.
Một mình chất phác nơi hoang dã
Cung vàng điện ngọc quỷ thần than
Ngự Tuyển Ngữ Lục vua giám định
Ân đức lưu truyền, chánh pháp hưng.

Đời thứ 71. Thiền sư Ba Đình Thượng Uyên (1627-1679)

Sư họ Tào, người Tân Hào, Quý Châu. Năm 16 tuổi đến chùa Hải Ngu gặp sư Tam Phong. Sư theo pháp sư Tung Ẩn nghe giảng kinh Lăng Nghiêm tại Tân Tháp, Vu Thành, đến đoạn Đức Phật quở trách sự đa văn vô ích của ngài A Nan, sư rất ngạc nhiên. Khi nghe xong thời kinh, sư vội trở về chỗ sư Tam Phong, hết lòng tham cứu ý nghĩa: “trong câu không ý, ý tại trong câu” liền thấy tánh, thoại đầu của các lão hòa thượng khắp thiên hạ không còn làm cho sư nghiêng ngữa nữa. Sư Bình nói với đồ chúng: “Ba Đình gần ta suốt 19 năm, những sở đắc của ông ấy trước đây vào bậc nhất, ít người theo kịp”. Lại đem tín vật trao cho sư, khiến truyền mạch pháp chánh tông. Sau đó sư trụ tại Linh Phong, những điều đã phế bỏ trước đó đều được sư trùng tu trở lại. Trong một giới đàn vào năm Kỷ Mùi, đời Khang Hi, buổi chiều sư tập họp đại chúng, khuyến khích cố công tu hành, đến sáng sớm, sư gọi đệ tử đến truyền y rồi an tọa mà hóa. Tháp dựng nơi sườn núi phía Đông chùa, táng toàn thân.

Bài tán:
Duyên sinh Ký Bắc
Lại dời qua Đông
Thông câu tỏ ý
Phá Không, bất Không
Nối đuốc Nam Bình
Hiển pháp Linh Phong
Dựa đất mà hú
Cáo ẩn tích tung.

Bài kệ:
Ngày 5 tháng 3 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Pháp tượng Ký Bắc có Ba công
Dưới hội Lăng Nghiêm chứng viên thông
Kinh văn suy nghiệm, vô minh dứt
Ngang chí thánh hiền, lý sự dung.
Đuốc thắp Nam Bình tâm mãi sáng
Tháp dựng đồi đông thấm vạn xuân
Hậu học chúng ta nên gắng sức
Nương theo cổ đức chấn tông phong.

Đời thứ 71. Thiền sư Viên Thông Minh Quảng (?-?)

Sư họ Cao, người thuộc huyện Hùng, người cha tính khí dũng cảm, mẹ họ Mạnh, mộng thấy một ngọn đèn vào bụng, tỉnh dậy, sau mang thai sinh ra sư. Từ thơ ấu sư đã hâm mộ việc xuất gia. Đến năm 18 tuổi, cha mẹ lần lượt qua đời, sư liền xuống tóc, tham vấn sư Minh Ba, hỏi: “Khuôn mặt trước khi cha mẹ sinh thì như thế nào?”. Sư Ba đánh cho, rồi hỏi: “Rõ chưa?”. Đáp: “Không rõ”. Sư Ba nói: “Qua tham đường, kiết già bảy kiểu theo pháp Tây Trúc”. Đến ngày thứ tư, vào lúc canh năm, trong lòng bỗng an nhiên, sư nói kệ:

“Ba đời chư Phật tọa khổ lao
Lỗ mũi ngước lên chín cõi cao
Mặt mẹ chưa sinh nay thấu tỏ
Khắp vòng trời đất mặc tiêu dao”

Sư Ba đến hỏi, và ấn chứng. Sư soạn Ngữ Lục lưu hành.

Bài tán:
Phá ngục chư Phật
Buông gánh trăm cân
Thiên đường địa ngục
Như đi tham quan
Lấy được lông rùa
Đừng ngại vui mừng
Mặt trời bừng hiện
Sông trong, bể lặng.

Bài kệ:
Ngày 7 tháng 3 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Cha dũng cảm, đèn trong mộng mẹ
Mộ đạo từ thơ dại, lớn xuất trần
Ba Công dùi nện, đâu còn sức
Ngục lao, Phật tổ đỉnh mày nhăn
Ngực tràn phiền não nay tiêu tán
Mắt pháp mở ra đạo tựu thành
Rõ thông lý sự siêu tam giới
Tự tại thong dong dứt tử sanh.

Đời thứ 71. Lượng Văn Minh Thuyên thiền sư (?-?) 

Sư khai pháp tại chùa Hương Lâm, Kim Lăng, thọ pháp nhũ từ thiền sư Lạc. Đời Khang Hy, sư được ban tặng ca sa tím. Sư thượng đường, nói kệ:

Sừng sững một vách cao
Đồi núi nghiêng đầu chào
Mở tung cánh cổng trời
Muôn sông Cô* xuôi nguồn.
Bái kiến Đại Hắc Tiên**
Khế hợp được chánh nhãn
Mẫu mực hướng thượng
…………………….
*Sông Cô, phát nguyên ở Sơn Tây.
**Đại Tự Tại Thiên, Đại Hắc Tiên

Bài tán:
Da mặt ba tấc
Hai thước* chân mày
Dám tạo, dám dựng
Rơi đầu chẳng lo.
Ba hội thuyết pháp
Tâm không một chữ
Trụ bốn già lam
Không chỗ đặt chân.
…………………….
*một thước cổ (Trung Quốc) bằng 0.33 cm.

Bài kệ:
Ngày 12 tháng 3 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Thiện tri thức Minh Thuyên Kim Lăng
Thăng đường thuyết pháp độ mê lầm
Dựng đất lập trời khai nghiệp lớn
Dời non lấp bể mở cơ thâm.
Mặt chừng ba tấc, giao du khéo
Tâm rộng muôn chiều sánh Đẩu, Ngưu
Già lam chủ tọa hằng vô số
Vượt ngoài vạn vật bậc danh sư.

Đời thứ 72. Thiền sư Phổ Hà Đảm Đương (1593-1673)

Sư người Tấn Ninh, Vân Nam, họ Đường, tên tục là Thái, tự là Đại Lai. Sư đến tuổi tòng quân vào cuối đời nhà Minh, nhưng vì hiểu kinh sách nên được miễn dịch, không tham gia cuộc chiến khi quốc biến. Sư nương theo lão nhân Vô Trụ xuất gia, đi Ngô Việt tham vấn các danh tăng. Nơi hòa thượng Trạm Nhiên sư ngộ được việc sinh tử. Sau khi được phó chúc, sư khai pháp tại chùa Thạch Trung, Kê Túc. Thiền tăng vùng Vân Nam đến tham học. Mùa Đông năm Quý Sửu, đời Khang Hi, sư lâm bệnh, an tọa, nói kệ:

“Phá tan cả đất lẫn trời
Nhận đảm đương liền để lỡ
Đầu lưỡi đã đoạn, ai còn dám ngồi”.

Sư ném bút mà hóa, thọ 81 tuổi. Sư soạn Tiêu Viên, Quyết Am, 2 tập, Niêm Hoa Tụng Bách Vận lưu hành.

Bài tán:
Núi lạnh khô cạn nước
Đất cũ, trời hoang vu
Sự việc trước kiếp Không
Diệu dụng chẳng ngằn mé.
Tấm lòng đỏ như son
Nhật nguyệt tỏa sáng ngời
Nước mây vai một gánh
Rét mướt giữa băng sương.

Bài kệ:
Ngày 13 tháng 3 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Hết lòng vì nước, chí cao kỳ
Pháp môn long tượng phẩm hạnh dày
Mẫu mực trời người mây tụ hội
Khuôn thước muôn nơi tuyết nhẹ bay.
Nhật nguyệt rạng ngời soi thiên cổ
Quang huy lấp lánh chín tầng mây
Đã thấy người hiền nên ghi nhớ
Chẳng thua tiền bối tức anh tài.

Đời thứ 72. Thiền sư Đại Hiểu Thật Triệt (1685-1757) 

Sư họ Trần, người Sùng Minh, theo sư Thiên Ngữ xuất gia, ngụ tại núi Ức Đổng Chung Nam, tham công án của sư Vân Môn, chợt thấy ánh chớp mà đại ngộ, liền nói kệ:“Lạ thay, lạ thay, thật lạ thay

Ánh chớp lóe ra, chánh nhãn khai
Hai nẻo ám, minh, vòng sinh diệt

Ai người biết rõ chẳng khứ, lai.”Sư xuống núi, tham kiến thiền sư Nguyệt Đàm, và được ấn chứng. Sư hoằng pháp tại Hương Lâm, Kim Sơn, Thiên Ninh và các nơi. Khi vua Càn Long đến Giang Nam, sư được ban tử y. Sư thị hiện có bệnh, nói kệ rồi hóa, thọ 73 tuổi, tăng lạp 49. Tháp dựng tại Kim Lăng, dưới chân núi Tử Kim.

Bài tán:
Ánh chớp khai chánh nhãn
Dứt tuyệt đường tử sinh
Sư Nguyệt Đàm ấn chứng
Thánh và phàm đồng hành.
Che kín bầu thái hư
Biết rõ không thiếu dư
Đèn lồng soi môn phái
Miệng lưỡi mặc tình người.

Bài kệ:
Ngày 14 tháng 3 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Xuất gia tu đạo chẳng dễ dàng
Mở mắt đầu thai nghiêm túc thân
Tham cứu thoại đầu luôn tinh tiến
Đột phá vô minh hắc ám tan
Ba lần tán thán: Ôi bản tính!
Niệm niệm đoạn tuyệt dứt bụi trần
Hỡi trượng phu, ta như ông vậy
Chớ giải đãi, uy dũng bước chân.

Đời thứ 72. Thiền sư Thiên Tuệ Thật Triệt (?-1745)

Sư họ Đường, người Hưng Hóa, Giang Tô. Năm 19 tuổi theo hòa thượng Quán Chi am Báo Ân trong huyện xuất gia thọ giới cụ túc rồi du phương cầu pháp. Tại chùa Sùng Phúc, Linh Tiêu sư được phân tòa hướng dẫn đồ chúng hơn mười năm. Vua Thế Tông nhà Thanh muốn dò tìm con cháu nối pháp của quốc sư Ngọc Lâm Thanh Tú. Sư phụng chiếu vào cung, đối đáp khế hợp, trình vua ba chương sách. Chương thứ nhất nói:

Nắm tay không gọi nắm tay
Lúc đảo con ngươi đổi lối nhìn
Tất cả thánh hiền như điện chớp
Khác gì bọt biển, cả đại thiên.

Sư được vua ban áo ca sa tím, bình bát, tích trượng như ý và muốn sư trụ trì bốn ngôi chùa là Khánh Sơn, Cao Mân, Tư Phước, Sùng Phước. Năm Càn Long thứ 10, sáng sớm ngày 3 tháng 4, giờ Dần, sư nói kệ rồi hóa. Sư biên soạn 2 quyển Ngữ Lục lưu hành.

Bài tán:
Bản lai diện mục
Đưa ra nắm đấm
Khi người không hội
Liền đổi cách nhìn
Khắp trong trời đất
Nước trôi hoa nở
Pháp nhũ quốc sư
Khó đền ân lớn.

Bài kệ:
Ngày 25 tháng 3 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Xưa trồng gốc đức, dưỡng thiện nhân
Xuất gia sớm biết rộng lưới trần
Tham cầu hiền trí, hàng minh tuệ
Lễ bái thánh nhân, bậc đại tâm.
Thấy tướng biện phân liền chấp trước
Gãi ngứa trên giày há đả chân?
Thật thà, không dối, dừng vọng niệm
Núi sông, muôn vật chính pháp thân.

Đời thứ 73. Thiền sư Hồng Loa Triệt Ngộ (1741-1810)

Sư tên là Nhất, tự Nột Đường, hiệu Mộng Đông, họ Mã, người đất Phong Nhuận. Thời ấu thơ đã thông minh, tinh thông Nho học. Năm 22 tuổi nhân vì mang bệnh nặng mà nhận thấy thân vô thường, tìm đến am Tam Thánh, Phòng Sơn bái lão nhân Vinh Trì xin xuất gia, thọ giới cụ túc. Sư tham dự các pháp hội, thấu suốt yếu chỉ tam quán, thập thừa. Sau đến tham kiến Sư Túy Như Thuần Ông chùa Quảng Thông, và chứng đuợc đại sự. Khi sư Túy Ông về chùa Vạn Thọ, sư nối pháp tại chùa Quảng Thông, danh tiếng vang khắp Nam Bắc, hưng thịnh tông phong. Những năm sau cùng, sư trụ tại Mão Hồng Loa xiển dương Tịnh Độ Tông, chư tăng nhân tề tụ đông đảo, dần dần trở thành đạo tràng vang bóng một thời. Ngày 17 tháng 12 năm Canh Ngọ, năm Gia Khánh, sư tập họp đồ chúng niệm Phật rồi an nhiên mà hóa, thọ 70 tuổi. Hỏa táng thu được cả trăm xá lợi. Sư biên soạn Mộng Đông Tập lưu hành.

Bài tán:
Pháp môn viên đốn
Pháp sự vô phương*
Chí vào dòng thánh
Tâm nơi An Dưỡng**
Niệm niệm vô tư
Trùng trùng hoa tạng
Thích Ca, Di Đà
Không thiếu muối, tương.
……………………….
*Tiếng dùng để chỉ con đường Phật pháp vượt ngoài thời gian, không gian, hiển bày rõ ràng, không một hướng cố định vì Phật pháp là pháp bất định.
**Tên gọi khác của Cực Lạc

Bài kệ:
Ngày 28 tháng 3 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Dùng văn hiển đạo dựng cơ đồ
Uyên bác, suốt thông giải nghi ngờ
Khắp chốn thuyết minh độ quần chúng
Ngồi trên chiếu pháp phá mê mờ.
Quy tâm tịnh độ Cực Lạc quốc
Lập chí thanh cao ngang thánh tiên
Hồng Loa Triệt Ngộ, Mộng Đông Tập
Tây phương cứu cánh đốn ngộ viên.

Đời thứ 74. Thiền sư Thạch Chung Tùng Ba (?-?)

Sư họ Đoàn, người Hạc Dương, bẩm sinh thông minh, sớm biết thế gian như tuồng huyễn hóa nên lễ bái thượng nhân Đức Chu xuất gia, tham thiền, và được lão nhân Dã Trúc ấn chứng. Sư đến chùa Thạch Chung khai pháp, đây là ngôi chùa do sư Pháp Quang sáng lập. Khi sư lưu lại đây, cảnh chùa trở thành một già lam nhất vùng núi Kê Túc. Trăm việc bỏ dỡ đều được sư trùng tu, không nề lao khổ chỉ vì pháp và vì nngười, vô ngã tướng, vô nhân tướng. Đây là sự may mắn cho môn phái Kế Sơn.

Bài tán:
Vì pháp, vì người
Lấy pháp làm trọng
Ngã pháp vốn không
Tám gíó chẳng động.
Hưng khởi công trình
Cung dưỡng tam bảo
Tào Khê, Hoàng Bách
Chày cối mặc tình.

Bài kệ:
Ngày 11 tháng 4 năm 1985
Tuyên công thượng nhân viết:

Thông minh hiểu đạo thuở còn thơ
Khổ cầu tông giáo, nhớ nhân xưa
Tùy duyên sạch nghiệp sau và trước
Gặp việc e dè tâm khẩu chừa.
Chịu thân đói lạnh giương cờ pháp
Nằm gai nếm mật dựng tùng lâm
Trúc xanh Tùng Ba Thạch Chung tự
Sông không ngừng chảy tự ngàn năm.

Hết Phần II

Trang: 1 2 3 4