DU GIÀ SƯ ĐỊA LUẬN

SỐ 1579

QUYỂN 86

Tác giả: Bồ tát Di Lặc giảng thuật, Bồ tát Vô Trước ghi.
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phần Nhiếp Sự, Sự Khế Kinh
Hành Lựa Chọn, Thâu Tóm Thứ Nhất

Đoạn 2:

Lại nữa, tụng nêu:

Tưởng hành, tướng ngu, nhãn thắng lợi
Chín trí, không si cùng thắng tiến
Ngã kiến sai biệt ba tướng hành
Pháp tổng các phẩm ba sâu rộng.

Ở trong các hành, tu hành tưởng vô thường có năm thứ. Nghĩa là do:

  1. Tánh vô thường.
  2. Tánh không hằng.
  3. Tánh không trụ lâu.
  4. Tánh không thể giữ.
  5. Tánh của pháp biến hoại.

Ở đây, sát na, sát na hoại diệt nên vô thường. Tự thể hệ thuộc, trụ thọ có giới hạn, nên là không hằng. Ngoại sự trước sau quyết định không trụ nên là không trụ tâm. Thọ lượng chưa đủ, lại bị duyên hoại, phi thời mà chết, nên là không thể giữ. Cho đến lúc trụ như thế, nơi khoảng giữa, an lạc chẳng định, nên là pháp biến hoại.

Lại nữa, hạng ngu tối lược có ba loại tướng. Những gì là ba? Nghĩa là những kẻ ngu đối với tất cả hành như trên đã nói. Năm tánh vô thường không thể tư duy, ở trong tánh hơn kém không chân thật, phân biệt hơn kém, nêu xét về tự tha, cho mình là hơn. Đó gọi là tướng thứ nhất của kẻ ngu.

Như cho mình hơn, thì cho mình bằng, cho mình kém, nói rộng cũng thế. Cùng với đây trái nhau nên biết là kẻ trí, cũng có ba thứ tướng của kẻ trí.

Lại nữa, do hai thứ tướng, nên biết huệ nhãn của Thánh giả thanh tịnh. Nghĩa là do xa trần cũng lìa cấu. Do thấy chỗ đoạn trừ các phiền não triền, lìa mọi trói buộc, nên gọi là xa trần. Do lìa được trói buộc của tùy miên kia, nên gọi là lìa cấu. Lại, lúc hiện quán, có ngã mạn thô cùng nhập tác ý, chuyển có gián đoạn không gián đoạn. Nếu nhận biết rõ khắp về đối tượng giữ lấy, chủ thể giữ lấy nơi đối tượng duyên đều bình đẳng, tức chúng liền đoạn trừ. Do chúng được đoạn trừ nên gọi là xa trần. Hết thảy tùy miên của phiền não do kiến đạo đoạn đã được đoạn trừ nên gọi là lìa cấu.

Lại nữa, xa trần lìa cấu, ở trong các pháp, lúc được pháp nhãn, nên biết tức được mười thứ thắng lợi. Đó là:

  1. Nơi bốn Thánh đế đã khéo thấy rõ, nên gọi là thấy pháp.
  2. Theo đấy, đạt được một loại quả Sa-môn, nên gọi là đắc pháp.
  3. Đối với chỗ đã chứng đắc, có thể tự nhận biết rõ: Ta nay đã dứt hết nghiệp nơi ba nẻo ác. Ta đã chứng đắc quả Dự lưu cho đến nói rộng. Do như thế nên gọi là biết pháp.
  4. Được bốn chứng tịnh, đối với Phật Pháp Tăng nhận biết đúng như thật, nên gọi là kiên pháp khắp.
  5. Đối với chỗ tự chứng đắc không lầm lạc.
  6. Đối với chỗ chứng đắc của kẻ khác không nghi.
  7. Lúc tuyên thuyết giáo pháp tương ưng với Thánh đế, không dựa vào duyên khác.
  8. Không quán xét về hình tướng cùng ngôn thuyết của kẻ khác. Ở trong Chánh pháp Tỳ-nại-da này, hết thảy luận khác đều không thể chuyển.
  9. Ký biệt về tất cả chỗ chứng đắc, giải thoát đều là vô sở úy.
  10. Do hai nhân duyên nên tùy nhập Thánh giáo. Tức là thế tục chân chánh cùng đệ nhất nghĩa.

Lại nữa, có chín thứ trí, có thể đối với các hành nhận biết khắp, siêu vượt.

  1. Trí của các hành lưu chuyển.
  2. Trí của các hành hoàn diệt.
  3. Trí của nhân duyên tạp nhiễm.
  4. Trí của nhân duyên thanh tịnh.
  5. Trí thanh tịnh.
  6. Trí Khổ.
  7. Trí Tập.
  8. Trí Diệt.
  9. Trí Đạo.

Ở đây:

– Trí của các hành lưu chuyển: Lược do ba thứ nhân duyên tích tập, nên tất cả hành tích tập nơi chánh trí hiện có. Đó là hỷ tập, xúc tập, danh sắc tập. Theo chỗ ứng hợp, hoặc sắc tập, hoặc thọ v.v… tập, hoặc thức tập.

Tức do ba thứ nhân duyên này diệt, nên ba thứ hành diệt. Đó gọi là trí của các hành hoàn diệt.

– Trí của nhân duyên tạp nhiễm, trí của nhân duyên thanh tịnh, cùng trí thanh tịnh: Nghĩa là đối với ái vị, lỗi lầm tai họa cùng nẻo xuất ly, như trước đã nói, nên biết.

Bốn trí như Khổ v.v… trong bốn Thánh đế: Như trước, nơi đạo lý phân biệt Thánh đế, nên biết về tướng của chúng.

Đối với phần vị phàm phu tu năm trí trước, có thể mau chóng chứng đắc bốn trí Thánh đế sau. Do chứng đắc chúng, nên có thể đối với các hành nhận biết rõ như thật.

Lại, nếu đối với các trí trước có thiếu sót, tất định không thể dùng đạo lý của đế nhận biết khắp các hành, phải nên chứng đắc mới có thể nhận biết khắp. Hoặc nơi đế lý, trí nhận biết khắp về hành có chỗ thiếu sót, tất định không thể đối với tu đạo trên dùng lực đối trị đoạn trừ các phiền não, vượt tất cả hành. Cùng với đây trái nhau, mới có thể siêu vượt. Thế Tôn nói là có chín thứ trí, có thể đối với các hành nhận biết khắp cùng siêu vượt.

Lại nữa, hành giả tu Quán, do ba xứ nêu ở trong các hành trụ không ngu si. Những gì là ba? Đó là:

  1. Đối với các hành quá khứ nhận biết rõ đúng như thật, là tánh vô thường.
  2. Đối với các hành hiện tại nhận biết rõ đúng như thật, là tánh của pháp diệt.

Đối với các hành hiện tại nhận biết rõ đúng như thật, là tánh của pháp sanh diệt.

Hành giả do đối với hành của ba đời như thế không có ngu si, tâm không nhiễm ô, an lạc mà trụ, gắn liền nơi số sáng tỏ. Cùng với đây trái nhau, nên biết tức là có ngu si mà trụ, rơi vào số vô minh.

Lại có ba thứ dị danh của phiền não, phần nhiều được nói trong phẩm phiền não:

  1. Dị danh của tham.
  2. Dị danh của sân.
  3. Dị danh của si.

– Dị danh của tham: Cũng gọi là hỷ, cũng gọi là tham, cũng gọi là luyến tiếc, cũng gọi là vui mừng, cũng gọi là dục, cũng gọi là thân quen, cũng gọi là lạc, cũng gọi là cất chứa, cũng gọi là giữ, cũng gọi là vướng mắc, cũng gọi là trông mong, cũng gọi là đam mê, cũng gọi là ái, cũng gọi là nhiễm, cũng gọi là khao khát.

– Dị danh của sân: Cũng gọi là khuể (giận), cũng gọi là ghét, cũng gọi là sân, cũng gọi là phẫn, cũng gọi là tổn hại, cũng gọi là không nhẫn, cũng gọi là vi lệ (chống trái), cũng gọi là bạo ác, cũng gọi là nọc độc châm chích, cũng gọi là cự đối, cũng gọi là thảm độc, cũng gọi là phẫn phát, cũng gọi là nộ hám (thù giận), cũng gọi là mang lo lắng mà trụ, cũng gọi là sanh nóng nảy bừng bừng.

– Dị danh của si: Cũng gọi là không trí, cũng gọi là không kiến, cũng gọi là không phải hiện quán, cũng gọi là hôn muội, cũng gọi là ngu si, cũng gọi là vô minh, cũng gọi là hắc ám. Những tên gọi như thế, nên biết như nơi phần Nhiếp dị môn ở trước phần nhiều đã biện biệt. Về sự sai biệt của hỷ, tham, ở đây sẽ nói. Duyên dựa nơi vui thích do thọ sanh ra, gọi là hỷ. Duyên nơi cảnh giới sanh thọ, dấy khởi nhiễm đắm, gọi là tham.

Lại, đối với cảnh sắp đạt được sanh gọi là hỷ. Nếu đối với cảnh đã đạt được sanh khởi ,gọi là tham.

Lại, đối với pháp đã đạt được sắp sửa thọ dụng, gọi là hỷ. Tức đối với sự việc ấy, lúc đang thọ dụng, gọi là tham.

Lại, đối với cảnh giới, có thể dùng phương tiện dể đạt được, gọi là hỷ. Tức đối với cảnh giới ấy, gọi là tham.

Lại, đối với hữu sau, gọi là hỷ. Đối với cảnh giới hiện tại, gọi là tham.

Lại, đối với chỗ yêu thích lợi, tốt của hữu tình khác, gọi là hỷ. Đối với chỗ lợi tốt của mình đạt được, gọi là tham.

Lại nữa, ở trong các hành, tu tập như lý, có bốn thứ thắng tiến.

Nghĩa là tưởng thắng tiến lược có ba loại:

  1. Chưa được khiến được.
  2. Chưa hợp khiến hợp.
  3. Chưa chứng khiến chứng.

Nếu đạt được hiện pháp lạc trụ, gọi là thắng tiến thứ tư.

Đầu tiên có thể đạt được chỗ trước chưa được quả Dự lưu, nên biết đó gọi là chưa được khiến được.

Tức ở đây làm chỗ dựa, lại có thể khế hợp với quả học trên, nên biết đó gọi là chưa hợp khiến hợp.

Tức dùng đấy làm chỗ dựa, lại có thể chứng đắc quả A-la-hán, đối với các hoặc đoạn trừ, có thể tác chứng, nên biết đó gọi là chưa chứng khiến chứng.

Nếu đã chứng đắc quả A-la-hán, lại không “chưa được khiến được, chưa chứng khiến chứng”, nên chánh cần tu tập, chỉ nhằm đạt hiện pháp lạc trụ.

Chánh cần tu tập, lại dựa vào tự nghĩa, có ba tưởng thắng tiến. Nghĩa là ở trong các hành có tưởng chán bỏ, tưởng lỗi lầm tai họa, tưởng nghĩa thật.

– Tưởng chán bỏ lại có bốn hành: Nghĩa là đối với các hành tư duy như bệnh, như ung nhọt, như mũi tên, như não hại.

– Như bệnh: Tức như có một hữu tình, nhân nơi cảnh giới thác loạn, sanh ra bệnh khổ, tu tưởng chán bỏ.

– Như ung nhọt: Nghĩa là như có một hữu tình, nhân nơi nghiệp từ trước, sanh khởi ung nhọt khổ não, tu tưởng chán bỏ.

– Như mũi tên: Tức như có một hữu tình, nhân nơi sự oán đối của kẻ khác, bị khổ vì mũi tên bắn trúng, tu tưởng chán bỏ.

– Như não hại: Nghĩa là ở trong sự thiếu thốn về của cải thân thuộc, nhân nơi tà chấp của chính mình sanh ra các khổ, tu tưởng chán bỏ.

Như thế gọi là hành giả tu Quán, ở trong các hành tu tưởng chán bỏ.

– Tưởng lỗi lầm tai họa: Lại có hai hành, nghĩa là đối với các hành tư duy về vô thường, cùng tư duy về khổ.

– Tưởng nghĩa thật: Cũng có hai hành, nghĩa là đối với các hành, tư duy về tánh không cùng tánh vô ngã.

Ở đây, trước đối với tưởng lỗi lầm tai họa, cùng tưởng nghĩa thật tu tập đúng đắn rồi, sau đấy mới có thể trụ nơi tưởng chán bỏ. Nên biết, trong đây trước nói về quả, sau là nói về nhân.

Lại nữa, có bốn thứ ngã kiến làm chỗ nương dựa, có thể sanh ra ngã mạn:

  1. Ngã kiến có phân biệt: Tức là chỗ dấy khởi của các ngoại đạo.
  2. Ngã kiến câu sanh: Nghĩa là, dưới đến loài cầm thú v.v… cũng có thể sanh khởi.
  3. Ngã kiến duyên nơi chính mình làm chỗ dựa. Nghĩa là đối với nội thân đều riêng khác đã dấy khởi.
  4. Ngã kiến duyên nơi kẻ khác làm chỗ dựa: Là đối với thân kẻ khác đã dấy khởi.

– Ngã kiến có phân biệt, làm chỗ dựa sanh ngã mạn: Nghĩa là do kiến này, quán xét thân tự tha, chấp có thật ngã. Do hai thứ ngã kiến này làm chỗ dựa, phát sanh ngã mạn. Ví như tấm gương tròn thanh tịnh, trên mặt có tượng thật làm chỗ dựa phát sanh ảnh tượng. Ảnh tượng làm chỗ dựa, đối với chỗ dựa của chính mình phát sanh tưởng kém, vừa, hơn. Như thế do phân biệt tà vạy, nên ngã kiến duyên nơi chính mình làm chỗ dựa, làm duyên phát sanh. Ngã kiến duyên nơi kẻ khác làm chỗ dựa. Như dựa nơi tượng thật phát sanh ảnh tượng. Lại do đấy làm duyên phát sanh ngã mạn, đối với kẻ khác, cho mình hoặc hơn hoặc bằng hoặc kém.

– Ngã kiến câu sanh làm duyên sanh ngã mạn: Nên biết thí dụ so với trước có sai biệt. Như người mắt sáng, đi đến chỗ vật đựng nước trong, tự xem xét tai mắt. Phần còn lại như trước, nên biết về tướng.

Tất cả thứ Tát-ca-da-kiến này, chỉ dựa nơi pháp. Tỳ-nại-da khéo thuyết giảng mới có thể vĩnh viễn đoạn trừ, chẳng phải là tà giáo khác.

Lại nữa, do ba thứ tướng nơi các hành diệt, nên gọi là cảnh giới Niết-bàn Vô dư y. Đó là:

  1. Các hành diệt đã sanh khởi trước.
  2. Các hành diệt của tự tánh diệt hoại.
  3. Tất cả phiền não, đã vĩnh viễn lìa trói buộc của chúng.- Các hành diệt đã sanh khởi trước: Tức là nơi đời trước, có thể chiêu cảm chỗ tạo tác các nghiệp phiền não của hữu sau, cùng do chỗ xét cầu của nguyện trước, nay các hành sanh khởi đã vĩnh viễn dứt trừ.

– Các hành diệt của tự tánh diệt hoại: Nghĩa là các hành kia sanh rồi nhận lấy tánh diệt hoại, không phải là các hành vĩnh viễn diệt trụ nơi cứu cánh.

– Tất cả phiền não, đã vĩnh viễn lìa trói buộc của chúng: Nghĩa là các phiền não đã được đoạn dứt hoàn toàn, do nay diệt nên sau không sanh nữa.

Thế nên, do ba tướng nơi các hành diệt này, nên gọi là tịch diệt, không phải là hoàn toàn không có tướng, vì tướng kia là khác. Nếu hoàn toàn không có tướng, thì không thể thiết lập để gọi là tịch diệt.

Lại nữa, do sức tăng thượng của ba môn giải thoát, nên biết đã kiến lập bốn thứ pháp Ốt-dà-nam. Ba môn giải thoát là môn Giải thoát Không, môn Giải thoát Vô nguyện, môn Giải thoát Vô tướng.

– Tất cả hành vô thường, tất cả hành khổ: Là dựa nơi môn Giải thoát Vô nguyện, kiến lập pháp Ốt-dà-nam thứ nhất, thứ hai.

– Tất cả pháp vô ngã: Là dựa nơi môn Giải thoát Không, kiến lập pháp Ốt-dà-nam thứ ba.

Niết-bàn tịch tĩnh: Là dựa nơi môn Giải thoát Vô tướng, kiến lập pháp Ốt-dà-nam thứ tư.

Lại nữa, nên biết có hai thứ pháp Ốt-dà-nam nơi hành dục tăng thượng:

  1. Thắng giải cùng hành dục.
  2. Ý lạc cùng hành dục.

– Thắng giải cùng hành dục: Do bốn thứ pháp Ốt-dà-nam, nên ở trong các hành sanh khởi lạc dục.

Lại, đối với các hành tịch tĩnh, sanh lạc dục: Là do ý lạc nên ở riêng nơi chốn vắng lặng, tác ý tư duy. Do bốn thứ tướng, nên đối với hành tịch tĩnh kia, tâm thối chuyển:

  1. Ở trong ấy, do thấy thắng lợi, không hướng nhập.
  2. Không tin kẻ kia đạt tin không thanh tịnh.
  3. Nơi đối tượng duyên kia không sanh hỷ lạc, không an trụ.
  4. Đối với pháp kia, khởi thắng giải không vui thích.

Cùng với đây trái nhau, nên biết tức là ý lạc cùng hành dục.

Lại do hai duyên, nương dựa nơi dục của thắng giải vô ngã, đối với Niết-bàn kia, do kinh sợ nên tâm thối chuyển:

  1. Do đối với dục này, không khéo luôn hành tập, chưa đạt đến cứu cánh.
  2. Nơi lúc tác ý, do nhân duyên kia, nên niệm quên mất.

Lại, nhân dục này chưa thường xuyên hành tập, nên bấy giờ, ở trong các hành, hiểu rõ chỉ là trí của hành. Tâm kia ngu tối, luôn luôn tư duy về ngã: Ta lúc này nên ở tại đâu để tìm cầu về hành của ngã, vi tế cùng hành, chướng ngại mà chuyển. Do duyên ấy nên kẻ kia khởi suy nghĩ: Ngã sẽ không có chăng? Khởi niệm ấy chỉ có các hành, vị lai không có. Kẻ kia do theo đuổi thân kiến như thế làm chỗ dựa, nên phát sanh nhận thức về tùy chuyển biến dị. Do kinh sợ nên đối với nẻo tịch diệt kia, tâm thối chuyển.

Lại nữa, vì nhằm đoạn trừ sự kinh sợ như thế, nên có hai thứ pháp có nhiều chỗ tạo tác:

  1. Ở chỗ các bậc có trí đồng phạm hạnh, tự hiển bày đúng như thật.
  2. Nhân nơi pháp thiện, muốn phát khởi, hiểu rõ về tâm, cùng tâm điều hợp.

Lại phát khởi, hiểu rõ về tâm như thế: Là lắng nghe Chánh pháp, do ba thứ tướng nên phát sanh hoan hỷ:

  1. Do hữu tình tăng thượng.
  2. Do pháp tăng thượng.
  3. Do tự tăng thượng.

– Hữu tình tăng thượng: Là do trông thấy đại sư đoan nghiêm, đủ uy lực lớn, đáng tán thán, kính ngưỡng sâu xa, cùng chỗ khen ngợi về pháp khéo thuyết giảng.

– Pháp tăng thượng: Nghĩa là pháp được thuyết giảng có thể khiến xuất ly khỏi khổ của nghiệp phiền não, cùng khiến tin hiểu về nghĩa thâm diệu tối thượng.

– Tự tăng thượng: Tức có năng lực, đối với pháp đã nêu giảng có thể tùy thuận giác ngộ.

Lại phát khởi tâm điều hợp như thế. Nghĩa là có ba kiến:

  1. Hoặc dựa nơi tâm kia mà chuyển.
  2. Hoặc do tâm kia nhận biết khắp.
  3. Hoặc ứng hợp chỗ dẫn phát.

– Dựa nơi tâm kia mà chuyển: Là đối với các đế chưa được hiện quán, vì nhằm đạt được, nên dựa vào thắng giải cùng hành kia, hết sức khéo thường xuyên hành tập, chánh kiến mà chuyển.

– Do tâm kia nhận biết khắp: Tức dựa vào sự tùy thuận nơi chánh kiến hiện quán, đối với ba sự nơi Tát-ca-da-kiến của ngã chấp, cùng tánh là chỗ nương dựa của hai kiến đoạn, thường nơi tùy miên kia, và quả đã đạt được, có thể nhận biết rõ khắp. Nói ba sự:

  1. Hoặc là đối tượng được nhận lấy.
  2. Hoặc là chủ thể nhận lấy.
  3. Hoặc nhận lấy như thế.

Đối tượng được nhận lấy là gì? Là năm thủ uẩn.

Cái gì là chủ thể nhận lấy? Là bốn thứ.

Vì sao nhận lấy? Nghĩa là bốn thức trụ, tùy theo thứ lớp, như trước

nên biết. Vì hai thứ nhận lấy là nơi chốn nương dựa của tâm.

Lại, đối với các triền hiện có kia đã dẫn dắt phi lý, duyên nơi cảnh giới kia, Tát-ca-da-kiến sanh khởi chấp trước cùng tùy miên, như trước nên biết.

– Thế nào là ứng hợp với chỗ dẫn phát? Tức là trụ nơi pháp kia, có thể đoạn trừ vĩnh viễn ba sự chấp trước của Tát-ca-da-kiến, cùng với tùy miên, đối với trí Thánh đế không dựa vào duyên khác.

Lại, nếu dựa vào chỗ nên nhận biết khắp kia, lúc chánh kiến chuyển, đối với ba xứ khởi chấp trước về ngã, cùng có tùy miên, nên ở trong các hành, hoặc tích tập hoặc ẩn mất, không khéo nhận biết. Ở trong xứ, hành hãy còn không thể nhập, huống chi là được xuất ly. Nếu tùy thuận hiện quán, lúc chánh kiến an trụ, ở trong ba sự. Ngã chấp hiện có, đều đã lìa trói buộc, cũng như bị tùy miên trói buộc. Ở trong các hành, hoặc tích tập hoặc ẩn mất, có thể khéo nhận biết, nên xa lìa hai biên, nhập hành ở giữa, tuy chưa xuất ly, đều có thể xuất ly.

Nếu đã dẫn phát hiện quán Thánh đế, do chánh kiến nên ở trong ba sự không chấp trước ngã, xa lìa tùy miên. Ở trong xứ, hành trước là hướng nhập, sau do đấy mới được xuất ly. Nên biết ba kiến lúc chuyển như thế, có sai biệt ấy.

Lại nữa, tụng nêu:

Mau thông tự thể, cảnh giới trí
Lưu chuyển, biết đủ, hành thuận dòng
Biết đoạn tướng tưởng lập trái lương
Sự tạo tác các phẩm sau rộng.

Vì nhằm chứng đắc giải thoát cứu cánh chân thật, chưa đạt được, lược có ba pháp, có thể khiến đạt được thông huệ nhanh nhạy:

  1. Lực của trí.
  2. Lực không phóng dật.
  3. Lực luôn hành tập.

– Lực của trí: Nghĩa là, nếu trụ nơi trí kia, tức có thể nối tiếp vĩnh viễn dứt hết các lậu. Nên biết tức là trí kiến của hàng hữu học.

– Lực không phóng dật: Tức đã đạt được tri kiến như thế, dựa vào đạo đã đạt được như vậy, theo phương tiện siêng tu, phòng hộ pháp ác bất thiện đối với tâm.

– Lực luôn hành tập: Tức dựa nơi phương tiện ấy, siêng tu, thường tạo, thường chuyển, trọn không cho ta là đối với hôm nay được dứt hết các lậu, tâm giải thoát chăng? Là nơi ngày tiếp, là nơi ngày sau? Do tư duy tà ấy khiến tâm chán mệt. Không chán mệt rồi liền không khiếp sợ.

Không khiếp sợ rồi, nên không bỏ gia hạnh, có thể dứt hết các lậu.

Hỏi: Trí, kiến có gì sai biệt?

– Đáp: Nếu soi chiếu quá khứ cùng do vị lai, không phải là cảnh hiện thấy, thì huệ này gọi là trí.

Soi chiếu về cảnh hiện tại, huệ này gọi là kiến.

Lại, đối tượng được nhận lấy làm duyên, huệ này gọi là trí. Chủ thể nhận lấy làm duyên, huệ này gọi là kiến.

Lại, do Văn, Tư tạo thành, huệ ấy gọi là trí. Do Tu tạo thành, huệ ấy gọi là kiến.

Lại, có thể đoạn trừ phiền não, huệ ấy gọi là kiến. Phiền não đoạn trừ rồi, có thể chứng đắc giải thoát, huệ ấy gọi là trí.

Lại, duyên nơi cảnh của tự tướng, huệ ấy gọi là trí. Duyên nơi cảnh của cộng tướng, huệ ấy gọi là kiến.

Lại, do giả thiết lập ở trong khắp các hành nội ngoại kia, hoặc lập làm ngã, hoặc lập làm hữu tình như Trời, Rồng, Dược xoa… Hoặc lập làm quân binh, nhà cửa v.v… Do các hành của lý thế tục như thế, duyên nơi cảnh được nhận thức, huệ ấy gọi là trí. Nếu là chủ thể nhận lấy nơi tự tướng, cộng tướng, huệ ấy gọi là kiến.

Lại, tìm cầu các pháp, huệ ấy gọi là trí. Đã tìm cầu rồi, quán xét các pháp, huệ ấy gọi là kiến.

Lại, duyên nơi ảnh tượng không phân biệt làm cảnh, huệ ấy gọi là trí. Duyên nơi ảnh tượng có phân biệt làm cảnh, huệ ấy gọi là kiến.

Lại, ảnh tượng của cảnh giới có sắc làm duyên, huệ ấy gọi là kiến. Ảnh tượng của cảnh giới vô sắc làm duyên, huệ ấy gọi là trí.

Hành giả do hoặc trí hoặc kiến như thế làm chỗ nương dựa, lúc theo phương tiện tu tập, lại siêng năng tu bốn sự thiện xảo:

  1. Sự quan sát.
  2. Sự lấy, bỏ.
  3. Sự xuất, nhận.
  4. Sự phương tiện.

– Sự quan sát: Là bốn niệm trụ. Vì nhằm đối trị bốn điên đảo, nên nhận biết khắp đúng như thật về tất cả cảnh.

– Sự lấy, bỏ: Nghĩa là bốn chánh đoạn. Vì nhằm đoạn trừ pháp bất thiện cùng vì tu tập các pháp thiện.

– Sự xuất, nhận: Tức là bốn thần túc. Dựa nơi bốn Tĩnh lự, thứ lớp vượt ra khỏi, khởi đầu từ ưu căn, cho đến lạc căn.

– Sự phương tiện: Nghĩa là các căn, lực, giác chi, đạo chi. Nên biết tức là chánh phương tiện có thể đoạn trừ các phiền não do kiến đạo, tu đạo đoạn dứt.

Siêng năng tu tập sự thiện xảo như thế, nên biết có bốn thứ nghĩa của đối tượng nương dựa và chủ thể nương dựa.

– Nghĩa của đối tượng nương dựa: Nghĩa là hành giả hành Quán, chánh cần tu tập.

– Nghĩa của chủ thể nương dựa: Tức là thành tựu việc tu học các pháp vô lậu, nhưng chưa thanh tịnh, vẫn bị màng lưới vô minh còn lại vây bọc.

Lại, các pháp kia do đạo thanh tịnh, sau mới thanh tịnh. Đạo thanh tịnh này, nên biết có bốn thứ sai biệt:

  1. Quen gần với Chánh pháp. Tĩnh lự thẩm định đúng đắn.
  2. Sự thân, bạn thân.
  3. Dùng gốc Thi-la để giữ gìn các pháp như thiểu dục v.v…, huân tập, căn ngăn nơi tâm.
  4. Ở riêng nơi chốn vắng lặng, dùng hai pháp Chỉ, Quán thù thắng, đạt an lạc chân chánh, làm sự hỗ trợ.

Lại, thanh tịnh là dựa vào đạo hành thanh tịnh kia, tu tập nhiều, khiến cho pháp hữu học phá trừ lưới vô minh, hướng đến địa vô học.

Lại, vì nhằm đạt được giải thoát cứu cánh chân thật, nên biết lược có năm thứ lần lượt:

  1. Trước tích tập tư lương dùng làm chỗ dựa.
  2. Dùng đấy làm chỗ dựa, tu Chỉ, Quán.
  3. Dùng đấy làm chỗ dựa, hiện quán đầy đủ về đế, thắng giải về Niết-bàn.
  4. Dùng đấy làm chỗ dựa, nơi chỗ chứng đắc còn kém, thiếu, không sanh biết đủ, cũng không an trụ, đối với pháp đáng chán, sanh sự chán bỏ sâu xa.
  5. Dùng đấy làm chỗ dựa, chứng đắc định Kim cang dụ sau cùng, tương ưng nơi tâm học.

Lại nữa, do bốn nhân duyên, nên biết tất cả các hành, tự thể thảy đều là vô thường:

  1. Tất cả tự thể nơi thọ lượng đều hữu hạn.
  2. Tất cả tự thể đều do nhân sanh ra. Sự tạo tác của nhân kia là vô thường.
  3. Lại có tự thể rộng lớn, hưng thạnh, nhưng chung quy cũng bị bào mòn, hoại diệt.
  4. Lại do A-cấp-ma thuận hợp, nghĩa là Đức Phật, Thế Tôn, đối với pháp tánh vô thường của các tự thể, hiện thấy hiện chứng mà tuyên thuyết.

Lại có ba thứ viên mãn sai biệt của các kẻ thọ dục: Do nhân duyên này, nên các kẻ thọ dục luôn mãi tạo hý luận. Những gì là ba? Đó là:

  1. Tài sản viên mãn.
  2. Tự thể viên mãn.
  3. Hữu tình rộng lớn thù thắng, cung cấp viên mãn.

Nên biết lại có ba thứ nhân duyên, có thể đạt được viên mãn sai biệt như thế. Nghĩa là thí, giới, điều phục các căn cùng hành, cùng quả do tu đạt được của từ thuộc cõi Dục. Từ là sự dẫn dắt đi trước. Từ là nơi chốn của nhân, đối với các hữu tình bị tổn hại, cùng chuyển nơi hành tịch tĩnh.

Lại nữa, nên biết đối với sự của đối tượng nhận thức, có bảy thứ trí hành thông đạt như thật:

  1. Trí đã đạt được.
  2. Trí chưa đạt được.
  3. Trí không điên đảo.
  4. Trí của xứ ấy, không có nhận biết là không có.
  5. Trí của xứ ấy, nhận biết chỗ còn lại là chẳng không.
  6. Trí nhận biết về khổ, bất tịnh.
  7. Trí nhận biết về sự diệt hoại mau chóng.

Lại do mười lăm thứ tướng biết rõ về các hành, có thể mau chóng đoạn dứt tất cả hành ngu. Những gì là mười lăm? Nghĩa là do thủy giới sanh ra nên vô ngã. Giống với ngã mà hiển hiện nên không trụ. Theo dục mà tạo tác, nên biết rõ các sắc cũng như bọt nước tụ lại. Do ba hòa hợp sanh pháp tương tợ, như mây, đất, mưa theo phương tiện hòa hợp, biết rõ các thọ dụ như bọt nước nổi. Nơi cảnh của đối tượng nhận thức, pháp tương tợ có thể hiển bày, có thể thiêu đốt, có thể khiến mê loạn, nên biết rõ các tưởng đồng như dợn nắng. Tát-ca-da-kiến là gốc rễ đã đoạn trừ. Nhiều thứ nhân của tự thể có sai biệt. Pháp tương tợ nơi lượng sát na, thời gian sau không tạm dừng, nên biết rõ các hành ví như thân cây chuối. Thức của hữu thủ dựa nơi bốn thức trụ, phát khởi đủ loại tự thể, tùy chuyển theo pháp tương tợ, nên biết rõ các thức giống với sự huyễn.

Phân biệt rộng các điều ấy, nên biết như nơi phần Nhiếp dị môn ở trước.

Lại nữa, có hai thứ thế gian thâu tóm tất cả hành:

  1. Hữu tình thế gian.
  2. Khí thế gian.

Hữu tình thế gian gọi là chủng loại sanh tử. Khí thế gian gọi là khí sanh tử (vật chứa đựng sanh tử). Chủng loại sanh tử không đồng với pháp sanh tử khác. Đối chiếu với khí sanh tử, nên biết lược có năm phần không đồng: Nghĩa là khí sanh tử cùng với nhân sanh ra. Chủng loại sanh tử thì chỉ do không cùng. Đó gọi là nhân, là phần thứ nhất không đồng.

Lại, khí sanh tử, ở nơi biên vực không đầu cuối, trước sau, đoạn. Chủng loại sanh tử, ở nơi không đầu cuối nối tiếp lưu chuyển, không đoạn dứt. Đó gọi là thời, là phần thứ hai không đồng.

Lại, khí sanh tử, hoặc bị lửa nước gió đoạn hoại. Chủng loại sanh tử thì không như thế. Đó gọi là đối trị, là phần thứ ba không đồng.

Lại, khí sanh tử, nhân không vĩnh viễn đoạn trừ, chủng loại sanh tử thì đoạn rồi không nối tiếp. Đó gọi là nối tiếp, là phần thứ năm không đồng.

Lại, đối với sanh tử do năm thứ tướng, khiến tất cả hàng ngu tối lưu chuyển không dứt:

  1. Do nhân của ái.
  2. Do quả của ái.
  3. Do tự tánh của ái.
  4. Do nhân lần lượt.
  5. Tức nhân lần lượt nương dựa nơi đời trước không cùng tận.

Ở đây, vô minh đó gọi là nhân của ái. Các nghiệp khiến có thể sanh nơi nẻo thiện nẻo ác, đó gọi là quả của ái. Do nghiệp khiến đi đến nẻo thiện, bị ái kiết trói buộc, kẻ ngu tự nhiên vui thích đi tới. Do nghiệp khiến đi tới nẻo ác, bị vòng xích ái cột chặt, kẻ ngu tuy không muốn đến, nhưng bị cưỡng bức khiến đến.

Tự tánh của ái: Lược có ba thứ:

  1. Ái của hữu sau.
  2. Ái cùng hành với hỷ, tham.
  3. Ái của các thứ hỷ lạc kia.

Ba ái như thế lược gồm thâu làm hai:

  1. Ái hữu.
  2. Ái cảnh.

Ái của hữu sau, đó gọi là ái hữu. Ái cùng hành với hỷ, tham.

Nghĩa là lúc sắp đạt được cảnh giới hiện tiền, cùng đã đạt được cảnh nhưng chưa thọ dụng, và đối với cảnh hiện tiền đang thọ dụng với những tham ái hiện có.

Ái của các thứ hỷ lạc kia: Là tham ái hiện có đối với cảnh được mong cầu của vị lai. Nên biết ở đây do ái cùng hành với hỷ tham nên gọi là ái kiết buộc. Do ái của hữu sau cùng ái của các thứ hỷ lạc kia, nên gọi là vòng xích ái cột chặt. Nếu đối với sự việc kia, ái kiết trói buộc, gọi là dong ruổi. Nếu ở nơi sự việc kia, vòng xích ái cột chặt, gọi là lưu chuyển.

Lại, đối với đời lâu xa, nhân lần lượt dẫn đến các hành nối tiếp, biên vực trước khó nhận biết nẻo vô cùng tận của sau, do năm tướng khiến kẻ ngu lưu chuyển ấy, nên biết lại do năm tướng trói buộc:

  1. Trói buộc nơi xứ kia.
  2. Do xứ kia mà bị trói buộc.
  3. Chính là chủ thể trói buộc.
  4. Dựa nơi xứ kia nên bị trói buộc.
  5. Có chỗ lãnh nhận.

– Trói buộc nơi xứ kia: Tức do nghiệp nên có thể đi đến nẻo thiện, trụ nơi nẻo thiện mà bị trói buộc Hoặc do nghiệp nên có thể đi tới nẻo ác, ở nơi nẻo ác, bị gắn chặt mà trói buộc.

Lại do ái cùng hành với hỷ tham, nên đối với sự của chính mình, trụ mà bị trói buộc. Do ái của các thứ hỷ lạc kia, cùng ái của hữu sau, nên đối với sự việc của chính mình, gắn chặt mà bị trói buộc.

– Do xứ kia mà bị trói buộc: Tức là phàm phu ngu tối bị vô minh trói buộc.

– Chính là chủ thể trói buộc: Là pháp tương tự của tự đồng loại đối với khổ không chán.

– Dựa nơi xứ kia mà bị trói buộc: Là dựa nơi uẩn sau mà bị trói buộc.

– Có chỗ lãnh nhận: Là lãnh nhận các khổ như sanh v.v…

Lại nữa, phàm phu ngu tối, đối với các sự hữu lậu có bốn thứ biết đủ, nên biết phần nhiều là các ngoại đạo. Đó là:

  1. Biết đủ đối với thân người.
  2. Biết đủ đối với thân Trời thuộc cõi Dục.
  3. Biết đủ đói với việc sanh cõi Phạm thế.
  4. Biết đủ đối với việc đạt đến biên vực Hữu đảnh.

Kẻ ngu đối với các thứ kia, theo thứ lớp, hoặc đi hoặc trụ, hoặc ngồi hoặc nằm.

Lại có năm thứ khiến tất cả kẻ ngu yêu thích đường đi:

  1. Hữu sau.
  2. Cảnh giới mong cầu của vị lai.
  3. Cảnh giới hiện tiền sắp được.
  4. Cảnh giới hiện có đã được.
  5. Cảnh giới hiện tiền đang thọ dụng.

Nên biết, đối với các pháp kia, như thứ lớp, đi đến v.v… có sai biệt.

Ở đây, đi tới có hai thứ:

  1. Đối với hữu sau.
  2. Đối với cảnh giới mong cầu của vị lai.Lại có bốn thứ yêu thích đường đi:
  3. Cảnh giới do ý nghiệp mong cầu.
  4. Hai nghiệp thân, ngữ.
  5. Đạt được.
  6. Ở trong chỗ đạt được, theo sự mong muốn, hoặc chuyển hoặc hành tập.

Đây là phát nghiệp yêu thích đường đi, hoặc cầu cảnh giới, hoặc lại các hữu, nên biết đối với bốn thứ đường đi kia, như thứ lớp của chúng, đi đến v.v… có sai biệt.

Như nói về đi đến v.v…, đối với các sự hữu lậu khác đã nói, với sự biết đủ hiện có, yêu thích đường đi, vui thích hý luận, nhiễm chấp tham đắm bốn xứ có sai biệt, như thứ lớp của chúng, nên biết cũng thế.

Lại có hai thứ sai biệt nơi quả tướng của sự yêu thích đường đi:

  1. Sai biệt của tâm.
  2. Sai biệt của thân.

Sai biệt của tâm lại có hai thứ:

  1. Sai biệt của phẩm loại.
  2. Sai biệt của tạp nhiễm.

– Sai biệt của phẩm loại: Là do tự tánh, chỗ dựa, đối tượng duyên, trợ bạn.

– Sai biệt của tạp nhiễm: Là do hiền não hiện có như Tham-sân-si cùng các tùy phiền não.

Sai biệt của thân cũng có hai thứ:

  1. Vô số thân có sai biệt.
  2. Một loại thân có sai biệt.

Nên biết ở đây, sai biệt của tạp nhiễm hiện có nơi tâm, có thể làm nhân cho hai thứ sai biệt của thân.

Vì nhằm đoạn trừ chúng, các người tu hành nên dùng thường xuyên tác ý không điên đảo, siêng tu hành Quán.

Lại do bốn thứ nhân sai biệt, nên khiến quả sai biệt:

  1. Hoặc đối với sai biệt ấy.
  2. Hoặc do sai biệt ấy.
  3. Hoặc tức sai biệt ấy.
  4. Hoặc như sai biệt ấy.

– Đối với sai biệt ấy: Là đối với sai biệt hiện có của nẻo thiện, nẻo ác.

– Do sai biệt ấy: Tức do Tham-sân-si làm nhiễm ô tâm khiến có sai biệt kia.

– Tức sai biệt ấy: Nghĩa là vô số sai biệt của năm thứ hành gồm thâu thân thọ nhận.

– Như sai biệt ấy: Tức đối với nhân duyên thanh tịnh, tạp nhiễm của các hành lưu chuyển cùng thể thanh tịnh, không nhận biết đúng như thật, sanh vui thích v.v… cùng vô số sai biệt, như đi chạy tới v.v…

Lại nữa, không thể thông tỏ các hành vô thường, Tát-ca-da-kiến làm chỗ dựa, thuận theo dòng chảy mà hành, các hàng ngu tối, do năm thứ tướng, nên biết là thuận theo dòng chảy mà bị chìm nổi:

  1. Hoặc ở nơi sự chìm nổi ấy.
  2. Hoặc do sự chìm nổi ấy.
  3. Hoặc dựa vào sự chìm nổi ấy.
  4. Hoặc như sự chìm nổi ấy.
  5. Hoặc các tướng hiện có lúc chìm nổi.

– Ở nơi sự chìm nổi ấy: Là ở nơi nẻo thiện, nẻo ác mà bị chìm nổi. Như từ hai bờ kia đây qua lại đều bị chìm nổi.

– Do sự chìm nổi ấy: Là do tánh nhận chìm của sông ái nên bị chìm nổi. Nên biết ái này có năm thứ tướng:

  1. Đi đến các cảnh giới, thuộc phần kém của nẻo, cõi.
  2. Tùy hành vi tế, khó nhận biết rõ.
  3. Nơi các cảnh giới khó xoay chuyển.
  4. Cho đến cõi Hữu đảnh, cũng là chốn theo đuổi của vô số các hành lớn rộng.
  5. Tướng không tịch tĩnh, làm loạn thân tâm.

– Dựa vào sự chìm nổi ấy: Là dựa vào năm thứ các hành như sắc v.v… mà bị chìm nổi. Tức ở nơi hai bờ của nẻo thiện, nẻo ác, có năm thứ hành với phẩm loại sai biệt, thường xuyên duyên vịn, thuận dòng chìm nổi.

– Như sự chìm nổi ấy: Thế nào là chìm nổi? Nghĩa là đối với các hành, như trước đã nói về sự lưu chuyển, theo thứ lớp của chúng không nhận biết đúng như thật, hoặc chấp là ngã cùng ngã sở.

– Các tướng hiện có nơi lúc chìm nổi: Nghĩa là kẻ kia, lúc bị chìm nổi như thế, tuy thân rất yêu quý muốn khiến được dài lâu, nhưng do tự tánh diệt, nên không thể khiến trụ.

Như bị chìm nổi, cùng với đấy trái nhau, nên biết tức là ngược dòng chảy mà hành.

Lại, bậc thông huệ, có mười thứ tướng, nên biết là gồm thâu đủ tướng của các thông huệ. Đó là:

  1. Thành tựu Huệ câu sanh.
  2. Thành tựu Huệ phương tiện do Văn-Tư-Tu tạo thành.
  3. Thành thục nên không dao động. Khéo tư duy về chỗ nên tư duy. Khéo thuyết giảng về chỗ nên nêu giảng. Khéo tạo tác chỗ nên tạo tác.
  4. Có thể tự dựa nơi tánh hiện có của mình, chưa từng vì sự sống mà nhờ cậy kẻ khác.
  5. Có chỗ cầu mong, không gì là không an lạc.
  6. Có chỗ cầu đạt, có thể dựa nơi hành chân chánh, thảy đều dùng pháp, không dùng phi pháp.
  7. Các thứ vật dụng, của cải thích hợp với mình, có thể phòng giữ đúng đắn không khiến mất mát.
  8. Quán xét lỗi lầm, tai họa mà thọ dụng.
  9. Đối với thuốc men hiện có của duyên bệnh, luôn quan sát, xét chọn, sau đấy mới sử dụng.
  10. Có thể khéo tránh được duyên chết phi thời.

Mười thứ tướng của thông huệ như thế, nên biết là gồm thâu đủ tướng của các thông huệ.

Lại nữa, ở trong các hành, dựa nơi lý vô ngã, để nhận biết, đoạn trừ, nên biết lược do ba tướng sai biệt.

Nghĩa là, đối với các hành, có thể nhận biết rõ khắp về Tát-cada-kiến, nhưng chưa đoạn trừ. Hành giả kia đối với các hành có hành quên niệm, nhưng phần nhiều là hiện hành ít không quên niệm. Tát-cada-kiến đã vĩnh viễn dứt trừ: Nên biết tướng ấy cùng với phần kia trái nhau. Đó gọi là tướng sai biệt thứ nhất.

Lại, nơi các hành, tuy nhận biết rõ khắp về Tát-ca-da-kiến, nhưng chưa đoạn trừ, ở trong các sự việc rộng lớn, khả ái, sanh nhiều hỷ lạc. Đối với các cảnh giới thấp kém không đáng yêu thích, sanh nhiều sầu khổ. Hai cảnh giới kia lúc hiện tiền, người không phóng dật, tự mình hãy còn không thể buộc giữ chánh niệm, huống hồ là kẻ phóng dật. Kẻ kia bấy giờ bị Tát-ca-da-kiến vây buộc nơi tâm, do đấy khiến tâm không thể hiểu rõ.

Tát-ca-da-kiến nơi người đã đoạn trừ vĩnh viễn: Nên biết về tướng, so với trường hợp kia là trái nhau. Đó gọi là tướng sai biệt thứ hai.

Lại, đối với các hành, Tát-ca-da-kiến chưa đoạn trừ vĩnh viễn: Tác chưa có thể ở trong tất cả hành nội, hiện tiền an lập lìa tướng hữu tình, như đối với sự vật bên ngoài, như cỏ cây lá v.v…

Người đã đoạn trừ vĩnh viễn Tát-ca-da-kiến: Nên biết tướng ấy cùng với trường hợp kia trái nhau. Đó gọi là tướng sai biệt thứ ba. Như thế là đã đoạn trừ Tát-ca-da-kiến, có ba thứ tướng sai biệt ấy, nên biết lại có ba thứ thắng lợi:

  1. Đoạn trừ vĩnh viễn tất cả phiền não có thể chiêu cảm hữu sau.
  2. Dựa vào đấy, không lâu sẽ đạt được sự tích tập mau chóng đạo đối trị.
  3. Đã tạo nghĩa lợi cho mình rồi, tức dựa vào đạo kia, theo phương tiện siêng tu hiện pháp lạc trụ, do đấy đạt được an lạc trụ cùng tột.

Lại nữa, do bốn sai biệt, nên biết tu tập tưởng vô thường, khổ não của tất cả thứ hành. Những gì là bốn? Đó là:

  1. Sai biệt về quả.
  2. Sai biệt về tự tánh.
  3. Sai biệt về phẩm loại.
  4. Sai biệt về phương tiện.

– Sai biệt về quả: Là tu tập tướng này, có thể trừ bỏ tất cả tham của ba cõi Dục, Sắc, Vô sắc, cùng trạo, mạn, vô minh. Nên biết ở đây hiển thị ba thứ phiền não gốc được đoạn trừ, cùng hiển bày ba thứ tùy phiền não được đoạn trừ. Phiền não tham của cõi Dục, trạo cử là trợ bạn. Phiền não tham của cõi Sắc, mạn là trợ bạn. Hoặc tham của cõi Vô sắc, vô minh là trợ bạn.

Lại có sai biệt: Tức ở trong ấy, hiển thị kiết hạ phần, thượng phần đã dứt hết.

– Sai biệt về tự tánh: Nghĩa là ở trong đó, do tu tập đúng đắn về huệ do Văn tạo thành, gọi là thân cận. Do tu tập đúng đắn về huệ do Tư tạo thành, có thể nhập tu, gọi là tu tập. Do tu tập đúng đắn về huệ do Tu tạo thành, gọi là tu tập nhiều.

Lại do tu tập tác ý liễu tướng, gọi là thân cận. Chỉ trừ tác ý gia hạnh cứu cánh, do tu tập đúng đắn các tác ý còn lại, gọi là tu tập. Do tu tập tác ý gia hạnh cứu cánh, gọi là tu tập nhiều, đó gọi là loại sai biệt thứ hai, thứ ba.

Lại, do tác ý ề chỗ dựa, đối tượng duyên, tùy theo thứ lớp, nên biết đó gọi là thừa, là sự, là tùy kiến lập.

Lại, do trong thời gian dài, thường xuyên tu tập, nên gọi là thuần thục. Luôn luôn tu tập theo phương tiện thuận hợp, nên gọi là khéo thọ nhận cùng khéo phát khởi.

– Sai biệt về phẩm loại: Tức lúc tu tưởng vô thường như thế, có thể mau chóng dứt trừ vĩnh viễn hết thảy tùy miên, lìa bỏ tất cả pháp thiện của địa dưới, thâu nhận tất cả pháp thiện của địa trên. Đối với hết thảy tưởng bất tịnh khác, tánh rất cao rộng, có thể khéo trụ giữ. Hành khắp tất cả, cũng như quán xét sự việc của đối tượng nhận lấy. Tức quán sự việc của chủ thể nhận lấy như thế, tướng giải thoát kia có thể đạt được tưởng vô thường, vô lậu. Hoặc tướng hữu lậu, hoặc tưởng vô lậu, như vậy tất cả đều đối với Niết-bàn khéo có thể tùy thuận, hướng đến, sắp nhập. Đều có thể đối trị bóng tối lớn của vô minh, hết thảy đều vĩnh viễn đoạn trừ. Do được đoạn trừ nên thanh tịnh, tươi trắng. Các tưởng vô học đều do tất cả tưởng học vô lậu tăng thượng nên được.

– Sai biệt về phương tiện: Là ở riêng nơi chốn vắng lặng, do thường xuyên tác ý không điên đảo, quán xét các hành, tánh là vô thường, do tưởng vô thường trụ nơi tưởng vô ngã. Ở trong kiến đạo đã trụ nơi tưởng vô ngã vô lậu rồi, đối với tu đạo trên, do tưởng hữu học vĩnh viễn loại trừ ngã mạn, theo đấy đạt được hai thứ Niết-bàn đều đủ.

Lại nữa, vì trụ nơi Niết-bàn, nhưng chưa tích tập tư lương thiện, lược có năm thứ pháp trái với tư lương:

  1. Nhớ nghĩ về các sự việc vui cười, thừa phụng, hoan lạc ngày trước, nhân đấy phát khởi tác ý suy xét luyến mộ cùng hành, sanh sầu não.
  2. Do vô số các thứ ấy làm chỗ dựa, nên ở trong pháp được lãnh nhận rốt ráo, sanh nhiều quên niệm, khiến đối với các pháp không thể hiển bày rõ.
  3. Do ăn uống hoặc quá hoặc thiếu, vì thế khiến thân nặng nề hoặc suy yếu, đối với các phạm hạnh không thích tu trì.
  4. Vui thích ngủ nghỉ, không thường xuyên hành đoạn dứt, nên bị thùy miên phẩm thượng trói buộc.
  5. Gần gũi với các thứ hỗn tạp mà trụ, xa lìa nẻo gia hạnh tư duy chắc thật về Chánh pháp.

Năm thứ pháp trái với tư lương như thế, lại có năm thứ pháp tùy thuận nơi chúng:

  1. Đối với việc lìa hai thứ dục, tùy theo một thứ cũng chưa có thể lìa. Nghĩa là nơi các triền, là lìa dục phần xa, siêng tu phẩm thiện, cùng đối với tùy miên được vĩnh viễn loại trừ, là lìa dục đạt được đối trị đúng đắn.
  2. Không giữ gìn căn môn.
  3. Ăn uống không biết lượng.
  4. Đầu đêm, cuối đêm không thể gắng sức siêng tu tỉnh giác.
  5. Không thể quán xét pháp thiện một cách rốt ráo.

Cùng với trên trái nhau, nên biết đó gọi là pháp thuận với tư lương, và pháp tùy thuận có thể thuận theo tư lương kia.

Lại, các Thanh văn tu hành pháp thuận tư lương như thế, cùng Do nhân duyên ấy, nên trong thời gian đó, lúc cầu đạt Niết-bàn, Đại sư đã vì các vị chế lập năm thứ ngôn giáo chánh đạo:

  1. Do dựa nơi sự quán xét pháp như đã lãnh hội, đối khắp tất cả các hành vô thường, các pháp vô ngã, Niết-bàn tịch tĩnh, lại do tác ý thế gian mà được không nghi hoặc.
  2. Vào lúc trụ, không vướng mắc nơi ba sự để tầm tư bất chánh.

Ba sự là:

  1. Các vật dụng nuôi sống thân mạng.
  2. Tướng tổn hại kẻ khác.
  3. Hoặc bị kẻ khác hủy nhục.

Hoặc tùy có một thứ không yêu thích hiện hành, là pháp không đồng phần của các vị đồng phạm hạnh.

– Chỉ dạy, trao truyền là trước hết. Do dựa nơi âm thanh kẻ khác, tác ý như lý, nên có thể sanh chánh kiến, có thể đoạn trừ tà kiến. Nên biết ba thứ ấy gọi là ngôn giáo của chánh đạo lúc trụ.

Lại có hai thứ ngôn giáo của chánh đạo nơi lúc hành. Nghĩa là các bậc đồng phạm hạnh có trí, lúc vì kẻ khác tuyên thuyết về xứ phi xứ, không sanh giận dữ. Lại do các vật dụng nuôi sống thân mạng thô xấu, hoặc được hoặc không được, cùng do Giới v.v… hiện có tai hại, nhưng tâm không nhiệt não. Đó là loại thứ nhất.

Đối với việc đạt được lợi dưỡng, sự cung kính thù thắng, tâm không lo lắng. Đó là loại thứ hai.

Hành giả do lúc trụ lúc hành như thế, nên có thể tu tập đúng đắn diệu đạo Niết-bàn, do đấy không lâu sẽ chứng đắc Niết-bàn, trọn không hủy mất.

Lại nữa, bậc Đại sư đối với các Thanh văn, lược có năm thứ sự việc tạo tác của bậc Thầy:

  1. Điều phục đúng đắn.
  2. Thâu nhận chính đáng.
  3. Quở trách đúng đắn.
  4. Nêu đúng đắn về tạp nhiễm.
  5. Nêu đúng đắn về thanh tịnh.

Lại nữa, do hai nhân duyên, đối với các sự việc tranh biện trái vượt nơi Thanh văn, che giấu cùng “ký biệt” sự việc đã tranh luận kia.

Đó là:

  1. Nhiễu loạn tăng rộng.
  2. Tương ưng với luật.

Lại nữa, do bảy nhân duyên nên bậc Đại sư từ bỏ các chúng Thanh văn:

  1. Thấy tất cả loại đều hành theo hành tà.
  2. Thấy các hành kia chiếm phần nhiều.
  3. Do vì đứng đầu của chúng kia tạo phương tiện để thành “thượng tòa” đối với A-già-lợi-da, Ô-ba-đà-da.
  4. Không kham nhẫn cùng trụ.
  5. Bị đuổi hẳn.
  6. Lẩn tránh lỗi lầm hiện tiền.
  7. Khiến lỗi lầm vị lai không sanh khởi.

Lại nữa, do mười nhân duyên, nên Đức Như lai đi vào xóm làng khất thực:

  1. Sẽ hiển bày công đức của hạnh Đầu-đà.
  2. Vì muốn dẫn dắt phần của chúng kia khiến nhập khất thực.
  3. Vì muốn dùng hành đồng sự để thâu tóm một phần của chúng kia.
  4. Vì muốn cùng với chúng sanh đời vị lai làm ánh sáng tỏa chiếu rộng lớn, cho đến khiến họ tạm khởi xúc chứng.
  5. Vì muốn dẫn dắt chúng sanh thô kém kia thắng giải về các ngoại đạo.
  6. Vì các chúng sanh kia dựa theo âm thanh, khởi hủy báng, nên hiện bày sắc diệu nơi oai nghi tịch tĩnh khiến họ kinh ngạc, tâm sanh quy hướng.
  7. Vì khiến cho chúng sanh trong xứ kia, dùng công sức ít mà gieo trồng nhiều phước đức.
  8. Vì khiến cho kẻ phóng dật hủy hoại niềm tin, sanh khởi xấu hổ sâu xa, tuy dùng công sức nhỏ mà đạt được phước lớn. Như vì kẻ phóng dật, thì đối với kẻ biếng nhác cũng thế.
  9. Vì vô số tai hại của các chúng sanh đui điếc, điên cuồng, tâm loạn, đều khiến tĩnh dứt.
  10. Vì khiến cho tám chúng hộ pháp như Trời, Rồng, Dược xoa v.v… với uy đức rộng lớn vô biên, tháp tùng với Đức Như lai đến các nơi chốn khất thực, sanh sự kính ngưỡng tốt đẹp, sâu xa, siêng năng tăng thêm việc bảo vệ khách, không bị não hại.

Lại nữa, do tám nhân duyên, nên Đức Như lai nhập nơi thiên trụ tịch tĩnh:

  1. Vì dẫn dắt kẻ ưa thích tạp trụ, khiến họ nhập vào nẻo xa lìa.
  2. Vì muốn dùng hành đồng sự thâu tóm kẻ xa lìa.
  3. Tự thọ nhận hiện pháp lạc trụ.
  4. Vì cùng với chư Thiên đại tộc, chỉ rõ là đồng tập hội.
  5. Vì dùng Phật nhãn quan sát mười phương thế giới, hiện đại thần hóa, theo chỗ ứng hợp, tạo các sự việc lợi ích.
  6. Vì khiến cho các chúng Thanh văn, đối với việc gặp Như lai sanh khởi sự khát ngưỡng sâu xa.
  7. Vì nhằm hiển bày các vị Đại Thanh văn đối với pháp đã lược nêu, khéo có thể ngộ nhập.
  8. Khuyên xả bỏ việc ưa thích, chấp trước nơi hý luận, tạo tác ngôn từ.

Lại nữa, do năm thứ tướng, nên bậc Đại sư thâu nhận các chúng Thanh văn:

  1. Do pháp.
  2. Do tài sản.
  3. Do cùng nương dựa.
  4. Do sự thâu nhận ban đầu.
  5. Do giúp sức để thâu nhận.

Lại nữa, do bảy nhân duyên, nên Đế Thích Phạm Thiên đi đến trụ xứ của Như Lai:

  1. Vì để cúng dường Như lai.
  2. Vì để được nghe Chánh pháp.
  3. Vì để quyết đoán chỗ sanh nghi.
  4. Vì thuận theo người khác mà làm kẻ tùy tùng.
  5. Vì thương xót kẻ khác, muốn tạo lợi ích.
  6. Do quý trọng Thánh giáo của Như lai.
  7. Nhận biết Đức Như lai khởi tâm thế tục, muốn khiến mình phó hội.

Lại nữa, do năm thứ tướng, nên biết tánh của tất cả người mới tu tập:

  1. Do xuất gia muộn.
  2. Do xuất gia từ ấu thơ.
  3. Do xuất gia từ thiếu niên.
  4. Do khó nhọc thúc đẩy xuất gia.
  5. Do xuất gia thọ cụ giới.

Lại nữa, do ba thứ tướng, nên sanh khởi ố tác:

  1. Trái vượt đối với sở học tăng thượng.
  2. Nguyện thọ nhận Pháp-Luật tăng thượng.
  3. Dứt bỏ cuộc sống gia đình tăng thượng.

Lại nữa, Đức Như lai sắp sửa vì các Thanh văn tuyên thuyết Chánh pháp, hiện bày bốn thứ tướng:

  1. Từ nơi chỗ ngồi rất thấp, thong thả khởi lên tòa ngồi rất cao, an nhiên mà ngồi.
  2. An trụ thuận theo oai nghi thuyết pháp.
  3. Phát khởi âm thanh vui vẻ, chỉ rõ là sắp thuyết pháp.
  4. Diện mục ngắm nhìn khắp cả, như long tượng vương.

Lại nữa, Thanh văn phạm giới, nên an trụ nơi ba xứ, xấu hổ khi đi đến trụ xứ của Đại sư:

  1. Biết rõ điều đã phạm, là xứ tăng thượng.
  2. Thờ sư, mất oai nghi là xứ tăng thượng.
  3. Do sự việc sai trái, tức nên dùng phương tiện điều phục oai nghi, đi đến trụ xứ của Đại sư là xứ tăng thượng.

Lại nữa, do ba thứ tướng, nên chính thức quở trách Thanh văn phạm giới:

  1. Ông chỉ trông mong về cuộc sống thấp kém.
  2. Ý lạc của ông không thanh tịnh.
  3. Ý lạc của ông là dùng đời sống để hành phi pháp.

Lại nữa, ở trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng, lược do sáu tướng, nên biết là thâu tóm khắp tất cả hành tà:

  1. Lỗi lầm của hiện hành.
  2. Lỗi lầm của ý lạc.
  3. Lỗi lầm của gia hạnh.
  4. Lỗi lầm của tầm tư.
  5. Lỗi lầm của nương dựa.

– Lỗi lầm của hiện hành: Nghĩa là do triền tham nên nhiễm, do triền sân nên ghét. Đã mang giữ tham sân mãnh liệt, nên hầu như không biết xấu hỏ. Do không xấu hổ nên trụ nơi ác không bỏ.

– Lỗi lầm của ý lạc: Nghĩa là đối với biên nhiễm thí ý lạc của tham ấy là hết sức thấp kém. Như vậy, đối với biên ghét bỏ, ý lạc của sân ấy cũng hết sức thấp kém.

– Lỗi lầm của gia hạnh: Tức hoặc có khi không phát khởi tinh tấn, hoặc có lúc tinh tấn chậm chạp.

– Lỗi lầm của trí huệ: Nghĩa là hoặc ở trong huệ do Văn Tư tạo thành quên mất chánh niệm, trụ nhiều nơi ngu tối. Đối với huệ do Tu tạo thành, tâm không tịch định.

– Lỗi lầm của tầm tư: Nghĩa là đối với các thứ giác ác, bất thiện hiện có của việc thuận theo đời sống gia đình, phần nhiều tầm tư, nên đối với Chánh pháp-luật, tâm bị tán loạn.

– Lỗi lầm của nương dựa: Tức kẻ kia nương dựa nơi nhân không tu tập từ thời xa xưa. Do nhân không tu tập, nên tạo thành tự tánh hẹp kém, tin nhỏ, tạo thành tự tánh tu trụ nơi Giới nhỏ, tạo thành tự tánh trụ giữ niệm nhỏ, tạo thành tự tánh cùng sanh huệ nhỏ.

Lại nữa, do bốn thứ tướng, nên có thể khiến kẻ kia tuy nhập nơi Thánh giáo nhưng hành theo hành tà:

  1. Do ý lạc thấp kém, không tịnh.
  2. Do xét tìm những tỳ vết của Thánh giáo, là giặc của Chánh pháp.
  3. Do chuyên vì nhân duyên ăn uống, y phục, đời sống.
  4. Do sợ hãi vua quan, giặc cướp, chủ nợ tăng thêm sự bức bách.

Nếu hành theo các hành tà như thế, nên ở nơi hai sự có chỗ trở ngại:

  1. Trở ngại vì hoại mất tự nghĩa của tại gia.
  2. Trở ngại vì hoại mất tự nghĩa của xuất gia.

Lại nữa, hành tà như thế có hai nhân duyên. Nghĩa là đối với ba sự không tầm tư đúng đắn, cùng các tướng bất chánh của hành trước kia. Về ba sự, như trước đã nói, nên biết.

Đối với việc phát khởi các tưởng bất chánh kia, theo đấy giữ lấy tướng tốt. Từ đấy về sau, đối với tùy pháp kia, phần nhiều tùy theo tầm tư, dò xét.

Lại nữa, vì nhằm đoạn trừ nhân duyên của hành tà như thế, nên biết cũng có hai thứ đối trị:

  1. Vì nhằm đoạn trừ tầm tư bất chánh, nên thường xuyên dùng hai hành không điên đảo, đối với các niệm trụ khéo khiến tâm an trụ.
  2. Vì đoạn dứt các tưởng không đúng đắn, nên tâm tu tập Tam-mađịa vô tướng.

Tu đối trị này, chính yếu là do ở trong việc tu đối trị kia, cần vui thích mong muốn mãnh liệt mới có thể thành tựu đầy đủ, không phải là sự vui thích mong muốn không mãnh liệt.

Sự mong muốn mãnh liệt ấy do hai duyên sanh. Nghĩa là sự đối trị ấy có quả lớn, nên không chung với tất cả các ngoại đạo. Có quả lớn: Nghĩa là lúc tu tập liền có thể khắc phục, chứng đắc định tâm vô tướng, cùng trụ nơi môn cam lồ vi diệu của hai cảnh giới. Đó là cảnh giới đoạn trừ và cảnh giới không dục, hoặc Hữu dư y và Vô dư y. An trụ nơi ấy là gần với hai Niết-bàn, hiện tại chưa được, nhưng tất cả đều được.

Nói không chung: Tức định vô tướng chỉ nội pháp có, các ngoại đạo không có. Vì sao? Vì do ngoại đạo kia nếu có chỗ đạt được, tức liền tăng ích quán không đúng như lượng. Nếu không chỗ đạt được, tức vọng phân biệt. Do ngã kiến nên ngu tối đối với các hành. Hoặc chỉ nơi thân, hoặc chỉ là vô sắc, hoặc gồm chung cả hai, sanh chấp trước về ngã. Do chấp ngã, cho ngã sẽ là không, nên đối với Niết-bàn, tâm không vui thích, hãy còn chưa có thể đi vào, huống hồ là an trụ, chỉ tăng thêm kinh sợ khiến tâm thối lui. Người trụ nơi nội pháp, cùng với ngoại đạo kia trái nhau, ở nơi Bát Niết-bàn tâm không thối chuyển, biết rõ chỉ là khổ diệt, thấy chỉ là đức tĩnh. Nếu các vị hữu học chỉ cầu nơi nội diệt, không vì đạo sanh, lại từ kẻ khác cầu chỉ dạy trao truyền, khuyên bảo. Hoặc các bậc vô học chỉ vui mừng nơi nội diệt, rốt cuộc lại không cầu dứt hết các phiền não. Chỉ có nhân trước đã sanh các hành, tự nhiên quy diệt mà Bát-niết-bàn.