Đại Thừa Quảng Ngũ Uẩn Luận Thích Yếu
大乘廣五蘊論釋要
Thích Tịnh Chiếu biên soạn
11 tháng Tám năm 2015
釋淨照編寫
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Đức Phong
1.1.2.4.2.1.3.2. Tàm
(Luận) Vân hà Tàm? Vị tự tăng thượng cập pháp tăng thượng, ư sở tác tội, tu sỉ vi tánh. Tội, vị quá thất, trí giả sở yếm hoạn cố. Tu sỉ giả, vị bất tác chúng tội. Phòng tức ác hạnh sở y vi nghiệp.
(論)云何慚?謂自增上。及法增上。於所作罪。羞恥為性。罪謂過失。智者所厭患故。羞恥者。謂不作眾罪。防息惡行。所依為業。
(Luận: Tàm là như thế nào? Tức là tự tăng thượng (tăng tấn mạnh mẽ cho chính mình) và pháp tăng thượng (tăng tấn mạnh mẽ nơi pháp). Thể tánh của nó là hổ thẹn đối với các tội đã tạo. “Tội” tức là lầm lỗi, là thứ mà bậc trí chán ghét, lo sầu. “Hổ thẹn” là chẳng tạo các tội. Nghiệp dụng của Tàm là làm chỗ nương tựa cho việc ngăn ngừa, dứt trừ các ác hạnh).
Thể tánh của Tàm là “tự tăng thượng cập pháp tăng thượng, ư sở tác tội, tu sỉ vi tánh” (tăng tấn mạnh mẽ cho chính mình và tăng tấn mạnh mẽ nơi pháp. Thể tánh của nó là hổ thẹn đối với các tội đã tạo). Vì tôn trọng phẩm cách, thân phận của chính mình, và tôn trọng sức tăng thượng của chánh pháp, cho nên đối với tội nghiệp mà chính đã từng làm, đang làm, hoặc sẽ làm, bèn cảm thấy hổ thẹn. Nghiệp dụng của Tàm là “phòng tức ác hạnh sở y vi nghiệp” (có nghiệp dụng làm chỗ nương tựa để ngăn ngừa, dứt trừ ác hạnh), [tức là] Tàm có thể ngăn ngừa, dứt trừ ác nghiệp.
“Tự tăng thượng” là gì? “Tăng thượng” (增上) là tăng tấn mạnh mẽ. Do tôn trọng sức tăng thượng nơi phẩm cách và thân phận của chính mình, cảm thấy phải nên làm thiện sự thì mới phù hợp với thân phận và phẩm cách của chính mình, mới có tôn nghiêm, mới được người khác khen ngợi. Đấy chẳng phải là kiêu mạn, ngạo nghễ, mà là có thể dẫn khởi sanh ra Tàm. Lại còn suy xét cặn kẽ, biết làm chuyện ác sẽ tổn hại, hủy diệt thân phận và phẩm cách của chính mình. Vì thế, đối với chuyện ác, sẽ cảm thấy xấu hổ, chẳng dám làm chuyện ác.
“Pháp tăng thượng” là gì? Nương vào sức tăng thượng tôn trọng chân lý thế gian và xuất thế gian, sẽ sách tấn, cổ vũ chính mình làm những thiện sự phù hợp chân lý. Như tôn trọng Phật pháp, sẽ có thể cảnh tỉnh, sách tấn chính mình chẳng nên làm chuyện ác trái nghịch Phật pháp, khích lệ chính mình làm các thiện sự phù hợp Phật pháp, như do tôn trọng đạo đức, pháp luật của thế gian, sẽ chẳng làm những chuyện trái nghịch.
Nếu đệ tử Phật tại gia hay xuất gia có thể thường xuyên suy xét cặn kẽ: “Ta làm chuyện này có xứng đáng với thân phận và phẩm cách của ta hay chăng? Có phù hợp Phật pháp hay chăng?”, như thế thì sẽ có thể dẫn khởi, sanh ra Tàm, ngăn ngừa, dứt diệt ác nghiệp.
“Tội, vị quá thất, trí giả sở yếm hoạn cố” (Tội là lỗi lầm, chính là điều mà bậc trí chán ghét, lo sầu): Tội là ác nghiệp, là lầm lỗi. Tạo các hành vi ác nơi thân thể, ngôn ngữ, và tư tưởng, sẽ bị bậc trí trong thế gian và xuất thế gian quở trách.
“Tu sỉ giả, vị bất tác chúng tội” (“Hổ thẹn” là chẳng làm các tội): Đối với chuyện làm điều ác mà có thể cảm thấy hổ thẹn, sẽ chẳng dám làm chuyện ác. Đối với chuyện ác đã làm, sẽ cảm thấy hổ thẹn. Tuy vẫn chưa phải là thật sự sửa lỗi, hướng thiện, nhưng đã sanh ra sức mạnh, sẽ dần dần sửa lỗi, hướng thiện.
Thành Duy Thức Luận đã thuyết minh về Tàm như sau: “Vân hà vi Tàm? Y tự, pháp lực, sùng trọng hiền thiện vi tánh; đối trị Vô Tàm, chỉ tức ác hạnh vi nghiệp” (Tàm là như thế nào? Nương vào tự lực và pháp lực, có tánh chất đề cao, tôn trọng hiền thiện. Nó có nghiệp dụng đối trị “không hổ thẹn”, dứt bặt ác hạnh), [ý nói] thể tánh của Tàm nương vào sức tăng thượng chính mình và sức tăng thượng pháp; [do vậy], sùng kính bậc hiền lương, tôn trọng thiện pháp. Nghiệp dụng của Tàm là có thể đối trị Vô Tàm, ngăn ngừa, dứt diệt các ác hạnh. Ý nghĩa của Vô Tàm sẽ được nói rõ trong phần Tùy Phiền Não.
1.1.2.4.2.1.3.3. Quý
(Luận) Vân hà Quý? Vị tha tăng thượng, ư sở tác tội, tu sỉ vi tánh. Tha tăng thượng giả, vị bố úy, trách phạt, cập nghị luận đẳng. Sở hữu tội thất, tu sỉ ư tha. Nghiệp như Tàm thuyết.
(論)云何愧?謂他增上。於所作罪。羞恥為性。他增上者謂怖畏責罰。及議論等。所有罪失。羞恥於他。業如慚說。
(Luận: Quý là như thế nào? Ý nói có tánh chất do nương vào sức tăng thượng của người khác mà hổ thẹn đối với tội đã làm. “Sức tăng thượng của người khác” chính là sợ hãi [người khác] trách phạt và bàn tán v.v… Đối với tất cả tội lỗi [đã trót làm], bèn xấu hổ với người khác. Nghiệp dụng [của Quý] như đã nói trong [phần luận định về] Tàm).
Thể tánh của Quý, “tha tăng thượng, ư sở tác tội, tu sỉ vi tánh” (có tánh chất do vì sự tăng thượng của người khác mà hổ thẹn đối với tội đã làm): Nương vào sức tăng thượng của sự chánh đáng và dư luận trong thế gian, đối với tội nghiệp do chính mình đã làm, bèn cảm thấy hổ thẹn. Nghiệp dụng của Quý “như Tàm sở thuyết” (như đã nói trong phần [luận định về] Tàm), tức là nó có thể ngăn ngừa, dứt diệt ác nghiệp.
“Tha tăng thượng” còn gọi là “thế gian tăng thượng”, như dư luận trong xã hội chính là ngôn luận biểu lộ quan niệm chung trong xã hội. Nếu phù hợp các chuẩn tắc về chánh nghĩa, thì sự phê bình, chỉ trích của dư luận v.v… sẽ có tác dụng tăng thượng “ước chế chuyện làm ác, khích lệ thiện hạnh” đối với dân chúng. Ngược lại, nếu dư luận xã hội là nói nhăng, nói cuội, rối loạn tùng phèo, chẳng phù hợp các chuẩn tắc về chánh nghĩa, sẽ ngược lại có phản tác dụng “khích lệ ác hạnh, ước chế thiện hạnh”!
“Tha tăng thượng giả, vị bố úy, trách phạt, cập nghị luận đẳng, sở hữu quá thất, tu sỉ ư tha”, [ý nói] “tha tăng thượng” là nỗi sợ hãi bị đại chúng coi thường, quở trách, trừng phạt, và sự phê bình, chỉ trích của dư luận. Do vậy, đối với chuyện làm điều ác, sẽ cảm thấy hổ thẹn, chẳng dám làm chuyện ác.
Khá nhiều chuẩn tắc đạo đức đối với sự việc trong thế gian chính là chuẩn tắc dựa trên phong tục tập quán tốt lành của xã hội. Trong pháp luật, chẳng có văn bản chế định cụ thể, nhưng trong phong tục tập quán xã hội thì cho rằng đó là những chuyện chẳng nên làm. Giả sử trót phạm, sẽ bị đại chúng và dư luận trách phạt, phê bình.
Thành Duy Thức Luận đã thuyết minh về Quý như sau: “Vân hà vi Quý? Y thế gian lực, khinh cự bạo ác vi tánh. Đối trị Vô Quý, chỉ tức ác hạnh vi nghiệp” (Quý là như thế nào? Có tánh chất nương vào sức thế gian để nhẹ nhàng cự tuyệt sự bạo ác. Quý có nghiệp dụng đối trị Vô Quý, ngưng dứt ác hạnh), [ý nói] thể tánh của Quý là nương vào sức tăng thượng của thế gian để xa lìa kẻ hung bạo, cự tuyệt ác pháp. Nghiệp dụng của Quý là có thể đối trị Vô Quý, ngăn ngừa, dứt diệt ác hạnh. Ý nghĩa của Vô Quý sẽ được nói rõ trong phần Tùy Phiền Não.
1.1.2.4.2.1.3.4. Vô Tham
(Luận) Vân hà Vô Tham? Vị Tham đối trị, linh thâm yếm hoạn, vô trước vi tánh. Vị ư chư Hữu, cập Hữu tư cụ, nhiễm trước vi Tham, bỉ chi đối trị, thuyết vi Vô Tham. Thử tức ư Hữu cập Hữu tư cụ, vô nhiễm trước nghĩa. Biến tri sanh tử chư quá thất cố, danh vi yếm hoạn. Ác hạnh bất khởi sở y vi nghiệp.
(論)云何無貪?謂貪對治。令深厭患。無著為性。謂於諸有。及有資具。染著為貪。彼之對治。說為無貪。此即於有。及有資具。無染著義。遍知生死諸過失故。名為厭患。惡行不起。所依為業。
(Luận: Vô Tham là như thế nào? Tức là có tánh chất đối trị Tham, khiến cho chán lo sâu xa, không chấp trước. Ý nói: Đối với các Hữu và những thứ cần dùng cho cuộc sống trong các Hữu, vì đắm nhiễm mà tham. Để đối trị điều này, bèn nói Vô Tham. Đây chính là ý nghĩa “vô nhiễm” đối với các Hữu và những thứ cần dùng cho cuộc sống trong các Hữu. Do biết trọn khắp lầm lỗi của sanh tử, nên gọi là “yếm hoạn” (chán ngán vì họa hoạn). Nghiệp dụng của nó là làm chỗ nương tựa khiến cho ác hạnh chẳng dấy lên).
Vô Tham, Vô Sân, và Vô Si được gọi là “tam thiện căn”, là căn bản của hết thảy các thiện pháp. Ngược lại, Tham, Sân, Si được gọi là “tam bất thiện căn”, là căn bản của hết thảy các pháp bất thiện (ác pháp).
Vô Tham là “Tham đối trị” (nhằm đối trị Tham), chẳng phải là “không có Tham”, mà là có thể đối trị lòng Tham, có thể hàng phục lòng Tham, cho đến trừ diệt Tham. “Chẳng có Tham” là tiêu cực, [bởi lẽ] hữu tình chẳng có Tham, sẽ có thể có các phiền não như Sân v.v…
Thể tánh của Vô Tham là “linh thâm yếm hoạn, vô trước vi tánh” (có tánh chất khiến cho [người tu tập] chán lo [tham đắm] sâu xa, chẳng chấp trước). Quan sát trọn khắp lỗi ác của sanh tử trong tam giới, có thể đối với y báo và chánh báo trong tam giới mà sanh lòng chán lìa sâu đậm, chẳng sanh lòng đắm nhiễm. Nghiệp dụng của Vô Tham là “ác hạnh bất khởi sở y vi nghiệp” (nghiệp dụng là Vô Tham làm chỗ nương tựa để chẳng dấy khởi ác hạnh), tức là khiến cho ác hạnh chẳng thể sanh khởi. Ác hạnh bao gồm các ác hạnh nơi thân, ngữ, ý. Như trong mười bất thiện nghiệp, ác hạnh nơi thân là sát sanh, trộm cắp, và tà dâm; ác hạnh nơi ngữ là nói dối, nói đôi chiều, ác khẩu, và nói thêu dệt. Ác hạnh nơi ý là tham dục, sân khuể, và tà kiến.
Thể tánh của Tham là “ư chư Hữu, cập Hữu tư cụ, nhiễm trước”, nghĩa là sanh khởi lòng nhiễm đắm đối với các Hữu và những vật dụng thuộc các Hữu. “Chư Hữu” chính là Dục Hữu, Sắc Hữu, và Vô Sắc Hữu (Tam Hữu), cũng là thân tâm của hữu tình trong tam giới. Hữu tình trong Dục Giới bao gồm địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, A Tu La, người, và chư thiên trong Dục Giới. Hữu tình trong Sắc Giới và Vô Sắc Giới chính là chư thiên thuộc Sắc Giới Thiên và Vô Sắc Giới. “Tư cụ trong các Hữu” chính là các thứ vật dụng, vật chất giúp cho hữu tình sanh tồn. Chẳng hạn như nhân loại có thể tiếp tục sanh tồn thì cần phải có những thứ bổ trợ như y phục, thức ăn v.v… “Khí thế giới” như núi, sông, đại địa, cỏ cây, rừng rậm v.v… cũng là những “tư cụ” để nhân loại nương tựa.
“Bỉ chi đối trị, thuyết vi Vô Tham” (Để đối trị điều ấy, bèn nói Vô Tham): Thiện pháp để đối trị Tham chính là Vô Tham. “Thử tức ư Hữu cập Hữu tư cụ, vô nhiễm trước nghĩa” [nghĩa là] Vô Tham chính là chẳng đắm nhiễm các Hữu và những thứ giúp cho cuộc sống trong các Hữu. Ý nghĩa của Tham sẽ lại được nói rõ trong phần Căn Bản Phiền Não.
“Biến tri sanh tử chư quá thất cố, danh vi yếm hoạn” (Biết trọn khắp các lầm lỗi của sanh tử, nên gọi là chán ngán, sầu lo): “Biến tri” (遍知) là biết rõ thấu triệt, trọn khắp. Biết rõ thấu triệt các thứ lầm lỗi và họa hoạn của quả báo sanh tử, bèn sanh khởi tác dụng tâm lý chán lìa. Có trí huệ để phán đoán dứt khoát lỗi lầm nơi cảnh giới thì mới có thể chán lìa cảnh giới. Vì thế, tác dụng tâm lý chán lìa ở đây thuộc về trí huệ và một phần Vô Tham. Quan sát bản chất của sự sanh tử trong thế gian là vô thường, khổ, vô ngã, có các thứ lầm lỗi, họa hoạn, [để rồi] sanh khởi tác dụng tâm lý chán lìa, thì mới có thể chẳng tham luyến, chấp trước thân tâm, danh lợi, ngũ dục v.v…
Thành Duy Thức Luận thuyết minh về Vô Tham như sau: “Vân hà Vô Tham? Ư Hữu, Hữu cụ, vô trước vi tánh; đối trị tham trước, tác thiện vi nghiệp” (Vô Tham là như thế nào? Đối với các Hữu và các vật dụng cần thiết cho cuộc sống trong các Hữu, có tánh chất không chấp trước. Nghiệp dụng của nó là đối trị tham đắm, làm lành). Thể tánh của Vô Tham là đối với Tam Hữu và các thứ cần dùng cho cuộc sống trong Tam Hữu, hoặc nguyên nhân của Tam Hữu, chẳng có tâm tham đắm, ái nhiễm. Nghiệp dụng của Vô Tham là nó có thể đối trị lòng tham đắm, tu tập thiện nghiệp. Thành Duy Thức Luận Thuật Ký giải thích “Hữu cụ” (有具) là “cái nhân để có thể sanh trong Tam Hữu”. Lại còn nói “trung hữu, nghiệp, Hoặc, Niết Bàn” đều thuộc về Hữu Cụ (các thứ cần dùng cho sự sinh tồn trong Tam Hữu). “Hữu” (有) là sự tồn tại của hữu tình. Nói theo Duy Thức Học, có những hữu tình trong đời này sau khi tử vong ([Duy Thức Học gọi giai đoạn này là] Tử Hữu), trước khi đầu thai vào lục đạo trong đời sau (Sanh Hữu), phải trải qua trạng thái của sanh mạng Trung Hữu (Trung Ấm Thân). Vì chúng sanh khởi Hoặc, tạo nghiệp, sẽ chiêu cảm quả báo trong Tam Hữu. Cho nên nghiệp và Hoặc là nguyên nhân của Tam Hữu. Vì chúng sanh chấp trước Niết Bàn, có thể dẫn khởi Tham v.v… cho nên Niết Bàn cũng là một nguyên nhân của Tam Hữu.
1.1.2.4.2.1.3.5. Vô Sân
(Luận) Vân hà Vô Sân? Vị Sân đối trị, dĩ Từ vi tánh, vị ư chúng sanh, bất tổn hại nghĩa. Nghiệp như Vô Tham thuyết.
(論)云何無瞋?謂瞋對治。以慈為性。謂於眾生。不損害義。業如無貪說。
(Luận: Vô Sân là như thế nào? Chính là đối trị Sân, lấy Từ làm tánh. Tức là có ý nghĩa chẳng tổn hại chúng sanh. Nghiệp dụng của Vô Sân giống như đã nói trong phần Vô Tham).
Vô Sân là “Sân đối trị” (nhằm đối trị Sân), chẳng phải là “không có Sân”, mà là có thể đối trị Sân, có thể hàng phục Sân, cho đến diệt trừ Sân. “Chẳng có Sân” là tiêu cực; [bởi lẽ], hữu tình chẳng có Sân thì vẫn có thể là có các phiền não như Tham v.v… Hơn nữa, hữu tình thuộc Sắc Giới và Vô Sắc Giới “tuy chẳng có Sân” nhưng có các phiền não như Sắc Tham, Vô Sắc Tham v.v… Ý nghĩa của Sân sẽ được nói rõ trong phần Căn Bản Phiền Não.
Thể tánh của Vô Sân “dĩ Từ vi tánh, vị ư chúng sanh, bất tổn hại nghĩa”, tức là “từ mẫn chúng sanh” thì có nghĩa là “chẳng tổn hại chúng sanh”. Nghiệp dụng của Vô Sân, “nghiệp như Vô Tham thuyết” (nghiệp dụng của nó giống như đã nói trong phần Vô Tham), [tức là] khiến cho ác hạnh chẳng thể sanh khởi.
Thành Duy Thức Luận đã thuyết minh về Vô Sân như sau: “Vân hà Vô Sân? Ư Khổ, Khổ cụ, vô khuể vi tánh; đối trị sân khuể, tác thiện vi nghiệp” (Vô Sân là như thế nào? Đối với Khổ, Khổ Cụ, có tánh chất không nóng giận. Nghiệp dụng của nó là đối trị sân khuể, làm lành), [ý nói] thể tánh của Vô Sân là đối với Tam Khổ và những thứ tư cụ (những thứ giúp cho sự tăng trưởng hoặc tồn tại) của Tam Khổ, hoặc là nguyên nhân của Tam Khổ, sẽ chẳng có sân khuể. Thành Duy Thức Luận Thuật Ký giải thích Khổ chính là Tam Khổ, tức Khổ Khổ, Hoại Khổ, và Hành Khổ. Lại giải thích Khổ Cụ là “hết thảy những gì có thể sanh ra khổ thì đều là Khổ Cụ”, tức là những thứ có thể giúp cho Tam Khổ phát sanh, hoặc là nguyên nhân sanh ra Tam Khổ. Nghiệp dụng của Vô Sân là có thể đối trị sân khuể, tu tập thiện nghiệp.
Thật ra, đối trị Sân dễ hơn đối trị Tham, vì Dục Giới mới có Sân. Sắc Giới và Vô Sắc Giới tuy không có Sân, nhưng Sân vẫn chẳng đoạn hết. Nếu chẳng thể tiến hơn bước nữa hòng đoạn Hoặc chứng Chân, trong tương lai, luân hồi vào Dục Giới, vẫn có thể sanh khởi Sân. Đối trị Sân như thế nào? Chủ yếu là tu Từ Tâm Quán, từ mẫn chúng sanh, đấy chính là thể tánh của Vô Sân.
1.1.2.4.2.1.3.6. Vô Si
(Luận) Vân hà Vô Si? Vị Si đối trị, như thật chánh hạnh vi tánh. Như thật giả, lược vị Tứ Thánh Đế, quảng vị Thập Nhị Duyên Khởi, ư bỉ gia hạnh, thị Chánh Tri nghĩa, nghiệp diệc như Vô Tham thuyết.
(論)云何無癡?謂癡對治。如實正行為性。如實者。略謂四聖諦。廣謂十二緣起。於彼加行。是正知義。業亦如無貪說。
(Luận: Vô Si là như thế nào? Chính là có tánh chất đối trị Si, là chánh hạnh như thật. “Như thật” thì nói đại lược sẽ là Tứ Thánh Đế, nói rộng rãi thì là Thập Nhị Duyên Khởi. Gia công dụng hạnh nơi đó thì là ý nghĩa Chánh Tri. Nghiệp dụng của Vô Si cũng giống như đã nói trong phần Vô Tham).
Vô Si là “đối trị Si”, chẳng phải là “không có Si”, mà là có thể đối trị Si, có thể hàng phục Si, cho đến trừ diệt Si. “Không có Si” là tiêu cực, hữu tình chẳng có Si thì có thể là do chỉ vì thiếu khuyết nhân duyên, trong một sát-na kế tiếp, nhân duyên tụ hội, sẽ sanh khởi các phiền não như Si v.v… Ý nghĩa của Si sẽ được nói rõ trong phần Căn Bản Phiền Não.
Thể tánh của Vô Si “như thật chánh hạnh vi tánh” (có tánh chất chánh hạnh như thật), tức là liễu giải Sự Lý chánh xác. Nghiệp dụng của Vô Si, “nghiệp diệc như Vô Tham thuyết” (nghiệp dụng giống như đã nói trong phần Vô Tham), [tức là] khiến cho ác hạnh chẳng thể sanh khởi.
“Như thật giả, lược vị Tứ Thánh Đế, quảng vị Thập Nhị Duyên Khởi, ư bỉ gia hạnh, thị Chánh Tri nghĩa” (Như Thật: Nói đại lược thì là Tứ Thánh Đế, nói rộng rãi thì là Thập Nhị Duyên Khởi. Gia công dụng hạnh nơi ấy thì là ý nghĩa Chánh Tri): “Như thật” là như cùng một chân lý sự thật ấy. Nghĩa đại lược là Sự và Lý của Tứ Thánh Đế; nghĩa rộng rãi là Sự và Lý của Thập Nhị Duyên Khởi. “Chánh hạnh” là đối với Sự và Lý của Tứ Thánh Đế và Thập Nhị Duyên Khởi, bèn gia công dụng hạnh, liễu giải sâu sắc. Đấy chính là ý nghĩa Chánh Tri.
Hết thảy Sự Lý hết sức sâu rộng, nói đơn giản, cốt yếu thì:
1) Nói theo nghĩa đại lược, sẽ là Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế, và Đạo Đế. Vì bậc thánh nhân thông đạt Tứ Đế, cho nên Tứ Đế còn được gọi là Tứ Thánh Đế. Tuy phàm phu thân tâm khổ não, sanh khởi vô lượng phiền não, tạo tác vô lượng nghiệp hữu lậu, nhưng chẳng thể như thật thông đạt. Nói theo sự tu chứng, sẽ là “biết Khổ, đoạn Tập, (hâm mộ Diệt), tu Đạo, chứng Diệt”.
2) Nói theo nghĩa rộng rãi thì là Thập Nhị Duyên Khởi, tức “Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh Sắc, Danh Sắc duyên Lục Xứ, Lục Xứ duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên Lão, Tử, dấy lên sầu than, khổ, ưu não”. Đấy là luật Lưu Chuyển1 của Thập Nhị Duyên Khởi, và “Vô Minh diệt thì Hành diệt, Hành diệt thì Thức diệt, Thức diệt thì Danh Sắc diệt, Danh Sắc diệt thì Lục Nhập Xứ diệt, Lục Nhập Xứ diệt thì Xúc diệt, Xúc diệt thì Thọ diệt, Thọ diệt thì Ái diệt, Ái diệt thì Thủ diệt, Thủ diệt thì Hữu diệt, Hữu diệt thì Sanh diệt, Sanh diệt thì Lão, Tử, ưu, bi, khổ não diệt”. Đấy là luật Hoàn Diệt của Thập Nhị Duyên Khởi.
Thật ra, Tứ Đế và Thập Nhị Duyên Khởi tương thông. Liễu giải Tứ Đế, cũng sẽ liễu giải Duyên Khởi. Luật Lưu Chuyển của Thập Nhị Duyên Khởi tương thông với Khổ Đế và Tập Đế. Luật Hoàn Diệt của Thập Nhị Duyên Khởi tương thông với Diệt Đế và Đạo Đế.
Một trong những mục tiêu học tập Phật pháp là giải thoát sanh tử. Nếu có thể liễu giải chánh xác Sự Lý của Tứ Đế và Thập Nhị Duyên Khởi, dẫu chẳng liễu giải học vấn thế gian như Vật Lý Học, Toán Học, Y Học v.v… cũng có thể giải thoát sanh tử, trở thành bậc thánh. Nếu lại có thể khéo léo vận dụng học vấn thế gian, sẽ hữu dụng rất lớn trong việc giáo hóa chúng sanh. Ngược lại, nếu chẳng thể liễu giải chánh xác sự lý của Tứ Đế và Thập Nhị Duyên Khởi, dẫu hết sức liễu giải học vấn thế gian, cũng vẫn là sanh tử luân hồi.
Thành Duy Thức Luận đã thuyết minh về Vô Si như sau: “Vân hà Vô Si? Ư chư Sự Lý, minh giải vi tánh; đối trị ngu si, tác thiện vi nghiệp” (Vô Si là như thế nào? Có tánh chất hiểu rõ các Sự Lý; Nó có nghiệp dụng đối trị ngu si, làm lành). [Nghĩa là] thể tánh của Vô Si chủ yếu là liễu giải chánh xác Sự Lý của Tứ Đế và Thập Nhị Duyên Khởi. Nghiệp dụng của Vô Si là đối trị ngu si và tu tập thiện nghiệp.
1.1.2.4.2.1.3.7. Tinh Tấn
(Luận) Vân hà Tinh Tấn? Vị giải đãi đối trị, thiện phẩm hiện tiền, cần dũng vi tánh. Vị nhược bị giáp, nhược gia hạnh, nhược vô khiếp nhược, nhược bất thoái chuyển, nhược vô hỷ túc, thị như thử nghĩa, viên mãn thành tựu thiện pháp vi nghiệp.
(論)云何精進?謂懈怠對治。善品現前。勤勇為性。謂若被甲。若加行。若無怯弱。若不退轉。若無喜足。是如此義。圓滿成就。善法為業。
(Luận: Tinh Tấn là như thế nào? Chính là đối trị giải đãi, thiện phẩm hiện tiền, siêng năng, dũng mãnh làm tánh, tức là hoặc mặc giáp, hoặc gia hạnh, hoặc chẳng sợ hãi, yếu đuối, hoặc chẳng thoái chuyển, hoặc chẳng vui mừng cho là đủ. Do có các nghĩa như vậy mà viên mãn thành tựu thiện pháp, đó là nghiệp dụng [của Tinh Tấn]).
Thể tánh của Tinh Tấn là có thể đối trị giải đãi, “thiện phẩm hiện tiền, dũng cần vi tánh” (có tánh chất [khiến cho] các điều thiện hiện tiền, siêng năng, dũng mãnh). Vì liễu sanh tử mà dấy lên các thiện pháp như Vô Tham, Vô Sân, Vô Si v.v… và siêng năng, dũng mãnh chế phục, diệt trừ các ác pháp như Tham, Sân, Si v.v… Nghiệp dụng của Tinh Tấn là “viên mãn thành tựu thiện pháp vi nghiệp”, tức là [có nghiệp dụng] thành tựu viên mãn thiện pháp. Ý nghĩa của Giải Đãi sẽ được nói rõ trong phần Tùy Phiền Não.
Thành Duy Thức Luận thuyết minh về Tinh Tấn như sau: “Cần, vị Tinh Tấn. Ư thiện ác phẩm, tu đoạn sự trung, dũng hãn vi tánh, đối trị giải đãi, mãn thiện vi nghiệp” (Siêng năng là Tinh Tấn. Trong sự tu tập các thiện phẩm và đoạn trừ ác phẩm, có tánh chất dũng mãnh, tinh thuần. Nghiệp dụng của [Tinh Tấn] là đối trị giải đãi, trọn vẹn điều thiện). Thể tánh của Tinh Tấn là siêng năng, sốt sắng, dũng mãnh tu thiện, đoạn ác. Nghiệp dụng của Tinh Tấn là có thể đối trị giải đãi, thành tựu viên mãn thiện pháp. Như tu Định đắc Sơ Thiền thì là “mãn thiện”, không nhất định phải là chứng đắc thánh quả. Lại giải thích ý nghĩa của chữ “dũng hãn”. “Dũng” (勇) biểu thị sự thắng tấn. Thiện pháp niệm nào cũng đều cao trỗi, cho đến tiến lên, trở thành bậc thánh. Đấy là loại trừ các pháp tạp nhiễm, tức là loại trừ ác pháp và hữu phú vô ký pháp (有覆無記法)2. “Hãn” (悍) biểu thị sự tinh thuần, loại trừ bốn pháp vô phú vô ký3. Vì hết thảy các pháp có thể chia thành bốn loại: Thiện pháp, bất thiện pháp (ác pháp), hữu phú vô ký pháp, và vô phú vô ký pháp. Do vậy, [từ ngữ] “dũng hãn” nhằm hiển thị sự tinh tấn chỉ bao gồm thiện tánh.
Trong quá trình nỗ lực đoạn ác, tu thiện, dựa trên sự sai biệt của tướng trạng, có thể chia đại lược [Tinh Tấn] thành năm loại: “Vị nhược bị giáp, nhược gia hạnh, nhược vô khiếp nhược, nhược bất thoái chuyển, nhược vô hỷ túc”, tức là năm loại Tinh Tấn: Bị Giáp Tinh Tấn, Gia Hạnh Tinh Tấn, Vô Khiếp Nhược Tinh Tấn, Bất Thoái Chuyển Tinh Tấn, và Vô Hỷ Túc Tinh Tấn. Theo A Tỳ Đạt Ma Tập Dị Môn Túc Luận, năm loại Tinh Tấn [vừa nêu trên đây] nhằm thuyết minh [các loại Tinh Tấn] trong kinh Phòng Chư Lậu Ký Biệt, tức là “hữu thế, hữu cần, dũng hãn, kiên mãnh, bất xả thiện ách”4. Đối chiếu để xem, kinh Phòng Chư Lậu Ký Biệt ắt phải có mối liên quan mật thiết với kinh Lậu Tận trong kinh Trung A Hàm.
Ý nghĩa của năm thứ Tinh Tấn:
1) Bị Giáp Tinh Tấn (tinh tấn như mặc áo giáp): Tu học Phật pháp, trước hết là kiến lập tín tâm kiên định, phát khởi chánh nguyện cao tột, như tư duy thiện pháp, công đức của lạc quả, và lỗi lầm, họa hoạn của ác pháp và khổ quả, hòng tăng cường tín nguyện đoạn ác và tu thiện.
2) Gia Hạnh Tinh Tấn (tinh tấn bằng cách gia công dụng hạnh): Tiếp tục siêng năng, phấn chấn, dũng mãnh gia hạnh dụng công, như nỗ lực trì giới, tu Định, tu Huệ, tu Lục Độ v.v…
3) Vô Khiếp Nhược Tinh Tấn (tinh tấn chẳng hèn yếu): Khi tu hành, lúc gặp phải chướng ngại, chẳng sợ hãi, chẳng kinh khiếp, có thể dũng cảm đối diện, bài trừ chướng ngại ổn thỏa.
4) Bất Thoái Chuyển Tinh Tấn (tinh tấn chẳng lui sụt): Khi tu hành, có thể chịu đựng các nỗi khổ như nóng, lạnh v.v… Gặp phải thử thách, cho đến gặp nguy hiểm về sanh mạng, vẫn chẳng thoái thất đạo tâm. Như lúc trì giới, đã phạm phải giới nhỏ bèn sám hối, lại tiếp tục trì giới. Khi tu Định, thân tâm chẳng an ổn, sẽ điều chỉnh thân tâm cho thích nghi, sau đấy tiếp tục tu Định.
5) Vô Hỷ Túc Tinh Tấn (tinh tấn, chẳng vì đạt được chút ít mà đã vui mừng cho là đủ rồi): Khi tu hành, thành tựu cảnh giới tốt đẹp bậc thấp, như trì giới, thân tâm thanh tịnh, tu Định đắc Sơ Thiền v.v… Tu trí huệ đạt được Huệ thành tựu bởi Văn, Huệ thành tựu bởi Tư, Huệ thành tựu bởi Tu, hoặc chứng đắc Sơ Quả v.v… đừng nên vì đó mà hoan hỷ, cho là đủ, chẳng tấn tu nữa, hoặc lui sụt. Hãy nên lấy “đạt tới liễu thoát sanh tử”, hoặc “thành tựu Phật quả” làm mục tiêu rốt ráo thì mới hoan hỷ, thỏa mãn.
Tu học Phật pháp chính là đánh nhau với ma quân phiền não. Do vậy, có thể dùng năm loại tình huống trong chiến đấu để tỷ dụ năm thứ Tinh Tấn.
1) Trước kia, khi giao chiến với địch quân, đều trước hết phải đội mũ sắt, mặc áo giáp, để ngăn ngừa bị đao gươm đâm chém, hoặc mũi tên xuyên thấu, và cũng phải chuẩn bị đao, gươm, cung tên, cũng phải kiến lập tín nguyện kiên định. Tình huống này ví như Bị Giáp Tinh Tấn.
2) Điều khẩn yếu tiếp theo là phải luyện tập kỹ năng tác chiến, phải dũng cảm tiến đến trước quân địch v.v… Tình huống này ví như Gia Hạnh Tinh Tấn.
3) Phát hiện quân địch, giao chiến với chúng, chẳng sợ hãi, chẳng kinh khiếp. Tình huống này ví như Vô Khiếp Nhược Tinh Tấn.
4) Khi giao chiến, gặp phải thử thách, cho đến bị thương, vẫn chẳng lùi bước. Tình huống này ví như Bất Thoái Chuyển Tinh Tấn.
5) Khi giao chiến, đạt được thắng lợi nhỏ nhặt, chớ nên hoan hỷ cho là đủ, phải đạt được thắng lợi hoàn toàn thì mới có thể hoan hỷ, thỏa mãn. Tình huống này ví như Bất Hỷ Túc Tinh Tấn.
Kinh Tạp A Hàm nói: Tinh Tấn chính là Tinh Tấn Căn trong Ngũ Căn, nội dung của nó là: “Pháp ác bất thiện đã sanh thì khiến cho nó đoạn dứt, tăng trưởng phương tiện, nhiếp tâm, tăng tấn. Pháp ác bất thiện chưa sanh thì chẳng để cho nó dấy lên, tăng trưởng phương tiện, nhiếp tâm, tăng tấn. Thiện pháp chưa sanh thì phải làm cho nó dấy lên, tăng trưởng phương tiện, nhiếp tâm, tăng tấn. Thiện pháp đã sanh thì phải giữ cho nó đừng mất đi, tăng trưởng, phương tiện, nhiếp tâm, tăng tấn”. Hơn nữa, nội dung của Tứ Chánh Cần trong ba mươi bảy Bồ Đề Phần có nội dung tương đồng với Tinh Tấn Căn. Lại nữa, Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận đã có thí dụ thiện xảo về Tứ Chánh Cần5.
Tư duy như thế nào thì mới có thể dẫn phát, sanh khởi Tinh Tấn? Đại Trí Độ Luận nói: “Bồ Tát có ba thứ tư duy: Nếu ta chẳng làm, sẽ chẳng đạt được quả báo. Nếu ta chẳng tự làm, sẽ chẳng do ai khác mà có. Nếu ta làm thì sẽ trọn chẳng mất đi. Tư duy như thế, ắt sẽ tinh tấn. Vì Phật đạo mà siêng tu chuyên ròng, chẳng buông lung”. Đấy chính là giống như nói: “Ai ăn cơm người ấy no, sanh tử của ai, người ấy tự giải quyết”. Tu học Phật pháp, chính mình phải tự tinh tấn tu học, chẳng ai khác có thể thay thế. Hơn nữa, tạo tác thiện nghiệp, sức thiện nghiệp nhất định chẳng bị mất đi, nhân duyên tụ hợp, sẽ cảm quả báo phước lạc!
1.1.2.4.2.1.3.8. Khinh An
(Luận) Vân hà Khinh An? Vị thô trọng đối trị, thân tâm điều sướng, kham năng vi tánh, vị năng khí xả thập bất thiện hạnh, trừ chướng vi nghiệp. Do thử lực cố, trừ nhất thiết chướng, chuyển xả thô trọng.
(論)云何輕安?謂麁重對治。身心調暢。堪能為性。謂能棄捨十不善行。除障為業。由此力故。除一切障。轉捨麁重。
(Luận: Khinh An là như thế nào? Chính là đối trị sự thô tháp, nặng nề, có tánh chất có thể làm cho thân tâm điều hòa, thông thuận, có thể kham [đoạn ác, tu thiện]. Tức là có nghiệp dụng có thể vứt bỏ mười hạnh bất thiện, trừ chướng. Do sức ấy, trừ hết thảy các chướng, chuyển bỏ thô nặng).
Khinh An: Lìa bỏ thô nặng là Khinh (nhẹ nhàng). Thân tâm điều hòa, thông thuận là An. Khinh An là pháp thuộc Sắc Giới Định trở lên, có thể đối trị “thô trọng”, [tức là] tiêu trừ chướng ngại, khổ não nơi thân tâm, khiến cho thân tâm an hòa, bình lặng, thoải mái.
Thể tánh của Khinh An là “thân tâm điều sướng, kham năng vi tánh”, [ý nói] thân lẫn tâm đều rất điều hòa, thoải mái, có thể đảm nhiệm mạnh mẽ chuyện đoạn ác, tu thiện, tức là “năng khí xả thập bất thiện hạnh” (có thể vứt bỏ mười hạnh bất thiện) v.v… Nghiệp dụng của Khinh An là “trừ chướng vi nghiệp. Do thử lực cố, trừ nhất thiết chướng, chuyển xả thô trọng” (có nghiệp dụng trừ chướng. Do sức ấy, trừ hết thảy các chướng, chuyển bỏ thô, nặng), [nghĩa là] có thể tiêu trừ hết thảy chướng ngại nơi thân và tâm, chuyển bỏ thô nặng, đạt được Khinh An. Như từ thân tâm Dục Giới chuyển thành thân tâm thuộc Sắc Giới. Mười hạnh bất thiện là chướng ngại cho sự tu Định, là pháp thuộc về Dục Giới. Thật ra, tu Định phải điều phục mười hạnh bất thiện, hoặc điều phục Ngũ Cái, tức “tham, sân, điệu cử ác tác, hôn trầm thùy miên, nghi” thì mới dẫn khởi phát sanh Khinh An. Sau khi đã dẫn phát Khinh An, thân tâm an hòa, bình lặng, thoải mái. Lại còn có thể đảm nhiệm dễ dàng chuyện điều phục mười hạnh bất thiện và Ngũ Cái.
Khinh An có thể chia thành thân Khinh An và tâm Khinh An. Trong tạng luận Bắc Truyền, Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ6 chủ trương: Thân Khinh An là sự Khinh An tương ứng với năm Thức trước (Nhãn Thức, Nhĩ Thức v.v…); tâm Khinh An là sự Khinh An tương ứng với Thức thứ sáu. Luận Nam Truyền nói: “Tướng trạng đặc trưng của thân Khinh An là khiến cho Tâm Sở bình lặng. Tướng trạng đặc trưng của tâm Khinh An là khiến cho Tâm Vương bình lặng”. Ở đây, [chúng tôi giảng giải] chiếu theo chủ trương của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ. Nếu nghiên cứu thâm nhập, [sẽ thấy] Khinh An là pháp từ Sắc Giới Định trở lên, vì sao có thể tương ứng với năm Thức trước? Có giáo nghĩa chủ trương: Vì là điều thiện dẫn khởi bởi Định, cũng có sự điều hòa, thanh thản, cho nên năm Thức cũng tương ứng với Khinh An. Hơn nữa, Khinh An có thể chia thành Vô Lậu Khinh An và Hữu Lậu Khinh An. Vô Lậu Khinh An là Khinh An tương ứng với Vô Lậu Trí, trừ bỏ Hữu Lậu thô nặng. Vì thô nặng có cả ba tánh, cho nên thiện pháp hữu lậu trong Dục Giới cũng có thể là thô nặng. Hữu Lậu Khinh An là tạm thời hàng phục sự thô nặng của phiền não.
“Thô nặng” có hai loại:
– Một là chủng tử của Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng, vì tánh của chúng [khiến cho chúng sanh] chẳng thể chịu đựng được, nên gọi là “thô nặng”.
– Hai là chủng tử của hai thứ chướng ấy dẫn khởi khiến cho thân tâm hôn trầm, tối tăm, nặng nề, chẳng thể an hòa, mang tánh chất chẳng thể chịu đựng được, nên cũng gọi là “thô nặng”.
“Thô nặng” và Ngũ Uẩn là “chẳng một, chẳng khác”. “Thô nặng” chẳng phải là Ngũ Uẩn, mà cũng chẳng tồn tại độc lập lìa khỏi Ngũ Uẩn được. “Thô nặng” được nói ở đây chính là loại thứ hai.
Đối ứng với thân Khinh An và tâm Khinh An, thô nặng cũng có thể chia thành thân thô nặng và tâm thô nặng. Nguyên nhân nào sanh khởi thân thô nặng và tâm thô nặng? Làm thế nào để dứt trừ thân thô nặng và tâm thô nặng? Nếu vì thân thể quá mệt mỏi, dẫn phát thân tâm thô nặng, thì hãy thay đổi tư thế của thân thể, hoặc nghỉ ngơi, sự thô nặng nơi thân tâm sẽ chấm dứt. Nhưng điều này chẳng phải là biểu lộ sự Khinh An nơi thân tâm, vì Khinh An là pháp thuộc về thượng giới. Nếu vì tìm cầu, xét đoán quá mức, vọng tưởng tơi bời, dẫn đến sự thô nặng nơi thân tâm, hãy tu Chỉ, tâm chuyên chú nơi một cảnh, sự thô nặng nơi thân tâm sẽ chấm dứt. Nếu vì tâm lực kém cỏi mà hôn trầm, buồn ngủ vấn vít, quấy nhiễu, dẫn đến sự thô nặng nơi thân tâm, hãy tư duy pháp nghĩa, hoặc tư duy công đức của Tam Bảo v.v… sự thô nặng nơi thân tâm sẽ chấm dứt. Nếu vì chẳng hàng phục hoặc đoạn trừ phiền não, mà chưa thể xả lìa sự thô nặng nơi thân tâm, hãy nên tiếp tục siêng tu Bát Chánh Đạo, hàng phục phiền não, cho đến đoạn trừ phiền não, sự thô nặng nơi thân tâm sẽ tạm thời ngưng dứt hoặc rốt ráo lìa bỏ.
Thành Duy Thức Luận đã thuyết minh về Khinh An như sau: “An vị Khinh An, viễn ly thô trọng, điều sướng thân tâm, kham nhậm vi tánh. Đối trị hôn trầm, chuyển y vi nghiệp. Vị thử phục trừ năng chướng Định pháp, linh sở y chỉ chuyển an thích cố” (An là nói tới sự yên vui nhẹ nhàng, xa lìa sự thô nặng, khiến cho thân tâm điều hòa, thoải mái, có tánh kham nhậm7. Nghiệp dụng của nó là đối trị hôn trầm, chuyển y (chuyển đổi sự nương cậy vào các pháp gây nên thô nặng nơi thân và tâm), tức là chế phục, trừ khử các pháp có thể gây chướng ngại cho Định, khiến cho cảnh mà ta nương tựa vào sẽ chuyển thành an vui, thích nghi). Ý nghĩa về thể tánh của Khinh An [như đã nói trong Thành Duy Thức Luận] tương đồng với luận này. “Xa lìa thô nặng” chính là hàng phục, diệt trừ các pháp gây chướng ngại cho Định. Hữu Lậu Khinh An là hàng phục pháp gây chướng ngại cho Định. Vô Lậu Khinh An là diệt trừ pháp gây chướng ngại cho Định. Nghiệp dụng của Khinh An [theo Thành Duy Thức Luận] là “đối trị hôn trầm, chuyển y vi nghiệp” (có nghiệp dụng đối trị hôn trầm, chuyển đổi sự nương cậy vào pháp thô nặng trong thân tâm), còn luận này thì là “trừ hết thảy các chướng, chuyển bỏ thô nặng”. Trừ hết thảy các chướng là nói theo thông chướng (chướng ngại tổng quát). Đối trị hôn trầm chính là nói theo biệt chướng (chướng ngại riêng biệt), vì hôn trầm “khiến cho cái tâm đối với cảnh chẳng có tánh chất kham nhậm”. Do vậy, đấy là chướng ngại chủ yếu cho Khinh An. “Chuyển y” (轉依) là chuyển bỏ chỗ nương cậy của sự thô nặng nơi thân tâm, chuyển biến thân tâm thành an hòa, bình lặng, thoải mái, nhưng đấy chẳng phải là ý nghĩa “chuyển y” hòng thành tựu Phật quả. Ý nghĩa của Hôn Trầm sẽ được nói rõ trong phần Tùy Phiền Não.
1.1.2.4.2.1.3.9. Bất Phóng Dật
(Luận) Vân hà Bất Phóng Dật? Vị phóng dật đối trị, y chỉ Vô Tham nãi chí Tinh Tấn, xả chư bất thiện, tu bỉ đối trị chư thiện pháp cố. Vị tham, sân, si, cập dĩ giải đãi, danh vi Phóng Dật. Đối trị bỉ cố, thị Bất Phóng Dật. Vị y Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Tinh Tấn tứ pháp, đối trị bất thiện pháp, tu tập thiện pháp cố. Thế, xuất thế gian chánh hạnh sở y vi nghiệp.
(論)云何不放逸?謂放逸對治。依止無貪。乃至精進。捨諸不善。修彼對治諸善法故。謂貪瞋癡。及以懈怠。名為放逸。對治彼故。是不放逸。謂依無貪.無瞋.無癡.精進四法。對治不善法。修習善法故。世出世間正行所依為業。
(Luận: Bất Phóng Dật là như thế nào? Chính là để đối trị Phóng Dật (buông lung). Nương cậy từ Vô Tham cho đến Tinh Tấn để bỏ các điều bất thiện. Tu các pháp thiện pháp để đối trị điều ấy, có nghĩa là tham, sân, si cùng với giải đãi được gọi là Phóng Dật. Cái để đối trị điều ấy chính là Bất Phóng Dật, tức là nương vào bốn pháp Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Tinh Tấn để đối trị pháp bất thiện, tu tập thiện pháp. Nghiệp dụng của nó làm chỗ nương tựa cho các chánh hạnh thế gian và xuất thế gian).
Thể tánh của Bất Phóng Dật là pháp giả hữu, tức là nương cậy vào bốn pháp Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Tinh Tấn mà giả lập. “Đối trị bất thiện pháp, tu tập thiện pháp”. Như Vô Tham đối trị Tham, Vô Sân đối trị Sân, Vô Si đối trị Si, Tinh Tấn đối trị Giải Đãi. Nghiệp dụng của Bất Phóng Dật là “thế, xuất thế gian chánh hạnh sở y vi nghiệp” (có nghiệp dụng làm chỗ nương tựa cho các chánh hạnh thế gian và xuất thế gian), nó có thể thành tựu các chánh hạnh thế gian và xuất thế gian. Thiện pháp thế gian như cứu tế kẻ bần cùng, thương xót, giúp đỡ cô nhi v.v… Thiện pháp xuất thế gian như tu hành đạo giải thoát, đạt đến mục tiêu giải thoát sanh tử, hoặc tu hành Bồ Tát đạo, nhằm đạt đến mục tiêu thành Phật đạo viên mãn.
Thành Duy Thức Luận đã thuyết minh về Bất Phóng Dật như sau: “Bất Phóng Dật giả, Tinh Tấn, tam căn, ư sở đoạn tu, phòng tu vi tánh; đối trị Phóng Dật, thành mãn nhất thiết thế, xuất thế gian thiện sự vi nghiệp” (Bất Phóng Dật là Tinh Tấn ba căn, đối với sự tu tập nhằm đoạn trừ, nó có tánh chất tu tập để ngăn ngừa. Nghiệp dụng của nó là đối trị Phóng Dật, thành tựu viên mãn hết thảy các thiện sự thế gian và xuất thế gian). Thể tánh của Bất Phóng Dật là nương vào Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Tinh Tấn, ngăn ngừa các ác pháp đáng nên đoạn trừ, tu hành các thiện pháp đáng nên tu. Nghiệp dụng của Bất Phóng Dật là có thể đối trị Phóng Dật, thành tựu viên mãn hết thảy các thiện sự thế gian và xuất thế gian. Ý nghĩa của Phóng Dật sẽ được nói rõ trong phần Tùy Phiền Não.
Vì sao Bất Phóng Dật nương cậy bốn pháp Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, và Tinh Tấn, mà chẳng nương theo sáu thứ Thiện Tâm Sở như Tín v.v…? Vì Vô Tham, Vô Sân, Vô Si là ba thiện căn, là căn bản của hết thảy các thiện pháp. Tinh Tấn là sách tấn trọn khắp hãy đoạn ác tu thiện, thế lực và tác dụng của nó mạnh mẽ, vượt trỗi. Sáu thứ Thiện Tâm Sở như Tín v.v… chẳng phải là thiện căn và sách tấn trọn khắp, thế lực và tác dụng của chúng nó yếu ớt, cho nên chẳng phải là pháp để y chỉ của Bất Phóng Dật.
Kinh Tạp A Hàm nói: “Chủng chủng thiện pháp, giai y Bất Phóng Dật vi bổn” (Các thứ thiện pháp, đều dựa trên Bất Phóng Dật làm gốc). Du Già Sư Địa Luận lại nói năm thứ Bất Phóng Dật, biểu thị: Muốn đạt được tài vật và danh dự thế gian, đều cần đến Bất Phóng Dật, huống hồ tu học Phật pháp! Hơn nữa, đức Phật cũng y chỉ Bất Phóng Dật mà thành tựu Phật quả. Do vậy có thể thấy rằng: Bất luận tu thiện pháp thế gian, hoặc tu thiện pháp xuất thế gian, Bất Phóng Dật đều rất trọng yếu.
Đại Trí Độ Luận dùng thí dụ “đi xa” để nói rõ sự sai biệt và mối quan hệ giữa Dục, Tinh Tấn, và Bất Phóng Dật. Dục là động cơ (motivation) đi xa, Tinh Tấn là bắt đầu đi xa, chẳng ngưng nghỉ. Bất Phóng Dật là không ngừng sách tấn, khích lệ chính mình đạt tới mục đích của chuyến đi xa, chẳng bị những chuyện khác làm chậm trễ, ngăn trở. Mối quan hệ giữa ba thứ ấy là nương theo Dục mà tinh tấn, nương theo Tinh Tấn bèn Bất Phóng Dật, nương vào Bất Phóng Dật mà sanh khởi các thiện pháp, cho đến thành tựu Phật đạo.
1.1.2.4.2.1.3.10. Xả
(Luận) Vân hà Xả? Vị y như thị Vô Tham, Vô Sân, nãi chí Tinh Tấn, hoạch đắc tâm bình đẳng tánh, tâm chánh trực tánh, tâm vô công dụng tánh. Hựu phục do thử, ly chư tạp nhiễm pháp, an trụ thanh tịnh pháp. Vị y Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Tinh Tấn tánh cố, hoặc thời viễn ly hôn trầm, điệu cử chư quá thất cố, sơ đắc tâm bình đẳng. Hoặc thời nhậm vận vô miễn lệ cố, thứ đắc tâm chánh trực, hoặc thời viễn ly chư tạp nhiễm cố, tối hậu hoạch đắc tâm vô công dụng, nghiệp như Bất Phóng Dật thuyết.
(論)云何捨?謂依如是無貪。無瞋。乃至精進。獲得心平等性。心正直性。心無功用性。又復由此。離諸雜染法。安住清淨法。謂依無貪。無瞋無癡。精進性故。或時遠離昏沈掉舉諸過失故。初得心平等。或時任運無勉勵故。次得心正直。或時遠離諸雜染故。最後獲得心無功用。業如不放逸說。
(Luận: Xả là như thế nào? Tức là nương vào Vô Tham, Vô Sân, cho dến Tinh Tấn như thế mà đạt được tâm bình đẳng tánh, tâm chánh trực tánh, tâm vô công dụng tánh. Lại còn do điều này mà lìa khỏi các pháp tạp nhiễm, an trụ nơi pháp thanh tịnh. Tức là do nương vào tánh của Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Tinh Tấn, mà có lúc xa lìa các lầm lỗi như hôn trầm, điệu cử v.v… thoạt đầu đã đạt được cái tâm bình đẳng. Hoặc có lúc tùy ý chẳng cần phải đốc thúc, khích lệ, kế đó là đạt được cái tâm chánh trực. Hoặc có lúc vì xa lìa các tạp nhiễm mà cuối cùng đạt được tâm vô công dụng. Nghiệp dụng của nó thì như đã nói trong phần Bất Phóng Dật).
Xả thuộc về Hành Uẩn. Vì để phân biệt với Xả Thọ trong Thọ Uẩn, nên lại gọi là Hành Xả. Thể tánh của Hành Xả là pháp giả hữu, “y như thị Vô Tham, Vô Sân, nãi chí Tinh Tấn, hoạch đắc tâm bình đẳng tánh, tâm chánh trực tánh, tâm vô công dụng tánh”, tức là nương vào bốn pháp Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, và Tinh Tấn, mà có thể đạt được tâm bình đẳng tánh, tâm chánh trực tánh, tâm vô công dụng tánh. Nghiệp dụng của Hành Xả là “nghiệp như Bất Phóng Dật thuyết” (nghiệp dụng như trong phần Bất Phóng Dật đã nói), [tức là] có thể thành tựu chánh hạnh thế gian và xuất thế gian.
“Tâm bình đẳng tánh, tâm chất trực tánh, tâm vô công dụng tánh” của Hành Xả thì trong phần Xả Giác Chi của Thất Giác Chi, và Xả trong “xả niệm thanh tịnh” của Đệ Tứ Thiền, và Xả Vô Lượng Tâm trong Tứ Vô Lượng tâm cũng đều có nhắc đến.
Tâm bình đẳng tánh “y Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Tinh Tấn tánh cố, hoặc thời viễn ly hôn trầm, điệu cử chư quá thất cố, sơ đắc tâm bình đẳng” (do nương vào tánh Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, và Tinh Tấn, mà có lúc xa lìa các lầm lỗi hôn trầm, điệu cử, thoạt đầu đạt được cái tâm bình đẳng). Tâm của mọi người bất bình đẳng, nếu chẳng phải là hướng thượng, suy nghĩ loạn xạ, sẽ là hướng xuống dưới mà chìm đắm, uể oải, chẳng phấn chấn. Ngược lại, tâm an trụ nơi Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, nỗ lực đoạn ác, tu thiện, “ly chư tạp nhiễm pháp, an trụ thanh tịnh pháp”, (lìa các pháp tạp nhiễm, ở yên trong pháp thanh tịnh), khiến cho cái tâm chẳng lao chao, chẳng hôn trầm, tâm bèn bình đẳng. Nhưng có lúc vẫn có hôn trầm, điệu cử, chẳng thể liên tục duy trì trạng thái tâm bình đẳng.
Tâm “chánh trực tánh”: “Hoặc thời nhậm vận vô miễn lệ cố, thứ đắc tâm chánh trực” [ý nói]: Liên tục an trụ nơi ba thiện căn, nỗ lực đoạn ác, tu thiện, vì xa lìa pháp tạp nhiễm, mà gia công dụng hạnh. Công phu đã luyện thuần, sẽ có thể tùy ý thuận theo thói quen, tự nhiên mà hành xử, giống như đã tập quen bèn trở thành tự nhiên, chẳng cần phải gắng sức nữa mà có thể duy trì liên tục trạng thái tâm bình đẳng.
Tâm vô công dụng tánh, “hoặc thời viễn ly chư tạp nhiễm cố, tối hậu hoạch đắc tâm vô công dụng” (hoặc có lúc do xa lìa các tạp nhiễm, cuối cùng đạt được tâm vô công dụng): Liên tục an trụ trong ba thiện căn, nỗ lực đoạn ác tu thiện, công phu càng thuần thục, chẳng cần phải cố ý gia công dụng hạnh, mà có thể xa lìa các pháp tạp nhiễm vi tế, chẳng phải lo âu, khiếp sợ, liên tục gìn giữ trạng thái tâm bình đẳng.
Thành Duy Thức Luận thuyết minh về Hành Xả như sau: “Vân hà Hành Xả? Tinh Tấn, tam căn, linh tâm bình đẳng, chánh trực, vô công dụng trụ vi tánh, đối trị điệu cử, tĩnh trụ vi nghiệp” (Hành Xả là như thế nào? Ba căn như Tinh Tấn có tánh chất khiến cho cái tâm bình đẳng, chánh trực, vô công dụng trụ. Nó có nghiệp dụng đối trị điệu cử, trụ nơi tịch tĩnh). Ý nghĩa về thể tánh của Hành Xả [trong bộ luận ấy] tương đồng với bộ luận này. Nghiệp dụng của Hành Xả là nhằm đối trị điệu cử, an trụ tịch tĩnh. Thật ra, Hành Xả có thể đối trị hết thảy các pháp gây chướng ngại, vì điệu cử là “tùy ức niệm hỷ lạc đẳng sự, tâm bất tịch tĩnh vi tánh” (có đặc tánh do nhớ nghĩ chuyện mừng, vui v.v… mà tâm chẳng tịch tĩnh); đấy là chướng ngại chánh yếu trong việc an trụ nơi tịch tĩnh. Vì thế, ước theo sự chướng ngại chủ yếu mà nói là “đối trị điệu cử”. Ý nghĩa của điệu cử sẽ được nói rõ trong phần Tùy Phiền Não.
Dựa theo quá trình tu Định mà thuyết minh ba giai đoạn sơ, trung, hậu của Hành Xả:
1) Bắt đầu tu Định, khéo léo điều phục điệu cử và hôn trầm, tâm chuyên chú nơi một cảnh, đạt đến trạng thái bình đẳng “chẳng hôn trầm, chẳng điệu cử”, nhưng chẳng thể một mực duy trì liên tục. Đấy là giai đoạn “tâm bình đẳng tánh”.
2) Có khi còn có pháp tạp nhiễm vi tế khiến cho tâm lao chao, hôn trầm. Do vậy, phải gia công dụng hạnh tu Định thì mới có thể duy trì liên tục trạng thái bình đẳng của cái tâm. Đấy là giai đoạn “tâm chánh trực tánh”.
3) Khi tu Định đến mức thuần thục, chẳng cần phải cố ý gia công dụng hạnh, tự nhiên sẽ chuyên chú một cảnh, liên tục duy trì trạng thái bình đẳng của cái tâm. Đấy là giai đoạn “tâm vô công dụng tánh”.
Ví như quá trình luyện tập cưỡi ngựa, cũng có ba giai đoạn:
1) Bắt đầu luyện tập cưỡi ngựa, ngựa tùy ý chạy lung tung. Khi ngựa chạy lệch sang bên trái, người cưỡi ngựa phải kéo nó sang bên phải. Khi nó chạy lệch sang bên phải, người cưỡi ngựa phải kéo nó sang bên phải. Dần dà, ngựa sẽ chẳng chạy lệch sang bên trái hay bên phải nữa, nó sẽ chạy chính giữa con đường.
2) Có lúc người cưỡi ngựa chẳng chuyên chú, ngựa vẫn có thể chạy lệch sang trái, hay chạy lệch sang phải, [người cưỡi ngựa] phải cố ý gia công dụng hạnh. Sau khi nỗ lực luyện tập, ngựa sẽ có thể liên tục duy trì trạng thái chạy giữa đường.
3) Khi luyện tập đến mức thuần thục, chẳng cần phải cố ý gia công dụng hạnh, ngựa sẽ liên tục chạy chính giữa con đường.
1.1.2.4.2.1.3.11. Bất Hại
(Luận) Vân hà Bất Hại? Vị Hại đối trị, dĩ Bi vi tánh. Vị do Bi cố, bất hại quần sanh, thị vô sân phần, bất tổn não vi nghiệp.
(論)云何不害?謂害對治。以悲為性。謂由悲故。不害群生。是無瞋分。不損惱為業。
(Luận: Bất Hại là như thế nào? Tức là đối trị Hại, có tánh chất của lòng Bi, nghĩa là do lòng Bi mà chẳng hại quần sanh, tức là chẳng có lòng sân. Nghiệp dụng là chẳng tổn thương, chẳng khiến cho người khác phiền não).
Thể tánh của Bất Hại là pháp giả hữu, tức là một phần của Vô Sân, có thể đối trị Hại. “Dĩ Bi vi tánh” (Lấy lòng Bi làm tánh) tức là bi mẫn chúng sanh, chẳng làm tổn thương, gây hại cho chúng sanh. Nghiệp dụng của Bất Hại là “bất tổn não vi nghiệp”, tức là chẳng tổn hại, não loạn chúng sanh. Ý nghĩa của Hại sẽ được nói rõ trong phần Tùy Phiền Não.
Thành Duy Thức Luận thuyết minh Bất Hại như sau: “Vân hà Bất Hại? Ư chư hữu tình, bất vi tổn não, vô sân vi tánh, năng đối trị Hại, bi mẫn vi nghiệp” (Bất Hại là như thế nào? Có tánh chất đối với các hữu tình, chẳng làm tổn thương, não hại, chẳng sân. Có nghiệp dụng là bi mẫn). Ý nghĩa Bất Hại [trong bộ luận ấy] tương đồng với luận này.
Bất Hại đã là một phần của Vô Sân, vì sao còn phải đặt riêng thành một pháp? Nương theo Vô Sân, đối với hữu tình, chẳng làm chuyện tổn thương, não hại, nên bèn lập ra Bất Hại. Vô Sân là đối ứng với lòng Sân “đoạn trừ sanh mạng của hữu tình”. Bất Hại nhằm đối ứng với sự gây hại gây tổn thương, não hại hữu tình. Vô Sân là ban sự an vui cho hữu tình, tức là Từ. Bất Hại là trừ khổ não cho hữu tình, tức là Bi. Đấy là tướng trạng sai biệt về phần thô giữa Vô Sân và Bất Hại. Do đối với chuyện lợi lạc hữu tình, Từ và Bi có công dụng thù thắng. Vì thế, nhằm hiển thị hành tướng sai biệt của Từ và Bi mà lập riêng một món là Bất Hại.
1.1.2.4.2.1.4. Căn Bản Phiền Não Tâm Sở (chia làm bảy phần)
1.1.2.4.2.1.4.1. Tham
(Luận) Vân hà Tham? Vị ư Ngũ Thủ Uẩn, nhiễm ái, đam trước vi tánh. Vị thử triền phược, luân hồi tam giới, sanh Khổ vi nghiệp. Do ái lực cố, sanh Ngũ Thủ Uẩn.
(論)云何貪?謂於五取蘊。染愛耽著為性。謂此纏縛。輪迴三界。生苦為業。由愛力故。生五取蘊。
(Luận: Tham là như thế nào? Chính là đối với Ngũ Thủ Uẩn, có tánh chất nhiễm ái, đắm chấp. Nghĩa là do sự trói buộc ấy mà luân hồi trong tam giới. [Tham] có nghiệp dụng sanh ra Khổ. Do vì sức ái mà sanh ra Ngũ Thủ Uẩn).
Vì sao những thứ như Tham v.v… được gọi là phiền não? Vì những thứ như Tham v.v… khiến cho tâm phiền rộn, não loạn. Phiền não là căn bản của sự lưu chuyển trong sanh tử. Vì thế, tu học Phật pháp mà muốn giải thoát sanh tử, phải đoạn trừ phiền não. Tục ngữ nói: “Tri kỷ, tri bỉ, bách chiến, bách thắng” (Biết người, biết ta, trăm trận trăm thắng). Muốn chiến thắng ma quân phiền não thì phải biết thể tánh và nghiệp dụng của phiền não. Nếu không, phiền não sanh khởi, chính mình chẳng biết địch nhân là ai, còn lầm tưởng nó là bằng hữu!
Trong phiền não, có sáu món Căn Bản Phiền Não, tức là căn bản của hết thảy các phiền não, chính là Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, và Bất Chánh Kiến. Bất Chánh Kiến lại bao gồm năm thứ Kiến; do vậy, gọi là “thập chủng Căn Bản Phiền Não” (mười loại Căn Bản Phiền Não).
Điều kiện để sanh khởi phiền não, chủ yếu có ba loại:
1) Chủng tử của phiền não là Nhân Duyên.
2) Cảnh giới của phiền não là Sở Duyên Duyên8.
3) Tư duy chẳng đúng lý là Tăng Thượng Duyên.
Hàng phục hoặc diệt trừ phiền não, chủ yếu là chuyển những tư duy chẳng đúng lý thành tư duy đúng lý. Tư duy “các hành vô thường, hữu lậu đều khổ, các pháp vô ngã”, hoặc “quán thân bất tịnh, quán Thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã” thì là tư duy đúng lý. Kế đó, phải xa lìa những cảnh nếu duyên theo sẽ dễ sanh khởi phiền não. Kế đó, phải xa lìa những cảnh được duyên [nếu những cảnh ấy] dễ dàng sanh khởi phiền não, trước hết là có thể xa lìa cảnh sở duyên thuộc Ngũ Câu Ý Thức9 (Ảnh Tượng Tướng Phần), tức là Ngũ Căn như Nhãn Căn v.v… chẳng duyên chấp những cảnh dễ sanh khởi phiền não (Bản Chất Tướng Phần) thuộc Ngũ Cảnh như Sắc cảnh v.v… Tiến hơn bước nữa là có thể xa lìa cảnh được duyên bởi Độc Đầu Ý Thức10, tức là Ý Căn chẳng duyên chấp những pháp cảnh dễ sanh khởi phiền não.
Thể tánh của Tham “ư Ngũ Thủ Uẩn, ái nhiễm, đam trước vi tánh” (có tánh chất ái nhiễm, đắm chấp đối với Ngũ Thủ Uẩn), [nghĩa là] chủ yếu đối với Ngũ Thủ Uẩn của chính mình hoặc của những hữu tình khác mà ái nhiễm hoặc đắm chấp. Nói rộng hơn, sẽ bao gồm cả sự ái nhiễm, đắm chấp với vô tình (Sắc pháp). Nghiệp dụng của Tham là “sanh khổ vi nghiệp” (có nghiệp dụng sanh ra Khổ), tức là “do ái lực cố, sanh Ngũ Thủ Uẩn” (do sức của Ái mà sanh ra Ngũ Thủ Uẩn). Do vì tham ái mà tạo nghiệp hữu lậu. Lại do tham ái làm trợ duyên, bồi đắp thêm nghiệp lực mà sanh khởi khổ quả Ngũ Thủ Uẩn cho đời sau.
Thành Duy Thức Luận đã thuyết minh Tham như sau: “Vân hà vi Tham? Ư Hữu, Hữu cụ, nhiễm trước vi tánh. Năng chướng Vô Tham, sanh khổ vi nghiệp” (Tham là như thế nào? Có tánh chất đắm nhiễm đối với Hữu và những thứ cần dùng cho cuộc sống trong các Hữu. Nó có nghiệp dụng chướng ngại Vô Tham, sanh ra khổ). Thể tánh của Tham là đối với Tam Hữu (tam giới) và những thứ cần dùng cho cuộc sống trong Tam Hữu bèn ái nhiễm, đắm chấp. Nghiệp dụng của Tham là có thể chướng ngại Vô Tham, sanh khởi khổ quả.
Ngũ Thủ Uẩn là gì? Ngũ Uẩn là Sắc Uẩn, Thọ Uẩn, Tưởng Uẩn, Hành Uẩn, và Thức Uẩn. “Thủ” (取) là nắm giữ; đó là tên gọi khác của phiền não. Chúng sanh chấp giữ Ngũ Uẩn trong đời hiện tại, sanh khởi phiền não, tạo nghiệp hữu lậu, chiêu cảm Ngũ Uẩn cho đời sau. Ngũ Uẩn của bậc thánh nhân đã chứng đắc Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả, vẫn gọi là Ngũ Thủ Uẩn. Thánh giả A La Hán đoạn trừ Kiến Hoặc và Tư Hoặc, sẽ chẳng chấp giữ Ngũ Uẩn. Vì thế, Ngũ Uẩn của các Ngài chẳng gọi là Ngũ Thủ Uẩn.
“Ái nhiễm” là chúng sanh yêu đắm Ngũ Thủ Uẩn của chính mình, tột bậc khó lìa bỏ, giống như vải trắng sau khi đã nhuộm màu, sẽ cực khó loại bỏ [màu đã nhuộm] được. “Đắm chấp” tức là chúng sanh đắm luyến, dính chặt Ngũ Thủ Uẩn, nắm chặt chẳng bỏ!
Hữu tình trong Dục Giới thường đắm nhiễm Ngũ Cảnh, tức Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc vi diệu, hoặc đắm nhiễm tiền tài, quyền lực địa vị, hoặc đắm nhiễm tình dục nam nữ, ăn uống, ngủ nghê v.v… Những thứ tham ái ấy còn dễ xa lìa, diệt trừ. Tham ái đắm nhiễm Ngũ Thủ Uẩn của chính mình cực khó xa lìa, diệt trừ.
“Vị thử triền phược, luân hồi tam giới” (Ý nói do sự trói buộc ấy mà luân hồi trong tam giới). Chúng sanh vì bị tham ái trói buộc, mà sanh tử luân hồi trong tam giới. Tham ái giống như sợi dây thừng trói buộc chúng sanh trong tam giới. Chúng sanh hoặc là do làm thiện nghiệp mà sanh lên cõi trời, cõi người, hoặc do tạo ác nghiệp mà đọa lạc trong địa ngục v.v… Chẳng triệt để đoạn trừ tham ái, sẽ chẳng thể vượt thoát tam giới.
Chẳng phải là hễ có tiềm lực (sức mạnh ngấm ngầm) của Tham (tức là chủng tử của Tham) thì sẽ nhất định bị đọa lạc trong ác đạo. Như có những kẻ vì tham danh dự, hoặc vì tiềm lực phước lạc trong đời mai sau mà nỗ lực làm thiện sự bố thí. Trong tình huống ấy, tuy chẳng chứng nghiệm chân lý mà đoạn trừ tham ái, Thức thứ bảy vẫn có đặc tánh hữu phú vô ký, tương ứng với Ngã Si, Ngã Kiến, Ngã Ái, và Ngã Mạn; nhưng khi bố thí, do sáu Thức trước tương ứng với Thiện Tâm Sở (như Vô Tham v.v…); cho nên là thiện nghiệp bố thí. Nếu nhằm lúc lâm chung, nhân duyên đã chín muồi, sẽ chiêu cảm quả báo trong đường trời, người.
Tham chính là Ái. Kinh Tạp A Hàm nói nội dung của Tập Đế là Tam Ái11. Du Già Sư Địa Luận nói nội dung của Tập Đế là Tứ Ái. Tứ Ái chính là Ái, Hậu Hữu Ái, Tham Hỷ Câu Hành Ái, và Bỉ Bỉ Hỷ Lạc Ái. Hai thứ trước là Tự Thể Ái (yêu mến thân tâm của chính mình), hai thứ sau là Cảnh Giới Ái (yêu mến cảnh giới). Tự Thể Ái là tham đắm tự thể của hữu tình do Ngũ Uẩn hòa hợp, lại còn gọi là Ngã Ái. Cảnh Giới Ái là mê đắm các thứ vật chất giúp cho sự sanh tồn của hữu tình, lại còn gọi là Tư Cụ Ái, hoặc Ngã Sở Ái.
Tự Thể Ái và Cảnh Giới Ái chú trọng từ hiện tại cho đến vị lai, khai triển thành bốn thứ Ái. Ý nghĩa của Tứ Ái như sau:
1) Ái là đắm nhiễm tự thể đã có trong hiện tại.
2) Hậu Hữu Ái là đắm nhiễm tự thể sẽ có trong vị lai.
3) Tham Hỷ Câu Hành Ái là đắm nhiễm cảnh giới đã đạt được trong hiện tại.
4) Bỉ Bỉ Hỷ Lạc Ái là đắm nhiễm cảnh giới mà ta hy vọng sẽ đạt được trong vị lai.
Tập Đế là Ái, chính là nguyên nhân của khổ quả sanh tử. Vì thế, muốn giải thoát sanh tử thì phải đoạn trừ Tham Ái. Đoạn trừ Tham Ái như thế nào? Quán chiếu Ngũ Uẩn là “vô thường, khổ, vô ngã”, sẽ có thể triệt để đoạn trừ Tham Ái, giải thoát sanh tử.
1.1.2.4.2.1.4.2. Sân
(Luận) Vân hà Sân? Vị ư quần sanh, tổn hại vi tánh. Trụ bất an ổn, cập ác hạnh sở y vi nghiệp. Bất an ổn giả, vị tổn hại tha, tự trụ khổ cố.
(論)云何瞋?謂於群生。損害為性。住不安隱。及惡行所依為業。不安隱者。謂損害他。自住苦故。
(Luận: Sân là như thế nào? Chính là đối với quần sanh, có tánh chất tổn hại. Nó có nghiệp dụng là trụ trong chẳng an ổn và là chỗ y cứ của ác hạnh. “Chẳng an ổn” là tổn thương, não hại người khác, tự ở trong khổ).
Thể tánh của Sân là “ư quần sanh, tổn hại vi tánh”, [ý nói thể tánh của Sân là] tổn hại chúng sanh. Nghiệp dụng của Sân là “trụ bất an ổn, cập ác hạnh sở y vi nghiệp”, [ý nói] thân tâm trụ nơi chẳng an ổn, và gây tạo các thứ ác hạnh, như mười bất thiện nghiệp v.v… Thành Duy Thức Luận đã thuyết minh về Sân như sau: “Vân hà vi Sân? Ư Khổ, khổ cụ, tăng khuể vi tánh, năng chướng Vô Sân, bất an ổn tánh, ác hạnh sở y vi nghiệp” (Sân là như thế nào? Đối với Khổ, khổ cụ, có tánh chất ghen ghét, nóng giận. Nghiệp dụng của nó là có thể chướng ngại Vô Sân, có tánh chất chẳng an ổn, là chỗ nương tựa của ác hạnh). [Có nghĩa là] thể tánh của Sân là đối với Tam Khổ, cùng những thứ trợ giúp dẫn khởi Tam Khổ phát sanh, hoặc nguyên nhân gây nên Tam Khổ, bèn ôm lòng giận ghét. Nghiệp dụng của nó giống như luận này đã nói. Tội lỗi của Sân rất nghiêm trọng, giữa người và người với nhau bèn gây hại, tổn thương lẫn nhau, cho đến sự tàn sát giữa các quốc gia với nhau, nỗi cừu hận giữa các dân tộc, đều là từ Sân phát triển thành.
“Bất an ổn giả, vị tổn hại tha, tự trụ khổ cố” (“Chẳng an ổn” là tổn thương, não hại người khác, tự ở trong khổ): Đã có Sân, thân tâm bị phiền nhiễu, não loạn, sẽ sử dụng các thứ phương pháp làm tổn thương, gây hại cho chúng sanh, thậm chí tước đoạt sanh mạng của chúng sanh. Khi tổn hại chúng sanh, chính mình cũng bị khổ não.
Trong khi Sân sanh khởi, sẽ đối với người, sự, vật gây nên nỗi khổ não bèn bài xích, tổn hại, hoặc thậm chí hủy diệt. Oán hận đủ dạng đủ cách, bạo lực, chiến tranh v.v… đều từ Sân mà ra. Do vậy, tội lỗi của Sân rất nghiêm trọng. Như kinh Phật Di Giáo đã dạy: “Sân khuể chi hại, năng phá chư thiện pháp, hoại hảo danh văn, kim thế, hậu thế nhân bất hỷ kiến. Đương tri sân tâm thậm ư mãnh hỏa, thường đương phòng hộ, vô linh đắc nhập, kiếp công đức tặc, vô quá sân khuể” (Cái hại của nóng giận là nó có thể phá các pháp lành, hủy hoại tiếng tăm tốt đẹp, đời này, đời sau, người ta chẳng thích thấy [kẻ sân hận]. Hãy nên biết sân tâm còn hơn lửa dữ, hãy nên thường ngăn ngừa, chẳng để nó xâm nhập. Giặc cướp đoạt công đức không gì hơn sân khuể). Cổ đức đã dùng câu “một niệm sân tâm khởi, trăm vạn cửa chướng mở”, hoặc “lửa sân đốt trụi rừng công đức” để cảnh tỉnh, răn nhắc hành giả phải an nhẫn cảnh trái nghịch, đừng nên sân hận.
1.1.2.4.2.1.4.3. Mạn (chia làm hai đoạn)
1.1.2.4.2.1.4.3.1. Nêu chung
(Luận) Vân hà Mạn? Mạn hữu thất chủng, vị Mạn, Quá Mạn, Quá Quá Mạn, Ngã Mạn, Tăng Thượng Mạn, Ty Mạn, Tà Mạn.
(論)云何慢?慢有七種。謂慢.過慢.過過慢.我慢.增上慢.卑慢.邪慢。
(Luận: Mạn là như thế nào? Mạn có bảy thứ, tức là Mạn, Quá Mạn, Quá Quá Mạn, Ngã Mạn, Tăng Thượng Mạn, Ty Mạn, Tà Mạn).
Mạn có thể chia thành bảy loại là Mạn, Quá Mạn, Quá Quá Mạn, Ngã Mạn, Tăng Thượng Mạn, Ty Mạn, và Tà Mạn. Thành Duy Thức Luận đã thuyết minh về Mạn như sau: “Vân hà vi Mạn? Thị kỷ, ư tha cao cử vi tánh, năng chướng Bất Mạn, sanh khổ vi nghiệp” (Mạn là như thế nào? Có tánh chất cậy mình, nâng mình cao hơn người khác; có nghiệp dụng chướng ngại Bất Mạn, sanh ra khổ). Thể tánh của Mạn là cậy vào ưu thế tiền của, quyền lực, địa vị, học thức v.v… của chính mình, đối với các hữu tình khác, nội tâm cao ngạo, khinh rẻ đối phương. Nghiệp dụng của Mạn là có thể chướng ngại Bất Mạn, sanh khởi khổ quả. Nếu đối với chánh pháp và hiền thánh, tâm chẳng khiêm hạ, cứ cao ngạo, khinh rẻ, sẽ đọa lạc trong đường ác, hứng chịu sự khổ cùng cực.
Trong tình huống thông thường, khi Mạn sanh khởi, sẽ tương ứng với sáu Thức trước, có xung đột với người khác v.v… Đấy là tạo tác ác nghiệp. Khi sức ác nghiệp nhân duyên chín muồi, sẽ đọa lạc trong ác đạo. Tình huống đặc thù là vì có sức mạnh tiềm tàng của Ngã Mạn (chủng tử Mạn), mà muốn vượt trỗi sự nghiệp từ thiện do người khác đã làm, bèn nỗ lực làm chuyện từ thiện. Trong tình huống này, tuy chẳng đoạn trừ Ngã Mạn, Thức thứ bảy là hữu phú vô ký tánh, tương ứng với Ngã Si, Ngã Kiến, Ngã Ái, Ngã Mạn, nhưng do sáu Thức trước tương ứng với Thiện Tâm Sở, nên đấy là tạo tác thiện nghiệp. Nếu vào lúc lâm chung, nhân duyên của thiện nghiệp lực chín muồi, sẽ chiêu cảm quả báo trong đường trời, người.
1.1.2.4.2.1.4.3.2. Giải thích riêng biệt từng điều (chia làm bảy đoạn)
1.1.2.4.2.1.4.3.2.1. Mạn
(Luận) Vân hà Mạn? Vị ư liệt, kế kỷ thắng, hoặc ư đẳng, kế kỷ đẳng, như thị tâm cao cử vi tánh.
(論)云何慢?謂於劣。計己勝。或於等。計己等。如是心高舉為性。
(Luận: Mạn là như thế nào? Đối với kẻ kém hơn bèn cho là mình vượt trỗi, đối với kẻ bằng mình bèn cho là họ sánh bằng mình, cái tâm có tánh chất cao ngạo như thế đó).
Thứ nhất là Mạn: “Ư liệt, kế dĩ thắng, hoặc ư đẳng, kế dĩ đẳng, như thị tâm cao cử vi tánh” (Đối với kẻ kém hơn bèn cho là mình vượt trỗi, đối với kẻ bằng mình bèn cho là họ bằng mình, cái tâm có tánh chất cao ngạo như thế đó). Nếu thể lực, của cải v.v… của chính mình vượt trỗi kẻ khác thì gọi là “thắng” (勝), hoặc bằng với người khác thì gọi là “đẳng”. Chẳng bằng người khác thì là “liệt” (劣). “Ư liệt, kế dĩ thắng” nghĩa là đối với kẻ có thể lực v.v… chẳng bằng ta, ta so đo cho là mình vượt trỗi kẻ khác. “Ư đẳng, kế dĩ đẳng”: Đối với kẻ có thể lực v.v… bằng với ta, ta so đo chính mình bằng họ. Trong hai tình huống ấy, nội tâm cao ngạo, khinh rẻ đối phương thì gọi là Mạn.
1.1.2.4.2.1.4.3.2.2. Quá Mạn
(Luận) Vân hà Quá Mạn? Vị ư đẳng, kế kỷ thắng, hoặc ư thắng, kế kỷ đẳng, như thị tâm cao cử vi tánh.
(論)云何過慢?謂於等。計己勝。或於勝。計己等。如是心高舉為性。
(Luận: Quá Mạn là như thế nào? Nghĩa là đối với kẻ bằng mình, bèn cho là ta vượt trỗi, hoặc đối với kẻ hơn mình, bèn cho là họ bằng ta, cái tâm có tánh chất cao ngạo như thế đó).
Thứ hai là Quá Mạn, “ư đẳng, kế kỷ thắng, hoặc ư thắng, kế kỷ đẳng, như thị tâm cao cử vi tánh” (đối với kẻ bằng mình bèn cho là ta vượt trỗi, hoặc đối với kẻ hơn mình bèn cho là họ bằng ta, cái tâm có tánh chất cao ngạo như thế đó). “Ư đẳng, kế kỷ thắng”: Đối với kẻ có thể lực v.v… bằng ta, ta so đo, cho là chính mình vượt trỗi kẻ đó. “Ư thắng kế kỷ đẳng”: Đối với người có thể lực v.v… vượt trỗi mình, ta so đo, cho rằng chính mình sánh bằng kẻ đó. Trong tình huống ấy, nội tâm cao ngạo, khinh rẻ đối phương, thì là Quá Mạn.
1.1.2.4.2.1.4.3.2.3. Quá Quá Mạn
(Luận) Vân hà Quá Quá Mạn? Vị ư thắng kế kỷ thắng, như thị tâm cao cử vi tánh.
(論)云何過過慢?謂於勝。計己勝。如是心高舉為性。
(Luận: Quá Quá Mạn là như thế nào? Nghĩa là đối với kẻ vượt trỗi mình bèn cho là ta vượt trỗi họ, cái tâm có tánh chất cao ngạo như thế đó).
Thứ ba là Quá Quá Mạn, “ư thắng, kế kỷ thắng, như thị tâm cao cử vi tánh” (đối với kẻ vượt trỗi mình bèn cho là ta vượt trỗi kẻ đó, cái tâm có tánh chất cao ngạo như thế đó). “Ư thắng, kế kỷ thắng” [nghĩa là] đối với kẻ có thể lực v.v… vượt trỗi ta, ta so đo, cho là chính mình vượt trỗi người ta. Trong tình huống ấy, nội tâm cao ngạo, khinh rẻ đối phương, thì là Quá Quá Mạn.
1.1.2.4.2.1.4.3.2.4. Ngã Mạn
(Luận) Vân hà Ngã Mạn? Vị ư Ngũ Thủ Uẩn, tùy kế vi Ngã, hoặc vi Ngã Sở, như thị tâm cao cử vi tánh.
(論)云何我慢?謂於五取蘊。隨計為我。或為我所。如是心高舉為性。
(Luận: Ngã Mạn là như thế nào? Nghĩa là đối với Ngũ Thủ Uẩn bèn tùy tiện so đo, cho nó là Ngã, hoặc là Ngã Sở. Cái tâm có tánh chất cao ngạo như thế đó).
Thứ tư là Ngã Mạn, “ư Ngũ Thủ Uẩn, tùy kế vi Ngã, hoặc vi Ngã Sở, như thị tâm cao cử vi tánh” (đối với Ngũ Thủ Uẩn bèn tùy cơ so đo, cho là Ngã, hoặc là Ngã Sở, cái tâm có tánh chất cao ngạo như thế đó). Cái căn bản nhất của Mạn chính là đắm chấp Ngã. “Tùy” (隨) là tùy cơ, “kế” (計) là so đo, chấp trước. Đối với Ngũ Thủ Uẩn, tùy ý chấp trước một thứ Uẩn là Ngã, như chấp trước Sắc v.v… là Ngã, hoặc là trong Ngũ Uẩn, tùy ý chấp trước một thứ Uẩn là Ngã Sở, như chấp trước Sắc v.v… là Ngã Sở. Trong tình huống ấy, vì Ngã mà sanh khởi Mạn, nội tâm cao ngạo, khinh rẻ đối phương, thì gọi là Ngã Mạn.
Ngã và Ngã Sở có gì khác nhau? Ngã là một thật thể thường hằng, tồn tại độc nhất, cái thuộc về Ngã thì gọi là Ngã Sở. Như kẻ bình phàm cho rằng mắt, tai, mũi, tay, chân, hoặc cảm nhận, quan niệm, ý chí, chủ thể nhận thức v.v… là Ngã. Các nhà triết học hoặc các nhà tôn giáo sau khi tư duy sâu xa, đã hiểu rõ Ngã có ý nghĩa là “thường hằng, chẳng có biến hóa”, nhưng thật ra, Ngũ Uẩn có biến hóa. Vì thế, họ xác nhận mắt v.v… chẳng phải là Ngã. Do vậy, bèn chuyển biến thành chấp trước: Rời khỏi Ngũ Uẩn, ở bên ngoài có một cái Ngã, còn mắt v.v… là Ngã Sở (thuộc về sự sở hữu của Ngã), như mắt của ta cho đến nhận thức của ta! Giả sử tay là ta, khi tay bị chặt đứt, Ngã cũng nên bị diệt mất, nhưng mọi người dẫu tay bị chặt đứt, vẫn cứ chấp trước là có Ngã, có thể thấy tay chẳng phải là Ngã!
Ngoại đạo tại Ấn Độ có rất nhiều chủng loại, có đủ dạng đủ kiểu chấp trước, có kẻ chấp trước toàn bộ Ngũ Uẩn hợp lại là Ngã, hoặc chấp trước một thứ Uẩn là Ngã. Những điều ấy chính là “tức Uẩn kế Ngã” (chấp Uẩn là Ngã). Ngoài ra, có kẻ cho rằng có Ngã ở ngoài, lìa khỏi Ngũ Uẩn, Ngũ Uẩn thuộc về Ngã sở hữu; đấy là “ly Uẩn kế Ngã” (chấp Ngã lìa khỏi Uẩn).
1.1.2.4.2.1.4.3.2.5. Tăng Thượng Mạn
(Luận) Vân hà Tăng Thượng Mạn? Vị vị đắc tăng thượng thù thắng sở chứng chi pháp, vị ngã dĩ đắc. Như thị tâm cao cử vi tánh. Tăng thượng thù thắng sở chứng pháp giả, vị chư thánh quả, cập Tam-ma-địa, Tam-ma-bát-để đẳng. Ư bỉ vị đắc, vị ngã dĩ đắc, nhi tự căng cứ.
(論)云何增上慢?謂未得增上殊勝所證之法。謂我已得。如是心高舉為性。增上殊勝所證法者。謂諸聖果。及三摩地。三摩鉢底等。於彼未得。謂我已得。而自矜倨。
(Luận: Tăng Thượng Mạn là như thế nào? Nghĩa là chưa chứng đắc pháp thù thắng tăng thượng mà nói là ta đã đắc. Cái tâm có tánh chất cao ngạo như thế đó. “Pháp tăng thượng thù thắng được chứng” chính là các thánh quả, và Tam-ma-địa, Tam-ma-bát-để v.v… Chưa đắc những pháp ấy mà nói là ta đã đắc, để rồi tự khoe khoang).
Thứ năm là Tăng Thượng Mạn. “Vị đắc tăng thượng thù thắng sở chứng chi pháp, vị ngã dĩ đắc. Như thị tâm cao cử vi tánh” (Chưa chứng đắc pháp thù thắng tăng thượng mà nói là ta đã đắc. Cái tâm có tánh chất cao ngạo như thế đó). “Tăng thượng thù thắng sở chứng chi pháp” là nói đến “chư thánh quả, cập Tam-ma-địa (Samādhi), Tam-ma-bát-để (Samāpatti) đẳng” (các thánh quả và Tam-ma-địa, Tam-ma-bát-để v.v…) như Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả, Tứ Quả, Duyên Giác, Địa thượng Bồ Tát (hàng Bồ Tát đã chứng đắc từ Sơ Địa trở lên), Phật quả, và Đẳng Trì, Đẳng Chí v.v… Chữ Đẳng (等) là nói [các pháp thù thắng] bao gồm cả thần thông, công đức thù thắng như quán trí v.v… Những công đức ấy rất đặc thù, ưu thắng, vượt trỗi các công đức của kẻ bình phàm. Chính mình chẳng chứng đắc những pháp thù thắng ấy, lại ngộ nhận là đã chứng đắc, nội tâm cao ngạo, khinh rẻ đối phương, thì là Tăng Thượng Mạn.
Tam-ma-địa dịch là Đẳng Trì, [nghĩa là] giữ cho cái tâm bình đẳng, chẳng trồi hụp, chẳng điệu cử (lao chao), chẳng hôn trầm, chẳng hướng ra ngoài tán loạn, chẳng rút vào trong uể oải. Tam-ma-bát-để dịch nghĩa là Đẳng Chí, [nghĩa là] tâm có thể hướng đến cảnh giới bình đẳng, sẽ có các thứ công đức dấy lên hiện hành.
Kẻ Tăng Thượng Mạn vì chính mình chẳng biết thứ tự và địa vị tu chứng, cho nên lầm tưởng là đã chứng đắc cảnh giới thù thắng. Đấy chẳng phải là cố ý dối gạt người khác. Nếu cố ý dối gạt người khác, sẽ phạm trọng tội đại vọng ngữ.
1.1.2.4.2.1.4.3.2.6. Ty Mạn
(Luận) Vân hà Ty Mạn? Vị ư đa phần thù thắng, kế kỷ thiểu phần hạ liệt, như thị tâm cao cử vi tánh.
(論)云何卑慢?謂於多分殊勝。計己少分下劣。如是心高舉為性。
(Luận: Ty Mạn là như thế nào? Nghĩa là đối với nhiều phần thù thắng, so đo chính mình có chút phần kém hèn. Cái tâm có tánh chất cao ngạo như thế đó).
Thứ sáu là Ty Mạn, “ư đa phần thù thắng, kế kỷ thiểu phần hạ liệt, như thị tâm cao cử vi tánh” (đối với nhiều phần thù thắng, so đo chính mình có chút phần kém hèn. Cái tâm có tánh chất cao ngạo như thế đó). Ý nói: Đối với pháp đặc thù ưu thế rộng lớn của người khác, tự so đo chính mình chỉ có chút phần thấp thỏi, kém cỏi hơn. Trong tình huống ấy, nội tâm cao ngạo, khinh rẻ đối phương, đó là Ty Mạn. Như thi cử trong trường học, người khác được chín mươi điểm, ta chỉ được năm mươi điểm, tự biết mình thua kém kẻ khác, nhưng nội tâm vẫn hống hách, ngạo mạn, suy bì: “Tao chỉ thua mày mấy phần mà thôi!” hoặc so đo: “Mày chỉ gặp hên mà thôi, có gì là hay ho!”
1.1.2.4.2.1.4.3.2.7. Tà Mạn
(Luận) Vân hà Tà Mạn? Vị thật vô đức, kế kỷ hữu đức, như thị tâm cao cử vi tánh, bất sanh kính trọng sở y vi nghiệp, vị ư tôn giả, cập hữu đức giả, nhi khởi cứ ngạo, bất sanh sùng trọng.
(論)云何邪慢?謂實無德。計己有德。如是心高舉為性。不生敬重所依為業。謂於尊者。及有德者。而起倨慠。不生崇重。
(Luận: Tà Mạn là như thế nào? Nghĩa là [chính mình] thật sự chẳng có đức, mà cho là chính mình có đức. Cái tâm có tánh chất cao ngạo như thế đó. Nghiệp dụng của nó là làm chỗ y cứ cho việc chẳng sanh lòng kính trọng, tức là đối với bậc đáng tôn trọng, và bậc hữu đức, mà lại dấy lòng ngạo nghễ, chẳng sanh tâm tôn trọng).
Thứ bảy là Tà Mạn, “thật vô đức, kế kỷ hữu đức, như thị tâm cao cử vi tánh” (thật sự chẳng có đức, mà ngỡ chính mình có đức, cái tâm có tánh chất cao ngạo như thế đó). Chính mình căn bản là chẳng có công đức, mà so đo cho rằng chính mình có công đức, nội tâm cao ngạo, khinh rẻ đối phương, đó là Tà Mạn. “Đức” là công đức thiện pháp, như tịnh giới, Thiền Định, thần thông, quán trí, thánh quả v.v… các thứ công đức.
Nói tổng hợp nghiệp dụng của bảy loại Mạn thì là “bất sanh kính trọng sở y” (chúng là cơ sở khiến [cho phàm phu] chẳng sanh lòng kính trọng), “ư tôn giả, cập hữu đức giả, nhi khởi cứ ngạo, bất sanh sùng trọng” (đối với bậc đáng tôn trọng, và bậc hữu đức, mà lại dấy lòng ngạo nghễ, chẳng sanh tâm tôn trọng). Nội tâm của chính mình cao ngạo, ngạo nghễ, tự đại, chẳng thể tôn sùng, cung kính, tôn trọng thánh giả và những vị có đức. “Tôn giả” là thánh giả, “hữu đức giả” là những vị tu hành có công đức tịnh giới, Thiền Định, thần thông, quán trí v.v…
1.1.2.4.2.1.4.4. Vô Minh
(Luận) Vân hà Vô Minh? Vị ư nghiệp, quả, Đế, Bảo, vô trí vi tánh. Thử hữu nhị chủng: Nhất giả, câu sanh, nhị giả, phân biệt. Hựu Dục Giới tham, sân, cập dĩ vô minh, vi tam bất thiện căn. Vị tham bất thiện căn, sân bất thiện căn, si bất thiện căn. Thử phục câu sanh, bất câu sanh, phân biệt sở khởi. Câu sanh giả, vị cầm thú đẳng. Bất câu sanh giả, vị tham tương ứng đẳng. Phân biệt giả, vị chư Kiến tương ứng, dữ hư vọng quyết định, Nghi phiền não sở y vi nghiệp.
(論)云何無明?謂於業果諦寶。無智為性。此有二種。一者俱生。二者分別。又欲界貪瞋。及以無明。為三不善根。謂貪不善根。瞋不善根。癡不善根。此復俱生。不俱生。分別所起。俱生者。謂禽獸等。不俱生者。謂貪相應等。分別者。謂諸見相應與虛妄決定。疑煩惱所依為業。
(Luận: Vô Minh là như thế nào? Chính là có tánh chất vô trí đối với nghiệp, quả, Đế, Bảo. Điều này có hai loại: Một là có từ khi sanh ra (bẩm sanh), hai là phân biệt. Lại trong Dục Giới, tham, sân, cùng với vô minh là ba thứ bất thiện căn, tức là Tham bất thiện căn, Sân bất thiện căn, Si bất thiện căn. Những thứ này lại còn [chia thành ba loại] là có từ khi mới sanh, chẳng phải là có từ khi mới sanh, và do phân biệt mà dấy lên. “Có từ khi mới sanh ra” là nói đến loài cầm thú v.v… “Chẳng phải là có từ khi mới được sanh ra” là nói đến [Vô Minh] tương ứng với Tham v.v… “Phân biệt” là do tương ứng với các Kiến, được quyết định bởi hư vọng. Nghiệp dụng của Vô Minh là làm chỗ nương tựa cho Nghi).
Vô Minh chính là Si, còn gọi là ngu si, chẳng phải là không có Minh. Nó là một loại sức mạnh có thể chướng ngại Minh (sáng suốt). Ngược lại, Minh là Vô Si, nó có một loại sức mạnh có thể đối trị Vô Minh. Thể tánh của Vô Minh, “ư nghiệp, quả, Đế, Bảo, vô trí vi tánh”, tức là đối với Sự và Lý của bốn thứ của nghiệp, quả, Đế, Bảo mà chẳng hiểu rõ chánh xác, kiến giải điên đảo. “Nghiệp” là thiện nghiệp, ác nghiệp v.v… “Quả” là lạc quả, khổ quả do thiện nghiệp, ác nghiệp chiêu cảm, hoặc là các bậc thánh Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả, Tứ Quả. “Đế” là Tứ Đế, tức Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế, và Đạo Đế. “Bảo” là Tam Bảo, tức Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo. Nghiệp dụng của Vô Minh là “dữ hư vọng quyết định, Nghi phiền não sở y vi nghiệp” (nghiệp dụng của nó là làm chỗ y cứ cho những quyết định hư vọng và Nghi phiền não), tức là chỗ y cứ để tạo tác hư vọng phân biệt, quyết định sai lầm, cũng như là chỗ y cứ của Nghi. Do vì có Vô Minh, mà chẳng hiểu rõ các Sự Lý, sẽ hoài nghi, chẳng thể quyết định được!
Thành Duy Thức Luận đã thuyết minh về Si như sau: “Vân hà vi Si? Ư chư Sự Lý, mê ám vi tánh, năng chướng Vô Si, nhất thiết tạp nhiễm sở y vi nghiệp” (Si là như thế nào? Có tánh chất mê ám đối với các Sự, Lý. Nghiệp dụng của nó là có thể chướng ngại Vô Si, có nghiệp dụng làm chỗ y cứ cho hết thảy các tạp nhiễm). Thể tánh của Si là mê hoặc, chẳng hiểu rõ Sự Lý. Nghiệp dụng của Si là có thể chướng ngại Vô Si, là chỗ y cứ để tạo tác hết thảy các tạp nhiễm. Tạp nhiễm có ba loại: Phiền não tạp nhiễm, nghiệp tạp nhiễm, và sanh tạp nhiễm. Do đối với Vô Minh mà sanh khởi các phiền não như Si, Tà Kiến, Tham v.v… hoặc Tùy Phiền Não (đó là phiền não tạp nhiễm), tạo tác nghiệp hữu lậu (nghiệp tạp nhiễm). Nhân duyên chín muồi, sẽ có thể chiêu cảm quả báo trong đời sau (đó là sanh tạp nhiễm).
Vô Minh có thể chia đại lược thành hai loại: Một là Câu Sanh Vô Minh, hai là Phân Biệt Vô Minh.
1) Câu Sanh Vô Minh là Vô Minh có sẵn từ lúc mới sanh ra. Khi vừa sanh ra, bèn đồng thời có Vô Minh, ví như các thứ động vật (súc sanh) cá, nhện, rết v.v… cũng có Câu Sanh Vô Minh.
2) Phân Biệt Vô Minh, còn gọi là Phân Biệt Khởi Vô Minh, tức là từ phân biệt hư vọng mà sanh khởi Vô Minh. Như qua sự phân biệt, suy lường, mà lầm lạc chấp trước Sắc Uẩn v.v… là Ngã. Đấy chính là dựa trên Phân Biệt Vô Minh mà sanh khởi Phân Biệt Ngã Kiến. Nhân loại thì ngoài Câu Sanh Vô Minh ra, còn vì tác dụng phân biệt đặc biệt mạnh mẽ, cho nên Phân Biệt Vô Minh vượt trỗi súc sanh.
Tham, Sân và Vô Minh là ba loại bất thiện căn trong Dục Giới, tức Tham, Sân, Si Bất Thiện Căn, là căn bản của hết thảy các điều bất thiện. Đối với phiền não của chúng sanh trong Dục Giới thì có sáu loại Căn Bản Phiền Não, hai mươi loại Tùy Phiền Não, lại có thể quy nạp thành ba loại lớn là Tham Loại, Sân Loại, và Si Loại.
Vô Minh trong Dục Giới lại có thể chia thành ba loại: Một là Câu Sanh, hai là Bất Câu Sanh, ba là Phân Biệt Sở Khởi (do phân biệt mà dấy lên).
1) Chúng sanh từ lúc mới sanh ra đã có Câu Sanh Vô Minh. Trời, người, phi cầm tẩu thú (chim bay thú chạy), cho đến địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ v.v… đều có. Thứ này chung cho các chúng sanh trong tam giới.
2) Bất Câu Sanh Vô Minh là Vô Minh tương ứng với Tham, hoặc Vô Minh tương ứng với Sân. Chúng sanh trong Sắc Giới và Vô Sắc Giới chẳng có Sân. Tham và Sân là Bất Câu Sanh, [bởi lẽ] có Tham mà chẳng có Sân, hoặc có Sân mà chẳng có Tham.
3) Phân Biệt Vô Minh là Vô Minh tương ứng với các Kiến. Điều này cũng chung cho các chúng sanh trong tam giới.
1.1.2.4.2.1.4.5. Kiến (chia thành hai phần)
1.1.2.4.2.1.4.5.1. Nêu chung
(Luận) Vân hà Kiến? Kiến hữu ngũ chủng, vị Tát Ca Da Kiến, Biên Chấp Kiến, Tà Kiến, Kiến Thủ, Giới Thủ.
(論)云何見?見有五種。謂薩迦耶見.邊執見.邪見.見取.戒取。
(Luận: Kiến là như thế nào? Kiến có năm thứ, tức là Tát Ca Da Kiến, Biên Chấp Kiến, Tà Kiến, Kiến Thủ, và Giới Thủ).
Kiến (見), nói theo nghĩa rộng, chính là Huệ Tâm Sở, bao gồm tánh thiện, tánh ác, và tánh vô ký. Kiến được nói ở đây chính là Huệ có tánh chất ác, hoặc là có tánh chất hữu phú vô ký. Lại còn gọi là Ác Kiến, hoặc Bất Chánh Kiến, có thể chia thành năm loại: Tát Ca Da Kiến, Biên Chấp Kiến, Tà Kiến, Kiến Thủ, và Giới Cấm Thủ.
Thành Duy Thức Luận thuyết minh về Ác Kiến như sau: “Vân hà Ác Kiến? Ư chư Đế Lý, điên đảo suy độ, nhiễm huệ vi tánh; năng chướng thiện kiến, chiêu khổ vi nghiệp” (Ác Kiến là như thế nào? Đối với các đế lý, điên đảo suy lường, có tánh chất nhuốm bẩn huệ. Nghiệp dụng của nó là có thể chướng ngại thiện kiến, chiêu cảm khổ). Thể tánh của Ác Kiến là đối với đạo lý Tứ Đế bèn điên đảo suy lường, đấy là Huệ đã bị ô nhiễm. Nghiệp dụng của Ác Kiến là có thể chướng ngại thiện kiến (chánh kiến), chiêu cảm khổ quả.
1.1.2.4.2.1.4.5.2. Giải thích từng điều riêng biệt (chia làm năm phần)
1.1.2.4.2.1.4.5.2.1. Tát Ca Da Kiến
(Luận) Vân hà Tát Ca Da Kiến? Vị ư Ngũ Thủ Uẩn, tùy chấp vi Ngã, hoặc vi Ngã Sở, nhiễm huệ vi tánh. Tát, vị bại hoại nghĩa. Ca Da, vị hòa hợp, tích tụ nghĩa. Tức ư thử trung, kiến nhất, kiến thường, dị uẩn hữu Ngã, Uẩn vi Ngã Sở đẳng. Hà cố phục như thị thuyết? Vị Tát giả, phá thường tưởng. Ca Da phá nhất tưởng. Vô thường tích tập, thị trung Vô Ngã cập Ngã Sở cố. Nhiễm huệ giả, vị phiền não câu. Nhất thiết kiến phẩm sở y vi nghiệp.
(論)云何薩迦耶見?謂於五取蘊。隨執為我。或為我所。染慧為性。薩謂敗壞義。迦耶謂和合積聚義。即於此中。見一見常。異蘊有我蘊。為我所等。何故復如是說?謂薩者破常想。迦耶破一想。無常積集。是中無我及我所故。染慧者。謂煩惱俱。一切見品所依為業。
(Luận: Tát Ca Da Kiến là như thế nào? Tức là đối với Ngũ Thủ Uẩn, bèn chấp một Uẩn nào đó là Ngã hoặc Ngã Sở. Tánh chất của [kiến chấp này] là ô nhiễm huệ. Tát nghĩa là “bại hoại”. Ca Da nghĩa là “hòa hợp, tích tụ”. Tức là ở trong ấy, thấy là một, thấy là thường, hoặc [cho rằng] lìa ngoài Ngũ Uẩn sẽ có Ngã Uẩn, Uẩn là Ngã Sở v.v… Vì sao lại nói như vậy? Ý nói: Tát là phá thường tưởng. Ca Da là phá nhất tưởng. “Vô thường tích tập” tức là trong ấy không có Ngã và Ngã Sở. “Ô nhiễm huệ” vì nó chung đụng phiền não. Nó có nghiệp dụng làm chỗ nương tựa cho hết thảy các Kiến).
Một là Tát Ca Da Kiến (tiếng Phạn là Satkāya-dṛṣṭi), dịch nghĩa là Hoại Thân Kiến. Tát (tiếng Phạn là Sat) có nghĩa là bại hoại, hoặc vô thường. Ca Da (tiếng Phạn là Kāya), có nghĩa là Hòa Hợp, Tích Tụ (thân). Kiến là kiến giải lầm lạc sâu đậm.
Thể tánh của Tát Ca Da Kiến là “ư Ngũ Thủ Uẩn, tùy chấp vi Ngã, hoặc vi Ngã Sở, nhiễm huệ vi tánh”, “nhiễm huệ giả, vị phiền não câu” (đối với Ngũ Thủ Uẩn, chấp một Uẩn nào đó là Ngã hoặc Ngã Sở, có tánh chất làm ô nhiễm huệ. “Ô nhiễm huệ” là chung đụng với phiền não). Trong Ngũ Thủ Uẩn, tùy ý so đo chấp trước [một Uẩn nào đó] là Ngã ([điều này được gọi là] Tức Uẩn Kế Ngã, tức chấp trước Uẩn là Ngã), hoặc [chấp trước] là Ngã Sở (đó gọi là Ly Uẩn Kế Ngã, tức là chấp có một cái Ngã tách biệt ở ngoài Ngũ Uẩn). Vì thế, Tát Ca Da Kiến còn gọi là Ngã Kiến. Nó là huệ bị ô nhiễm bởi các loại phiền não khác đồng thời sanh khởi. Nghiệp dụng của Tát Ca Da Kiến là “nhất thiết Kiến phẩm sở y vi nghiệp” (nghiệp dụng của nó là làm chỗ y cứ cho hết thảy các Kiến), vì Ngã Kiến có thể sanh khởi hết thảy kiến giải bất chánh. Do vậy, Ngã Kiến là chỗ y cứ của hết thảy các loại kiến giải bất chánh. “Phẩm” (品) là loại. Thành Duy Thức Luận thuyết minh về Tát Ca Da Kiến có ý nghĩa tương đồng với luận này.
“Tức ư Ngũ Thủ Uẩn, kiến nhất, kiến thường, dị Uẩn hữu Ngã, Uẩn vi Ngã Sở đẳng” (Tức là đối với Ngũ Thủ Uẩn, thấy là một, thấy là thường, Uẩn khác có Ngã, Uẩn là Ngã Sở v.v…). Đây là giải thích thể tánh của Tát Ca Da Kiến. Ngã có ý nghĩa là một thật thể “có tánh chất độc nhất, có tánh chất thường hằng”. Xét theo ý chí thì Ngã có ý nghĩa là “có tánh chất làm chủ tể”. Chẳng hạn như cha mẹ có Ngã Kiến mạnh mẽ, sẽ khá kiểm soát, điều khiển chuyện ăn uống, trang phục, học vấn, nghề nghiệp, hôn nhân v.v… của con cái. Tuy hữu tình là một thể do Ngũ Uẩn hòa hợp, là một thứ tích tụ, nhưng nó có tánh chất thống nhất. Vì thế, nó có tánh chất “tương tự độc nhất” (dường như là độc nhất, chẳng phải là thật sự độc nhất). Do vậy, phàm phu so đo chấp trước cái thể Ngũ Uẩn hòa hợp là độc nhất. Tuy Ngũ Uẩn sanh diệt trong từng sát-na, biến hóa vô thường, nhưng nó có tánh chất liên tục. Do vậy, nó có tánh chất tương tự thường hằng. Vì thế, phàm phu so đo chấp trước Ngũ Uẩn là thường hằng. Đấy là “tức Uẩn kế Ngã” (chấp trước Ngũ Uẩn là Ngã).
Thật ra, quan sát kỹ càng Ngũ Uẩn, sẽ có thể biết Ngũ Uẩn là tích tụ, biến hóa, trái nghịch với ý nghĩa của Ngã! Vì thế, “tức Uẩn kế Ngã” là sai lầm. Bởi đó, có những kẻ liền chuyển thành chấp trước “lìa ngoài Ngũ Uẩn có một cái Ngã”. Đấy gọi là “dị Uẩn hữu Ngã” (có một cái Ngã khác với các Uẩn), hoặc “ly Uẩn kế Ngã” (chấp trước Ngã rời ngoài Ngũ Uẩn), lại còn chấp trì Sắc Uẩn v.v… thuộc vào Ngã. Như thân thể của ta, sự cảm nhận của ta, khái niệm của ta, ý chí của ta, nhận thức của ta, nhưng lìa ngoài Ngũ Uẩn có một cái Ngã, chúng ta chẳng có cách nào chứng minh Ngã tồn tại, cũng chẳng có cách nào nhận thức Ngã. Do vậy, có thể nói “Ngã chỉ là một khái niệm phát xuất từ vọng tưởng của chúng sanh” mà thôi!
Tại vườn Lộc Dã, đức Thế Tôn đã bảo năm vị tỳ-kheo: “Sắc (thân thể) chẳng phải là Ngã”12 . Vì sao? Vì Ngã có ý nghĩa “chủ tể, tự tại”. Nếu Sắc là Ngã, Sắc chẳng nên sanh bệnh và cảm nhận khổ não, phải tùy thuận ý nguyện của ta. Trên sự thật, Sắc (thân thể) có thể sanh bệnh và cảm nhận khổ não, chẳng tùy thuận ý nguyện của ta. Do vậy, “Sắc chẳng phải là Ngã”. Từ quan sát “vô thường cố Khổ, Khổ cố vô ngã” (do vô thường nên khổ, do khổ nên vô ngã), chớ nên so đo, chấp trước “Sắc chính là Ngã, Ngã có các Sắc (Sắc ở trong Ngã), Sắc thuộc về Ngã, Ngã ở trong Sắc”. Cùng một lý, có thể suy ra mà biết Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng là như vậy, cho đến chẳng nên so đo, chấp trước “Thức chính là Ngã, Ngã có các Thức (Thức ở trong Ngã), Thức thuộc về Ngã, Ngã ở trong Thức”.
Tổng hợp “tức Uẩn kế Ngã” và “ly Uẩn kế Ngã”, mối quan hệ giữa Sắc Uẩn và Ngã gồm bốn câu, tức là “Sắc là Ngã, Ngã có các Sắc, Sắc thuộc về Ngã, Ngã ở trong Sắc”. Thọ, Tưởng, Hành, và Thức Uẩn cũng là như vậy. Do vậy mối quan hệ giữa Ngũ Uẩn và Ngã bao gồm hai mươi câu. So đo, chấp trước Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là Ngã, năm thứ so đo, chấp trước ấy chính là Ngã Kiến. Đấy chính là “tức Uẩn kế Ngã” (từ ngay nơi các Uẩn mà chấp là Ngã). Mười lăm món kế chấp, so đo kia chính là Ngã Sở Kiến, chấp trước so đo Ngũ Uẩn là “tương ứng Ngã Sở, tùy chuyển Ngã Sở, chẳng lìa Ngã Sở”. Ba thứ Ngã Sở Kiến ấy là chỗ nương cậy của Ngã Kiến trong “ly Uẩn kế Ngã” (chấp trước tách rời ngoài các Uẩn có một cái Ngã riêng biệt).
1) Tương ứng Ngã Sở: Vì Ngã và Sắc tương ứng, cho nên chấp trước “Ngã có các Sắc”.
2) Tùy chuyển Ngã Sở (chuyển biến theo Ngã Sở): Vì Sắc thuận theo sức tự tại của Ngã mà chuyển biến. Vì thế, so đo, chấp trước “Sắc thuộc về Ngã”.
3) Bất ly Ngã Sở (chẳng lìa Ngã Sở): Vì Ngã thuộc vào trong Biến Thể Tùy Hành của Sắc, cho nên chấp trước “Ngã trong Sắc”. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng là như vậy.
“Hà cố phục như thị thuyết? Vị Tát giả, phá thường tưởng. Ca Da phá nhất tưởng. Vô thường, tích tập, thị trung vô ngã cập Ngã Sở cố” (Vì sao lại nói như thế? Tát là phá cái Tưởng về thường hằng, Ca Da là phá cái Tưởng về một. Do vô thường tụ tập, trong ấy không có Ngã và Ngã Sở), [ý nói]: Vì sao so đo, chấp trước Ngũ Thủ Uẩn là Ngã, gọi nó là Tát Ca Da Kiến? Vì hữu tình so đo, chấp trước Ngũ Thủ Uẩn là cái Ngã có tánh thường hằng, tánh độc nhất, cho nên bậc trí rất thiện xảo, lập ra danh tướng Tát Ca Da Kiến. Tát có nghĩa là “bại hoại” (vô thường), có thể phá trừ cái Tưởng về thường hằng. Ca Da có nghĩa là “tích tập”, có thể phá trừ “độc nhất tưởng”. Tuy Tát Ca Da Kiến chính là Ngã Kiến, nhưng nhìn từ ý nghĩa của danh tướng; thật ra, nó đã hiển thị [tác dụng] phá trừ Ngã Kiến. Vì thế, Phật pháp nói: “Ngũ Uẩn vô Ngã”. Chẳng có Ngã Kiến, thì cũng chẳng có gì thuộc về Ngã Sở Kiến.
Thân tâm của chúng sanh là một tướng toàn thể do Ngũ Uẩn hòa hợp, tích tập. Kinh Kim Cang gọi cái tướng toàn thể ấy là “nhất hiệp tướng” (một tướng kết hợp). Nhất hiệp tướng chỉ là giả danh, chẳng phải là một cái Ngã thật thể thường hằng, độc nhất, nhưng phàm phu chấp trước “nhất hiệp tướng” là một cái Ngã thật thể thường hằng, độc nhất. Nói theo Ngũ Uẩn của chúng sanh thì Như Lai đã nói: “Nhất hiệp tướng tắc phi nhất hiệp tướng, thị danh nhất hiệp tướng” (Một hiệp tướng chẳng phải là một hiệp tướng, thì gọi là một hiệp tướng); đó là xiển minh “Ngũ Uẩn vô ngã”.
Tát Ca Da Kiến có thể nói là căn bản của sanh tử. Thánh giả Sơ Quả của Thanh Văn Thừa đoạn phiền não chủ yếu là Tam Kết, tức là Tát Ca Da Kiến, Giới Cấm Thủ, và Nghi. Sơ Quả đoạn trừ Tát Ca Da Kiến, dẫu chẳng đặc biệt tinh tấn tu hành, tối đa là bảy lần sanh tử trong đường trời, người của Dục Giới, sẽ chứng đắc A La Hán, giải thoát sanh tử. Ví như đoạn trừ rễ của một cội đại thụ, dẫu chẳng đặc biệt trải qua sự hun khô của ánh nắng mặt trời, lá cây cũng sẽ dần dần khô héo.
1.1.2.4.2.1.4.5.2.2. Biên Chấp Kiến
(Luận) Vân hà Biên Chấp Kiến? Vị Tát Ca Da Kiến tăng thượng lực cố, tức ư sở thủ, hoặc chấp vi thường, hoặc chấp vi đoạn, nhiễm huệ vi tánh. Thường biên giả, vị chấp Ngã tự tại, vi biến, thường đẳng. Đoạn biên giả, vị chấp hữu tác giả, trượng phu đẳng, bỉ tử dĩ bất phục sanh, như bình ký phá, cánh vô thịnh dụng, chướng Trung Đạo, xuất ly vi nghiệp.
(論)云何邊執見?謂薩迦耶見增上力故。即於所取。或執為常。或執為斷。染慧為性。常邊者。謂執我自在。為遍常等。斷邊者。謂執有作者丈夫等彼死已不復生。如瓶既破更無盛用。障中道出離為業。
(Luận: Biên Chấp Kiến là như thế nào? Tức là do sức tăng thượng của Tát Ca Da Kiến, bèn đối với cái đã chấp thủ (chấp trước, nắm giữ), mà chấp là Thường, hoặc chấp là Đoạn, nó có tánh chất ô nhiễm huệ. “Bên Thường” tức là chấp Ngã là tự tại, trọn khắp, thường hằng v.v… “Bên Đoạn” tức là chấp có ‘tác giả, trượng phu’ v.v… cho rằng hễ chết đi sẽ chẳng còn sanh nữa, như cái bình đã vỡ, chẳng còn có công dụng chứa đựng. Nghiệp dụng của [Biên Chấp Kiến] là chướng ngại Trung Đạo và xuất ly).
Biên Chấp Kiến, còn gọi đơn giản là Biên Kiến. Trong cách dùng từ của Phật pháp, Biên (邊) có nghĩa là “không chánh xác, thiên chấp”. Tương phản với nó, hễ là chánh xác, khế hợp Trung Đạo, thì gọi là Trung. Chẳng hạn như thiên chấp một thể thân tâm hòa hợp là thường hằng, hoặc đoạn diệt. Do có hai thứ kiến giải cực đoan, sai lầm ấy, nên gọi là Nhị Biên (hai bên), tức là chẳng khế hợp chánh lý, chẳng khế hợp Trung Đạo.
Thể tánh của Biên Chấp Kiến, “Tát Ca Da Kiến tăng thượng lực cố, tức ư sở thủ, hoặc chấp vi thường, hoặc chấp vi đoạn, nhiễm huệ vi tánh” (do sức tăng thượng của Ngã Kiến bèn đối với cái đã nắm giữ bèn chấp là thường, hoặc chấp là đoạn, có tánh chất nhuốm bẩn Huệ), tức là [Biên Chấp Kiến] nương theo sức tăng thượng của Tát Ca Da Kiến mà sanh khởi, đối với Ngũ Thủ Uẩn đã được chấp trước bởi Tát Ca Da Kiến mà hoặc là chấp trước “thường hằng” (Thường Kiến), hoặc là chấp trước đoạn diệt (Đoạn Kiến). Những thứ ấy đều là huệ bị nhiễm ô. Nghiệp dụng của Biên Chấp Kiến là “chướng Trung Đạo, xuất ly vi nghiệp”, [nghĩa là] có thể chướng ngại [hành giả] khế nhập Trung Đạo, chướng ngại xuất ly sanh tử. Vì chấp trước Ngũ Thủ Uẩn là thường hằng, hoặc đoạn diệt, tức là kiến giải cực đoan, sai lầm. Do vậy, tất nhiên là nó sẽ chướng ngại khế nhập Trung Đạo, chẳng thể đoạn trừ phiền não mà xuất ly sanh tử được! Thành Duy Thức Luận thuyết minh về Biên Chấp Kiến có ý nghĩa tương đồng với luận này.
Thường Kiến là gì? “Thường Biên giả, vị chấp Ngã tự tại, vị biến, thường đẳng”, [ý nói] Thường Kiến là chấp trước Ngũ Thủ Uẩn là thật thể thường hằng, tự tại, tuyệt đối tự do, trọn khắp mười phương, không đâu chẳng tồn tại, là thường hằng, chẳng biến hóa v.v…
Ngã trong tiếng Ấn Độ (tiếng Phạn) là Ātman, phiên âm là A Đặc Man, có ý nghĩa là “tự tại” (tự do tuyệt đối). Nói theo không gian, Ngã trọn khắp mười phương, không đâu chẳng tồn tại. Do vậy gọi là Biến (遍, trọn khắp). Nói theo thời gian, sẽ là thường hằng, chẳng biến hóa. Vì thế, gọi là Thường.
Chẳng hạn như Ấn Độ giáo chấp trước sanh mạng thể của hữu tình là một thật thể thường hằng, chẳng biến đổi. Đó gọi là Ngã Kiến. Trong tương lai, sau khi hữu tình tử vong, Ngũ Uẩn diệt mất, tuy hữu tình tiếp tục luân hồi trong năm đường, hoặc thăng lên làm trời, người, hoặc trầm luân trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nhưng Ngã trong đời trước, đời này, và đời sau đều là tương đồng, chẳng biến đổi. Đó gọi là Thường Kiến.
Kinh Tạp A Hàm quyển 10 (kinh số 272) có nói: “Tam Kiến giả, hà đẳng vi tam? (1) Hữu nhất chủng kiến, như thị như thị thuyết: Mạng tắc thị thân. (2) Phục hữu như thị kiến: Mạng dị thân dị. (3) Hựu tác thị thuyết: Sắc (Thọ, Tưởng, Hành, Thức) thị Ngã, vô nhị, vô dị, trường tồn bất biến” (Tam Kiến: Những gì là ba? (1) Có một loại Kiến là nói như thế này: Mạng chính là Thân. (2) Lại có Kiến như thế này: Mạng khác, thân khác. (3) Lại nói như thế này: Sắc (Thọ, Tưởng, Hành, Thức) là Ngã, không hai, không khác, trường tồn bất biến). Thân, bao gồm thân thể và những tác dụng tâm lý nương vào thân thể mà sanh khởi; Mạng là tự thể của hữu tình. Loại Kiến thứ ba chính là kiến giải của Ấn Độ giáo. Họ chủ trương Mạng là tự thể của hữu tình, là thật thể tồn tại thường hằng, tức là Ngã, đồng nhất với Phạm (bản thể của vũ trụ).
Trong thời đại của đức Thích Tôn, có những tôn giáo mới hoặc học phái tại Ấn Độ ở phương Đông đều kiến lập Nhị Nguyên Luận, chủ trương “Mạng và thế giới vật chất mỗi thứ có thật thể khác nhau”. Đó là loại Kiến thứ hai “mạng khác, thân khác”. Hữu tình sau khi tử vong, thân đã hoại diệt, nhưng Mạng vẫn thường luôn tồn tại. Đấy cũng là Thường Kiến. Có một số những kẻ theo Thuận Thế Luận, chủ trương Mạng (Ngã) là thân. Đấy là loại Kiến thứ nhất: “Mạng chính là Thân”. Sau khi hữu tình tử vong, thân đã hoại diệt, Ngã cũng đoạn diệt, chẳng có lưu chuyển sanh tử trong đời sau; đấy là Đoạn Kiến. Ba loại Kiến ấy trong cuộc sống hiện thực đều là chấp trước “tự thể của hữu tình là Mạng”, chỉ là trong suy luận về mối quan hệ giữa Mạng và thân, đối với nơi kiến giải có những điều bất đồng mà thôi!
Phật pháp cho rằng hữu tình tức là sanh mạng thể do thân và tâm hòa hợp, chẳng có “mạng giả” tồn tại độc nhất tách rời khỏi thân và tâm. [Phật pháp] phủ định cả ba loại bất chánh kiến ấy (ba loại bất chánh kiến vừa nói trong đoạn trước, tức: “Mạng là thân; thân khác mạng khác” v.v…), đề xướng hữu tình luận Vô Ngã. Hữu tình sanh khởi phiền não, tạo tác nghiệp hữu lậu; do vậy, chiêu cảm quả báo trong đời sau. Trong sanh tử luân hồi có nghiệp, có báo, nhân quả liên tục, chẳng phải là hữu tình sau khi tử vong sẽ là hết thảy hoàn toàn hoại diệt, cũng chẳng phải là có Mạng giả (Ngã, tác giả) đang sanh tử luân hồi.
Đoạn Kiến là gì? “Đoạn Biên giả, vị chấp hữu tác giả, trượng phu đẳng, bỉ tử dĩ bất phục sanh, như bình ký phá, cánh vô thịnh dụng”, [ý nói]: Đoạn Kiến là chấp trước “tác giả, trượng phu” v.v… [cũng như chấp trước] sau khi tử vong, Ngũ Thủ Uẩn sẽ hoàn toàn hoại diệt, chẳng còn xuất sanh trong đời sau nữa, giống như cái bình đã bị vỡ nát, chẳng còn có tác dụng chứa đựng thứ gì nữa!
“Tác giả, trượng phu đẳng” (Tác giả, trượng phu v.v…) đều là tên gọi khác của chủ thể hữu tình (Ngã). Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật nhắc đến mười sáu danh tướng13. Chân tay của Ngã có thể làm việc, thì gọi là “tác giả”. “Trượng phu” còn gọi là “sĩ phu”, tức là tên gọi khác của Nhân (người). Ngã thực hiện pháp của loài người thì gọi là Nhân. Ý nghĩa của [những danh xưng như] Chúng Sanh, Thọ Giả v.v… thì trong Đại Trí Độ Luận đã giải thích.
1.1.2.4.2.1.4.5.2.3. Tà Kiến
(Luận) Vân hà Tà Kiến? Vị báng nhân, quả, hoặc báng tác dụng, hoặc hoại thiện sự, nhiễm huệ vi tánh. Báng nhân giả, nhân vị nghiệp, phiền não tánh, hợp hữu ngũ chi. Phiền não hữu tam chủng, vị Vô Minh, Ái, Thủ. Nghiệp hữu nhị chủng, vị Hành cập Hữu. Hữu giả, vị y A Lại Da Thức chư nghiệp chủng tử, thử diệc danh Nghiệp. Như Thế Tôn thuyết: “A Nan! Nhược nghiệp năng dữ vị lai quả, bỉ diệc danh Hữu”. Như thị đẳng, thử báng danh vi báng nhân. Báng quả giả, quả hữu thất chi, vị Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ, Sanh, Lão Tử. Thử báng vi báng quả. Hoặc phục báng vô thiện hạnh, ác hạnh, danh vi báng nhân. Báng vô thiện hạnh, ác hạnh quả báo, danh vi báng quả. Báng vô thử thế, tha thế, vô phụ, vô mẫu, vô hóa sanh chúng sanh, thử báng vi báng tác dụng. Vị tùng thử thế vãng tha thế tác dụng, chủng tử nhậm trì tác dụng, kết sanh tương tục tác dụng đẳng, báng vô thế gian A La Hán đẳng, vi hoại thiện sự, đoạn thiện căn vi nghiệp, bất thiện căn kiên cố sở y vi nghiệp, hựu sanh bất thiện, bất sanh thiện vi nghiệp.
(論)云何邪見?謂謗因果。或謗作用。或壞善事。染慧為性。謗因者。因謂業煩惱性。合有五支。煩惱有三種。謂無明愛取。業有二種謂行及有。有者。謂依阿賴耶識諸業種子此亦名業。如世尊說。「阿難。若業能與未來果彼亦名有。」如是等。此謗名為謗因。謗果者。果有七支。謂識名色六處觸受生老死。此謗為謗果。或復謗無善行惡行。名為謗因。謗無善行惡行果報。名為謗果。謗無此世他世。無父無母。無化生眾生。此謗為謗作用。謂從此世往他世作用。種子任持作用。結生相續作用等。謗無世間阿羅漢等。為壞善事。斷善根為業。不善根堅固所依為業。又生不善。不生善為業。
(Luận: Tà Kiến là như thế nào? Chính là báng nhân, báng quả, hoặc báng tác dụng, hoặc phá hoại thiện sự, có tánh chất làm ô nhiễm huệ. “Báng nhân” thì “nhân” là nghiệp, có tánh chất phiền não, gộp lại thành năm chi. Phiền não có ba thứ, tức Vô Minh, Ái và Thủ. Nghiệp có hai loại, tức là Hành và Hữu. Hữu chính là chủng tử của các nghiệp nương vào A Lại Da Thức, những thứ này cũng được gọi là Nghiệp. Như đức Thế Tôn đã nói: “Này A Nan! Nếu nghiệp có thể tạo thành cái quả trong vị lai thì nó cũng gọi là Hữu”. [Hủy báng] những điều như thế đó, loại hủy báng này gọi là “báng nhân”. “Báng quả” thì quả có bảy chi, tức là Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ, Sanh, Lão Tử. Loại báng này là “báng quả”. Hoặc lại báng bổ chẳng có thiện hạnh hay ác hạnh, thì gọi là “báng nhân”. Báng chẳng có quả báo của thiện hạnh hay ác hạnh thì gọi là “báng quả”. Báng chẳng có đời này, đời khác, không cha, không mẹ, không có chúng sanh hóa sanh, báng kiểu ấy chính là “báng tác dụng”. Tức là [hủy báng] tác dụng từ đời này sang đời khác, tác dụng duy trì của chủng tử, tác dụng kết sanh liên tục v.v… Báng bổ chẳng có bậc A La Hán trong thế gian v.v… phá hoại thiện sự, đoạn thiện căn là nghiệp dụng của Tà Kiến, làm chỗ nương tựa cho bất thiện căn kiên cố chính là nghiệp dụng của Tà Kiến, lại còn “sanh ra điều bất thiện, chẳng sanh ra điều thiện” là nghiệp dụng của Tà Kiến).
Tà Kiến, nói theo nghĩa rộng, sẽ bao gồm hết thảy những kiến giải chẳng chánh xác. Nói theo nghĩa hẹp, chủ yếu là nói tới các kiến giải chẳng chánh đáng “báng nhân quả”, “báng tác dụng”, và “phá hoại thiện sự”.
Thể tánh của Tà Kiến, “báng nhân, quả, hoặc báng tác dụng, hoặc hoại thiện sự, nhiễm huệ vi tánh” (báng nhân, quả, tác dụng, hoặc làm hư thiện sự, có tánh chất ô nhiễm huệ): Phỉ báng nghiệp nhân, quả báo, hoặc phỉ báng “tùng thử thế vãng tha thế tác dụng, chủng tử nhậm trì tác dụng, kết sanh tương tục tác dụng đẳng” (tác dụng từ đời này sang đời khác, tác dụng duy trì của chủng tử, tác dụng liên tục kết tạo sự sống v.v…), hoặc phỉ báng “vô thế gian A La Hán đẳng” (chẳng có bậc A La Hán trong thế gian v.v…), đấy là Huệ ô nhiễm. Nghiệp dụng của Tà Kiến là “đoạn thiện căn vi nghiệp, bất thiện căn kiên cố sở y vi nghiệp, hựu sanh bất thiện, bất sanh thiện vi nghiệp” (nghiệp dụng là đoạn thiện căn, nghiệp dụng là làm chỗ y cứ kiên cố cho bất thiện căn, lại còn có nghiệp dụng sanh ra bất thiện, chẳng sanh điều thiện). Đại lược là có ba thứ nghiệp dụng:
1) Đoạn hết thiện căn Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, sẽ càng khó sanh khởi thiện pháp.
2) Khiến cho bất thiện căn Tham Sân, Si càng kiên cường, cứng chắc hơn, sẽ càng khó điều phục, diệt trừ pháp bất thiện.
3) Khiến cho pháp bất thiện sanh khởi, sẽ chẳng sanh khởi thiện pháp.
Thành Duy Thức Luận thuyết minh về Tà Kiến như sau: “Tà Kiến là nói báng nhân, quả, tác dụng, sự thật, và các tà chấp khác chẳng thuộc Tứ Kiến, như tăng thượng duyên, danh nghĩa biến v.v…”. “Báng nhân, quả, tác dụng, sự thật” tức là như luận này nói “báng nhân quả, hoặc báng tác dụng, hoặc hoại thiện sự”, còn bao gồm các thứ tà chấp khác chẳng thuộc vào Tát Ca Da Kiến, Biên Chấp Kiến, Kiến Thủ, và Giới Cấm Thủ như Tăng Thượng Duyên, kể cả các duyên khác chẳng phải là Nhân Duyên, Sở Duyên Duyên, Đẳng Vô Gián Duyên14.
“Danh Nghĩa Biến” có nghĩa là:
1) Danh xưng của Tà Kiến rộng lớn. Bất chánh thì gọi là Tà. Do vậy, [Tà Kiến] thâu nhiếp hết thảy bất chánh kiến.
2) Ý nghĩa Tà Kiến trọn khắp. Do vậy, thâu nhiếp hết thảy các tà giải.
Ý nghĩa của “báng nhân” là “báng nhân giả, nhân vị nghiệp, phiền não tánh, hàm hữu ngũ chi, phiền não hữu tam chủng, vị Vô Minh, Ái, Thủ. Nghiệp hữu nhị chủng, vị Hành cập Hữu. Hữu giả, vị y A Lại Da Thức chư nghiệp chủng tử, thử diệc danh Nghiệp. Như Thế Tôn thuyết: – A Nan! Nhược nghiệp năng dữ vị lai quả, bỉ diệc danh Hữu. Như thị đẳng, thử báng danh vi báng nhân” (báng nhân thì nhân là nghiệp, có tánh chất phiền não, bao gồm năm chi. Phiền não có ba loại, tức Vô Minh, Ái, và Thủ. Nghiệp có hai loại là Hành và Hữu. “Hữu” là nương vào chủng tử của hết thảy các nghiệp trong A Lại Da Thức; điều này cũng gọi là Nghiệp. Như đức Thế Tôn nói: “Này A Nan! Nếu nghiệp có thể tạo ra cái quả trong vị lai, nó cũng gọi là Hữu”. Như thế đó, báng bổ những điều này thì gọi là “báng nhân”). Nhân là “nghiệp, phiền não”, là cái nhân chiêu cảm quả báo, tức là Vô Minh, Ái và Thủ trong Thập Nhị Duyên Khởi (Thập Nhị Nhân Duyên). Ba thứ ấy đều thuộc về phiền não, cùng với Hành và Hữu, hai điều ấy thuộc về nghiệp. Hủy báng, phủ nhận Vô Minh, Ái Thủ, Hành, Hữu, thì gọi là “báng nhân”.
Nói theo Duy Thức Học, Hữu là chủng tử của các nghiệp trong A Lại Da Thức của các hữu tình, cũng gọi là Nghiệp. Như đức Thế Tôn đã bảo ngài A Nan: “Giả sử nghiệp có thể chiêu cảm quả báo trong vị lai, thì cũng gọi là Hữu”. Chẳng hạn như hữu tình tạo tác các thiện nghiệp như bố thí, trì giới v.v… sẽ huân tập các chủng tử của thiện nghiệp, chứa đựng trong A Lại Da Thức. Trong tương lai, nhân duyên chín muồi, sẽ chiêu cảm quả báo trong đường người hoặc trời. Ngược lại, hữu tình tạo tác ác nghiệp như sát sanh, trộm cắp v.v… sẽ huân tập chủng tử của ác nghiệp, chứa đựng trong A Lại Da Thức. Trong tương lai, nhân duyên chín muồi, [do những chủng tử ấy], sẽ chiêu cảm quả báo trong địa ngục, hoặc ngạ quỷ, hoặc súc sanh!
Ý nghĩa của “báng quả”: “Báng quả giả, quả hữu thất chi, vị Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ, Sanh, Lão Tử, thử báng vi báng quả” [ý nói] cái quả nương theo phiền não, do nghiệp sanh ra, có bảy chi là Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ, Sanh, Lão Tử. Hủy báng, phủ nhận bảy chi ấy thì gọi là “báng quả”.
“Báng nhân, báng quả” còn có một cách giải thích khác, “hoặc phục báng vô thiện hạnh, ác hạnh, danh vi báng nhân. Báng vô thiện hạnh, ác hạnh quả báo, danh vi báng quả” [ý nói] hủy báng, phủ nhận “thiện hạnh, ác hạnh” thì gọi là “báng nhân”. Hủy báng, phủ nhận “thiện hạnh, ác hạnh quả báo” thì gọi là “báng quả”. Hãy tham khảo phần nói về Tà Kiến trong Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Tập Luận.
Ý nghĩa của “báng tác dụng” là “báng vô thử thế, tha thế, vô phụ, vô mẫu, vô hóa sanh chúng sanh, thử báng vi báng tác dụng” (báng không có đời này, đời khác, không cha, không mẹ, không có chúng sanh hóa sanh. Báng kiểu ấy thì gọi là báng tác dụng), chia thành ba loại:
1) Hủy báng “báng vô thử thế, tha thế” (báng bổ không có đời này, đời khác), phủ nhận “tùng thử thế vãng tha thế tác dụng” (tác dụng từ đời này chuyển qua đời khác), tức là phỉ báng, phủ nhận tác dụng chúng sanh từ đời này chuyển sanh sang đời sau.
2) Báng “vô phụ, vô mẫu” là hủy báng, phủ nhận “tác dụng duy trì của chủng tử”, tức là hủy báng, phủ nhận “A Lại Da Thức của chúng sanh gìn giữ tinh và trứng tiếp nhận từ sự giao hợp của cha và mẹ, [cũng như] tác dụng do mẹ hoài thai mà sanh mạng được gìn giữ liên tục”.
3) Báng “vô hóa sanh chúng sanh”, tức là hủy báng, phủ nhận “tác dụng kết sanh liên tục”, tức hủy báng, phủ nhận “Trung Ấm Thân (Trung Hữu) của chúng sanh hóa sanh”. Nói theo Duy Thức Học, có những chúng sanh sau khi tử vong (Tử Hữu), trước khi đầu thai sanh vào lục đạo (Sanh Hữu), sẽ trải qua trạng thái sanh mạng Trung Ấm Thân. Trung Ấm Thân chính là hóa sanh do nghiệp lực, có tác dụng nối liền giữa đời hiện tại và đời sau.
“Hoại thiện sự” có nghĩa là “báng vô thế gian A La Hán đẳng” tức là hủy báng, phủ nhận “trong thế gian có bậc A La Hán” v.v…
1.1.2.4.2.1.4.5.2.4. Kiến Thủ
(Luận) Vân hà Kiến Thủ? Vị ư Tam Kiến cập sở y Uẩn, tùy kế vi tối, vi thượng, vi thắng, vi cực, nhiễm huệ vi tánh. Tam Kiến giả, vị Tát Ca Da, Biên Chấp, Tà Kiến. Sở y Uẩn giả, tức bỉ chư kiến sở y chi Uẩn. Nghiệp như Tà Kiến thuyết.
(論)云何見取?謂於三見。及所依蘊。隨計為最為上為勝為極。染慧為性。三見者。謂薩迦耶。邊執。邪見。所依蘊者。即彼諸見所依之蘊。業如邪見說。
(Luận: Kiến Thủ là như thế nào? Chính là cho rằng Tam Kiến và Uẩn để [Tam Kiến] nương vào là tối hảo, là thượng, là tột bậc, có tánh chất làm ô nhiễm huệ. Tam Kiến là Tát Ca Da, Biên Chấp, và Tà Kiến. “Uẩn để nương vào” chính là Uẩn mà mỗi Kiến nương vào [để dấy lên kiến chấp]. Nghiệp dụng của nó giống như trong phần Tà Kiến đã nói).
Thể tánh của Kiến Thủ “ư Tam Kiến cập sở y Uẩn, tùy kế vi tối, vi thượng, vi thắng, vi cực, nhiễm huệ vi tánh. Tam Kiến giả, vị Tát Ca Da, Biên Chấp, Tà Kiến. Sở y Uẩn giả, tức bỉ chư Kiến sở y chi Uẩn” (đối với Tam Kiến và các Uẩn để [Tam Kiến] nương vào, cho rằng đó là tối hảo, là thượng, là tột bậc, có tánh chất làm ô nhiễm huệ. Tam Kiến là Tát Ca Da, Biên Chấp, và Tà Kiến. Các Uẩn để chúng nương vào chính là các Uẩn làm chỗ nương tựa cho các Kiến), tức là ba thứ kiến chấp Tát Ca Da, Biên Chấp, và Tà Kiến, cùng với Ngũ Uẩn mà ba thứ kiến chấp đã nương vào [để sanh khởi]. [Đối với những thứ ấy] bèn tùy ý chấp trước, so đo là tốt nhất, tối thượng, ưu thắng, tột bậc, cho đến bài xích, phỉ báng kiến giải của kẻ khác, đấy là huệ bị ô nhiễm. Nghiệp dụng của Kiến Thủ “nghiệp như Tà Kiến thuyết”, tức là nghiệp dụng của [Kiến Thủ] giống như Tà Kiến, tức là “đoạn thiện căn vi nghiệp, bất thiện căn kiên cố sở y vi nghiệp, hựu sanh bất thiện, bất sanh thiện vi nghiệp” (có nghiệp dụng đoạn thiện căn, có nghiệp dụng làm nơi nương tựa hòng kiên cố bất thiện căn, lại có nghiệp dụng sanh điều bất thiện, chẳng sanh điều thiện).
Thành Duy Thức Luận thuyết minh về Kiến Thủ như sau: “Kiến Thủ, vị ư chư Kiến cập sở y Uẩn, chấp vi tối thắng, năng đắc thanh tịnh, nhất thiết kiến tranh sở y vi nghiệp” (Kiến Thủ nghĩa là đối với các Kiến và Uẩn để [các Kiến ấy] nương vào, chấp chúng là tối thắng, có thể đạt được thanh tịnh. Nghiệp dụng của nó là làm chỗ y cứ trong hết thảy các tranh chấp về kiến giải), [ý nói] thể tánh của Kiến Thủ là đối với các Kiến (phạm vi càng rộng lớn hơn Tam Kiến) và Ngũ Uẩn mà các Kiến nương vào [để sanh khởi chấp trước], liền so đo, chấp trước là ưu thắng nhất, có thể đạt được thanh tịnh. Nghiệp dụng của Kiến Thủ là làm chỗ y cứ cho hết thảy những tranh chấp về kiến giải.
Theo Phật pháp, hữu tình tranh luận giữa đôi bên với nhau, chủ yếu là có hai loại:
1) Ái tranh: Tức là vì tham ái, danh lợi v.v… Do vậy, đôi bên tranh luận với nhau.
2) Kiến tranh: Vì so đo, chấp trước kiến giải của chính mình là chánh xác nhất, ưu thắng nhất, cho nên đôi bên tranh luận với nhau.
Phàm phu và ngoại đạo đều có Kiến Thủ, cho nên tranh luận với nhau, nói: “Kiến giải của ta là tốt nhất, cao nhất, ưu thắng, có thể đạt được thanh tịnh, là chánh xác”. Đấy là Kiến Tranh (見諍, tranh chấp về kiến giải). Do các loại kiến giải của các tôn giáo gia, triết học gia bất đồng, sẽ thường tranh luận, như tranh luận giữa những kẻ theo Thường Kiến Luận và Đoạn Kiến Luận, tranh luận giữa những kẻ theo Nhất Nguyên Luận, Nhị Nguyên Luận, Đa Nguyên Luận v.v…
Thật ra, Sự Lý trong thế gian luôn có tánh chất đối đãi, đối với chủng tộc bất đồng, thời đại bất đồng, các khu vực bất đồng, sẽ có sự phán đoán bất đồng về giá trị. Vì vậy, chớ nên so đo, chấp trước kiến giải của chính mình là chánh xác nhất, ưu thắng nhất, để rồi tranh luận hoặc đấu tranh cùng người khác. [Tranh luận thì] hãy nên khách quan, suy xét kiến giải của người khác theo quan niệm rộng rãi, tôn trọng, thấu hiểu lẫn nhau, trao đổi thuận thảo với nhau, hòa thuận, vui vẻ tạo lợi ích cho nhau.
Nói theo chân lý rốt ráo, chân lý có đặc tánh siêu việt đối đãi, do vậy nói chân lý là “tâm hành xứ diệt, ngôn ngữ dứt bặt”. Suy xét theo đặc tánh khái niệm, thì ngôn ngữ lẫn văn tự đều có tánh chất đối đãi. Do vậy, nhằm để giáo hóa chúng sanh, bậc thánh từ bi tuyên nói cảnh giới tự nội chứng, là đã có tánh chất đối đãi, vì cần phải thuận theo các đối tượng có căn cơ bất đồng mà thiện xảo lập bày các giáo pháp bất đồng, hoặc vận dụng phương thức biểu đạt bất đồng v.v… Do điều này, dẫu là các học phái bất đồng trong Phật giáo, cũng đừng nên chấp trước, so đo học thuyết của chính mình là chánh xác nhất, ưu thắng nhất. Trong khi các bậc thánh giáo hóa người khác, nhưng người ta chẳng tin hiểu, bậc thánh cũng sẽ chẳng sanh khởi phiền não mà tranh luận. Chẳng hạn như ngoại đạo tại Ấn Độ vì các thứ nghị luận điên đảo, đã hướng đến đức Thế Tôn cật vấn. Đức Thế Tôn cho rằng những thứ nghị luận ấy đều là pháp tranh luận, là hý luận điên đảo, chẳng lợi ích cho việc tu hành, bèn im lặng, không trả lời. Giống như có kẻ cật vấn: “Sừng thỏ là dài hay ngắn?” Cật vấn kiểu đó chính là chấp trước sừng thỏ tồn tại cho nên mới nêu ra câu hỏi, chính là hý luận điên đảo. Sừng thỏ vốn chẳng tồn tại, cớ sao lại cật vấn: “Nó là dài hay ngắn” cơ chứ?
1.1.2.4.2.1.4.5.2.5. Giới Cấm Thủ
(Luận) Vân hà Giới Cấm Thủ? Vị ư Giới, Cấm, cập sở y Uẩn, tùy kế vi thanh tịnh, vi giải thoát, vi xuất ly, nhiễm huệ vi tánh. Giới giả, vị dĩ ác kiến vi tiên, ly thất chủng ác. Cấm giả, vị ngưu, cẩu đẳng cấm, cập tự bạt phát, chấp tam chi trượng, Tăng-khư Định Huệ đẳng. Thử phi giải thoát chi nhân. Hựu kế Đại Tự Tại, hoặc kế Thế Chủ, cập nhập thủy, hỏa đẳng. Thử phi sanh thiên chi nhân. Như thị đẳng, bỉ kế vi nhân. Sở y Uẩn giả, vị tức Giới, Cấm sở y chi Uẩn. Thanh tịnh giả, vị tức thuyết thử vô gián phương tiện, dĩ vi thanh tịnh. Giải thoát giả, vị tức dĩ thử giải thoát phiền não. Xuất ly giả, vị tức dĩ thử xuất ly sanh tử. Thị như thử nghĩa, năng dữ vô quả đường lao, bì khổ sở y vi nghiệp. Vô quả đường lao giả, vị thử bất năng hoạch xuất khổ nghĩa.
(論)云何戒禁取?謂於戒禁。及所依蘊。隨計為清淨,為解脫。為出離。染慧為性。戒者。謂以惡見為先。離七種惡。禁者。謂牛狗等禁。及自拔髮。執三支杖,僧佉定慧等。此非解脫之因。又計大自在,或計世主。及入水火等。此非生天之因。如是等。彼計為因。所依蘊者。謂即戒禁所依之蘊。清淨者。謂即說此無間方便。以為清淨。解脫者。謂即以此解脫煩惱。出離者。謂即以此出離生死。是如此義。能與無果唐勞。疲苦所依為業。無果唐勞者。謂此不能獲出苦義。
(Luận: Giới Cấm Thủ là như thế nào? Chính là đối với Giới, Cấm, và các Uẩn để chúng nương vào, bèn tùy ý chấp trước, cho là thanh tịnh, là giải thoát, là xuất ly, có tánh chất ô nhiễm huệ. Giới có nghĩa là do ác kiến làm đầu, lìa bảy thứ ác. “Cấm” là nói tới các điều giới cấm trâu, chó v.v… cùng tự tay vặt tóc, cầm gậy ba nhánh, Tăng-khư Định Huệ v.v… Những thứ ấy chẳng phải là cái nhân của sự giải thoát. Lại còn là chấp trước Đại Tự Tại, hoặc chấp vào Thế Chủ, và vào trong nước, lửa v.v… Đấy chẳng phải là cái nhân để sanh lên trời. Đối với những điều như vậy, kẻ đó chấp trước là nhân. “Uẩn để nương vào” chính là các Uẩn để Giới và Cấm y cứ. “Thanh tịnh” chính là đối với những điều này bèn nói là phương tiện không gián đoạn, ngỡ là thanh tịnh. “Giải thoát” là cho rằng do những điều ấy, sẽ giải thoát phiền não. “Xuất ly” là cho rằng do những điều ấy, sẽ rời lìa sanh tử. Các nghĩa như thế ấy chẳng đem lại cái quả, chỉ uổng công. Nghiệp dụng của nó làm chỗ y cứ cho sự mệt mỏi, khổ sở. “Chẳng đem lại cái quả, chỉ uổng công” nghĩa là do những điều này, sẽ chẳng thể thoát khổ được).
Thể tánh của Giới Cấm Thủ “ư Giới, Cấm, cập sở y Uẩn, tùy kế vi thanh tịnh, vi giải thoát, vi xuất ly, nhiễm huệ vi tánh”, tức là đối với Giới, Cấm, và các Uẩn để chúng nương vào, bèn tùy ý chấp trước, ngỡ chúng là thanh tịnh, là giải thoát, là xuất ly. Đấy chính là Huệ bị ô nhiễm. Nghiệp dụng của Giới Cấm là “dữ vô quả đường lao, bì khổ sở y vi nghiệp”, tức là thực hiện chúng thì sẽ “chẳng đạt được cái quả, uổng công toi”. “Vô quả đường lao giả, vị thử bất năng hoạch xuất khổ nghĩa” (Không có quả, uổng công toi, có nghĩa là do những điều ấy chẳng thể thoát khổ được): “Đường lao” (唐勞) là nhọc nhằn, vất vả, mà chẳng có mảy may kết quả tốt đẹp gì. Ngoại đạo tuy nhọc nhằn, mệt mỏi tu hành các thứ Giới, Cấm v.v… nhưng họ chẳng thể đoạn trừ phiền não, chẳng thể đạt được “xuất ly khổ não”. Thành Duy Thức Luận thuyết minh về Giới Cấm Thủ có ý nghĩa tương đồng với luận này.
So đo, chấp trước Giới có nghĩa là “dĩ ác kiến vi tiên, ly thất chủng ác”, tức là do bị dẫn dắt bởi ác kiến sai lầm, điên đảo, mà lìa bỏ bảy thứ ác hạnh, tức là chẳng sát sanh, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm, chẳng nói dối, chẳng nói đôi chiều, chẳng ác khẩu, chẳng nói thêu dệt. Thật ra, nếu như cơ sở để trì giới là kiến giải đã sai lầm, điên đảo, thì trì giới kiểu đó cũng là sai lầm, điên đảo. Nhu kinh Tạp A Hàm nói: “Chư ác bất thiện pháp sanh, nhất thiết giai dĩ vô minh vi căn bản… Bất như thật tri cố, khởi ư tà kiến. Khởi ư tà kiến dĩ, năng khởi tà chí, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm, tà định” (Sanh ra pháp ác bất thiện, hết thảy đều lấy vô minh làm căn bản… Do chẳng biết đúng như thật, dấy lên tà kiến. Đã dấy lên tà kiến, sẽ có thể dấy lên tà chí, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm, tà định).
So đo, chấp trước Cấm có nghĩa là “ngưu, cẩu đẳng cấm, cập tự bạt phát, chấp tam chi trượng, Tăng-khư Định Huệ đẳng, thử phi giải thoát chi nhân. Hựu kế Đại Tự Tại, cập kế Thế Chủ, cập nhập thủy, hỏa đẳng, thử phi sanh thiên chi nhân. Như thị đẳng, bỉ kế vi nhân”, [tức là] so đo, chấp trước những cấm chế của trâu, chó v.v… và tự vặt tóc, cầm gậy ba nhánh, Tăng-khư Định Huệ v.v… là cái nhân giải thoát. Lại so đo, chấp trước Đại Tự Tại, hoặc Thế Chủ, và vào trong nước, lửa v.v… là cái nhân để sanh lên trời. Chấp trước những thứ cấm chế thì gọi là “phi đạo kế đạo” (chẳng phải là đạo mà tưởng là đạo), hoặc “phi nhân kế nhân” (chẳng phải là nhân mà coi là nhân).
Có ngoại đạo chấp trước “cấm chế của trâu, chó v.v…” là nguyên nhân của sự giải thoát. Vì ngoại đạo có thần thông, thấy trâu hoặc chó chết rồi sanh lên cõi trời, họ chẳng biết nguyên nhân thật sự. Do vậy, so đo, chấp trước phương thức sống của trâu, chó chính nguyên nhân sanh thiên! Do vậy, họ trì giới của trâu, hay trì giới của chó, chẳng ăn thịt trâu hay thịt chó, học tập phương thức sống của trâu hay chó!
Có ngoại đạo so đo chấp trước “tự vặt tóc” là nguyên nhân giải thoát. Khổ hạnh ngoại đạo chấp trước: Đã chịu hết thống khổ, sẽ được giải thoát. Do vậy, họ dùng các thứ phương pháp khiến cho thân tâm của chính mình khổ não, như tự mình vặt trụi tóc v.v…
Có ngoại đạo chấp trước “trì tam chi trượng” (cầm gậy ba nhánh) là nguyên nhân giải thoát. “Tam chi trượng” là dùng ba cây côn thẳng, khi sử dụng, bèn chụm một đầu của ba cây côn ấy tựa vào nhau, dùng dây buộc chặt; sau đấy, tách [đầu còn lại] của ba cây côn ấy ra, hình thành một cái giá ba chân, có thể đặt vững trên mặt đất. Hàng Bà La Môn của Ấn Độ đi tham học vấn đạo, phiêu bạt vô định, vì để tuân thủ giới cấm “gìn giữ khiết tịnh”, họ luôn giắt theo trượng ba nhánh bên mình. Sau khi đại tiện, bèn bày giá ba chân ra; sau đấy, treo bình nước ở giữa giá, có thể thong dong rửa mình, rửa tay kỹ lưỡng.
Số Luận ngoại đạo chấp trước Tăng-khư Định Huệ là nguyên nhân giải thoát. Tăng-khư là phiên âm của tiếng Phạn Sāṃkhya, dịch nghĩa là Số Luận. Số Luận ngoại đạo cũng tu Định, tu Huệ, lại còn chấp trước Định và Huệ của họ là phương pháp giải thoát.
“Đẳng”: Ngoại đạo Ấn Độ còn có rất nhiều “cấm chế”, như có kẻ chấp trước chẳng ăn thực phẩm đã được nấu chín, hay nướng. Phái Kỳ Na giáo (Jain) thì chấp trước lõa thể.
Có ngoại đạo chấp trước tín ngưỡng Đại Tự Tại là nguyên nhân sanh thiên. Đại Tự Tại chính là Đại Tự Tại Thiên15, được ngoại đạo Ấn Độ tín ngưỡng là vị thần tối cao. Trong số những kẻ tín ngưỡng Đại Tự Tại Thiên, lại có một phái gọi là Biến Hành ngoại đạo, họ cho rằng dựa vào sự hòa hợp giữa nam và nữ, cũng có thể sanh thiên, đạt được sự giải thoát thanh tịnh.
Có ngoại đạo chấp trước tín ngưỡng Thế Chủ (vị chủ tể của thế gian) là nguyên nhân sanh thiên. Có thuyết cho rằng Thế Chủ là Đại Phạm Thiên Vương. Có thuyết khác lại cho rằng Thế Chủ chính là Đại Tự Tại Thiên.
Có ngoại đạo cho rằng “vào trong nước, lửa v.v…” chính là nguyên nhân sanh thiên. Như chấp trước mỗi ngày đều phải vào tắm trong sông Hằng ba lần hòng thanh tịnh tam nghiệp. Hoặc chấp trước vào lửa để bị thiêu chết hòng được sanh thiên.
Thật ra, những điều cấm mà ngoại đạo chấp trước ấy chẳng phải là nguyên nhân và phương pháp để thật sự được giải thoát hay sanh thiên.
“Y sở Uẩn giả, vị tức Giới, Cấm sở y chi Uẩn. Thanh tịnh giả, vị tức thuyết thử vô gián phương tiện, dĩ vi thanh tịnh. Giải thoát giả, vị tức dĩ thử giải thoát phiền não. Xuất ly giả, vị tức dĩ thử xuất ly sanh tử” (Uẩn để nương vào chính là Uẩn để Giới, Cấm nương cậy. “Thanh tịnh” chính là nói những phương tiện chẳng gián đoạn ấy, ngỡ đó là thanh tịnh. “Giải thoát” là cho rằng nhờ vào những giới cấm ấy sẽ giải thoát phiền não. “Xuất ly” là do những giới cấm sẽ lìa khỏi sanh tử): Uẩn để nương vào tức là Ngũ Uẩn để Giới, Cấm y cứ. “Thanh tịnh”: [Ý nói] ngoại đạo chấp trước: Tu trì những phương pháp Giới, Cấm ấy, sẽ ngay lập tức có thể đạt được thanh tịnh. “Giải thoát” tức là ngoại đạo chấp trước [tu tập] những phương pháp ấy sẽ có thể giải thoát phiền não. “Xuất ly” tức là ngoại đạo chấp trước: Do những phương pháp ấy, sẽ có thể xuất ly sanh tử.
1.1.2.4.2.1.4.5.2.6. Nghi
(Luận) Vân hà Nghi? Vị ư Đế, Bảo đẳng, vi hữu? Vi vô? Do dự vi tánh. Bất sanh thiện pháp sở y vi nghiệp.
(論)云何疑?謂於諦寶等。為有?為無?猶預為性。不生善法。所依為業。
(Luận: Nghi là như thế nào? Chính là đối với Tứ Đế, Tam Bảo v.v… [mà ngờ vực] là có hay là không? Có tánh chất do dự. Nghiệp dụng của nó là làm chỗ y cứ để sanh ra pháp bất thiện).
Thể tánh của Nghi là “ư Đế, Bảo đẳng, vi hữu, vi vô, do dự vi tánh” (đối với Tứ Đế, Tam Bảo mà hoài nghi là có hay không, có tánh chất do dự): Hoài nghi sự lý “thiện nghiệp nhân, đắc thiện quả. Ác nghiệp nhân, đắc khổ quả” (do cái nhân là nghiệp lành sẽ đạt được quả lành; do cái nhân là nghiệp ác, sẽ đạt được quả khổ) có đúng hay không? Hoài nghi “tứ quả thánh giả” là có hay không? Hoài nghi Tứ Đế là đúng hay không đúng? Hoài nghi công đức thanh tịnh của Tam Bảo là có hay không? Vì những nỗi hoài nghi ấy mà chần chừ chẳng quyết đoán được. Nghiệp dụng của Nghi là “bất sanh thiện pháp sở y vi nghiệp”, tức là làm chỗ y cứ để chẳng sanh khởi thiện pháp.
Thành Duy Thức Luận thuyết minh về Nghi như sau: “Vân hà vi Nghi? Ư chư đế lý, do dự vi tánh, năng chướng Bất Nghi, thiện phẩm vi nghiệp” (Nghi là như thế nào? Có tánh chất do dự đối với các lý chân thật. Nó có nghiệp dụng là có thể chướng ngại Bất Nghi và các điều thiện). Thể tánh của Nghi là hoài nghi Sự Lý Tứ Đế là có hay không? Là đúng hay sai? Vì những nỗi hoài nghi ấy mà chần chừ chẳng thể quyết đoán được. Nghiệp dụng của Nghi là có thể chướng ngại Bất Nghi và các thứ thiện pháp.
“Do dự” (猶預) là chữ có âm láy, dùng âm thanh để diễn tả ý nghĩa, nhưng không có chữ ấy, có thể viết là do dự (由豫), du dự (游預), do dữ (猶與), do dự (猶預)…
Sơ Quả thánh giả đoạn trừ Tam Kết, tức Ngã Kiến, Giới Cấm Thủ, và Nghi. Đoạn trừ Nghi, tức là Sơ Quả đối với chân lý Tứ Đế, công đức của Tam Bảo v.v… đã lãnh hội chánh xác, sâu sắc, đoạn trừ nghi hoặc đối với Phật, Pháp, Tăng, Giới, còn gọi là Tứ Bất Hoại Tín (bốn niềm tin chẳng thể hư hoại được).
Du Già Sư Địa Luận nói Nghi dựa vào sáu sự mà sanh khởi:
1) Nghe ngóng Sự Lý chẳng chánh xác bèn hoài nghi Sự Lý chánh xác.
2) Trông thấy tà hạnh của sư trưởng, sẽ hoài nghi giáo pháp của sư trưởng. 3) Trông thấy Sự Lý mà chính mình tin nhận có khác biệt, bèn hoài nghi loại Sự Lý nào mới là chánh xác.
4) Chính mình ngu muội, chẳng thể chọn lựa Sự Lý dứt khoát, bèn hoài nghi Sự Lý.
5) Trí huệ của chính mình chẳng sâu, sẽ hoài nghi pháp tánh rất sâu.
6) Trí huệ của chính mình chẳng rộng, sẽ hoài nghi giáo pháp rộng lớn.
1.1.2.4.2.1.4.5.2.6. Tiểu kết
(Luận) Chư phiền não trung, hậu Tam Kiến cập Nghi, duy phân biệt khởi, dư thông Câu Sanh cập Phân Biệt khởi.
(論)諸煩惱中。後三見及疑。唯分別起。餘通俱生。及分別起。
(Luận: Trong các phiền não, ba kiến sau và Nghi chỉ do phân biệt mà dấy lên, những thứ khác đều do Câu Sanh và Phân Biệt mà dấy lên).
Trong mười thứ phiền não, Tà Kiến, Kiến Thủ, Giới Cấm Thủ [là ba thứ kiến chấp] thuộc phần sau, và Nghi chỉ từ phân biệt mà sanh khởi. Những thứ khác như Tham, Sân, Si, Mạn, Tát Ca Da Kiến, Biên Chấp Kiến, hoặc là do Câu Sanh (bẩm sanh) mà có, hoặc là từ phân biệt mà sanh khởi.
Nói theo Duy Thức Học, phiền não có thể chia thành hai loại lớn: Một là Câu Sanh phiền não, và hai là Phân Biệt Khởi phiền não.
1) Câu Sanh phiền não là phiền não có từ lúc mới được sanh ra, tánh chất vi tế, khá khó đoạn trừ. Tu đạo mới có thể đoạn loại Hoặc này. Do vậy, [Câu Sanh phiền não] lại còn gọi là Tu Hoặc (hay Tư Hoặc).
2) Phân Biệt Khởi phiền não là chịu ảnh hưởng từ tà giáo, tà sư v.v… ở bên ngoài, hoặc do sự phân biệt hư vọng của chính mình mà sanh khởi phiền não, tánh chất thô, rõ, khá dễ đoạn trừ. Kiến Đạo sẽ có thể đoạn loại Hoặc này; vì vậy, chúng còn được gọi là Kiến Hoặc.
Nguồn: Di Đà Nguyện Hải