ĐẠI THÁNH DIỆU CÁT TƯỜNG BỒ TÁT THUYẾT
TRỪ TAI GIÁO LỆNH PHÁP LUÂN NGHI QUỸ
(Trích trong Kinh VĂN THÙ TẬP HỘI, Phẩm TỨC TAI TRỪ NẠN Cũng có tên là XÍ THỊNH QUANG PHẬT ĐẢNH)
KINH SỐ 966
Phạn Hán dịch: Nước Trung Thiên Trúc_ Chùa Đại Na Lan Đà _ Phạn Tăng THI LA BẠT ĐÀ LA (Śīla-bhadra: Giới Hiền) Tam Tạng dịch ở Phủ Hưng Nguyên_ Bút Thọ Tăng TUỆ QUẢI vào Thời Trinh Nguyên năm thứ 12
Việt dịch: Sa Môn THÍCH QUẢNG TRÍ
[vc_separator color=”sky” style=”shadow” border_width=”6″ el_width=”60″]
Lúc bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi (Mañjuśrī) từ Thủ Lăng Nghiêm Tam Ma Địa (Śuraṃgama-samādhi) khởi dậy. Xem khắp Đại Chúng rồi bảo rằng: “Ta xem hết thảy Hữu Tình từ vô thủy tới nay chìm đắm trong sanh tử, bị các vọng nghiệp cột trói che lấp nên có thương ghét..v.v..hoặc bị các nghiệp báo mà chịu các thứ tai nạn. Nay Ta do Thần Lực của tất cả Như Lai gia trì lược nói phương tiện tùy thế, diệt trừ tai chướng, giáo lệnh chư Thiên, làm Pháp Đàn Phiến Để Ca (Śāntika: Tức Tai) . Đức Như Lai Đại Từ Bi nguyện vì các chúng sanh mà nói như vậy. Ta ở trong vô lượng kiếp nơi đời quá khứ chỗ Đức Phật Sa La Thọ Vương (Śālendra Buddha) được nghe Diệu Pháp này, nay sẽ nói ra, các ông nên lắng nghe. Pháp này có Lý Thú sâu rộng khó hiểu, nên theo Truyền Giáo A Xà Lê cầu thỉnh xin học, cũng cần lựa chọn Sao hạn ngày giờ tốt, thọ học Chân Ngôn Ấn Khế và Pháp Hộ Ma, an trí Đồ Tượng Giáo Lệnh Pháp Luân, cần học Giới Phẩm, thanh tịnh Thân Tâm , không được khuyết phạm 4 Trọng 10 Trọng. Nếu có khuyết phạm, không nên vì đó mà làm Pháp Niệm Tụng khiến bị các ương họa, không được hiệu nghiệm. Người trì Pháp này phải luôn thanh tịnh. Nếu vì quốc vương mà tạo lập Mạn Đà La hoặc dùng bột 5 màu hoặc dây lụa 5
màu, họa vẽ tượng Phật, Bồ Tát, chư Thiên, các hình. Trong ngoài phân chia các Tôn Vị theo thứ lớp, cần thanh tịnh bí mật mà làm, thân tâm chí thành cung kính tức được hiệu nghiệm. Các tai nạn tiêu trừ, Phước Đức tăng trưởng như la có tiếng , không cầu không được.
Lại không được cho các loại không tin Nhân Quả, Tà Kiến, Ngoại Đạo, ít Trí, không hiểu, ngu si, các hạng Đồ Tể, năm loại Chiên Đà La, Huỳnh Môn, Nô Tỳ, Dâm Nữ các loại… thấy Mạn Đà La khiến sanh phỉ báng. Kẻ phỉ báng có 2 thứ hại. Các hình tượng chư Thiên không hạp với phàm phu ngu si nên không cho, nếu khinh mạn tỏ bày ra thì các Linh Thần không vui, khó cầu các điều Phước. Nếu người hành Pháp không bí mật cầu thỉnh sẽ hư uổng việc làm. Kẻ ít Trí không hiểu Như Lai Đại Bi Phương Tiện dùng sức oai thần của Chân Ngôn. Phật dùng Thiện Xảo Huệ giáo sắc gia trì Nhật, Nguyệt, Tinh Tú, Du Không Thiên Chúng khiến cho phát Tâm Bi. Như Lai đã nói trong Phương Đẳng Đại Tập các Kinh Nhật Tạng, Nguyệt Tạng cũng như trong các Hội đều có hiển dương. Nay Ta vì các ông mà nói rõ ràng thứ tự an bố Pháp Tức Tai, Niệm Tụng, Mạn Đà La .
Nếu trong cõi nước có Nhật Nguyệt Bạc Thực (Mặt trời, mặt trăng bị che tối), 5 Tinh mất độ, hình sắc biến dị, hoặc Quái Tinh, Tuệ, Bột lấn áp Tú Mạng của đức vua, Quý Nhân. Hoặc Nhật Nguyệt khuy tổn (hao khuyết) ở trong Cung Bản Mạng.
Lúc này nên dùng Pháp Hộ Ma Tức Tai.
Hoặc bị các bệnh tật do các Quỷ Thần gieo rắc, bị nước khác xâm lăng . Nếu như có người hiểu biết trước, cần phải phụng thượng Mạn Đà La. Đế Chủ ngày ngày phát tâm thành kính, gần gũi tự phát nguyện cầu thỉnh gia hộ tức được thắng lợi, tiêu diệt giặc ác.
Nếu là người đời bị gặp các ách nạn, vương nạn, tặc nạn, kiện cáo khẩu thiệt. Hoặc oan gia lăng bức, các bệnh ác mà thuốc thang trị không hết. Ngay lúc đó nếu có tai họa, hoặc oan quỷ đời trước khiến cho gần chết thì y theo Giáo Pháp này họa vẽ, tạo lập Tức Tai Mạn Đà La, ẩn mật tụng trì, chí thành cầu đảo các Thánh Thiên Chủ, nguyện trừ tai họa khiến được các việc an lành. Cần nên rưới vảy phòng thất sạch sẽ, dùng phân trâu trắng, nước Bạch Đàn Hương hòa các hương thơm đem xoa nơi đất, dùng nước hương tán rải nơi đất, nơi các bức tường khiến cho thật sạch sẽ. Ở giữa vẽ Tức Tai Luân .
Nếu làm Địa Đàn, cần y giáo đào đất loại bỏ các vật ác như ngói, đá, xương cốt, lông, tóc, tro, than, các loại trùng độc…. Sau đó lấy đất sạch tốt ở bên bờ sông có chất ngọt hòa với nước thơm làm bùn dẻo rồi như Pháp mà tô đắp. Người họa sĩ không được uống rượu, ăn thịt, ngũ tân, xa lìa tham dục, cần nấu nước thơm tắm gội, mặc quần áo mới sạch. Mỗi buổi sáng sớm thọ 8 Trai Giới. Ở trên vải lụa trắng hoặc vải bố sạch sẽ vẽ một bánh xe 12 căm màu vàng. Nếu làm Địa Mạn Đà La, nên dùng bột 5 màu, mỗi màu đều dùng Chân Ngôn gia trì 7 biến hoặc 21 biến, sau đó mới dùng. Hoặc dùng các màu sắc họa vẽ 3 ngày 3 đêm, hoặc 7 ngày 7 đêm, cầu việc Phước xong cần phải xả bỏ. Nếu là Địa Đàn, nên bỏ các hình tượng, không được để lâu. Nếu để cho các loài chim, chuột, kẻ hạ tiện, Tà Kiến Ngoại Đạo, 5 Chiên Đà La, Huỳnh Môn, Nô Tỳ…. Nhìn thấy thì các Thánh Chúng đều không vui khiến phải bị chiêu tai họa. Nếu muốn đem theo ở thân mà đi thì ở trên vải lụa dùng màu sắc họa vẽ đo lường vuông một khuỷu tay hoặc 2 khuỷu tay, không được lớn quá 3 hoặc 4 khuỷu tay. Chia ra làm 70 Tôn Vị Phật, Bồ Tát, chư Thiên, hình tượng y Pháp an bố . Ở khoảng cách các căm vẽ Chữ Phạn của Chân Ngôn, không được để tên.
Nếu vì quốc vương thì phải làm Địa Mạn Đà La hoặc 16 khuỷu tay, 24 khuỷu tay cho đến 28 khuỷu tay, số này không đồng. Nếu như quốc vương sanh nghi ngờ thì ở trên giấy viết tất cả tên chư Thiên để dước các chư Tôn khiến cắt đứt nghi, sanh chánh tín. Nếu dùng chữ Phạn để tên là trên hết, như không biết chữ Phạn thì tùy văn tự nơi địa phương mà đề cũng được.
Ở trục bánh xe, phân nửa vẽ hoa sen trắng 8 cánh, chính giữa hoa dùng vàng hoặc bạc khắc Kim Luân Phật Đảnh Nhất Tự Đà La Ni Bột-rô-hồng (BHRŪṂ).
Sau chữ vẽ Xí Thịnh Quang Phật Đảnh quanh thân phóng ánh sáng lớn
Trước Phật đối Chân Ngôn vẽ Phật Nhãn Bộ Mẫu Bồ Tát màu hoa sen hồng đều trì Ấn Khế tiêu biểu.
Ở bên phải Đức Phật vẽ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát màu vàng đỏ cũng trì Bản Tiêu Ấn
Ở bên trái Đức Phật vẽ Kim Cang Thủ Bồ Tát màu hồng trắng cũng cầm giữ Tiêu Xí (cờ biểu)
Các vị đều ngồi Bán Già, 4 vị cùng đối nhau .
Ở bên phải Ngài Văn Thù vẽ Bất Tư Nghị Tuệ Đồng Tử Bồ Tát
Ở bên trái Ngài Văn Thù vẽ Cứu Hộ Tuệ Bồ Tát
Ở bên phải Ngài Kim Cang Thủ vẽ Tỳ Cu Chi Bồ Tát
Ở bên trái Ngài Kim Cang Thủ vẽ Quán Tự Tại Bồ Tát
Như trước 8 Đại Tôn đều có sắc tướng, Tiêu Xí, Ấn Khế, dung mạo theo Bổn Pháp. Dùng Kệ tụng rằng;
Đảnh Luân tuy một chữ
Kỳ đặc (đặc biệt lạ kỳ) làm Trung Tôn
Nghi Xí Thịnh Phật Đảnh Chân lông phóng ánh sáng
Đầu đội mão Ngũ Phật
Hai tay như Thích Ca
_ Văn Thù Tôn bên phải
Đầu đội Ngũ Trí Kế ( 5 búi tóc Trí )
Tay trái cầm sen xanh
Trên hoa dựng chày Trí
Tay phải: Kiếm Đại Tuệ
Ngồi Bán Già trên sen
_ Phật Nhãn Tôn phía trước
Thân tướng màu sen hồng
Tay trái: Ngũ Nhãn Khế
Tay phải: Như Lai Quyền
_ Kim Cang Thủ bên trái
Thân mạo màu hồng trắng
Tay phải: Hoa sen ngửa
Trên hoa: Chày Ngũ Trí
Tay trái trì: Linh Khế
Ngồi Bán Già trên sen
_ Tiếp vẽ Bất Tư Nghị
Diện mạo màu vàng đỏ
Hai tay Nội Hợp Quyền
Co hai Phong (2 ngón trỏ) đối nhau
Khiến lưng móng dính nhau
Hướng Văn Thù Phụng Thế ( tư thế dâng phụng )
_ Lại vẽ Cứu Hộ Tuệ
Thân tướng như sen trắng
Tay Tuệ (tay trái) che trái tim
Ngón Không (ngón cái) giơ thẳng lên
_ Bên phải Tỳ Cu Chi
Thân tướng đẹp như ngọc
Định Tuệ hai tay trước
Định (tay trái) cầm sen chưa nở
Tay Tuệ (tay phải): Thí Vô Úy
Hai tay Định Tuệ sau
Tay Định (tay trái) cầm xâu chuỗi
Tay Tuệ (tay phải) cầm Quân Trì
_ Tiếp vẽ Quán Tự Tại
Cũng hiệu Như Ý Luân
Chưởng trái: Ma Ni Châu
Tuệ (tay phải) duỗi Thí Nguyện Ấn
Thân tướng màu hồng trắng
Ngồi trong hoa sen lớn
_ Như vậy ngoài tám Tôn
Vẽ Giới Đạo vòng tròn
Ở trên Giới Đạo đó
Vẽ Chân Ngôn bốn Tôn
Ấy là Xí Thịnh Quang
Phật Nhãn Mẫu Bồ Tát
Văn Thù, Kim Cang Thủ
Mật Ngôn vẽ sau lưng
Phấn trắng và vàng, bạc
Đều thông Đệ Nhất Nghĩa
Ở phía ngoài Chân Ngôn nên vẽ 9 Chấp Đại Thiên Vương là: Nhật Thiên, Nguyệt Thiên, Ngũ Tinh (Kim ,Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), Thực Thần (La Hầu), Tuệ Tinh (Kế Đô) cùng với Đại Phạm Thiên Vương, Tĩnh Cư Thiên, Na La Diên Thiên, Đô Sử Đa Thiên , Đế Thích Thiên Chủ .Phía sau vẽ Ma Hê Thủ La Đại Thiên, cộng lại là 12 Tôn Vị. Các phương vị chia ra rõ ràng đầy đủ, vật cỡi, vật cầm tay (người truyền thụ Pháp này phải biết) .
Ở phía ngoài Đại Thiên này lại an bố Giới Đạo. Ở ngoài lối đi vẽ 12 cái chày Kim Cang Độc Cổ dựng đứng thông đến vành xe bên ngoài dùng làm căm của Kim Luân.
Ở giữa các căm, phía trước Đức Phật thuận theo bên phải lần lượt an trí Sư Tử Cung (Siṃha-vimana), Nữ Cung (Kanyā-vimana: Song Nữ Cung), Xứng Cung (Tulā-vimana), Yết Cung (Vṛśika-vimana:Yết Trùng Cung), Cung Cung (Dhanuvimana), Ma Yết Cung (Makara-vimana: Ma Kiệt Cung). 6 Cung này ở bên phải Đức Phật. Từ phía sau Đức Phật thuận chuyển cho đến phía trước Phật, an Bảo Bình Cung (Kumbha-vimana), Ngư Cung (Mīna-vimana: Song Ngư Cung), Dương Cung (Meṣavimana: Bạch Dương Cung), Ngưu Cung (Vṛsa-vimana: Ngưu Mật Cung), Nam Nữ Cung (Mithuna-vimana: Phu Phụ Cung), Giải Cung (Karkatāka-vimana: Bàng Giải Cung) . 6 Cung này ở bên trái Đức Phật.
Ở sau lưng Đức Phật an Hư Tú (Dhaniṣṭa), phía trước Đức Phật an 7 Tinh Tú Ở đây, phía ngoài 12 Cung , an trí 28 Tú đều y theo Bản Cung mà đặt để theo thứ tự.
Chỉ trừ tai cho quốc vương mới họa vẽ thêm các chư Thiên. Ngoài ra các hạng khác chỉ cần vẽ tên chư Thiên bằng chữ Phạn và hình các vì sao.
Phía ngoài 28 Tú, chung quanh vẽ Luân Duyên như hình Luân Võng (vành bánh xe) màu vàng ròng, rộng hẹp lớn nhỏ sao cho tương xứng với hình bánh xe.
Ở trên vành bánh xe này vẽ 8 Phương Thiên Vương (Thiên Vương ở 8 phương). Phía trước Đức Phật an Diễm Ma Thiên (Yama) . Phía sau Đức Phật an Đa Văn Thiên Vương (Vaiśravaṇa). Sau lưng Văn Thù trên vành xe an Thủy Thiên (Varuṇa). Sau lưng Kim Cang Thủ an Trì Quốc Thiên Vương (Dhṛta-rāṣṭra), Càn Thát Bà Vương. 4 góc an 4 Thiên: Góc Đông Bắc là Dục Giới Tự Tại Thiên (Īśana), góc Đông Nam là Hỏa Thiên (Agni) , góc Tây Nam là La Sát Chủ (Rākṣasādhipataye), góc Tây Bắc là Phong Thiên (Vāyu) . Ở trên vành bánh xe nơi hư không dùng vàng bạc vẽ Xí Thịnh Quang Phật Đảnh Chân Ngôn với Duyên Sanh Tứ Cú Kệ, Kinh Văn 12 Duyên Sanh : Vô Minh duyên Hành cho đến Sinh duyên Lão Tử ưu bi khổ não. Lại viết 12 Diệt Cú: Vô Minh diệt ắt Hành diệt cho đến Lão Tử Ưu Bi Khổ Não Diệt, chia ra đều ở trên vành bánh xe.
Lại ở phía ngoài bánh xe nên vẽ 108 hoa sen xanh, ngọn lá hoa sen như cúi xuống . Trên các cánh sen vẽ chữ A (狣) dùng phấn trắng hoặc vàng bạc mà vẽ, dùng vàng bạc là tốt nhất. Bên ngoài cánh sen, 4 biên giới Phương Ngoại 4 Duyên, chung quanh vẽ làm Giới Đạo. Ở trên Giới Đạo vẽ chày Kim Cang Độc Cổ tiếp nối nhau xoay theo vòng tròn hợp thành Kết Giới.
Ở trong Phương Giới, bên ngoài bánh xe, nơi hư không ở 4 góc vẽ 4 vị Đại Minh Vương dùng làm Ngoại Hộ.Phía trước Đức Phật, trong góc bên phải vẽ Tứ Tý Hàng Tam Thế Minh Vương màu xanh. Phía trước Đức Phật, trong góc bên trái vẽ Vô Động Minh Vương màu xanh. Phía sau Đức Phật, trong góc bên phải vẽ Tứ Tý Vô Năng Thắng Minh Vương màu đen tím. Phía sau Đức Phật, trong góc bên trái vẽ Tứ Tý Đại Lực Ô Sô Sáp Ma Kim Cang Minh Vương màu đỏ. Bốn vị Đại Minh Vương này đều ngồi trên bàn đá báu, chung quanh rực lửa mạnh. Như vậy y Giáo mà an bố. Đây gọi là Nhất Thiết Như Lai Bí Mật Trừ Tai Giáo Lệnh Pháp Luân.
Nếu khi có nạn, bên trên từ vua cho đến trăm quan, Thể Nữ. Bên dưới đến trăm liêu, Đạo, Tục, Phàm dân…trên Bản Mạng Tú bị 5 Tinh lấn áp lùi về trông coi. Hoặc Nhật Nguyệt Thực. Tuệ, Bột, Ác Tinh xâm phạm đến Bản Tú. Ngay lúc đó dùng Pháp này. Trang hoàng một Tĩnh Phòng, ở nơi sâu kín tạo Mạn Đà La không cho người khác biết, nếu có nhiếu người thấy biết tức cầu nguyện chẳng được, tai họa chẳng trừ.
Nếu quốc vương muốn Tức Tai thì nên trang hoàng một cái Điện sâu kín rồi lập Mạn đà la. Y Giáo như Pháp hộ tĩnh như Kinh đã nói. Đừng để cho người nữ, Huỳnh Môn, Nô Tỳ, người hạ liệt nhìn thấy khiến Đạo Tràng bị chạm xúc dơ uế. Hoặc các loài súc sanh, các giống không tốt như heo, chó, mèo, chuột cũng không được thấy Đạo Tràng. Nếu hay y theo như vậy thì vào trong Đạo Tràng chí thành cầu đảo các Thiên Thần, niệm tụng Xí Thịnh Quang Phật Đảnh Chân Ngôn ngày đêm không gián đoạn và tụng Chân Ngôn của các Tôn, ít thời 3 ngày 3 đêm, nhiếu thời 7 ngày 7 đêm hoặc 14 ngày đêm, chí Tâm trì niệm và làm Pháp Hộ Ma cho đến khi cảm ứng được Cát Tường. Đây là Tối Thắng , nên biết tội chướng quyết định tiêu diệt.
Nếu được ứng nghiệm rồi cần phải dẹp bỏ Mạn Đà La, không nên để lâu. Pháp này là như vậy. Nếu là Địa Đàn, nên đem các vật, bỏ xuống sông suối sạch. Nếu như tự mình không thể vào Đạo Tràng vì chuyện công, chuyện tư, hoặc lo việc quan, hoặc phải lo thù tiếp, hoặc phải ở nơi thanh tịnh cấm chế, hoặc thân mình hoặc vì trong nhà có người đau ốm, hoặc vì làm tôi tớ thân không được tự do, hoặc lưu lạc xứ người không nhà không cửa. Hoặc gần Tà Kiến, người ác, oan gia, các nạn không lập Đạo Tràng. Tức nên tìm cầu người hiểu biết Pháp này, chỉ dẫn rõ ràng, hoặc Đạo hoặc Tục, ân cần cầu thỉnh cúng dường, cung cấp các món cần dùng, nhờ họ tụng niệm cầu đảo, cẩn thận kín đáo tinh thành kiến lập Đạo Tràng. Sau đó chuyên tâm trì niệm khiến được vui vẻ.
Như có việc không thể lập Đạo Tràng được thì có thể ở nơi sạch sẽ thanh tịnh, trong phòng kín, hoặc chốn Già Lam, dùng một cái giường sạch sẽ để tạo Luân Đàn . Phía Bắc treo tượng Xí Thịnh Quang Phật Đảnh Luân Vương hoặc đối trước một tượng Phẫn Nộ Vương cũng được. Dùng phướng, phan, lọng báu trang sức Luân Đàn này.Ở trước Tôn Tượng như thế của Mạn Đà La, 4 mặt như Pháp dâng bày các món ăn uống, hoa, quả, cháo, sữa, cơm, bơ, đường, mật, mía, đèn, hồ đào…. Đốt hương , rải hoa cúng dường, chí tâm tụng niệm. Người làm Pháp này mặc toàn đồ trắng, ngày đêm như trên thì tai nạn liền diệt. Các vật đựng đồ cúng dường đều bằng bạc, nếu như không có thì dùng đồng trắng hoặc đồ bằng sứ trắng mới, không được dùng các đồ đã xái rồi. Ngày đêm không ngừng nghĩ, tụng Xí Thịnh Quang Phật Đảnh Đà La Ni. Các hương thiêu đốt thì dùng Trầm Thủy, Bạch Đàn, Bạch Giao, Huân Lục, Bạch Mao hòa lẫn…
Tụng niệm liên tục chẳng dứt , tình đến một ngàn một vạn, cho đến một Lạc Xoa hoặc 3 Lạc Xoa số tức được các Nguyện.Hoặc không cần Định Số, nên tụng Phật Nhãn Chân Ngôn, Chân Ngôn của 8 vị Bồ Tát thuộc nhóm Văn Thù Sư Lợi, Kim Cang Thủ . Mỗi khi vào Đạo Tràng trước tiên đều tụng 108 biến triệu thỉnh các Ngài vào Đạo Trường. Chân Ngôn của Chư Thiên và Tú Diệu đều niệm 7 biến.
Lúc Chánh Niệm Tụng thời phát sâu Tâm Từ. Thường dùng Phật Nhãn nhìn ngó Luân này, bên trên là hình tượng chư Thiên, bên dưới là Tâm cầu đảo, đốt hương phát nguyện cầu xin Ân Phước. Chẳng nên tác Tâm Phẫn Nộ giáng phục nương theo Thánh Cảnh ắt chẳng được tương ưng. Vì Các vị này đều là Thiên Tiên có đại phước đức, hành Bồ Tát Đạo dùng sức Thệ Nguyện nhận thân Trời (Thiên Thân) này để làm lợi ích cho Hữu Tình , khiến các chúng sanh cang cường hung ác sợ sệt mà tu Thiện … Há có thể đem so sánh với thân phàm phu cấu uế, hạ liệt, ít phước … mà muốn chiết phục hàng Tạo Hóa Thiên Tiên này ư ? !… Quả không thể có điều ấy. Do vậy cần phải suy nghĩ, hành Đạo cung kính sợ sệt. Khởi sâu Tâm Từ thương xót tất cả Hữu Tình bị ách nạn, nguyện khiến giải thoát, một lòng trì tụng Xí Thịnh Quang Phật Đảnh Chân Ngôn càng nhiều càng tốt.
Nay Ta diễn nói Đà La Ni là:
Ở dưới Sa-phát tra nên nói Phiến để ca thất rị duệ
Ná mạc tam mạn đa bột đà nam. A bát-la để hạ đa á sa na nam. Úm khư khư, khư tứ khư tứ , hồng hồng, nhập-phạ ra nhập-phạ ra, bát-ra nhập-phạ ra bát-ra nhập-phạ ra, để sắt xá để sắt xá, sắt trí rị sắt trí rị , sa-phát tra sa-phát tra, sa phạ hạ
_ Phật Nhãn Bồ Tát Chân Ngôn:
Nẵng mạc tát phạ đát tha nghiệt đế tỳ-dữu, ra-hạt đế tỳ-dược, tam miệu tam một đệ tỳ-dược. Úm, rô rô, sa-phổ rô, nhập-phạ ra, để sắt xá, tất đà, lô tả nễ, tát phạ lạt-tha, sa đà nĩnh duệ, sa-phạ hạ
_ Tâm Chân Ngôn là :
Úm, một đà lộ tả ninh, sa-phạ hạ
Hai tay chắp trống lòng
Mở Phong (ngón trỏ) vịn lưng Hỏa (ngón giữa)
Hai Không (2 ngón cái) đều đứng thẳng
Giống như năm con mắt
Niệm Chân Ngôn bảy biến
An mắt với hai vai
My Gian (Tam Tinh) làm Phật Nhãn
Thành mắt Phật Từ Bi
_Tiếp đến Diệu Cát Tường
Dùng Thanh Liên Hoa Khế
Bảy biến, triệu ba lần
Triệu dùng Độ Tuệ Phong (ngón trỏ phải)
Tưởng cỡi Sư Tử Vương
Lai giáng đến Đạo Tràng
Ban cho Nguyện đầy đủ
Tụng Chân Ngôn ấy rằng:
Nẵng mạc tam mạn đa một đà nam. Hệ hệ, cu ma ra ca, vi mục khất-để, bát-tha tất-thể đa, sa-ma ra sa-ma ra, bát-ra để chỉ-nhiên, sa-phạ hạ
_ Tâm Chân Ngôn là:
Úm, phạ kế ná nẵng mạc
_Tiếp đến Kim Cang Thủ
Ấn Tướng hiểu như sau
Hai Thủy (2 ngón vô danh) xoa bên trong
Địa (ngón út) Hỏa (ngón giữa) hợp thẳng đứng
Hai Không (2 ngón cái) cũng như Địa (ngón út)
Mở Phong (ngón trỏ) hình Ngũ Cổ Đây là Ấn Bí Mật
Kim Cang Thủ Minh là :
Nẵng mạc tam mạn đa phạ nhật-ra hách, chiến nỏa, ma ha rô sái nỏa, hồng
_ Tâm Chân Ngôn :
Nẵng mạc tam mạn đa phạ nhật-ra hách. Úm, phạ nhật-ra bá ni, phạ nhậtra tát đát-phạ , hồng
_ Tiếp đến Cứu Hộ Tuệ
Tay Định (tay trái) : Kim Cang Quyền
Ngồi thẳng để cạnh hông
Tay Tuệ (tay phải) thẳng năm ngón
Đem che nơi trái tim
Chận mạnh nơi Không Luân (ngón cái)
Niệm Chân Ngôn ấy là :
Nẵng mạc tam mạn đa một đà nẫm. Hệ, ma hạ ma hạ sa-ma ra, bát-la để chỉ-nhiên, sa-phạ hạ
_ Lại Bất Tư Nghị Tuệ
Ấn Tướng bày như sau
Định Tuệ (2 tay) xoa bên trong
Khiến thành ra Quyền Ấn
Hai Phong (2 ngón trỏ) duỗi hơi co
Ơ nơi lóng thứ ba
Khiến lưng móng dựa nhau
Hai Không (2 ngón cái) đều đứng thẳng
Nẵng mạc tam mạn đa một đà nam. Hệ hệ, khẩn chỉ ra duệ tỷ, a vĩ sa-ma dã, ninh duệ, sa-phạ ha
_ Tiếp đến Bậc Phụng Giáo
Ấn Tướng như nói trên
Cứu Hộ Tuệ Bồ Tát
Khế ấy đã biết trước
_ Tiếp Tỳ Cu Chi Tôn
Ấn Khế diễn như sau
Định Tuệ (2 tay) Nội Hợp Quyền
Nâng Phong (2 ngón trỏ) giao lóng trên
Hay diệt mọi tai nạn
Diệt trừ các khổ ác Vì lợi ích hữu tình
Tức nói Chân Ngôn là :
Nẵng mạc tam mạn đa một đà nam. Tát phạ bội dã, đát-ra tán nễ, hồng, saphả tra dã , sa-phạ hạ
_ Tiếp đến Quán Tự Tại
Cũng hiệu Như Ý Luân
Định Tuệ (2 tay) Kim Cang Phược
Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) như cánh sen
Hai Phong (2 ngón trỏ) như hình báu
Không Luân (ngón cái) tựa như phướng
Nâng Địa (2 ngón út) giao lóng trên Đêy là Tiểu Tâm Khế
Tức nói Chân Ngôn là:
Nẵng mạc tam mạn đa một đà nẫm. Úm, bát ná-ma tiến đa ma ni, nhậpphạ ra, hồng
_ Tâm Trung Tâm:
Úm, phạ ra nẵng bát ná-minh hồng
_ Ma Hê Thủ La Thiên Vương Chân Ngôn: (đây là Đại Tự Tại Thiên)
Nẵng mạc tam mạn đa một đà nẫm. Úm, ế hệ duệ tứ, ma hề thấp-phạ ra dã, sa-phạ hạ
_ Lại nói Dục Giới Tự Tại Y Xá Na Chân Ngôn (Tiểu Tự Tại)
Nẵng mạc tam mạn đa một đà nẫm. Rô nại ra dã, sa-phạ hạ
_ Đại Phạm Thiên Vương Chân Ngôn:
Nẵng mạc tam mạn đa một đà nẫm. Úm, ma hạ một-ra hàm-ma duê(, ế hê duệ tứ, sa-phạ hạ
_ Thỉnh Triệu Thập Nhị Cung Thiên Thần Chân Ngôn là :
Nẵng mạc tam mạn đa một đà nẫm. Úm, khất-ra hê thấp-phạ rị dã, bát-ra đa nho, thất-lị ma dã thương kê, hồng tạc, sa-phạ hạ
_ Thỉnh Triệu Nhị Thập Bát Tú Chân Ngôn là :
Nẵng mạc tam mạn đa một đà nẫm. Úm, a sắt-tra vĩ-dựng thiết để nẫm,nặc khất-sát đát-lệ tỳ-dược, nẵng nại ninh duệ , thương kế , hồng tạc, sa-phạ hạ
_ Chân Ngôn đều Thỉnh Triệu Chư Thiên với 7 Diệu, 12 Cung Thần, 28 Tú, các Chấp và Địa Thiên đẳng là :
Ná mạc tam mạn đa một đà nẫm. Úm, tát phạ nễ phạ đa nẫm, ế hê duệ tứ, a nễ để-dã, tố ma, bán tả nặc khất-sát đát-ra , ra hô , kế đô, ná-phạ nại xả vĩ ma na, a sắt-tra vĩ-dựng thiết để, bát-rị thể phệ duệ, thương chỉ, hồng, tạc, sa-phạ hạ
_ Tiếp bày rõ các Thiên
Đại Tự Tại Thiên Ấn
Tuệ vũ (tay phải) duỗi năm ngón
Nâng gò má nghiêm trụ
_ Tam Muội (tay trái) duỗi năm ngón
Không (ngón cái) giữ lóng trên Phong (ngón trỏ)
Là Đại Phạm Thiên Khế
Ấn chắc, niệm Bổn Minh
_ Tay Định (tay trái) nắm thành quyền
Hỏa (ngón giữa) duỗi, Phong (ngón trỏ) co lóng
Giống như chống cây giáo
Y Xá Na Thiên Ấn
_ Định Tuệ (2 tay) hợp bền chắc
Dựng thẳng hai Không Luân (2 ngón cái)
Hợp chắc giống cây phướng
Nhất Thiết Chấp Diệu Ấn
_ Không đổi Ấn Tướng trên
Không (ngón cái) Hỏa (ngón giữa) đều xoa nhau
Khiến ngón dựa lưng tay
Là Nhất Thiết Tú Khế
_ Lại nói Thiên ngoài Giới
Các Ấn Tướng bí mật
Y Xá đã nói trước
Tiếp thuật Thiên Ấn khác
_ Phương Đông: Trì Quốc Vương
Nâng tay phải nắm quyền
Tay trái chống nơi hông
Gọi là Bổn Hộ Ấn
_ Định Tuệ (2 tay) trong nắm quyền
Duỗi Thủy Luân (ngón vô danh) kèm dựng
Chuyển động tấu âm nhạc
Là Càn Thát Bà Ấn
_ Tay Định (tay trái) ngửa ngang tim
Hỏa (ngón giữa) Không (ngón cái) cùng vịn nhau
Giống như hình tam giác
Đây là Hỏa Thiên Khế
_ Tay Tuệ (tay phải) dựng bốn ngón
Không (ngón cái) nằm ngang trong chưởng (lòng bàn tay)
Co Phong (ngón trỏ) triệu ba lần
Là tướng Triệu Hỏa Thiên
_ Cửa Nam Diễm Ma Vương
Ấn ấy bày như sau
Hai tay hợp làm sen
Địa (ngón út Không (ngón cái) rũ vào chưởng
Tướng như là Đát Nõa
Gọi là Tử Vương Tiêu
_ Lại nói Phương Tây Nam
La Sát Sa Vương Ấn
Chắp tay như hoa sen
Hai Thủy (2 ngón vô danh) xoa bên trong
_ Tiếp đến Tây Long Phương
Định Tuệ (2 tay) nội hợp quyền
Hai Phong (2 ngón trỏ) như cái vòng
Là Thủy Chư Long Khế
_ Tay Định (tay trái) nắm thành quyền
Địa (ngón út) Thủy (ngón vô danh) dựng như phướng
Tưởng phướng ấy lay động
Uy nộ hộ các góc (phương ngung)
_ Tiếp Bắc Tối Thượng Phương
Đa Văn Thiên Vương Khế
Tay Tam Muội Trí Tuệ (2 tay)
Xoa trong nắm thành quyền
Hai Hỏa (2 ngón giữa) hợp như núi
Giống như là hình báu
Là Ấn của chư Thiên
Kết Ấn mà mời thỉnh
Khiến hộ người Đạo Tràng
Tất cả đều mãn nguyện
_ Thỉnh Triệu chư Thiên xong
Lại niệm các Duyên Khởi
Câu Kệ đọc rõ ràng
Ba biến hoặc bảy biến
Các Pháp do Duyên sanh
Như Lai nói Nhân đó
Pháp này Nhân Duyên hết
Là Đại Sa Môn nói
Kệ mười hai Duyên sanh
Trước sau tụng niệm đủ
Vẽ Đàn với Xưng Niệm
Mỗi mỗi đừng lãng quên
Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh Sắc, Danh Sắc duyên Lục Nhập, Lục Nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên Lão Tử Ưu Bi Khổ Não.
Lại viết Diệt Cú tức là 12 Duyên Diệt:
Vô Minh diệt tức Hành diệt, Hành diệt tức Thức Diệt, Thức diệt tức Danh Sắc diệt, Danh Sắc diệt tức Lục Nhập diệt, Lục Nhập diệt tức Xúc diệt , Xúc diệt tức Thọ diệt, Thọ diệt tức Ái diệt, Ái diệt tức Thủ diệt, Thủ diệt tức Hữu diệt, Hữu diệt tức Sanh diệt, Sanh diệt tức Lão Tử Ưu Bi Khổ Não diệt
Bên phải ngoài Luân (bánh xe) trên 108 cánh sen, mỗi mỗi đều vẽ chữ A (狣). Mỗi khi trì tụng, phát nguyện tác bạch Thánh Chúng, tay bưng lư hương, chí thành cung kính quỳ lạy Phật mà nói rằng:
“ Đệ Tử tên là…. Nay xin Quy Mạng 3 báu Phật, Pháp, Tăng, Hải Hội Thánh Chúng. Ngưỡng bạch Pháp Thân Thanh Tịnh Biến Chiếu Như Lai. Cáo khắp mười phương chư Phật, Chúng Đại Bồ Tát, tất cả Hiền Thánh, Thanh Văn, Duyên Giác, Ngũ Thông Thần Tiên, 9 Chấp Đại Thiên, 12 Cung Chủ, 28 Tú, Chúng Thánh Linh Kỳ, 4 Đại Minh Vương, 8 Thiên hộ thế với các Quyến Thuộc , Thổ Địa, Sơn Xuyên Hộ Pháp Chư Thần, Nghiệp Đạo Minh Quan, Bổn Mạng Tinh Chủ.
Nay con gặp phải tai nạn (cầu gì thì nói cho đầy đủ) lăng bức.
Du Không Đại Thiên nguyện thuận Phật Giáo Sắc xin nhận sự cầu thỉnh của con đều đến dự Hội, nhận lấy Đàn Na (Thức dâng cúng) phát tâm vui vẻ, vì con (họ tên… ) trừ diệt tai nạn, cấp ách như vậy. Con nương theo lực Từ nhiếp hộ của Đại Thánh gặp nghe Giáo này mà nhổ bỏ Nghiệp khổ luân hồi của chúng con với tất cả Hữu Tình.
Nguyện xin 9 Chấp Thiên Thần y theo Phật Giáo Luân biến Tai thành Phước ban cho con sự không sợ hãi khiến trụ an vui. Đời sau cùng kết làm quyến thuộc của Bồ Đề. Vĩnh viễn xa lìa yêu ghét, tạo ích lợi cho nhau. Nguyện ban cho sự Vô Úy khiến cho con được Cát Tường”
Mỗi ngày 3 Thời hoặc 4 Thời, hoặc giờ Thìn (7giờ đến 9 giờ sáng) phát nguyện cầu thỉnh đều được các nguyện. Ngoại trừ kẻ không chí tâm, lười biếng, kiêu mạn thì sự mong cầu không có ứng (Sở cầu vô ứng).
Người gặp tai ách, chí thành phát nguyện, Đạo Tràng, đủ ngày y Chân Ngôn Giáo Pháp. Dùng bơ, mật, lạc, sữa, cây… làm Hộ Ma và cúng thí 8 Phương Thiên với đem thức ăn thí cho các hàng Quỷ Thần. Trong một chậu nước, bỏ các thứ ăn uống ngon ngọt, trái cây…đều nên bẻ nát. Tụng Thí Diễm Khẩu Chân Ngôn, khởi Tâm Từ Bi gia trì 7 biến hoặc 49 biến hoặc 108 biến rồi đem bỏ ra ngoài thành hoặc ngoài nhà, nơi đất sạch cho các Quỷ Thần không có tên, không có địa vị …ăn . Hoặc đổ xuống sông, suối, nước chảy sạch sẽ. Như vậy y Giáo làm thì tất cả tai nạn đều được trừ diệt.
Thời Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo Đại Chúng rằng: “Ta từng nghe Giáo Pháp này cho đến nay thường vì chúng sanh diễn nói như vậy. Tất cả Như Lai đều chứng biết cho Ta diễn nói Giáo Lệnh Trừ Tai Pháp Luân xong.. Các ông, các Thiên Chúng nên như lời dạy của Đức Phật mà kính thuận phụng hành”
Bấy giờ chư Thiên nghe nói Kinh này xong đều rất vui vẻ, khác miệng cùng lời đều nói rằng: “Kính y Thánh Chỉ, chẳng dám trái ngược, tin nhận phụng hành” rồi lui ra.
XÍ THỊNH QUANG PHẬT ĐẢNH NGHI QUỸ
_Hết_