ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH TÙY SỚ DIỄN NGHĨA SAO

QUYỂN 03

Đời Đường, Đại sư Trừng Quán

-Hỗ trợ cho nghĩa lớn đã có từ trước, không muốn tạo sự ngăn che, làm lệch lạc kiến giải của người khác: Tức là bản dịch kinh Hoa Nghiêm vào đời Đông Tấn (Do đại sư Phật Đà Bạt Đà La) 39-429 dịch, gồm sáu mươi quyển, Số 278 tập 9, ĐTK Đại Chánh Tân Tu) Về ngôn từ đã tinh tế, tông chỉ sâu kín đã được mở rộng, bao trùm, diệu nghĩa đã được thể hiện đầy đủ. Đại sư Hiền Thủ (643-712) nhân đấy mà đề xuất diệu lý “Chu biến hàm dung” (Hiện hữu khắp, không gì là không bao trùm, dung nạp) nên đã giảng giải đến phần năm thứ mây ngưng trụ nơi hư không, đại địa hiện đủ sáu cách chấn động. Nhưng ở đây muốn nói tới người kế tục sự nghiệp của đại sư (chỉ cho đại sư Tuệ Uyển 673-743, đệ tử của đại sư Hiền Thủ) tác giả sách “San Định Ký” (Hoa nghiêm kinh lược sớ san định ký). Tuy gọi là bước vào cửa của Thầy mà không rõ con đường của sự mất dê, đi ngang qua nhà của các bậc thiện hữu mà vẫn còn mê mờ, không biết trong túi áo có hạt ngọc. Thế nên nghĩa lớn luôn bị chống trái, lời vi diệu cứ mài khuất chìm. Phá bỏ “năm giáo” mà lập ra “Bốn giáo”, xen lẫn những kiến giải sai lạc, khiến quyền thật chẳng phân minh, tiệm-đốn sao có thể biện giải được? Phân tích ý chỉ diệu của mười cửa huyền diệu để lập nên hai lớp, (tức mười thứ đức tướng, mười thứ Nghiệp dụng) chỉ tăng thêm sự phức tạp, rối rắm! Kiến giải không có gì khác lạ, nên bàn về “Tướng của đức” mà không nói tới tính chất “Tương tức, tương nhập” thì cái Thể của Dụng chẳng thành. “Tướng của đức” chẳng thông hợp với nẻo nhiễm, thì diệu chỉ của sự “Cùng thông hợp” đâu có thể đứng vững! Lý do của việc nêu ra mười cửa Huyền diệu hầu như đã quá rõ, lại khiến cho hai nẻo tướng, dụng bỗng dưng trở thành khác biệt. Lấy tướng của duyên khởi nhân đấy cho là tông chỉ huyền diệu, cùng với lý, tánh dung thông làm một nẻo, nên khiến cho tính chất duyên khởi rộng lớn của pháp giới, tức pháp môn “Một nhiều cùng thông hợp” càng bị ẩn khuất. Những lối giải thích đại loại như thế tạo nên ảnh hưởng đâu phải là nhỏ! Ở đây không phải là trọng xưa xem nhẹ nay, mà là không muốn dối lừa đối với những người đã mất. Nay, phát huy ý nghĩa xưa, lời Sớ giải mới phần nhiều dựa theo ý cũ mà giảng diễn, khai triển, tạo thêm từ mới. Nếu chỗ giống với lời văn “San định”, thì đều là do nghĩa xưa mà nay cùng dùng thôi.

-Dứt bỏ hẳn những ngôn từ không có căn cứ, cố gắng luận bàn một cách thấu đáo về diệu lý:

Lời văn hoa mỹ càng khuất lấp nghĩa lý, ngôn từ phiền phức há chẳng do tâm loạn động? Lối giảng giải quá đỗi chi li đã như xen lẫn với bụi bặm bay mất, những trích dẫn lớp lớp câu kinh lại chỉ khiến hao tốn giấy mực. Tùy tiện dẫn ra nhiều Phạm ngữ cũng chẳng có lợi gì cho văn của kinh. Thứ lớp theo sát kinh văn để giải thích, lại càng không thấy được chân lý, khác nào khói kết tụ thành mây che phủ bầu trời. Đối với những trường hợp ấy, nay đều loại bỏ hết, cũng như luồng gió mạnh cuốn sạch mọi lớp sương mù.

Tuy nhiên, văn của kinh phần nhiều theo thể thức mười câu. Nếu hơn một nữa trở lên, khó thì cố gắng giải thích đầy đủ, diễn đạt cặn kẽ mà không rườm rà. Dễ thì trình bày tóm lược mà không để thiếu. Còn như từ năm, sáu câu trở xuống, khó thì nêu dẫn từ câu để giải thích, dễ thì khỏi phải giảng giải. Nếu lời văn và ý nghĩa đều dễ thì chỉ bàn một cách khái quát. Còn như văn dễ mà ý khó thì theo tướng chung mà thâu tóm lại. Nếu ý tưởng dễ mà lời văn khúc mắc thì nắm lấy chỗ vi tế mà bỏ văn. Còn gặp trường hợp cả lời văn và ý nghĩa đều khó, thì trước nêu ra ý, sau mới giải thích, khiến đạt được chỗ thật mà chẳng thô kệch, giản lược mà dẫn thấu đáo. Những điều vừa nêu chính là bản tâm của người viết sách sớ này.

-Khéo làm rõ tông chỉ của mình và người, không bài bác một cách sai lạc: Là do người đi trước (chỉ sư Tuệ Uyển), trong công việc trích dẫn kinh, Luận cùng đã phá kiến giải của người khác, không chịu tham vấn về tánh, tướng phần nhiều, chẳng chịu qúan xuyến khắp gốc ngọn, đuôi đầu, vội trưng dẫn vội đã phá. Hoặc sử dụng nhiều về Pháp tướng, mà lại khẳng định đó chỉ là quyền, dẫn quyền để giải thích thật. Lại chẳng phân biệt chỗ thông hợp, hạn định, khiến cho hàng hậu học nghi ngờ, lầm lẫn. Hoặc cho điều đúng của người xưa là sai, hoặc cho quyền là thật. Đối với những kiến giải kiểu ấy, nay đều dứt bỏ. Hoặc bài bác, hoặc nêu dẫn, trước hết là chỉ rõ các nghĩa, khiến tánh, tướng không thiếu, đạt tới tận cùng mọi ý tưởng trạng thái của nó, sau mới bàn rộng về lý ấy, đối chiếu, phán quyết luôn phân minh, giúp cho người tu học không bị vướng mắc dấu vết cổ xưa mê mờ tông chỉ, không hiểu lầm là chẳng phải nghĩa xưa, cũng chẳng phải nhọc sức xem khắp hay chỉ tìm cầu về một bên.

-Phân tích, biện luận về xưa nay, nhằm làm rõ chỗ khác biệt nơi nghĩa cũ mới: Tức sách “Hoa Nghiêm kinh Thám Huyền ký” của đại sư Hiền Thủ (Pháp Tạng) là giải thích kinh Hoa Nghiêm theo bản dịch đời Đông Tấn, đại thể về tông chỉ thì giống nhau, nhưng ở nơi ngôn từ thì có chỗ sai khác. Cho nên nêu dẫn để giảng giải, cần phải xem rõ chỗ chú thích. Ví như nơi phẩm Phát Tâm, bản dịch đời Tấn viết: “Dĩ thị phát tâm tức đắc Phật cố” (Theo đấy mà phát tâm thì liền đạt được quả vị Phật). Còn bản dịch đời Đường thì viết: “Dĩ thị phát tâm đương đắc Phật cố” (Theo đấy mà phát tâm thì sẽ đạt đến quả vị Phật). Rõ ràng là tức và đương đã khác nhau, thì đâu được đem chữ tức của ngày xưa để giải thích chữ đương của ngày nay. Một số trường hợp khác đại loại nhiều như vậy. Điều cần nói thêm là, người đi trước (chỉ sư Tuệ Uyển), từ phẩm Thập Hạnh trở về trước đều dựa theo ý của đại sư Hiền Thủ mà tu chính, bổ sung, rồi Sớ giải tắt; Từ phẩm Hồi Hướng trở xuống, thì đều sử dụng sách “Thám Huyền Ký”; Từ ba địa, trong Phẩm Thập Địa, trở xuống thì hầu hết chỉ ghi chép theo sách xưa. Hai bản kinh được dịch có những chỗ khác nhau nhỏ, cần phải tham khảo để tránh sự lẫn lộn, mà lời văn cũng chẳng phải là một.

-Chỉ rõ về hình tướng của pháp, nhằm hiển bày tính chất bao hàm của kinh: Rõ ràng là tướng đối với Tánh, cũng như mặt trời mặt trăng của bầu trời, là quẻ càn, khôn của sách dịch. Đông Hạ (Trung Hoa), Tây vực, tông phái được phân ra, giáo pháp được khai mở, người học hỏi phải gồm đủ hai nẻo thì mới xứng đáng là hàng thông đạt. Như thế thì khi giải thích kinh điển, sự việc cần phải nêu ra chỉ rõ, tuy nhiên, phần “Pháp tướng” của kinh nầy, danh, nghĩa gồm rộng. Hoặc có danh, không nghĩa; hoặc có nghĩa, không danh. Người đi trước đã tỏ ra thiếu thận trọng khi tìm thấy một Danh, liền nêu dẫn rộng để giải thích, bàn luận. Theo danh để giải nghĩa, thì nghĩa trở nên vô cùng. Như giải thích phẩm Tịnh Hạnh với một trăm bốn mươi mốt hạnh nguyện thì dùng đủ các pháp môn để bình phẩm. Giải thích về bốn quả vị nơi Phẩm Phạm Hạnh thì căn cứ vào khắp các Tông. Tuy hết thảy đều là pháp môn, nhưng tính chất thâm diệu nơi quán, hạnh bị che lấp ở chỗ danh, tướng, các chi tiết như vậy, nay chỉ nêu bày tóm lược mà thôi.

Người xưa, nếu gặp trường hợp có nghĩa mà không danh thì chẳng

cần biết nguyên do. Nay thì sẽ nêu dẫn các kinh, Luận, dùng danh để ghi nhận, thâu tóm, khiến cho phần Pháp tướng trong kinh được nêu tỏ rõ nơi các chỗ luận giải. Như hai mươi mốt thứ công đức nơi Phẩm Đâu Suất thì có nghĩa mà không danh, phần đầu của Phẩm Ly Thế Gian thì có danh mà không nghĩa. Nay nơi Phẩm Đâu Suất sẽ nêu dẫn rộng các kinh, Luận để giải thích, còn nơi Phẩm Ly Thế Gian thì chỉ trình bày tóm tắt.

Lại như nơi Phẩm Ly Thế Gian, vốn bao hàm đủ các quả vị, trong mỗi mỗi quả vị đều thu nhiếp đầy đủ các nghĩa. Hoặc danh khác mà nghĩa đồng, hoặc trước, sau, rộng, tóm, nhưng không làm sai lệch thứ tự bốn mươi hai quả vị ấy, nay đều nêu dẫn đủ kinh văn nơi Sáu Hội, đối chiếu với trước, giải thích một cách rõ ràng để có thể nhận thấy, khiến cho bảy quyển kinh, câu câu đều có căn cứ.

Xem xét nghiệm kỹ, sự giải thích của người đi trước phần nhiều chỉ là lời ức đoán, phỏng theo. Nhưng nơi hai tông Tánh, Tướng, về Pháp tướng cũng có chỗ giống, chỗ khác. Như nói về năm mắt, mười mắt, sáu thần thông, mười thần thông, thảy đều nhằm chỉ rõ, khiến hoàn toàn dứt sạch hết mọi thứ nghi ngờ. Hoặc như nơi quyển đầu, phần tán thán Đức, giải thích về mười thân, thì đó là Pháp tướng của tông Pháp tánh. Giải thích về trí hội nhập ba đời, dẫn rộng về Bốn Trí, thì đấy là Pháp tướng của tông Pháp tướng. Dùng pháp môn “Chúng hải giải thoát” để giải thích danh mục của “chúng Hải”, thì đó là Pháp tướng của tông phái Tánh. Dùng sáu độ của chín môn để giải thích về mười độ trong kinh, tức là Pháp tướng của tông Pháp tướng. Như mười Thông, mười Nhẫn hợp với sáu Thông, năm Nhẫn; mười Thân mười Trí bao hàm cả ba Thân, ba Trí. Mười môn Niết-bàn thông hợp với bốn thứ Niết-bàn. Mười thứ Trí của Phật mà mỗi trí dung thông đối với bốn Trí. Tất cả đều là Pháp tướng của hai tông Tánh, Tướng không trái nhau. Tiếp xúc từng loại chẳng phải là một.

Thêm nữa, chỗ biện minh về Pháp tướng nơi các bản Sớ giải kinh, hầu hết đều mới xuất hiện gần đây. Như nơi kinh Pháp Hoa chỉ nói về tri kiến của Như Lai, diệu lực vô sở úy, thiền định, giải thoát, Tam muội với sự thâm nhập sâu xa không giới hạn. Thì ở đây liền tán dương rộng khắp về trí Phật sâu xa. Chỉ một chữ Lực đã lập ra chương “Mười lực”, chữ “Vô sở úy” thì lập ra chương “Tứ Vô sở úy”. Thiền thì lập ra chương Tứ Thiền, Định liền lập thành chương “Bát Định”, giải thoát, Tam muội cũng đều được lập thành chương môn. Lối Sớ giải như vậy dẫn đến ngàn chương, vạn chương, giải thích một quyển kinh không biết tới lúc nào mới hết!… Hoặc như để giải thích thành nghĩa cảnh của chủng trí cũng cần phải tìm học nhiều môn. Nếu như chọn tông chỉ huyền diệu của Pháp Hoa, chỉ nêu rõ về tính chất chúng sanh cùng có tri kiến, nội trước tiên nêu ra chúng sanh, cũng không thể năm hay mười chương mà nói đủ hết nghĩa huyền diệu của nó…

Còn như Hoa Nghiêm thì có khác đối với những điều vừa nêu. Như mười Độ, mười Lực, trong một quyển kinh có đến mấy chục chỗ nêu ra, cần phải thâu tóm vào một chương thì mới lãnh hội ngay được yếu chỉ huyền diệu. Như trong phẩm Thập Địa dùng Pháp tướng làm môn quán chiếu. Nếu chẳng rõ về “Tam Tụ” thì há biết được tên gọi của địa Ly Cấu? Chẳng tỏ về “Bát Thiền” thì sao thông đạt sự hành hóa của địa Phát Quang? Đạo phẩm của Tứ Địa, thành tựu ánh sáng trí tuệ của quả vị vô sanh. Các đế của năm ngũ địa đều đạt tới chỗ tận cùng nơi chân, tục để hóa độ muôn loài. Trí tuệ nơi lục địa phải quán về duyên sanh; mười môn hiện bày như sao, ba quán trọn vẹn như trăng tròn, nghiên cứu thấu đáo về tánh, tướng, thì trí tuệ hiện rõ trước mắt. Thất địa thông tỏ tát cả các pháp Bồ-đề phần mà quyền thật song hành. bát địa gồm thâu bảy pháp khuyến tu, mới thấy cái đạo tu tập không dụng công. Cửu địa an trụ nơi quả vị pháp sư thì thuốc và bệnh cần phải biết rõ. Chẳng đạt được bốn mươi thứ biện tài, sao có thể hóa độ chúng sanh rộng khắp? Đạt đến thập địa, mới thấu tận sự huyền diệu, sâu xa của Chủng trí. Sự sáng rõ hiển bày của bốn mươi hai quả vị đều xứng hợp với quán, hành. Năm lượt nhân quả nơi chín hội làm rõ Phật đạo là bao quát, viên mãn. Hoặc Tướng, hoặc Tánh, hoặc nhân hoặc quả, không gì là không thành quán, không gì là không khế hợp với chân lý. Kinh dựa vào để tu tập đều là ý của bậc Thánh, Nếu chẳng rõ về Pháp tướng, đâu chỉ là chẳng tỏ về diệu chỉ của bậc Thánh, mà cũng chẳng phải là người hoằng dương chánh pháp. Cứ tìm nơi văn mà tự biết.

-Diễn rộng ra những ngôn từ huyền diệu khiến tỏ ngộ được chỗ cùng tận của pháp môn: Tức là nơi kinh có nhiều ngôn từ huyền diệu, mang những ý nghĩa nhiệm mầu, người đi trước không biện minh rộng, hoặc chỉ nêu ở nơi chương riêng, hoặc trình bày tóm lược nên thiếu sót. Nay đều nêu ra đầy đủ, diễn đạt rốt ráo nơi văn Sớ giải. Câu văn giản vị mà ý tưởng sâu xa thì dẫn giải rộng về chỗ nổi bật của Thể. Như phần “Mới thành Chánh giác” thì lấy sự mới thành tựu của các tông để thông hợp. Trí hội nhập nơi ba đời thì dùng hai Trí, ba Trí, bốn Trí đê giải thích. Như trong cái dụ về sự huyễn ảo, sẽ nêu dẫn đoạn nói về “Thỏ” để có sự thấu đạt trọn vẹn. Hoặc như dụ về ảnh thì phân ra ba ảnh để biện rõ từng cái. Lần hồi hướng thứ bảy về sự bình đẳng nơi các cõi thì chỉ ra các câu để chọn lấy. Lần hồi hướng thứ tám theo cảnh giới phát khởi nguyện thì lấy thứ bậc theo chiều dọc chiều ngang để làm sáng tỏ. Phần kệ tán thán của ba cõi Trời hồi hướng về nẻo lìa tướng, thì dùng các kinh, Luận với nội dung sâu xa như kinh Bát-nhã, Trung Luận, Bách Luận v.v… để thông tỏ. Năm lượt nhân quả nơi chín hội đều dùng tánh tướng để rộng bàn. Pháp Tam muội Phổ Hiền là chỗ tột bực vi diệu trong cái vi diệu. Một phẩm Xuất Hiện là chốn cùng tận nhiệm mầu trong sự nhiệm mầu. Đến như nẻo quán chiếu sâu rộng nơi pháp giới Hoa Tạng thì dẫn về phần bàn rõ lý huyền diệu trọng yếu. Đi thấu hết chỗ sâu kín vi tế của từng phần cốt lõi; đạt được tận cùng nẻo giới hạn, sai biệt của nghĩa, lý. Như trong các bộ “Quan Trung tập giải”, “Quan Trung Thiền kinh” liên hệ tới các ngôn từ mẫu mực về “Tam Huyền”, có sự khen ngợi về kinh nầy, thì đều bàn xét thấu đáo về chỗ thâm diệu ấy. Cũng có nêu ra những đoạn riêng biệt, nhưng đấy chẳng phải là chính yếu. Biết cùng chẳng biết đều không trái với chỗ tán dương rộng khắp.

-Trừ tuyệt mọi nẻo thị phi, không bài bác một cách sai lạc: Người đi trước (chỉ sư Tuệ Uyển) quá đề cao chuyện hơn thua, chú trọng chỗ thị phi. Diệu nghĩa có từ xa xưa, sử dụng mà không nêu ra. Các bậc tiên hiền có chút nhầm lẫn thì thổi phồng để bài bác. Như đoạn nói về hình ảnh của thế giới Sa-bà như hư không, thì bèn cho rằng do người dịch không tiếp cận thấu đáo về kinh, Luận; lầm lạc trong việc tham dự nơi đạo tràng dịch kinh; sai lầm liên hệ tới giáo pháp của Phật. Một thời đã đến nông nỗi như thế, thì các bậc đại sư tiền bối ở trong công việc dịch thuật đã bị mổ xẻ phê phán qúa mức! Chỉ một tỳ vết nhỏ nhặt ở trong hạt ngọc, sao lại nặng lời đã kích? Lại như trong Phẩm Thập Hạnh sự chú giải chẳng đúng chỗ, lại bàn rộng về một chú thích khác. Bản kinh dịch vào đời Tấn như mất hết tông chỉ, đến nổi sự giải thích từ xưa trở thành chi ly, không mạch lạc, nhưng lời văn hiện tại thì rõ ràng, sao vẫn cứ dựa theo hướng cũ? Những trường hợp như thế, nói chung là khá nhiều. Cứ mãi quanh quẩn với nẻo thị phi há có thể khế hợp với đạo lớn?

Phàm gọi là đả phá, sự việc cũng giống như rắn dữ muốn chích nọc độc vào tay mình, thì không thể không chém rắn; cây dại mọc ngay nơi sân không thể không chặt bỏ. Nếu sự giải thích sai lạc, làm loạn nẻo chính, thì sự việc phải phán định dứt khóat. Còn như dễ nhận biết sự sai trái kia, thì lược bỏ không thuật lại. Hoặc tương tự như đúng mà chẳng đúng, thì chỉ nhận xét phân minh. Ví như muốn biết về vàng ròng thì phải rõ loại khóang chất “Thâu Thạch”. Nói chung, nếu không có được cái tâm tình quên hết thị phi, thì giả như có đả phá, bài bác cũng phải giữ lấy lề lối lễ nhạc. Không được tự đề cao đức của chính mình, xem thường các bậc tiên hiền, phải hết công việc sáng lập ban đầu là khó, còn nhân theo đấy mà tu sửa thì dễ hơn. Ví phỏng có nêu chỗ sai để làm rõ chỗ đúng thì cũng chẳng phải là tự khoe khoang, tự đề cao. Vậy văn trong bản Sớ giải nầy, sự thị phi hầu như không có.

-Dung thông cả gốc ngọn trước sau, khiến đầu đuôi có thể nhận rõ: Hướng chung trong công việc viết Sớ giải đều phần đầu thì xem trọng, sau thì coi nhẹ. Nếu lại khai triển rộng một cách chặt chẽ, thứ lớp, thì sẽ trở nên sơ lược, phần văn coi như mất hẳn. Đến như việc hoằng dương diệu chỉ của bậc Thánh thì hầu hết đêù chìm khuất. Nay dùng kinh lớn này, với chín hội thuyết giảng, trước sau gồm đủ sự thâm diệu, huyền vi, gặp nghĩa thì biện minh, khỏi phải chọn sau trước. Chỉ khi nào phần đầu đã giải thích rồi, thì sau không lặp lại nữa. Cho nên thứ lớp về ý nghĩa nơi các chương đoạn được mở bày rõ ràng như vô số ngôi sao cùng tỏa sáng, khiến cho cả ban đầu, khoảng giữa, phần sau đều tốt, đầu đuôi có thể nhận rõ.

Lược nêu về công việc Sớ giải kinh nầy có mười ý như thế. Hoàn toàn là sự quên bản thân để hội nhập vào cảnh giới nhiệm mầu, kính ngưỡng thuật lại pháp huyền diệu, bản ý đều là vì chúng sanh, mong đạt được đồng hạnh Phổ Hiền nơi chư Phật.

3. Đoạn thứ ba: (của phần hai) gồm hai câu kệ (Hồi tư thắng thiện hiệp quần sanh, Tốc chứng Bồ-đề thường lạc quả: Hồi hướng thắng phước cho muôn loài; mau chứng quả Bồ-đề thường lạc): Là hồi hướng cho hết thảy chúng sanh. Hai câu trước đoạn này (Câu) (Tỷ linh pháp nhãn thường vô thuyết, Tận chúng sanh giới như Phổ Hiền: xin khiến mắt pháp luôn toàn vẹn, Thấu cõi chúng sanh như Phổ Hiền) nêu rõvề công việc tạo ra bản Sớ giải, đã nói tới “Vì chúng sanh”. Đoạn nầy là hồi hướng thông cả lợi ích của sự quy y và phước đức được thành tựu. Trong công việc viết bản Sớ giải nầy, hoặc giả chỉ một câu khế hợp sâu xa với tâm của bậc Thánh, thì cũng là vì cầu cho hết thảy chúng sanh đạt được sự giác ngộ lớn lao, tròn sáng, an trụ nơi cảnh giới Niết-bàn thường lạc.

III. PHẦN THỨ BA:

Chia chương giải thích văn:

– Từ câu: “Tương thích” (đem giải thích) trở xuống: Là phần thứ ba, chia chương giải thích văn của bản sớ.

Trong nội dung của mười môn được nêu ra để giải thích ý nghĩa của Kinh Hoa Nghiêm (Mười môn là:1) Giáo khởi nhân duyên. 2) Tạng giáo sở nhiếp. 3) Nghĩa lý phân tề. 4) Giáo sở bị cơ. ) Giáo thể thiện thâm. 6) Tông thú thông cục. 7) Bộ loại phẩm hội. 8) Truyền dịch cảm thông. 9) Tổng thích kinh đề. 10) Biệt giải văn nghĩa) thì tám môn trước là nói về ý nghĩa chung, hai môn sau là chính thức giải thích. Riêng môn thứ chín cũng được là giải thích nghĩa, nhưng trong phần giải thích văn. Vì đề mục kinh liên thông một phần nơi văn kinh. Mười môn được nêu ra theo thứ lớp như sau.

1. Giáo khởi nhân duyên: (Nhân duyên lập giáo):

Bậc Thánh nhân lập ra giáo pháp, ngôn từ được nêu bày đều có nguyên do. Chẳng phải từ một nhân duyên lớn thì đã không nêu giảng kinh ấy. Do vậy, phần đầu này được gọi là “Giáo khởi nhân duyên”.

2. Tạng giáo sở nhiếp: (Thuộc về của tạng Giáo) Nhân duyên đã hội đủ tức có giáo pháp được phát khởi ra khởi. Giáo pháp của Phật tuy rộng lớn, nhưng nhận định không ra ngoài mười hai phần giáo và ba tạng. Chưa xác định được vị trí kinh này ở trong giáo pháp ba Tạng là thuộc về phần giáo tạng nào, nên phải nêu tên gọi chung là giáo pháp ba tạng để thâu tóm bao hàm giáo pháp riêng của kinh Hoa Nghiêm. Phần này được gọi là “Tạng giáo sở nhiếp”.

3. Nghĩa lý phân tề: (Tính chất thâu tóm, dung thông của nghĩa lý)

Đã biết kinh nầy gồm thâu cả mười hai phần giáo pháp. Nhưng nơi kho tàng giáo pháp ấy đều chung cho cả quyền, thật. Chọn lọc quyền lấy thật, chính là sự thu nhận của Viên giáo, nhưng chưa rõ ý nghĩa của tính chất viên đó cạn sâu rộng hẹp ra sao. Cho nên phần này mang tên là “Nghĩa lý phân tề” (tính chất giới hạn, sai biệt của nghĩa lý).

4. Giáo sở bị cơ: (Tính chất gồm thâu, khế hợp căn cơ của giáo pháp).

Đã biết rõ Viên giáo bao hàm rộng khắp, sâu xa, nhưng chưa tường kinh nầy thâu tóm các hạng căn cơ, trình độ v.v… Vậy phần này được gọi là “Giáo sở bị cơ” (Tính chất thâu tóm, khế hợp căn cơ của giáo pháp).

5. Giáo thể thiển thâm (Sự sâu cạn nơi Thể của giáo pháp).

Nhận biết về nghĩa lý hết mực thâm diệu, sự khế hợp với căn cơ đã đầy đủ, viên mãn, nhưng chưa rõ sự nêu giảng về Thể Tánh như thế nào. Cho nên môn thứ năm này có tên là “Giáo Thể thiển thâm”.

6. Tông thú thông cục: (Chỗ thông hợp, giới hạn của tông chỉ).

Chủ thể, đối tượng nơi ý nghĩa của Văn đã biết một cách tổng quát, nhưng chưa tường đối tượng của tông chỉ tôn sùng về nghĩa nào.

Và phần này được gọi là “Tông thú thông cục”.

7. Bộ loại phẩm hội: (Bộ phận thứ loại nơi các phẩm, hội).

Biết rõ về tông chỉ sâu xa, vi diệu, nhưng chưa xác định phần “Năng thuyên” tức kinh văn, ngôn từ được diễn đạt rộng hẹp ra sao. Do đấy phần này tên là “Bộ loại phẩm hội”.

8. Truyền dịch cảm thông: (Sự cảm ứng thông hợp trong quá trình dịch thuật).

Đã biết về bộ phận thứ loại, rộng thì vô tận, tóm lược thì có tới trăm, ngàn, nhưng chưa rõ bản dịch được lưu truyền vào năm nào, có những cảm ứng ra sao, khiến cho sự truyền thừa của tông phái có mối manh, biết rõ lợi ích trội bật có thể quy về. Cho nên môn thứ tám này được gọi là “Truyền dịch cảm thông”.

9. Tổng Thích kinh đề: (Giải thích tổng quát về đề mục của kinh).

Tông chỉ chính đã được nêu bày, thì sẽ thuận theo văn để giải thích. Trước nói rõ về đề mục chung, bao hàm hết những ý nghĩa khó nghĩ bàn. Và phần này có tên là “Tổng thích kinh đề”.

10. Biệt giải văn nghĩa: (Giảng giải riêng về ý nghĩa của Văn).

Ý tổng quát tuy đã rõ, nhưng ở nơi văn còn khó lãnh hội, nên phải khiến cho nghĩa bị chìm khuất được bày rõ qua câu lời, lý nơi chỗ thông hợp của tông chỉ được thấy hết qua trăm ngàn bộ phận thứ loại. Vậy môn thứ mười này gọi là “Biệt giải văn nghĩa”.

 


 

Phẩm 1: GIÁO KHỞI NHÂN DUYÊN

(Nhân duyên lập giáo).

– Sớ từ câu: “Nhân duyên: Trở xuống: Văn của phần Sớ giải nầy gồm có hai: Một là nêu đại ý của sự phát khởi. Hai là: Từ câu: “tiên nhân hậu duyên” (Trước nhân sau duyên) trở xuống: Là chia đoạn giải thích riêng.

1. Nêu đại ý của sự phát khởi: phần một nầy có ba đoạn nhỏ:

a) Chính thức giải thích.

b) Dẫn chứng.

c) Biện giải về những vướng mắc, trở ngại.

a. Chính thức giải thích:

-Trước là nêu pháp.

-Tiếp theo: Từ câu “Nhược Tu Di” (Như núi Tu Di) tiếp xuống là Dụ.

-Sau: Từ Câu: “Kim dao Như Lai” (Nay đức Như Lai khởi động) tiếp xuống là kết hợp.

Như Lai thì hợp với núi, trí tuệ thì hợp với biển. Ý của đoạn văn nầy xuất xứ từ Luận Đại Trí Độ, nay chuyển theo sử dụng tính chất nổi bật nơi ý của luận ấy. Tức là trong Luận Đại Trí Độ, phần nêu câu hỏi, viết: “Do nhân duyên gì mà đức Phật thuyết giảng kinh Bát-nhã Ba-la-mật? Chư Phật không bao giờ không có duyên cớ hay vì duyên cớ nhỏ mà giảng nói kinh. Ví như núi chúa Tu Di không bao giờ không có duyên cớ hay vì duyên cớ nhỏ mà lay động. Vậy nay do những nhân duyên lớn nào khiến Phật thuyết giảng kinh Bát-nhã Ba-la-mật?. Ý của đoạn Luận nầy cho việc thuyết giảng kinh Bát-nhã như núi Tu Di lay động. Nay, mở đầu nói về Núi Tu Di là nhấn mạnh về người, tức chủ thể thuyết giảng. Biển trí tuệ thì chung cho chủ thể thuyết giảng và đối tượng được thuyết giảng. Lay động là chỉ cho trí Phật của chủ thể thuyết giảng. Nói về biển trí tuệ của Như Lai, tức là chỗ khác với kinh Bátnhã. Lại như trong kinh Hoa Nghiêm giảng nói rộng về thân Phật cùng trí Phật, nên thân Phật, trí Phật là chung cho cả phần đối tượng được thuyết giảng (Pháp được nêu giảng).

a) Sớ từ câu: “Cố hạ kinh” (Nên phần kinh tiếp theo) trở xuống: Là đoạn nhỏ thứ hai: Dẫn chứng.

b) Sớ từ câu: “Xuất hiện bản vi” (Gốc của sự xuất hiện là) trở xuống: Là đoạn nhỏ thứ ba, biện giải về những vướng mắc, trở ngại. Như có trường hợp nêu vấn nạn về câu “Chẳng phải là do một duyên v.v…” nên mới nêu rõ về duyên của sự xuất hiện. Nay, đem đoạn dẫn chứng đó để giảng nói, về kinh há là thỏa đáng. Cho nên nay đã thông rằng: Gốc của sự xuất hiện là một nhân duyên lớn. Một nhân duyên lớn ấy tức là “Trí Phật Hoa Nghiêm”, là đã biết rõ duyên của sự xuất hiện tức duyên của Hoa Nghiêm.

2. Chia đoạn, giải thích riêng:

-Sớ từ câu: “Tiên nhân hậu duyên, các khai thập nghĩa” (Trước nhân, sau duyên, đều chia ra mười nghĩa) trở xuống: Là Phần thứ hai (của môn thứ nhất) chia chương đoạn để giải thích riêng từng đoạn, chương.

Trong phần nầy gồm hai đoạn chính: Một là nêu lên cả đôi (nhân duyên) Hai là giải thích cả cặp. Đoạn nêu lên cả đôi có thể nhận biết.

-Sớ từ câu: “Nhân thập nghĩa” (Mười nghĩa của nhân) trở xuống:

Là giải thích cả cặp. Trong đoạn “Trước nêu nhân” cũng chia làm ba: a) Nêu ra. b) Giải thích. c) “Mười nghĩa được nêu trên” trở xuống: Thông hợp với sự giải thích để kết luận về sự thuộc về.

– Sớ từ câu: “Ngôn pháp nhĩ giả” (Gọi là pháp nhĩ tức tính chất như vậy rõ ràng của các pháp) trở xuống: Là giải thích: Tức là mười đoạn.

1. Nay nói về đoạn một: (Pháp ưng nhĩ: pháp vốn như thế) tức pháp nhĩ: (Tính chất như vậy rõ ràng của các pháp) Văn của phần Sớ giải được phân làm bốn:

-Chính thức giải thích.

-Dẫn chứng.

-Giải thích tóm kết.

-Biện giải chỗ vướng mắc.

Văn của đoạn đầu (chính thức giải thích) có thể nhận biết.

-Sớ từ câu: “Cố bất tư nghị phẩm” (Nên trong phẩm Bất Tư Nghì) trở xuống là đoạn dẫn chứng. Đây tức là quyển thứ bốn mươi bảy kinh Hoa Nghiêm nói về “Pháp Đại Na La Diên Tràng Dũng Kiện” thứ năm của chư Phật. Kinh nói: “Này Phật tử! Tất cả chư Phật đều có thể đối với nơi một thân tướng… chúng cho đến chúng sanh trong pháp giới làm cho thảy đều được nghe, mỗi mỗi âm thanh Phật diễn giảng ngần ấy tạng Tu-đa-la, mỗi mỗi Tạng Tu-đa-la diễn nói ngần ấy pháp như thế, mỗi mỗi pháp có ngần ấy văn tự, câu nghĩa như thế, diễn giảng như vậy trải qua, ngần ấy kiếp như thế, hết số lượng kiếp ấy, trở lại diễn nói trải qua ngần ấy kiếp như thế. Lần lượt như vậy, cho đến tận cùng tất cả thế giới số lượng nhiều như hạt bụi; tận cùng tất cả mọi tâm niệm của chúng sanh, cả số lượng kiếp ở đời vị lai cũng có thể cùng tận. Nhưng pháp luân của hóa thân Như lai đã chuyển là không có cùng tận. Đó là pháp luân Trí tuệ diễn nói, pháp luân đoạn trừ các thứ nghi hoặc, pháp luân soi chiếu hết thảy các pháp, pháp luân khai mở kho tàng vô ngại, pháp luân khiến cho vô lượng chúng sanh hoan hỉ, thuận phục, pháp luân chỉ rõ tất cả hạnh của Bồ tát, pháp luân là mặt trời đại trí tuệ lên cao, tròn đầy, pháp luân là ngọn đèn trí tuệ sáng rực, tỏa chiếu khắp thế gian, pháp luân biện tài vô úy với đủ thứ đủ loại trang nghiêm. Như một thân Phật dùng diệu lực thần thông chuyển vô số các pháp luân khác nhau như vậy. Tất cả các pháp trong thế gian không thể lấy làm ví dụ. Như thế đến tận cùng cõi hư không, nơi mỗi mỗi đầu sợi lông với chốn cõi được phân hạn, có số lượng thế giới nhiều như số hạt bụi nơi các cõi Phật nhiều không thể diễn nói, không thể nêu bày, trong mỗi mỗi thế giới, từng niệm từng niệm hiện ra số lượng hóa thân nhiều như số hạt bụi nơi các cõi Phật nhiều không thể diễn nói, không thể nêu bày. Nơi mỗi mỗi hóa thân đều cũng như vậy, tức chỗ giảng nói về âm thanh, văn tự, câu nghĩa, mỗi mỗi đều sung mãn nơi tất cả pháp giới, trong đó, mọi chúng sanh đều được hiểu rõ, mag âm thanh của Phật giảng nói không biến đổi, không gián đoạn, không có cùng tận. Đó là pháp “Đại Na La Diên Tràng Dũng Kiện “Thứ năm của chư Phật”.

Đoạn kinh trên, nơi bản Sớ giải chỉ lược dẫn, trong ấy có dùng chữ “Nhĩ sở (Ngần ấy… như thế) còn văn trong kinh thì viết là “Bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số” (Số lượng nhiều như số hạt bụi trong các cõi Phật nhiều không thể diễn nói, không thể nêu bày).

-Sớ từ câu: “Tư tắc xứ dĩ mao đoan” (Đây chính là nơi chốn do đầu sợi lông…) tiếp xuống: Là đoạn nhỏ thứ ba: Giải thích tóm kết. Giải thích tóm tắt về văn của kinh, trở thành nói về đoạn đầu là chính thức giải thích. Trong đó, hai câu đầu là chính thức tóm tắt. Sau, từ câu “xứ tắc” (Xứ thì…) trở xuống là giải thích trở lại. Pháp giới cùng khởi lên là tính chất “tức khắc” Như ánh trăng hiện ra nơi trăm dòng sông, chẳng phải là từ đông hướng tới tây v.v… Nên thời gian dài không dứt gọi là thường, tức không gián đoạn, đã là thường, là biến hiện khắp nên không đợi nhân riêng.

-Sớ từ câu: “Đãn tùy kiến văn” (Song, tùy theo chỗ thấy nghe) trở xuống: Là đoạn nhỏ thứ tư, biện giải về chỗ vướng mắc, có trường hợp nêu vấn nạn: Đã bao gồm chiều dọc, chiều ngang (Thời gian, không gian), giảng nói tận cùng về thời gian, nơi chốn, sao lại có cái ban đầu của sự mới thành tựu, cái chung cuộc của chín hội? Vậy để thông suốt vấn nạn ấy, phần giải đáp gồm hai chi tiết: Trước là chính thức giải đáp về chỗ vướng mắc, có thể nhận biết. Sau, từ câu “Linh tầm ư thử” (Khiến tìm ở đấy) trở xuống: Là trở lại làm thông tỏ vấn nạn lần nữa. Vấn nạn cho rằng: “Lời tóm lược quá ít, sao có thể diễn đạt được hết lý vô tận?”. Cho nên để thông suốt được vấn nạn nầy thì cần phải lãnh hội lý viên dung, kiến giải tuy ít nhưng có thể thâu tóm đến vô tận, có sự ứng hợp giữa pháp và dụ. Từ câu “Dĩ nhất xứ” (do một xứ) tiếp xuống là giải thích xong nghĩa đã nêu trên. Thời gian, nơi chốn đã là pháp một, nhiều tương tức thì một há không bao hàm được nhiều sao?

2. Đoạn hai: Sớ câu: “Nhị thù túc nhân giả” (Hai là ứng hợp do nhân từ trước). Văn của bản Sớ giải nơi đoạn này được chia làm năm:

-Nêu ra chương, môn.

-Từ câu “Hà dĩ” (do đâu) tiếp xuống: Là sự chuyển tiếp.

-Từ câu “Phù căn thâm” (Phàm gốc rễ sau) tiếp xuống: Nêu rõ tính chất sâu rộng của nhân.

-Từ câu “Thâm đại vân hà” (Sâu lớn ra sao) tiếp xuống: Giải thích xong về sự sâu, rộng.

-Từ câu “Túc nhân tuy đa” (nhân từ trước tuy nhiều) tiếp xuống: Là phần chia chương, giải thích riêng: Ở đây, trước là nêu chương, sau là giải thích, đều có thể nhận biết.

3. Đoạn ba: Sớ “Tam thuận cơ cảm” (ba là thuận với sự cảm ứng nơi cơ duyên) văn của sớ được chia làm sáu:

-Nêu ra chương.

-Chuyển tiếp.

-Từ câu “Kỳ du” (sự việc ấy cũng như) tiếp xuống: Nêu dụ để làm rõ Tướng.

-Từ câu “Cố Đâu Suất” (nên kệ tán ở cõi Đâu Suất) tiếp xuống: Dẫn Kinh để chứng minh.

-Từ câu “Quảng hiển” (hiển bày rộng) tiếp xuống: Nêu tóm lược ở chỗ rộng.

-Từ câu “Nhiên thử” (song, sự cảm ứng theo cơ duyên ấy) tiếp xuống: Phân biệt rõ nơi cơ duyên. Nói “Người được nghe của hiện nay là cơ duyên của vị lai” tức trông mong thời gian thuyết giảng kinh là vị lai. Cho nên nơi phẩm Phát Bồ-đề tâm, Bồ tát Pháp Tuệ trong mười phương cùng bạch Phật: “Chúng con thảy nên hộ trì pháp này, khiến cho ở đời vị lai, tất cả các Bồ tát chưa từng được nghe thảy đều được nghe”. Đấy cũng là cơ duyên cua vị lai.

4. Đoạn bốn: Sớ “Tứ vi giáo bản giả” (Bốn là gốc của giáo pháp):

Văn được chia làm ba:

-Nêu ra chương.

-Làm rõ về đại ý.

-Từ câu: “Nhiên diệc hữu nhị” (nhưng cũng có hai) tiếp xuống: Là phần chia chương, giải thích riêng.

Trong phần đại ý, thì hai câu đầu là xác lập về lý. Cho nên nơi Phẩm Xuất Hiện nói: “Ví như biển lớn có dòng chảy tiềm tàng nơi đại địa của bốn cõi thiên hạ, nếu có người khơi đào sâu nơi đại địa ấy thì sẽ được nước”. Đó là dụ cho trí tuệ của Phật hội nhập khắp trong thân tướng của tất cả chúng sanh. Nay mượn ý ấy để dùng ở đây. Đó tức là Dụ. Câu: “Chẳng có gốc thì không có phần ngọn ngành” là nói về Pháp. Như không có gốc là biển thì chẳng thể có ngọn là dòng chảy ngầm nơi đại địa.

Không có mặt trăng gốc kia thì không có bóng trăng hiện diện nơi trăm dòng sông. Không có pháp thân thì há có được sự ứng hóa? Thế nên không có Pháp căn bản thì sao có được sự luận bàn thích hợp?

Đoạn sau (của phần đại ý). Từ câu “Tương dục” (như muốn…) tiếp xuống: gồm hai câu là chính thức giải thích về nghĩa của Gốc (Bản). Do đó, Tông Thiên Thai chỉ rõ đấy là “Nhũ giáo”. Nhũ (sữa) là gốc của các vị như Lạc (*) v.v….

-Sớ câu: “Phẩm xuất hiện nêu: Như mặt trời mới xuất hiện, trước hết là chiếu sáng nơi các đỉnh núi cao”: Văn nơi kinh viết: “Ví như mặt trời xuất hiện, trước hết là chiếu sáng nơi tất cả các ngọn núi chúa như núi Tu Di v.v… Thứ đến là tỏa chiếu nơi Hắc Sơn, tiếp theo là tỏa chiếu nơi các cao nguyên, sau đấy thì mới chiếu tỏa khắp thảy đại địa. Mặt trời không dấy khởi ý niệm là mình trước chiếu sáng ở đây, sau tỏa chiếu nơi kia. Chỉ là do nơi núi, đất có sự cao thấp, nên sự tỏa chiếu có trước sau. Đức Như Lai Ứng Chánh đẳng Giác cũng như thế. Thành tựu được trí tuệ lớn bao hàm cả vô biên pháp giới, thường phóng hào quang từ trí tuệ lớn vô ngại, trước hết là chiếu sáng nơi các ngọn núi chúa tức các Bồ- tát Ma ha-tát; thứ đến, tỏa chiếu nơi các hàng Duyên-giác, Thanh-văn, tiếp theo là soi chiếu nơi các chúng sanh có đầy đủ thiện căn, tùy theo tâm thức của đối tượng mà chỉ rõ tính chất rộng lớn nơi trí tuệ ấy. Sau đấy thì mới tỏa chiếu khắp nơi tất cả chúng sanh, kể cả hàng “Tà định” cũng đều phổ cập, để tạo nhân duyên lợi ích cho đời vị lai, nên khiến mọi đối tượng đều thành tựu đầy đủ. Nhưng ánh sáng nơi mặt trời đại trí của đức Như Lai kia không dấy khởi ý niệm: Ta sẽ soi chiếu trước nơi bậc Bồ tát tu tập hạnh lớn, cho đến sau rốt thì tỏa chiếu nơi chúng sanh theo “Tà định”. Mà chỉ là phóng hào quang tỏa chiếu khắp một cách bình đẳng, không chút chướng ngại, không hề có sự phân biệt…”

Giải thích: Mới thành bậc Chánh giác thì liền thuyết giảng kinh Hoa Nghiêm, tức là tỏa chiếu nơi các ngọn núi chúa là các Bồ tát. Đây là làm rõ khía cạnh: Trước nêu cái lớn, sau nêu cái nhỏ.

-Sớ câu: “Hai là thâu tóm gốc của ngọn”: ở đây có hai: Trước là nêu ra tên gọi. (Phần sau có khả năng là đây, để giải thích tên gọi. “Thâu tóm gốc của ngọn” . Vì Hoa Nghiêm chưa có, nên chưa có thể thâu tóm; lấy Pháp Hoa thâu nhiếp ngọn về gốc, tức quy về Hoa Nghiêm, nên cho Hoa Nghiêm là gốc.

-Sớ câu: “Như khi mặt trời sắp lặn, ánh sáng trở lại tỏa chiếu nơi các ngọn núi cao”. Hai nghĩa đều chọn lấy từ ý của phẩm Xuất Hiện trong kinh, để dẫn chứng, nhưng ở đây không nêu văn của kinh. Tức là chỗ kinh Pháp Hoa biện minh, trước nêu về nhỏ, sau nói về lớn, cùng với giáo pháp của ba thời, năm thời. Cái sau của phần sau thì hơn đối với cái trước của phần trước. Pháp Hoa, Niết-bàn chỉ nêu rõ về một cực, là soi chiếu các Bồ tát.

-Sớ từ câu: “Không gì là không từ pháp giới ấy lưu hành” tiếp xuống: Là hai cặp dẫn chứng cho hai nghĩa nêu trên. Trước là dẫn Nhiếp Luận, sau là dẫn Pháp Hoa. Trước dẫn Nhiếp Luận: “Không gì là không từ nơi pháp giới mà lưu hành”, tức dẫnchứng cho phần “Gốc của sự mở ra nẻo tiệm”. “Không gì là không quy trở về nơi pháp giới ấy”, tức là dẫn chứng cho phần “Thâu tóm gốc của ngọn”. Đây chính là dùng nghĩa để chứng minh cho giáo pháp. Tức là, chỗ biện minh của Luận về Báo thân, Hóa thân, đều từ nơi Pháp thân sinh ra, quay trở về nơi pháp thân. Pháp thân tức là nghĩa. Nay cho Pháp thân giống như Hoa Nghiêm, nên gọi là dùng nghĩa để chứng minh cho giáo pháp…

-Sớ từ câu: “Pháp Hoa cũng cho rằng” tiếp xuống: Là dẫn Pháp Hoa để chứng minh, tức từ chữ Cố trở xuống.

Đại sư Các Tạng đã dẫn điều này để lập ra ba thứ Pháp luân: Một là pháp luân căn bản, hai là pháp luân nghành ngọn, ba là pháp luân thâu tóm ngọn về gốc, trong phần văn, vừa dẫn vừa giải thích đầy đủ cả ba chi tiết ấy.

-Sớ câu: “Đây chính là Pháp Hoa cũng nêu rõ kinh nầy-kinh Hoa Nghiêm, cho là gốc.”: Là tóm kết xong về nghĩa của Gốc. Nếu tự xác lập mình là gốc thì e rằng nghĩa chưa sáng tỏ. Kinh Pháp Hoa chỉ đây là Gốc thì nghĩa Gốc mới hiển bày. “Mới vừa thấy thân ta thì liền hội nhập nơi trí tuệ của Phật” là kinh Hoa Nghiêm. Cũng khiến đươc nghe Pháp Hoa hội nhập nơi trí tuệ của Phật, há chẳng phải là chỉ rõ đầu tiên là gốc sao? Lại như nơi quyển thứ nhất của kinh Pháp Hoa nói: “Ở nơi một Phật Thừa, phân biệt nói làm ba Thừa”: cũng là từ gốc dẫn ra ngọn, tức chỉ rõ Hoa Nghiêm là Nhất Thừa. Phân biệt nói ba của ngày trước, thì ba tức các pháp Tứ Đế v.v… được nêu giảng ở Lộc Dã v.v… Nếu không chỉ Hoa Nghiêm là Gốc thì thời gian trước “Lộc Dã” lấy cái gì gọi là Nhất Thừa?

5. Đoạn năm: Sớ “Ngũ hiển quả đức” (Năm là làm rõ đức của quả).

Văn của bản sớ gồm hai: Trước là biện minh tổng quát về đại ý, có pháp, dụ và hợp, có thể nhận biết. Phần sau, từ câu: “Nhiên quả đức hữu nhị” (Nhưng đức của quả có hai) tiếp xuống: Là chia chương giải thích. Trong phần này cũng được chia làm hai: Trước là chính thức giải thích, có thể nhận biết. Sau, từ câu: “Song y, chánh không ngăn ngại” tiếp xuống: Là nói về sự dung thông, trong ấy gồm ba chi tiết: Đầu tiên là dựa theo tính chất hỗ tương của Dụng để nêu rõ về sáu câu. Thứ đến là dựa theo tính chất tương tức của Thể để biện minh về bốn câu. Sau,

Từ câu: “Tùy cử nhất môn” (Một câu được nêu theo đấy) tiếp xuống: Là tóm kết cặp Thể Dụng.

– Sớ đoạn: “Song, y, chánh không ngăn ngại, chung có sáu câu” đến “Văn ấy chẳng phải là một”: Hai câu đầu chỉ về sự, có thể hiểu. Còn lại chỉ là nêu ra tên gọi. Nhưng ý nghĩa của tương tức, tương nhập, tương tại, thì trong môn thứ ba “Nghĩa lý phân tề” (tính chất giới hạn sai biệt của nghĩa lý) sẽ được biện minh rộng. Mà về tương nhập thì đều có, tính chất “Phân viên vô ngại”.

Nếu theo khía cạnh viên mà bàn, thì nên nói là “Trong cõi có cõi”. Nay nhằm làm rõ sự thù thắng, nên nêu lên phần của “Hạt bụi, sợi lông” để thâu tóm cái chung của cõi, thân.

Nói “Văn ấy chẳng phải là một” Tức như nơi quyển thứ sáu kinh Hoa Nghiêm, kệ tụng của Bồ tát Pháp giới Phổ Minh Tuệ có câu:

“Cõi Phật: số vi trần

Các quốc độ như thế

Nên khiến trong một niệm

Nơi mỗi mỗi trần hiện”.

Là nói về câu thứ nhất (y nội hiện y: Trong y hiện rõ y)

Phẩm Thành Tựu nói:

“Trong mỗi mỗi trần, cõi khó lường

Theo tâm chúng sanh hiện khắp trước

Hết thảy “biển cõi” đều hiện hữu

Như vậy, phương tiện không sai biệt”.

Cũng là nói về câu thứ nhất.

Phẩm Hiện Tướng có câu:

“Trong mỗi lỗ chân lông Như Lai

Có vô số cõi, chư Phật ngồi

Chúng hội Bồ tát cùng vây quanh

Diễn nói hạnh Phổ Hiền thù thắng”.

Phẩm Hồi Hướng nêu:

“Trong lỗ chân lông thảy thấy rõ

Vô lượng Phật, số chẳng thể lường

Mọi lỗ chân lông đều như thế

Tất cả đèn thế gian lễ khắp.”

Phẩm Tăng Kỳ có đoạn:

“Ở nơi đầu một sợi lông nhỏ

Có chư Phổ Hiền chẳng kể hết

Như đầu sợi lông, thảy như vậy

Như thế cho đến khắp pháp giới”.

Cả ba đều nói về câu thứ hai (Chánh nội hiện chánh: Trong chánh hiện rõ chánh).

Lại nói:

“Ở trong lỗ chân lông bé nhỏ

Vô số các cõi lầnlượt vào

Lỗ lông dung nạp thảy các cõi

Các cõi chẳng thể đầy lỗ lông”.

Phẩm Hiện Tướng viết:

“Như Lai an tọa tòa Bồ-đề

Một lông thị hiện nhiều “biển cõi”

Mỗi mỗi lông hiện cũng như vậy

Cho đến bao trùm khắp pháp giới”.

Cả hai đều nói về câu thứ ba (Chánh nội hiện y: Trong chánh hiện rõ y).

Kệ của Bồ tát Phổ Hiền nêu:

“Như nơi hội này thấy Phật ngồi

Trong hết thảy trần đều như thế

Thân Phật không đến cũng không đi

Nơi các quốc độ thảy hiện rõ”.

Phẩm Hiện Tướng có đoạn:

“Hết thảy các cõi số vi trần

Luôn hiện mây thân thảy sung mãn

Vì chúng sanh phóng hào quang khắp

Đều tuôn mưa pháp xứng hợp tâm”.

Là đều nói về câu thứ tư (Trong y hiện rõ chánh: y nội hiện chánh).

Lại nói:

“Trong mỗi mỗi trần, vô lượng thân

Lại hiện vô số cõi trang nghiêm

Một niệm diệt sanh hiện thấy khắp

Đạt được ý vô ngại trang nghiêm”.

Tức là câu thứ năm: “Trong ý hiện rõ cả y, chánh: (y nội hiện y, chánh).

Phẩm Tăng Kỳ có câu:

“Trong một vi trần thảy đều có

Cõi Liên Hoa chẳng thể nêu bày

Trong mỗi mỗi Thế giới Liên Hoa

Như Lai Hiền Thủ nhiều vô kể”.

Cũng là nói về Câu thứ năm.

Phẩm thế giới Thành Tựu nói:

“Trong một lỗ lông cõi khó lường

Cùng số vi trần loại loại trụ

Mỗi mỗi đều có đấng Biến chiếu

Ở trong hội nói pháp diệu”.

Tức là câu thứ sáu: “Trong chánh hiện rõ cả chánh, y” (chánh trung hiện chánh, y).

Phẩm Hiện Tướng có câu:

“Hết thảy các cõi Phật

Mỗi mỗi chư Bồ tát

Nhập khắp nơi thân Phật

Vô biên cũng vô lượng”.

Phẩm Thành Tựu có đoạn:

“Hết thảy các cõi nhập thân ta

Chỗ trú chư Phật lại cũng thế

Ông nên xem cái lỗ chân lông

Ta nay chỉ ông cảnh giới Phật”.

Đều là nói về câu thứ sáu:

– Sớ câu: “Lại có bốn câu”: Là chi tiết thứ hai, dựa theo tính chất tương tức của thể để nêu rõ về bốn câu. (ở trên là dựa theo tính chất hỗ tương của dụng để nêu rõ về sáu câu) “Tương tức” thì cùng nhau mất đi cái riêng nên không có hai.

Một: Phật tức là cõi: Thể của Phật tức là Pháp tánh nơi cõi, là bỏ mình theo cái khác. Thể của Phật là rỗng lặng, nên ngoài cõi không có Phật, là do Pháp tánh không hai.

Hai: Cõi tức là thân Phật: Thể của cõi là Pháp tánh nơi thân, là bỏ cái khác theo mình. Thể của cõi là rỗng lặng, nên ngoài Phật không có cõi, là do Pháp tánh không hai, dùng tánh dung thông tướng, nên thân, cõi tương tức.

Ba: Cùng hợp: Tức là có thân có cõi, không hủy hoại tướng. Nếu không thân không cõi thì không có sự tương tức.

Bốn: Cùng mất: Nghĩa là, Phật tức cõi nên chẳng phải là Phật. Cõi tức là Phật nên chẳng phải là cõi. Do cùng xâm đoạt lẫn nhau.

– Sớ Câu: “Tùy cử nhất môn đức nhiếp nhất thiết” (Theo đấy, nêu lên một môn đức thâu tóm hết thảy): Là chi tiết thứ ba, tóm kết cả cặp Thể, Dụng. Do hai môn tương tức, tương nhập là một Thể, nên ngoài Thể không có Dụng, chính là tương tức. Ngoài Dụng không có Thể, chính là tương nhập. Cũng như không có ánh sáng của bên ngoài gương, gương của bên ngoài ánh sáng.

Nói: “Đều như phần dưới đây sẽ nêu bày” tức chỉ nơi môn “Nghĩa lý phân tề” (Tính chất giới hạn, sai biệt của nghĩa lý) sẽ bàn rõ.

6. Đoạn sáu: Sớ “Lục chương địa vị” (Sáu là làm sáng rõ quả vị): Văn của bản sớ là hai phần: Trước là làm rõ một cách tổng quát về đại ý. Sau là chia chương giải thích riêng.

a) Trong phần trước có hai: Một là biện minh thuận về ý ấy. Hai là, từ câu “Phàm Thánh Nhân”. Tiếp xuống: Xác lập lý làm rõ trở lại sự thành tựu.

Câu: “Cái rất quý của Thánh Nhân là ngôi vị”, tức lấy từ sách Chu Dịch, phần Hệ Từ hạ. Sách ấy viết: “Đức lớn của trời đất là sanh (sinh sinh hóa hóa), cái rất quý của Thánh nhân là ngôi vị” (Chu Dịch, Hệ Từ hạ, chương bảy, đoạn mười, theo bản dịch của Nguyễn Hiến Lê). Chủ giải: “Phàm không có Dụng thì không có chỗ quý giá, có dụng thì có chỗ quý giá. Không dụng mà luôn đủ thì không gì thâm diệu bằng đạo. Có dụng mà hoằng dương đạo ấy thì không gì lớn bằng ngôi vị.

Cho nên nói “Cái rất quý của Thánh nhân là ngôi vị” (quả vị).

– Sớ Câu: “Nếu không có quả vị ấy thì sự hành hóa không thành tựu” Tức là làm rõ trở lại sự thành tựu cần phải có quả vị.

b) Sớ từ câu: “Ở đây cũng có hai đoạn” tiếp xuống: Là phần sau,

chia chương giải thích. Phần này gồm ba:

Một là chính thức giải thích.

Hai là dung hợp.

Ba là dẫn chứng.

– Trong phần một (chính thức giải thích).

– Trước giải thích tính chất Hành Bố . Hành bố (*) là nêu bày, phân bố theo thứ tự, tức tính chất cao thấp sâu cạn. Như hội thứ hai (kinh Hoa Nghiêm) nêu rõ về mười Tín, hội thứ ba nêu rõ về mười Trụ, hội thứ tư biện minh về thập Hạnh, hội thứ năm biện minh về mười Hồi Hướng, hội thứ sáu nêu rõ về thập Địa, hội thứ bảy nêu rõ về Đẳng Giác. Trước chẳng phải là sau, sau chẳng phải là trước, nên gọi là hành bố.

Sau: Giải thích tính chất Viên Dung: Nói viên dung (*) tức là dung thông viên mãn. Giải thích văn bản sớ có hai: Một là chính thức giải thích, hai là dẫn chứng. Trong phần đầu, có hai nghĩa:

Một là, văn của sớ viết: “Một quả vị liền thâu tóm tất cả các quả vị”: Đây là biện giải tổng quát về tính chất cùng thâu nhiếp, tức là trong bốn mươi hai quả vị, theo đấy nêu lên một quả vị, tức là thâu tóm hết thảy các Quả vị kia. Như Trụ thứ nhất là Phát Tâm thì thâu nhiếp chín Trụ còn lại, cùng thâu nhiếp quả vị về Hạnh, Hồi Hướng, Địa v.v…

Hai là, văn của sớ viết: “Mỗi mỗi quả vị viên mãn tức đạt đến quả vị Phật” Đây là biện minh riêng về tính chất cùng thâu nhiếp của năm thứ quả vị. Như Trụ thứ nhất thu nhiếp nơi Hạnh thứ nhất, Hồi Hướng thứ nhất, Địa thứ nhất. Trụ thứ hai thu nhiếp các Hạnh, Hồi Hướng, Địa thứ hai v.v… Nên trụ thứ mười viên mãn. Gọi là “Quán Đỉnh vị”. Khi Địa thứ mười viên mãn, cũng gọi là Quán Đỉnh mà thành tựu quả vị Phật.

“Cho nên thập Hạnh thì trí Ba-la-mật tròn đầy, Mười địa thì trí Ba-la-mật viên mãn. Nơi đỉnh đầu của Tỳ-kheo Hải Tràng hiện ra chư Phật thuyết pháp (kinh Hoa Nghiêm quyển thứ sáu mươi ba) sau Quán Đỉnh Trụ là nêu rõ về Phật”, tức là sự việc này. Trước chỉ dựa theo lý hành nói về viên dung, ở đây gồm cả việc biện minh về hành, chứng tương tự.

– Sớ từ câu: “Địa thứ nhất nói” tiếp xuống: Là dẫn chứng (của phần giải thích viên dung) Văn gồm ba chi tiết:

Một là, Câu: “Trong một địa thâu nhiếp đủ công đức của tất cả các địa: Đây là theo nơi địa hiện có, tự cùng thâu nhiếp lẫn nhau. Một địa thâu tóm cả thập Địa. Dùng một nêu dẫn nhiều, mỗi mỗi quả vị đều như thế. Trên là chính thức dẫn văn.

Hai là, Câu: “Quả vị tín bao quát cả biển quả”: Đây là biện minh về tính chất cùng thâu nhiếp của năm quả vị. Trong phẩm Hiền Thủ, cho đến “đạt được “Quán Đỉnh” mà bước lên quả vị trên”. Đấy tức là dẫn nghĩa để chứng minh.

Ba là, Câu: “Lúc mới phát tâm liền thành Chánh giác”: Là chính thức biện minh, dùng trước thu nhiếp sau, chung nơi hai nghĩa. Nếu quả vị Trụ viên mãn, thành Phật, tức là quả vị hiện có, lấy trước thu nhiếp sau. Nếu rốt ráo của quả vị, thành Phật, tức quả vị khác cùng hướng về. Lấy trước thu nhiếp sau, như trong bốn mươi hai tự môn đều là chữ A (*) gồm đủ cả chữ bốn mươi hai là Đồ (*).

Tóm lại có ba nghĩa:

Một: Nêu lên một quả vị thì thu nhiếp tổng quát cả năm mươi hai quả vị.

Hai: Nêu lên một quả vị, thu nhiếp cả năm thứ quả vị.

Ba: Nêu trước thu nhiếp sau.

Lại có: sau thu nhiếp trước. Trước, sau thu nhiếp khoảng giữa. Giữa thu nhiếp cả trước sau. Một thu nhiếp tất cả. Tất cả thu nhiếp một. Một thu nhiếp một. Tất cả thu nhiếp tất cả. Theo như lý mà suy là vậy.

Ở trên nói: “Lúc mới phát tâm liền thành Chánh giác”, tức là chính thức nêu dẫn văn của kinh. Phẩm Phạm Hạnh nói: “Nếu các Bồ tát có thể cùng hành quán như thế tương ưng, ở trong pháp không sinh hai kiến giải, thì tất cả pháp Phật mau chóng hiện ra nơi trước mặt, lúc mới phát tâm liền đạt được quả vị Vô thượng chánh đẳng Chánh giác, nhận biết hết thảy các pháp là tự tánh của Tâm, thành tựu trí tuệ nơi chính mình, không nhờ sự giác ngộ của người khác…” Nay lược nêu dẫn như trên.

– Sớ từ câu: “Song, hai cái ấy không ngăn ngại” tiếp xuống: Là nói về sự dung hợp (của phần B). Phần này gồm hai: Trước là biện giải, định rõ về tướng. Sau là chính thức biện minh về sự dung hợp.

Trong phần trước có hai câu: Hành bố, viên dung thì lấy giáo đối hợp với lý, lấy tướng đối hợp với tánh. Tiếp theo, chánh thức nêu về viên dung, thì chỉ dung hợp tánh, tướng.

– Về đôi thứ nhất: Tức là theo giáo pháp của “Năng thuyên” thì sự hành bố chẳng đồng. Còn theo diệu lý của “Sở thuyên” thì tính chất viên dung không hề ngăn ngại.

– Về đôi thứ hai: Theo như trong Sở thuyên, nếu dựa theo Tướng thì sâu cạn không giống nhau, nếu dựa theo Tánh thì dung thông không có hai.

Nói “Dụng của đức”, tức là nói về tác dụng nơi tướng của đức.

– Sớ từ câu: “Tướng là tướng của tánh” tiếp xuống: chính thức biện minh về sự dung hợp. Văn của đoạn nầy có ba lượt:

Lượt một: Biện minh về tính chất không ngại.

Lượt hai: Tức sự hỗ tương thành tựu. Nghĩa là gốc vô lượng thì theo tướng nơi hành bố. Gốc viên dung thì một lý bình đẳng. Nay viên dung và hành bố đã không ngăn ngại nhau, nên thành tựu được vô lượng đức. Câu dưới trở lại ý ấy nên có thể biết.

Lượt ba: Từ câu “Vô lượng là một, nên sự dung thông càng lớn rộng” tiếp xuống: Biện minh về sự cùng thành tựu mà không mất tướng gốc. Do vô lượng là một, nên dung thông mà không làm mất tướng gốc, càng trở nên rộng lớn như thể có hai. Do một là vô lượng, nên có thể dẫn tới tầng tầng lớp lớp. Chẳng làm mất tướng duy nhất nên có thể hội nhập.

– Sớ từ câu: “Cho nên đại sĩ Thế Thân dùng tính chất viên dung của sáu tướng” tiếp xuống: Là phần thứ ba (của đoạn B nơi đoạn sáu: Dẫn chứng. Đây là dẫn chứng về Luận. Sáu tướng tức Tổng, Biệt, Đồng, Dị, Thành, Hoại. Do đấy nên có được việc nêu lên một mà thâu gồm toàn thể. Đến phần dưới sẽ diễn rộng rõ thêm.

Tiếp theo, cho rằng: “Văn của trên dưới chẳng phải là một” tức là nêu dẫn cả đôi về kinh, Sớ giải. Nếu đối chiếu với kinh thì chỉ là văn tiếp theo. Còn như đối chiếu với văn của Sớ giải thì chỉ chung cho phần trên, dưới của một kinh.

7. Đoạn bảy: Sớ “Thất thuyết thắng hạnh” (Bảy là nói về hạnh thù thắng) Văn của Sớ giải cũng gồm hai phần: Trước, nêu rõ về đại ý, sau là chia chương giải thích.

– Trong phần trước, hai câu đầu (Muốn lên đến quả vị Diệu Giác, thì phải tu hành mới lên được) là dựa vào giáo pháp để giải thích rõ. Hai câu sau (Nên người quân tử đừng lo không có chức vị, chỉ lo mình không đứng vững được) là dẫn sự việc bên ngoài để chứng minh. Tức là dẫn nơi sách Luận Ngữ. Hai câu sau của đoạn ấy nơi sách Luận Ngữ viết: “Đừng lo không ai biết mình, chỉ mong sao mình có tài đức để cho người ta biết đến” (Luận Ngữ, Thiên Lý Nhân, đoạn mười bốn, theo bản dịch của Nguyễn Hiến Lê). Bao Thị chú giải: “Cầu đạo tốt đẹp mà học tập thực hành, thì người ta biết đến mình”. Nay ở đây dẫn chứng với ý là “Cầu vi khả tri” (mong sao mình có tài đức để cho người ta biết đến) cùng “Chỗ có thể đứng vững”, đều là sự thực hành. Hai câu trên (nơi sách Luận Ngữ: Đừng lo không có chức vị, chỉ lo không đủ tài đức để nhận chức vị) là sự thực hành để thành được chức vị (quả vị) hai câu sau (như vừa dẫn trên) là thực hành để có được danh tiếng. Nay do dẫn chứng về quả vị, nên chỉ nêu dẫn hai câu đầu thôi.

– Sớ từ câu: “Hành cũng có hai thứ” tiếp xuống: Là phần chia chương giải thích: Trước giải thích, Sau dung hợp.

– Trong phần trước (giải thích), nơi đoạn biện minh về sự thành tựu tức khắc (đốn thành chư hành), thì trước là chính thức biện minh, sau là dẫn chứng.

– Nói: “Một đoạn trừ thì tất cả đều đoạn trừ” tức cùng lấy ra từ đoạn: “Một bị chướng ngại thì tất cả bị chướng ngại. Một tu tập thì tất cả đều tu tập. Một chứng đắc thì tất cả chứng đắc.” Vì thế nơi phẩm Phổ Hiền Hạnh, đầu tiên nói về mười câu, nếu thành tựu mười câu ấy thì thành tựu tức khắc năm mươi hai thứ Hạnh thù thắng. “Một niệm, tâm giận khởi, trăm vạn cửa chướng mở”. Cho nên trong phần kệ có đoạn:

“Các kiếp chẳng thể nêu

Tức là trong khoảng khắc

Chớ thấy dài cùng ngắn

Pháp sát na, cứu cánh”.

Đều do tính chất viên dung. Cho nên nơi phẩm Diệu Nghiêm nói:

“Vô lượng môn trong một pháp môn

Vô lượng ngàn kiếp nêu như thế (trong một kiếp)

Diễn nói nghĩa rộng của pháp môn

Biến khắp Quang Thiên đều thấu đạt”.

– Sớ từ câu: “Hai là các hạnh thành tựu khắp” tiếp xuống: Là giải thích hành bố từ khởi đầu đến chung cuộc, cho nên nói “Cho đến”. Tức là đối tượng hành hóa của năm thứ quả vị đều thâu nhiếp ở đây. Tâm Bồ-đề là khởi đầu. Thể tức là ba Tâm: Một là Trực tâm, là tâm chánh niệm về pháp chân như, tức là trí tuệ rộng lớn dứt hết mọi chấp trước. Hai là Thâm tâm, là tâm ưa thích tu tập tất cả các hạnh thiện, tức là đại nguyện, nghĩa là bốn thệ nguyện rộng lớn. Ba là Đại Bi tâm, là tâm cứu giúp tất cả chúng sanh bị khổ bức. Quyển thứ bảy mươi tám kinh Hoa Nghiêm nêu rõ: Tâm Bồ-đề là đèn, Đại Bi là dầu, Đại Nguyện là tim đèn. Ánh sáng soi chiếu cả pháp giới. Ánh sáng là Trực Tâm, tim đèn là Thâm tâm, dầu là Đại Bi tâm. Hầu hết đều lấy ba Tâm làm Thể. Trên cầu đạt quả vị, dưới hóa độ muôn loài. Chiếu soi Lý, phát khởi Hành, đều không ra ngoài chốn ấy.

Nói về Tướng, tức vô tướng là tướng, đồng với tướng của pháp giới, tướng không phân lượng, tướng không có hạn mức.

Nói về công đức: Tức là không đức nào mà không gồm thâu. Mười thứ thí dụ về sự lớn lao trong Phẩm Phát Tâm, trăm môn so sánh cân nhắc, cũng không đạt được một phần nhỏ. Quyển thứ bảy mươi tám rộng dùng các dụ để tán thán, cũng chẳng thể nói hết.

Phẩm Hiền Thủ viết:

“Như có Bồ tát mới phát tâm

Thề mong chứng đắc Phật Bồ-đề

Các công đức ấy không bờ bến

Không thể nêu lường cùng so sánh”.

Phẩm Phát Tâm nêu:

“Công đức phát tâm chẳng thể lường

Các trí cùng nói không thể hết”.

Lại nói:

“Lượng công đức Bồ tát phát tâm

Ức kiếp tán dương chẳng thể hết

Hết thảy Như Lai do đấy xuất

Độc giác, Thanh-văn đều an lạc”.

Tất cả đều nói về công đức của sự phát tâm.

Lại nêu:

“Muốn thấy tất cả Phật mười phương

Muốn thí vô lượng kho công đức

Muốn diệt khổ não của chúng sanh

Phải nên mau phát tâm Bồ-đề”.

Ba nêu dẫn trên, đều cho thấy phát tâm Bồ-đề là gốc của muôn hạnh.

Nên được nêu rõ ngay từ đầu, tức sự phát tâm ấy liền được gọi là Hành.

– Sớ từ câu: “Hai cái ấy đều không ngăn ngại” tiếp xuống: Là phần thứ hai (của đoạn B nêu sự dung hợp, có thể nhận biết.

8. Đoạn tám Sớ câu: “Tám là chỉ rõ pháp thật”: Văn phần nầy cũng gồm hai: Trước biện minh tổng quát, sau là chia chương giải thích. Văn hàm chứa nhiều nghĩa, không khác với môn “Nghĩa lý phân tề” bao quát chung cả nhân quả giáo pháp. Ở đây chỉ lược nêu chỗ nghĩa, lý thâm diệu, cốt lõi, nên dành riêng cho một môn.

9. Đoạn Chín Sớ “Chín là mở ra tánh của nhân”: Văn cũng là hai phần: Trước chung, sau riêng.

– Trong phần nêu chung (trước) thì đầu tiên là chuyển tiếp, sau từ câu “Lương dĩ” (chính là do) tiếp xuống: Là giải thích về tướng chung. Phần giải thích ấy có ba chi tiết:

Một là nêu rõ về nghĩa của nhân: bản hữu là hằng sa đức của Tánh. Bản giác là Trí của Phật không có hai Thể, nên lấy đó làm nhân.

Hai là, Từ câu “Đãn tướng biến” (Song tướng biến đổi) tiếp xuống: Là trở lại nói về nghĩa của nhân ấy, do vậy cần phải mở ra. Sở dĩ “Tướng biến đổi Thể thành khác” là do mê chấp chân như trở thành tên gọi, hình tướng. Cho nên “tình dấy sinh, trí bị ngăn cách” là do mất chánh trí mà thành vọng tưởng đôi trên là theo Cảnh, đôi dưới là theo Tâm. Năm pháp đều đầy đủ.

Ba là, Từ câu “kim linh” (Nay khiến cho) tiếp xuống: Là chính thức biện minh về nghĩa của “Mở ra” (khai). Biết rõ tâm là rỗng lặng thì tên gọi, hình tướng mất mà chân Thể hợp. Đạt được gốc là vô trụ thì vọng tưởng tan mà chánh trí sanh. Gốc chân chẳng thể dùng công sức tạo thành, nên công mất mà gốc được. Nguồn sâu chẳng thể dùng hành đạt đến, ắt hành dứt mà nguồn thành. Nếu soi chiếu lặng lẽ cả hai dòng thì tánh của nhân mở ra. Tánh tức là tri kiến. Tri kiến về tánh, tướng đều cùng hiện rõ.

– Từ câu: “Cố đàm” (Nên nói về) tiếp xuống: Là tóm kết về nghĩa mở ra đã xong.

– Sớ từ câu: “Cũng có hai thứ” tiếp xuống: Là phần hai (của đoạn chín) giải thích riêng.

Câu: “Một là ngôn từ chỉ rõ, hiển bày (Hiển thị) khiến biết đấy là có”:

Là chỉ biện minh về nghĩa của Thị (*: chỉ ra, chỉ rõ) Như chỉ ra là “Cô gái nghèo mà trong nhà có kho báu”, chưa thấy, chưa đạt được.

Câu: “Hai là khiến cho người tu tập ấy Ngộ nhập nơi hiển thị”: Thì nghĩa chung cho cả Hiển, Thị. Chẳng biết khiến cho biết, gọi đó là Ngộ. Chưa chứng đắc có thể làm cho chứng đắc, xưng đấy là Nhập. Ngôn từ hiển hiện là đối hợp nơi nghĩa mở ra.

Câu: “Như phần quét sạch bụi sao đây” tiếp xuống: Là dẫn kinh để minh chứng.

Kinh nói:

“Như có quyển kinh lớn

Lượng bằng Tam Thiên cõi

Hiện ở trong một trần

Tất cả trần cũng thế

Có một bậc thông tuệ

Mắt tịnh thảy thấy rõ

Quét bụi quyển kinh hiện

Lợi ích khắp muôn loài

Trí Phật cũng như vậy

Có khắp tâm chúng sanh

Do vọng tưởng trói buộc

Nên chẳng biết chẳng tỏ

Chư Phật đại từ bi

Khiến dứt trừ vọng tưởng

Như thế mới xuất hiện

Chư Bồ tát cứu đời”.

Tức là nói về nghĩa ấy.

– Sớ câu: “Chính vì một nhân duyên lớn lao” là dẫn kinh khác (kinh Pháp Hoa) để minh chứng.

Pháp sư đại Thừa (Đại sư Khuy Cơ?) chỉ cho rằng: “thể của sự vật là nghĩa về sự sự” Đạo lý ấy tùy theo ứng hợp đều được. Nay giải thích tóm lược: Không hai, không ba, nên gọi là Một. Nhân Phật, quả Phật nên gọi là Lớn. Nhân, quả thấu suốt, khiến vật giải thoát, đều cho là Sự. Nói “Nhân duyên” tức là đức Như Lai nhân nơi ấy duyên ấy nên xuất hiện. Lại nữa, nhân duyên là thuộc việc lớn lao. Nhân chính nơi Phật Tánh là Nhân. Duyên nơi nhân Phật tánh ấy là Duyên. Rõ nhân nơi đối tượng được thông tỏ là nhân. Phát sinh nơi đối tượng sinh là Duyên. Đây tức là đại sự, chung cả nhân quả. Nhân duyên thì chỉ nói về nhân. Nhân tức là nghĩa của chủng tánh. Cho nên kinh ấy (kinh Pháp Hoa) nêu: “Chủng tánh Phật từ duyên khởi. Muôn hạnh là duyên khởi. Chủng tánh Phật ấy thành Bồ-đề”.

– Sớ từ câu: “Gọi là khai thị” tiếp xuống: Nêu dẫn nghĩa từ kinh kia (kinh Pháp Hoa). Văn của kinh nầy đầy đủ là: “Này Tôn giả Xá-lợiphất! Thế nào gọi là chư Phật Thế Tôn, chỉ vì một “đại sự nhân duyên” nên xuất hiện ở đời? Ấy là chư Phật Thế Tôn muốn khiến cho chúng sanh mở ra (khai) tri kiến của Phật nơi chúng sanh, nên xuất hiện ở đời. Muốn khiến cho chúng sanh giác ngộ (ngộ) được tri kiến của Phật, nên xuất hiện ở đời. Muốn chỉ rõ ra (Thị) cho chúng sanh cái tri kiến của Phật, nên xuất hiện ở đời. Muốn khiến cho chúng sanh hội nhập (nhập) vào nẻo Tri kiến của Phật, nên xuất hiện ở đời. Giải thích rộng như sẽ biện rõ. Giải thích tóm lược thì như đã nêu.

– Sớ câu: “Chúng sanh cùng có nên gọi là duy nhất”: Là theo chỗ khó mà giải thích, chỉ giải một chữ thôi.

10. Đoạn mười: Sớ “Thập lợi kim hậu” (Mười là lợi ích cho hiện tại và mai sau). Văn của phần này gồm hai: Thứ nhất là nối theo phần trước, biện giải tổng quát; Thứ hai, từ câu: “Thử diệc” (đây cũng) trở xuống: Là chia chương, biện minh riêng. Phần thứ hai được chia làm ba chi tiết:

Một là, theo thời gian phân làm hai, có thể nhận biết.

Hai là, từ câu: “Thử ích phục nhị” (Lợi ích nầy lại có hai) tiếp xuống: Là theo sự thực hành mà phân làm hai.

Ba là, từ câu: “Hựu thử lợi ích” (Lại, lợi ích này) tiếp xuống: Đối hợp với trước để biện giải về sự khác nhau.

Trong chi tiết hai, văn của bản Sớ giải viết: “Rốt cuộc là chẳng tiêu v.v…” thì chữ vân vân (đẳng) là dùng cho câu còn lại. Câu còn lại viết: “Cho nên xuyên qua thân ấy hiện ra nơi bên ngoài. Vì sao? Là vì chất kim cương không cùng với những uế tạp của nhục thân đồng ở chung. Ở nơi chỗ của đức Như Lai, vun trồng ít thiện căn, cũng lại như thế. Cho nên xuyên qua tất cả các hành hữu vi nơi thân phiền não, vượt đến nơi chố trí tuệ vô vi rốt ráo. Vì sao? Là vì một ít thiện căn ấy, không cùng với tính chất phiền não nơi các hành hữu vi đồng ở chung”.

– Sớ từ câu: “Hai là dấy khởi hành để tạo nên sự chứng nhập” tiếp xuống: Văn gồm hai phần: Trước là giải thích sự chứng nhập. Sau, từ câu: “Lương dĩ hữu tác” (chính do có sự tạo tác) tiếp xuống: Là giải thích xong.

Nơi phần trước, văn của bản sớ viết: “Cho đến thâm nhập nơi vô lượng cảnh giới của Như Lai”: Tức khoảng giữa của đoạn kinh ấy, nêu: “Thuận theo hết thảy cảnh giới của Như Lai; đầy đủ hết thảy pháp của chư vị Bồ tát, an trụ nơi tất cả cảnh giới của chủng Trí, xa lìa tất cả các pháp của trong thế gian, làm phát sinh tất cả nẻo hành hóa của Như Lai thông đạt hết thảy Pháp tánh của Bồ tát. Đối với chỗ tự tại của Phật tâm không chút nghi hoặc. An trụ nơi pháp “Vô sư”, Thâm nhập nơi vô lượng cảnh giới của Như Lai”. Vậy nên viết là cho đến.

Sớ từ câu: “Lại nữa, lợi ích ấy” tiếp xuống: Là chi tiết ba đối hợp với trước để biện giải về sự khác nhau. Sở dĩ phải biện giải như thế cũng là nhằm lựa chọn cái tiêu biểu. Nghĩa lợi ích nơi hiện tại và mai sau hầu như thuận hợp với sự cảm ứng của cơ duyên. Cảm ứng của cơ duyên cũng có hai đời về cơ duyên, nên như văn ở trên đãbiện minh theo tính chất hành mà phân làm hai, đã là khác nhau. Trước chỉ dựa theo thời gian. Lại như, sự thuận hợp nơi cơ duyên đa phần dựa theo đối tượng. Còn lợi ích thì hầu hết dựa theo nơi chủ thể. Thêm nữa, sự thuận hợp nơi cơ duyên chỉ là nghĩa riêng, còn lợi ích thì chung cho cả mười nghĩa. Tức là sự khác nhau của chung và riêng. Cho nên đối hợp với chín cái riêng ở trước mà tạo thành mười lợi ích ấy. Trong phần này có hai: Một là đối hợp riêng với trước. Hai là, từ câu: Diệc khả” (cũng có thể) tiếp xuống: Là khai triển chung nơi nghĩa gốc.

Đối hợp riêng với trước: Nơi phần văn của Sớ giải nêu ra, thì mười thứ lợi ích ấy xuất xứ nơi phần Chỉ Quy, song thứ tự không đồng. Thứ tự ấy là: Một: Lợi ích của sự thấy nghe (Kiến thức). Hai: Lợi ích của sự phát tâm. Ba: Lợi ích của sự thực hành. Bốn: Lợi ích của sự thu nhiếp quả vị. Năm: Lợi ích của việc mau chóng chứng đắc. Sáu: Lợi ích của việc trừ nghiệp chướng. Bảy: Lợi ích của sự chuyển biến nhanh nhạy. Tám: Lợi ích của sự tu tập. Chín: Lợi ích của sự đạt được tức khắc. Mười: Lợi ích của sự xứng hợp với bản tánh.

Đây là dựa theo tính chất từ cạn đến sâu, tự lợi đến lợi tha. Nhưng đối với thứ tự ấy, nay giải thích thì thuận với chín thứ trước, lần lượt mở ra tính chất cùng sanh khởi, sau có thể thành trước, theo đấy mà nên thứ tự. Tuy nhiên tính chất thấy nghe, thực sự là chung cho nhân của mười thứ lợi ích, nhưng nhằm làm rõ nghĩa riêng, thuận theo phương tiện mà nhấn mạnh hơn nữa sự thù thắng; nên phối hợp theo cách riêng.

Một là do “Pháp nhĩ” nêu bày sự thường hằng, biến hiện khắp, nên có thể tiếp xúc, đối với cảnh giới, trong tất cả thời luôn như Pháp được nhận thức. Văn của kinh được diễn ra, như ở trước đã nêu tóm tắt. Lại như phẩm Xuất Hiện nói: “Này Phật tử! Ví như nơi Tuyết Sơn có loại cây dược vương tên là Thiện Kiến. Như có người trông thấy thì mắt được thanh tịnh. Nếu được nghe, thì tai được thanh tịnh. Này Phật tử! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, là bậc Dược vương Vô thượng, cũng lại như vậy. Có thể tạo ra tất cả lợi ích cho chúng sanh. Nếu có người được thấy sắc thân của Như Lai, thì mắt được thanh tịnh. Nếu có người được nghe âm thanh của Như Lai, thì tai được thanh tịnh…”. Lại nói: “Này Phật tử! Ta nay nói cho ông rõ, ví như có chúng sanh, thấy, nghe nơi Phật, do nghiệp chướng trói, che, chẳng sanh sự tin tưởng ưa thích, nhưng cũng là đã gieo trồng thiện căn, không hề uổng phí, cho đến rốt ráo, đều hội nhập nơi nẻo giải thoát.”

Ở trên tuy nêu rõ việc thấy Phật, Phật là Phật của Hoa Nghiêm,

nên lưỡi được nếm Pháp vị vi diệu. Phẩm Hiền Thủ có đoạn: “Pháp ấy là hy hữu, hết mực kỳ diệu! Như người nghe rồi mà có thể chấp nhận, có thể tin tưởng, thọ trì, bày tỏ lời tán dương, như thế là đã làm được sự

việc hết sức khó làm.” Phẩm Đâu Suất kệ tán viết:”

“Như trong mỗi mỗi niệm

Cúng dường vô lượng Phật

Chưa rõ pháp chân thật

Chẳng gọi là cúng dường.

Nếu nghe pháp như thế

Chư Phật từ đấy sanh

Tuy trãi vô lượng khổ

Chẳng lìa hạnh Bồ-đề.

Được nghe trí tuệ lớn

Pháp chư Phật hội nhập

Trong khắp cõi pháp giới

Thành đạo sư ba đời”.

Như vậy là biết rõ, lợi ích của sự nghe, thấy là hết sức sâu rộng.

– Sớ “Lợi ích của sự phát tâm”: Như chẳng được nghe điều ấy thì chẳng thể phát tâm, như có phát tâm thì chẳng đạt được thành tựu tối thắng. Do đấy, lúc mới phát tâm, liền thành Chánh giác. Ý nghĩa như đã nêu dẫn ở trước.

– Sớ “Lợi ích của sự tu tập”: Tức là nghe được pháp rộng khắp ấy. Liền có thể tu tập, do một hành là hết thảy đều hành. Như trước đã dẫn Phẩm Xuất Hiện, có câu: “Tu hành trong nhiều kiếp, không được nghe pháp ấy thì sự tu hành không đúng nghĩa”.

– Sớ “Lợi ích của sự đạt được trong tức khắc”: Như phần dưới nói về sáu ngàn vị Tỳ-kheo, bày tỏ tiếp về việc đạt được nơi mười mắt, còn đồng tử Thiện Tài, chỉ một đời mà làm viên mãn tức khắc các quả vị. Nơi phần đầu của phẩm Pháp Giới, các Bồ tát chứng đắc tức thì v.v… đều như đã nêu dẫn trong phần “Giáo tích”.

– Sớ “Lợi ích của việc diệt trừ nghiệp chướng”: Tức là một đoạn trừ là tất cả được đoạn trừ. Như nơi phẩm Tùy Hảo, lời nêu giảng của “Trống Trời” có đoạn: “Chư vị nên phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề, do ba nghiệp sám hối đồng với Pháp giới…” đoạn kết viết: “Nếu nhận biết như vậy, mới là sự sám hối chân thật. Hết thảy các thứ tội lỗi đều được thanh tịnh. Lúc giảng nói về pháp này, trong số lượng thế giới nhiều như số bụi nơi trăm ngàn ức na-do-tha cõi Phật, các vị Thiên Tử của cõi Đâu Suất, đều được Pháp nhẫn vô sanh”. Lại nữa: “Chư vị Thiên tử, do dùng hương, hoa v.v… cúng dường Phật mà thành tựu được lợi ích lớn lao.” Lại nói: “Các đám mây hương ấy, mưa xuống khắp các thế giới nhiều như hạt bụi trong vô lượng cõi Phật. Như có chúng sanh, thân chạm vào thứ hương ấy, thì thân luôn được an lạc, cũng như vị Tỳkheo nhập vào cõi Thiền thứ tư, hết thảy nghiệp chướng đều được tiêu diệt. Nếu có người được nghe, thì những chúng sanh ấy, ở nơi sắc, thanh hương vị xúc, bên trong có đủ năm trăm thứ phiền não, bên ngoài cũng có năm trăm phiền não; hành tham nhiều nhất là hai vạn một ngàn, các phần về sân, si… cũng như thế, đều nhận biết rõ đấy thảy là hư vọng. Biết rõ như vậy thì thành tựu được thiện căn “Hương tràng vân tự tại quang minh thanh tịnh”.

Những nêu dẫn ấy đều do thấy ích lợi của sự diệt trừ nghiệp chướng.

– Sớ “Lợi ích của sự thu nhiếp quả vị”: Như đã biện minh đầy đủ trong phần nói về quả vị ở trước.

– Sớ “Lợi ích của việc thực hành”: Như Phẩm Phổ Hiền Hạnh nói: “Bậc đại Bồ tát, được nghe pháp này, dù tạo ít phương tiện, cũng mau đạt đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Do một hành là tất cả đều hành, như trong phần bàn về Hành ở trước đã nêu dẫn đủ.

– Sớ “Lợi ích của việc xứng hợp với bản tánh”: Nghĩa là nương vào pháp phổ cập ấy, hết thảy chúng sanh đều xứng hợp với bản tánh của mình. Nơi biển quả của Phật, mọi lợi ích từ xưa đến nay đều trọn vẹn. Cho nên nơi Phẩm Xuất Hiện viết: “Đức Như Lai khi thành bậc Chánh giác Vô thượng, ở nơi thân ấy, thấy khắp tất cả chúng sanh đều có thể thành bậc Chánh giác, cho đến thấy hết thảy chúng sanh nhập Niết-bàn, đều cùng một tánh, đó là Vô tánh.” Nếu không có sự xứng hợp với bản tánh thì đâu đạt được như vậy.

– Sớ “Lợi ích của sự chuyển biến nhanh nhạy”: Như lượt thứ nhất, Thiên tử Địa Ngục (còn gọi là Thiên tử Đâu Suất) đạt được lợi ích xong, lần lượt thành tựu được ba lượt lợi ích, thì hai lược sau tức là “Lợi ích của sự chuyển biến nhanh nhạy”. Còn như phần “Diệt trừ nghiệp chướng” nêu trên, tức là lược thứ hai, cũng là “Lợi ích của sự chuyển biến nhanh nhạy”, do so sánh với nơi chốn riêng biệt, nên gọi là diệt trừ nghiệp chướng. Lượt thứ ba nêu rõ: “Như có chúng sanh thấy được “Lọng mây” kia, tức đã gieo trồng hằng hà sa thiện căn “Kim võng chuyển luân vương” thanh tịnh”. “Này Phật tử! Bồ tát trụ nơi ngôi vị Chuyển Luân Vương ấy, ở trong các thế giới nhiều như số hạt bụi nơi trăm ngàn ức Na-do-tha cõi Phật, giáo hóa chúng sanh”. Cho đến: “Như có người vừa được gặp ánh hào quang ấy, ắt đạt được Quả vị của Bồ tát địa thứ mười, là do diệu lực nơi thiện căn đã tu tập từ trước.” Tất cả đều là “Lợi ích của sự chuyển biến nhanh nhạy”.

– Sớ “Lợi ích của sự nhanh chóng chứng đắc”: Như đã biện giải trong phần “Giáo tích” ở trước, nêu rõ trong phần nói về “Một đời mà thành tựu viên mãn quả vị của vô số kiếp”.

– Sớ câu: “Cho nên nhân quả chín thứ trước đều là lợi ích của hiện tại” là kết luận.

– Sớ câu: “Cũng có thể cho mỗi mỗi thứ ở trước đều thành mười lợi ích “. Đây là ý thứ hai, lại là ý chính, vì ở trên chỉ là sự tùy thuận chỗ thích hợp.

Sớ từ câu: “Nhân nơi mười nghĩa nêu trên, nên giáo pháp ấy được hưng khởi” tiếp xuống: Là phần thứ ba (c) (thuộc phần chia đoạn, giải thích của môn thứ nhất: Nhân duyên lập giáo) Kết luận về sự thuộc về, giải thích rõ thêm. Ở đây: Trước là kết luận về sự liên hệ, sau là thích rõ thêm về văn của kinh. Văn của kinh đầy đủ là:

“Về người thuyết pháp ấy, cũng gọi là Pháp tuệ, thảy do thần lực của Phật, do diệu lực nơi bản nguyện của đức Thế Tôn, vì nhằm chỉ rõ giáo pháp của Phật, vì do sự soi chiếu khắp của ánh sáng trí tuệ, vì muốn mở rộng, phát huy ý nghĩa thâm diệu, vì muốn khiến chứng đạt Thể tánh của các pháp, vì nhằm khiến cho chúng hội thảy hoan hỉ, vì nhằm khai thị nhân của pháp Phật, vì muốn đạt được sự bình đẳng của tất cả chư Phật, vì thông tỏ pháp giới là không có hai, nên nêu giảng pháp như vậy.” Mười nhân chỉ nêu lên hai, nên chỉ có chữ vân vân (đẳng)

– Sớ câu: “Nhân duyên cùng tham dự”: thần lực là Duyên, các thứ còn lại đều là Nhân, nên gọi là “Cùng xen vào nhau”. Nay lược nêu lên hai, tức có nhân duyên, do Sớ giải đối hợp với nhân duyên, nhân duyên dễ nhận biết nên nói “Có thể cho là hợp lý.”

– Sớ câu: “Hai là nêu rõ về duyên của sự thuyết giảng kinh” Văn của bản sớ phân làm hai: Một là nêu dẫn, nói tổng quát, hai là từ câu “nay có mười duyên” tiếp xuống: Là phần chia chương giải thích rõ. Phần một nêu dẫn, nghĩa là trong sáu thứ thành tựu, thì hai thứ Tín, Văn là thuộc về Tôn Giả A Nan, sau ngày Phật diệt độ, khi kết tập kinh điển, đã nêu ra, chẳng phải duyên của kinh. Bốn thứ thành tựu còn lại (Thời, Chủ, Xứ, Chúng) đều là duyên khởi của kinh. Thuyết giảng ắt dựa vào thời gian (Thời), nên có nơi chốn (xứ). Người thì chung cho cả người nói và người nghe, tức Phật (chủ) cùng với chúng (chúng), bốn nghĩa gồm đủ.

Hỏi: Luận Đại Trí Độ nói: Nói về thời gian, nơi chốn, người thuyết giảng khiến phát sinh lòng tin. Vì sao nay lại nói là duyên khởi?

Đáp: Trong sáu thứ thành tựu, thì hai cái đầu chỉ thuộc về chứng, tín. Bốn cái sau thì ý nghĩa gồm cả hai. Tôn Giả A Nan dẫn ra là để cho chúng sanh tin là thời bấy giờ, không có cái duyên kia thì giáo pháp ấy chẳng được dấy khởi, nên gọi là duyên khởi. Nay trong mười Duyên đều có đủ bốn thứ thành tựu ấy.

– Sớ câu: “Nay có mười duyên” trở xuống là chia chương giải thích. Trong đây trước nêu dẫn, sau là giải thích.

DUYÊN THỨ NHẤT: “Nay nói về duyên thứ nhất là dựa vào thời gian” (y thời): Văn của bản Sớ giải tiếp theo được chia làm bốn: Một là nêu đại ý; Hai là chia chương giải thích; Ba là dung hợp; Bốn là bàn rộng như phần Chỉ quy: “Một câu nêu ra cội nguồn của pháp.”

Phần một đại ý gồm hai chi tiết: Trước là tạm xua bỏ phần “Dấu vết” để làm hiển lộ cái thật. Sau là, dựa theo đức để làm hiển lộ sự viên mãn. Trong phần trước Sớ câu: “Phàm, tâm ứng hợp một cách sâu xa với đạo lớn thì xưa nay hòa lẫn làm một”: Đây là theo Người để làm hiển lộ Thật. Tâm cùng với lý khế hợp một cách sâu xa, thì không còn có hình tướng của xưa nay. Đại sư Tăng Triệu nói: “Xưa nay chung cả đầu cuối, đồng với chỗ tận cùng của gốc ngọn, thảy đều mênh mông, chung một” Đại sư Đạo Sinh,nơi sách Pháp Hoa sớ, thì nói: “Xưa cũng là nay. Nay cũng là xưa.”

– Sớ câu: “Pháp giới không sinh”: Là theo Pháp để làm hiển lộ cái Thật. Có sinh khởi thì thuộc về ba đời, tức có thời gian; không sinh khởi thì không có sát na, đâu có việc phân chia thời gian. Phẩm Xuất Hiện nói:

“Chân như lìa vọng, luôn tịch tĩnh

Không sanh không diệt, hiện hữu khắp…”

– Sớ câu: “Kệ của phần kinh tiếp dưới có câu”: Là phần tiếp theo dẫn kinh, nêu tóm lược về người để minh chứng, tức là kệ của Bồ tát Bảo Tràng nơi phẩm “Đâu Suất”. Đoạn kệ ấy đủ là:

“Chúng sanh, nêu như thế

Ngày ấy Phật thành đạo

Như Lai đạt Bồ-đề

Thật chẳng tính ngày tháng”.

Phẩm Pháp Giới viết:

“Trí tuệ Bồ tát diệu pháp luân

Xa lìa hết thảy lưới phân biệt

Vượt khỏi tất cả núi chướng ngại

Chẳng thể dùng ngắn dài sanh tử

Nhiễm tịnh số kiếp nêu rõ được”.

Nói chung, văn ấy chẳng phải là một.

– Sớ câu: “Huống chi, nói theo nẻo không bến bờ” Là chi tiết sau, dựa theo đức để làm hiển lộ sự viên mãn. “Nói về nẻo không bến bờ” thì chiều dọc là nhấn mạnh về thời gian lâu dài. Cho nên phần Chỉ Quy nêu rõ: “Nói về sự thường hằng, có phần trước sau mà không bờ bến.

Câu: “Niệm và kiếp cùng dung hợp viên mãn”: Là nêu theo một niệm tức chẳng thể cùng tận. Một niệm là vô lượng kiếp. Vô lượng kiếp tức là một niệm. Cho nên nói như thế. Một niệm tức nhiều kiếp, thì sao có thể phân định dài ngắn?

– Phần hai, chia chương giải thích: Từ câu: nay dùng thời gian của không có thời gian, làm hiển lộ một cách tóm lược về mười lớp thời gian riêng biệt”: Trở xuống giải thích. Trong phần này gồm ba: Một: Hai câu trên vừa dẫn là nêu ra. Hai: Từ chữ “Sơ duy” (đầu tiên chỉ là) tiếp xuống là giải thích. Ba: Từ chữ ư (đối với) tiếp xuống: Là kết luận.

Giải thích: “Đầu tiên chỉ là một niệm”: Nghĩa là ở trong khoảnh khắc một sát na, biến hiện khắp vô tận xứ để thuyết giảng vô biên pháp.

Câu: “Hai là hết bảy ngày”: Tức là khi mới thành đạo, trong bảy ngày đầu là tự thọ nhận pháp lạc lớn lao. Pháp lạc lớn lao ấy là sự an lạc của trí tuệ tịch tĩnh. Trong bảy ngày lần hai là thuyết giảng tức thời Kinh này. Do đâu mà mới thành Chánh giác liền nêu giảng về kinh này? Là do Kinh này là hơn hết. Nếu lấy sự mới thành tựu bậc Chánh giác biểu thị cho sự hơn hết, thì trong bảy ngày trước hết ấy vì sao không giảng nói?

Luận viết: “Tư duy hành thì nhân duyên hành”. Nhân là trí của chủ thể thuyết giảng. Duyên là căn cơ của đối tượng được giáo hóa. Sắp sửa nêu giảng cái diệu pháp mà mình (Phật) đạt được, hòa hợp với căn cơ của muôn vật Pháp, nên gọi là “Tư duy hành”.

– Sớ câu: “Ba là biến hiện khắp ba thời”: Nghĩa là hết thảy thời trước, sau, đều là vô biên kiếp, thườngg hằng biến hiện khắp để diễn nói Kinh này. Đầu tiên và không hề dừng nghĩ. Ba điều vừa dẫn trên là dễ hiểu nên phần Sớ giải chỉ nêu ra tên gọi mà thôi.

– Sớ câu: “Thâu nhiếp kiếp cùng loại” tiếp xuống: Do ý nghĩa có chút ít Ẩn khuất nên đều có thêm chữ vào. Phần “Chỉ Quy” chỉ nêu: “Bốn là thu nhiếp cùng loại. Năm là gồm thâu kiếp khác loại. Sáu là dung niệm thâu tóm kiếp. Bảy là kiếp, niệm lại thâu tóm nhau. Tám là cảnh giới, thời gian khác loại. Chín là đây kia cùng hòa nhập. Mười là lấy gốc thâu tóm ngọn. Nay tăng thêm một chữ thì nghĩa để nhận thấy, nên chẳng giải thích, chỉ giải thích lớp thứ mười.

Nói “Thâu nhiếp kiếp cùng loại” là ở nơi vô biên kiếp về trước thảy đều thâu nhiếp cùng loại. Như “Kiếp dài” thì chỉ thu nhiếp với “Kiếp dài”, “Kiếp ngắn” thì chỉ thu nhiếp với “Kiếp ngắn” v.v…

– Sớ câu: “Năm là gồm thâu kiếp khác loại”: Nghĩa là “Kiếp dài” thu nhiếp “Kiếp ngắn” v.v…

– Sớ câu: “Sáu là dùng niệm để thâu tóm kiếp”: Tức là ở trong một niệm liền thâu tóm vô biên kiếp đồng loại khác loại. Niệm niệm đều như vậy.

– Sớ câu: “Bảy là kiếp, niệm lại thâu tóm nhau” Ở đây, trong phần kiếp được niệm thu nhiếp đã nêu trên, đều lấy niệm tạo thành kiếp, mỗi mỗi niệm cũng đều thâu tóm các kiếp. Đó là niệm niệm đã thể hiện sự bất tận, thì kiếp kiếp cũng lại chẳng cùng. Như lưới nhân Đà La trùng trùng vô tận.

– Sớ câu: “Tám là cảnh giới, thời gian khác loại”: Bảy lớp kể trên đều dựa thẹo môt loại thế giới, như nay nói về thế giới ta Bà cùng một loại; nay biện giải về hình tướng của cây cối, sông suối v.v… nơi vô biên cõi khác loại. Cõi đã giống như xứ, nhưng có chẳng đồng thời, cũng đồng thời, mà mỗi mỗi đều có giới hạn, trình độ sai biệt. Tận cùng hết các phần thời gian ấy đều luôn giảng nói kinh nầy.

– Sớ câu: “Chín là đây kia cùng hòa nhập”: Tức là, nơi cảnh giới khác loại kia (bỉ), với mọi thời, kiếp hiện có, cũng đều được gồm thâu hết mọi vẻ riêng biệt. Hoặc cảnh giới thời gian, thời gian đồng loại, khác loại đều hỗ tương thâu tóm, hội nhập. Hoặc niệm, hoặc kiếp, trùng trùng vô tận. Đồng với các lớp bốn, năm, sáu, bảy: Ở nơi các thời kia, luôn thuyết giảng kinh nầy.

– Sớ Câu: “Nghĩa là lấy “Phi kiếp” cho là kiếp”, do lớp thứ mười khó nhận thấy, nên phải dùng câu ấy để giải thích”: cho “Phi kiếp” là Gốc, Kiếp tức là ngọn. Nói “Phi kiếp” tức là lìa mọi sự phân chia giới hạn. Như thế giới của Hoa Nghiêm, lấy “phi kiếp” làm kiếp, kiếp là “Phi kiếp”. Về niệm cũng như thế. Do thời gian không có dài ngắn, lìa mọi sự phân hạn. Do lìa mọi sự phân chia thời gian nói về kiếp ấy; do thời gian không có Thể riêng, dựa nơi pháp để lập ra như trên đã nêu. Pháp đã dung thông thì thời gian cũng thuận theo đấy. Phẩm Ly Thế Gian có câu: “Bồ tát Ma-ha-tát, biết rõ kiếp tất cả tức là “Phi kiếp” mà giảng nói chân thật về số lượng kiếp. Đó là trụ vô ngại thứ sáu.” Cho nên nói “Phi kiếp” là kiếp. Ở nơi vô lượng kiếp của thời gian trước, luôn giảng thuyết về Hoa Nghiêm.

– Phần ba: Dung hợp. Sớ câu: Từ câu: “Lại nữa, mười lớp ấy, theo một mà thâu tóm viên mãn”, trở xuống được chia làm ba chi tiết: Một: Hai câu vừa dẫn trên là chính thức dung hợp. Hai: Từ câu: “Dựa vào sự nêu giảng về thời gian ấy thì không có đầu cuối” tiếp xuống: Là làm thông suốt chỗ vướng mắc do vấn nạn. Đây là nhắc lại chỗ nghi vấn đã nêu ở trước: “Đã không có đầu cuối, thì sao lại có cái đầu của mới thành bậc Chánh giác và cái cuối của chín Hội thuyết giảng kinh?”: Từ câu: “Cũng tùy theo chỗ thấy nghe” tiếp xuống: Là giải thích rõ, cho nên văn của bản Sớ giải đã nêu rõ chung cho phần trước. Lại như phần này, tức là biển pháp vô biên. Do phần dưới đều tóm kết chung không có sự giới hạn, khác biệt, nên một phần tức là nói về tất cả.

– Sớ câu: “Như dựa vào thời gian ấy” tiếp xuống: Là chi tiết thứ ba làm hiển lộ chủ thể thù thắng. Trong phần này có ba: Một là lựa chọn cái khác để làm rõ sự thù thắng. Hai là từ câu: “Mà giáo pháp còn lại” tiếp xuống: Là kết hợp cái khác để làm hiển lộ sự thù thắng. Ba là từ câu: “Hoặc nói” tiếp xuống: Thông suốt lần nữa về chỗ vướng mắc do vấn nạn.

Vấn nạn nêu: “Kia có ba bảy, sáu bảy v.v… sự khác nhau, làm sao cho là “Chẳng ra ngoài đều này”? Cho nên đã thông rằng: “Đều là thời gian của kinh nầy, tùy theo chỗ thấy, nghe”.