Đại Phương Đẳng Đại Tập
Hiền Hộ Kinh giảng ký
大方等大集賢護經講記
慈法法師主講
Chủ giảng: Pháp sư Từ Pháp
Địa điểm: Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

(Kinh) Phật pháp thậm thâm nan khả kiến, khai thị Thế Đế linh nhân tri.

()佛法甚深難可見開示世諦令人知。

(Kinh: Phật pháp rất sâu, khó thể thấy, khai thị Thế Đế cho người biết).

Cảnh giới vi diệu rộng lớn rất sâu của chư Phật Như Lai, hết thảy phàm thánh chẳng thể suy lường mà biết được. Vì vậy, đức Phật nói đủ loại tỷ dụ theo thế tục để hữu tình phàm ngu trong thế tục, cho đến phàm thánh hữu tình có phương tiện để khế nhập, nhận biết hòng tham chiếu, tức là “khai thị Thế Đế linh nhân tri” (khai thị Thế Đế khiến cho mọi người biết). Sự tham chiếu ấy chẳng phải là chân thật, mà là nói tương tự. Nếu đức Thế Tôn chẳng nói các loại tỷ dụ, các loại pháp, các cách nói tương tự, khiến cho chúng ta nhận biết và tiến nhập, chúng ta sẽ chẳng có cơ hội tiếp xúc. Vì sao? Chẳng hạn như chúng ta mong liễu giải loài cá suy nghĩ như thế nào, nhưng do là con người, chúng ta trải qua một ngàn năm, vạn năm, ngàn kiếp, vạn kiếp, cũng suy nghĩ chẳng thấu tỏ. Tuy có thể dùng các tỷ dụ như cá sống trong nước như thế nào, cảm giác như thế nào, nhưng đều là nói tương tự! Nếu muốn thật sự thấu hiểu, chúng ta chỉ có thể làm một con cá thì mới có thể triệt để thể nghiệm sanh mạng và cảm giác của cá.

Cũng giống như thế, đối với cảnh giới rất sâu vi diệu rộng lớn của chư Phật Như Lai, cho đến thiện xảo trí huệ rộng lớn, oai đức lợi ích rộng khắp thế gian, phàm phu hữu tình, hữu tình có trí, hữu tình thánh nhân, dẫu nói cùng tận, giảng giải cùng tận, tư duy cùng tận, tư duy nhiều lượt, tư duy cho đến hết đời vị lai, mọi người đều tập trung cùng nhau tư duy, cũng chẳng thể biết chút phần. Đó là sự chọn lựa, vì sao? Chẳng cùng một tầng cấp, sẽ chẳng thể tương ứng! Trong phàm tình của chúng ta, tâm còn chưa ngưng nghỉ, bị tạo tác lừa dối, chẳng có cách nào biết rõ công đức của hữu tình đã đình tâm. Chúng sanh chưa đình tâm trong một thế giới, hai thế giới, hay vô cùng thế giới tập trung một chỗ, vẫn chẳng thể biết tâm của một vị Bồ Tát đã đình tâm. Vô lượng vô biên hữu tình đều chứng đắc các địa vị Bồ Tát Thập Hạnh, Thập Trụ, Thập Hồi Hướng cũng đều chẳng thể biết tâm trí, cảnh giới, diệu dụng, oai đức, và phước huệ của một vị Sơ Địa Bồ Tát, vì chẳng có cách nào biết, chẳng thể nhận biết. Bất luận chúng ta nói như thế này, như thế kia, nội hàm thực chất vẫn chẳng phải là như thế. Do đó, quý vị tới Ly Giang, đừng suy đoán Trung Điện cũng chẳng khác Ly Giang cho mấy. Tới Đại Lý, cũng đừng suy đoán Ly Giang, chẳng giống nhau đâu nhé! Đối với phong cảnh, chúng ta có thể quan sát như thế, nhưng nói theo sự sai  biệt của đạo nghiệp, cũng chắc chắn là như thế.

(Kinh) Bỉ như tự tánh sơ bất thiên, nhữ đương tùy thuận trí vô ngại. Do nhật nguyệt thiên sơ xuất thời, Đế Thích tá thiên tam thập nhị. Chúng cụ trang nghiêm thật châu phổ, cầu bỉ tam-muội diệc phục nhiên.

()彼如自性初不遷汝當隨順智無礙。猶日月天初出時帝釋佐天三十二。衆具莊嚴實周普求彼三昧亦復然。

(Kinh: Như tự tánh ban sơ chẳng dời, ông nên tùy thuận trí vô ngại. Như khi nhật nguyệt thiên vừa mọc, băm hai thiên phù tá Đế Thích. Các món trang nghiêm đều trọn khắp, cầu tam-muội ấy cũng giống  vậy).

Đế Thích Thiên có ba mươi hai quyến thuộc, mỗi vị thống nhiếp một phương. Kinh Hoa Nghiêm đã miêu tả một tiểu thế giới, bao gồm một núi Tu Di, hai vầng nhật nguyệt, Đao Lợi thiên cung, biển nước thơm v.v… mọi người có thể tìm đọc. Chẳng biết trong các hữu tình hiện tiền, mấy vị có thể liễu giải trạng thái của Đao Lợi Thiên? Nói thông thường, người có Thiền Định có thể đến các cung trời thuộc Sắc Giới và Dục Giới, [sau đó, khi] trở lại [ở trong] nhân loại, phần nhiều chẳng thể chịu đựng nổi! Vì thế, trong quá khứ có nói: Một số người có Thiền Định bèn “tọa thoát” (ngồi mà mất), tức là họ chẳng cần sắc thân này nữa! Có khi trong lúc tọa Thiền, cảm nhận sắc thân này nặng nề, thần thức liền thất lạc. Nói “thất lạc” tức là tham cầu các cảnh sắc ấy. Vì cảnh sắc trong Dục Giới Thiên, dẫu diễn nói cùng cực, dẫu là kẻ giàu có tột bậc trong nhân loại, đều chẳng thể sánh ví được! Rất nhiều người ngỡ chính mình đang sống nơi đô thị phồn hoa, hoặc ở trong hoàn cảnh ưu việt, nhưng đều là chẳng có cách nào sánh bằng cõi trời. Sự sai khác nơi phước đức [giữa thiên cung và nhân gian] khó thể diễn tả hay thí dụ. Sự sai khác nơi thiện xảo [giữa nhân loại và thiên chúng] khó thể diễn tả, tỷ dụ được!

Người hiện thời tâm trí rã rời, phần nhiều chẳng thành tựu tam-muội. Do vậy, chẳng đạt được phương tiện như các hữu tình trong các thế giới khác, càng chẳng đạt được phương tiện thiện xảo như trong các thế giới khác. Vì thế, phần đông mê muội trong cảnh giới hiện tại, phiền não hừng hực, chạy theo nghiệp tập của chính mình, xoay vần trong cơ chế sanh mạng hữu hạn. Phần Đoạn Sanh Tử này kết thúc, chắc là sẽ tạo các nghiệp mới, rồi lại hoàn thành một Phần Đoạn Sanh Tử khác, rất khó tiến nhập các thế giới khác, rất khó cảm nhận trạng thái ý thức sanh mạng.

Thông thường, nếu một người đã tiếp xúc chúng sanh hèn kém, sẽ dễ cảm nhận những điều ấy hơn. Chẳng hạn như đa số người sống ở vùng Đông Bắc [Trung Hoa] đều thờ cúng quỷ thần, nhân loại rất dễ thấu hiểu sự kém hèn của các loại quỷ thần ấy. Chúng tôi nêu thí dụ này, mọi người đừng cho là chê trách! Đây là chuyện phát sanh không lâu trước kia. Có một vị cư sĩ tìm tôi, ông ta rất hoang mang, nói: “Ối trời ơi! Sư phụ ơi! Con gặp một chuyện quá linh thiêng! Cư sĩ X… ở chỗ Y… lập một điện thờ, thờ phụng quỷ thần linh lắm! Tất cả những gì quý vị biết, bất luận ba mươi năm trước, hay ba mươi năm sau, nhà nào, người nào, ông ta đều biết, quả thật là quá linh!” Tôi nghĩ chắc là kẻ bị hồ ly dựa thân, bèn bảo ông ta kể xem ngôi miếu ấy thiết trí như thế nào. Sau đó, hỏi hoàn cảnh sống thông thường của người ấy có phải là thích đào dưới đất thứ chi đó hay không? Vị cư sĩ ấy nói: – Đúng rồi! Nhà ông ta chẳng cần cửa cái, cũng chẳng có cửa sổ. Dưới chân tường đào một cái hang, người khác ra vào cần phải từ dưới bò qua. Thoạt đầu, mọi người tạo cho ông ta một cái cửa, nhưng sau khi tạo xong, ông bèn đóng đinh gắn chặt, chẳng thể theo cửa ra vào được! Đấy chính là thói quen [sống trong hang của loài hồ ly]! Cớ sao con người dễ tiếp nhận sự nhận biết của sanh mạng hèn kém? Vì đối với các thứ hèn kém thô tháp hơn quý vị, phước đức của quý vị lớn hơn chúng nó. Chỉ cần quý vị hơi phóng túng đôi chút, sẽ lẫn lộn với chúng nó, giống như một vật từ chỗ cao rơi xuống sẽ dễ dàng hơn nâng một vật từ dưới thấp lên cao khá nhiều!

Chuyện kiểu này rất phổ biến tại nhiều nơi ở Đông Bắc. Người ta đến cầu đảo, dùng sanh mạng trân quý của nhân loại để cúng dường chúng nó, khiến chúng nó hết sức khoái chí! Giống như chư thiên đến cúng dường chúng ta, chúng ta sẽ có sự cảm nhận như thế nào? Nếu có một vị trời quan tâm quý vị, sẽ giống như chúng ta chăm sóc cún con, mèo bé. Buổi tối, chúng ta mở đèn pin soi, con cún sẽ cảm thấy một cột sáng khá lớn: “Đó là ánh sáng gì vậy? Chẳng thể nghĩ bàn!” Đối với chúng nó mà nói, chắc chắn là chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta cho chúng nó thức ăn ngon, đồ vật để ngủ yên, là vì chúng ta có rất nhiều thứ, tất cả các thứ thuận tiện đều có thể thiết trí cho chúng nó. Làm sao chúng nó nghĩ ra phước báo của chính mình do đâu mà có, chỉ con người là có thể tạo tác cho chúng nó. Có khi, một vị trời đến chiếu cố chúng ta, [thể hiện các điều kỳ diệu] như tướng sáng, hương mầu nhiệm, tâm trí điều nhu, và cảm nhận thù thắng mầu nhiệm, thiện duyên rộng lớn, tâm trí thong dong, đều hiện tiền, nhưng quý vị thường chẳng tưởng tượng được vì sao có sự thiện xảo tăng thượng to ngần ấy? Sẽ giống như một người mười phần oai đức đến chăm sóc một kẻ nghèo mạt rệp, kẻ nghèo mạt rệp rất tự nhiên được thoải mái, có thể thỏa mãn các nhu cầu hiện tiền của chính mình. Giống như vậy, nếu chúng ta thờ cúng các sanh mạng hèn kém, sẽ rất dễ mười phần tương ứng với chúng nó, tức là nếu quý vị muốn sống giống như mèo, chó, giữ giới của mèo, giới của chó, sẽ rất dễ dàng hòa nhập!

Tại một thánh địa của Ấn Độ Giáo, chúng tôi thấy mấy gã ngoại đạo trần truồng bôi đầy tro than. Trong sự tu trì của bọn họ, tro bụi được coi là Bố Thí trong tu trì Lục Ba La Mật. Tức là dùng tro thiêu xác người chết để bôi đầy thân thể của chính mình, hòng giảm bớt tướng vi tế nơi sắc thân của chính mình. Vì sau khi bôi tro, thân thể con người sẽ thô ráp giống như da ngựa, da trâu. Đó là tu trì gì vậy? Tu trì sao cho có trạng thái và cảm giác giống như động vật. Cách tu theo kiểu ấy đâm ra dễ dàng, vì chẳng cần nhờ vào bất cứ thứ gì. Trong Tạng truyền Phật giáo, có cách tu được gọi là “đệ nhất bố thí”, tức là buông bỏ hết thảy những thứ mình có, dùng tro đất để che xấu, chống lạnh, ngăn ngừa côn trùng. Nay chúng ta cần trang phục, đức Thế Tôn đối với trang phục đã đúng lý xem xét kỹ càng, cho rằng y phục giúp cho nhân loại tôn nghiêm, ngăn ngừa loài trùng gây hại, chống đỡ mưa gió, chống đỡ rét lạnh, cho đến chống đỡ nóng bức.

Trang phục dấy lên tác dụng như thế, ở đây, [ngoại đạo] dùng tro để giải quyết vấn đề. Giống như chư thiên gia trì, nếu là sức tam-muội gia trì chúng ta, chúng ta cũng phải có chủng tử trong tâm địa, tức là phước đức tương ứng. “Cầu bỉ tam-muội diệc phục nhiên” (Cầu tam-muội ấy cũng giống như vậy): Trong phần trước đã nói đủ loại cúng dường, ở đây, nêu ra chư thiên để làm thí dụ, mục đích vẫn là cầu tam-muội này.

(Kinh) Thí như Phạm thiên xử chúng Phạm, oai nghi tịch tĩnh công đức viên.

()譬如梵天處梵衆威儀寂靜功德圓。

(Kinh: Như Phạm Thiên giữa các Phạm chúng, oai nghi tịch tĩnh, công đức trọn).

Trong hết thảy các chúng sanh thuộc về thiện pháp, Phạm Thiên Vương tôn quý, thù thắng nhất, oai đức trang nghiêm, trọn đủ diệu tướng. Nếu Đế Thích ở trước mặt Phạm Vương, sẽ lộ rõ dáng vẻ rất xấu xí, thô kệch; nhưng nhân loại chúng ta nếu đem so với Đế Thích, cũng chẳng có cách nào sánh bằng. Dẫu hình tướng của một sợi lông nơi thân chúng ta cũng đều chẳng có cách nào sánh bằng ông ta. Quý vị nói “lẽ nào con người kém cỏi như vậy ư?” Nếu như đem con kiến so sánh với con người, con kiến cũng chẳng có cách nào so sánh với chúng ta. Đó là nói so sánh. Vì sao hiện thời sanh mạng của nhân loại thuộc trạng thái không ngừng đi xuống? Quả thật là do lòng kiêu mạn của chúng ta. Cảm giác “chính mình ưu việt” của con người càng ngày càng mạnh; đúng là cái tâm kiêu mạn dần dần tổn giảm cơ thể, cơ chế, nhân duyên bề ngoài của sự sanh tồn, và sức khỏe nội tại của chúng ta. Vì hễ chúng ta kiêu mạn, trời đất sẽ tổn giảm chúng ta, bản thân chúng ta cũng đang tiêu hao chính mình.

(Kinh) Dũng mãnh tinh tấn bất khả xưng, bỉ cầu tam-muội diệc như thị.

()勇猛精進不可稱彼求三昧亦如是。

(Kinh: Dũng mãnh tinh tấn chẳng thể nói, người cầu tam-muội cũng như vậy).

Phạm Thiên thành tựu thiện pháp tôn quý, thành tựu tinh tấn, ở trong các Phạm chúng (chư thiên thuộc cõi trời Đại Phạm) rất chẳng thể nghĩ bàn! Đức Thế Tôn chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, dẫn một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ-kheo du hóa các nước. Có một lúc nọ, đến nước Xá Vệ; khi đó, cha Ngài trông thấy liền rơi lệ, nói: “Đức Thế Tôn đã đích thân chứng Vô Thượng Bồ Đề, diệu tướng trang nghiêm, thân như vàng ròng. Cớ sao quyến thuộc nhếch nhác như thế?” Vì trong một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ-kheo, phần nhiều là thủ lãnh của ngoại đạo, hay quyến thuộc của ngoại đạo, tuy theo đức Phật đã chứng đắc A La Hán quả, nhưng nghiệp tập từ vô thỉ đến nay che lấp, in dấu quá sâu. Do nghiệp tướng như thế, tướng mạo phần nhiều chẳng đẹp đẽ, chẳng phải là tướng còm nhom, xám xịt, vàng vọt, thì cũng là hình tướng tiều tụy, như các ngoại đạo thờ lửa, thân thể đều khô khan, vàng vọt. Khi đó, Tịnh Phạn Vương bèn đề nghị, mỗi gia đình trong tộc Thích Ca chọn ra một người nam đẹp nhất đi xuất gia, hòng khiến cho Tăng đoàn của Phật Thích Ca trang nghiêm trọn đủ, khiến cho chúng sanh trong thế gian an lạc. Vì sao nói đến chuyện này? Nhằm nói nghiệp báo sai biệt quá lớn! Dẫu chứng quả, nghiệp từ quá khứ vô thỉ vẫn còn che lấp chúng ta.

Trong cơ chế của nhân loại, trong tam giới, tức Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, có đại thiện xảo, tức là thiện xảo trong chọn lựa, nhưng có khuyết điểm to lớn, tức là hiện thời thọ mạng của nhân loại quá ngắn. Ba ngàn năm trên cung trời Đâu Suất là năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm trong nhân gian, làm sao có thể so sánh cho được? Người hiện thời thọ trăm tuổi, thì trong năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm đó, phải chịu luân hồi sanh tử khổ nạn bao nhiêu lần? Bao nhiêu đời thọ thai, mang thai, sanh ra, trưởng thành, tử vong, tuần hoàn chẳng ngừng như thế? Có đau khổ hay chăng? Nếu người hiện thời thọ năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm, chúng ta ngồi đây chờ Phật Di Lặc [giáng thế] là được rồi, chẳng cần dùng pháp chi khác! Chủ yếu là chẳng thể so sánh tương tự được, nhân loại dễ nẩy sanh tự kiêu mạn, chẳng dễ biết “sanh tử vô thường” như đức Thế Tôn đã dạy, sẽ dường như cảm thấy chẳng liên quan gì với mình, tợ hồ chẳng liên quan với vô thường, nhưng vô thường thường xuyên bức bách quý vị. Những người già suy, các bệnh nhân ung thư, họ thật sự biết vô thường là gì. Đối với lời dạy “hôm nay còn sống, khó bảo toàn ngày mai” của đức Thế Tôn, sẽ cảm nhận mười phần rõ rệt.

“Dũng mãnh tinh tấn bất khả xưng” (Dũng mãnh, tinh tấn chẳng thể nói): Công đức do Phạm Thiên đã chứng do vậy mà có. Ông ta có diệu tướng trang nghiêm như thế, có oai đức như thế, còn chúng ta giải đãi chẳng thể nói được! Trong một ngày, chúng ta có bao nhiêu ý niệm? Mà trong các ý niệm ấy, lại có bao nhiêu ý niệm là rõ ràng, trí huệ, sáng suốt? Có bao nhiêu ý niệm điên đảo, bất đắc dĩ? Nếu chúng ta có thể tính toán, dẫu chỉ tính được số lượng ý niệm thì cũng khá lắm rồi. Nếu không, đúng là ngày qua ngày luống uổng, sau này sẽ hối hận!

(Kinh) Hựu như y vương xử thế gian, cấp thí bệnh giả chúng diệu dược. Tùy thuận chư Phật thanh tịnh tâm, sơ vị tằng ly bổn Không tánh.

()又如醫王處世間給施病者衆妙藥 。隨順諸佛清 淨心初未曾離本空性。

(Kinh: Lại như y vương trong thế gian, ban thuốc nhiệm mầu cho người bệnh. Tùy thuận chư Phật tâm thanh tịnh, chưa hề lìa tánh  Không vốn có).

Chúng sanh là người bệnh. “Tùy thuận chư Phật thanh tịnh tâm”: Đó là vị thuốc tốt lành nhất. Tùy thuận quả địa giáo chính là vị thuốc triệt để nhất. Đúng là có vô lượng vị thuốc, nhưng có thuốc chẳng thể trừ tận gốc chứng bệnh. Trong ba loại tâm Bồ Đề, Vô Thượng Bồ Đề tâm có thể trừ tận gốc bệnh của hết thảy chúng sanh. Thanh Văn Bồ Đề tâm và Duyên Giác Bồ Đề tâm có thể trừ chút phần, hoặc nhiều phần bệnh nạn cho chúng sanh. Tứ sanh cửu hữu trong thế gian, trong tam giới, đều là bệnh nhân, bệnh gì vậy? Từ trong các pháp, vốn chẳng có trần nhiễm, mà hư vọng tự nhiễm trần, luân hồi trong sáu nẻo, chẳng thể tự dứt, chẳng thể khống chế được!

“Tùy thuận chư Phật thanh tịnh tâm, sơ vị tằng ly bổn Không tánh” (Tùy thuận cái tâm thanh tịnh của chư Phật, từ thoạt đầu chưa hề lìa khỏi tánh Không vốn có): Tuy chúng ta tùy thuận cái tâm thanh tịnh của chư Phật Như Lai, nhưng xét theo cái sẵn có để nói, chúng ta chưa từng lìa khỏi cái tâm thanh tịnh ấy! Đây thật sự là lời nói hy hữu! Các vị thiện tri thức ơi! Thật sự phải khéo tư duy, khéo quan sát, chúng ta sẽ lãnh hội được câu nói này.

Thuốc được bố thí thật sự là thứ ta sẵn có. Sự khỏe mạnh được bố thí thật ra vẫn đang sẵn có. Nhưng nếu chẳng có quá trình tùy thuận ấy, cái “sẵn có” như chúng ta vừa nói chỉ là nói suông, hư vọng, là kiêu mạn và tà kiến.

(Kinh) Thí như Tuyết sơn, chư sơn vương, vĩ diệp đồng ư Chuyển Luân đế. Diệc như bảo liễn diệu trang nghiêm, bỉ kiến chư Phật chúng tướng mãn. Hựu do hộc vương tuyệt minh bạch, xử không tự tại vô ngại du. Như thị chư Phật kim sắc thân, Thế Tôn chân tử như tư niệm.

()譬如雪山諸山王煒燁同於轉輪帝。亦如寶輦妙莊嚴彼見諸佛衆相滿。又猶鵠王絕明白處空自在無礙遊。如是諸佛金色身世尊真子如斯念。

(Kinh: Ví như núi Tuyết, các núi chúa, rạng rỡ giống như Chuyển Luân Vương. Cũng như xe báu diệu trang nghiêm, trông thấy chư Phật tướng viên mãn. Lại như hộc chúa[1] tuyệt trắng sạch, tự tại vô ngại lướt hư không. Thân chư Phật sắc vàng như thế, chân Phật tử nghĩ nhớ như vậy).

Dùng các cảnh mà các loài chúng sanh thuộc Tục Đế trông thấy để làm tỷ dụ, muốn khiến cho chúng ta sanh khởi tín tâm nương cậy và tùy thuận quyết định đối với chư Phật Thế Tôn. Do muốn thấy chư Phật, chỉ có đối với Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội mà có một nguyện vọng mãnh liệt, chân thật, rốt ráo, rõ ràng như thế, chúng ta mới có cơ hội đích thân chứng đắc!

(Kinh) Vô cấu tam-muội tịnh trí đăng, năng phá đại minh chư hắc ám. Bỉ trừ nhất thiết chúng vật tưởng, niệm chư Phật trí vô ngại quang. Chư cấu tiêu diệt vô sân độc, vô minh thanh tịnh diệu trí nhân. Nhược năng quán thị vô tự tha, bỉ chung vô hữu chư sắc tướng.

()無垢三昧淨智燈能破大冥諸黑暗。彼除一切衆物想念諸佛智無礙光。諸垢消滅無瞋毒無明清淨妙智人。若能觀是無自他彼終無有諸色相。

(Kinh: Đèn tịnh trí vô cấu tam-muội, phá trừ các hắc ám đen kịt. Ai trừ hết thảy tưởng mọi vật, nghĩ chư Phật trí quang vô ngại. Tiêu diệt các cấu, chẳng sân độc, là người diệu trí, sạch vô minh. Nếu quán rõ chẳng có ta, người, sẽ trọn chẳng có các sắc tướng).

Thấy sắc, phá sắc. Từ trong vô sắc mà thấy chư Phật, cho nên “chẳng chấp Sắc, chẳng hoại Sắc” là phương tiện hành pháp. Trông thấy sắc mà không giữ lại gì; đó là phương tiện để thấy Phật. Khá nhiều người hành Ban Châu, do hai pháp chấp tướng và sợ tướng mà bị trở ngại. Người chấp tướng hễ thấy tướng bèn cho là có cái để đạt được, sau đó bị trở ngại. Kẻ sợ tướng liền chẳng dám thấy tướng, cũng bị trở ngại trong tu pháp. Vì thế, cứ một đường mà đi, quang cảnh hai bên đường cứ mặc tình đối diện, nhất định chớ nên đắm nhiễm chúng, mà cũng chớ nên hoại sắc. Nếu hoại sắc, tức là sợ sắc. Như thế cũng chẳng được thấy Phật, sanh ra Đoạn Kiến xấu ác!

(Kinh) Vô nghi hoặc trung tịnh trí sanh, tất năng đoạn tư chư Hữu Kiến.

()無疑惑中淨智生悉能斷斯諸有見。

(Kinh: Do chẳng nghi hoặc, tịnh  trí  sanh, ắt  đoạn  trừ  các  Hữu Kiến ấy).

Mọi người trong quá trình tu tập pháp, khi trao đổi, sẽ có khá nhiều cái gọi là “chư Hữu kiến”, hoặc là chấp vào ngoan không, hoặc cho là có sắc, hoặc cho là có thức, hoặc là vô thức, cũng có nghĩa là hai loại Biên Kiến Đoạn Diệt và Thường Kiến đã “ăn mòn” khá nhiều hữu tình, còn kẻ có kiến giải thanh tịnh hiếm hoi, tức là các tri kiến bình đẳng, thanh tịnh, vô nhiễm, vô chấp. Các tri kiến ấy là do một niệm vừa chuyển mà hình thành, từ trong thức tâm lưu xuất đối đãi, tổn hại tâm trí thanh tịnh của chúng ta. Cái gọi là “thức tâm” chính là phân biệt thức, nó kiến lập vô lượng vô biên pháp tắc, nhưng thật ra đều là pháp tắc của phàm ngu!

(Kinh) Diệc dĩ diệt vong ấm giới tưởng, văn pháp trừ não, đắc thanh lương.

()亦已滅亡陰界想聞法除惱得清涼。

(Kinh: Cũng đã diệt mất ấm giới tưởng, nghe pháp trừ não, đạt thanh lương).

“Ấm giới”: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức được gọi là Ngũ Ấm; sau này, còn được dịch là Ngũ Uẩn. Trước thời pháp sư Huyền Trang, dịch theo lối cũ là Ngũ Ấm, [còn dịch theo lối mới (cách dịch do ngài Huyền Trang đề xướng) thì là Ngũ Uẩn], như trong Tâm Kinh có câu “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, cũng có khi dịch là “chiếu kiến ngũ ấm giai không”. Lại như kinh Lăng Nghiêm nói về năm mươi ấm vực, thật ra là năm mươi uẩn vực. Phương pháp phiên dịch sai khác, nhưng nội dung chẳng khác, đều là bị Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức năm giới ấy nhiếp trì. Vì trong Sắc Giới, tất nhiên là bị năm sự tướng thuộc về cảm nhận là Thọ, Tưởng, Hành, Thức ấy nhiếp trì, hoặc dính chặt vào đó, hoặc sợ hãi trong đó, hoặc mờ mịt trong đó, trong ba pháp là thiện, ác, hay vô ký đều bị vướng mắc, bị hạn chế ở trong ấy.

Giới (界) có nghĩa là “chẳng thể vượt qua”. Chúng ta đến sân bay, trạm xe lửa, hay trạm xe hơi, đều có nhận biết, thường có thể trông thấy một cái cửa thủy tinh lớn: Chúng ta có thể nhìn xuyên qua, nhưng chẳng đi qua được. Vì sao? Có một tầng ngăn cách, bất luận là tầng ngăn cách ấy trong suốt hay không. Có người có thiện pháp, chẳng hạn như giải ngộ một pháp, nhưng tuy có giải ngộ, chẳng thể vượt qua giới ấy, tức là chẳng thể bén mảng các pháp tắc khác. Khá nhiều người nói: “Tôi hiểu rõ đạo lý này”, nhưng vẫn có cái giới hạn ấy, chẳng có sức để vượt qua, giống như ruồi bọ đâm vào kính vậy, nói chung là chẳng thể xuyên qua! Vì sao? Do chẳng có phương tiện đối với pháp, nào có biết pháp nhằm mở cho chúng ta một cái cửa để ra vào. Vì thế, rất nhiều người vì pháp mà bị cách ngăn, vì chẳng hiểu mà bị cách ngăn, vì chẳng có pháp mà bị cách ngăn, vì nghiệp tướng chấp trước mà bị cách ngăn v.v… chướng ngại nhân duyên hiện tiền của chính mình, chẳng thể tự thoát ra.

Ấm giới có lẽ là một vấn đề mà người kinh hành Ban Châu, hoặc người niệm Phật, người học Phật đều phải nên chú ý. Chúng ta thường quan sát sẽ biết. Rất nhiều người nói: “Tôi hiểu rõ đạo lý này, nhưng chẳng sử dụng được!” Cũng giống như nói: “Tôi thấy các thứ bên ngoài, nhưng chẳng thoát ra được”. Vẫn là bị trở ngại. Chướng ngại ấy ở chỗ nào? Quý vị phải giải quyết. Nếu chẳng giải quyết được, chuyện hiểu rõ đạo lý này đâm ra trở thành thủy tinh, thành phương tiện trở ngại quý vị ra vào tự tại, giao lưu rộng lớn.

(Kinh) Tỳ-kheo đương tri chư Phật tử, cập dĩ thanh tịnh tỳ-kheo-ni. Bỉ ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, nhược năng niệm thử, đắc tam-muội.

()比丘當知諸佛子及以清淨比丘尼。彼優婆塞優婆夷若能念此得三昧

(Kinh: Tỳ-kheo nên biết các Phật tử, cùng với thanh tịnh tỳ-kheo-ni, các ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, nếu niệm điều này, đắc tam-muội).

Những điều được nêu ra trên đây, vẫn là hy vọng chúng ta sẽ đích thân chứng tam-muội, hướng tới tam-muội, đọc tụng giáo điển tam-muội này sẽ có sự quy y chọn lựa rõ ràng, cũng như tuân theo pháp tắc.

16. Phẩm thứ mười ba: Hiện Tiền Tam-muội Trung Thập Pháp Bát Pháp

(Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh quyển đệ ngũ.

Hiền Hộ Phần Hiện Tiền Tam-muội Trung Thập Pháp Bát Pháp phẩm đệ thập tam.

()大方等大集賢護經卷第五。

賢護分現前三昧中十法八法品第十三。

(Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ, quyển thứ năm.

Hiền Hộ Phần. Phẩm thứ mười ba: Mười Pháp và Tám Pháp Trong Hiện Tiền Tam-muội).

Mười pháp hay tám pháp là các yêu cầu cơ sở của đức Thế Tôn đối với sự trao đổi, giải nói Ban Châu tam-muội. Trong pháp bổn này, đức Thế Tôn đã cụ thể, rõ ràng bày ra pháp tắc tu tập như thế nào, pháp tắc thành tựu trọn đủ như thế nào, cho đến nói các yêu cầu cơ sở để trao đổi với người khác và thực hiện như thế nào. Ở đây, chúng ta hãy xem nội dung cụ thể của tám pháp và mười pháp.

(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: – Hiền Hộ! Nhược hữu tỳ-kheo, nhạo dục tu tập thử tam-muội giả, tiên đương tư duy bỉ vô tướng tưởng.

()爾時世尊復告賢護菩薩言賢護若有比丘樂欲修習此三昧者先當思惟彼無相想。

(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: – Này Hiền Hộ! Nếu có tỳ-kheo ưa thích tu tập tam-muội này, trước hết hãy nên tư duy vô tướng tưởng).

“Tiên tư duy bỉ vô tướng tưởng” (Trước hết, hãy tư duy vô tướng tưởng), đây là điều quan trọng hàng đầu. Trong duyên khởi của hết thảy các pháp, nếu chẳng dùng “pháp không có tự tánh” làm duyên khởi, vậy thì người ấy tu theo tri kiến của ngoại đạo, người ấy hành pháp ngoại đạo, chẳng thể chứng Bồ Đề Phần theo giáo ngôn Bồ Đề của đức Thế Tôn. Vì sao? Đấy là chỗ khác biệt căn bản giữa người học tập Phật pháp chúng ta và tri kiến ngoại đạo. Chẳng hạn như trong Biên Kiến, trong tri kiến đối lập, sẽ chẳng có cách nghĩ vô tướng. Hễ tư duy bèn nẩy sanh các loại tà kiến như đoạn diệt hay ngoan không. “Vô tướng tưởng” thật sự là vô nhiễm tưởng, vô trước tưởng (tưởng không chấp trước), mà cũng là thiện xảo vô tự tánh tưởng.

(Kinh) Ký tư duy dĩ, ngã mạn bất sanh.

()既思惟已我慢不生。

(Kinh: Đã tư duy rồi, chẳng sanh ngã mạn).

Vì trọn chẳng có các tướng để có thể đạt được, cho nên chẳng có pháp đối đãi có thể sanh, mạn tâm chẳng thể được, cái tâm ty tiện cũng sẽ mất đi, tâm trí bình đẳng tự nhiên thuần thục. Do vậy, thấy Phật chẳng khó, như nước lặng soi vật, tự nhiên chẳng khó. Nhưng trong thời Mạt Pháp, phần nhiều là tâm con người bị kiêu mạn che khuất, ngăn chặn.

(Kinh) Hiền Hộ! Trừ mạn cao dĩ, tâm ý thái nhiên.

()賢護除慢高已心意泰然。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Đã trừ ngạo mạn, kiêu căng, tâm ý thanh thản).

Vì sao vậy? Bình đẳng, an tường, thơ thới, tâm đã hiểu rõ. Tà kiến kiêu mạn che lấp hữu tình, giết chết đạo đức và thiện căn của con người rất nhanh chóng. Rất nhiều vị xuất gia học Phật, hoặc tại gia Bồ Tát khiến cho người khác rất tiếc nuối vì đã đánh mất sự tôn trọng đối với chính mình và đối với người khác trong hiện tiền, đánh mất sự cung kính như thật, cũng như sự cung kính xa lìa hý luận. Có người biến tôn trọng trở thành hý luận, trở thành một vật chẳng thật. Đó là đã đánh mất trân bảo ngay trong hiện tiền, [trân bảo] chính là tất cả lợi ích rộng lớn nơi y báo và chánh báo trong hiện tiền. Nếu đúng như thật tôn trọng bằng cái tâm cung kính, bình đẳng thủ hộ, ngay trong hiện tại sẽ là trân bảo. Đấy chính là một liều thuốc chống mục nát. “Chẳng cung kính” chính là mục nát, nhưng vị thuốc ấy có thể khiến vật mục nát hóa thành trân bảo chẳng ngoài một sát-na, chẳng lìa khỏi bản thể. Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta kết giao với kẻ khác, cùng ở với người khác, cùng tham học với người khác, thí giáo cho người khác, cho đến hướng về người khác xin chỉ dạy, nếu chẳng dùng cái tâm cung kính, chân thành, kẻ ấy sẽ chẳng đạt được thành tựu. Đó là chỗ trân bảo tồn tại.

(Kinh) Viễn ly chúng tướng.

()遠離衆相。

(Kinh: Xa lìa các tướng).

Tức cái được gọi là “tâm trí thanh tịnh bình đẳng”. Đấy là chỗ đặt đại ma-ni bảo. Thanh tịnh bình đẳng có thể xuất sanh hết thảy các công đức.

(Kinh) Nhĩ thời, tức ưng vị tha tuyên thuyết như thị tam-muội.

()爾時即應爲他宣說如是三昧。

(Kinh: Lúc bấy giờ, hãy nên vì người ấy lập tức tuyên nói tam-muội như thế).

Khi tuyên nói tam-muội cho người khác, nếu  có  nhân  tướng, ngã tướng, chúng sanh tướng, hoặc nếu có kiêu mạn, sẽ khó thể trao đổi pháp này. Trước kia, tôi tiếp xúc khá nhiều người chưa học tập pháp tắc này, và những người nghi hoặc pháp này, vì sau khi họ trông thấy những kẻ kinh hành Ban Châu mà tâm kiêu mạn, tự đại, bèn sanh khởi lòng ngờ vực, hối hận. Đương nhiên cũng có các chúng sanh do bản thân có tâm kiêu mạn, ghen tỵ mà tự nẩy sanh chướng ngại cho chính mình. Khi hai thứ vấn đề ấy đã chín muồi, sẽ sanh ra báng pháp, nghi pháp, cho đến gặp pháp mà chẳng muốn hành, chẳng muốn biết rõ hậu quả xấu ác như thế. Do vậy, chúng ta quán các tướng vô tướng, xa lìa kiêu mạn, sanh tâm chân thành, bình đẳng, như thế thì trao đổi tam-muội với người khác sẽ có ý nghĩa, người khác sẽ cảm thấy thân thiết, đáng mến, chân thật, tương ứng. Nếu dùng cái tâm kiêu mạn để trao đổi pháp tắc với người khác, thật sự sẽ tổn hại thế gian, lừa dối, làm nhục thế gian, lừa dối làm nhục loài hữu tình khác, vì mọi người vốn sẵn đủ công đức ngang bằng với chư Phật, chỉ là xét theo phương diện dấy khởi tác dụng thì có sai khác, cớ gì quý vị kiêu mạn? Đó là chuyện mười phần trọng yếu khi tuyên nói tam-muội này, mà cũng là một điều kiện quan trọng hàng   đầu!

Tôi nhớ khi sắp mở pháp hội Ban Châu lần thứ nhất, rất nhiều người hỏi tôi về vấn đề sắp đặt cúng dường. Tôi nói: “Hiện thời, hết thảy đại chúng đều có tư cách cúng dường chư Phật, tán thán pháp tắc này, nhưng không có bất cứ một ai có thể tiếp nhận sự cúng dường ấy. Nếu nói nhờ vào nhân duyên của cá nhân tôi để tiếp nhận sự cúng dường ấy rồi hồi thí cho Tam Bảo, hồi thí cho pháp tắc, tôi sẽ bằng lòng làm một sứ giả như vậy. Làm một người hầu thì tôi làm được, nhưng nếu nói ‘cúng dường tôi’ thì không được”. Sau đó, thực hiện một pháp hội cúng dường, mọi người dùng đủ loại vật chất để cúng dường, cúng dường bằng lễ bái, tán thán, cúng dường bằng niệm tụng để tán thán pháp tắc này tồn tại và được lưu truyền trong cõi đời, tán thán lòng từ bi và oai đức của chư Phật Thế Tôn, quả thật là chẳng có người nào trong chúng ta đáng nên tiếp nhận vật cúng dường. Nếu trong chúng ta có người đích thân chứng tam-muội, hoặc như thật an trụ trong tam-ma-ba-địa, tôi nhất định sẽ cực lực đề cử mọi người cúng dường người đó. Vì sao vậy? Nương theo vị thành tựu ấy sẽ đạt được thiện xảo, sẽ rất dễ dàng khế nhập tam-muội.

Trong pháp tắc này, vì sao chúng ta chẳng dám tiến một bước lớn? Trong ấy, có một điều là vì thiện căn và phước đức của người trong thời đại này chẳng đủ, pháp duyên chẳng đủ. Nếu dễ dãi truyền bá rộng khắp, sẽ tạo thành cơ chế xấu ác khiến cho kẻ khác báng pháp, nghi pháp. Vì thế, hiện thời dùng kiểu hành trì một ngày một đêm làm chánh yếu, dần dần tiếp nối thành thục như thế, sẽ có thể khiến cho thân tâm của mọi người có chỗ y chỉ, có chỗ y chỉ đối với pháp tắc, có thiện xảo tiến nhập. Như thế thì sẽ có thể lợi ích rất nhiều trời, người, cho đến chẳng thể nghĩ bàn hữu tình trong thế gian. Nếu chúng ta có các thứ bộp chộp, chẳng tương ứng, hay kiêu căng, sẽ có các pháp tắc “nói năng chẳng phù hợp thực chất”, cho đến gây nguy hại hoặc ngăn che pháp này, thậm chí hủy diệt sự tồn tại của pháp bổn này trong thế gian! Do đó, đối với pháp này, nếu chẳng thuận theo kinh giáo, chẳng thuận theo pháp tắc do các vị thiện tri thức thành tựu trải các đời truyền lại, chúng ta sẽ rất khó như thật truyền bá, đánh mất kinh điển như thế để y chỉ, hoặc liễu giải nên trao đổi như thế nào!

(Kinh) Bất ưng khởi tránh. Thị trung, vân hà danh vi Tránh dã? Sở vị vọng tưởng phỉ hủy, tức báng ư Không, danh vi Tránh dã.

()不應起諍。是中雲何名爲諍也所謂妄想誹毀即謗於空名爲諍也。

(Kinh: Chớ nên dấy lên tranh chấp. Trong ấy, thế nào là “tranh chấp?” Tức là vọng tưởng phỉ báng, hủy báng, tức là báng bổ đối với Không, thì gọi là tranh chấp).

Tánh của các pháp vốn là Không, chẳng có trần nhiễm, chẳng có một pháp để có thể thành. Kẻ chẳng tương ứng với tâm trí như vậy, sẽ có tâm tranh chấp. Nếu ai đã chứng đắc Vô Tránh tam-muội, sẽ đối với hết thảy thế gian đều có thể bao dung, bình đẳng thủ hộ. Vì sao vậy? Do tâm trí chẳng vướng mắc, chẳng đối đãi. Trong khi tu nhân, A Di Đà Phật dùng Vô Tránh tam-muội làm căn bản để thủ hộ, làm cội gốc để quy kết ba thứ thệ nguyện căn bản, tức là Vô Tránh, có nghĩa là Không, Vô Nhiễm, Vô Trước, bình đẳng một vị. Tam-muội ấy chẳng lìa bản thể của hết thảy hữu tình. Quý vị nói: “Tôi vận dụng tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng, đắm nhiễm đủ thứ tri kiến điên đảo, vậy thì có quan hệ gì với tam-muội này cơ chứ?” Chính là từ ngay nơi bản thể, quý vị chẳng nhận biết, lầm tưởng nghiệp tướng hiện tiền của chính mình, thật sự chẳng biết nghiệp tướng ấy quả thật vô sở đắc, được sanh bởi huyễn duyên. Nếu dùng trí huệ môn để quan sát, sẽ biết [nghiệp tướng] như mộng, như huyễn, thành thục trong hiện tiền, duyên diệt [nghiệp tướng] liền diệt, trọn chẳng có gì để đạt được. Nếu nhìn theo bản chất, hễ huyễn duyên sanh khởi, tức là tam-muội sanh khởi.

Lựa chọn ở chỗ này hết sức ít ỏi! Vậy thì làm như thế nào? Trước hết, dùng Vô Tránh để cảm động loại hữu tình ấy. Vì thế, trong khi tu nhân, A Di Đà Phật đã phát ra thệ nguyện, dùng Vô Tránh để thực hiện thủ hộ thanh tịnh, hoặc nói là duyên khởi thanh tịnh, thuận tánh phát khởi thệ nguyện thiện xảo rộng lớn, muốn độ thoát hết thảy chúng sanh, thành tựu Bồ Đề, hoặc lìa hết thảy các khổ, đạt được hết thảy lạc. “Lạc” ở đây là sự tín thuận pháp tánh do tương ứng chân thật, đạt được sự an lạc rộng lớn và trí chẳng thể nghĩ bàn. Nhưng nếu chẳng tương ứng, sẽ sanh ra đủ thứ va chạm, đối đãi, thương tổn. Cho nên nói: “Trái nghịch tánh, sẽ có nhiều tổn hại”. Sự tổn hại ấy đúng là vô ích. Chư Phật Như Lai bất quá là tướng trang nghiêm, tướng chân thật, tướng oai đức, tướng trọn đủ trong biển pháp tánh tịch diệt, khiến cho kẻ khác mong mỏi, hướng đến, như thế mà thôi! Nhưng bọn phàm phu chúng ta yếu kém, ty tiện, các tướng khiến cho con người đau khổ thật ra chẳng qua là các tướng vụn vặt, vặn vẹo, đổi khác, mê mất, nhưng vẫn chẳng rời biển tịch diệt, chẳng lìa pháp tánh. Do vậy, chẳng có nhân duyên trong sát-na, chưa hề có hữu tình nào có thể lìa khỏi biển Chân Như pháp tánh. Điều này chân thật chẳng dối. A Di Đà Phật đích thân chứng tâm trí vô tránh như thế, cho nên chiếu mười phương cõi chẳng bị chướng ngại, quyết định là hết thảy chúng sanh “văn ngã danh hiệu, câu lai ngã sát” (nghe danh hiệu của ta, đều đến cõi nước của ta). Vì sao vậy? Tâm trí như thế, oai đức như thế, bản chất như thế, nguyện lực như thế, khăng khăng nhiếp thọ chúng sanh cùng tột vị lai chẳng bỏ như thế! Vì tự tánh phát tâm chân thật tương ứng, chân thật thành tựu, chẳng sợ hãi, cho đến tột đời vị lai đối diện với vô lượng chúng sanh chẳng hề sợ hãi, đối trước hữu tình dẫu ngu độn, ương bướng cách mấy vẫn chẳng hề sợ hãi, khiến cho họ được độ thoát. Vì thế, thực hiện giáo ngôn thanh tịnh sư tử hống rộng lớn, oai đức nhiếp phục hết thảy hữu tình trong thế gian, hiện oai đức lớn đến tận cùng Kim Cang Tế[2], độ thấu triệt tướng vô gián, ban cho hết thảy chúng sanh lợi ích rốt ráo. Sự lợi ích ấy chính là do đức Thế Tôn thủ hộ thệ nguyện căn bản này, bèn dẫn phát lợi ích chẳng thể nghĩ bàn cho hết thảy phàm thánh. Nếu nghĩ bàn, quý vị sẽ rất khó tương ứng, vì chẳng có gì để khế hợp!

“Tức báng ư Không, thị vi Tránh dã” (Tức là báng bổ cái Không, đó gọi là Tranh Chấp): Trước kia, khi được tiếp xúc ba thệ nguyện trong khi tu nhân của A Di Đà Phật, tôi đã nói: “Cớ sao người thế gian tuyên truyền giáo ngôn của A Di Đà Phật trái nghịch với ba thệ nguyện ấy?” Nêu ra một thệ nguyện, chẳng nói nội dung cụ thể của thệ nguyện, chỉ nói tướng bên ngoài. A Di Đà Phật lập một thệ nguyện là rộng tu tập hết thảy các pháp, lợi lạc hết thảy chúng sanh. Danh tự của tam-muội-da thệ nguyện chẳng phải là như thế, nhưng nội dung là như thế, tức là phải tu tập hết thảy các pháp tắc, bất luận là Phật pháp hay ngoại đạo, phải lợi lạc hết thảy chúng sanh, bất luận là loài côn trùng nhỏ nhít, cho đến hữu tình ngu si, thậm chí kẻ phỉ báng, hủy diệt Phật pháp, A Di Đà Phật Thế Tôn đều dùng sức oai đức để nhiếp thọ, hộ trì, tức là sức oai đức vô úy, sức oai đức chẳng đối đãi, sức oai đức vô tránh, vận dụng thuận theo pháp tánh, sức oai đức triệt để biết rõ “các tướng chẳng phải là tướng”. Vì thế, kẻ phỉ báng, ngờ vực cũng chẳng tạo thành nghiệp phỉ báng thật sự. Vì sao vậy? A Di Đà Phật triệt để đập tan tướng hư giả, tướng biến huyễn, vô thường ấy. Trong hết thảy chúng sanh, Ngài đã chọn lựa pháp tắc căn bản thuộc về tâm trí vô lượng thọ, vô lượng quang. Nếu chẳng chọn lựa pháp tắc căn bản ấy, chúng sanh trong chín pháp giới vẫn là chín pháp giới. Vì sao? Mọi người ở yên nơi nghiệp tướng của chính mình, chẳng thể tự thoát ra được, coi nghiệp là thật, dùng nghiệp để thủ hộ. Như thế thì làm sao có thể lợi ích rộng khắp mười phương?

Thiện Đạo đại sư cũng nói “chuyên phục chuyên” (đã chuyên lại càng chuyên hơn), nhưng ngụ ý phía sau “chuyên phục chuyên” chính là phương tiện “thâm nhập một pháp”, chẳng phải là phỉ báng hay ngờ vực các pháp khác, chẳng phải là không lợi ích các loài hữu tình khác, chẳng phải là bài xích các loài hữu tình khác! Tuyệt đối chẳng phải là như thế, chỉ là nói: “Kẻ sơ học muốn đạt được lợi ích, hãy nên chuyên phục chuyên”. Vậy thì đạt được lợi ích hiện tiền, tùy thuận thệ nguyện của Phật, chính là công đức hiện tiền của người “chuyên phục chuyên”. Họ sẽ không nói lời bài xích một loại pháp nào, hoặc hướng tới loại nào, thủ hộ loại nào! Nếu có thân hay sơ, làm sao có thể tương ứng với “chiếu thập phương quốc vô sở chướng ngại” (chiếu mười phương cõi nước, chẳng bị chướng ngại) của A Di Đà Phật cho được? Do vậy, Vô Tránh hết sức trọng yếu. Trong tu hành pháp môn Tịnh Độ, nếu chúng ta chẳng lý giải phương pháp dụng tâm này, sẽ biến pháp môn Tịnh Độ thành một pháp môn chết cứng, hoặc một pháp môn đang giẫy chết, hoặc trở thành một thứ pháp môn hẹp hòi, hèn kém. Do vậy, sẽ có rất nhiều người chẳng muốn tu tập pháp này! Lại bàn về Ban Châu tam-muội, càng cảm thấy “đó là chuyện của thánh nhân”. Nhưng chúng ta xem kinh này, từ đầu đến cuối tuyên nói đều là “tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di đều nên yêu thích pháp này, chứng thực pháp này, rộng tuyên pháp này, đọc tụng kinh giáo, đích thân chứng lợi ích”. Chỗ nào cũng đều tuyên nói như thế, chẳng có đoạn văn tự nào nói loại thánh nhân nào thì mới có thể hành pháp!

Chúng ta chớ nên tranh chấp với kẻ khác, thế gian vốn vô tránh (chẳng tranh chấp), thế gian vốn chẳng đối đãi. Trong xuất thế và nhập thế, phàm phu chọn lựa pháp đối đãi. Nếu chúng ta chọn lấy “tranh chấp”, sẽ đọa vào tâm trí phàm phu, sẽ lưu chuyển trong nghiệp duyên phàm phu. Chúng ta đừng nên vọng tưởng “ai phàm, ai thánh”. Phàm hay thánh chẳng có địa vị đâu nhé! Quý vị nói: “Tôi mê mất trong nghiệp vô minh, ngu si, điên đảo, chẳng phải là phàm ư?” Đúng thế, nhưng quý vị chớ nên cưỡng chấp cái nghiệp ấy, địa vị ấy (phàm phu) cũng chẳng thể nói nó thuộc về quý vị! Chỉ là một thứ nghiệp tướng tiếp nối, thế nhưng nghiệp tướng vô ngã. Các vị thiện tri thức ơi! Khi chúng ta chẳng nhận biết nghiệp tướng vô ngã, sẽ cho rằng đó là danh tự ngã, vô thường ngã, nghiệp tướng ngã, phiền não ngã, tập khí ngã, nam nữ ngã, sắc thân ngã. Các cái Ngã ấy đều hư hoại, đều là một thứ tướng nhân duyên biểu lộ pháp vô ngã đó thôi. Nếu cho đó là ngã, đúng là đã nhận lầm pháp tắc, sẽ bị lưu chuyển vô cùng!

(Kinh) Hiền Hộ! Thị cố, bỉ tỳ-kheo dĩ vô tránh cố, đương năng tu học, vị tha tuyên thuyết thử tam-muội dã.

()賢護是故彼比丘以無諍故當能修學爲他宣說此三昧也。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Vì thế, vị tỳ-kheo ấy do vô tránh, hãy nên tu học, vì người khác tuyên nói tam-muội này).

Nếu tranh luận với người khác, sẽ rất khó trao đổi pháp tắc này. Người khác khen ngợi cũng thế, phỉ báng cũng thế, dẫu nói theo kiểu xấu hèn, chúng ta cũng chớ nên có đối đãi. Vì sao? Sự tướng vô ngã, cớ sao quý vị đắm nhiễm? Pháp tắc là “vô nhân tướng, vô ngã tướng”; chúng ta thuận theo pháp tắc, sẽ có thể thành tựu. Nhưng nếu thuận theo nhân, ngã, sẽ là đi ngược đường. Nêu một thí dụ, chẳng hạn như dọc theo hai bờ Trường Giang có rất nhiều ao, hồ. Nước trong hồ này có thể nói nước của hồ kia “chẳng phải là nước của Trường Giang”, mà nước hồ kia cũng nói nước hồ này “cũng chẳng phải là nước của Trường Giang”. Vì thế, khi chúng ta muốn nói một pháp tắc, bèn nói pháp tắc ấy, mọi người đều tùy thuận pháp tắc ấy, quy vào trong pháp tắc ấy, sẽ được pháp tắc ấy chuyên chở, đạt được lợi ích, mà những lời lẽ ở ngoài pháp tắc ấy sẽ trở thành vô ý nghĩa!

Chúng ta nói theo “nhân, ngã, đúng, sai”, sẽ che lấp pháp tắc, lãng phí sanh mạng của chính mình ngoài pháp tắc. Chúng ta tùy thuận một pháp tắc, sẽ vượt khỏi tranh chấp “ta, người”, vì mỗi người đều có sở trường của chính mình, mà cũng đều có sở đoản, đều là có tướng biến hóa thị phi, tướng phàm thánh biến hóa. Điều này có thể tương ứng với cơ chế pháp tắc trên tổng thể, mà cũng có thể chẳng tương ứng. Nếu tương ứng, chúng ta sẽ tùy thuận pháp tắc. Nếu chẳng tương ứng, chúng ta sẽ ở ngoài pháp tắc, mê muội trong nghiệp tướng của chính mình. Chúng ta chẳng thể dùng nghiệp tướng của người khác, hoặc nghiệp tướng của chính mình để mê hoặc chính mình, hay mê hoặc người khác. Đó mới gọi là “kẻ đáng thương xót” trong Phật pháp. Đối với những kẻ đó, phải nên khai thông, hướng dẫn họ trở lại dòng pháp trong Phật pháp, tiến nhập biển trí nguyện của chư Phật, triệt để đạt được giải thoát, chẳng bị hủy diệt, chẳng bị khô cạn.

Chẳng hạn như chúng ta đến vùng Vũ Hán, có thể thấy hai bên Trường Giang đặc biệt nhiều ao, hồ. Quý vị có thể nói đó là nước của Trường Giang hay là không? [Nếu nước trong ao hay hồ] chảy thông vào Trường Giang thì là nước Trường Giang. Chẳng thông với Trường Giang thì là nước ao chuôm. Nghiệp tướng của mỗi chúng sanh chúng ta giống như nước trong ao chuôm, hoặc nước trong một cái chậu. Nước ô trược, nước chẳng sạch, hay nước sạch, nước thải công nghiệp, nước thải từ gia đình, nước kiểu nào cũng đều có, nhưng nếu đổ vào Trường Giang, sẽ đều chảy ra biển cả. Đó là điều chắc chắn. Quý vị nói sợ một chút nước của chính mình ô nhiễm biển cả, biển cả rốt cuộc tột bậc mênh mông, có thể dung nạp, tiêu trừ đôi chút ô trược ấy. Đối với chuyện này, chúng ta hãy nên yên lòng, đừng sợ chính mình có thể nhuốm bẩn biển cả, chúng ta cũng chẳng có bản lãnh ấy! Có kẻ sợ nước bẩn của kẻ khác sẽ nhuốm bẩn biển cả. Quý vị cũng đừng sợ, nó rốt cuộc đều đổ vào biển. Do biển cả tâm trí rộng lớn, không gì ngăn che được, do biển dung nạp hết thảy, quý vị sợ nỗi gì? Vì thế, chúng ta đừng sợ hữu tình ngu độn, ương bướng, hữu tình tội ác, hữu tình điên đảo, giống như khơi ngòi dẫn nước ra sông, tất nhiên sẽ đổ vào biển cả, chúng ta có thể tiêu trừ nghiệp tướng của họ. Yên tâm đối với chuyện này là được rồi! Nếu vẫn nhất định nói người như thế này sẽ chẳng được như thế nào đó thì thật ra cũng cần chẳng phải nói đến ai khác. Chính quý vị cũng chẳng khác biệt cho mấy! Rất nhiều người nghĩ kẻ khác chẳng tốt lành như thế nào đó, thật ra chính mình cũng tệ hại y hệt như thế ấy! Nếu chẳng phải vậy, sao lại sống trong cùng một thời đại? Cớ sao chẳng sống trong thời đại đức Phật còn tại thế? Quý vị nói chính mình nương theo nguyện mà đến, càng phải nên thương xót các hữu tình! Chúng ta phải nên quán kỹ. Pháp vô tránh rất trọng yếu!

(Kinh) Hiền Hộ! Hữu chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhược dục tu học, vị tha giải thích thử tam-muội giả.

()賢護有諸善男子善女人若欲修學爲他解釋此三昧者。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Có các thiện nam tử, thiện nữ nhân, nếu muốn tu học, vì người khác giải thích tam-muội này).

Đức Thế Tôn từng bước hướng dẫn chúng ta liễu giải pháp tắc thành tựu và tướng thành tựu của tam-muội này, cho đến trao đổi pháp tắc với người khác. Người tế nhị và chu đáo không ai hơn đức Thế Tôn, đúng là Ngài có đại ân đức đối với chúng ta, thật sự là cha mẹ của Pháp Thân huệ mạng, là cha mẹ dưỡng dục đạo đức của chúng ta.

(Kinh) Ưng đương cụ túc thành tựu thập pháp, nhiên hậu vị tha giải tư tam-muội.

()應當具足成就十法然後爲他解斯三昧。

(Kinh: Hãy nên thành tựu đầy đủ mười pháp, sau đấy, sẽ vì người khác giải thích tam-muội này).

Quý vị nói: “Nay tôi chưa trọn đủ mười pháp, có thể giải thích cho người khác hay không?” Đức Thế Tôn nói: Khi quý vị muốn giải thích cho người khác, trước hết, hãy xem và học mười công đức, mười loại pháp này. Đó là nhờ vào lời của người khác để chứng lợi ích của pháp tắc trong Phật pháp cho bản thân. Vì thế, hết thảy đều chẳng lìa pháp  tắc.

Khi tôi vừa mới tiếp xúc giới tỳ-kheo, đọc Tứ Phần Luật Tạng[3] một lượt, toàn thân mướt mồ hôi, vì có cảm giác đức Thế Tôn chưa từng lìa khỏi chúng ta. Thích Ca Mâu Ni Phật Thế Tôn cho đến Câu Lưu Tôn Thế Tôn, Câu Na Hàm Ma Ni Thế Tôn, Ca Diếp Thế Tôn, bốn vị Phật trong Hiền Kiếp chưa từng rời khỏi chúng ta. Các vị Thế Tôn trước Hiền Kiếp cũng chưa hề rời khỏi chúng ta. Các Ngài dùng đủ loại thân tướng, đủ loại âm thanh, đủ loại pháp tắc, chẳng ngừng thí giáo cho mọi người. Nếu quý vị đọc Tạng Kinh, nhất là những kinh mà người xuất gia cần phải đọc, sẽ mười phần có ý nghĩa. Quý vị sẽ cảm thấy rất bình thường, rất chân thật, rất gần gũi. Trước kia, cảm thấy cách biệt các vị A La Hán thuở đức Thế Tôn tại thế quá xa, khoảng cách hơn hai ngàn năm quá lớn; nhưng khi đọc Bát Thập Tụng của tôn giả Ưu Ba Ly, cảm thấy mười phần thân thiết, bất cứ khoảng cách nào cũng đều chẳng có! Dẫu chúng ta vận dụng cái tâm phàm phu, dung tục, vẫn chẳng cảm thấy có khoảng cách, huống hồ quý vị còn là hữu tình phát tâm dũng mãnh, trì giới thanh tịnh, thiện căn sâu dày! Vì thế, tôi vẫn hy vọng mọi người thâm nhập kinh điển, có thể đọc nhiều thì thật sự vẫn phải đọc. Niệm Phật thì hãy siêng niệm Phật, kinh hành Ban Châu thì hãy chăm kinh hành, kinh giáo vẫn phải đọc!

Trước kia, khi tôi mới ở trong núi, có nỗi sợ hãi “giải quyết vấn đề ăn uống như thế nào?” Về sau, thường gặp các vị xuất gia sư phụ hỏi tôi chuyện này: “Thầy sống trong núi thì chuyện ăn uống làm như thế nào?” Tôi nói: “Tôi không biết. Đấy chẳng phải là chuyện của tôi!” “Chẳng phải chuyện của thầy thì là chuyện của ai chớ?” Tôi nói: “Có người lo”. “Ai lo?” “Phật!” Ai lo? Bồ Tát lo! Ai lo? Hộ pháp lo! Trời, người hộ pháp mà! Đó là thệ nguyện của họ. Khi quý vị thật sự hành Phật sự, chẳng có chỗ nào cố kỵ, chẳng sợ hãi chi hết! Trước kia, tôi ở nhiều nơi rất hẻo lánh, tuyệt đối chẳng có chuyện chết đói, trừ phi quý vị chẳng học Phật. Mà cũng chẳng gặp duyên trái nghịch, trừ phi quý vị tạo tác duyên trái nghịch.

Nay chúng ta tụ hội như thế này, mà nếu chẳng có cơ sở để hành pháp thì cũng chẳng thể được! Đối với pháp hội này, tôi một mực nói điện đường chẳng lớn, chẳng nhỏ, vừa khít, lớn chẳng được, nhỏ chẳng được. Lớn cũng chẳng mở được, nhỏ cũng chẳng mở được. Có long thiên hộ pháp, đúng không? Nếu chẳng được hộ trì, chúng ta đúng là một ngày cũng chẳng ở được. Nếu chẳng phải là trong bốn tháng an cư, có chư Phật, Bồ Tát hộ niệm và chiếu cố, chúng ta sẽ chẳng thể ngồi nổi. Quý vị thấy có bao nhiêu ngoại duyên quấy nhiễu. Trong các ác duyên từ vô thỉ đã chín muồi của chúng ta, đúng là nhiệt não! Chuyện này, chuyện nọ, một trăm tám mươi người đều giằng kéo quý vị, chẳng biết khi nào sẽ lôi phắt quý vị đi, cũng chẳng biết bị tóm đến chỗ nào! Nhưng do nguyện vọng an cư rõ ràng, Phật, Bồ Tát gia trì rõ ràng, chúng ta thong dong ngồi ở đây, tránh khỏi hơi nóng của trời Hè xâm hại, kể như đó là sự cảm nhận lớn nhất nơi thân thể đó chăng? Chúng ta chẳng cần dùng quạt tay, quạt điện, máy điều hòa thổi ào ào chi hết, tối thiểu là khỏi bị nóng mà! Có phước đức ấy, đúng không? Trong tương lai, nếu đạo tràng này xây dựng thành quy mô [chứa được] năm trăm người, nếu năm trăm người tránh nóng, quy mô to cỡ nào? Chẳng dùng máy điều hòa, đỡ tốn bao nhiêu điện? Vì quốc gia sáng tạo bao nhiêu của cải? Vậy thì nếu là một ngàn người, một ngàn năm trăm người, ba ngàn người thì sao? Dẫu là đến tránh nóng, vẫn là phước báo!

(Kinh) Hà đẳng vi thập? Sở vị: Nhất giả, bỉ chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, tiên tồi ngã mạn, khởi cung kính tâm.

()何等爲十所謂一者彼諸善男子善女人先摧我慢起恭敬心。

(Kinh: Những gì là mười? Tức là: Điều thứ nhất, các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy trước hết dẹp tan ngã mạn, dấy lòng cung kính).

Tâm cung kính vẫn được đặt thành điều đầu tiên. Tôi đã gặp một chuyện, ký ức tới nay hãy còn như mới. Có một pháp sư tới chỉ đạo hành pháp Ban Châu, [nơi đó] vốn là một đạo tràng gia đình rất tốt. Mọi người kinh hành rất tốt. Có người dâng nhà ra, có người cúng dường thức ăn, mọi người dốc hết sức để duy trì đạo tràng gia đình hành pháp Ban Châu ấy. Nhưng vị pháp sư ấy tới đó, lỗ mũi hỉnh lên trời, vừa đến bèn nói: “A! Mấy người mở cuộc họp đi”. Sau đó, [sư đưa ra yêu sách] thứ nhất là, thứ hai là, thứ ba là… Người khác thấy vị đó kiêu mạn như thế: “Quên đi, chúng ta chẳng hành Ban Châu nữa! [Hành xử] kiểu đó là phá Ban Châu, chúng ta không kinh hành nữa!” Trước hết, chủ nhân căn nhà nói: “Các ngươi muốn kinh hành Ban Châu thì phải trả tiền thuê nhà, một tháng là bao nhiêu đó”. Tiếp đó, vị Bồ Tát cúng dường thức ăn nói: “Ối dào! Quý vị ai kinh hành Ban Châu thì người đó tự mình bới cơm theo nhé!” Sau đó, người hộ quan nói: “Ái chà! Tôi còn phải làm việc, không chăm sóc quý vị nổi đâu!” OK! Đạo tràng ấy kết thúc luôn! Sự chỉ đạo của vị pháp sư ấy cũng “viên mãn!” Viên mãn gì vậy? Kiêu mạn! Sau đấy, có mấy vị cư sĩ hỏi tôi: “Vì sao vị pháp sư X… kiêu mạn cỡ đó?” Tôi đáp: “Người chẳng tự biết đấy mà! Chắc là mắt nhìn quá cao, rất dễ thấy người khác có rất nhiều điều chẳng đúng pháp”. Lỗ mũi hỉnh lên trời, vừa nói với người ta, kết quả là một đạo tràng hành pháp rất tốt đẹp, một đạo tràng đã có rất nhiều người kinh hành phải giải tán như thế đó!

Do vậy, trò chuyện với người khác, chúng ta phải chân thành, phải tôn trọng. Như tôi đề ra ba điều cho Hằng Dương Am: Tôn trọng, bao dung, trao đổi ý kiến. Nếu làm được ba điều ấy, đạo tràng này sẽ lành mạnh, sẽ có ý nghĩa. Nếu không trao đổi ý kiến, chẳng tôn trọng, mà cũng chẳng bao dung, sẽ chẳng thể duy trì được. Vì sao? Vì mọi người chẳng muốn biết nội dung tôn trọng, bao dung, chẳng muốn biết cơ sở để giao tiếp. Đức Thế Tôn là người biết ơn ắt báo. Sau khi thành đạo, Ngài đứng làm bạn với cây Bồ Đề bảy ngày, chăm chú nhìn cây Bồ Đề, sanh lòng cảm kích, nói: “Phàm là đệ tử của ta, phải nên lễ kính cây này. Vì sao? Do cây này đã cho ta tăng thượng duyên bất thoái thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”. Những cây chung quanh đều là tăng thượng duyên thành tựu đạo nghiệp cho chúng ta, chúng ta có nên lễ kính chúng bảy ngày hay không?

Trong đoạn văn tự này, đức Thế Tôn đã giảng giải cho chúng ta biết “vì người khác giải nói tam-muội này như thế nào?” Hãy nên trọn đủ pháp tắc như thế nào để giải thích cho người khác? Nếu chúng ta chẳng muốn giải thích pháp tam-muội này cho người khác, trong tâm chúng ta có chướng ngại như thế nào? Trên thực tế, khi giải nói, chúng ta có thể thoát khỏi chướng ngại và sự hạn cuộc trong ý thức của chính mình. Nếu có thể nương theo pháp để giải thích, tự nhiên sẽ tùy thuận giáo ngôn của Phật Đà, tự lợi và lợi tha sẽ có thể như thật hiện tiền.

Ngã mạn sẽ che lấp sự thành thục trong tâm trí Bồ Đề, vì cái tâm cung kính là cái gốc của hết thảy các pháp, mà cũng là căn bản của tâm trí Bồ Đề. Nếu chẳng có tâm cung kính, tâm Bồ Đề sẽ chẳng có gì để thuần thục. Nếu chẳng có tâm Bồ Đề, hết thảy các pháp dùng gì để thành tựu? Vì thế, tâm cung kính là điều quan trọng hàng đầu trong hành pháp, cầu pháp, và chứng pháp của hết thảy các pháp. Từ sơ phát tâm cho đến khi thành Phật, chúng ta đều chẳng lìa khỏi Bồ Đề tâm, mà tâm cung kính chính là tầng biểu hiện ngoài cùng của Bồ Đề tâm. Nếu chẳng có “lớp vỏ bọc”, hoặc “tầng biểu hiện” ấy, Bồ Đề tâm sẽ chẳng hoàn thiện, chẳng chân thật. Trong tu tập pháp tắc của Hán truyền Phật giáo, mọi người đối với chuyện huân tập, huấn luyện, hoặc tự mình thể nghiệm cái tâm cung kính khá ít. Tâm cung kính hoàn toàn chẳng phải là có biểu hiện cung kính theo kiểu ủy khuất. Điều chủ yếu nhất là từ nội tâm dẫn phát sự tôn trọng như thật, thủ hộ như thật, truyền đạt như thật đối với pháp tắc. Điều này mười phần trọng yếu. Trong giáo dục “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”[4] của Trung Hoa, thật ra cũng là xoay quanh sự cung kính. Tâm cung kính là nhu cầu căn bản của hết thảy chúng sanh, bất luận là nghèo hay giàu, là phàm hay thánh, là xuất gia hay tại gia, học Phật hay không học Phật, tôn trọng lẫn nhau là một cơ chế giáo dục nền tảng nhất! Nếu chúng ta nhận thức chẳng đủ đối với điều này, sẽ rất khó tương ứng với chín pháp kế tiếp!

(Kinh) Nhị giả, tri ân bất vong, tâm thường niệm báo.

()二者知恩不忘心常念報。

(Kinh: Hai là tri ân chẳng quên, tâm thường nghĩ báo đáp).

Chúng ta thường nói “thượng báo tứ trọng ân”, tức là ân sư trưởng, ân cha mẹ, ân quốc độ, ân chúng sanh, [ngoài ra, còn có] ân Tam Bảo. Người xuất gia còn có ân của đàn-na thí chủ v.v… Các ân ấy đích xác là trọn khắp mỗi thời khắc trong cuộc sống của chúng ta, dưỡng dục sanh mạng của chúng ta. Mỗi chỗ, mỗi thời khắc trong y báo và chánh báo của chúng ta đều biểu hiện tràn trề nội dung cụ thể của các ân ấy. Như cơm áo của người xuất gia, cho đến tất cả các vật dụng, đều là ân của thí chủ. Ân sư trưởng, ân Phật, ân Tam Bảo được biểu hiện qua cơ chế giáo dục, dưỡng dục Pháp Thân huệ mạng của chúng ta. Đối với các vị tại gia Bồ Tát, bốn trọng ân ấy cũng tồn tại rõ ràng.

Hành pháp Ban Châu, nếu tâm chẳng biết ơn, ắt sẽ thường sanh đủ loại trạng thái tâm lý chẳng tương ứng, vì cái tâm cảm ân sẽ là một loại tâm lý mười phần điều nhu, khiêm thuận. “Biết ân, báo ân” là một chủ đề trọng yếu hàng đầu trong Phật giáo, là một điều tất yếu phải liên tục thủ hộ trong Phật pháp. Khá nhiều người nói chính mình học Phật mà chẳng hề có động lực, tu hành chẳng có động lực. Cũng có không ít kẻ học Phật hoặc người xuất gia sau dăm ba năm tinh thần sa sút, chẳng tu tập và thủ hộ pháp tắc. Vì sao? Do chẳng có tâm tri ân, báo ân. Nếu thật sự liễu giải ân đức của chư Phật, Bồ Tát đối với chúng ta, nguyện vọng mong chứng tam-muội của chúng ta sẽ mười phần bức thiết, mười phần chân thật duy trì.

(Kinh) Tam giả, tâm vô ỷ trước, diệc vô tật đố.

()三者心無倚著亦無嫉妒。

(Kinh: Ba là tâm chẳng dựa dẫm, mà cũng chẳng ghen tỵ).

Không nắm níu cao thấp, chuyên hành một pháp, thâm nhập thực tiễn, do đích thân chứng đắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, cho nên nói “tâm vô ỷ trước” (tâm chẳng dựa dẫm). Hiện thời, sự tu tập pháp này tồn tại phổ biến một vấn đề to lớn, tức là trạng thái tâm lý thay đổi thất thường, chính là so bì lẫn nhau. Người thế tục so bì còn có thể tha thứ được, chứ so bì trong Phật pháp sẽ thường là tự khen mình, báng bổ người khác, hoặc nẩy sanh tâm lý “đứng núi này trông núi nọ”, hoặc là ghen tỵ, hoặc là tâm thượng mạn, hoặc là tâm nắm níu, đủ mọi loại tâm như thế đều sẽ sanh khởi. Như thế thì cơ hội tu trì thực tiễn, như thật của chúng ta sẽ mất đi trong hiện duyên của chính mình.

(Kinh) Tứ giả, trừ đoạn nghi hoặc, cập chư chướng ngại.

()四者除斷疑惑及諸障礙。

(Kinh: Bốn là trừ dứt nghi hoặc, và các chướng ngại).

Chướng ngại của chúng ta thường được biểu hiện qua ba phương diện: Phiền Não Chướng, Nghiệp Chướng, lại còn có Báo Chướng. Báo Chướng theo thân cùng đến (tức là sanh ra đã có). Nghiệp Chướng thì trong quá trình tồn tại sẽ không ngừng tăng mạnh hơn, hoặc yếu bớt đi. Phiền Não Chướng cũng giống như thế. Mọi người còn khá thường nói đến hai loại chướng nữa là Sở Tri Chướng và Phiền Não Chướng. Bất luận nói là ba chướng hay hai chướng thì trong ấy, Phiền Não Chướng khiến cho tâm trí tịch tĩnh của chúng ta chẳng được an lạc, Sở Tri Chướng khiến cho tâm trí Vô Thượng Bồ Đề của chúng ta chẳng thể tùy thuận thành tựu.

Trong cuộc đất Hán truyền Phật giáo sôi nổi, Sở Tri Chướng thường lừng lẫy hơn Phiền Não Chướng, vì [người học Phật] thường la cà khá nhiều sách vở và pháp môn, hoặc nhân duyên rất phức tạp, chẳng sàng lọc, chọn lựa, vàng thau lẫn lộn. Do vậy, ngăn chướng khá nhiều duyên khởi thanh tịnh, duyên khởi viên mãn, và duyên khởi chân thật để tu tập các pháp.

(Kinh) Ngũ giả, thâm tín bất hoại, hệ niệm tư duy.

()五者深信不壞繫念思惟。

(Kinh: Năm là tin sâu chẳng hoại, hệ niệm tư duy).

Trong Phật pháp, nói “bất hoại” chẳng phải là Thường Kiến, mà là thủ hộ Tứ Tín, tức tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, và tin Giới, do tin vào công đức chân thật của những thứ ấy. Sự “chân thật” ấy chính là nói [lòng tin ấy] có thể như thật lợi ích rộng khắp thế gian. Đối với công đức chân thật lợi ích rộng khắp thế gian của Phật, Pháp, Tăng, và Giới, bèn tin sâu, chẳng nghi, thường chú tâm tư duy, như thật quan sát. Đó chính là “thâm tín bất hoại”. Nếu chúng ta học Phật, bất luận xuất gia hay tại gia mà rời lìa lòng tin sâu xa ấy và sự quan sát đối với Tam Bảo và giới pháp, sẽ đọa nhập trạng thái tâm lý hoặc sanh mạng chẳng phải là Phật giáo đồ! Trong thời đại này, chúng ta cũng phải mười phần không ngừng luyện tập quán thông điều thứ năm này.

(Kinh) Lục giả, tinh tấn cần cầu, kinh hành vô quyện.

()六者精進勤求經行無倦。

(Kinh: Sáu là tinh tấn siêng cầu, kinh hành chẳng mệt).

Tại Hằng Dương Am, đích xác là hành pháp Ban Châu đã thực hiện đến mức có tánh cách liên tục nhất định. Đối với nhận thức về tri kiến của pháp tắc, mọi người cũng liên tục không ngừng thâm nhập. Hiện thời, thông qua học tập kinh điển, có thể khiến cho chúng ta lựa chọn càng thêm cặn kẽ, chân thật. Đối với chuyện học tập kinh điển, không chỉ là người hiện thời chẳng coi trọng cho lắm, kể từ khi giáo pháp của tổ sư được truyền bá rộng rãi tại Trung Hoa cho đến nay, chuyện tu tập và thủ hộ kinh văn là một nhược điểm khá lớn của Hán truyền Phật giáo. Nếu nay chúng ta có thể nương theo pháp bổn, nương theo giáo ngôn trực tiếp của Phật Đà, chẳng tăng giảm mà tu tập, sẽ đạt được đại phương tiện.

Có thể tin lời Phật, đó là đại phước báo. Nhưng trong Hán truyền Phật giáo, sự nhận thức của chúng ta đối với cơ chế giáo ngôn trong kinh điển thường là bị chiết khấu! Chúng ta tin lời người khác, tin lời thiện tri thức, thế nhưng đối với chuyện trực tiếp vận dụng lời Phật dạy đâm ra lại rất ít. Như các giáo ngôn về Tổng Trì Đà La Ni và Như Lai Tạng Tánh trong kinh Viên Giác, cơ bản là có tánh chất khẩu quyết, tức là chẳng dùng lý giải. Nếu cứ cưỡng ép lý giải, đâm ra chẳng thể sử dụng được! Vì lẽ nào? Trong sự lý giải nơi tâm trí của phàm phu, dùng tư duy có thể nghĩ bàn của chúng ta để xử lý một phen, khiến cho nó biến thành sự ô nhiễm trong tâm thức của chính mình. Đó là một thứ ý thức biến hình đối với lời Phật, là tướng chân thật dễ dàng thâm nhập pháp giới, hoặc là lợi ích chân thật dễ dàng đích thân chứng đắc pháp tắc. Điều này thật sự đòi hỏi chúng ta phải không ngừng tu tập.

Pháp Ban Châu chẳng có kỹ xảo chi khác, chỉ là khiến cho chúng ta từ trong cái vốn chẳng sanh diệt, vốn chẳng đắm nhiễm, vốn chẳng đau khổ, vốn chẳng thất niệm, vốn chẳng có phiền não hay không phiền não, vốn chẳng có hôn trầm hay không hôn trầm, mà tiêu trừ hôn trầm, tiêu trừ phiền não, tiêu trừ đau khổ, tiêu trừ đói lạnh. Sự tiêu trừ ấy thật ra là quan sát nghiệp tướng tự nhiên tiếp nối, phương pháp rất đơn giản. Trong khẩu quyết ba chữ, phía sau “lập một niệm, đoạn các tưởng”, thêm vào “vật niệm” (đừng nghĩ), tức là chẳng thêm vào sự hay biết, chẳng trầm trệ, chẳng thuận theo, tùy thuận tương ứng với thệ nguyện, quan sát rõ ràng, chẳng dính mắc, chẳng chấp, chẳng sợ, như thế mà thôi! Thực hiện sẽ mười phần đơn giản, thuận  tiện. Nếu  thật  sự  tu  tập, pháp tắc này sẽ chẳng khó!

Hôm nay xuống tới Hằng Dương Am, mọi người hỏi tôi có cần nghỉ ngơi chốc lát hay không, tôi bèn nghỉ ngơi một chốc, nhưng cảm thấy một khi con người quý trọng cái thân, đạo nghiệp sẽ lui sụt to lớn! Bất kể mọi người khuyên bảo, vẫn là chính mình nhận biết: Một khi cho rằng sắc thân của chính mình cần nghỉ ngơi, cần quý trọng, đã biến thành đạo nghiệp sụt giảm. Xét theo pháp tắc, chắc là mỗi người đều là như thế!

Hành pháp một ngày một đêm ở Hằng Dương Am, cho đến có một số người có thể kinh hành bảy ngày tám đêm, ba ngày ba đêm, bất luận kéo dài như thế nào, một ngày một đêm là nét chung. Gần đây nhất, tôi vẫn hy vọng mọi người trong một ngày một đêm hoặc một ngày hai đêm có thể dựa theo nghi quỹ để hành trì. Vì trước đó đã có thương tích chồng chất, một pháp tắc mở ra, sẽ có người xông pha chặt đứt gai góc, tức là những người đi trước đã chịu gian khổ cỡ nào! Chắc là hành giả sẽ biết [điều ấy]. Tôi cũng đã tham dự hộ trì một số hành pháp, cũng biết nội dung pháp tắc tu tập trong một số đạo tràng, cũng gặp tại một số chỗ các vị xuất gia hay cư sĩ tương ứng hay chẳng tương ứng đối với pháp tắc này. Chẳng tương ứng sẽ có nhiều khổ nạn, hoặc nẩy sanh lo ngờ đối với pháp. Hễ tương ứng, sẽ sanh khởi vui sướng, cho đến thay đổi quan niệm về sanh mạng và ý thức. Pháp ấy rốt cuộc có ý nghĩa. Bất luận là do nhân duyên nào, một khi đã hành pháp ấy, sẽ kết nhân duyên chẳng thoái chuyển đối với Phật pháp. Điều này chân thật chẳng dối. Chỉ do trong đời hiện tại, chúng ta vì như pháp hay không mà biểu hiện thành lợi ích thích đáng hay chẳng thích đáng, hiện tiền hay không hiện tiền. Đó là một vấn đề khá lớn. Nhưng xét theo nhân duyên rộng khắp với hữu tình, tức là nhìn từ nhân duyên niệm Phật, nói theo lợi ích rốt ráo, nói theo lợi ích to lớn căn bản, thật sự là phước đức chẳng thể nghĩ bàn. Cho nên pháp này chẳng báng được, chẳng nghi được, mà cũng chẳng thể tán thán được, nhưng hành được, thủ hộ được. Chúng ta như thật truyền bá nó, như thế thì sẽ có thể lợi ích rộng khắp hữu tình trong thế gian.

(Kinh) Thất giả, thường hành khất thực, bất thọ biệt thỉnh.

()七者常行乞食不受別請。

(Kinh: Bảy là thường khất thực, chẳng nhận thỉnh riêng).

Đây là nói theo người xuất gia. Thật  ra, vẫn  là  một  pháp  tắc  để khiến cho chúng ta trừ khử kiêu mạn. Trong Tăng pháp (pháp tắc của Tăng chúng), thường hành khất thực chính là sự thủ hộ và tu tập trọng yếu nhất nhằm vứt bỏ kiêu mạn, vứt bỏ cái Ta tôn quý nhất. Trong Hán truyền Phật giáo, ôm bát đi khất thực một mực là một Tăng pháp vẫn chưa được đề xướng rộng khắp. Tuy rằng từ xưa đến nay, cũng có hành giả duy trì pháp này, nhưng phần nhiều chẳng phải là sinh hoạt thường nhật, chỉ là dưới một nhân duyên nào đó, mọi người đi khất thực một phen, có tánh chất tượng trưng, có tánh chất lễ nghi, hoặc có tánh chất cảnh tỉnh cõi đời. Đối với chuyện này, chúng ta thủ hộ, xét kỹ như thế nào? Thực tế là trong cuộc sống hằng ngày, trừ khử cái tâm kiêu căng, ngạo mạn, trừ khử cái tâm tham cầu yên vui, buông thả. Như thế là có ý nghĩa; tại gia cư sĩ cũng phải nên chú ý điểm này!

Đức Thế Tôn đã giảng bộ kinh Anh Lạc và trong khá nhiều kinh điển, Ngài đã đặc biệt nhắc tới anh lạc mà Phật, Bồ Tát đeo. Đó là một loại vật dụng để trang nghiêm hòng biểu thị pháp, ngụ ý phải thường sanh hổ thẹn. Đối với những pháp mà mình đã hành, hãy nghĩ là chưa đủ. Do vậy, sẽ có cái tâm tăng thượng tiến nhập. Đối với chúng sanh và Phật Đà, đều có tâm hổ thẹn, vậy thì chính mình sẽ nỗ lực. Yêu cầu của hành pháp Ban Châu cũng là như thế. Tại các nơi hành trì Ban Châu, do đối với chuyện ẩm thực hoặc các phương diện khác của người hành pháp mà chăm sóc quá lố, cũng hình thành phản tác dụng nơi người hành Ban Châu, tức là [hành nhân] sẽ chẳng tôn trọng sự cúng dường của người khác. Có khi vì chúng ta do áo cơm sung túc, hoàn cảnh an nhàn, sẽ đánh mất lợi ích chân chánh do hành pháp, tức là đích thân chứng tam-muội.

Rất nhiều người hỏi tôi: “Vì sao hiện thời thầy bàn pháp môn Tịnh Độ chẳng tương ứng với lời bàn luận trước kia?” Thật ra, chẳng phải vậy. Chúng ta đích thân chứng tam-muội chẳng mâu thuẫn với nguyện vọng của A Di Đà Phật. Nếu chúng ta yên tâm thuận theo nguyện vọng của A Di Đà Phật, lại hành Ban Châu, đó chẳng phải là chuyện mâu thuẫn. Đích thân chứng tam-muội cũng chẳng phải là chuyện mâu thuẫn. Trong hiện duyên của chúng ta, hướng tới chuyện khiến cho pháp tắc này trụ thế và được truyền bá, cũng chẳng hề trái nghịch với đại nguyện “lợi ích rộng hữu tình trong thế gian, khiến cho Phật pháp trụ thế, an ủi hết thảy hữu tình” của A Di Đà Phật. Có lúc hai loại tâm trí biên kiến của chúng ta, tức là có, không, đúng, sai v.v… Tri kiến như vậy tùy thời sanh khởi, nhưng tri kiến chẳng đối đãi, tri kiến tùy thuận vẫn cần phải không ngừng điều chỉnh. Nếu có thể nương theo Trung Quán để thấy, hoặc thấy bằng trí huệ, tuy thấy mà chẳng đắm nhiễm, chẳng đối đãi, [dùng các cách thấy ấy] để quan sát pháp, sẽ rất thuận tiện.

(Kinh) Bát giả, thiểu dục tri túc, điều phục chư căn.

()八者少欲知足調伏諸根。

(Kinh: Tám là ít muốn, biết đủ, điều phục các căn).

Đấy là công đức thánh hạnh do Bồ Tát thực hành. Bất luận là Thanh Văn Thừa, Đại Thừa, hay Kim Cang Thừa, trong chỗ y chỉ cơ bản của tất cả sự thành tựu, đều có tám pháp thiện xảo như “thiểu dục tri túc, điều phục chư căn” (ít muốn, biết đủ, điều phục các căn) v.v… tức tám điều giác ngộ của bậc đại nhân (bát đại nhân giác). Tám điều giác ngộ của bậc đại nhân là pháp tắc ắt phải hành, phải nên hành của hàng tại gia lẫn xuất gia Bồ Tát. “Ít muốn, biết đủ” là hai pháp đầu tiên trong tám pháp, tịch tĩnh là pháp thứ ba. Sau đó có chánh niệm, chánh định, tinh tấn, chánh huệ, chẳng hý luận. Bồ Tát nên hành tám pháp ấy.

Nay chúng ta có thể quan sát một hiện tượng tu tập pháp chẳng tương ứng. Chẳng hạn như trong điện đường, trong công khóa, khi niệm Phật, hoặc khi trao đổi Phật pháp, chúng ta đều rất chánh quy, nhưng trong lúc bình thường, sẽ dễ dàng buông lung, chẳng nhiếp các căn, ý chí tản mạn. Thậm chí có khá nhiều tập khí phóng túng theo dục vọng, hoặc chẳng biết đủ, phàm phu hữu tình hết sức dễ dàng [phạm lỗi] như thế đó. Đấy cũng là chướng ngại đối với chuyện đích thân chứng Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội. Trong hành pháp Ban Châu, có thể đoạn trừ bằng cách rời lìa nghiệp tập, có thể chiếu kiến nghiệp tập của chính mình. Nhưng để hành Ban Châu trong cuộc sống hằng ngày, cần phải có tâm trí mười phần mạnh mẽ thì mới có thể hành trì. Nói đến hành trì Tùy Ý tam-muội, luôn luôn thâu tóm về tâm ý, chỉ đề khởi danh hiệu, chẳng nhiễm, chẳng chấp, đối với “thiện, ác, đúng, sai” trong hiện duyên, trọn chẳng vướng mắc. Đối với phiền não hay chẳng phiền não, nghiệp tập hay chẳng nghiệp tập đều chẳng màng đến, cứ thẳng thừng tiến bước. Như thế thì dễ thành tựu Tùy Ý tam-muội. Thật ra, Niệm Phật tam-muội đã hàm nhiếp sự tu trì Tùy Ý tam-muội, vì dễ hành, lúc nào cũng đều có thể niệm, lúc nào cũng đều có thể tu, chẳng chọn lựa địa điểm, chẳng chọn phương pháp. Vì thế, Trì Danh Niệm Phật thật sự là một phương pháp tu hành chẳng thể nghĩ bàn. Nội hàm công đức và lợi ích của pháp ấy chỉ có Phật và Phật Thế Tôn có thể hiểu, có thể biết. Cách tu Bát Đại Nhân Giác ở nơi đây, hoặc cách tu mười pháp, khiến cho chúng ta có thể chiếu kiến chính mình, thức tỉnh chính mình, đều là pháp tắc có thể sử dụng trong bình thời. Nếu chúng ta chỉ chuyên chú trong một khắc hành Ban Châu, còn trong cuộc sống thường nhật bèn chẳng quan tâm, mà mong thật sự đạt thành tựu nơi pháp, quả thật sẽ rất khó!

(Kinh) Cửu giả, chánh tín thậm thâm, Vô Sanh Pháp Nhẫn.

()九者正信甚深無生法忍。

(Kinh: Chín là chánh tín rất sâu, Vô Sanh Pháp Nhẫn).

Vô Sanh Pháp Nhẫn là pháp tắc do chư Phật đích thân chứng đắc, mà cũng là biểu hiện chân thật của Pháp Tánh, tức là hết thảy các pháp vốn bất sanh, vốn bất diệt, chẳng đến, chẳng đi. Các pháp tịch diệt, vốn vô sở đắc. Trong cơ chế giáo ngôn của Vô Sanh Pháp Nhẫn, do các phàm phu chẳng thể bén mảng, cho nên lập ra một Pháp Nhẫn tương tự cho hàng Bồ Tát, tức là đạt được an lạc trong Nhất Tướng Nhất Hạnh Tương Tự Nhẫn. Như trong Đàn Kinh, Lục Tổ đại sư tuyên nói phần nhiều là Nhất Tướng Nhất Hạnh Bồ Tát Pháp Nhẫn, tức là Vô Sanh Nhẫn của Bồ Tát, là tương tự nhẫn. Tức là đối với hết thảy “thiện, ác, đúng, sai”, đều chẳng nhiễm, chẳng chấp, chẳng vướng mắc. Nếu ai có thể khéo thủ hộ như thế, sẽ chẳng thấy lỗi thế gian, tiến thẳng vào nguồn tâm thanh tịnh, tức là thành tựu Bồ Đề tâm.

Vô Sanh Pháp Nhẫn thật sự chỉ có chư Phật đích thân chứng. Do vậy, ở đây chỉ có tướng đại công đức “tin sâu chư Phật”. Đấy là chỗ chúng ta hướng đến, nương tựa, tiêu quy, là chỗ ta chẳng thể nghĩ bàn. Đó là một phương tiện. Do trong Sở Tri Chướng của chúng ta, phần nhiều do nghĩ bàn mà chính mình bị ngăn chướng, đối với Tam Tạng mười hai bộ loại đều suy nghĩ một lượt, đều trở thành chướng ngại, chẳng thể chứng quả. Khá nhiều người đi đường vòng ở chỗ này, dùng ý thức của chính mình để tư duy kinh điển, chẳng phải là dùng kinh điển để tùy văn nhập quán, trừ bỏ cái gọi là “tâm suy luận” của chính mình. Tư duy chính là chỗ tồn tại của sức mạnh lấy bỏ trong nghiệp tướng của chúng ta từ vô thỉ đến nay, cũng có nghĩa là nếu chúng ta đã lý giải: “Chuyện này có ý nghĩa bèn giữ lấy. Chuyện chẳng có ý nghĩa, ta bèn bỏ đi, bèn bài xích”. Đối với kinh điển, cũng lại lấy hay bỏ như thế. Như vậy thì đối với Vô Sanh Pháp Nhẫn, bèn rơi vào Danh Tự Nhẫn, tức là vẫn đem tâm niệm của chính mình bỏ vào đó. Kết quả là hình thành cái gọi là Sở Tri Chướng. Do vậy, trong hành pháp, như trạng thái tâm lý của bậc thiện tri thức sau khi đắc Ngũ Đình Tâm so với những kẻ bình phàm chúng ta, sẽ sai khác như trời với đất. Vì trước khi chứng Ngũ Đình Tâm, lời lẽ thuộc nhị biên (đúng, sai, ta, người, có, không v.v…) ắt cần phải nói, chẳng đúng thì là sai, chẳng phải là thứ này bèn là thứ kia, chẳng có thứ gì ta không tạo tác. Tâm thanh tịnh, an lạc bình hòa, buông xuống mọi lo lắng. Đối với vấn đề này, chúng ta nhất định phải khéo tư duy và quan sát, từ trong niệm Phật, chứng đắc tương tự đình tâm, cũng đạt được phương tiện.

(Kinh) Thập giả, thường niệm thùy sở hữu thị tam-muội, tức ư bỉ sư, sanh chư Phật tưởng. Nhiên hậu tu tập như thị tam-muội.

()十者常念誰所有是三昧即於彼師生諸佛想。然後修習如是三昧。

(Kinh: Mười là thường nghĩ ai sở hữu tam-muội này, liền sẽ đối với vị thầy ấy, sanh ý niệm tưởng  như  chư  Phật. Sau  đó, tu  tập  tam-muội như thế).

Thường suy nghĩ ai đã chứng đắc tam-muội này. Đức Thế Tôn đã nêu ra một trường hợp: “Trong đệ tử của ta, Ma Ha Ca Diếp đích thân chứng tam-muội này”. Tôn giả Ca Diếp ở trong Hoa Thủ Môn phía trên chúng ta, chúng ta triều bái lễ kính Ngài được ngay, mười phần thuận tiện! Quý vị nói: “Đó là tảng đá, ai biết trong đó có gì”. Nếu nghi ngờ như thế, chúng ta vẫn nghi ngờ Phật pháp, mà cũng có thể là nghi ngờ văn tự. Thật ra, nói là tin hay nghi là do tâm trí nương tựa, do tâm trí sanh ra. Từ chỗ nương vào và chỗ xuất sanh, sẽ sanh ra phương tiện: Một đằng là nghi, một đằng là chẳng nghi. Người chẳng nghi mới chính là hành vi của bậc trí, còn nghi là chuyện phàm phu sẽ làm. Cùng là một tâm niệm, mọi người hãy khéo quan sát!

(Kinh) Hiền Hộ! Thị vi bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân cụ túc như thượng thập chủng pháp dĩ, ưng đương tu tập như thị tam-muội, diệc linh tha nhân thọ trì, độc tụng. Như thị hành giả, đương đắc bát sự. Hà đẳng vi bát?

()賢護是爲彼善男子善女人具足如上十種法已應當修習如是三昧亦令他人受持讀誦。如是行者當得八事。何等爲八

(Kinh: Này Hiền Hộ! Đấy là thiện nam tử, thiện nữ nhân trọn đủ mười pháp như trên rồi, hãy nên tu tập tam-muội như thế, và cũng khiến cho người khác thọ trì, đọc tụng. Hành giả như thế, sẽ đạt được tám sự. Những gì là tám?)

Mười pháp trên đây khi chúng ta trao đổi với người khác, phải nên tư duy, quan sát. Như thế thì mới có sự thiện xảo trong trao đổi. Tiếp đó, [đức Thế Tôn] dạy: “Như thị hành giả, đương đắc bát sự” (Hành giả như thế sẽ đạt được tám sự), tức là sẽ có tám sự hiển hiện. Các vị thiện tri thức ơi! Trong lúc học tập thì chúng ta học tập, nhưng sau đó, vẫn hy vọng mọi người thường tư duy, quan sát, thường nghĩ đến pháp tắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội.

(Kinh) Nhất giả, tất cánh thanh tịnh, ư chư cấm giới, vô hủy phạm cố.

()一者畢竟清淨於諸禁戒無毀犯故。

(Kinh: Một là rốt ráo thanh tịnh, chẳng hủy phạm các giới cấm).

Nói theo bản chất, hết thảy chúng sanh chẳng trì giới, mà cũng chẳng phạm giới, chẳng có giới để có thể trì, chẳng có giới để có thể phạm. Vì nhân duyên hiện tiền trong Tục Đế, trong mỗi pháp bổn vị đều có pháp tắc, đều có giới cấm. Tức là bản thân mỗi người chúng ta đều có thân phận cụ thể của chính mình và những điều cần phải thủ hộ. Như hàng xuất gia, tại gia, tỳ-kheo, sa-di, tỳ-kheo-ni, sa-di-ni, [mỗi loại đều có các giới phải vâng giữ như] cận trụ giới, tại gia ngũ giới, thập giới, Bồ Tát giới v.v… Trong pháp bổn vị đều có sự thủ hộ; nhưng “tất cánh thanh tịnh” (rốt ráo thanh tịnh) có cội nguồn là thanh tịnh. Trong pháp bổn vị, có trì, có phạm. Nếu chẳng phạm giới cấm, trong đời hiện tại, chúng ta sẽ đạt được pháp tắc tương ứng với an lạc.

(Kinh) Nhị giả, tri kiến thanh tịnh, trí huệ hòa hợp, bất dữ dư tương ứng cố.

()二者知見清淨智慧和合不與餘相應故。

(Kinh: Hai là tri kiến thanh tịnh, trí huệ hòa hợp, do chẳng tương ứng với những điều khác).

Vận dụng tâm trí trí huệ để hành pháp, tức chẳng nhiễm, chẳng đắm. Đương nhiên là như vậy thì cũng sẽ thành thục tri kiến thanh tịnh. Trong sự tìm cầu cái duyên bên ngoài, chẳng hạn như mọi người đàm luận khá nhiều “ai có cảnh giới chi đó, nhận biết sắc thân chi đó, nhận biết ý thức, nhận biết tướng cảnh giới ngoại duyên” v.v… Các điều ấy chẳng có mảy may liên quan đến tri kiến phát tâm thanh tịnh. Có người cảm thấy khinh an, có người cảm thấy thô nặng, có người cảm thấy buồn ngủ, có người cảm nhận bệnh tật. Các điều ấy thật sự chẳng liên quan đến tri kiến thanh tịnh. Mục đích của chúng ta rõ ràng, tiến thẳng đến mục đích, chẳng vướng mắc. Tri kiến ấy phải nên mười phần rõ rệt. Đối với những cái ở giữa đường như “cảm nhận, cảnh giới, ngoại duyên”, chẳng vướng bận vì những thứ đó. Như thế là “bất dữ dư tương ứng” (chẳng tương ứng với các thứ khác), chính là phương tiện chứng tam-muội này, mà cũng là một con đường tắt. Chúng ta hành Ban Châu, bao gồm hành trong một ngày, một đêm, cơ bản đều là bị chướng ngại tại chỗ này. Chẳng hạn như đau đớn xảy đến, người ta bắt đầu dồn sức chú ý vào nơi đau đớn, tức là chẳng có một niệm thanh tịnh “chẳng lập một niệm, đoạn các tưởng”!    

Tri kiến thanh tịnh chẳng nhiễm, chẳng chấp, rõ ràng, rành rẽ. “Thấy Phật” là như người trong Tông Môn đã nói: “Tiền niệm bất sanh, hậu niệm bất diệt”. Cái thật sự được thủ hộ là “các tướng vô tướng, vốn sẵn thấy Phật”. Quý vị nói: “Như vậy thì chẳng trở thành Thiền Tông ư?” Quý vị có thể không quan tâm, chẳng vướng vào ngôn thuyết ấy, sẽ là “vô sở đắc niệm Phật” rất thuận tiện. Nhưng nếu như chân đau sẽ bóp chân, đùi đau liền xoa đùi, mệt bèn phải dựa, ngừng lại, điều ấy chẳng hợp với trí huệ, sẽ chẳng thấy thấu suốt “pháp chẳng có tự tánh”, chẳng thấy thấu suốt pháp vốn chẳng sanh diệt, vốn chẳng cảm nhận, mà cũng là vốn chẳng có đau khổ. Đã “vốn chẳng có” thì vì sao hiện thời lại hiện ra sự đau khổ? Đối diện các huyễn nghiệp như thế, hãy chẳng nhiễm, chẳng chấp, hành nhân sẽ an lạc. Vì nó là nghiệp tướng nhân duyên từ Dị Thục Quả trong sát-na đó thôi, chẳng hề có thực chất, sẽ chẳng [tồn tại] lâu dài. Một khi chúng ta đối với mỗi chuyện ấy mà vượt qua được, bản chất của nó sẽ tự nhiên hiển lộ, tức là bản chất “pháp chẳng có tự tánh” sẽ tự nhiên bộc lộ, chư Phật tự nhiên hiện tiền, giống như nước hoặc gương soi vật.

Chuyện này đích xác cần phải không ngừng tu tập thì mới có thể thuần thục, lần này sang lần khác, không ngừng quan sát, không ngừng vận dụng. Chúng ta chỉ học một số lý luận, mà chẳng thực hiện, đúng là chẳng có ý nghĩa gì hết! Lý giải chỗ này quả thật cũng chẳng có ý nghĩa. Hãy nên nương theo chánh tri kiến, tri kiến thanh tịnh, nương theo trí huệ để hành. Chỉ nói suông, chỉ nghe suông, thì chỉ là duyên khởi. Nếu chẳng hành trì, sẽ hết sức khó có thể đích thân chứng đắc. Vì thế, đối với pháp này, phải nên thường hành, hành nhiều! Hiện thời, nếu có thể thật sự kinh hành Ban Châu, thật sự là phước báo, kinh hành vào lúc nào? Chắc là chúng ta trong mỗi thời khắc đều chẳng đánh mất ý niệm, chẳng đắm nhiễm. Đó là hành Ban Châu rất tốt đẹp, mọi người hãy nên khích lệ lẫn nhau. Trước khi chúng ta chứng được lợi ích từ pháp tắc, hãy nên sanh lòng hổ thẹn to lớn, vì pháp chẳng tương ứng. Tuy mọi người thường nghe nói và trao đổi pháp tắc này, nhưng trước khi thật sự thành tựu lợi ích, đều phải nên sanh lòng hổ thẹn.

(Kinh) Tam giả, trí huệ thanh tịnh, cánh bất phục thọ chư hậu hữu cố.

()三者智慧清淨更不復受諸後有故。

(Kinh: Ba là trí huệ thanh tịnh vì chẳng còn nhận lấy các hậu hữu nữa).

Trong phần trước nói về tri kiến thanh tịnh; ở đây, nói đến trí huệ thanh tịnh. Trí huệ thanh tịnh được kiến lập trên “chẳng tạo hậu hữu”. Chư vị Bồ Tát ai nấy hãy nên xem kỹ, xét kỹ. Nếu ngày mai chẳng có bất cứ nhân duyên thế tục nào để quý vị tiến nhập, quý vị có sanh lòng sợ hãi hay không? Nếu tất cả hành vi của ngày mai, chỉ là lợi ích hữu tình trong thế gian, [khi đó], “hậu hữu” chính là sự tiếp nối không có hậu hữu, là sự tiếp nối trí huệ, hoặc là sự tiếp nối từ bi. Chúng ta thường là tiếp nối hậu hữu, cũng chính là nghiệp tiếp nối. Nếu đối với nghiệp tiếp nối mà nẩy sanh cái tâm “đoạn ngang, thoát ra theo chiều ngang” (hoành đoạn, hoành xuất), sẽ chẳng khó thủ hộ trí huệ thanh tịnh.

Khi chúng ta vẫn còn vì bản thân tạo nghiệp, tính toán được mất cho bản thân, đó chính là tướng hậu hữu, là hạnh nhiễm ô, là chẳng có trí huệ. Thiền sư Khuê Phong nói Bồ Đề tâm có ba loại tướng. Trong ấy, bậc đại trí thì trên là chẳng có chư Phật để có thể thành, giữa là chẳng có pháp để có thể tu, dưới là chẳng có chúng sanh để có thể độ. Tướng như thế là tướng “đại trí, không, tịnh, vô ngại”. Nếu chúng ta vẫn thiết lập một cái hậu hữu, nói ngày mai, ngày mốt sẽ làm gì đó, sẽ chẳng có sức thủ hộ tâm thanh tịnh và tâm trí huệ ngay trong hiện tiền. Nếu đối với sự phát tâm, chúng ta vận dụng trí huệ và từ bi để tiếp tục, đó chính là thủ hộ Bồ Đề tâm. Tức là trong sanh mạng của hậu hữu mà tiếp nối hai pháp bi và trí, sẽ chẳng lìa cái thân do cha mẹ sanh  ra  mà  thành  tựu  Bồ  Đề.

Tâm niệm vừa chuyển, cái thân tạo nghiệp này sẽ trở thành thân bi trí, có thể lợi ích rộng khắp thế gian. Điều này hết sức rõ ràng!

Trong gia hạnh[5] của Tạng truyền Phật giáo, tâm chán lìa và triệt để lìa bỏ sự an lạc cho cái thân này, tức hết thảy các tâm hưởng thụ và an lạc. Đó là hai gia hạnh cơ bản nhất. Nếu không, thượng sư sẽ tuyệt đối chẳng truyền pháp cho quý vị. Khi tôi vừa mới xuất gia, có một vị Bồ Tát bảo tôi: “Nếu muốn thân này thật sự có thành tựu trong Phật pháp, thầy phải lìa bỏ bất cứ nghiệp tướng đắm nhiễm nơi thân này. Nếu không, sẽ chẳng thể có thành tựu”. Khi ấy, tôi có cảm giác kinh hãi. Đối với chuyện triệt để lìa bỏ sự thọ dụng vật chất và tinh thần nơi thân này, vẫn còn có các nỗi băn khoăn, mờ mịt. Trải qua một thời gian tu tập, cho đến khi gặp được cơ chế giáo ngôn của A Di Đà Phật, mới biết được sự thiện xảo do đoạn ngang, thoát ra theo chiều ngang, cũng như chọn lựa “chẳng tạo hậu hữu” của bậc thánh như A La Hán đã chứng quả là ở chỗ nào. Chính là ngay trong việc chẳng còn tiếp nối các nghiệp thiện, ác, vô ký của chính mình và tiếp nối hai pháp bi trí, như pháp sư Đàm Loan đã dạy: “Dĩ Phật nguyện vi sanh mạng, khởi khả tư nghị?” Tức là dùng Phật nguyện để duy trì sanh mạng thì sẽ là chẳng thể nghĩ bàn; nhưng nếu chúng ta nương theo nghiệp lực của chính mình, nương vào tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng để tiếp nối sanh mạng thì sẽ có hậu hữu. Hãy nên quán kỹ điều này!

(Kinh) Tứ giả, thí dữ thanh tịnh, bất nguyện nhất thiết chư hành quả báo cố.

()四者施與清淨不願一切諸行果報故。

(Kinh: Bốn là bố thí thành tựu, chẳng mong quả báo từ hết thảy các việc đã làm).

Ở đây là nói đối với hết thảy bố thí, đều chẳng mong được báo đền. Trong quá trình bố thí, chúng ta chẳng cầu được báo đền là điều rất quan trọng. Cũng giống như vậy, trong quá trình hành pháp, nếu nóng lòng mong đạt được điều gì, do nôn nóng về hậu quả và lợi ích, tự tâm cũng sẽ bị ngăn lấp. Hễ có báo đền, cùng với tiếng tăm, lợi dưỡng, thì đều là giáo dục thế gian. [Giáo dục thế gian là] “nếu đã làm gì, đều muốn được báo đáp”. Nếu chẳng được báo đáp, người ta sẽ sanh lòng oán. Chẳng hạn như nói: “Ta đã bỏ ra bao nhiêu công sức, sao mà chẳng đạt được gì?” Đó là tâm lý thông thường của phàm phu!

“Thí dữ thanh tịnh” (Bố thí thanh tịnh) ở đây là chẳng cầu báo đáp. Chúng ta có thể xét kỹ tất cả những gì chính mình đã làm có phải là chẳng hề cầu được báo đền hay không? Nếu triệt để liễu thoát ngay trong mỗi hành vi, chẳng có hậu hữu, chẳng dính mắc, chẳng có tâm mong được báo đền, chẳng tìm cầu được báo đền, chẳng lập bày vọng tưởng được báo đền, chúng ta làm được như thế sẽ vô úy, chẳng truy cầu lợi lộc, chẳng so đo được mất. Cái tâm “được, mất” là khởi đầu căn bản của hết thảy các pháp trong tâm phàm phu. Hết thảy hành vi của phàm phu đều chẳng lìa khỏi cái tâm ấy; nhưng nếu hành vi của chúng ta thật sự chẳng còn so đo “được, mất”, sự bố thí thanh tịnh sẽ tự nhiên hiện ra. Các phần kinh văn này hoàn toàn có tánh cách đối trị tri kiến của hữu tình phàm phu, và cũng hết sức cụ thể. Trong cuộc sống bình thời, mọi người đều có thể tự mình xét kỹ.

Chẳng mong được báo đền, thường là nói rất đơn giản, nhưng trong phàm tình, chẳng cầu được báo đền là tâm lý như thế nào? Hào phóng ư? Vô tư ư? Vô ngã ư? Nếu đúng là một vật mà quý vị thật sự ưa thích, tham ái, hay là tôn trọng, quý vị có thể bỏ ra hay không? Ngày hôm qua, có một vị pháp sư nói, khi ông ta sống ở Chung Nam Sơn, gặp cường đạo đoạt y bát, khi đó, ông ta phải nên đối diện vấn đề như thế nào? Có nên đưa cho hắn hay không? Vấn đề ấy ông ta đã hỏi rất nhiều người. Có tỳ-kheo nói đưa hết cho kẻ cướp, có người nói hãy chế phục hắn, cũng có người nói “thà xả thân mạng, cũng chẳng thể xả y bát”. Nói theo các kiểu khác nhau! Chúng ta xem xét vấn đề ấy như thế nào? Trong Tứ Phần Luật Tạng có giải thích chuyện này. Người thật sự chẳng cầu được báo đền, sẽ hành xử rất vô úy. Vô tư chính là vô úy, khẳng định chẳng có tâm trí ủy khuất hoặc chỉ trích. Kẻ thường ủy khuất sẽ ủy khuất ở chỗ báo đền; do chẳng được báo đền tương ứng, sẽ cảm thấy ủy khuất. Do đó, “thí dữ thanh tịnh” (bố thí thanh tịnh) là một pháp tắc to lớn mà người xuất gia lẫn tại gia chúng ta đều phải nên xét kỹ. Trong tám pháp và mười pháp này, đức Thế Tôn đều nói về các nội dung mười phần cụ thể trong cuộc sống của chúng ta, cũng như khuyết điểm dễ phạm nhất, hoặc là tri kiến dễ dàng cưỡng chấp nhất. Ở đây, mỗi điều đều được nêu rõ!

(Kinh) Ngũ giả, đa văn thanh tịnh, ký văn pháp dĩ, tất cánh bất vong cố.

()五者多聞清淨既聞法已畢竟不忘故。

(Kinh: Năm là đa văn thanh tịnh, do đã nghe pháp sẽ rốt ráo chẳng quên).

Trong tâm trí bất xả pháp, nghe nhiều các pháp chính là thiện xảo. Nghe mà chẳng nhiễm, cơ duyên thành thục liền có thể hành trì; đó là phương tiện. Vì thế, “đa văn thanh tịnh” rất trọng yếu. Đa văn chẳng trở thành gánh nặng, chẳng trở thành kiêu mạn. Hễ cơ duyên chín muồi, bèn có thể hành trì, hoặc là bố thí cho người khác, rộng truyền trong thế gian. Đó đều là thiện xảo. Có người sau khi tiếp xúc pháp, tiếp xúc với nhiều người khác, sẽ sanh lòng kiêu mạn, tà kiến, tức là đa văn chẳng thanh tịnh, vì do đa văn của chính mình mà sanh tâm kiêu mạn, tâm tà kiến, tâm cao thấp. Như thế thì sẽ ô nhiễm pháp tắc này.

 

(Kinh) Lục giả, tinh tấn thanh tịnh, ư nhất thiết thời, cầu Phật Bồ Đề cố.

()六者精進清淨於一切時求佛菩提故。

(Kinh: Sáu là tinh tấn thanh tịnh, do trong hết thảy mọi lúc đều cầu Phật Bồ Đề).

Các pháp tắc đã thủ hộ đều phổ giai hồi hướng (hồi hướng trọn khắp) A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, chỉ nương theo tâm tối thượng thừa, chẳng vì cầu chi khác, chẳng đọa vào thứ gì khác. Đó là “tinh tấn thanh tịnh”. Trong tâm trí tam thừa, có Thanh Văn Bồ Đề tâm, Duyên Giác Bồ Đề tâm, cho đến Phật Bồ Đề tâm. Ở đây, chỉ nói “cầu Phật Bồ Đề”, tức là cầu tối thượng thừa tâm, vì tinh tấn, hãy đừng nên bỏ hoặc đánh mất cái tâm ấy.

(Kinh) Thất giả, viễn ly thanh tịnh, ư nhất thiết danh lợi, bất nhiễm trước cố.

()七者遠離清淨於一切名利不染著故。

(Kinh: Bảy là xa lìa thanh tịnh, do đối với hết thảy danh lợi, chẳng đắm nhiễm).

Trong cơ chế Phật pháp, chúng ta cũng thấy tiếng tăm, lợi dưỡng. Nếu hơi có chánh hạnh, đối với pháp tắc có đôi chút tương tự tu tập, danh lợi sẽ theo ngay đến. Chẳng chú ý đôi chút, sẽ bị danh lợi làm hại, bị nhiễm danh lợi, bị danh lợi nhuốm bẩn. Do đó, phải nên “viễn ly thanh tịnh”.

(Kinh) Bát giả, bất thoái thanh tịnh, đương đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, sơ bất động dao cố.

()八者不退清淨當得阿耨多羅三藐三菩提初不動搖故。

(Kinh: Tám là bất thoái thanh tịnh, sẽ đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề vì thoạt đầu chẳng dao động).

Thoạt đầu chẳng thể dao động. Thật ra, A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm, tức Vô Thượng Bồ Đề tâm, từ sơ phát tâm mãi cho đến khi thành tựu đều là cùng một tâm trí, cho nên nói “phát tâm, liền thành Phật”. Đã là “phát tâm liền thành Phật”, cho nên cần phải mười phần hiểu rõ sự phát tâm này. Đó là “bất thoái thanh tịnh”.

(Kinh) Hiền Hộ! Thị vi bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân, sở hoạch bát pháp dã.

()賢護是爲彼善男子善女人所獲八法也

(Kinh: Này Hiền Hộ! Đó là tám pháp mà thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đạt được).

“Hoạch” là sẽ thủ hộ, sẽ tu tập, sẽ thành tựu. Đúng là các kinh điển ấy phải thường nên đọc; mọi người ở chùa Phóng Quang đã đọc suốt một tháng. Sau đó, chúng tôi lại nhắc nhở từng điều, không gì chẳng nhằm khiến cho kinh điển Ban Châu có thể lưu truyền rộng rãi trong cõi đời, khiến cho mọi người có thể nương theo kinh mà hành, nương theo pháp mà hành, đúng pháp mà hành, đúng pháp mà thành tựu. Như thế thì sẽ chẳng đi đường vòng, tránh khỏi khổ sở vô ích mà tiến nhập Bồ Đề.

(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa, dĩ thuyết kệ viết: – Trí nhân bất khởi hữu tướng tưởng, diệc đương trừ mạn cập ngã tâm. Ư thâm nhẫn trung vô thủ trước, bỉ năng tốc tuyên thử tam-muội. Không trung bổn cầu diệt tránh căn, Niết Bàn vô tướng đại tịch định. Ư Phật vô hiềm, bất báng pháp, bỉ năng tốc tuyên thử tam-muội.

()爾時世尊爲重明此義以說偈曰智人不起有相想亦當除慢及我心。於深忍中無取著彼能速宣此三昧。空中本求滅諍根涅槃無相大寂定。於佛無嫌不謗法彼能速宣此三昧。

(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vì muốn nói rõ lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: – Người trí chẳng dấy hữu tướng tưởng, cũng sẽ trừ mạn, tâm chấp ngã. Đối với nhẫn sâu chẳng chấp giữ, người ấy mau tuyên tam-muội này. Trong Không, vốn cầu gốc diệt tránh, Niết Bàn vô tướng đại tịch định, chẳng hiềm trách Phật, chẳng báng pháp. Người ấy mau tuyên tam-muội này).

Nói rõ tâm trí phải nên thủ hộ trong khi tuyên nói pháp tam-muội này.

(Kinh) Trí giả bất hưng tật đố ý, niệm Phật tri ân cập Pháp, Tăng. Sở sanh hàng phục vô thiên di, như thị tịch tĩnh trì tam-muội. Vô hữu tật đố, diệc vô nghi, tư duy thâm pháp chân thật tín. Tinh tấn bất giải, ly chư dục. Bỉ năng như thị đắc tam-muội.

 ()智者不興嫉妒意念佛知恩及法僧。所生降伏無遷移如是寂靜持三昧。無有嫉妒亦無疑思惟深法真實信。精進不懈離諸欲彼能如是得三昧。

(Kinh: Người trí chẳng dấy ý ghen tỵ, nghĩ tưởng biết ơn Phật, Pháp, Tăng, sở sanh hàng phục chẳng dời chuyển, tịch tĩnh trì tam-muội như thế. Chẳng có ghen tỵ cũng chẳng nghi, tư duy pháp sâu, tin chân thật. Tinh tấn chẳng lười, lìa các dục. Ai được như thế, đắc tam-muội).

Trong kệ tụng có “tuyên tam-muội”, “trì tam-muội”, và “đắc tam-muội”. Thứ tự thuyết pháp ấy chẳng ngoài từ cầu pháp, đọc tụng, truyền bá, giải nói, đích thân chứng lợi ích của pháp tắc, mà lập ra các thứ pháp tắc để ấn khế tự tâm của chúng ta. Trong ấy, có rất nhiều toa thuốc để trị các loại bệnh tật của chúng ta, nhưng đối với ghen tỵ và kiêu mạn, kinh này hết sức chú trọng nhắc nhở. Ngoài ra, cũng đặc biệt nhắc tới tinh tấn, nhưng trong sự thủ hộ vô thượng thừa thì [tinh tấn] chính là tinh tấn thiện xảo.

(Kinh) Thường hành tỳ-kheo khất thực pháp, xả chư biệt thỉnh huống cầu tài! Đoạn trừ cấu nhiễm, chứng Chân Như. Bỉ năng như thị đắc tam-muội.

()常行比丘乞食法舍諸別請況求財。斷除垢染證真如彼能如是得三昧。

(Kinh: Thường hành pháp khất thực của Tăng, bỏ các thỉnh riêng, huống cầu tài! Đoạn trừ cấu nhiễm, chứng Chân Như. Người được như thế, đắc tam-muội).

“Khất thực pháp” trên thực tế là pháp lìa bỏ các kiêu mạn, cũng là pháp tắc lìa bỏ tham cầu an nhàn. “Xả chư biệt thỉnh, huống cầu tài” (Bỏ các lời thỉnh nhận cúng dường riêng, huống hồ cầu tài vật): Người xuất gia hoặc người hành pháp nếu tham lam các món tài vật, lỗi họa vô cùng, sẽ khiến cho người ấy mang gánh nặng trầm trọng, trì hoãn cơ hội thành đạo của chính mình.

(Kinh) Thùy năng hữu thử tam-ma-đề, ngã ưng thính thọ, quảng lưu bố, ư giáo sư sở khởi Phật tưởng. Bỉ năng như thị, đắc tam-muội.

()誰能有此三摩提我應聽受廣流佈。於教師所起佛想彼能如是得三昧。

(Kinh: Hễ ai có tam-ma-đề này, ta nên nghe nhận, lưu truyền rộng, đối với người dạy tưởng như Phật, người được như thế, đắc tam-muội).

Tam-ma-đề là thành tựu và an trụ tam-muội. Người hành pháp trong hiện thời đông đảo như thế, nếu có người thật sự chứng pháp tắc tam-ma-đề an lạc, hãy nên thỉnh vị thiện tri thức như vậy lợi ích rộng khắp thế gian. “Ư giáo sư sở, khởi Phật tưởng” (Đối với thầy dạy tưởng như Phật): Hiện thời, trong Hán truyền Phật giáo, lòng tôn trọng đối với thầy, đối với sự dạy bảo của thầy vẫn khá yếu ớt, còn Tạng truyền Phật giáo thì chuyện xem xét, nhận biết thầy là một vấn đề mười phần trọng yếu, cũng có thể nói là một vấn đề trọng yếu hàng đầu. Vì nếu chẳng tưởng thầy như Phật, chuyện đạt được pháp ích và lưu thông [Phật pháp] sẽ bị trở ngại. Trên thực tế, sự nghĩ tưởng ấy chẳng phải nghĩ tưởng sai lầm, chúng ta tuyên nói phải tương ứng khế hợp pháp thể thì mới có thể đạt được sự gia trì thật sự trong Phật pháp.

(Kinh) Nhược nhân tu hành thử tam-muội, đương cụ công đức siêu thế gian.

()若人修行此三昧當具功德超世間。

(Kinh: Nếu ai tu hành tam-muội này, sẽ có công đức siêu thế gian).

“Đương cụ công đức siêu thế gian” (Sẽ có công đức vượt xa thế gian): Giáo ngôn xuất thế của đức Thế Tôn, tuyệt đối chẳng phải chỉ đơn giản là tăng ích thế gian, mà vì khiến cho hữu tình trong thế gian thật sự xét kỹ thế gian, vượt khỏi pháp tắc thế gian. Nếu chẳng vậy, chúng ta sẽ coi Phật pháp thành giáo pháp nhân gian, đồng hóa Phật pháp, tức là thế tục hóa Phật pháp. Đây cũng là một vấn đề đặc biệt to lớn trong hiện thực.

(Kinh) Bỉ ưng tốc thọ bát chủng pháp, xưng chư Phật tâm tịnh vô cấu.

()彼應速受八種法稱諸佛心淨無垢。

(Kinh: Hãy nên mau thọ tám loại pháp, khen tâm chư Phật sạch chẳng nhơ).

Chúng ta nếu có thể tùy thuận chư Phật, như thế thì sẽ tự nhiên siêu việt các cấu chướng nghiệp duyên.

(Kinh) Trì giới thanh tịnh vô hữu biên, tam-muội Bồ Đề cập thắng kiến, bỉ năng thanh tịnh chư hữu trung, trụ dĩ tối diệu công đức tụ.

()持戒清淨無有邊 三昧菩提及勝見 。彼能清淨諸 有中住以最妙功德聚。

(Kinh: Trì giới thanh tịnh chẳng ngằn mé, tam-muội Bồ Đề và thắng kiến, ai hay thanh tịnh trong các hữu, trụ khối công đức mầu nhiệm nhất).

Hai câu kệ này đặc biệt ngắn gọn nêu ra: “Thanh tịnh chư hữu trung” (Thanh tịnh trong các hữu). Nếu chúng ta vô nhiễm trong các hữu, tức là thanh tịnh. Nếu có nhiễm, tức là đắm nhiễm trong các Hữu. Nếu đắm nhiễm trong các Hữu, hết thảy các thứ sanh ra đều là nghiệp tướng liên tục.

Nếu chẳng đắm, chẳng nhiễm trong các Hữu, thanh tịnh an lập, tự nhiên sẽ là công đức thù thắng, nhiệm mầu, tức cái gọi là “tối diệu công đức tụ” (khối công đức nhiệm mầu nhất). Vì thế, trong nghiệp tướng hiện duyên này, chúng ta nương theo hai pháp là nhiễm hoặc chẳng nhiễm, đạt được thanh tịnh hay không thanh tịnh, diệu dụng và nghiệp tiếp nối.

(Kinh) Trí huệ thanh tịnh bất thọ hữu, bố thí ly cấu nhập vô vi.

()智慧清淨不受有佈施離垢入無爲。

(Kinh: Trí huệ thanh tịnh, chẳng thọ hữu. Bố thí lìa cấu, nhập vô vi).

Kệ tụng chủ yếu là trùng tuyên nội dung của phần Trường Hàng trước đó, cho nên chúng ta đọc sẽ thấy có ý trùng lặp. Thật ra, chẳng phải vậy. Giáo ngôn trong Phật pháp dẫu một câu nói mười lần, vẫn là dần dần thâm nhập nhiều hơn, vi tế hơn, thuần thục hơn, đừng nghĩ là trùng lặp!

(Kinh) Đắc bỉ đa văn vị tằng vong, kỳ vi trí nhân công đức tạng.

()得彼多聞未曾忘其爲智人功德藏。

(Kinh: Đạt được đa văn chưa từng quên, là tạng công đức của bậc trí).

Trong Hậu Đắc Trí, nếu chẳng có pháp đa văn, chúng ta rất khó thành tựu cái gọi là Bất Không Trí. Vì trong pháp Tu Đức, tức là pháp tắc lợi lạc thế gian, trong những hành vi hiện tiền, vẫn cần phải được truyền dạy, huân tập, cần phải lắng nghe.

(Kinh) Dũng mãnh tinh tấn đắc Bồ Đề, ư thế danh lợi bất tham nhiễm, nhược chư trí giả thiện hành thử, bỉ nhập vô thượng thâm diệu Thiền.

()勇猛精進得菩提於世名利不貪染。若諸智者善行此彼入無上深妙禪

(Kinh: Dũng mãnh tinh tấn đắc Bồ Đề, chẳng tham đắm danh lợi thế gian, nếu bậc trí khéo hành pháp này, sẽ nhập vô thượng thâm diệu Thiền).

Vẫn là không ngừng nêu ra chẳng nhiễm, chẳng chấp, đoạn trừ Hậu Hữu, duy trì bi trí, tiếp tục truyền pháp, tiếp tục hành pháp, nhưng chẳng trụ trong nghiệp tướng liên tục. Chúng ta thấy trọng điểm được tuyên nói trong mười pháp và tám pháp ấy chính là trừ kiêu mạn, lìa ghen tỵ, chẳng cầu được báo đền, chẳng đắm nhiễm trong các Hữu, thủ hộ Vô Thượng Bồ Đề, nhưng chẳng tham thế gian, đã lựa chọn Vô Thượng Bồ Đề, đừng tham pháp khác, chẳng hành pháp khác v.v…

17. Phẩm thứ mười bốn: Bất Cộng Công Đức

Trong phẩm này, đức Thế Tôn tán thán pháp tắc mười tám môn Bất Cộng và Thập Lực của chư Phật Như Lai, khuyên Bồ Tát tấn tu pháp này, thành tựu Bồ Đề. Nếu giải thích chi tiết các danh tướng trong phẩm này, lời giải thích sẽ có phân lượng hết sức lớn, cho nên ở đây chúng ta hãy cùng đọc.

(Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần Bất Cộng Công Đức phẩm đệ thập tứ.

Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: – Hiền Hộ! Bỉ chư Bồ Tát Ma Ha Tát, phục đương thành tựu thập bát bất cộng pháp.

()大方等大集賢護分不共功德品第十四。

爾時世尊復告賢護菩薩摩訶薩言賢護彼諸菩薩摩訶薩復當成就十八不共法。

(Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần. Phẩm thứ mười bốn: Công Đức Bất Cộng.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: – Này Hiền Hộ! Các vị Bồ Tát Ma  Ha  Tát  ấy  lại  nên  thành  tựu mười tám pháp bất cộng).

Mười tám pháp bất cộng được viên thành khi chư Phật Thế Tôn trọn đủ mười hiệu.

(Kinh) Hà đẳng danh vi bất cộng pháp dã? Sở vị Như Lai sơ thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nãi chí bát Niết Bàn, ư kỳ trung gian, Như Lai sở hữu tam nghiệp, trí huệ vi thủ. Nhất thiết thân nghiệp tùy trí huệ hành. Nhất thiết khẩu nghiệp tùy trí huệ hành. Nhất thiết ý nghiệp tùy trí huệ hành. Hựu chư Như Lai tri kiến quá khứ vô hữu chướng ngại, tri kiến vị lai vô hữu chướng ngại, tri kiến hiện tại vô hữu chướng ngại. Hựu chư Như Lai sở vi vô hữu thác mậu, ngôn vô lậu thất, ý vô vọng niệm, vô biệt dị tưởng, thường tại tam-muội, vô bất tri dĩ xả. Hựu chư Như Lai ý dục vô giảm, tinh tấn vô giảm, Thiền Định vô giảm, trí huệ vô giảm, giải thoát vô giảm, giải thoát tri kiến vô giảm.

()何等名爲不共法也所謂如來初成阿耨多羅三藐三菩提乃至般涅槃於其中間如來所有三業智慧爲首。一切身業隨智慧行。一切口業隨智慧行。一切意業隨智慧行。又諸如來知見過去無有障礙知見未來無有障礙知見現在無有障礙。又諸如來所爲無有錯謬言無漏失意無妄念無別異想常在三昧無不知已舍。又諸如來意欲無減精進無減禪定無減智慧無減解脫無減解脫知見無減。

(Kinh: Những gì là pháp bất cộng? Chính là Như Lai khi mới thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cho đến lúc nhập Niết Bàn, trong khoảng ấy, tất cả tam nghiệp của Như Lai, trí huệ làm đầu. Hết thảy thân nghiệp thuận theo trí huệ mà hành xử. Hết thảy khẩu nghiệp thuận theo trí huệ mà hành xử. Hết thảy ý nghiệp thuận theo trí huệ mà hành xử. Lại nữa, các đức Như Lai thấy biết quá khứ chẳng có chướng ngại, thấy biết vị lai chẳng có chướng ngại, thấy biết hiện tại chẳng có chướng ngại. Lại nữa, việc làm của các đức Như Lai chẳng sai lầm, lời lẽ chẳng sai sót, ý chẳng có vọng niệm, chẳng nghĩ điều gì khác lạ, thường ở trong tam-muội, không điều gì đã biết mà chẳng xả. Lại nữa, các đức Như Lai ý dục chẳng giảm, tinh tấn chẳng giảm, Thiền Định chẳng giảm, trí huệ chẳng  giảm, giải  thoát  chẳng  giảm, giải  thoát  tri kiến chẳng giảm).

Biết quá khứ, hiện tại, vị lai chẳng chướng ngại, thật sự là do Thiên Nhãn Minh, Túc Mạng Minh, và Lậu Tận Minh mà có thể biết thấu triệt. Nay chúng ta nói “vô chướng ngại” tức là đối với nghe nói và suy luận, do phàm phu hữu tình chúng ta thủ hộ phân lượng hữu hạn, cho nên phần nhiều đối với sự hay biết thì bất quá lắng nghe cũng là chẳng thể nghĩ bàn, vì có phương tiện để tu tập hòng tiến nhập. Nếu thật sự đạt được vô ngại lực, sẽ sư tử hống, đối với pháp vô úy, đối với hành vô úy, đối với sự vô úy. Vì thế, Lý vô ngại, Sự vô ngại, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, có thể thật sự tự tại vô ngại!

“Ngôn vô lậu thất, ý vô vọng niệm, vô biệt dị tưởng” (Lời lẽ chẳng sai sót, ý chẳng có vọng niệm, không nghĩ gì khác lạ), khác hẳn hết thảy phàm phu ăn nói sơ sót, ý niệm vọng tưởng, thậm chí đủ loại suy tưởng khác lạ. “Thường tại tam-muội” (Thường ở trong tam-muội): Hết thảy chư Phật Như Lai Thế Tôn chẳng ra khỏi tam-muội, dùng sức tự tại an ủi thế gian.

“Vô bất tri dĩ xả” tức là tuy biết nhưng đều xả (chẳng chấp trước điều mình hiểu biết). Bọn phàm phu hữu tình chúng ta phần nhiều bị vô minh và vô tri che lấp, chẳng nói tới “xả” được! Chỉ có bậc tròn đủ đức ấy, hiểu rõ chuyện ấy thì mới có thể nói đến Xả. Giống như chúng ta có một món đồ thì mới có thể nói đến xả. Nếu chẳng có đức như thế, chẳng có nhân duyên như thế, sao có thể nói đến xả cho được? Chư Phật Như Lai đã đích thân chứng hết thảy pháp tắc tự tại, cho nên các Ngài có thể đối với những gì đã biết, không gì chẳng xả!

“Hựu chư Như Lai ý dục vô giảm, tinh tấn vô giảm, Thiền Định vô giảm, trí huệ vô giảm, giải thoát vô giảm, giải thoát tri kiến vô giảm” (Lại chư Như Lai ý dục chẳng giảm, tinh tấn chẳng giảm, Thiền Định chẳng giảm, trí huệ chẳng giảm, giải thoát chẳng giảm, giải thoát tri kiến chẳng giảm), chúng ta thường nói Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Nếu dùng Đẳng Chánh Giác để giải thích “vô giảm” thì khá chuẩn xác. Nếu nói cặn kẽ hơn, sẽ khá rườm rà!

(Kinh) Hiền Hộ! Thị vi Như Lai thập bát bất cộng pháp, bỉ Bồ Tát Ma Ha Tát đương ưng tu tập cụ túc thành mãn.

()賢護是爲如來十八不共法彼菩薩摩訶薩當應修習具足成滿。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Đó là mười tám pháp bất cộng của Như Lai, các vị Bồ Tát Ma Ha Tát ấy hãy nên tu tập trọn đủ, thành tựu viên mãn).

Trước hết, tán thán mười tám món bất cộng thiện xảo của Như Lai, sau đó là khuyên các Bồ Tát tấn tu pháp này.

(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Nhược Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu cụ túc thậm thâm nan kiến nhiếp thọ chánh pháp, tức dục tuyên thuyết thị tam-muội giả, ưng đương cánh thọ thập chủng thắng pháp.

()復次賢護若菩薩摩訶薩成就具足甚深難見攝受正法即欲宣說是三昧者應當更受十種勝法。

(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu trọn đủ nhiếp thọ chánh pháp rất sâu khó thấy, nếu muốn tuyên nói tam-muội này, hãy nên thọ thêm mười thứ pháp thù thắng).

Trước tiên là nói về mười tám món bất cộng, sau đó nói đến Thập Lực và bốn món vô úy, dần dần sẽ nói. Vì sao hướng dẫn chúng ta thâm nhập dần dần? Nếu chứng đắc tam-muội, tất nhiên chúng ta sẽ huân tập mười tám món bất cộng và pháp Thập Lực. Nếu chẳng có sức tam-muội, sẽ chỉ là nghe danh tự, chúng ta vẫn chẳng có sức để dính líu được!

(Kinh) Hà đẳng vi thập? Sở vị Như Lai Thập Lực. Vân hà Thập Lực? Hiền Hộ! Thị trung, Như Lai thị xứ phi xứ lực giả, Như Lai ư chư xứ phi xứ sự, năng dĩ chánh trí như thật tri cố. Hiền Hộ! Như thị xứ phi xứ sự, Như Lai năng dĩ chánh trí như thật tri giả. Thử tắc Như Lai xứ phi xứ lực. Như Lai đắc thử lực dĩ, tri chân thật xứ, ư đại chúng trung, tác sư tử hống, chuyển đại phạm luân, tích sở vị chuyển. Nhược hữu sa-môn, Bà La Môn, nhược thiên, nhược Phạm, nhược ma, nhược nhân, nhất thiết thế gian, chung vô hữu năng như thị chuyển giả. Hiền Hộ! Thị vi Như Lai đệ nhất trí lực. Bồ Tát Ma Ha Tát ưng đương tu học cụ túc thành mãn. 

()何等爲十所謂如來十力。云何十力賢護是中如來是處非處力者如來於諸處非處事能以正智如實知故。賢護如是處非處事如來能以正智如實知者。此則如來處非處力。如來得此力已知真實處於大衆中作師子吼轉大梵輪昔所未轉。若有沙門婆羅門若天若梵若魔若人一切世間終無有能如是轉者。賢護是爲如來第一智力。菩薩摩訶薩應當修學具足成滿。

(Kinh: Những gì là mười? Nói đến Thập Lực của Như Lai. Thập Lực là gì? Này Hiền Hộ! Trong ấy, thị xứ phi xứ lực của Như Lai là Như Lai đối với các chuyện thị xứ và phi xứ, có thể dùng chánh trí để biết như thật. Này Hiền Hộ! Đối với chuyện thị xứ hay phi xứ như thế, Như Lai có thể dùng chánh trí để biết như thật. Đấy chính là xứ phi xứ lực của Như Lai. Như Lai đã đạt được sức này, biết chỗ chân thật, ở trong đại chúng, hiện sư tử hống, chuyển đại phạm luân trước kia chưa chuyển. Nếu có Sa-môn, Bà La Môn, hoặc trời, hoặc rồng, hoặc Phạm Vương, hoặc ma, hoặc người, hết thảy thế gian trọn không có ai có thể chuyển như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ nhất của Như Lai, Bồ Tát Ma Ha Tát hãy nên tu học trọn đủ, thành tựu viên mãn).

“Như Lai xứ phi xứ lực”: Trong thế gian này, chúng ta đối với mọi chuyện nhận biết là đương cơ hay chẳng phải đương cơ, là tương ứng hay chẳng tương ứng, đều chẳng thể sanh ra sức chân thật[6], nhưng chư Phật Như Lai đối với điều này chẳng bị chướng ngại. “Chuyển đại phạm luân, tích sở vị chuyển” (Chuyển đại phạm luân trước kia chưa chuyển): Tức là [tuyên nói] pháp chưa từng có. Hết thảy chư Phật Như Lai xuất thế đều tuyên nói rộng rãi, đều là [các pháp] chưa từng có. Tuy tâm ấn của chư Phật Như Lai đã truyền lại chưa hề khác biệt, nhưng các giáo pháp được nói ra đều là pháp chưa từng có.

“Nhược hữu sa-môn, Bà La Môn, nhược thiên, nhược Phạm, nhược ma, nhược nhân, nhất thiết thế gian, chung vô hữu năng như thị chuyển giả” (Nếu có sa-môn, Bà La Môn, hoặc trời, hoặc Phạm Vương, hoặc ma, hoặc người, hết thảy thế gian, trọn chẳng có ai có thể chuyển như thế): Vì sao đặt Ma trước người? Chúng ta thường cho rằng nhân loại chắc là tốt đẹp hơn Ma đôi chút, nhưng con người trước khi thoát khỏi sanh tử, phần nhiều là quyến thuộc của ma, bị tử ma, thiên ma, phiền não ma v.v… đủ loại ma quấy rối, gây khó khăn, bị chúng nó sai khiến, trở thành nô dịch. Do vậy, đặt Ma lên trước, người ở sau. Đối với chuyện này, chớ nên sợ hãi, vì chúng ta được gặp Phật pháp, đối với ma pháp lẫn ma cảnh đều chẳng sợ hãi. Vì sao vậy? Do có giáo ngôn oai đức của Phật. “Bồ Tát Ma Ha Tát ưng đương tu học cụ túc thành mãn” (Bồ Tát Ma Ha Tát phải nên tu học thành tựu, viên mãn trọn đủ): Trước là tán thán, sau là khuyên tấn tu.

(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Thị trung, Như Lai nhất thiết chí xứ đạo lực giả, Như Lai ư nhất thiết xứ đạo sai biệt, giai dĩ chánh trí như thật tri cố. Hiền Hộ! Như thị nhất thiết chí xứ đạo sự, Như Lai năng dĩ chánh trí như thật tri giả. Thử tắc Như Lai chí xứ đạo lực dã. Như Lai đắc thử lực dĩ, tri chân thật xứ, ư đại chúng trung, tác sư tử hống, chuyển đại phạm luân, tích sở vị chuyển. Nhược chư thế gian, sa-môn, Bà La Môn, nhược thiên, nhược Phạm, nhược ma, nhược nhân, chung vô hữu năng như thị chuyển giả. Hiền Hộ! Thị vi Như Lai đệ nhị trí lực, Bồ Tát Ma Ha Tát ưng đương tu học cụ túc thành mãn.

()復次賢護是中如來一切至處道力者如來於一切處道差別皆以正智如實知故。賢護如是一切至處道事如來能以正智如實知者。此則如來至處道力也。如來得此力已知真實處於大衆中作師子吼轉大梵輪昔所未轉。若諸世間沙門婆羅門若天若梵若魔若人終無有能如是轉者。賢護是爲如來第二智力菩薩摩訶薩應當修學具足成滿。         

(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Trong ấy, nhất thiết chí xứ đạo lực (sức đến hết thảy các chỗ, các đường) của Như Lai là Như Lai trong hết thảy các chốn, các đường sai biệt, đều dùng chánh trí như thật mà biết. Này Hiền Hộ! Đối với chuyện tới hết thảy các chốn, các đường như thế, Như Lai có thể dùng chánh trí để biết như thật. Đó chính là “chí xứ đạo lực” của Như Lai. Như Lai đã đạt được sức ấy, biết chỗ chân thật, ở trong đại chúng, hiện sư tử hống, chuyển đại phạm luân xưa kia chưa chuyển, dù các sa-môn, Bà La Môn, hoặc trời, hoặc Phạm Vương, hoặc ma, hoặc người trong các thế gian, trọn chẳng có ai có thể chuyển như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ hai của Như Lai, Bồ Tát Ma Ha Tát hãy nên tu học, thành tựu viên mãn trọn đủ).

“Như Lai đắc thử lực dĩ, tri chân thật xứ” (Như Lai đạt được sức này rồi, biết chỗ chân thật): “Đắc” là như thật vận dụng, như thật thành tựu. Hiện thời, chúng ta là hữu tình không có sức tu trì trong thời Mạt Pháp, mạng người ngắn ngủi, phước đức mỏng ít, nghe pháp còn chẳng kịp, càng chẳng nói có sức hành pháp. Nhưng nói “thời đại này không có sức hành pháp” hoàn toàn chẳng phải là nói “chúng ta không thể hành pháp, không thể chứng Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, hoặc là mười tám pháp bất cộng cho đến Thập Lực đều chẳng thể chứng”, mà là nói: Trong thời đại này, người có đủ nhân duyên ấy mười phần hiếm hoi. Cho đến người nghe nói pháp này rất thưa thớt. Chúng ta thấy trong thế tục, hữu tình lặn hụp trong nghiệp và nghiệp duyên, chôn vùi trong nghiệp và nghiệp duyên, đúng là nhướng mắt nhìn, đâu đâu cũng có. Còn kẻ gặp gỡ Phật pháp hiếm thấy, khó gặp! Đối với pháp Ban Châu, hữu tình trong thời Mạt Pháp như thế mà còn có thể thành tựu pháp. Trên thực tế, [Ban Châu] là một pháp nhanh chóng, cắt đứt theo chiều ngang, vượt khỏi [tam giới] theo chiều ngang, lập tức huân tu, lập tức lựa chọn. Nếu một niệm có thể lựa chọn thật sự tương ứng, do [tương ứng] liên tục, bèn đạt được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn, cho đến Thập Lực, cho đến mười tám bất cộng lực, đều có cơ hội tương ứng khế nhập, bởi cơ duyên ấy mạnh mẽ, nhạy bén!

Rất nhiều pháp tu khi con người thọ tám vạn tuổi, sáu vạn tuổi, hay bốn vạn tuổi thì vẫn rất dễ tu, nhưng hiện thời con người thọ một trăm tuổi, thậm chí chưa đến trăm tuổi, phước đức và thọ mạng của chúng ta đều quả thật quá kém cỏi, chỉ trong phút chốc sanh mạng đã tận. Trong khoảng vừa đặt chân, phước huệ đã hao sạch. Nhưng tuổi thọ con người càng ngày càng ngắn, tánh cảnh giác của chính mình lại càng chẳng đủ, càng dễ dàng trơ lì. Khi con người thọ tám vạn bốn ngàn năm, nhân loại tôn trọng sanh mạng, phước đức trọn đủ, sống trọn thọ mạng tám vạn năm. Trong khoảng đó, chẳng nẩy sanh vấn đề, chỉ có ba thứ bệnh là ăn uống, tiêu tiểu, và tử vong; còn chúng ta trong đời này có bao nhiêu bệnh nạn? Có bao nhiêu chướng ngại? Khi tuổi thọ của chúng ta là một trăm năm, coi ăn uống là vui sướng; còn khi thọ mạng hơi dài lâu hơn, ăn uống và tiêu tiểu trên thực tế đều bị coi là bệnh tật. Chúng ta bị nhiều nỗi khốn khó vì hai pháp cơm áo. Do vậy, hành pháp thì phải giảm thiểu áo cơm, ba bữa giảm thành một bữa để tiện hành đạo. Nếu trong thế tục, rất nhiều thời gian bị lãng phí trong ba bữa cơm mỗi ngày. Nhất là nói theo phía người Hoa vốn coi trọng ẩm thực, lãng phí sanh mạng và thời gian quá lớn! Không chỉ có ẩm thực, mà còn phải tiêu hóa. Cơ thể còn phải chịu đựng gánh nặng khi tiêu hóa. Sau gánh nặng ấy, còn phải bài tiết. Đó quả thật là duyên gây chướng nạn; nhưng hiện thời chúng ta vẫn hưởng thụ! Trong thế tục, thường có kẻ nói: “Tu Phật pháp làm gì chớ? Không ăn thứ này, lại chẳng uống thứ kia, có ý nghĩa chi đâu?” Thực tế là đang ở trong bệnh tật mà cứ  coi  là  vui, chuyện  này  đáng  bị người có trí nhạo báng!

(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Thị trung, Như Lai thế gian chủng chủng giới lực giả, Như Lai ư thế gian chủng chủng chư giới vô lượng sai biệt, năng dĩ chánh trí như thật tri cố. Hiền Hộ! Như thị thế gian chủng chủng giới sự, Như Lai giai dĩ chánh trí như thật tri giả. Thử tắc Như Lai thế gian giới lực dã. Như Lai đắc thử lực dĩ, tri chân thật xứ. Ư đại chúng trung, tác sư tử hống, chuyển đại phạm luân, tích sở vị chuyển. Nhược chư thế gian, sa-môn, Bà La Môn, nhược thiên, nhược Phạm, nhược ma, nhược nhân, chung vô hữu năng như tư chuyển giả. Hiền Hộ! Thị vi Như Lai đệ tam trí lực, Bồ Tát Ma Ha Tát ưng đương tu học cụ túc thành mãn.

()復次賢護是中如來世間種種界力者如來於世間種種諸界無量差別能以正智如實知故。賢護如是世間種種界事如來皆以正智如實知者。此則如來世間界力也。如來得此力已知真實處。於大衆中作師子吼轉大梵輪昔所未轉。若諸世間沙門婆羅門若天若梵若魔若人終無有能如斯轉者。賢護是爲如來第三智力菩薩摩訶薩應當修學具足成滿。

(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Trong ấy, “sức biết các thứ giới trong thế gian của Như Lai” là Như Lai đối với các thứ giới vô lượng sai biệt trong thế gian, có thể dùng chánh tri để biết chân thật. Này Hiền Hộ! Đối với các chuyện thuộc về các giới trong thế gian như thế, đức Như Lai đều dùng chánh trí để biết như thật. Đó chính là thế gian giới lực của Như Lai. Như Lai đã đạt được sức ấy rồi, biết chỗ chân thật. Ở trong đại chúng, hiện sư tử hống, chuyển đại phạm luân mà trước kia chưa chuyển. Dù sa-môn, Bà La Môn, hoặc trời, hoặc Phạm Vương, hoặc ma, hoặc người trong các thế gian, trọn chẳng có ai có thể chuyển như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ ba của Như Lai, Bồ Tát Ma Ha Tát hãy nên tu học thành tựu viên mãn trọn đủ).

Không ngừng tán thán Phật, khuyên tu như thế.

(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Thị trung, Như Lai tâm hạnh lực giả, Như Lai ư chư chúng sanh chủng chủng tâm hạnh, vô lượng sai biệt, giai dĩ chánh trí như thật tri cố. Hiền Hộ! Như thị chúng sanh chủng chủng tâm hạnh vô lượng sai biệt, Như Lai năng dĩ chánh trí như thật tri giả. Thử tắc Như Lai tri tâm hạnh lực dã. Như Lai đắc thử lực dã, tri chân thật xứ, ư đại chúng trung, tác sư tử hống, chuyển đại phạm luân, tích sở vị chuyển. Nhược chư thế gian, sa-môn, Bà La Môn, nhược thiên, nhược Phạm, nhược ma, nhược nhân, chung vô hữu năng như thị chuyển giả. Hiền Hộ! Thị vi Như Lai đệ tứ trí lực, Bồ Tát Ma Ha Tát ưng đương tu học cụ túc thành mãn.

()復次賢護是中如來心行力者如來於諸衆生種種心行無量差別皆以正智如實知故。賢護如是衆生種種心行無量差別如來能以正智如實知者。此則如來知心行力也。如來得此力已知真實處於大衆中作師子吼轉大梵輪昔所未轉。若諸世間沙門婆羅門若天若梵若魔若人終無有能如是轉者。賢護是爲如來第四智力菩薩摩訶薩應當修學具足成滿。

(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Trong ấy, sức tâm hạnh của Như Lai là Như Lai đối với các thứ tâm hạnh vô lượng sai biệt của các chúng sanh, đều dùng chánh trí để biết như thật. Này Hiền Hộ! Đối với các tâm hạnh vô lượng sai biệt của chúng sanh như thế, Như Lai có thể dùng chánh trí để biết như thật. Đó chính là sức biết tâm hạnh của Như Lai. Như Lai đạt được sức ấy rồi, biết chỗ chân thật, ở trong đại chúng, hiện sư tử hống, chuyển đại phạm luân trước kia chưa chuyển. Dù là sa-môn, Bà La Môn, hoặc trời, hoặc Phạm Vương, hoặc ma, hoặc người trong các thế gian, trọn chẳng có ai có thể chuyển như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ tư của Như Lai, Bồ Tát Ma Ha Tát hãy nên tu học thành tựu viên mãn trọn đủ).

Cũng giống như thế, cách thức hành văn trong phần Thập Lực này giống như nhau: Không ngừng tán thán Phật, khuyên tu, rồi lại tán thán Phật, khuyên tu.

(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Như Lai tri chúng sanh chư căn sai biệt lực giả, Như Lai ư chúng sanh chư căn chủng chủng sai biệt, giai dĩ chánh trí như thật tri cố. Hiền Hộ! Như thị chúng sanh chư căn chủng chủng sai biệt, Như Lai giai dĩ chánh trí như thật tri giả. Thị tắc Như Lai chư căn sai biệt lực dã. Như Lai đắc thử lực dĩ, tri chân thật xứ. Ư đại chúng trung, tác sư tử hống, chuyển đại phạm luân, tích sở vị chuyển. Nhược chư thế gian sa-môn, Bà La Môn, nhược thiên, nhược Phạm, nhược ma, nhược nhân, chung vô hữu năng như thị chuyển giả. Hiền Hộ! Thị vi Như Lai đệ ngũ trí lực, Bồ Tát Ma Ha Tát ưng đương tu học cụ túc thành mãn. Phục thứ Hiền Hộ! Thị trung, Như Lai Thiền Định lực giả, Như Lai ư nhất thiết Thiền Định giải thoát tam-muội, sanh khởi phiền não, cập dĩ diệt trừ, tư dĩ chánh trí như thật tri cố. Hiền Hộ! Như thị nhất thiết Thiền Định giải thoát tam-ma-bạt-đề sanh khởi phiền não, nãi chí thanh tịnh, Như Lai giai dĩ chánh trí như thật tri giả. Thị tắc Như Lai Thiền Định lực dã. Như Lai đắc thử lực dĩ, tri chân chánh xứ. Ư đại chúng trung, tác sư tử hống, chuyển đại phạm luân, tiên sở vị chuyển. Nhược bỉ thế gian, sa-môn, Bà La Môn, nhược thiên, nhược Phạm, nhược ma, nhược nhân, chung vô hữu năng như thị chuyển giả. Hiền Hộ! Thị vi Như Lai đệ lục trí lực, Bồ Tát Ma Ha Tát, ưng đương tu học, cụ túc thành mãn. Phục thứ, Hiền Hộ! Như Lai nghiệp lực giả, Như Lai ư bỉ nhất thiết chư nghiệp chủng chủng sai biệt, cập bỉ vị lai hòa hợp đắc báo, diệc vô lượng sai biệt. Như Lai tư dĩ chánh trí như thật tri cố. Hiền Hộ! Như thị chư nghiệp chủng chủng sai biệt, vị lai đắc quả diệc phục sai biệt, Như Lai giai dĩ chánh trí, như thật tri giả. Tư tắc Như Lai tri nghiệp lực dã. Như Lai đắc dĩ, tri chân thật xứ. Ư đại chúng trung, tác sư tử hống, chuyển đại phạm luân tiên sở vị chuyển. Nhược bỉ thế gian, nhược sa-môn, Bà La Môn, nhược thiên, nhược Phạm, nhược ma, nhược nhân, chung vô hữu năng như tư chuyển giả. Hiền Hộ! Thị vi Như Lai đệ thất nghiệp lực, Bồ Tát Ma Ha Tát, ưng đương tu học, cụ túc thành mãn. Phục thứ Hiền Hộ! Như Lai thiên nhãn lực giả, Như Lai thường dĩ thanh tịnh thiên nhãn, quá ư nhân nhãn, kiến bỉ vị lai chư chúng sanh bối, tử thử, sanh bỉ, kỳ sở thọ thân, hoặc mỹ, hoặc xú, hoặc thiện, hoặc ác, sở đắc chư sắc, hoặc hảo, hoặc ác, hoặc diệu, hoặc thô, hoặc sanh thiện đạo, hoặc sanh ác thú. Hựu kiến chúng sanh sở tác chư nghiệp, hoặc thiện, hoặc ác. Hữu chư chúng sanh, cụ thân ác nghiệp, cụ khẩu ác nghiệp, cụ ý ác nghiệp, ha mạ thánh nhân, phỉ báng chánh pháp, hoại hòa hợp Tăng. Cụ túc như thị chư ác nghiệp cố, thân hoại, mạng chung, sanh ư ác đạo. Hựu chư chúng sanh cụ thân thiện nghiệp, cụ khẩu thiện nghiệp, cụ ý thiện nghiệp, cung kính thánh nhân, tôn trọng chánh pháp, cúng dường chúng Tăng. Cụ hành như thị chư thiện nghiệp cố, mạng chung đắc sanh nhân thiên thiện thú. Như thị đẳng sự, giai như thật tri. Hiền Hộ! Như Lai dĩ tịnh thiên nhãn, kiến chư chúng sanh, tử thử, sanh bỉ, nãi chí mạng chung, sanh ư thiên thượng. Thị tắc Như Lai sanh tử trí lực. Đắc thị lực dĩ, tri chân thật xứ. Ư đại chúng trung, tác sư tử hống, chuyển đại phạm luân, tích sở vị chuyển. Nhược bỉ thế gian, nhược sa-môn, Bà La Môn, nhược thiên, nhược Phạm, nhược ma, nhược nhân, chung vô hữu năng nhược tư chuyển giả. Hiền Hộ! Thị vi Như Lai đệ bát trí lực, Bồ Tát Ma Ha Tát ưng đương tu học, cụ túc thành mãn.

()復次賢護如來知衆生諸根差別力者如來於衆生諸根種種差別皆以正智如實知故。賢護如是衆生諸根種種差別如來皆以正智如實知者。是則如來諸根差別力也。如來得此力已知真實處。於大衆中作師子吼轉大梵輪昔所未轉。若諸世間沙門婆羅門若天若梵若魔若人終無有能如是轉者。賢護是爲如來第五智力菩薩摩訶薩應當修學具足成滿。復次賢護是中如來禪定力者如來於一切禪定解脫三昧生起煩惱及以滅除斯以正智如實知故。賢護如是一切禪定解脫三摩跋提生起煩惱乃至清淨。如來皆以正智如實知者。是則如來禪定力也。如來得此力已知真正處。於大衆中作師子吼轉大梵輪先所未轉。若彼世間沙門婆羅門若天若梵若魔若人終無有能如是轉者。賢護是爲如來第六智力菩薩摩訶薩應當修學具足成滿。復次賢護如來業力者如來於彼一切諸業種種差別及彼未來和合得報亦無量差別。如來斯以正智如實知故。賢護如是諸業種種差別未來得果亦復差別如來皆以正智如實知者。斯則如來知業力也。如來得已知真實處。於大衆中作師子吼轉大梵輪先所未轉。若彼世間若沙門婆羅門若天若梵若魔若人終無有能如斯轉者。賢護是爲如來第七業力菩薩摩訶薩應當修學具足成滿。復次賢護如來天眼力者如來常以清淨天眼過於人眼。見彼未來諸衆生輩死此生彼。其所受身或美或醜或善或惡。所得諸色或好或惡或妙或粗或生善道或生惡趣。又見衆生所作諸業或善或惡。有諸衆生具身惡業具口惡業具意惡業訶罵聖人誹謗正法壞和合僧具足如是諸惡業故身壞命終生於惡道。又諸衆生具身善業具口善業具意善業恭敬聖人尊重正法供養衆僧。具行如是諸善業故命終得生人天善趣如是等事皆如實知。賢護如來以淨天眼見諸衆生死此生彼乃至命終生於天上。是則如來生死智力。得是力已知真實處。於大衆中作師子吼轉大梵輪昔所未轉。若彼世間若沙門婆羅門若天若梵若魔若人終無有能若斯轉者。賢護是爲如來第八智力菩薩摩訶薩應當修學具足成滿。

(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Sức “chúng sanh có biết các căn sai biệt” của Như Lai là Như Lai đối với các loại căn sai biệt của chúng sanh, đều dùng chánh trí để biết như thật. Này Hiền Hộ! Đối với các thứ căn sai biệt của chúng sanh như thế, Như Lai đều dùng chánh trí để biết như thật. Đấy chính là chư căn sai biệt lực (sức biết các căn sai khác) của Như Lai. Như Lai đã đắc sức ấy rồi, biết chỗ chân thật. Ở trong đại chúng, hiện sư tử hống, chuyển đại phạm luân xưa kia chưa chuyển. Dù sa-môn, Bà La Môn, hoặc trời, hoặc Phạm Vương, hoặc ma, hoặc người trong các thế gian, trọn chẳng có ai có thể chuyển như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ năm của Như Lai, Bồ Tát Ma Ha Tát hãy nên tu học thành tựu viên mãn trọn đủ.

Lại này Hiền Hộ! Trong ấy, sức Thiền Định của Như Lai là Như Lai đối với hết thảy Thiền Định, giải thoát tam-muội, sanh khởi phiền não, cùng với diệt trừ, đều dùng chánh trí để biết như thật. Này Hiền Hộ! Đối với hết thảy Thiền Định giải thoát, tam-ma-bạt-đề sanh khởi phiền não, cho đến thanh tịnh như thế, Như Lai đều dùng chánh trí để biết như thật. Đấy chính là Thiền Định lực của Như Lai. Như Lai đã đắc sức ấy rồi, biết chỗ chân chánh. Ở trong đại chúng, hiện sư tử hống, chuyển đại phạm luân trước kia chưa chuyển. Dù sa-môn, Bà La Môn, hoặc trời, hoặc Phạm Vương, hoặc ma, hoặc người trong các thế gian, trọn chẳng có ai có thể chuyển như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ sáu của Như Lai, Bồ Tát Ma Ha Tát hãy nên tu học thành tựu viên mãn trọn đủ.

Lại này Hiền Hộ! Nghiệp lực của Như Lai là Như Lai đối  với  hết thảy các thứ nghiệp sai biệt, và các quả báo do hòa hợp mà đạt được trong vị lai, cũng là vô lượng sai biệt, Như Lai đều dùng chánh trí để biết như thật. Này Hiền Hộ! Do các thứ nghiệp sai biệt như thế, đạt được cái quả trong vị lai cũng sai biệt, Như Lai đều dùng chánh trí để biết như thật. Đấy chính là sức biết nghiệp của Như Lai. Như Lai đã đạt được, biết chỗ chân thật. Ở trong đại chúng, hiện sư tử hống, chuyển đại phạm luân trước kia chưa chuyển. Dẫu cho sa-môn, Bà La Môn, hoặc trời, hoặc Phạm Vương, hoặc ma, hoặc người trong các thế gian, trọn chẳng có ai có thể chuyển như thế. Này Hiền Hộ! Đó là nghiệp lực thứ bảy của Như Lai, Bồ Tát Ma Ha Tát hãy nên tu học thành tựu viên mãn trọn đủ.

Lại này Hiền Hộ! Thiên nhãn lực của Như Lai là Như Lai thường dùng thiên nhãn thanh tịnh vượt xa mắt của loài người, thấy các loại chúng sanh trong vị lai chết đây, sanh kia, họ thọ thân hoặc đẹp, hoặc xấu, hoặc thiện, hoặc ác, đạt được các sắc, hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc mầu nhiệm, hoặc thô kệch, hoặc sanh vào đường lành, hoặc sanh trong nẻo ác. Lại thấy chúng sanh tạo tác các nghiệp hoặc thiện, hoặc ác. Có các chúng sanh trọn đủ ác nghiệp nơi thân, trọn đủ ác nghiệp nơi miệng, trọn đủ ác nghiệp nơi ý, chửi rủa thánh nhân, phỉ báng chánh pháp, phá hoại hòa hợp Tăng. Do đầy đủ các ác nghiệp như thế, thân hư, mạng hết, sanh vào đường ác. Lại có các chúng sanh trọn đủ thiện nghiệp nơi thân, trọn đủ thiện nghiệp nơi miệng, trọn đủ thiện nghiệp nơi ý, cung kính thánh nhân, tôn trọng chánh pháp, cúng dường chúng Tăng. Do hành trọn đủ các thiện nghiệp như thế, mạng chung được sanh vào đường lành trời, người. Các chuyện như thế, đều biết như thật. Này Hiền Hộ! Như Lai dùng thiên nhãn thanh tịnh, thấy các chúng sanh chết đây, sanh kia, cho đến mạng chung, sanh lên cõi trời. Đấy chính là sanh tử trí lực của Như Lai. Đã đạt được sức ấy rồi, sẽ biết chỗ chân thật. Ở trong đại chúng, hiện sư tử hống, chuyển đại phạm luân, xưa kia chưa chuyển. Dẫu cho các thế gian, hoặc sa-môn, Bà La Môn, hoặc trời, hoặc Phạm Vương, hoặc ma, hoặc người, trọn chẳng có ai có thể chuyển như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ tám của Như Lai, Bồ Tát Ma Ha Tát hãy nên tu học thành tựu viên mãn trọn đủ).

Chư Phật Như Lai phần nhiều thọ ký cho các chúng sanh hữu duyên. Vì sao thọ ký? Do thấy bằng Thiên Nhãn, trông thấy chân thật, chẳng phải là hư giả lập ra, chẳng phải là tự tạo. Đối với chuyện “chết đây, sanh kia; mất nơi này, hiện ra nơi khác” đều biết rõ  rành  rẽ, chẳng hề lẫn lộn. Đó là sức thiên nhãn.

[1] Hộc là tên một loài chim, thuộc họ Thiên Nga, bay rất cao, cổ dài, sắc trắng muốt.

[2] Theo Tăng Nhất A Hàm Kinh, Kim Cang Tế chính là nền tảng của đại địa. Một thế giới được hình thành trong hư không (gọi là hư không luân), trên hư không luân có phong luân. Trên phong luân có thủy luân, trên thủy luân có địa luân. Nền tảng của địa luân được gọi là Kim Cang Tế.

[3] Tứ Phần Luật (Dharmagupta-Vinaya) là Luật Tạng theo Pháp Tạng Bộ, còn gọi là Đàm Vô Đức Luật, hay Tứ Phần Luật Tạng. Bộ luật này gồm sáu mươi quyển, do ngài Ưu Ba Quật Đa truyền thừa. Đàm Vô Đức là phiên âm của Dharmagupta (Pháp Tạng Bộ). Gọi là Tứ Phần Luật vì gồm có bốn phần: 21 quyển đầu là giới tỳ-kheo, 16 quyển kế tiếp là giới tỳ-kheo-ni, phần thứ ba gồm các kiền độ (khandhaka) thuộc về pháp tắc an cư, tự tứ v.v… gồm 12 quyển, phần cuối cùng là các quy tắc về phòng xá, cũng như các điều lặt vặt khác. Theo cách lý giải truyền thống, bộ luật này được kết tập khi tôn giả Ưu Ba Ly trùng tụng giới luật tám mươi lần, giao cho Ca Diếp, A Nan, rồi truyền cho các vị Thương Na Hòa Tu, Mạt Điền Địa, Ưu Ba Quật Đa v.v… Do thoạt đầu chỉ là ghi nhớ truyền khẩu, bộ luật này về sau được ghi thành văn bản bởi bộ phái Pháp Tạng Bộ, cho nên được gọi là Đàm Vô Đức Luật. Bộ luật này được dịch sang tiếng Hán bởi hai vị Phật Đà Da Xá và Trúc Phật Niệm. Tứ Phần Luật được coi là bộ luật trọng yếu để truyền trì giới luật cho Phật giáo Bắc Tông. Đa số các trường phái Luật Tông của Trung Hoa hoàn toàn nghiên cứu Tứ Phần Luật, hoặc dùng Tứ Phần Luật làm cơ sở chính yếu để biện định giới pháp. Các vị luật sư như Huệ Quang, Đạo Tuyên (tổ sư sáng lập Nam Sơn Luật Tông) đều phán định luật này thuộc về Đại Thừa. Tác phẩm Tứ Phần Luật San Phiền Bổ Khuyết Hành Sự Sao của ngài Đạo Tuyên được coi là sách gối đầu giường cho những ai nghiên cứu Luật Tông theo truyền thống Phật giáo Bắc Tông.

[4] Đây là một câu nói nổi tiếng trích từ thiên Nhan Uyên trong sách Luận Ngữ: “Tề Cảnh Công vấn chánh ư Khổng Tử, Khổng Tử đối viết: Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử. Công viết: Thiện tai! Tín như quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử, tuy hữu túc, ngô đắc nhi thực chi! (Tề Cảnh Công hỏi Khổng Tử về đường lối cai trị. Khổng Tử đáp: “Vua ra vua, bầy tôi ra bầy tôi, cha ra cha, con ra con” Cảnh Công nói: “Lành thay! Nếu vua chẳng ra vua, bầy tôi chẳng ra bầy tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, dẫu có nhiều lương thực, cũng chẳng ăn được!”)

[5] Gia Hạnh còn gọi là Phương Tiện, hoặc Tứ Du Già. Gia Hạnh có nghĩa là “gia công dụng hạnh”, tức là các hạnh tương ứng nhằm phụ trợ cho chánh hạnh thành tựu, là các hạnh cần phải thành tựu để làm tiền đề cho chánh hạnh. Thông thường, Gia Hạnh có bốn món là Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế Đệ Nhất, gọi gộp chung là Tứ Gia Hạnh. Nếu kể thêm Tư Lương, Ngũ Đình Tâm Quán và Niệm Xứ thì thành Thất Gia Hạnh. Sau Thất Gia Hạnh là các địa vị Kiến Đạo, Tu Đạo, và Vô Học Đạo. Trong Tạng truyền Phật giáo, Gia Hạnh phải hiểu là các pháp tu chuẩn bị (thường gọi là Ngöndro, tức “tiền phương tiện” hoặc “tu trì cơ bản”) trước khi được truyền thụ quán đảnh tu học một mật pháp (khác với các pháp quán đảnh thường tổ chức tập thể, mang tính chất kết duyên như nghi lễ quán đảnh (empowerment ritual) Kalachakra do Đại Lai Lạt Ma chủ trì, hoặc các nghi lễ quán đảnh do các đoàn lạt-ma ghé thăm các thành phố tổ chức). Mục đích của gia hạnh là cảm nhận “thân người khó được, quán cái chết là vô thường, nhân quả nghiệp lực, lỗi họa do luân hồi” nhằm thanh tịnh thân tâm, tiêu trừ nghiệp chướng, nhằm tương ứng với Bổn Tôn. Tùy theo tông phái, Gia Hạnh có nhiều loại khác nhau, nhưng chủ yếu là quy y lễ bái, cúng dường Mạn Đà La, tụng Bách Tự Chú Chân Ngôn của Kim Cang Tát Đỏa, tu Guruyoga… Thông thường, hành giả thật sự bế quan hành trì Ngöndro thì phải cần mất từ ba năm cho đến năm năm mới hoàn tất yêu cầu.

[6] Chuyện tương ứng, hợp lý, chính xác thì gọi là Xứ (hay Thị Xứ), còn chuyện chẳng tương ứng, chẳng hợp lý thì gọi là Phi Xứ.