Đại Phương Đẳng Đại Tập
Hiền Hộ Kinh giảng ký
大方等大集賢護經講記
慈法法師主講
Chủ giảng: Pháp sư Từ Pháp
Địa điểm: Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

10. Phẩm thứ bảy: Giới Hạnh Cụ Túc

(Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần Giới Hạnh Cụ Túc phẩm đệ thất.

()大方等大集賢護分戒行具足品第七

(Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần. Phẩm thứ bảy: Giới Hạnh Đầy Đủ).

Đức Thế Tôn do nương theo giáo pháp mà xuất hiện trong cõi đời, dùng văn tự làm phương tiện truyền đạt, dùng mười hai bộ loại trong Tam Tạng để lợi ích rộng khắp hữu tình vào thời Mạt Pháp. Các thiện tri thức nương theo giáo ngôn văn tự để tùy văn nhập quán, tiêu các nghiệp tướng, thấu hiểu tâm trí, thật là thuận tiện. Đức Thế Tôn tại các địa điểm bất đồng, thuận theo nhân duyên bất đồng, ở trong hàng Thanh Văn, hoặc Bồ Tát, trưởng giả, vương giả, Bà La Môn, đủ loại chúng sanh, đối với mỗi loại, đều tuyên giảng, giáo hóa. Về sau, tôn giả Ma Ha Ca Diếp và các bậc thiện xảo hội tập kinh điển, như Thanh Văn Thượng Tọa Bộ kết tập kinh điển tại Thất Diệp Quật (Saptaparni Guha)[1], và cũng có Đại Chúng Bộ, cho đến các vị Bồ Tát thuộc các địa vị đều cùng lúc vân tập, ghi lại các thứ kinh điển do đức Phật đã tuyên thuyết, truyền bá cho đời sau, khiến cho hữu tình hữu duyên trong thế gian do gặp gỡ kinh điển mà được độ thoát. Đấy gọi là “dùng mười hai bộ loại trong Tam Tạng để hóa độ hữu tình”. Chúng ta hữu duyên, gặp được diệu điển rất sâu này, dùng nó làm pháp tắc để nương theo pháp hành trì, ắt sẽ đạt được thành tựu.

Chúng ta thấy thứ tự tiếp nối trong bộ kinh này: Trước hết là khiến cho chúng ta có chánh tư duy. Thông qua chánh tư duy, khiến cho chúng ta sanh khởi chánh tín, thọ trì, quan sát. Hiện thời, [trong phẩm này] bèn tuyên nói giới hạnh trọn đủ. Mỗi phẩm đều hướng dẫn tăng thượng, không gì chẳng nhằm hướng dẫn chúng ta thoát khỏi tướng Dị Thục Quả của chính mình từ vô thỉ đến nay, thành tựu một pháp tắc vô ngã và vô úy. Các lời dạy của đức Thế Tôn đều vì khiến cho chúng ta đạt được phương tiện đại tự tại, hoặc có thể nói là thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Như thế chính là chánh nhân xuất thế duy nhất của chư Phật Thế Tôn: “Khiến cho chúng sanh khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật, thành tựu đạo nghiệp thanh tịnh”. Mười phương chư Phật, không vị nào chẳng dùng nguyện này để xuất thế. Hàng Phật tử chúng ta chớ có kiến giải nghi hoặc đối với điều này, hãy tùy thuận lời dạy của đức Phật, làm đệ tử chân thật của đức Phật, chánh hành Phật pháp.

(Kinh) Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát phục bạch Phật ngôn: – Hy hữu Thế Tôn!

()爾時賢護菩薩復白佛言希有世尊

(Kinh: Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát lại bạch cùng đức Phật rằng: – Đức Thế Tôn hy hữu).

Thế Tôn quả thật là hy hữu trong thế gian. Như Lai trọn đủ mười hiệu, tức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Mười hiệu như thế do Như Lai đã từ nhiều kiếp lâu xa tới nay siêng khổ tu trì, nhất tâm tu trì công đức và lợi ích chân thật, được mười phương chư Phật thanh tịnh lần lượt thọ ký, lần lượt truyền đạt, lần lượt chấp nhận pháp tắc thanh tịnh, trọn chẳng phải là hư huyễn, trống rỗng, cũng chẳng phải là tự tánh bàn suông hư huyễn. Người học Phật trong hiện thời phần nhiều đàm luận Phật tánh, tự tánh, nhưng công đức nơi mười hiệu của Như Lai do thật sự nương vào hai pháp Tu Đức và Tánh Đức mà trọn đủ, cũng là phước huệ trọn đủ, chẳng phải là lời lẽ phù phiếm. Hữu tình trong thời Mạt Pháp rất nhiều kẻ học vẹt, rất hiếm người thật sự hành trì. Vì thế, phần nhiều chẳng trọn đủ phước huệ, chẳng trọn đủ thiện xảo!

Chúng ta nên thủ hộ pháp tắc ấy như thế nào? Cần phải có một cơ chế như thế này, tức là nghe pháp tu trì, nghe pháp bèn chánh hạnh. Nghe pháp rồi đích thân chứng nhập. Nghe pháp rồi thủ hộ, truyền bá. Nếu chẳng có ngôn giáo để có thể y chỉ, khó thể chánh tín pháp này, khó thể tu tập! Đối với pháp này, có nhiều kẻ nghi báng; người có thể sanh chánh tín, yêu mến thì thật là chẳng thể nghĩ bàn! Cũng có kẻ nghi báng, nhưng vì có các vị thiện tri thức siêng khổ tu tập, cho đến đúng pháp mà tu tập, hoặc liên tục truyền đạt các thứ pháp ích, họ (kẻ nghi báng ấy) dần dần sanh khởi sự ngưỡng mộ và yêu thích đối với pháp này. Chúng ta có thể nương theo kinh điển để tu tập, xác thực là chánh hạnh, chánh đạo. Các vị thiện tri thức nếu chỉ thật sự hướng đến pháp tắc này, sẽ nương theo kinh điển để hành trì, dần dần thâm nhập, ắt sẽ có thể đích thân chứng pháp ích chẳng thể nghĩ bàn của Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội.

(Kinh) Nãi hữu như tư tối thắng tam-muội. Thế Tôn! Nhược chư Bồ Tát xả gia, xuất gia, thâm tâm nhạo dục thuyết thử tam-muội, diệc đương tư duy thử tam-muội giả, bỉ đẳng ưng đương an trụ hà pháp, nhi năng tuyên thuyết, cập tư duy da?

()乃有如斯最勝三昧。世尊若諸菩薩舍家出家深心樂欲說此三昧亦當思惟此三昧者彼等應當安住何法而能宣說及思惟耶?」

(Kinh: Bèn có tam-muội tối thắng như thế. Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát bỏ nhà xuất gia, thâm tâm ưa thích muốn nói tam-muội này, cũng sẽ tư duy tam-muội này, họ nên an trụ trong pháp nào để có thể tuyên nói và tư duy?)

Hiền Hộ Bồ Tát thay cho hàng đại chúng xuất gia đặt ra câu hỏi này. Vì lẽ nào? Hết thảy hữu tình trong thời Mạt Pháp chẳng khéo khải giáo, mà cũng chẳng có người khéo khải giáo! Cũng chẳng có người khéo hỏi, khéo đáp, nhằm thuận tiện truyền lại giáo pháp, cho nên Ngài thay mặt hữu tình khải vấn, khiến cho chúng ta quen thuộc, tư duy, tu tập.

(Kinh) Phật cáo Hiền Hộ ngôn: – Hiền Hộ! Nhược hữu Bồ Tát xả gia, xuất gia, thâm nhạo quảng tuyên, phục dục tư duy như thị tam-muội giả.

()佛告賢護言賢護若有菩薩舍家出家深樂廣宣復欲思惟如是三昧者。

(Kinh: Đức Phật bảo ngài Hiền Hộ rằng: – Này Hiền Hộ! Nếu có Bồ Tát bỏ nhà xuất gia, thích rộng tuyên nói sâu xa, lại muốn tư duy tam-muội như thế).

Chúng ta nhất định phải chú ý một ngôn từ: “Tư duy như thị tam-muội” (Tư duy tam-muội như thế). Kinh Hiền Hộ nhắc đi nhắc lại chúng ta phải tư duy tam-muội này như thế nào!

(Kinh) Bỉ xuất gia Bồ Tát, đương tiên hộ trì thanh tịnh giới hạnh, bất khuyết giới hạnh, bất nhiễm giới hạnh, bất ô giới hạnh, bất trược giới hạnh, bất trước giới hạnh, bất động giới hạnh, bất bị ha giới hạnh, trí giả sở tán giới hạnh, thánh sở ái kính giới hạnh. Ưng đương niệm tri như thị chư giới dã.

()彼出家菩薩當先護持清淨戒行不缺戒行不染戒行不污戒行不濁戒行不著戒行不動戒行不被呵戒行智者所贊戒行聖所愛敬戒行。應當念知如是諸戒也。

(Kinh: Vị xuất gia Bồ Tát ấy trước hết hãy nên hộ trì giới hạnh thanh tịnh, giới hạnh chẳng khuyết, giới hạnh chẳng nhuốm bẩn, giới hạnh chẳng ô uế, giới hạnh chẳng nhơ bẩn, giới hạnh chẳng chấp trước, giới hạnh bất động, giới hạnh chẳng bị quở trách, giới hạnh được người trí khen ngợi, giới hạnh được bậc thánh kính yêu. Hãy nên nghĩ biết các giới như thế).

“Hộ trì thanh tịnh giới hạnh” (Hộ trì giới hạnh thanh tịnh): “Thanh tịnh” là dùng vô lậu giới thể để lợi ích rộng khắp thế gian, thủ hộ thanh tịnh. Vì thế, trong Tam Tụ Giới, mỗi tụ đều có diệu dụng riêng. Chư Phật Như Lai nói giới có ba tụ: Biểu hiện nơi oai nghi (Nhiếp Luật Nghi Giới) thì phần nhiều được Thanh Văn thủ hộ; biểu hiện nơi thiện pháp (Nhiếp Thiện Pháp Giới) thì Bồ Tát hành pháp phần nhiều mến chuộng; hạnh lợi tha lợi ích rộng khắp chúng sanh (Nhiêu Ích Hữu Tình Giới) là pháp tối thượng thừa, phần nhiều do những người trong cõi đời hiện thời được gọi là “hành pháp Kim Cang Thừa” thủ hộ. Tam Tụ Tịnh Giới thật ra là do một giới hiển lộ, do một pháp tạo thành, tức là giới pháp thanh tịnh do chư Phật truyền trao. Đương nhiên, xuất gia hay tại gia, mỗi hạng người sẽ có giới tướng biểu hiện riêng.

Thanh Văn hiển hiện pháp thuần bạch qua bốn oai nghi, tức là đi, đứng, nằm, ngồi, chẳng lìa tâm trí vô lậu, chẳng tạo, chẳng tác, thủ hộ tịch diệt, coi tịch diệt là vui. Vì thế, trong pháp Thanh Văn, “tịch diệt là vui” chính là thủ hộ tăng thượng, đích thân chứng đoạn diệt, cho đến đích thân chứng chân thật. Đó chính là cái được gọi là “chứng A La Hán quả, xa lìa hậu hữu (thân trong đời sau), trụ trong hai loại Niết Bàn là Hữu Dư và Vô Dư”. Thừa này tịnh hóa thế gian, cho đến khiến cho chánh pháp có hình tướng trụ thế, biểu hiện trong bốn oai nghi. Vì thế, [pháp Thanh Văn Thừa] là pháp Thật Hữu. Trong giới hạnh của Bồ Tát, phần nhiều là diệu dụng của trí huệ trong Như Huyễn Quán. Do đó, đối với tâm trí động niệm, đều dùng Bồ Đề tâm để huân tu, phần nhiều vận dụng rộng rãi nơi tâm trí, thuần thiện thế gian, để khiến cho chúng sanh liễu giải tâm trí. Từ vấn đề căn bản của tâm địa và tâm trí mà giải quyết hết thảy các pháp tắc, từ huân tu tâm địa mà phát khởi diệu dụng rộng lớn. Đó là điều được nhiếp thọ trọn khắp bởi giới Bồ Tát, được nhiếp thọ bởi trí huệ môn, là điều được thiết lập và vận dụng bởi tâm niệm.

Bồ Tát giới và Thanh Văn giới tuy tên gọi khác nhau, nhưng xét theo nội dung, nếu là người có tâm Đại Thừa, tuy thọ giới Thanh Văn, vẫn có thể giữ giới Bồ Tát, có nhiều pháp thiện xảo. Nhưng cũng có khá nhiều kẻ tuy thủ hộ giới pháp Đại Thừa, nhưng tâm tánh yếu kém, phần nhiều lo tự lợi, giống hạnh của hàng “hạ sĩ” nói theo Tạng truyền Phật giáo. [Hạng căn tánh hạ sĩ] do sợ hãi luân hồi trong thế gian, bèn mong cầu xuất ly. Hạng hữu tình ấy tuy trì giới Bồ Tát, vẫn là cái tâm Thanh Văn. Trong cái tâm Thanh Văn ấy, đối với giới Bồ Tát, vẫn phần nhiều là hiển lộ oai nghi, phần nhiều ưa thích thể hiện oai nghi trong “đi, đứng, nằm, ngồi”. Nếu đã yêu thích trọn đủ oai nghi, thì cũng sẽ có tâm địa thủ hộ, người ấy chẳng thể nghĩ bàn, là người thông đạt Nhị Thừa. Người trọn đủ hai pháp Bồ Tát và Thanh Văn chính là bậc thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn, có thể khiến cho chánh pháp trụ thế, truyền bá. Truyền bá thì phần nhiều là thể hiện đức hạnh của bậc Bồ Tát. “Trụ trì” là an trụ trong giới đức thanh tịnh, thủ hộ bốn oai nghi. Vì thế, trụ thế và truyền bá, mỗi sự đều có diệu tướng. Trụ trì là có nhiều môn Thiền Định, hoằng truyền thì phần nhiều là dùng trí huệ để truyền đạt. Vì thế, Bồ Tát phần nhiều thủ hộ trí huệ, ít chú trọng Thiền Định. Các vị Thanh Văn thì phần nhiều chuộng Thiền Định, ít có diệu dụng trí huệ, nhưng đấy chỉ là nói theo sự thiên trọng nơi các tướng.

Nếu dựa theo tâm tánh để nói, hết thảy chúng sanh vốn là Phật. Nói theo giáo ngôn thuộc về quả địa, như Thiền Tông Trung Hoa, cho đến trong giáo pháp về Như Lai Tạng Tánh, phần nhiều tuyên thuyết giáo pháp như thế. Dùng sự giác ngộ nơi quả địa để xem xét thế gian, [sẽ thấy] chẳng có một pháp nào để có thể thành, chẳng có một chúng sanh để có thể độ, cho đến chẳng có một phiền não nào để có thể đoạn. Tự tánh vốn quang minh, chẳng đắm nhiễm, nhưng dựa trên sự thủ hộ thanh tịnh của pháp cội nguồn, ngay trong hiện tiền bèn giải thoát rành rành, rốt ráo chẳng vướng mắc, tâm trí giống hệt như nhau. Như giáo ngôn thuộc về quả địa trong pháp môn Tịnh Độ, nương theo nguyện lực của Phật, dùng sự giác ngộ nơi quả địa làm cái tâm trong khi tu nhân, hiện tiền khởi tác dụng, chẳng nhờ vào phương tiện, xa lìa tạo tác, chỉ tùy thuận Phật quả, chỉ tùy thuận Phật nguyện, cho nên thủ hộ thanh tịnh bình đẳng, yêu thích hết thảy hữu tình trong thế gian, cùng sanh về viên mãn báo độ A Nậu Đa La. Cái được gọi là “viên mãn báo độ” chẳng nhờ vào đến, đi, chẳng nhờ vào tu trì, do sức công đức của Phật mà thành tựu, do Tánh Đức và Tu Đức của Phật cùng lúc trọn đủ hồi thí, là pháp giống hệt như ông trưởng giả để lại gia sản cho con [trong kinh Pháp Hoa], chẳng nhờ vào phương tiện, tự nhiên trọn đủ. Đó là giáo pháp được hồi thí từ quả địa.

Trong giới pháp tam thừa, giáo pháp cuối cùng dùng thệ nguyện để thủ hộ, như giáo ngôn Tịnh Độ dùng thệ nguyện của A Di Đà Phật để nhiếp hóa mười phương hữu tình, khiến cho họ tùy thuận Phật nguyện mà được giải thoát. Đấy là dùng tam-muội-da giới làm công đức chân thật, dùng chuyện lợi ích rộng khắp hữu tình làm giới pháp. Vì thế, trong tam tụ giới có Nhiêu Ích Hữu Tình Giới. Có nhiều người niệm Phật lấy Phật nguyện làm sanh mạng của chính mình, người như thế thật sự là người thủ hộ tam-muội-da. Người ấy có thể yêu mến thế gian, chẳng xả hết thảy chúng sanh khổ não, hồi hướng làm đầu. “Đầu” là như thế nào? Tức là chọn lựa một pháp tắc thanh tịnh như thế hòng làm cho hết thảy chúng sanh thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề ngay trong thân hiện tại. Chuyện chẳng thể nghĩ bàn rất sâu như thế chỉ có Phật và Phật mới có thể đích thân tuyên nói, hết thảy hữu tình tùy thuận lời tuyên giảng của đức Phật mà đạt được công đức và lợi ích, và cũng có thể tiến nhập pháp thiện xảo ấy!

Đối với Tam Tụ Tịnh Giới trên đây, kinh nói “trì thanh tịnh giới hạnh” (giữ giới hạnh thanh tịnh) ngụ ý nói đến Tam Tụ Giới ấy. Kế đó, “bất khuyết giới hạnh”, “bất nhiễm giới hạnh”, “bất ô giới hạnh” v.v… chính là nói theo kiểu chia chẻ giới hạnh tỉ mỉ, vì đối với mỗi điều giới đều nói lớn, nhỏ, nặng, nhẹ, và cũng nói thong thả hay cấp bách. [Để hiểu rõ những điều ấy], chẳng thể chỉ tốn công một ngày là được. Do thời gian hạn chế, chúng ta có thể học tập sau này. Ở đây, chỉ nghe danh tướng thì cũng là phương tiện.

Ở chỗ này, nhắc đến giới pháp tam thừa cũng là vì muốn khiến cho mọi người liễu giải Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, sẽ thật sự thủ hộ sự tu trì thệ nguyện. Nếu chúng ta chẳng thủ hộ thệ nguyện, mà muốn nhập pháp tắc như vậy, muốn đạt được lợi ích như vậy, muốn khiến cho mười phương chư Phật thảy đều hiện tiền, muốn đối diện chư Phật để nghe pháp, muốn cho tâm trí tâm khai ý giải, sẽ không thể thành tựu được! Vì [những điều] muốn “khiến cho” như thế, quả thật là điều mà tam-muội cùng thủ hộ. Tam-muội do gì mà được thành tựu? Nương theo thệ nguyện để an lập căn bản. Vì thế có cái được gọi là “tam-muội-da thệ nguyện”. Đối với điều này, có nhiều chúng sanh tuy tu pháp mà chẳng biết!

Do vậy, tam-muội cũng được dẫn phát từ sự thủ hộ giới luật. Vì thế, tỳ-kheo thọ giới phải nên lập thệ nguyện. Bồ Tát thọ giới cũng nên lập thệ nguyện. Thệ nguyện tam-muội-da giới lợi lạc trọn khắp hữu tình bất quá chỉ là danh xưng đơn giản đó thôi. Tuy là như thế, vẫn lập thệ nguyện. Chúng ta muốn đạt được công đức và lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền thì cũng phải nên thủ hộ thệ nguyện. “Thanh tịnh giới hạnh” cũng lại giống như thế!

(Kinh) Hiền Hộ! Bỉ xuất gia Bồ Tát vân hà đương đắc thanh tịnh giới hạnh? Nãi chí vân hà đương đắc thánh sở ái kính giới hạnh dã? Hiền Hộ! Bỉ xuất gia Bồ Tát ưng đương y bỉ Ba La Đề Mộc Xoa, thành tựu oai nghi, thành tựu chúng hạnh, nãi chí thành tựu vi trần số đẳng giới hạnh.

()賢護彼出家菩薩云何當得清淨戒行乃至云何當得聖所愛敬戒行也賢護彼出家菩薩應當依彼波羅提木叉成就威儀成就衆行乃至成就微塵數等戒行。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Vị xuất gia Bồ Tát ấy như thế nào thì sẽ đạt được giới hạnh thanh tịnh? Cho đến như thế nào thì sẽ đắc giới hạnh được bậc thánh kính yêu? Này Hiền Hộ! Vị xuất gia Bồ Tát ấy hãy nên nương theo Ba La Đề Mộc Xoa để thành tựu oai nghi, thành tựu các hạnh, cho đến thành tựu các giới hạnh số lượng nhiều như vi trần).

Ba La Đề Mộc Xoa (Prātimokṣa) được nhắc tới ở đây chính là Bảo Giải Thoát Giới (保解脫戒, giới bảo vệ sự giải thoát). Trong Thanh Văn Thừa, Ba La Đề Mộc Xoa rất trân quý, được hàng Thanh Văn thủ hộ, được người có cuộc sống trọn đủ các thứ phước đức thù thắng trong cuộc đời lắm tỳ vết [trên thế gian này] thủ hộ. Trong quá khứ, bậc xuất gia sa-môn rất khó có, vì sao? Phải vượt qua đủ mọi thứ ngăn trở thì mới có thể tiến nhập pháp tắc xuất gia, lãnh thọ giới giáo thanh tịnh của hàng xuất gia. Cho đến thủ hộ đủ loại oai nghi, tức cái được gọi là “giáo ngôn Ba La Đề Mộc Xoa”. Ba La Đề Mộc Xoa là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Các Cá Bảo Giải Thoát (các điều bảo vệ sự giải thoát), chính là giáo ngôn thanh tịnh trân bảo do đức Thế Tôn ban cho hàng xuất gia, mà cũng là giáo ngôn bí mật, khiến cho hết thảy người xuất gia biết lý do, biết duyên do, biết cái nhân gây nên phạm giới, biết cái quả do phạm giới, biết nhân, biết quả, biết sự chuyển đổi giữa nhân và quả. Vì thế, biết là phạm giới bèn biết sám hối. Công đức và nội dung của Ba La Đề Mộc Xoa chỉ có Phật và Phật mới đích thân biết; bởi lẽ, nó do đức Phật đích thân chế định, do đức Phật đích thân tuyên nói, được hết thảy hàng xuất gia yêu thích, thủ hộ. Ba La Đề Mộc Xoa rất sâu, chẳng thể nghĩ bàn! Nếu ai siêng gắng, sốt sắng thủ hộ, tu tập, người ấy sẽ là tròng mắt của trời, người, là người đáng được tam giới cúng dường.

“Thành tựu oai nghi, thành tựu chúng hạnh” (Thành tựu oai nghi, thành tựu các hạnh): “Oai nghi” thuộc vào trong Oai Nghi Giới, được biểu hiện qua bảy chi nơi thân và miệng. “Chúng hạnh” (Các hạnh) thuộc về Thiện Pháp Giới, tức là thiện pháp ứng trong hết thảy mọi nơi, tịnh hóa thế gian.

“Nãi chí thành tựu vi trần số đẳng giới hạnh” (Cho đến thành tựu các giới hạnh có số lượng nhiều như vi trần): Giới hạnh ấy chính là giới hạnh trọn khắp. Nếu có các vị xuất gia Bồ Tát thọ nhận giới pháp thanh tịnh, đạt được giới thể thanh tịnh, trọn khắp hết thảy mọi nơi chẳng giết, chẳng trộm, chẳng nói dối, chẳng dâm, chẳng uống rượu, cho đến trong các thứ pháp tắc mà đều thủ hộ mỗi pháp tắc, chẳng rối loạn lẫn nhau, chân thật chẳng dối. Đó là giới đức thanh tịnh.

(Kinh) Kiến dĩ kinh bố, thanh tịnh hoạt mạng. Ư chư giới trung, đương niệm thành tựu.

()見已驚怖清淨活命。於諸戒中當念成就。

(Kinh: Thấy rồi kinh sợ, sống đời thanh tịnh. Trong các giới sẽ mong thành tựu).

Giới là căn bản của Vô Thượng Bồ Đề. Tuy mỗi thừa trong tam thừa đều thủ hộ, chẳng lầm loạn lẫn nhau, nhưng chẳng thể đánh mất cái gốc “tạo lợi ích rộng lớn cho chúng sanh”. Đối với Giới, phải nên dấy lòng thủ hộ, yêu thích thủ hộ. Nếu buông lung thì sẽ là phá giới. Nếu đã buông lung, chính là đã nhuốm bẩn giới, làm ô uế giới. Vì sao? Nó sẽ nhanh chóng khiến cho giới đức tán hoại, giới thể phần nhiều bị ô nhiễm, phần nhiều chẳng được thế gian yêu chuộng, chẳng thể khiến cho chánh pháp trụ thế. Tỳ Ni (Vinaya, giới luật) có thể trụ thế, tức là Phật pháp trụ thế. Vì vậy, đức Thế Tôn căn dặn hữu tình trong thế gian: “Sau khi ta diệt độ, hãy lấy Giới làm thầy”.

(Kinh) Ưng tín thậm thâm bất đắc trước Nhẫn. Ư Không, vô tướng, vô nguyện chư pháp trung, văn thuyết chi thời, tâm bất kinh bố, vô hữu hối một.

()應信甚深不得着忍。於空無相無願諸法中聞說之時心不驚怖無有悔沒。

(Kinh: Hãy nên tin rất sâu, đừng chấp trước Nhẫn. Đối với các pháp Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, khi nghe nói, tâm chẳng kinh sợ, chẳng hối hận, lui sụt).

Đối với ba pháp tắc thuộc về Tam Giải Thoát là Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, đều rốt ráo yêu mến. “Không” là hết thảy các pháp tắc thế gian và pháp tắc xuất thế gian đều rốt cuộc là chẳng có gì để có thể đạt được, vì bổn tánh của chúng là Không. Do nhận biết bản tánh vốn là Không, tự nhiên lìa bỏ hết thảy các nguyện, cho nên hết thảy thế gian hay xuất thế gian, hết thảy phương tiện thiện xảo đồng thời tán hoại. Vì sao tán hoại? Do vốn chẳng tạo tác.

Từ trong Không, Vô Tướng, Vô Nguyện mà an trụ thanh tịnh. Đó là đạt được thành tựu trong giải thoát môn. Các vị sa-môn xuất gia ắt phải nên thủ hộ pháp giải thoát môn. Nếu không, ắt sẽ bị nhiều thứ phiền não xâm hại.

(Kinh) Hiền Hộ! Dĩ thị nhân duyên, bỉ xuất gia Bồ Tát thành tựu như thị thanh tịnh giới hạnh, bất kiến giới hạnh, bất trước giới hạnh, nãi chí thành tựu thánh sở ái kính giới hạnh dã.

()賢護以是因緣彼出家菩薩成就如是清淨戒行不見戒行不著戒行乃至成就聖所愛敬戒行也

(Kinh: Này Hiền Hộ! Do nhân duyên ấy, vị xuất gia Bồ Tát ấy thành tựu giới hạnh thanh tịnh, giới hạnh chẳng thấy, giới hạnh chẳng chấp trước, cho đến thành tựu giới hạnh được bậc thánh yêu kính như thế).

Khi hết thảy Bồ Tát trì giới, chẳng thấy giới, chẳng thấy trì giới, chẳng thấy phạm giới, trong lúc như thế, quang minh nơi tâm cảnh và vô lậu giới thể chân thật an trụ, vô trước giới thể thật sự thành tựu, vô vi giới thể chân thật lợi ích thế gian. Như thế thì các thứ giới pháp thanh tịnh chẳng có người trì, chẳng có kẻ phạm, thủ hộ thanh tịnh, trì giới thanh tịnh. Trì giới thanh tịnh là chẳng có tri kiến chính mình đang phạm giới hay trì giới. Vì thế, tôn trọng hết thảy, đối với người trì giới chẳng kính, đối với kẻ phạm giới chẳng sân. Thủ hộ giới pháp chân thật như thế, khiến cho chánh pháp trụ thế, tịnh hóa thế gian.

Có nhiều chúng sanh dùng cái tâm yêu ghét để trì giới, dùng cái tâm ô nhiễm để trì giới, dùng cái tâm “hữu sở đắc” (có điều gì đó để đạt được) để trì giới. Đó chính là phạm giới. Trong phần văn tự ở phía sau, đức Thế Tôn đã có tuyên thuyết thanh tịnh. Vì sao tư duy của hết thảy phàm phu chẳng tương ứng với tư duy của đức Thế Tôn? Vì cái tâm của chúng sanh đắm nhiễm. Thấy các giới hạnh, các giới hạnh ô trược, các giới hạnh bại hoại, các giới hạnh nhuốm bẩn, bèn cho là ta có giới để trì, cho là kẻ khác phạm giới. Loại hữu tình ấy phần nhiều sẽ tu trì và huân tập theo kiểu “khen mình, báng người”, sẽ mắc hại. Vì sao? Do tâm kiêu mạn, do tâm ô nhiễm, do tâm bất tịnh, do tâm hữu lậu, do tâm có nhiều đối đãi, do tâm trí sanh diệt. Chư Phật Như Lai tuyên nói giáo hóa thanh tịnh, giới đức thanh tịnh, thị hiện thanh tịnh cho hết thảy chúng sanh, xa lìa đối đãi.

(Kinh) Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát phục bạch Phật ngôn: – Thế Tôn! Bỉ xuất gia Bồ Tát, vân hà đắc hữu như thị bất thanh tịnh giới hạnh, khuyết giới hạnh, nhiễm trước giới hạnh, ô giới hạnh, y ỷ giới hạnh, trí sở ha hủy giới hạnh, thánh sở bất ái giới hạnh dã?

()爾時賢護菩薩復白佛言世尊彼出家菩薩云何得有如是不清淨戒行缺戒行染著戒行污戒行依倚戒行智所訶毀戒行聖所不愛戒行也

(Kinh: Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát lại bạch cùng đức Phật rằng: – Bạch Thế Tôn! Vì sao vị xuất gia Bồ Tát ấy có giới hạnh chẳng thanh tịnh, giới hạnh thiếu khuyết, giới hạnh đắm nhiễm, giới hạnh ô uế, giới hạnh dựa dẫm, giới hạnh bị bậc trí quở trách, chê bai, giới hạnh chẳng được bậc thánh mến chuộng như thế?)

Hiền Hộ Bồ Tát vì muốn hộ trì Phật pháp trụ thế, muốn thay cho các vị thiện tri thức xuất gia trong thời Mạt Pháp thưa hỏi các pháp tắc, khiến cho hết thảy hàng xuất gia sẽ thủ hộ giới pháp thanh tịnh, cho nên đặt ra câu hỏi này.

(Kinh) Phật cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: – Hiền Hộ! Nhược hữu xuất gia Bồ Tát thủ trước Sắc, thọ trì cấm giới, tu ư phạm hạnh.

()佛告賢護菩薩言賢護若有出家菩薩取著色受持禁戒修於梵行。

(Kinh: Đức Phật bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: – Này Hiền Hộ! Nếu có xuất gia Bồ Tát chấp giữ Sắc, thọ trì cấm giới, tu tập phạm hạnh).

Đối với cái gọi là Sắc, dù phạm, hay chẳng phạm, dù thiện hay ác, dù đúng hay sai, dù tốt hay xấu, đủ thứ như thế đều là đối với pháp mà sanh khởi.

(Kinh) Như thị thủ trước Thọ, thủ trước Tưởng, thủ trước Hành, thủ trước Thức, thọ trì cấm giới, tu hành phạm hạnh. Tu hành dĩ, tác như thị niệm: “Ngã kim như thị trì giới, như thị khổ hạnh, như thị tu học, như thị phạm hạnh, nguyện ngã vị lai, đắc sanh thiên thượng, hoặc sanh nhân gian, tự tại hữu sanh, thọ chư quả báo”. Hiền Hộ! Dĩ thị nhân duyên, bỉ xuất gia Bồ Tát thành tựu như thị bất thanh tịnh giới, nãi chí thánh giả sở bất ái giới. Thị vị vi cầu hữu cố, vi hữu sanh cố, vi thọ dục quả cố, vi sanh xứ sở cố.

()如是取著受取著想取著行取著識受持禁戒修行梵行。修行已作如是念我今如是持戒如是苦行如是修學如是梵行願我未來得生天上或生人間自在有生受諸果報。賢護以是因緣彼出家菩薩成就如是不清淨戒乃至聖者所不愛戒。是謂爲求有故爲有生故爲受欲果故爲生處所故。

(Kinh: Chấp giữ Thọ, chấp giữ Tưởng, chấp giữ Hành, chấp giữ Thức như thế. Thọ trì cấm giới, tu hành phạm hạnh. Đã tu hành bèn nghĩ như thế này: “Ta nay trì giới như thế, khổ hạnh như thế, tu học như thế, phạm hạnh như thế, nguyện trong tương lai, ta được sanh lên trời, hoặc sanh trong nhân gian, tự tại tái sanh, thọ các quả báo”. Này Hiền Hộ! Do nhân duyên ấy, vị xuất gia Bồ Tát ấy thành tựu giới chẳng thanh tịnh, cho đến giới chẳng được thánh nhân yêu mến như thế. Đó là vì cầu hậu hữu (thân trong đời sau), vì có sanh, vì nhận lãnh cái quả trong cõi Dục, vì cầu chỗ sẽ sanh về).     

Trước đó, đã có các thứ đắm nhiễm ấy; sau đó, tất nhiên sẽ có các thứ phát tâm ấy. Do cái tâm đắm nhiễm ấy, ắt tạo nghiệp ấy. Tuy siêng ròng tu trì, nhưng vì cầu quả báo trong đời sau, đó chính là cái hạnh ô nhiễm. Xét theo giới pháp và giáo pháp nhà Phật, đấy là kẻ phạm giới. Vì sao? Chư Phật Như Lai xuất thế, chẳng vì tăng trưởng mạnh mẽ thế gian, chẳng vì tổn giảm thế gian, chỉ vì khiến cho chúng sanh trong thế gian xuất ly thế gian, vì lợi ích thế gian. Nếu chúng ta dùng cái tâm thế tục để tư duy Phật pháp, sẽ có nhiều hạnh ô nhiễm, có hạnh muốn cầu thân thể trong đời sau. Nếu người trì giới tham cầu lợi ích do trì giới, người tu khổ hạnh tham cầu quả báo vui sướng trong đời vị lai, người như thế bị đức Thế Tôn gọi là “mầm cháy, hạt lép”, chẳng phải là bậc chánh hạnh!

(Kinh) Hiền Hộ! Thị cố, bỉ xuất gia Bồ Tát niệm dục thuyết thử tam-muội, tư thử tam-muội giả, yếu đương tiên cụ thanh tịnh giới hạnh, nãi chí thành tựu thánh sở ái giới.

()賢護是故彼出家菩薩念欲說此三昧思此三昧者要當先具清淨戒行乃至成就聖所愛戒。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Vì thế, vị xuất gia Bồ Tát ấy nghĩ muốn nói tam-muội này, suy nghĩ tam-muội này, trước hết, phải nên trọn đủ giới hạnh thanh tịnh, cho đến thành tựu giới được thánh nhân yêu mến).

Kinh văn đã dùng hai hạnh đúng pháp và phi pháp để so sánh, khiến cho chúng ta chọn lựa hạnh như pháp, bỏ đi hạnh phi pháp.

(Kinh) Diệc niệm thường hành Đàn Ba La Mật, sở vị tối thắng thí, chư pháp thí, thượng thí, diệu thí, vi diệu thí, tinh diệu thí, vô thượng thí.

()亦念常行檀波羅蜜所謂最勝施 諸法施 上施妙施微妙施精妙施無上施。

(Kinh: Cũng muốn thường hành Đàn Ba La Mật, như là tối thắng thí, chư pháp thí, thượng thí, diệu thí, vi diệu thí, tinh diệu thí, vô thượng thí).

“Tối thắng thí” là bố thí giáo ngôn Đệ Nhất Nghĩa Đế thù thắng nhất. “Chư pháp thí” là đối với các hữu tình hữu duyên bèn tùy cơ thí pháp, khiến cho họ trừ các nghi hoặc, thành tựu Bồ Đề. “Thượng thí”, “diệu thí”, “vi diệu thí” chính là tăng thượng thí pháp, cho đến nói các giáo ngôn theo thứ tự, khiến cho chúng sanh rốt ráo yêu mến. “Tinh diệu thí”, “vô thượng thí” nhằm dẫn dắt chúng sanh phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. “Thí” là các loại giáo pháp hồi thí Vô Thượng Bồ Đề. Vì thế nói là hoặc dùng Tài Bố Thí để hướng dẫn chúng sanh, hoặc dùng Pháp Bố Thí để hướng dẫn chúng sanh, hoặc dùng Vô Úy Bố Thí để hướng dẫn chúng sanh, mục đích duy nhất là muốn khiến cho chúng sanh thành tựu Vô Thượng Bồ Đề.

(Kinh) Diệc thường dũng mãnh, tinh tấn bất hưu, bất xả trọng đảm.

()亦常勇猛精進不休不捨重擔。

(Kinh: Cũng thường dũng mãnh, tinh tấn chẳng ngơi, chẳng bỏ gánh nặng).

Hết thảy hiền thánh, người trí đã chứng đắc Bồ Đề tâm phần, Bồ Đề nghiệp phần, lìa bỏ gánh nặng. Cái được gọi là “gánh nặng” chính là gánh nặng luân hồi, gánh nặng phiền não. Ở đây, hiền thánh và người trí chia sẻ gánh nặng của chúng sanh, lợi ích rộng khắp hữu tình, dùng Đồng Sự để tu trì vì yêu mến hữu tình trong thế gian.

(Kinh) Bất vong chánh niệm, thường hành nhất tâm, chánh tín thanh tịnh, vô hữu tật đố, bất trước thế gian lợi dưỡng, danh văn, như pháp sách cầu, dĩ tế hình mạng, hằng hành khất thực, bất thọ biệt thỉnh.

()不忘正念常行一心正信清淨無有嫉妒不着世間利養名聞如法索求以濟形命恆行乞食不受別請。

(Kinh: Chẳng quên chánh niệm, thường hành nhất tâm, chánh tín thanh tịnh, chẳng có ghen tỵ, chẳng chấp trước lợi dưỡng và tiếng tăm thế gian, đúng như pháp tìm cầu để duy trì thân mạng, luôn hành khất thực, chẳng nhận lời thỉnh riêng).

Thuở đức Thế Tôn tại thế, có cho phép [các tỳ-kheo] nhận lời thỉnh cúng dường riêng, và có pháp Đầu Đà chẳng chấp nhận biệt thỉnh, như tôn giả Ca Diếp tùy thời khất thực, chẳng tiếp nhận biệt thỉnh.

(Kinh) Yếm ly nhân gian, nhạo A Lan Nhã.

()厭離人間樂阿蘭若。

(Kinh: Chán lìa nhân gian, thích chốn tịch tĩnh).

Pháp chán lìa và pháp xuất ly tuy có sai biệt, nhưng chán lìa chính là thiện xảo và cơ sở để xuất ly. Nếu chẳng có cái tâm chán lìa và xuất ly, sẽ rất khó thành tựu. Nói “xuất ly” tức là chẳng đối đãi, xa lìa trần nhiễm của thế gian. Muốn thành tựu cái tâm xuất ly ấy thì chán lìa chính là phương tiện.

(Kinh) Tôn sùng thánh chủng, kính sự Đầu Đà, tức thế ngữ ngôn, đản luận xuất thế, xử chúng tĩnh mặc, giả ngôn bất đa, thường kính ư tha, bất cảm khinh mạn.

()尊崇聖種敬事頭陀息世語言但論出世處衆靜默假言不多常敬於他不敢輕慢。

(Kinh: Tôn sùng dòng thánh, vâng giữ hạnh Đầu Đà, dứt bặt ngôn luận thế gian, chỉ luận đàm xuất thế, ở trong đại chúng mà yên lặng, ít nói, kiệm lời, thường kính trọng người khác, chẳng dám khinh mạn).

Những điều này đều thật sự khiến cho chúng ta đúng như thật quán chiếu hành vi của chính mình, là giáo pháp trực tiếp nhất để kiểm điểm hành vi của chính mình.

(Kinh) Ư nhất thiết thời, thường hành tàm quý.

()於一切時常行慚愧。

(Kinh: Trong hết thảy các thời, thường giữ lòng hổ thẹn).

Chúng ta đều biết: Trong Tùy Phiền Não thì Vô Tàm, Vô Quý, Phóng Dật, và Giải Đãi là thượng phẩm Tùy Phiền Não. Hữu tình trong đời Mạt Pháp phần nhiều chẳng hổ thẹn, đối với pháp tánh phần nhiều có giải ngộ, bèn ngỡ là đã chứng. Vì thế, đối với giáo ngôn của Như Lai, bèn dùng kiến giải của chính mình, phần nhiều tạo thành tà kiến, tà tri. Thật ra là kiêu mạn, chẳng hiểu biết gì!

(Kinh) Hữu ân tất tri, tri ân tất báo.

()有恩必知知恩必報。

(Kinh: Có ân ắt biết, biết ân ắt báo).

Trên báo bốn trọng ân, hết thảy chúng xuất gia đều được bốn trọng ân thâu nhiếp. Đức Phật dạy bảo chúng ta, cho nên có Phật ân. Sư trưởng dạy bảo chúng ta, bèn có ân sư trưởng. Quốc độ chuyên chở chúng ta, cho nên có ân chuyên chở. Đối với các loại ân, hễ đã biết, sẽ chẳng thể quên: Hết thảy đàn-na hữu tình (thí chủ) như mẹ, dưỡng dục chúng ta. Chúng ta “tri ân tất báo” (biết ân, ắt báo) như thế nào?

(Kinh) Ư thiện tri thức, thường niệm thân cận.

()於善知識常念親近。

(Kinh: Đối với thiện tri thức, thường nghĩ thân cận).

Chẳng giải đãi.

(Kinh) Chư sư tôn sở, cẩn sự vô vi.

()諸師尊所謹事無違。

(Kinh: Đối với các bậc sư tôn, kính cẩn phụng sự, chẳng trái nghịch).

Hàng xuất gia đối với chỗ thọ giáo phải nên cẩn thận, chớ nên chống trái. Thật sự là rèn luyện cái tâm cung kính và tâm cảm ơn của chính mình. Ở đây, chỉ có sự Tự Thọ Dụng được hiển hiện, các duyên khác chỉ là trợ duyên. Cho nên hết thảy thiện tri thức là tăng thượng trợ duyên.

(Kinh) Nhược văn như thị thậm thâm kinh điển, chuyên tâm thính thọ, chung vô bì yếm. Ư pháp sư  sở, khởi  từ  phụ  tâm, thiện  tri thức tâm, nãi chí sanh ư chư Như Lai tưởng.

()若聞如是甚深經典專心聽受終無疲厭。於法師所起慈父心善知識心乃至生於諸如來想。

(Kinh: Nếu nghe kinh điển rất sâu như thế, chuyên tâm nghe nhận, trọn chẳng mệt chán. Đối với pháp sư, khởi tâm tưởng như cha lành, tâm coi như thiện tri thức, cho đến sanh tâm coi họ như các đức Như Lai).

Tưởng như thế chính là chánh tư duy thiện xảo. Trong giáo ngôn của đức Thế Tôn, nhất là trong kinh Địa Tạng, đã ghi chép khá nhiều câu chuyện: Có nhiều hữu tình trong thế tục vốn nhiều thiện căn, do gặp gỡ phàm phu Tăng mà thành tựu thánh quả, cũng có nghĩa là nhờ vào ngoại duyên, tuy [các vị tăng ấy] chẳng phải là thánh nhân, nhưng cũng có thể khiến cho họ thành tựu. Huống hồ được gặp vị thầy có thể nương theo pháp mà truyền đạt, nương theo pháp để trao đổi ư? Vì thế, nếu đối với thầy mà sanh tâm tưởng thầy như là Như Lai, quả thật là diệu dụng nơi tự thân.

(Kinh) Dĩ vi như thị vi diệu pháp cố, thành tựu Vô Thượng Đại Bồ Đề cố, chuyển tăng ái kính, tôn trọng tâm cố.

()以爲如是微妙法故成就無上大菩提故轉增愛敬尊重心故。

(Kinh: Do vì diệu pháp như thế, vì thành tựu Vô Thượng Đại Bồ Đề, vì càng tăng thêm lòng yêu kính, lòng tôn trọng).

Cái tâm tôn trọng thật sự chẳng phải là quá khứ, hiện tại, vị lai, chẳng trong, chẳng ngoài, chẳng tự, chẳng tha, chỉ dựa theo cái tâm chân thật, cung kính, mà có thể cầu hết thảy các pháp, thành tựu hết thảy các thiện xảo. Vì thế, trong Câu Xá Luận, Thiên Thân Bồ Tát đã đề ra bốn pháp tu, tức là cung kính tu, vô gián tu (tu chẳng gián đoạn), vô nhiễm tu, tất mạng tu (畢命修, tu cho đến hết đời). Trong đó, cung kính tu chính là pháp tu hàng đầu, là pháp tắc trọng yếu đứng đầu. Nếu chúng ta chẳng biết cung kính, phần nhiều sẽ chẳng đạt được pháp ích, chẳng tăng trưởng thiện căn, tâm trí bế tắc. Hữu tình thời Mạt Pháp do ý thức cưỡng chấp, bế tắc, phần nhiều tự phụ là đã tự chứng, tự cho là đúng, cũng có lắm kẻ ngỡ mình là quý báu, xâm phạm lẫn nhau, hứng chịu nhiều họa hại. Học Phật mà nếu chỉ tăng thêm tri kiến, kẻ đó sẽ đọa lạc vì chẳng có pháp hạnh. Chúng ta phải nương theo pháp để hành, chớ nên chỉ tăng thêm tri kiến. Như thế thì sẽ khéo đạt được pháp ích, khéo thủ hộ pháp tắc. Nhưng trong thời đại này, chúng ta trao đổi văn tự, trao đổi hình ảnh, trao đổi pháp tắc hết sức thuận tiện, nhưng kẻ nghe pháp rất nhiều, người hành trì thật ít! Kết quả là do đa văn mà tăng thượng mạn, do đa văn mà bế tắc tự tâm, do đa văn mà độc hại cả mình lẫn người, tức là nghe mà chẳng hành, dẫu nghe mà chẳng biết, nghe xong tăng thêm tà mạn. Nghe xong rồi dùng ý riêng để lý giải, tức là cho rằng kiến giải của chính mình là chánh xác, đâm ra bế tắc tự tâm, chẳng thể đắc vô ngại trí, đối với pháp tắc thanh tịnh, chẳng thể đích thân chứng đắc, tu tập. Vì thế, bị nhiều họa hại bởi tri kiến. Đó là cộng nghiệp của đời Mạt Pháp khiến thành ra như thế.

(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Nhược bỉ Bồ Tát hoặc thời chí ư Thanh Văn nhân sở, văn thuyết như thị thậm thâm kinh pháp, bỉ pháp sư sở vô ái kính tâm, vô tôn trọng tâm, bất sanh từ phụ tưởng, bất sanh thiện tri thức tưởng, bất sanh chư Phật tưởng, bất sanh giáo sư tưởng, bất năng thân cận, thừa sự, cúng dường, tùy ư hà sở, văn thị kinh điển. Đương tri thị nhân bất năng thính thọ, thư tả, giải thuyết, linh pháp cửu trụ. Như thị chi nhân, nhược năng thính thọ, nhược năng thư tả, nhược năng giải thuyết, linh pháp cửu trụ, vô hữu thị  xứ!

()復次賢護若彼菩薩或時至於聲聞人所聞說如是甚深經法彼法師所無愛敬心無尊重心不生慈父想不生善知識想不生諸佛想不生教師想不能親近承事供養隨於何所聞是經典。當知是人不能聽受書寫解說令法久住。如是之人若能聽受若能書寫若能解說令法久住無有是處

(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Nếu vị Bồ Tát ấy hoặc có lúc đến chỗ của hàng Thanh Văn, nghe nói kinh pháp rất sâu như thế, đối với vị pháp sư ấy chẳng có tâm yêu kính, chẳng có tâm tôn trọng, chẳng sanh ý tưởng như cha lành, chẳng tưởng là thiện tri thức, chẳng sanh tâm tưởng như chư Phật, chẳng sanh tâm tưởng như thầy dạy, chẳng thể thân cận, thừa sự, cúng dường, ở nơi đó được nghe kinh điển ấy. Hãy nên biết người ấy chẳng thể nghe nhận, biên chép, giải nói, khiến cho pháp tồn tại lâu dài. Người như thế, nếu có thể nghe nhận, nếu có thể biên chép, nếu có thể giải nói, khiến cho pháp tồn tại lâu dài thì chẳng có lẽ ấy!)

Ở đây, đức Thế Tôn đã nêu bày hai loại pháp hạnh: Một là phi pháp hạnh, hai là như pháp hạnh, để chúng ta quan sát, chọn lựa.

(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Nhược bỉ Bồ Tát hoặc phục chí ư Thanh Văn nhân sở, văn thuyết như thị tăng thượng diệu pháp, bất sanh ái kính tâm, bất sanh tôn trọng tâm, nãi chí bất sanh chư Phật tưởng, bất năng tận tâm thân cận, cúng dường giả, nhược năng độc tụng, nhược năng thọ trì, nhược năng giải thuyết, linh thị kinh điển bất tốc diệt giả, vô hữu thị xứ! Hà dĩ cố? Dĩ bất tôn trọng thị kinh điển cố. Thị cố, tư pháp bất cửu tất diệt.

()復次賢護若彼菩薩或復至於聲聞人所聞說如是增上妙法不生愛敬心不生尊重心乃至不生諸佛想不能盡心親近供養者若能讀誦若能受持若能解說令是經典不速滅者無有是處何以故以不尊重是經典故。是故斯法不久必滅。

(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Nếu Bồ Tát ấy lại đến chỗ của hàng Thanh Văn, nghe nói diệu pháp tăng thượng như thế, chẳng sanh tâm kính yêu, chẳng sanh tâm tôn trọng, cho đến chẳng sanh tâm tưởng như Phật, chẳng thể trọn hết tâm lực thân cận, cúng dường, mà nếu có thể đọc tụng, nếu có thể thọ trì, nếu có thể giải nói, khiến cho kinh điển ấy chẳng bị mau chóng diệt mất, chẳng có lẽ ấy! Vì sao vậy? Do chẳng tôn trọng kinh điển ấy. Vì thế, pháp ấy chẳng lâu sau ắt bị diệt mất).

Chúng ta là kẻ diệt pháp, hay là kẻ khiến cho pháp được lưu truyền lâu dài trong cõi đời? Hoàn toàn do chúng ta có thể nghe pháp chánh hành hay không? Tức là nghe pháp rồi bèn y pháp hành trì.

(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Nhược bỉ Bồ Tát hoặc phục chí ư Thanh Văn nhân sở, văn thuyết như thị vi diệu kinh điển, sanh ái kính tâm, sanh tôn trọng tâm, cập khởi giáo sư tưởng, chư Như Lai tưởng, thân thừa cúng dường, tức năng thính thọ, diệc năng thư tả, phục năng giải thuyết, năng linh thị kinh cửu trụ lợi ích, tư hữu thị xứ.

()復次賢護 若彼菩薩或復至於聲聞人所 聞說如

是微妙經典生愛敬心生尊重心及起教師想諸如來想親承供養即能聽受亦能書寫復能解說。能令是經久住利益斯有是處。

(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Nếu vị Bồ Tát ấy đến chỗ hàng Thanh Văn, nghe nói kinh điển vi diệu như thế, sanh lòng yêu kính, sanh tâm tôn trọng, và tưởng như giáo sư, tưởng như các Như Lai, đích thân, thừa sự, cúng dường, liền có thể nghe nhận, cũng có thể biên chép, lại có thể giải nói, sẽ có thể khiến cho kinh này tồn tại lâu dài, lợi ích, ắt có lẽ ấy).

Ở đây, hướng dẫn cho chúng ta thủ hộ như thế, tu tập như thế, yêu mến pháp tắc này như thế. Tất cả những lời tuyên giảng của đức Phật dùng hai loại như pháp và phi pháp để tuyên nói, khiến cho chúng ta được thấy, được nghe, có thể vận dụng. Do vậy, phương tiện của đức Thế Tôn rất thiện xảo, nêu bày thanh tịnh đúng pháp và phi pháp [là như thế nào]. Trong khi chúng ta học tập, lựa chọn, phải nên nhận thức rõ ràng đúng pháp và phi pháp. Các chúng sanh tri kiến hỗn loạn, ngỡ phi pháp là đúng pháp, cho nên tuy hành pháp mà chẳng đạt được lợi ích, phần nhiều mắc hại. Nếu chúng ta quan sát tỉ mỉ, [sẽ thấy] phần nhiều là hành pháp chẳng đúng pháp như thế đó, dùng pháp ô nhiễm để hành trì giới pháp, dùng cái tâm ô nhiễm để hành pháp. Do vậy, phần nhiều chẳng tương ứng!

(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Nhược bỉ Bồ Tát phục ư Thanh Văn nhân sở, văn thuyết như thị vi diệu kinh điển, tức ư bỉ sở, sanh tôn trọng tâm, như chư Phật tưởng, thân cận, thừa sự, cung kính cúng dường giả, như thị chi nhân, tuy vị tu học như thị kinh điển, tức vi tu tập. Tuy vị giải thích, tức vi giải thuyết, linh thị diệu pháp cửu trụ thế gian, bất hủy, bất diệt, tư hữu thị xứ.

()復次賢護若彼菩薩復於聲聞人所聞說如是微妙經典即於彼所生尊重心如諸佛想親近承事恭敬供養者如是之人雖未修學如是經典即爲修習。雖未解釋即爲解說令是妙法久住世間不毀不滅斯有是處。

(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Nếu Bồ Tát ấy lại ở chỗ hàng Thanh Văn, nghe nói kinh điển vi diệu như thế, liền đối với người đó, sanh tâm tôn trọng, tưởng như chư Phật, thân cận, thừa sự, cung kính cúng dường, người như vậy tuy chưa tu học kinh điển như thế, mà chính là tu tập. Tuy chưa giải thích, mà chính là giải nói, khiến cho diệu pháp ấy tồn tại lâu dài trong thế gian, chẳng hủy, chẳng diệt. Có lẽ như thế ấy!)

Ở đây, phải nên thủ hộ. Vì sao đức Thế Tôn phải giảng hai thứ pháp tắc đúng pháp và phi pháp, và hai thứ pháp tắc hợp lẽ và chẳng hợp lẽ cặn kẽ như thế? Vì muốn khiến cho chúng ta đối với tự tâm đừng tự phụ, đừng tự phụ kiến giải của chính mình. [Nếu tự phụ] như thế, sẽ chẳng tương ứng với pháp, phần nhiều sẽ hứng nhận các pháp ủy khuất, mê muội! Có nhiều chúng sanh siêng khổ hành phi pháp, đúng là kẻ đáng thương, tự cho là đúng, chẳng y giáo để hành, thật sự là kẻ mù hành sự mù quáng! Cổ nhân nói là “manh nhân kỵ manh mã” (người mù cưỡi ngựa đui), kết quả cứ suy ra sẽ tự biết!

(Kinh) Hà dĩ cố? Dĩ năng ái kính tôn trọng pháp cố. Thị cố, thử kinh cửu trụ thế gian. Hiền Hộ! Dĩ thị nhân duyên, ngô kim ngữ nhữ: Thị nhân ư thị thuyết pháp sư sở, sanh ái nhạo tâm, sanh kính trọng tâm, sanh tôn quý tâm, khởi thiện tri thức tưởng, khởi giáo sư tưởng, khởi chư Phật tưởng, tận tâm thừa sự, cung kính cúng dường dã. Hiền Hộ! Nhược năng như thị, thị tắc danh vi hành ngã sở hành, thọ ngã giáo giới dã. Phục thứ Hiền Hộ! Bỉ xuất gia Bồ Tát tất dục giải thuyết như thử tam-muội. Phục dục tư duy thử tam-muội giả, thường đương nhạo hành A Lan Nhã sự.

()何以故以能愛敬尊重法故。是故此經久住世間。賢護以是因緣吾今語汝是人於是說法師所生愛樂心生敬重心生尊貴心起善知識想起教師想起諸佛想盡心承事恭敬供養也。賢護若能如是是則名爲行我所行受我教誡也。復次賢護彼出家菩薩必欲解說如此三昧。復欲思惟此三昧者常當樂行阿蘭若事。

(Kinh: Vì sao vậy? Do có thể yêu kính, tôn trọng pháp. Vì thế, kinh này tồn tại dài lâu trên thế gian. Này Hiền Hộ! Do nhân duyên ấy, ta nay bảo ông: Người ấy đối với vị thầy thuyết pháp, sanh tâm yêu mến, sanh tâm kính trọng, sanh tâm tôn quý, khởi ý tưởng coi như thiện tri thức, khởi ý tưởng coi như giáo sư, khởi ý tưởng coi như Phật, tận tâm thừa sự, cung kính cúng dường. Này Hiền Hộ! Nếu có thể như thế thì gọi là hành các điều ta hành, tiếp nhận lời răn dạy của ta. Lại này Hiền Hộ! Vị xuất gia Bồ Tát ấy ắt muốn giải nói tam-muội như thế, lại muốn tư duy tam-muội này, sẽ thường thích làm các chuyện thuộc về A Lan  Nhã).

“A Lan Nhã sự” là xả hai thứ ồn náo nơi chính mình và ồn náo do duyên khác đem lại. Đối với chuyện A Lan Nhã, có chuyện nói theo sự tướng, chẳng hạn như chúng ta ở nơi núi sâu rừng thẳm, xa lìa thành, ấp, thôn, xóm. Đó là chỗ A Lan Nhã. Cũng có thể nói theo pháp tắc, tức là người thành tựu thủ hộ tâm trí A Lan Nhã, tâm trí xa lìa ồn náo, tâm trí nhàn tĩnh, người ấy được gọi là “nhàn nhân” trong Phật pháp. [Nếu tâm trí xa lìa ồn náo, nhàn tĩnh], nơi tụ hội đều là chỗ A Lan Nhã, do tâm trí nhàn tĩnh, do chẳng nhiễm trước, do chẳng nắm níu, tâm trí nhất thời, nhất như. Đó là người thành tựu tâm trí A Lan Nhã. Vì thế, có nơi chốn A Lan Nhã, và có pháp tắc thành tựu nơi chốn A Lan Nhã. Ở đây, hai chuyện ấy bổ trợ lẫn nhau!

(Kinh) Bất đắc cư xử tụ lạc, thành ấp. Xả ly bằng đảng, đa cầu chi xứ. Bất tham y thực, bất đắc trữ tụ cốc mễ, thực cụ. Bất đắc thọ súc tài vật, sanh tư. Bất đắc tham cầu danh văn, lợi dưỡng. Bất tích trọng mạng, thường niệm xả thân.

()不得居處聚落城邑。舍離朋黨多求之處。不貪衣食不得貯聚穀米食具。不得受畜財物生資。不得貪求名聞利養。不惜重命常念捨身。

(Kinh: Chẳng được ở trong thôn xóm, thành, ấp. Lìa bỏ bè đảng và chỗ nhiều tham cầu. Chẳng tham cơm áo, chẳng được tích trữ gạo, thóc, đồ ăn. Chẳng được nhận lấy, cất chứa tiền tài, các vật dụng sinh hoạt. Chẳng được tham cầu tiếng tăm, lợi dưỡng. Chẳng tiếc quý thân mạng, thường nghĩ xả thân).

Trụ xứ A Lan Nhã có hai pháp nên hành. Trước kia, khi chúng tôi ở trong núi, có thiện tri thức dạy chúng tôi hai hạnh sau đây, tức là hạnh xả thân và hạnh xả thức. Trước là xả cái thân, đến chỗ A Lan Nhã, hoặc là chỗ hang động có La Sát sống, hoặc là vách đá cheo leo, hoặc nơi có cây to, hoặc bên hang thẳm, các chỗ hiểm trở, chỗ khó khăn. Ở tại chỗ hiểm nạn, mà chẳng có tai nạn, có thể hành pháp tắc để thủ hộ. Đối với chuyện xả thân ở đây, [phải hiểu] xả thân chẳng phải là tự sát! Nhưng nếu có La Sát muốn ăn thân này, có thể giao ra sanh mạng cúng dường, khiến cho quỷ ấy được nghe lời dạy về Đệ Nhất Nghĩa Đế. Xả thân này để thí giáo ngôn tối thượng thừa, cho đến xả thức, chẳng câu nệ hết thảy các pháp, chẳng câu nệ hết thảy các chỗ. Hiện thời, người trụ A Lan Nhã rất ít, có nhiều người né tránh thế gian. Nếu là người có tâm trí thật sự tịch tĩnh, xa lìa ồn náo, chẳng hướng tới danh lợi, chẳng tham cầu quả báo danh lợi trong vị lai, thật sự hướng đến pháp tắc, sẽ được gọi là người cư trụ tại A Lan Nhã.

(Kinh) Viễn ly tham trước, hằng tu tử tưởng, thường hành tàm quý.

()遠離貪著恆修死想常行慚愧。

(Kinh: Xa lìa tham đắm, luôn tưởng như đã chết, thường giữ lòng hổ thẹn).

Rất nhiều người đã đọc truyện ký của ngài Mật Lặc Nhật Ba (Milarepa)[2], trong ấy, có khá nhiều cách tu trì tàm quý, cho đến xả thân để tu trì. Trong trụ xứ A Lan Nhã, các thiện tri thức phải nên siêng tu pháp này. Đối với Ban Châu tam-muội hạnh, cũng nên tư duy như thế, quan sát như thế, tu trì như thế.

(Kinh) Bất tạo chư ác, nhiếp thọ chánh pháp, vô hữu nghi tâm, thường niệm viễn ly, bất thủ chúng tướng. Đương tu từ tâm, vật hoài hiềm oán. Thường khởi từ bi, vô hành sân khuể, an tâm hỷ xả, mạc tưởng ái tăng. Thường đương kinh hành, phá trừ Thụy Cái. Hiền Hộ! Xuất gia Bồ Tát nhược năng an trụ như thị pháp hạnh, tắc năng tu học, giải thuyết, tư duy như thị Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội  dã.

()不造諸惡攝受正法無有疑心常念遠離不取衆相。當修慈心勿懷嫌怨。常起慈悲無行瞋恚安心喜舍莫想愛憎。常當經行破除睡蓋。賢護出家菩薩若能安住如是法行則能修學解說思惟如是念佛現前三昧也

(Kinh: Chẳng tạo các ác, nhiếp thọ chánh pháp, chẳng có tâm nghi, thường nghĩ xa lìa, chẳng giữ lấy các tướng. Hãy nên tu từ tâm, đừng ôm lòng hiềm oán. Thường dấy lòng từ bi, chẳng dấy lòng sân hận, an tâm nơi hỷ xả, đừng nghĩ đến yêu ghét. Hãy thường nên kinh hành, phá trừ cái chướng mê ngủ. Này Hiền Hộ! Xuất gia Bồ Tát nếu có thể an trụ trong pháp hạnh như thế, sẽ có thể tu học, giải nói, tư duy Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội như thế).

Trong phần trước, Hiền Hộ Bồ Tát đã thay mặt đại chúng xuất gia khải thỉnh giáo pháp, đức Thế Tôn đã như thật giải đáp pháp tắc  đó.

(Kinh) Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát phục bạch Phật ngôn: – Hy hữu Thế Tôn! Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, sở thuyết kinh điển, thậm thâm, thậm thâm, tối thắng vi diệu, bất khả tư nghị. Nhiên bỉ vị lai chư Bồ Tát đẳng, giải đãi, lãn nọa, tuy văn như thị thâm diệu kinh điển, sanh đại khủng bố, kinh nghi thoái một, bất phát hoan hỷ, ái nhạo chi tâm. Bỉ đẳng đương phục tác như thị niệm: “Ngã kim đương ưng dư chư Phật sở, nãi khả tu tập như thị kinh điển. Sở dĩ giả hà? Ngã kim tự tri đa chư chướng nạn, thân ngộ bệnh khổ, khí lực thậm vi, ninh kham tu hành như thị kinh điển?”

()爾時賢護菩薩復白佛言希有世尊如來應供等正覺所說經典甚深甚深最勝微妙不可思議。然彼未來諸菩薩等懈怠懶惰雖聞如是深妙經典生大恐怖驚疑退沒不發歡喜愛樂之心。彼等當復作如是念我今當應餘諸佛所乃可修習如是經典。所以者何我今自知多諸障難身遇病苦氣力甚微寧堪修行如是經典

(Kinh: Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát lại bạch cùng đức Phật rằng: – Hy hữu Thế Tôn! Kinh điển do Như Lai Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đã nói rất sâu, thật sâu, vi diệu thù thắng nhất, chẳng thể nghĩ bàn. Nhưng các vị Bồ Tát trong đời vị lai giải đãi, lười nhác, tuy nghe kinh điển sâu mầu như thế, lại sanh lòng sợ hãi to lớn, kinh hoảng, ngờ vực, lui sụt, chẳng phát tâm hoan hỷ và yêu thích. Họ sẽ lại còn nghĩ như thế này: “Ta nay hãy nên từ chỗ nơi các đức Phật khác tu tập kinh điển như thế. Vì sao vậy? Ta nay tự biết [chính mình] nhiều chướng nạn, thân gặp bệnh khổ, khí lực hết sức yếu ớt, há kham nổi tu hành kinh điển như thế ư?”)

Do thân thể yếu kém, lắm chướng duyên, bèn chẳng tu hành pháp này. Chúng ta thường gặp những kẻ có kiểu suy nghĩ đúng như Hiền Hộ Bồ Tát đã nói. Trong một tài liệu thống kê những người hành pháp Ban Châu tại Đài Loan đã chỉ rõ: Tại Đài Loan, nhiều người mắc bệnh nan y hành pháp này, chẳng hạn như các bệnh nhân ung thư v.v… Trên thực tế, pháp này hết thảy mọi người đều có thể hành, chỉ cần lìa bỏ các duyên, muốn chứng Chư Phật Hiện Tiền tam-muội, thì sẽ có thể hành trì, nhưng người đời Mạt Pháp, thân tâm yếu kém, phước báo chẳng đủ, hễ hơi thoái đọa, nhân duyên hành pháp sẽ chẳng đủ. Đối với chuyện này, chúng ta phải nên khéo quan sát.

(Kinh) Thế Tôn! Bỉ bối như thị, ư thậm thâm pháp, cánh sanh phóng xả, viễn ly chi tâm, bất năng phát cần dũng mãnh, tinh tấn, nhạo dục thành tựu như thị kinh điển. Thế Tôn! Nhĩ thời, diệc đương hữu chư Bồ Tát tinh tấn cần cầu, chuyên niệm chi giả, ái nhạo thị pháp, khuyến trì thị pháp, nhiếp thọ thị pháp. Nhược chư pháp sư thuyết thị pháp giả, ư thị pháp trung, như pháp hành cố, năng xả thân mạng, bất trước danh văn, bất cầu lợi dưỡng, bất tự tuyên thuyết kỷ thân công năng, bất nhiễm y bát.

()世尊彼輩如是於甚深法 更生放舍 遠離之 不能發勤勇猛精進樂欲成就如是經典。世尊爾時亦當有諸菩薩精進勤求專念之者愛樂是法勸持是法攝受是法。若諸法師說是法者於是法中如法行故能捨身命不著名聞不求利養不自宣說己身功能不染衣鉢。

(Kinh: Bạch Thế Tôn! Hạng người ấy như thế, đối với pháp rất sâu, lại sanh lòng buông bỏ, xa lìa, chẳng thể phát tâm siêng năng, dũng mãnh, tinh tấn, mong muốn thành tựu kinh điển như thế. Bạch Thế Tôn! Lúc bấy giờ, cũng sẽ có các Bồ Tát là người tinh tấn siêng cầu, chuyên niệm, yêu mến pháp này, khuyên trì pháp này, nhiếp thọ pháp này. Nếu các pháp sư nói pháp này, do ở trong pháp này đúng như pháp mà hành, có thể xả thân mạng, chẳng chấp trước tiếng tăm, chẳng cầu lợi dưỡng, chẳng tự tuyên nói công năng của chính mình, chẳng nhiễm y bát).

“Bất nhiễm y bát” tức là chẳng biểu lộ thiện duyên do mình đã hành, hay công đức do trì giới, cho nên nói là “bất tuyên kỷ năng” (chẳng tuyên nói năng lực của chính mình).

(Kinh) Bất nhạo thành ấp, thường thú không nhàn sơn lâm tĩnh xứ. Kỳ hoặc văn thị vi diệu pháp cố, sanh đại hoan hỷ, cánh đương cụ túc, phát cần tinh tấn, thính thọ như thị vi diệu pháp môn. Thường độc tụng cố, thường niệm trì cố, tư duy nghĩa cố, như thuyết hành cố, bỉ đẳng ư vị lai thế chư Như Lai sở, phi đồ trực dục cầu bỉ đa văn, diệc vô đản cầu tại ư hữu xứ.

()不樂城邑常趣空閒山林靜處。其或聞是微妙法故生大歡喜更當具足發勤精進聽受如是微妙法門。常讀誦故常念持故思惟義故如說行故彼等於未來世諸如來所非徒直欲求彼多聞亦無但求在於有處。

(Kinh: Chẳng thích thành, ấp, thường đến chỗ tĩnh mịch nơi núi rừng thanh vắng. Hoặc do nghe pháp vi diệu này mà sanh lòng hoan hỷ to lớn, hãy nên phát tâm siêng năng, tinh tấn trọn đủ, nghe nhận pháp môn vi diệu như thế. Do thường đọc tụng, do thường niệm trì, do tư duy ý nghĩa, do hành đúng như lời dạy, trong đời vị lai, họ sẽ ở chỗ các đức Như Lai không chỉ là mong cầu đa văn, mà cũng chẳng chỉ cầu phước báo nơi thân sau).

Hai pháp đa văn và hữu xứ (mong có thân sau) chính là điều tham ái của hữu tình trong đời Mạt Pháp. Trong đại chúng xuất gia và tại gia học Phật hiện thời, người đa văn thì nhiều, người hành pháp rất hiếm hoi. Chúng ta có thể quan sát chung quanh, có thể quan sát tự tâm, tùy tiện tìm một vị xuất gia học Phật hay kẻ tại gia, nếu thuyết pháp thì ai nấy tựa hồ như Phật chẳng ngăn ngại, nhưng nói đến hành pháp, ai nấy đều chẳng được! Người tương ứng mười phần thưa thớt, kẻ đa văn quá ư là nhiều! Chúng ta có thể y giáo quan sát, đừng dùng tự tâm, tự mạn để quan sát! “Diệc vô đản cầu tại ư hữu xứ” nghĩa là chẳng cầu phước báo nơi thân sau. Kẻ hành các thiện duyên mà mong cầu thiện báo hay lạc báo (quả báo vui sướng) trong vị lai rất ư là đông, nhưng người chẳng cầu phước báo trong đời sau, lợi ích thế gian xuất ly luân hồi rộng khắp, hết sức thưa thớt! Đừng nói ai khác, hãy tự xét bản thân chúng ta, [sẽ thấy chính mình phạm lỗi tham cầu y hệt]. Đấy là tướng trạng trong thời Mạt Pháp.

(Kinh) Duy vị thành tựu chư công đức cố, thường niệm cần cầu, tinh tấn, dũng mãnh. Thế Tôn! Nhiên phục ưng hữu vãng tích dĩ tằng cúng dường chư Phật, túc chủng thiện căn chư thiện nam tử, thiện nữ nhân bối, phát đại tinh tấn, vị văn như thị vi diệu pháp cố, cánh phát như thị đại thệ trang nghiêm: “Nguyện ngã đương đắc càn kiệt cơ phu, tán cốt, tiêu tủy, xí nhiên thân tâm, khổ hạnh bất tức, tất dục thành tựu như thị diệu điển. Chung vô tạm thời giải đãi, lãn nọa, nhi bất thính văn vi diệu thắng pháp. Diệc vô bất tư thậm thâm nghĩa lý, phục vô xả tha, bất vị tuyên thuyết. Nhi thường dũng mãnh, hành đại tinh tấn, đản vị nhiếp thọ chư Bồ Tát cố, thính văn Như Lai như thị diệu điển. Văn dĩ, tức tiện sanh hoan hỷ tâm”.

()唯爲成就諸功德故常念勤求精進勇猛。世尊然復應有往昔已曾供養諸佛宿種善根諸善男子善女人輩發大精進爲聞如是微妙法故更發如是大誓莊嚴願我當得幹竭肌膚散骨消髓熾然身心苦行不息必欲成就如是妙典。終無暫時懈怠懶惰而不聽聞微妙勝法。亦無不思甚深義理復無舍他不爲宣說。而常勇猛行大精進但爲攝受諸菩薩故聽聞如來如是妙典。聞已即便生歡喜心

(Kinh: Chỉ vì thành tựu các công đức, thường nghĩ siêng cầu, tinh tấn, dũng mãnh. Bạch Thế Tôn! Nhưng lại có các hàng thiện nam tử, thiện nữ nhân xưa kia đã từng cúng dường chư Phật, gieo các thiện căn từ trước, phát đại tinh tấn, do được nghe pháp vi diệu như thế, bèn phát đại thệ trang nghiêm như thế này: – “Nguyện con sẽ khô cạn da thịt, nát xương, tiêu tủy, thân tâm hừng hực, khổ hạnh chẳng ngơi, ắt muốn thành tựu kinh điển mầu nhiệm như thế, trọn chẳng tạm thời giải đãi, lười nhác chẳng nghe pháp thù thắng vi diệu. Cũng chẳng hề không suy nghĩ nghĩa lý rất sâu, lại chẳng bỏ người khác, chẳng vì họ tuyên nói. Lại thường dũng mãnh, hành đại tinh tấn, chỉ vì nhiếp thọ các vị Bồ Tát, lắng nghe kinh điển mầu nhiệm của Như Lai. Nghe xong, liền sanh tâm hoan hỷ”).

Đối với thệ nguyện đại trang nghiêm trong đoạn văn tự này, chúng ta hãy nên quan sát, siêng năng thủ hộ, chẳng thể lìa bỏ! Nếu lìa bỏ, đối với pháp này, khó thể thành tựu được!

 (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn tán bỉ Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: “Thiện tai! Thiện tai! Như nhữ sở thuyết, ngã kim tùy hỷ. Hiền Hộ! Ngã tùy hỷ cố, nhất thiết tam thế hằng hà sa đẳng chư Phật Thế Tôn, giai diệc tùy hỷ”. Thời, bỉ Hiền Hộ Bồ Tát phục bạch Phật ngôn: – Nhược hữu tại gia Bồ Tát, xử ư thế gian, văn thị tam-muội, dục tự tư duy, tức vị tha thuyết, nãi chí nhất nhật, hoặc kinh nhất dạ. Thị nhân an trụ kỷ chủng hành pháp, đương đắc thành tựu Tư Duy tam-muội, vị tha thuyết dã?

()爾時世尊贊彼賢護菩薩言善哉善哉如汝所說我今隨喜。賢護我隨喜故一切三世恆河沙等諸佛世尊皆亦隨喜。時彼賢護菩薩復白佛言若有在家菩薩處於世間聞是三昧欲自思惟即爲他說乃至一日或經一夜。是人安住幾種行法當得成就思惟三昧爲他說也?」

(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen ngợi Hiền Hộ Bồ Tát rằng: “Lành thay! Lành thay! Đúng như ông đã nói, ta nay tùy hỷ. Này Hiền Hộ! Do ta tùy hỷ, hết thảy các đức Phật Thế Tôn trong ba đời nhiều như số cát sông Hằng cũng đều tùy hỷ”. Khi ấy, Hiền Hộ Bồ Tát lại bạch cùng đức Phật rằng: – Nếu có tại gia Bồ Tát, ở trong thế gian, nghe tam-muội này, muốn tự tư duy, liền vì người khác nói, cho đến trong một ngày, hoặc trải qua một đêm. Người ấy an trụ trong mấy loại hành pháp thì sẽ được thành tựu Tư Duy tam-muội này, vì người khác tuyên thuyết?)

Chúng ta thấy rất rõ ràng: Trong phần trước, Hiền Hộ Bồ Tát thay mặt đại chúng xuất gia thưa hỏi đức Thế Tôn [chúng con phải nên] dùng gì để vận dụng, thủ hộ, tu tập Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội? Nay Ngài thay mặt hàng tại gia Bồ Tát khải vấn.

(Kinh) Phật ngôn: – Hiền Hộ! Bỉ tại gia Bồ Tát xử ư thế gian, nhược dục tu tập Tư Duy tam-muội, hoặc nhất nhật, nhất dạ, nãi chí nhất cấu ngưu nhũ thời giả, ngô kim ngữ nhữ: Bỉ tại gia Bồ Tát ký cư thế gian, đương ưng chánh tín, bất khởi xan tham, thường niệm hành thí, tùy đa thiểu thí, đương nhất thiết thí, bất cầu quả báo, ưng quy y Phật. Hựu quy y Pháp, diệc quy y Tăng, bất sự thiên thần, diệc vô lễ bái. Bất sanh tật đố, thường niệm tùy hỷ, đương tu thanh tịnh, như pháp hoạt mạng, bất ái nhi nữ, bất trước thê thiếp, bất nhiễm cư gia, bất đam tài bảo, thường nhạo xuất gia. Niệm trừ tu phát, tu Bát Quan Trai, hằng trụ già-lam, thường hoài tàm quý, phát Bồ Đề tâm, bất niệm dư thừa. Kiến hữu trì giới thanh tịnh tỳ-kheo, tu phạm hạnh giả, chung vô điều hý, thường hành cung kính, tùng thùy văn học như thử tam-muội. Đương ư sư sở, sanh ái kính tâm, khởi tôn trọng tâm, thiện tri thức tưởng, sanh giáo sư tưởng, khởi chư Phật tưởng. Nhất thiết chúng cụ, tất dĩ phụng chi. Thường đương thức ân, hằng tư báo đức, dĩ năng giáo ngã vi diệu pháp cố.

()佛言賢護彼在家菩薩處於世間若欲修習思惟三昧或一日一夜乃至一𤚲牛乳時者吾今語汝彼在家菩薩既居世間當應正信不起慳貪常念行施隨多少施當一切施不求果報應歸依佛。又歸依法亦歸依僧不事天神亦無禮拜。不生嫉妒常念隨喜。當須清淨如法活命不愛兒女不著妻妾不染居家不躭財寶常樂出家。念除鬚髮修八關齋恆住伽藍常懷慚愧發菩提心不念餘乘。見有持戒清淨比丘修梵行者終無調戲常行恭敬從誰聞學如此三昧。當於師所生愛敬心起尊重心善知識想生教師想起諸佛想。一切衆具悉以奉之。常當識恩恆思報德以能教我微妙法故。

(Kinh: Đức Phật nói: – Này Hiền Hộ! Vị tại gia Bồ Tát ấy ở trong thế gian, nếu muốn tu tập Tư Duy tam-muội, hoặc một ngày, một đêm, cho đến trong khoảng thời gian vắt sữa bò, ta nay bảo ông: Vị tại gia Bồ Tát ấy đã ở trong thế gian, hãy nên chánh tín, chẳng dấy lòng keo tham, thường nghĩ bố thí, dẫu thí nhiều hay ít, đều nên thí cho hết thảy, chẳng cầu quả báo, hãy nên quy y Phật. Lại quy y Pháp, và cũng quy y Tăng, chẳng thờ thiên thần, mà cũng chẳng lễ bái [thiên thần]. Chẳng sanh ghen ghét, thường nghĩ tùy hỷ. Hãy nên tu thanh tịnh, đúng như pháp mà sống, chẳng yêu con cái, chẳng chấp trước thê thiếp, chẳng nhiễm đời sống tại gia, chẳng đắm đuối của cải, thường thích xuất gia. Nghĩ trừ bỏ râu tóc, tu Bát Quan Trai, luôn ở nơi già-lam, thường ôm lòng hổ thẹn, phát Bồ Đề tâm, chẳng nghĩ tới các thừa khác. Thấy có tỳ-kheo trì giới thanh tịnh, người tu phạm hạnh, trọn chẳng đùa bỡn, thường luôn cung kính, theo vị ấy nghe học tam-muội như thế. Hãy nên đối với thầy, sanh tâm kính yêu, dấy lòng tôn trọng, tưởng như thiện tri thức, tưởng như thầy dạy, dấy tâm tưởng như chư Phật. Hết thảy các vật đều dùng để dâng hiến. Thường nên biết ân, luôn nghĩ báo đức, do vị ấy có thể dạy ta pháp vi diệu).

Chẳng phải là vô duyên cớ đức Thế Tôn khen ngợi, tán dương sự vi diệu của Phật pháp, mà vì lợi ích thực tế của Phật pháp có thể thật sự khiến cho chúng ta thoát lìa khổ não vì sanh tử, sự mê hoặc của sanh tử, khổ não vì phiền não, sự mê hoặc của phiền não, sự khổ não của Kiến Tư, sự mê hoặc của Kiến Tư. Thật sự tiến nhập tự tại, tự biết đạo nghiệp Bồ Đề, cho đến viên mãn A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, lợi ích rộng khắp trời, người! Do đó, nghe diệu pháp vi diệu thù thắng này quả thật chẳng thể nghĩ bàn!

“Khởi tôn trọng tâm, thiện tri thức tưởng, sanh giáo sư tưởng, khởi chư Phật tưởng. Nhất thiết chúng cụ, tất dĩ phụng chi, thường đương thức ân, hằng tư báo đức” (Dấy lòng tôn trọng, tưởng như thiện tri thức, tưởng như thầy dạy, dấy tâm tưởng như chư Phật. Hết thảy các vật đều dùng để dâng hiến. Sẽ thường biết ân, luôn nghĩ báo đức), đây thật sự là nhằm dẫn phát tâm trí chúng ta thật sự tôn trọng, tự tôn (tự tôn trọng chân tâm của chính mình) đúng như thật. Hết thảy các ngoại duyên đều là tăng thượng duyên phụ trợ để chọn lựa hòng phát tâm. Hết thảy các pháp tắc trọn đủ tự thọ dụng và tha thọ dụng tuyệt đối xuất phát từ phát tâm.

(Kinh) Hiền Hộ! Bỉ tại gia Bồ Tát xử tục chi thời, ưng trụ như thị chư pháp hạnh dĩ. Nhiên hậu, giáo thị như thị tam-muội, như thị tư duy, như thị tu tập.

()賢護彼在家菩薩處俗之時應住如是諸法行已。然後教示如是三昧如是思惟如是修習

(Kinh: Này Hiền Hộ! Vị tại gia Bồ Tát ấy lúc ở trong thế tục, hãy nên trụ trong các pháp hạnh như thế. Sau đấy, chỉ dạy tam-muội như thế, tư duy như thế, tu tập như thế).

Trong phần trước đã nói “thường nghĩ xuất gia”, cho đến Bát Quan Trai Giới, phát Bồ Đề tâm, chẳng nghĩ tới các thừa khác, chỉ tu hành tinh tấn nơi pháp này, do nghe pháp mà sanh ý tưởng tôn trọng, [khởi lên] các thứ [tâm tưởng] như thế. Sau đó là “giáo thị như thị tam-muội, như thị tư duy, như thị tu tập” (chỉ dạy tam-muội như thế, tư duy như thế, tu tập như thế).

(Kinh) Thời, bỉ Hiền Hộ Bồ Tát phục bạch Phật ngôn: – Hy hữu Thế Tôn! Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, kim nãi vị bỉ xuất gia, tại gia chư Bồ Tát bối chánh tín thành tựu, nhạo thâm pháp giả, tuyên thuyết như thị vô thượng diệu pháp, linh trụ như thị vô lượng pháp hạnh. Nhiên hậu, đương đắc tư duy, giải thuyết như thị tam-muội.

()彼賢護菩薩復白佛言希有世尊如來應供等正覺今乃爲彼出家在家諸菩薩輩正信成就樂深法者宣說如是無上妙法令住如是無量法行。然後當得思惟解說如是三昧。

(Kinh: Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát lại bạch cùng đức Phật rằng: – Hy hữu Thế Tôn! Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác nay vì các vị xuất gia, tại gia Bồ Tát chánh tín thành tựu, ưa thích pháp sâu, tuyên nói vô thượng diệu pháp như thế, khiến cho họ trụ trong vô lượng pháp hạnh như thế. Sau đấy, sẽ được tư duy, giải nói tam-muội như thế).

“Vô thượng diệu pháp”: “Vô thượng” là chẳng có  đối  đãi, chẳng có tạo tác. Pháp thì mỗi pháp đều có diệu dụng, chẳng nhiễm, chẳng chấp, khiến cho chúng sanh thoát khỏi tất cả trầm luân trong thế gian, như hữu tình trong Dục Giới phần nhiều trầm luân trong các pháp đối đãi mà chẳng hay biết, lắm điều phải chọn lựa, lẩn quẩn trong thiện ác. Như hữu tình Sắc Giới phần nhiều đắm nhiễm trong sự thủ hộ Thiền Định, thậm chí dùng Thiền Định làm chỗ y chỉ cho sanh mạng. Như hữu tình trong Vô Sắc Giới thường thủ hộ Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Định. Đó đều là nghiệp tướng của lục đạo luân hồi. Người có thể vượt thoát tam giới là do có diệu pháp, cho nên “vô thượng diệu pháp” có thể khiến cho hữu tình trong thế gian thoát lìa tam giới, chẳng hoại tam giới, lợi ích hữu tình rộng khắp. Kẻ thoát khỏi tam giới, chẳng bị tam giới câu thúc, chẳng bị tam giới trói buộc. Nếu chẳng bị thiện ác trói buộc, sẽ có thể tự tại xuất ly Dục Giới. Nếu chẳng bị đắm nhiễm bởi Thiền Định, sẽ xuất ly Sắc Giới, cho đến Vô Sắc Giới. Pháp như thế là trí huệ thanh tịnh chẳng nhiễm, chẳng chấp trước, là pháp tắc an lạc thanh tịnh trực tiếp thoát khỏi tam giới. Do vậy gọi là “diệu pháp”.

(Kinh) “Thế Tôn! Như Lai diệt hậu, như thị tam-muội, ư Diêm Phù Đề, năng quảng hành phủ?” Phật cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: – Hiền Hộ! Ngã diệt độ hậu, thử tam-muội kinh, ư Diêm Phù Đề, tứ thiên niên trung quảng hành ư thế, nhi hậu ngũ bách niên, mạt nhất bách tuế trung, chánh pháp diệt thời, tỳ-kheo hành ác thời, phỉ báng chánh pháp thời, chánh pháp phá hoại thời, trì giới tổn giảm thời, phá giới xí thịnh thời, chư quốc tương phạt thời, đương tư chi tế, phả hữu chúng sanh xí nhiên thiện căn, vãng tích dĩ tằng thân cận chư Phật, cúng dường, tu hành, thực thiện chủng tử, vị bỉ chư trượng phu bối đắc thị kinh cố, thử tam-muội điển phục đương lưu hành ư Diêm Phù Đề. Sở vị Phật oai thần cố, cố linh bỉ đẳng ư ngã diệt hậu, văn thử kinh dĩ, hoan hỷ thư tả, độc tụng, thọ trì, tư duy kỳ nghĩa, vị tha giải thích, như thuyết tu hành.

()世尊如來滅後如是三昧於閻浮提能廣行不?」佛告賢護菩薩言賢護我滅度後此三昧經於閻浮提四千年中廣行於世而後五百年末一百歲中正法滅時比丘行惡時誹謗正法時正法破壞時持戒損減時破戒熾盛時諸國相伐時當斯之際頗有衆生熾然善根往昔已曾親近諸佛供養修行植善種子爲彼諸丈夫輩得是經故此三昧典復當流行於閻浮提。所謂佛威神故故令彼等於我滅後聞此經已歡喜書寫讀誦受持思惟其義爲他解釋如說修行

(Kinh: “Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, tam-muội như thế có thể lưu hành rộng rãi trong Diêm Phù Đề hay chăng?” Đức Phật bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: – Này Hiền Hộ! Sau khi ta diệt độ, nơi Diêm Phù Đề, kinh tam-muội này sẽ lưu hành rộng khắp cõi đời trong bốn ngàn năm, nhưng vào một trăm năm sau rốt của năm trăm năm cuối [thời Mạt Pháp], khi chánh pháp diệt, khi tỳ-kheo làm ác, khi chánh pháp bị phỉ báng, khi chánh pháp bị phá hoại, khi trì giới bị tổn giảm, khi phá giới lừng lẫy, khi các nước đánh lẫn nhau, trong thuở ấy, nếu có chúng sanh thiện căn lừng lẫy, xưa kia đã từng thân cận chư Phật, cúng dường, tu hành, gieo chủng tử lành, do các vị trượng phu ấy có được kinh này, kinh điển tam-muội này lại được lưu hành trong Diêm Phù Đề. Đó gọi là do oai thần của đức Phật, khiến cho họ sau khi ta diệt độ, họ đã nghe kinh này xong, bèn hoan hỷ biên chép, đọc tụng, thọ trì, tư duy ý nghĩa, vì người khác giải thích, tu hành đúng như lời dạy).

Đây là đức Thế Tôn thọ ký, là lời chân thật, là lời như thật, chẳng phải là suy đoán. Chúng ta hãy khéo tư duy. Đức Thế Tôn nói “chánh pháp diệt thời” (khi chánh pháp diệt), hiện thời thì Chánh Pháp và Tượng Pháp đều đã qua, đang bước vào thời Mạt Pháp, cũng là vào “hậu ngũ bách tuế” (năm trăm năm cuối cùng) thì trong một trăm năm sau rốt [của năm trăm năm ấy], sẽ phát khởi lợi ích như thế đó. Vì sao kinh điển như thế có thể lưu thông trong Diêm Phù Đề? Vì các vị trượng phu đã từng gieo các thiện căn nơi kinh điển này tu trì, thủ hộ.

(Kinh) Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát cập Bảo Đức Ly Xa Tử, văn Như Lai thuyết chánh pháp diệt thời, bi khấp vũ lệ.

()爾時賢護菩薩及寶德離車子聞如來說正法滅時悲泣雨淚。

(Kinh: Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát và Bảo Đức Ly Xa Tử nghe đức Như Lai nói lúc chánh pháp diệt, buồn khóc trào lệ).

Có nhiều vị thiện tri thức trông thấy đức Thế Tôn sắp nhập diệt, muốn khuyên đức Phật trụ thế vì thương xót thế gian, cho nên “bi khấp vũ lệ” (buồn khóc, trào lệ). Ở đây, nghe nói lúc chánh pháp diệt thì cũng giống như thế, vì chư Phật Như Lai là chỗ nương cậy của chúng sanh, giáo pháp do chư Phật đã nói cũng là chiếc bè báu để hết thảy chúng sanh thoát lìa biển khổ. Pháp này diệt sẽ khiến cho hết thảy chúng sanh mất chỗ nương cậy, cho nên “buồn khóc trào lệ”.

(Kinh) Tùng tòa nhi khởi, chỉnh lý y phục, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng cung kính, nhi bạch Phật ngôn.

()從座而起整理衣服偏袒右肩右膝着地合掌恭敬而白佛言。

(Kinh: Từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh đốn y phục, trật vai áo phải, gối phải đặt sát đất, chắp tay cung kính, mà bạch cùng đức Phật rằng).

“Thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa” (Trật vai áo phải, gối phải đặt sát đất): Cho đến nhiễu theo chiều phải ba vòng, đó là lễ tiết khải thỉnh giáo pháp của Ấn Độ do lòng cung kính.

(Kinh) “Thế Tôn! Ngã đẳng đương ư Như Lai diệt hậu. Hậu ngũ bách tuế, mạt bách niên trung, sa-môn điên đảo thời, chánh pháp dục diệt thời, phỉ báng chánh pháp thời, phá hoại chánh pháp thời, trì giới tổn giảm thời, phá giới tăng trưởng thời, chánh pháp hộ giảm thời, phi pháp hộ tăng thời, chúng sanh loạn thời, chư quốc tương phạt thời, năng ư Như Lai sở thuyết kinh điển diệu tam-muội trung, độc tụng, thọ trì, tư duy nghĩa lý, vị tha quảng thuyết. Hà dĩ cố? Ngã tâm vô yếm, chung bất tri túc. Thị cố, ngã ư Như Lai sở thuyết Tu Đa La trung, năng thính văn cố, năng thư tả cố, năng độc tụng cố, năng thọ trì cố, năng tư duy cố, năng tu hành cố, năng quảng thuyết cố”. Nhĩ thời, Thương Chủ ưu-bà-tắc, Già Ha Ngập Đa cư sĩ chi tử, Na La Đạt Đa Ma Nạp đẳng, văn Như Lai thuyết vị lai thế trung, chánh pháp hoại diệt, vị chánh pháp cố, bi ai khấp lệ, tùng tòa nhi khởi, chỉnh lý y phục, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, cung kính hiệp chưởng, nhi bạch Phật ngôn.

()世尊我等當於如來滅後。後五百歲末百年中沙門顛倒時正法欲滅時誹謗正法時破壞正法時持戒損減時破戒增長時正法護減時非法護增時衆生亂時諸國相伐時能於如來所說經典妙三昧中讀誦受持思惟義理爲他廣說。何以故我心無厭終不知足。是故我於如來所說修多羅中能聽聞故能書寫故能讀誦故能受持故能思惟故能修行故能廣說故。爾時商主優婆塞伽訶岌多居士之子那羅達多摩納等聞如來說未來世中正法壞滅爲正法故悲哀泣淚從坐而起整理衣服偏袒右肩右膝着地恭敬合掌而白佛言。

(Kinh: “Bạch Thế Tôn! Sau khi đức Như Lai diệt độ, chúng con sẽ vào lúc một trăm năm rốt sau của năm trăm năm cuối, là lúc sa-môn điên đảo, lúc chánh pháp sắp diệt, lúc phỉ báng chánh pháp, lúc phá hoại chánh pháp, lúc trì giới tổn giảm, lúc phá giới tăng trưởng, lúc hộ trì chánh pháp giảm thiểu, lúc hộ trì phi pháp tăng trưởng, lúc chúng sanh loạn lạc, lúc các nước chinh phạt lẫn nhau, có thể đối với tam-muội mầu nhiệm trong kinh điển do đức Như Lai đã nói mà đọc tụng, thọ trì, tư duy nghĩa lý, vì người khác rộng nói. Vì lẽ nào? Tâm con chẳng chán, trọn chẳng biết đủ. Vì thế, chúng con đối với Khế Kinh do Như Lai đã nói có thể lắng nghe, có thể biên chép, có thể đọc tụng, có thể thọ trì, có thể tư duy, có thể tu hành, có thể nói rộng khắp”. Lúc bấy giờ, ưu-bà-tắc Thương Chủ là con của cư sĩ Già Ha Ngập Đa, Na La Đạt Đa Ma Nạp v.v… nghe Như Lai nói chánh pháp sẽ hoại diệt trong đời vị lai, buồn bã tuôn lệ, từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh đốn y phục, trật vai áo phải, gối phải đặt sát đất, cung kính chắp tay, bạch với đức Phật rằng).

Chúng ta thấy: Không chỉ là hàng xuất gia thực hiện lễ tiết “thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa” (trật vai áo phải, gối phải đặt sát đất); tại gia Bồ Tát cũng giống như thế. Đây là phong tục tập quán của Ấn Độ, là phương thức biểu thị sự thủ hộ toàn thể.

(Kinh) Thế Tôn! Ngã đẳng năng ư Như Lai sở thuyết diệu Tu Đa La, cập năng thọ trì Tu Đa La giả, ngã giai nhiếp hộ, linh đắc tăng trưởng. Thế Tôn! Ngã kim phục vị Như Lai sở thuyết vi diệu kinh điển, tác kỳ gia hộ, linh đắc quảng tuyên, cửu trụ ư thế. Hà dĩ cố? Dĩ thị kinh điển năng ư vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, đa sở thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cố. Thế Tôn! Ngã đẳng đắc văn vị tằng hữu pháp, chí tâm thọ trì, tư duy kỳ nghĩa, vị tha giải thuyết, quảng hành lưu bố dã. Thế Tôn! Ngã kim văn thử thậm thâm kinh pháp, nhất thiết thế gian vô hữu tín  giả. Ngã  tiên  vị  kỳ  tạo  thiện  căn  khí, nhiên hậu vị giải.

()世尊我等能於如來所說妙修多羅及能受持修多羅者我皆攝護令得增長。世尊我今復爲如來所說微妙經典作其加護令得廣宣久住於世。何以故以是經典能於無量阿僧祇劫多所成就阿耨多羅三藐三菩提故。世尊我等得聞未曾有法至心受持思惟其義爲他解說廣行流佈也。世尊我今聞此甚深經法一切世間無有信者。我先爲其造善根器然後爲解

(Kinh: Bạch Thế Tôn! Chúng con có thể đối với Tu Đa La mầu nhiệm do Như Lai đã nói và người có thể thọ trì Tu Đa La, đều có thể nhiếp thọ, hộ trì, khiến cho tăng trưởng. Bạch Thế Tôn! Con nay lại vì kinh điển vi diệu do Như Lai đã nói mà thực hiện gia hộ, khiến cho kinh được tuyên lưu rộng rãi, tồn tại lâu dài trong thế gian. Vì sao vậy? Do kinh điển ấy có thể trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp thành tựu nhiều người đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Bạch Thế Tôn! Chúng con được nghe pháp chưa từng có, chí tâm thọ trì, tư duy nghĩa lý, vì người khác giải nói, lưu truyền rộng rãi. Bạch Thế Tôn! Chúng con nay nghe kinh pháp rất sâu này, [nếu như] hết thảy thế gian chẳng có ai tin, con sẽ trước hết vì họ tạo pháp khí thiện căn, sau đó sẽ vì họ giải nói).

Chúng ta thấy các vị tại gia và xuất gia Bồ Tát đều khẳng định sau khi đức Thế Tôn diệt độ, lúc chánh pháp diệt, cho đến khi các thứ tướng ác hiện ra, họ sẽ làm cho pháp Ban Châu tam-muội này được lưu truyền rộng khắp trong cõi đời, truyền bá trong cõi đời, muốn lợi ích rộng khắp hữu tình; cho nên phát thệ nguyện như thế, thủ hộ Tam Bảo và giáo ngôn của Tam Bảo. Các vị tại gia và xuất gia Bồ Tát học Phật trong hiện thời đã dùng gì để nhận biết và thủ hộ tâm trí của chính mình? Các vị thiện tri thức ơi! Hãy khéo quan sát, khéo liễu giải tâm nguyện và hành vi của chính mình.

Có khi thủ hộ Phật pháp càng trọng yếu hơn tự lực tu trì, vì thủ hộ Phật pháp có thể khiến cho Phật pháp được truyền bá rộng khắp. Đương nhiên, tự lợi chân thật của người tu chứng cũng là chẳng thể nghĩ bàn. Nếu đã có thể thủ hộ, lại có thể chân thật tu hành, đấy thật sự là thành tựu thủ hộ. Nếu có thể khéo thủ hộ, truyền bá rộng khắp, dẫu chính mình chưa hành trì pháp tắc, nhưng công đức và lợi ích do tùy hỷ sẽ chẳng thể nghĩ bàn như đức Thế Tôn đã tuyên thuyết trong bộ kinh này.

Trong đời Mạt Pháp, nếu hộ trì đạo tràng, hộ trì giáo pháp, hộ trì người hành pháp, yêu thích thủ hộ, tán thán, tùy hỷ, công đức của người ấy sẽ chẳng thể nghĩ bàn. Vì Mạt Pháp là lúc pháp suy, thế mà nhân duyên thế tục hừng hực, tà kiến điên đảo hừng hực, cho nên nhân duyên hộ trì pháp, truyền bá Phật pháp, và tu tập Phật pháp càng quan trọng hơn!

(Kinh) Nhĩ thời, chúng trung hữu ngũ bách tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, tứ bộ chúng đẳng, văn Như Lai thuyết vị lai thế trung, chánh pháp hoại diệt, vị chánh pháp cố, bi khấp vũ lệ, tùng tòa nhi khởi, chỉnh trì y phục, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, cung kính hiệp chưởng, nhi bạch Phật ngôn: – Thế Tôn! Ngã đẳng thọ trì Như Lai chánh pháp, nhiên chư Đại Sĩ thiện trượng phu bối, nhĩ thời ư ngã đương tác y chỉ, đương tác phú hộ, vị ngã kinh kỷ, năng linh ngã đẳng ư Như Lai sở thuyết như thị thậm thâm Tu Đa La trung, thủ chân thật nghĩa, như pháp tu hành. Duy nguyện Thế Tôn, phó chúc ngã đẳng chư thiện trượng phu phân minh lập ký. Hà dĩ cố? Thế Tôn! Ngã cập bỉ đẳng giai năng hộ trì, nhiếp thọ chánh pháp cập nhiếp thọ giả cố.

()爾時衆中有五百比丘比丘尼優婆塞優婆夷四部衆等聞如來說未來世中正法壞滅爲正法故悲泣雨淚從坐而起整持衣服偏袒右肩右膝着地恭敬合掌而白佛言世尊我等受持如來正法然諸大士善丈夫輩爾時於我當作依止當作覆護爲我經紀能令我等於如來所說如是甚深修多羅中取真實義如法修行。唯願世尊付囑我等諸善丈夫分明立記。何以故世尊我及彼等皆能護持攝受正法及攝受者故

(Kinh: Lúc bấy giờ, trong đại chúng có năm trăm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, bốn bộ chúng, nghe Như Lai nói trong đời vị lai, chánh pháp hoại diệt, vì chánh pháp nên buồn khóc, trào lệ, từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh đốn y phục, trật vai áo phải, gối phải đặt sát đất, cung kính chắp tay, mà bạch cùng đức Phật rằng: – Bạch Thế Tôn! Chúng con thọ trì chánh pháp của Như Lai, nhưng các vị thiện trượng phu đại sĩ này trong khi đó sẽ làm chỗ y chỉ cho chúng con, sẽ che chở, bảo vệ, lo toan cho chúng con, khiến cho chúng con có thể giữ lấy nghĩa chân thật nơi Tu Đa La rất sâu do Như Lai đã nói như thế, đúng như pháp tu hành. Chỉ mong đức Thế Tôn phân minh thọ ký, phó chúc cho chúng con và các vị thiện trượng phu ấy. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Chúng con và họ đều có thể hộ trì, nhiếp thọ chánh pháp và người nhiếp thọ).

Chúng ta thấy các vị xuất gia tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, và chúng tại gia ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, vì muốn khiến cho pháp này trụ thế, đã khuyến thỉnh đức Thế Tôn phân minh thọ ký, hòng làm cho pháp này được rõ ràng tồn tại lâu dài trong cõi đời. Chúng ta học tập một pháp tắc, nếu chẳng có cội nguồn xuất xứ, sẽ chẳng thể thật sự giải quyết vấn đề. Chẳng hạn như đối với các phiền não “sanh, lão, bệnh, tử”, [nếu chẳng hiểu rõ cội nguồn phát sanh các phiền não ấy] mà có thể thật sự giải quyết, sẽ chẳng có lẽ ấy! Chúng ta có thể tiêu trừ đủ loại Phiền Não Chướng, tiêu trừ đủ loại Sở Tri Chướng trong đời hiện tại, nhưng nếu chẳng thuận theo pháp giáo như lý, thì cũng chẳng thể kiến lập từ đâu được! Vì thế, ở đây, nhằm mong đức Thế Tôn sẽ thọ ký phân minh cho các hữu tình mà khải thỉnh như thế.

(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn tức tiện vi tiếu, phóng kim sắc quang. Kỳ minh biến chiếu thập phương thế giới chư Phật quốc dĩ, hoàn chí Phật sở, hữu nhiễu tam táp, tùng đảnh thượng một.

()爾時世尊即便微笑放金色光 。其明遍照十方

世界諸佛國已還至佛所右繞三匝從頂上沒。

(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liềm mỉm cười, tỏa ra quang minh sắc vàng. Quang minh ấy chiếu trọn khắp các cõi Phật trong mười phương thế giới xong, trở về chỗ Phật, nhiễu theo chiều phải ba vòng rồi biến mất nơi đỉnh đầu đức Phật).

Đấy là tướng thọ ký của chư Phật. Tướng thọ ký của hết thảy chư Phật đều có phóng quang minh, lợi ích rộng khắp vô lượng thế giới, chiếu sáng vô lượng thế giới. Nếu trán của đức Thế Tôn phóng quang, tức là sẽ tuyên dương giáo pháp rộng khắp với các vị Bồ Tát. Nếu cổ họng phóng quang, sẽ tuyên dương giáo pháp rộng khắp với các bậc trí giả Thanh Văn. Nếu ngực phóng quang, sẽ tuyên nói các giáo pháp với chư thiên và nhân loại. Nếu rốn phóng quang, phần nhiều là thuyết pháp cho loài quỷ thần. Nếu đầu gối phóng quang, phần nhiều là chiếu rọi các hữu tình thuộc súc sanh đạo và thuyết pháp cho họ. Nếu bàn chân phóng quang, có thể lợi ích rộng khắp hữu tình trong u minh địa ngục. Do vậy, trong khắp các nơi của lục đạo, đức Phật dùng quang minh nhiếp thọ, đối với mỗi đường, đều có cơ chế tương ứng, khiến cho họ được độ thoát. Ở đây, quang minh của đức Thế Tôn nhập vào đỉnh đầu, nhiễu theo chiều phải ba vòng, tức là khi đức Thế Tôn nói thọ ký, sẽ thị hiện tướng ấy.

(Kinh) Nhĩ thời, tôn giả A Nan tác như thị niệm: “Thế Tôn tích lai dĩ đa vi tiếu, nhiên ư tiếu thời, tất vi dị sự. Ngã kim ưng vấn vi tiếu nhân duyên”. Như thị niệm dĩ, tức tùng tòa khởi, chỉnh trì y phục, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng hướng Phật, dĩ kệ bạch ngôn: – Kỳ tâm thanh tịnh, hạnh vô uế, hữu đại oai đức, cự thần thông. Nhất thiết tối tôn thế trung thượng, hiển hiện vô cấu như minh nguyệt, vô ngại thánh trí giải thoát tâm. Ca-lăng-già thanh thiên trung tối. Nhất thiết dị luân mạc năng động. Kim hốt vi tiếu hữu hà duyên?

()爾時尊者阿難作如是念世尊昔來已多微笑然於笑時必爲異事。我今應問微笑因緣。如是念已即從坐起整持衣服偏袒右肩右膝着地合掌向佛以偈白言其心清淨行無穢有大威德巨神通。一切最尊世中上顯現無垢如明月。無礙聖智解脫心迦陵伽聲天中最。一切異輪莫能動今忽微笑有何緣

(Kinh: Lúc bấy giờ, tôn giả A Nan nghĩ như thế này: “Đức Thế Tôn trước nay đã mỉm cười nhiều lần, nhưng khi Ngài cười, ắt có chuyện lạ. Nay ta phải nên hỏi nhân duyên khiến Ngài mỉm cười”. Nghĩ như thế rồi, Ngài liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh đốn y phục, trật vai áo phải, gối phải đặt sát đất, chắp tay hướng về đức Phật, dùng kệ bạch rằng: – Tâm Ngài thanh tịnh, hạnh chẳng uế. Có đại oai đức, thần thông lớn. Tôn quý nhất trong cả cõi đời, hiển hiện vô cấu như trăng sáng, tâm thánh trí giải thoát vô ngại, tiếng Ca Lăng hay tuyệt cõi trời, hết thảy dị thuyết chẳng thể động. Nay do duyên gì bỗng mỉm cười?)

Tán tụng đức Thế Tôn có đại oai đức thanh tịnh, có đại oai đức thiện xảo, là bậc thầy tôn quý của thế gian, hiện tướng trăng sáng không cấu nhơ, dùng thánh trí vô ngại, tâm trí giải thoát để tuyên thuyết bằng âm thanh tuyệt vời, tức “Ca Lăng Già thanh” ([tiếng nói của đức Phật vi diệu] như tiếng chim Ca Lăng Tần Già hót) để truyền bá trong thế gian. Đức Thế Tôn thuyết pháp, trọn đủ tám loại diệu âm, thường gọi là phạm âm lưu truyền rộng khắp trong thế gian, khiến cho chúng sanh được nghe bèn đắc ngộ. “Ca Lăng Già thanh” chẳng phải là tiếng nam, hay tiếng nữ, tiếng chẳng trong trẻo, chẳng thô đục, tiếng chẳng cao, chẳng thấp, tiếng chẳng mạnh, chẳng yếu. Xa lìa tám âm thanh thế gian như thế đó, dùng âm thanh thanh tịnh để truyền bá rộng khắp trong thế gian. “Nhất thiết dị luân mạc năng động” tức là hết thảy tri kiến ngoại đạo quyết định sẽ tùy thuận [Phật ngôn], có thể trừ nghi.

(Kinh) Thông đạt chánh chân vị ngã thuyết, năng đa lợi ích Lưỡng Túc Tôn.

()通達正真爲我說能多利益兩足尊。

(Kinh: Thông đạt chánh chân vì con nói, Lưỡng Túc Tôn tạo nhiều lợi ích).

Tán thán đức Thế Tôn phước huệ trọn đủ, nói giáo pháp chân thật cho chúng ta.

(Kinh) Văn thị Như Lai vi diệu âm, nhất thiết giai đương đại hoan hỷ.

()聞是如來微妙音一切皆當大歡喜。

(Kinh: Nghe tiếng vi diệu của Như Lai, hết thảy sẽ đều đại hoan hỷ).

Như Lai dùng âm thanh vi diệu để mở mang tâm trí của con người, ban cho con người công đức thành tựu giải thoát, cho nên sẽ khiến cho nhiều chúng sanh hoan hỷ, hớn hở.

(Kinh) Chư Phật Thế Tôn khởi hư tiếu? Phật phục phóng quang hữu thắng nhân. Thùy ư tư nhật hoạch đại lợi? Thị cố kim ưng tuyên tiếu chỉ. Thùy ư kim nhật đắc chứng chân? Thùy ư kim nhật thọ pháp vương? Thùy ư kim nhật tự quán đảnh? Thùy ư kim nhật đăng Phật vị? Thùy ư kim nhật lợi thế gian? Thùy đương tổng tuyên Phật pháp tạng? Thùy ư Phật trí đắc thường trụ? Dĩ thị tôn ưng hiển tiếu duyên.

()諸佛世尊豈虛笑佛復放光有勝人。誰於斯日獲大利是故今應宣笑旨。誰於今日得證真誰於今日受法王誰於今日自灌頂誰於今日登佛位誰於今日利世誰當總宣佛法藏誰於佛智得常住以是尊應顯笑緣

(Kinh: Chư Phật Thế Tôn há cười suông? Phật phóng quang, có người thù thắng. Ngày nay ai được lợi to lớn? Vì thế, xin nói ý mỉm cười. Ngày nay ai được chứng lẽ chân? Ngày nay ai được Phật thọ ký? Ngày nay ai sẽ tự quán đảnh? Ngày nay ai sẽ lên ngôi Phật? Ngày nay ai sẽ lợi thế gian? Ai sẽ tổng tuyên Phật pháp tạng? Ai sẽ thường trụ nơi Phật trí? Phật hãy nên dạy duyên mỉm cười!)

Ngài A Nan tán thán đức Thế Tôn có lợi ích như vậy, cho đến chứng chân, đạt được đại lợi, tiếp nhận vương vị, thọ nghi thức quán đảnh, cho đến tiếp nhận Phật vị để lợi ích thế gian, tuyên thuyết pháp tạng. Hết thảy chư Phật xuất thế, không vị nào chẳng vì lợi ích thế gian, tuyên nói rộng rãi pháp tạng, thẳng thừng chỉ bày tâm trí của hết thảy chúng sanh. Hết thảy các pháp tạng chẳng lìa tâm trí hiện tiền của hết thảy chúng sanh. Do nhân duyên ấy, trước hết nói tới đại lợi, sau là nói đến nhập pháp vị, cho đến thành Phật lợi ích thế gian rộng khắp, tuyên dương pháp tạng.

(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn tức dĩ kệ cáo trưởng lão A Nan viết: – A Nan! Nhữ kiến Đại Tập phủ? Nhiếp hộ ngũ bách tùng tòa khởi.

()爾時世尊即以偈告長老阿難曰阿難汝見大集不攝護五百從坐起。

(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn dùng kệ bảo trưởng lão A Nan rằng: – A Nan! Ông thấy Đại Tập chăng? Nhiếp hộ năm trăm người đứng dậy).

Nay chúng ta đang học kinh Đại Tập; Đại Tập là đại chúng tụ tập, là kinh điển do đức Phật tuyên thuyết cho hữu tình trong Dục Giới và Sắc Giới. Như trong Long Tạng (Càn Long Đại Tạng Kinh), có các bộ (các tiểu loại) như Đại Tập Bộ, Bảo Tích Bộ, Bát Nhã Bộ, A Hàm Bộ, Tạp Bộ v.v… Kinh này thuộc về Đại Tập Bộ.

(Kinh) Thân tâm hoan hỷ phát thành ngôn, ngã bối đương lai hoạch tư pháp. Thử đẳng nhất tâm chiêm sát ngã, ngã ư hà thời diệc phục nhiên. Hàm ư ngã tiền hưng đại thệ, ngã bối đương lai chứng tư đạo. Phục hữu bát bối tùng tòa khởi, ngũ bách thượng thủ thử vi tôn. Bỉ ư mạt thế pháp hoại thời, vị thế gian pháp, cố tuyên thuyết. Ngã kim cáo nhữ như thị ngôn, ư thử chúng trung vô ngại trí. Thị bối phi ư nhất Phật sở, khởi lập hiệp chưởng kính chư tôn.

()身心歡喜發誠言我輩當來獲斯法。此等一心瞻察我我於何時亦復然。於我前興大誓我輩當來證斯道。復有八輩從坐起五百上首此爲尊。彼於末世法壞時爲世間法故宣說。我今告汝如是言於此衆中無礙智。是輩非於一佛所起立合掌敬諸尊。

(Kinh: Thân tâm hoan hỷ, nói chân thành: “Chúng con tương lai đắc pháp này”. Bọn họ nhất tâm nhìn ngắm Phật: “Khi nào con cũng được như thế?” Đều đối trước Phật, phát thệ lớn: “Mai sau chúng con chng đạo này”. Lại tám loại chúng cùng đứng dậy, có năm trăm người làm thượng thủ. Họ trong đời mạt, khi pháp hoại, vì pháp thế gian mà tuyên nói. Ta nay bảo ông như thế này: Như các vị ấy trí vô ngại, họ chẳng chỉ ở nơi một đức Phật, đứng dậy, chắp tay kính Thế Tôn).

“Thị bối phi ư nhất Phật sở, khởi lập, hiệp chưởng, kính chư tôn” (Những người ấy chẳng phải ở chỗ một đức Phật, đứng dậy, chắp tay, cung kính các đức Thế Tôn): Những người nghe giáo ngôn này, có thể liên tục thủ hộ, quan sát, tu tập, chẳng phải chỉ gặp một vị Phật, hai vị Phật, ba vị Phật.

(Kinh) Ngã quán vãng tích vô lượng thế, bát vạn chư Phật giai hiện tiền. Bát nhân vi thủ tùng tòa khởi, hoàn vị hộ trì thị diệu pháp.

()我觀往昔無量世八萬諸佛皆現前。八人爲首從坐起還爲護持是妙法。

(Kinh: Ta quán vô lượng đời xưa kia, tám vạn chư Phật đều hiện tiền. Tám người làm đầu đều đứng dậy, vẫn vì hộ trì diệu pháp này).

“Thị diệu pháp” chính là pháp tắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội.

(Kinh) Tiền thử bát vạn ức do-tha, phục trị như thị số chư Phật.

()前此八萬億由他復值如是數諸佛。

(Kinh: Trước đó, tám vạn ức do-tha, lại gặp chư Phật số như thế).

“Bát vạn ức” thì chúng ta dễ hiểu, nhưng đối với con số “do-tha” (na-do-tha, nayuta), thường là chúng ta chẳng thể vận dụng tư duy [để hình dung rõ ràng] cho mấy. Đó là số lượng cực đại, thậm chí chẳng thể tính kể, nhưng chư Phật Như Lai đối với chuyện chẳng thể nói kể, sẽ có cách diễn tả, còn có cách so sánh “bất khả xưng bất khả xưng”, cho đến thật sự còn có con số “vô sở khả xưng vô sở khả xưng”. Trong kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm có phẩm Số Tự, chuyên môn nói đến sự biến hóa của số lượng. Tâm trí phàm phu đối với các con số có thể lưu tâm, nghĩ bàn, tư duy, ghi nhớ hết sức hữu hạn. Trong kinh điển Phật giáo thường nói “như Hằng hà sa số chư Phật”, cho đến nói “vô lượng Hằng hà sa số chư Phật”. Các con số như vậy đối với nhân loại chúng ta khó thể đơn giản nói rõ được, cho nên dùng Hằng hà sa làm đơn vị để thuyết minh, giống như chúng ta dùng các đơn vị số lượng trăm, ngàn, vạn, ức để miêu tả vậy.

(Kinh) Tâm đắc giải thoát đại danh xưng, bỉ thời thử bối dĩ nhiếp trì.

()心得解脫大名稱彼時此輩已攝持。

(Kinh: Tâm đạt danh xưng giải thoát lớn; khi ấy, bọn họ đã nhiếp trì).

Hết thảy giải thoát là vì đối với danh xưng trong thế gian, chúng ta thường nói: Người nhàn tản trong Phật pháp xa lìa hết thảy nhiệt não, tức là Sở Tri Chướng phiền não, các nỗi khổ phiền não như sanh, lão, bệnh, tử, cầu chẳng được, yêu thương phải chia lìa, oán ghét cứ gặp gỡ, cho đến vô minh phiền não, cho đến các phiền não nhỏ nhặt như vi trần. Như vậy thì “đại danh xưng” chính là người nhàn tản, là người vô tâm nhàn tản trong thế gian. Hữu tình trong thế gian có khá nhiều chấp trước, nhiều đắm chấp, chấp trước thiện, chấp trước ác, chấp trước được, chấp trước mất, chấp trước phàm, chấp trước thánh, những điều như thế khó thể thuật trọn. Do vậy, có nhiều gánh nặng, tức gánh nặng thiện, ác, trí, ngu v.v… rốt ráo giải thoát vượt khỏi lẽ thường, đó là “đại danh   xưng”.

(Kinh) Kim phục ư ngã thắng pháp trung, năng vi nhiếp hộ lợi ích thủ.

()今復於我勝法中能爲攝護利益首。

(Kinh: Nay lại trong thắng pháp của ta, đứng đầu nhiếp hộ các lợi ích).

“Sư đạo” (Vị thầy hướng dẫn), thiện tri thức, các vị A Xà  Lê, các vị tại gia, xuất gia có thể giáo hóa thế gian, thì gọi là “lợi ích thủ” (người đứng đầu tạo lợi ích).

(Kinh) Giáo hóa vô lượng Bồ Tát chúng, đoạn trừ tật đố chư đại nhân. Thử đẳng ư ngã diệt độ thời, thủ ngã xá-lợi hưng cúng dường. Thiện trì ngã tư chư Phật sự, an trí khiếp tứ biến thập phương.

()教化無量菩薩衆斷除嫉妒諸大人。此等於我滅度時取我舍利興供養。善持我斯諸佛事安置篋笥遍十方。

(Kinh: Giáo hóa vô lượng các Bồ Tát, các đại nhân đoạn trừ ghen tỵ, bọn họ khi ta đã diệt độ, sẽ cùng cúng dường xá-lợi Phật, khéo giữ các Phật sự của ta, an trí khám thờ khắp mười phương).

Sau khi đức Thế Tôn diệt độ, dùng các thứ nhân duyên để tạo phước cho thế gian, khiến cho chúng sanh đều có chỗ để nương nhờ. Như chúng ta thấy tượng Phật, tức là do đức Thế Tôn lưu lại, tướng hảo có thể hóa độ chúng sanh. Giống như cha mẹ chúng ta đã chẳng còn trên cõi đời, di tượng của họ cũng có thể khiến cho chúng ta nhớ tưởng ân đức của cha mẹ, nhớ tưởng nội hàm lợi ích chân thật ân dưỡng dục của cha mẹ. Lại như xá-lợi (śarīra) thì có toàn thân xá-lợi, xá-lợi do nát thân, xá-lợi xương, xá-lợi thịt, đủ loại xá-lợi, đều do chư Phật truyền lại cho cõi đời. Nay chúng ta thấy kinh điển Đại Thừa, kinh điển liễu nghĩa, đó cũng là Pháp Thân xá-lợi của chư Phật. Lại như các loại pháp phục đã chế định cũng do đức Thế Tôn hóa hiện, muốn khiến cho hết thảy những kẻ hữu duyên hễ tiếp xúc bèn đạt được lợi ích độ thoát, người cúng dường cũng đạt được lợi ích.

Trong thời vua A Dục (Aśoka Maurya), nhà vua đã kiến tạo tám vạn bốn ngàn tháp thờ xá-lợi của Phật. Theo ghi chép, tại Trung Hoa có mười tám chỗ, là nơi được phân bố xá-lợi nhiều nhất trên thế giới, là quốc gia rộng nhất, có xá-lợi răng của Phật, xá-lợi ngón tay của Phật, xá-lợi tóc của Phật, xá-lợi thịt của Phật, xá-lợi xương của Phật, xá-lợi kết tinh của Phật v.v… Các xá-lợi ấy đều có thể làm vật gia trì phước đức và trí huệ cho hữu tình trong đời Mạt Pháp, mà cũng là ruộng phước chân chánh xuất thế và nhập thế.

(Kinh) Bình địa tạo tháp, hoặc tại sơn, phó chúc thiên long cập kim điểu. Tư đẳng y trượng ư thử kinh, thọ chung giai đắc sanh  thiên thượng.

()平地造塔或在山付囑天龍及金鳥。斯等依仗於此經壽終皆得生天上。

(Kinh: Đất bằng tạo tháp hoặc trên núi, căn dặn trời rồng và kim điểu. Bọn họ nương cậy vào kinh này, thọ mạng hết, đều sanh thiên giới).

Tạo tháp thờ phụng kinh điển, hoặc tạo tháp thờ xá-lợi cũng lại chẳng thể nghĩ bàn, có thể khiến cho trời, người được giải thoát, hoặc sau khi mất sẽ được sanh lên trời. Quả thật là cổ vũ khích lệ đối với phước báo nhân thiên.

(Kinh) Hậu tuy chuyển sanh ư nhân gian, nhi thường bất ly thắng gia tánh. Thiện trì ngã tư Bồ Đề sự, hoàn phát đại nguyện tùy bổn tâm.

()後雖轉生於人間而常不離勝家姓。善持我斯菩提事還發大願隨本心。

(Kinh: Về sau, tuy sanh vào nhân gian, thường chẳng lìa khỏi dòng cao quý. Khéo trì Bồ Đề sự của ta, lại phát đại nguyện thuận tâm mình).

Trung Hoa từ sau thế kỷ mười chín đến nay, nhất là sau phong trào Ngũ Tứ và vận động phá tứ cựu[3], một mực kéo dài cho đến hiện tại, đề xướng “bình đẳng, dân chủ, tự do”, tức là chẳng có khái niệm “chủng tánh”. Ấn Độ cho tới hiện thời vẫn có bốn loại chủng tánh, biểu hiện mười phần rõ rệt trong kết cấu của xã hội. Kẻ sanh vào tầng lớp “tiện dân” sẽ bị kẻ khác kỳ thị; do vậy, “thường bất ly thắng gia tánh” đối với người Ấn Độ mà nói sẽ là mười phần trọng yếu! Nói theo phía người Hoa, thật ra, mọi người vẫn có phân biệt! Tuy nói là bình đẳng, nhưng gia đình nông dân, gia đình công nhân, gia đình cán bộ, cho đến gia đình cán bộ cao cấp, gia đình cán bộ quân đội, ý thức sanh hoạt, cơ chế giáo dưỡng, cảm thọ về cái tôi, vẫn sai biệt rất lớn. Lại còn người thuộc sắc tộc Hán, người thuộc sắc tộc thiểu số, cảm nhận sai khác đều rất lớn, chúng ta chẳng thể nào không đối diện với những tình huống cụ thể ấy!

Sanh trong gia đình có dòng họ sang cả là một thứ cổ vũ, là hướng dẫn tăng thượng cho phước báo nhân thiên. Đức Thế Tôn thuyết pháp thường dùng phước báo nhân thiên tăng thượng để hướng dẫn, khiến cho chúng ta tiến nhập Bồ Đề, chẳng phải là cơ duyên có thể lướt qua. Vì nếu chỉ nói đến giáo pháp Vô Thượng Bồ Đề, hết thảy chúng sanh tâm đều mê mờ, chẳng thể yêu thích. Nếu nói theo thứ tự tiến dần dần, sẽ có thể dẫn dắt chúng sanh yêu thích, hướng tới, thật sự thâm nhập tu tập pháp tắc trong Phật pháp. Do vậy, nói theo kiểu tăng thượng, sẽ là mười phần trọng yếu. Vì thế, trong quá trình sơ chuyển pháp luân, đức Thế Tôn nói ra giáo ngôn nhân thiên ngũ thừa, nói giáo ngôn tam thừa, đợi cho tới khi nhân duyên chín muồi, Ngài chỉ nói Nhất Thừa. Như kinh Diệu Pháp Liên Hoa chỉ nói Nhất Thừa giáo, bỏ các phương tiện, khai quyền hiển thật, chỉ nói tối thượng thừa, ban cho hết thảy chúng sanh lợi ích rốt ráo, dùng liễu nghĩa giáo để chân thật hồi thí chúng sanh. Đó là dẫn dắt dần dần theo thứ tự.

“Hoàn phát đại nguyện tùy bổn tâm” (Lại còn phát ra đại nguyện thuận theo bổn tâm): “Bổn tâm” là hết thảy chúng sanh vốn là Phật, xác định nhận biết “hết thảy chúng sanh đều trọn đủ trí huệ và đức tướng của Như Lai”, tiến thẳng vào Bồ Đề, sanh tử trọn chẳng liên quan, trọn chẳng thể nhiễm. Nhưng tuy nói “chẳng có sanh tử để có thể đắc”, hết thảy chúng sanh trầm luân trong nhân quả không gì chẳng gánh vác, tâm trí mê muội.

Do đó, đức Thế Tôn mới nói dần dần phước báo nhân thiên, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, cho đến tối thượng thừa, khiến cho họ nhận biết bổn tâm, quy kết bổn tâm vốn sẵn trọn đủ, chẳng nhờ vào phương tiện, tự nhiên trở về pháp tánh rạng ngời, chiếu tỏ mười phương, mau chóng thoát khỏi biển khổ sanh tử, quả thật là hư vọng tạo tác, đối đãi tạo tác, tức là tạo tác liên tục ngay trong mỗi niệm hiện tiền.

(Kinh) Hoặc thời vị pháp chí tha quốc, hằng trị như thị thâm diệu điển. Đắc dĩ chuyển thọ chúng đa nhân, dĩ hoan hỷ tâm trừ tật đố.

()或時爲法至他國恆值如是深妙典。得已轉授衆多人以歡喜心除嫉妒。

(Kinh: Có lúc vì pháp đến nước khác, thường gặp diệu điển sâu như thế. Đã được, dạy lại nhiều người khác, dùng tâm hoan hỷ trừ ghen tỵ).

Trong thời đại này, cái tâm ghen tỵ đã trùm lấp tâm trí của rất nhiều vị xuất gia lẫn tại gia, hữu tình học Phật, hay không học Phật. Chẳng hạn như nhìn vào trạng thái toàn thể của nền kinh tế trong nước, mọi người ai nấy tăng cường chụp giựt. Vì thế, kẻ có tiền mong có tiền càng nhiều hơn, kẻ có quyền mong có quyền nhiều hơn. Nắm níu không được, chẳng tiếc lao tâm, chẳng tiếc lao lực, rốt cục chẳng đạt được, phần nhiều sanh mệt mỏi, phần nhiều là vì đã xen tạp tâm ngạo mạn, tâm ghen tỵ! Hữu tình trong thế gian không ai chẳng là như thế, chúng ta có thể quan sát như thật.

(Kinh) Cầu pháp tinh thành, vô giải quyện, khinh tài tiện mạng khởi ái thân. Hàng phục nhất thiết chư ngoại luận, thường dĩ diệu pháp huệ thí bỉ.

()求法精誠無懈倦輕財賤命豈愛身。降伏一切諸外論常以妙法惠施彼。

(Kinh: Cầu pháp tinh thành, chẳng lười mệt, coi thường tài mạng, há yêu thân? Hàng phục hết thảy ngoại đạo luận, thường dùng diệu pháp thí cho họ).

Ở đây, nhắc đến một chướng ngại lớn nhất đối với tu pháp trong thời đại này. Chướng ngại gì vậy? Giải đãi, buông lung, chán mệt, chẳng thẹn, chẳng hổ! Đấy là trạng thái toàn thể trong thời đại này. Do vậy, bậc thành tựu xuất thế, trụ thế rất hiếm hoi, vì giáo ngôn và ngôn thuyết học Phật dần dần tăng thêm nhiều, nhưng người thật sự thâm nhập tu tập ít ỏi. Do đó, hoàn toàn chẳng thể mười phần khiến cho người thế gian cảm nhận [Phật pháp] là nơi đáng nương cậy, đáng làm tròng mắt, noi theo Phật pháp, sẽ khiến cho hữu tình trong thế gian thật sự tùy thuận giáo ngôn trí huệ thanh tịnh của Phật giáo để lìa khổ, được vui. Chúng ta phải khéo thoát khỏi thời đại lắm kẻ giải đãi này, thành tựu Bồ Đề, như câu nói “hướng thượng nhất chiêu, toàn khán tự thân” (phương cách hướng thượng hoàn toàn tùy thuộc chính mình). Muốn lìa khỏi đời hiện tại, nhất định chẳng thể buông lỏng cái tâm mạnh mẽ, tâm tinh tấn, tâm như pháp tế nhị thực tiễn thủ hộ. Nếu buông lỏng mà muốn xuất ly thế gian này, quả thật sẽ là rất khó!

(Kinh) Thời thế vô năng thọ tư kinh, diệc vô độc tụng, chuyển giáo nhân. Duy hữu thử bối ngũ bách hiền, kim ư ngã tiền tùng tòa khởi.

()時世無能受斯經亦無讀誦轉教人。唯有此輩五百賢今於我前從坐起。

(Kinh: Khi đời không ai thọ kinh này, cũng chẳng đọc tụng, dạy người khác. Chỉ có năm trăm hiền nhân này, nay đối trước ta đều đứng dậy).

Nếu trước đó, chúng ta chẳng yêu mến và tu tập pháp này trong một thời gian khá dài, mà có thể trực tiếp thọ trì kinh điển này, thật sự sẽ gặp khó khăn nhất định, vì lòng tin tưởng, hướng tới vẫn chưa đủ, làm sao có thể nghe kinh pháp, ngưỡng mộ kinh pháp, thực hành kinh giáo cho được?

(Kinh) Phục thử bát sĩ chư Bồ Tát, đương lai bắc thiên thọ tư pháp. Nhạo hằng quảng tuyên đa lợi ích, hoằng thị thậm thâm Tu Đa La. Thử bát Chánh Sĩ vi thượng thủ, bỉ ngũ bách số phục vô tăng. Viễn ly tật đố, khí danh văn, lai thế đương thọ quảng đại pháp.

()復此八士諸菩薩當來北天授斯法。樂恆廣宣多利益弘是甚深修多羅。此八正士爲上首彼五百數復無增。遠離嫉妒棄名聞來世當授廣大法。

(Kinh: Lại nữa, tám vị đại Bồ Tát ấy, sẽ đến bắc thiên thọ pháp này. Luôn thích rộng tuyên nhiều lợi ích, hoằng dương Khế Kinh rất sâu này. Tám Chánh Sĩ ấy làm thượng thủ, số năm trăm ấy chẳng tăng thêm. Xa lìa ghen tỵ, bỏ danh văn, đời sau sẽ dạy pháp rộng lớn)

Đoạn văn tự này thật sự là thọ ký. Trong hiện tiền đại chúng, có phải là có hạng người này được thọ ký hay không? Tôi chẳng hiểu, mà cũng chẳng biết, nhưng mọi người đối với pháp mà nếu có thể sanh lòng yêu thích, cũng chẳng loại trừ năm trăm vị hiền giả ấy, ai biết là người nào, là vị nào? Người có Thiên Nhãn thấy rõ, người có Túc Mạng Minh biết rõ, người có Lậu Tận Thông biết rõ, người hành pháp biết rõ, người thành tựu Bồ Đề biết rõ.

“Thử bát Chánh Sĩ vi thượng thủ, bỉ ngũ bách số phục vô tăng” (Tám Chánh Sĩ ấy làm thượng thủ, số năm trăm ấy chẳng tăng thêm): Tám vị Chánh Sĩ ấy và năm trăm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di cùng nhau nguyện, bất cứ lúc nào, chỗ nào, cũng đều thủ hộ người tu trì Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, trong hết thảy mọi nơi, hết thảy mọi lúc, đều khiến cho hiện duyên của họ thành tựu, trọn đủ. Tám vị Chánh Sĩ và con số năm trăm chẳng có tăng giảm.

(Kinh) Như thị tỳ-kheo cập ni bối, chư ưu-bà-tắc, ưu-bà-di. Xảo trí, vô đố, đăng pháp sư, đương thành Chánh Giác đại oai đức.

()如是比丘及尼輩諸優婆塞優婆夷。巧智無妒登法師當成正覺大威德。

(Kinh: Hàng tỳ-kheo và ni như thế, các ưu-bà-tắc, ưu-bà-di. Trí khéo, chẳng ganh, làm pháp sư, sẽ thành Chánh Giác, oai đức lớn).

Đây là đức Thế Tôn thọ ký tình hình hạng người ấy trong đời Mạt Pháp sẽ khiến cho giáo ngôn này được lưu truyền rộng rãi trong cõi đời, tức là thọ ký cho tứ chúng, vì đấy là pháp tắc để tứ chúng tham dự và thủ hộ. Chẳng phải chỉ nói riêng về hàng xuất gia, hoặc là nói đến bậc thánh, bậc trí, cũng chẳng phải chỉ nói riêng chúng tại gia, mà là tứ chúng đều gồm đủ.

(Kinh) Bỉ bất tư nghị thần đức cụ, bách phước chi thể tướng trang nghiêm. Đắc vi diệu lạc trừ chúng khổ, trường bạt tam độc phiền não căn.

()彼不思議神德具百福之體相莊嚴。得微妙樂除衆苦長拔三毒煩惱根。

(Kinh: Trọn đủ thần đức chẳng nghĩ bàn, thể tướng trăm phước trọn trang nghiêm. Đạt vi diệu lạc trừ các khổ, nhổ sạch rễ tam độc phiền não).

Nói “tướng trăm phước” tức là trọn đủ thiện xảo, như ngôn thuyết thiện xảo, thực thi thiện xảo (thực hiện thiện xảo), giáo thọ thiện xảo, cho đến tu trì thiện xảo, thành tựu thủ hộ thiện xảo, có thể khiến cho chúng sanh lìa khổ, được vui, dẹp trừ các nguồn khổ! Nói “tam độc” tức là tham, sân, si, tức căn bản phiền não. Hữu tình thời Mạt Pháp trọn đủ tham, sân, si, đó là trạng thái biểu hiện nơi tâm trí của người đời. Nếu lắng lòng quan sát, chúng ta sẽ có thể thấy rộng khắp các loại phiền não căn của tham, sân, si.

(Kinh) Thử đẳng tùng kim xả mạng dĩ, chung bất thọ sanh ác đạo trung. Nhất thiết sanh trung thường hòa hợp, sở ngộ Bồ Đề tối thắng sự.

()此等從今捨命已終不受生惡道中。一切生中常和合所遇菩提最勝事。

(Kinh: Bọn họ từ nay xả mạng rồi, trọn chẳng thọ sanh trong đường ác. Trong hết thảy đời thường hòa hợp, luôn gặp chuyện Bồ Đề tối thắng).

Đức Thế Tôn thọ ký: Khi đức Thế Tôn tuyên thuyết, pháp này một mực được tiếp tục lưu truyền rộng khắp cho đến vị lai. “Nhất thiết sanh trung thường hòa hợp” (Trong hết thảy các đời thường hòa hợp). Vì hành pháp Ban Châu tức Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, khiến cho tâm trí chúng sanh điều nhu, từ bi, yêu mến thế gian. Hòa hợp là một tiêu chí đặc biệt trọng yếu trong sự thủ hộ, vì xa lìa ghen ghét, vì thường tùy hỷ, vì tâm trí điều nhu, vì yêu mến hữu tình trong thế gian, vì muốn dẹp trừ nỗi khổ cho chúng sanh. Hòa hợp là một đại pháp tắc khá trọng yếu, mà cũng là pháp tắc tập thể, nhất là trong cuộc sống hiện thời, do ở trong thời Mạt Pháp, hữu tình ương ngạnh, khó giáo hóa, phần nhiều chấp chặt ý kiến của chính mình, cho nên tranh cãi lẫn nhau hết sức thường xuyên!

(Kinh) Ký xả nhất thiết ác thú sanh, diệc năng vĩnh ly chư nạn xứ. Công đức bất khả tri biên tế, như thị vô lượng thọ đa phước. Phục đương đắc kiến Di Lặc Phật, ư bỉ thường khởi hòa hợp tâm. Cung kính cúng dường lợi ích tha, duy cầu Vô Thượng Bồ Đề cố.

()既舍一切惡趣生亦能永離諸難處。功德不可知邊際如是無量受多福。復當得見彌勒佛於彼常起和合心。恭敬供養利益他唯求無上菩提故。

(Kinh: Hết thảy đường ác chẳng còn sanh, cũng mãi xa lìa các chốn nạn. Công đức chẳng thể biết ngằn mé, vô lượng thọ, phước nhiều như thế. Lại sẽ được thấy Di Lặc Phật, tâm thường hòa hợp với kẻ khác. Cung kính, cúng dường lợi ích họ, vì chỉ cầu Vô Thượng Bồ Đề).

Chúng ta biết Câu Lưu Tôn Phật (Krakucchanda) là vị Phật đầu tiên trong Hiền Kiếp, Ngài xuất thế khi loài người thọ sáu vạn năm. Câu Na Hàm Mâu Ni (Kanakamuni) Thế Tôn là vị Thế Tôn thứ hai, xuất thế khi loài người thọ bốn vạn tuổi. Ca Diếp (Kāśyapa) Thế Tôn là vị Thế Tôn thứ ba. Phật Thích Ca là vị thứ tư, Phật Di Lặc là vị Thế Tôn thứ năm, theo thứ tự như thế đó. Tính theo thứ tự sẽ có một ngàn vị Phật xuất thế. Nay chúng ta đang thuộc vào tiểu kiếp thứ chín của Hiền Kiếp, thuộc kiếp giảm, thọ mạng của nhân loại ngày càng ngắn hơn, nhân duyên phước đức ngày một giảm bớt. Một mực giảm cho đến khi tuổi thọ của con người là mười năm, loài người rất lùn, lại có tam tai bầu bạn. Sau đó, lại dần dần tăng trưởng. Khi Phật Di Lặc giáng thế, con người thọ tám vạn bốn ngàn năm, thân cao bốn mươi mét. Cỏ cây cũng biến hóa. Chẳng hạn như hiện thời kiều mộc[4] có lẽ chỉ tương đương với quán mộc trong vị lai. Quán mộc trong hiện thời có thể giống như cỏ trong thuở ấy. Tùy thuộc vào phước đức và nhân duyên của con người biến hóa, thân thể cũng tăng giảm theo, trăm vị cũng tăng giảm theo. Do thiện ác tăng hay giảm, trăm vị tăng hay giảm. Do phước đức nhân duyên biến hóa, cái nghiệp duyên thể chất của con người cũng biến hóa.

(Kinh) Bỉ thời, thử bối hằng tập hội, thừa sự siêu thế Lưỡng Túc Tôn. Vị thử chư Phật diệu Bồ Đề, đương độ sanh tử đăng bỉ ngạn. Ư hậu mạt thế pháp hoại thời, bỉ đẳng diệc thường trì thử pháp. Như thị xứ sở hằng tu hành, ngộ Di Lặc thế sự nhược tư.

()彼時此輩恆集會承事超世兩足尊。爲此諸佛妙菩提當度生死登彼岸。於後末世法壞時彼等亦常持此法。如是處所恆修行遇彌勒世事若斯。

(Kinh: Lúc ấy, bọn họ thường nhóm họp, thừa sự siêu thế Lưỡng Túc Tôn. Do diệu Bồ Đề của chư Phật, sẽ vượt sanh tử, lên bờ kia. Mai sau Mạt Pháp, pháp sắp hoại, họ cũng thường luôn trì pháp này. Luôn tu hành nơi chốn như thế, gặp đời Di Lặc như thế đó).

Trong giáo ngôn, năm trăm vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di ấy, cùng với tám vị Chánh Sĩ thường hộ trì pháp này, tiếp nối cho đến tận tương lai lúc gặp Di Lặc Thế Tôn.

(Kinh) Sở khả ư thử Hiền Kiếp nội, quảng vị lợi ích thế gian đăng. Bỉ nhất thiết xứ hộ thị kinh, an trụ tam thế vô úy sở.

()所可於此賢劫內廣爲利益世間燈。彼一切處護是經安住三世無畏所。

(Kinh: Có thể ở trong Hiền Kiếp này, làm đèn soi đời rộng lợi ích. Hộ trì kinh này khắp mọi nơi, an trụ ba đời, không sợ hãi).

Đối với tám vị Chánh Sĩ, năm trăm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di là những vị có trí huệ, đức Phật đã thọ ký cho đến khi pháp vận của Phật Di Lặc bắt đầu, các vị ấy vẫn có thể lợi ích thế gian rộng khắp. Trọn cả Hiền Kiếp, các vị ấy đều có thể lợi ích thế gian rộng khắp. Đây là sự thọ ký rộng lớn, chẳng phải là một vị Phật Thế Tôn thọ ký. Cho nên khi họ gặp Di Lặc Thế Tôn, cũng sẽ truyền bá giáo pháp này rộng khắp. Như thế thì nay chúng ta đang thuộc thời Mạt Pháp, sau khi đức Phật diệt độ, khi chánh pháp hoại, khi các điều ác hừng hực, chúng ta thủ hộ kinh Ban Châu Tam Muội, sẽ là phước đức và nhân duyên như thế nào? Sẽ giống như đức Phật đã thọ ký, chính là đèn sáng chiếu soi thế gian, có thể khiến cho hữu tình giải đãi, buông lung, chẳng hổ, chẳng thẹn trong thế gian sẽ sanh nhiều hổ thẹn, liễu giải và thủ hộ thiện căn của chính mình. Pháp này có thể khích lệ chúng sanh tự biết, tự giác, tự hiểu rõ.

(Kinh) Tương lai ức số đa chư Phật, bất khả tư nghị nan đắc biên. Tư giai cúng dường, quảng tu hành, thường hộ như thị thắng Phật sự.

()將來億數多諸佛不可思議難得邊。斯皆供養廣修行常護如是勝佛事。

(Kinh: Tương lai chư Phật nhiều ức số, chẳng thể nghĩ bàn, khó biết trọn. Thảy đều cúng dường, rộng tu hành, thường hộ thắng Phật sự như thế).

Ở đây là nói [các vị hộ trì ấy] sẽ ở nơi chư Phật nhiều đến vạn ức số trong kiếp vị lai, “bất khả tư nghị nan đắc biên” (chẳng thể nghĩ bàn, khó biết được ngằn mé) tức là do nhân duyên rộng lớn đều cúng dường, tu hành rộng khắp, hộ trì các Phật sự thù thắng như thế. Vì thế, hành pháp Ban Châu cũng rộng khắp đến tận vị lai, cho đến ức số chư Phật. Vì sao? Do công đức có sức tiếp nối rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn của Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, do thiện căn ấy chẳng thể tan hoại, do chân thật chẳng thoái chuyển.

Chúng ta đều biết, trong pháp tắc giáo ngôn của chư Phật, khá nhiều pháp tắc có thoái chuyển. Như trong giáo ngôn của Thanh Văn có một điển cố như sau: Một vị xuất gia vừa chứng đắc Sơ Quả, du hóa nhân gian, một lúc nọ, ở nơi tháp miếu của một vị Thế Tôn, bàn tay vô ý đặt trên tháp miếu. Khi đó, vị ấy đánh mất Sơ Quả. Vì sao? Tâm khinh mạn, tâm giải đãi mà ra. Đối trước tháp miếu của đức Thế Tôn mà lầm lạc sanh kiêu mạn, do cái tâm lười nhác mà thoái thất Sơ Quả. Trong khi chúng ta tu tập pháp tắc, có tiến, có lùi, đó là pháp tắc tự lực. Nếu thuận tánh tu trì pháp tắc bất thoái, đương nhiên là sẽ chẳng tiến, chẳng lùi, chỉ là thủ hộ thanh tịnh, bình đẳng. Trong đời hiện tại, nếu tu trì phước đức nhân duyên tăng thượng, sẽ có tiến, có thoái. Nếu thuần túy nương vào tự lực tu trì, muốn trong một đời thành tựu pháp tắc bất thoái chuyển, sẽ rất khó. Vì dẫu cho loại pháp tắc ấy đã rất khó gặp gỡ [mà nay ta đã được gặp gỡ], bản thân do chúng ta thiện ác xen tạp, sẽ phần nhiều noi theo điều thiện tạp nhiễm, tuy thường hành pháp, phần nhiều là “một tiến, chín lùi”. Đó gọi là “một nóng, mười lạnh”. Mọi người đối với chuyện này đều đã quán chiếu và cảm nhận rất nhiều, có thể quan sát được!

(Kinh) Kỳ hữu tại tiền thành Bồ Đề, bỉ bỉ hàm đồng tu cúng dường. Nhi hoặc ư tiên thủ diệt độ, ngã trụ đa thế na-do-tha. Kim thử Hiền Hộ đại Bồ Tát, cập thị Bảo Đức xuất chúng trân. Thương Chủ, Ngập Đa Già Ma Na, đương kiến hằng sa vô số Phật. Ư bỉ diệc thọ vô thượng kinh, tiền dĩ kinh lịch đa kiếp số. Diệu toán bất năng tận kỳ hình, vô lượng ức kiếp thùy năng tri. Nhược hữu chúng sanh đắc văn danh, hoặc ư giác thời, cập thụy mộng. Năng phát dũng mãnh sư tử hống, bỉ bối giai đắc Thiên Nhân Tôn.

()其有在前成菩提彼彼咸同修供養。而或於先取滅度我住多世那由他。今此賢護大菩薩及是寶德出衆珍。商主岌多伽摩那當見恆沙無數佛。於彼亦受無上經前已經歷多劫數。妙算不能盡其形無量億劫誰能知。若有衆生得聞名或於覺時及睡夢。能發勇猛師子吼彼輩皆得天人尊。

(Kinh: Ai đã thành đạo Bồ Đề trước, họ đều cùng nhau tu cúng dường. Hoặc ai đã nhập Niết Bàn trước, ta trụ thế nhiều do-tha kiếp. Nay như Hiền Hộ đại Bồ Tát, cùng Bảo Đức xả các trân bảo. Thương Chủ, Ngập Đa Già Ma Na, sẽ thấy hằng sa vô số Phật. Cũng thọ kinh vô thượng nơi Phật, trước đã trải qua nhiều kiếp số. Dẫu giỏi toán, chẳng tính trọn hết, vô lượng ức kiếp ai biết được? Nếu có chúng sanh được nghe danh, hoặc lúc tỉnh giấc và nằm mộng. Có thể dũng mãnh sư tử hống, họ đều chứng đắc Thiên Nhân Tôn).

“Thiên Nhân Tôn” là đấng được thế gian ứng cúng, là đấng Điều Ngự Trượng Phu.

(Kinh) Nhược hữu chúng sanh đản văn danh, trực năng tín kính cập tùy hỷ. Nhất thiết tác Phật vô nghi lự, hà huống cúng dường ư bỉ thân!

()若有衆生但聞名直能信敬及隨喜。一切作佛無疑慮何況供養於彼身。

(Kinh: Nếu có chúng sanh chỉ nghe tên, lập tức tín kính và tùy  hỷ. Hết thảy thành Phật há ngờ chi? Huống hồ cúng dường thân vị  ấy).

Nếu có chúng sanh nghe danh tự, danh hiệu của các vị đại Bồ Tát đó, nghe danh hiệu của pháp tắc, cũng được thành Phật, chẳng có ngờ vực! “Trực năng tín kính cập tùy hỷ” (Liền có thể tín kính và tùy hỷ): Bởi lẽ, pháp này là pháp siêng ròng, pháp tinh tấn, có thể khiến cho Phật pháp được truyền bá rộng rãi trong thế gian, là pháp lợi ích thế gian rộng khắp. Khá nhiều người vốn chẳng học Phật, do thấy người khác kinh hành Ban Châu mà hướng đến Phật pháp, yêu mến Phật pháp, cho đến có nguyện vọng tiến nhập hòng hiểu rõ Phật pháp. Vì sao vậy? Do bản thân pháp tắc này là siêng ròng, cảm động người khác tới mức cùng cực! Người thế tục đối với cơ chế ngủ nghê, ăn uống v.v… trong cuộc sống thường nhật đã dưỡng thành thói quen. Thế mà [người hành Ban Châu] ngày ăn một bữa, thường đi, chẳng nằm, chẳng ngồi, cho đến trừ bỏ ngủ nghê, thật sự là một pháp tắc tu hành cảm động lòng người tột bậc. Nhưng trong ấy, do lại có Phật lực gia trì, Phật nguyện lực nhiếp trì, sức thần thông của Phật nhiếp trì, [cho nên] công đức và thiện căn của chính mình được chín muồi, tương ứng. Vì thế, đạt được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn từ Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội. Đã thế, phàm lẫn thánh đều có thể hành, cho nên pháp này rất rộng lớn, có thể cảm động thế gian rộng lớn, có thể khiến cho hữu tình trong thế gian đạt được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Vì vậy, nay chúng ta duy trì và tu tập pháp này chính là chuyện hết sức có ý nghĩa, mười phần thỏa đáng, mười phần tương ứng, mà đối với thân phận học Phật hoặc cơ chế học Phật của chúng ta cũng đều rất thỏa đáng.

(Kinh) Kỳ sở thọ pháp bất tư nghị, thọ mạng pháp trụ diệc vô lượng. Lợi ích quảng đại vô cùng tận, công đức trí huệ bất khả tri. Bỉ quá khứ Phật nan tư lượng, thanh tịnh trì giới Hằng sa số. Thử bối ư bỉ quảng hành thí, duy cầu Vô Thượng Phật Bồ Đề.

()其所受法不思議壽命法住亦無量。利益廣大無窮盡功德智慧不可知。彼過去佛難思量清淨持戒恆沙數。此輩於彼廣行施唯求無上佛菩提。

(Kinh: Lãnh nhận Phật pháp chẳng nghĩ bàn, thọ mạng, pháp trụ cũng vô lượng. Lợi ích rộng lớn chẳng cùng tận, công đức trí huệ chẳng thể biết. Quá khứ chư Phật khó suy lường, thanh tịnh trì giới nhiều Hằng sa. Họ thí rộng rãi ở nơi ấy, chỉ cầu Vô Thượng Phật Bồ Đề).

Niệm Phật thành Phật, quyết định [chứng đắc] Vô Thượng Bồ Đề, chẳng còn ngờ nữa! Duyên theo Phật, quyết định thành Phật. Chuyện này được chân thật chiếu kiến trong pháp duyên khởi. Vì sao? Duyên theo Phật, ắt sẽ rốt ráo biết tự tâm, do chẳng lìa tâm pháp, cho nên rốt ráo Vô Thượng Bồ Đề.

[1] Thất Diệp Quật là cái hang cách thành Vương Xá (nay là thành phố Rajgir, tiểu bang Bihar) chừng hai cây số. Trước khi nhập Niết Bàn, đức Phật đã ngự ở đấy một thời gian. Ở nơi đó, Tam Tạng kinh điển được kết tập lần đầu do ngài A Nan trùng tuyên kinh tạng, và ngài Ưu Ba Ly trùng tuyên Luật Tạng.

[2] Jetsun Milarepa (1052–1135) là một vị đại hành giả thành tựu (Mahasiddha) của Phật giáo Tây Tạng. Ngài sanh trong một gia đình giàu có ở miền Tây xứ Tây Tạng. Khi cha Ngài mất sớm, chú và thím Ngài đã tìm mọi cách tước đoạt gia sản, khiến cho mẹ, bản thân Ngài và em gái đều khốn cùng. Căm thù, Ngài bỏ nhà, tìm học thuật phù thủy, dùng phù chú giết chết chú, thím. Say máu trả thù, Ngài giết chết rất nhiều người. Sau đó, Ngài hối hận sâu xa, xin theo học với đại dịch giả Marpa, chịu rất nhiều thử thách, và bị hành hạ rất khắc nghiệt. Chẳng hạn, tôn giả Marpa bắt Ngài xây một cái tháp ba tầng, xây xong, bắt phá tan rồi xây lại. Bất cứ chuyện lớn nhỏ gì, Milarepa cũng đều bị đánh, chửi thậm tệ. Cuối cùng, sau nhiều năm, Marpa chấp thuận và dạy pháp cho Ngài. Đến lúc đó, Marpa mới cho biết ông cố ý hành hạ như vậy để tiêu trừ nghiệp chướng cho Milarepa. Sau khi đắc pháp, nhất là pháp môn Lục Du Già của Naropa, Milarepa lui về ẩn tu trong một sơn cốc, sống khổ hạnh, và cuối cùng chứng ngộ, trở thành bậc đại hành giả về nhiều Mật Pháp. Những bài thơ của Ngài diễn tả sự chứng ngộ được phổ thành ca khúc và lưu truyền rất rộng rãi. Một đệ tử đắc pháp của Ngài là Gamgopa đã truyền thừa pháp mạch của Ngài, đặc biệt là pháp Đại Thủ Ấn (Mahamudra). Các môn đệ của Gamgopa đã lập nên tông phái Kargyupa (một trong bốn tông phái lớn nhất của Phật giáo Tây Tạng). Trong đó, tôn giả Dusum Khyenpa, đệ tử của Gamgopa, đã sáng lập chi phái Karma Kargyupa và trở thành Karmapa đời thứ nhất. Chi phái Karma Karguypa là chi phái lớn nhất trong phái Karyupa.

[3] Phá Tứ Cựu là một phong trào cách mạng do Mao Trạch Đông đề xướng song song với Cách Mạng Văn Hóa, chủ trương phá sạch cựu tư tưởng, cựu văn hóa, cựu phong tục, và cựu tập quán, nhằm mục đích tiêu diệt văn hóa cũ, suy tôn lãnh tụ, và chủ yếu là đập tan những thành phần đối lập trong Đảng và chánh quyền. Nguyên nhân là do trước đó, Mao Trạch Đông đã liên tiếp đưa ra các kế hoạch ngũ niên điên rồ, không thực tế, khiến cho kinh tế Trung Hoa lụn bại, quần chúng bất mãn, các thành phần lãnh đạo trong Đảng cũng tỏ ra nghi ngờ khả năng lãnh đạo của họ Mao. Bị mê hoặc bởi các luận thuyết của Mao Trạch Đông và sự tuyên truyền, khích động của bọn tay sai, các sinh viên và học sinh nhanh chóng thành lập các đoàn quân Hồng Vệ Binh rộng khắp tại Hoa Lục, hùng hổ phá hủy các cổ vật, sách vở, tranh ảnh cổ, kể cả các di tích như điện đường, chùa chiền, miếu thờ, đạo quán, các nhà kỷ niệm của những danh sĩ thời cổ v.v… Thậm chí gia phả cũng bị đốt, xé; các vật dụng trang điểm, mỹ phẩm, các trang phục và dụng cụ trong nghệ thuật tuồng cổ và nghệ thuật dân gian đều bị phá hủy. Các màu sắc tươi sáng, rực rỡ, các kiểu trang trí đều bị cấm ngặt, vì bị coi là tàn dư của phương Tây và chế độ cũ. Cả nước xám xịt trong sắc áo chàm của công nhân, mọi người ăn mặc đồng phục như nhau, tóc cắt ngắn củn như nhau. Các họa sĩ, thư pháp gia, nghệ sĩ, tăng sĩ, đạo sĩ, linh mục, giáo sĩ, thành phần trí thức, học thức đều bị tấn công, làm nhục trước công chúng. Cuộc vận động này được phát khởi vào ngày Một tháng Sáu năm 1966 qua bài báo Quét Sạch Ngưu Xà Quỷ Thần đăng trên Nhân Dân Nhật Báo. Sau đó, vào ngày 12 tháng Tám năm 1966, Lâm Bưu trong hội nghị toàn đảng Trung Cộng đã chính thức đề ra mười sáu điều lệ hành động để chính thức phát động phong trào này. Các đường phố bị đổi tên, chánh quyền cho người viết báo chữ to dán trên tường hô hào đả kích các tư tưởng cũ và thành phần trí thức. Thậm chí Khổng Miếu cũng bị tấn công, thi hài của Diễn Thánh Công (Khổng Lệnh Di, hậu duệ đời thứ 76 của Khổng Tử) bị quật khỏi mồ, lột truồng, và treo lủng lẳng trên cây trước Khổng Miếu. Hồng Vệ Binh phá hoại đến mức không thể kiểm soát, đến nỗi khi họ sắp tấn công vào Tử Cấm Thành Bắc Kinh, thủ tướng Châu Ân Lai phải hạ lệnh điều Giải Phóng Quân đến bảo vệ Tử Cấm Thành, nhưng phần lớn các nỗ lực của ông bị bọn cánh tả trong đảng như Khang Sanh, Giang Thanh, Trương Xuân Kiều và chính Mao Trạch Đông vô hiệu hóa. Chính nhờ Châu Ân Lai, Bắc Kinh mới không bị đổi tên thành Đông Phương Hồng Thành.

[4] Kiều mộc (喬木, arbor) là cách gọi các loài cây  có  thân  gỗ  cứng. Điểm  đặc  trưng của kiều mộc là có một thân chính to, có chất gỗ cứng, cành lá vươn ra bốn phía, có thể tỏa bóng rợp, tàng cây có hình dáng nhất định, cao từ năm mét trở lên. Ta thường gọi là “cây có thân mộc”. Kiều mộc chia thành ba loại: Tiểu kiều mộc (từ chín mét trở xuống), trung kiều mộc (từ mười cho đến mười tám mét), đại kiều mộc (cao hơn mười mét).

Quán mộc (灌木, shrub, bush) là các loại mọc thành lùm hay bụi, không có thân chính rõ rệt. Tàng cây có hình dáng không nhất định, không cao quá sáu mét. Loại này vẫn có thể có thân gỗ, nhưng không có thân chính rõ rệt. Trong loại này, còn có một loại được gọi là Á Quán Mộc (half shrub), có hình dạng như Quán Mộc nhưng thân mềm, phần lớn có thân ngầm dưới đất, mùa Đông chết rụi, đến mùa Xuân lại mọc lên.