Đại Phương Đẳng Đại Tập
Hiền Hộ Kinh giảng ký
大方等大集賢護經講記
慈法法師主講
Chủ giảng: Pháp sư Từ Pháp
Địa điểm: Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

(Kinh) Hiền Hộ! Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh, văn thuyết thử pháp đắc tịnh trí nhãn.

()賢護復有無量無邊衆生聞說此法得淨智眼。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Lại có vô lượng vô biên chúng sanh, nghe nói pháp này, bèn đạt được pháp nhãn thanh tịnh).

“Đắc tịnh trí nhãn” tức là đạt được Pháp Nhãn tịnh, mở bừng con mắt thanh tịnh, sạch làu chẳng có một vật nào để có thể thành, chẳng có một pháp nào để có thể đạt được. Vì thế, đối với người tâm trí an lạc, đối với tất cả các vật trông thấy, đều chẳng sanh phiền não. Tất cả đố kỵ, phiền não, thị phi, nhân ngã lập tức tiêu tan trong trí nhãn thanh tịnh. Vì tâm chẳng thanh tịnh, mắt chẳng thanh tịnh, sự tướng cũng chẳng thanh tịnh. Do tâm thanh tịnh, mắt thanh tịnh, y phục thanh tịnh, các nhân duyên chung quanh an lạc thanh tịnh.

Chư vị thiện tri thức! Chúng ta tới đây, khẳng định là để học Phật pháp, tu tập Phật pháp, thành tựu Bồ Đề, tự lợi lẫn lợi tha, nhất định phải nhận rõ mục tiêu này. Nếu chẳng nhận rõ, sẽ bị khá nhiều ác duyên nghiệp tập của chính mình xâm hại đạo tràng. Vì thế, chúng ta ngàn dặm xa vời vợi, muôn dặm thăm thẳm đến nơi đây, phải nên phát khởi sự thủ hộ thanh tịnh đối với đạo nghiệp, tu tập thanh tịnh, phát nguyện thanh tịnh để thủ hộ đạo tràng, yêu mến đạo tràng. Đừng gieo quả báo xấu ác phá diệt đạo tràng. Rất nhiều kẻ chẳng biết, lầm tưởng là đúng. Quả báo ấy rất thê thảm. Vì thế, các vị thiện tri thức ơi! Yêu mến và bảo vệ đạo tràng rất trọng yếu, thủ hộ đạo tràng rất trọng yếu, có thể đạt được thiện xảo thanh tịnh nơi đạo nghiệp. Do vậy, rất là trọng yếu.

(Kinh) Phục hữu bát bách chư tỳ-kheo đẳng, ư chư lậu trung, tâm đắc giải thoát.

()復有八百諸比丘等於諸漏中心得解脫。

(Kinh: Lại có tám trăm vị tỳ-kheo, đối với các lậu, tâm được giải thoát).

Tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh  đáng, cho  đến  các

Tùy phiền não của chúng ta, đều là nghiệp tướng hữu lậu, là tâm trí đối đãi, đều là hữu lậu trong tâm trí sanh diệt! Thuở đức Thế Tôn tại thế, các phàm phu hữu tình nơi nơi cũng đều là như thế, nhưng khi nghe chánh pháp, họ sẽ thuận theo pháp mà hành, thuận theo pháp mà tư duy, thuận theo pháp mà tu trì, thuận theo pháp mà chứng đạo, thành tựu Bồ Đề. Khi nghe pháp, chúng ta phải nên quan sát như thế nào? Tư duy như thế nào? Hành trì như thế nào? Vẫn cần mọi người phải xét kỹ từ chánh diện.

(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: – Thùy đương thọ trì thử tam-muội, bỉ ư phước tụ bất khả lượng.

()爾時世尊爲重明此義而說偈言誰當受持此三昧彼於福聚不可量。

(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vì nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: – Ai sẽ thọ trì tam-muội này, người ấy khối phước chẳng thể lường).

Thật sự khích lệ chúng ta: “Thùy đương thọ trì thử tam-muội” (Ai sẽ thọ trì tam-muội này), khẳng định là đại chúng hiện tiền! Người sẽ phát, đã phát, hãy nên phát nguyện, hãy nên thủ hộ như thế, hãy nên tu tập như thế. “Bỉ ư phước tụ bất khả lượng” (Người ấy khối phước chẳng thể lường): Chẳng phải là đức Thế Tôn dùng khối phước để dụ chúng ta tiến nhập pháp tắc, mà thật sự là phước đức và nhân duyên như thế, quả thật là công đức và lợi ích chân thật. Quý vị có thể tu tập, có thể quan sát, có thể thủ hộ.

(Kinh) Tư đẳng giới hạnh vô trần cấu, bổn tâm thanh tịnh do như kính.

()斯等戒行無塵垢本心清淨猶如鏡。

(Kinh: Bọn họ giới hạnh chẳng trần cấu, bổn tâm thanh tịnh ví như gương).

Do bổn tâm thanh tịnh, có thể trì các giới hạnh. Do có thể trì các giới hạnh, bổn tâm thanh tịnh. Vì sao? Do pháp tương ứng.

(Kinh) Thùy đương thọ trì thị tam-muội, đa văn thâm  quảng  vô biên nhai.

()誰當受持是三昧多聞深廣無邊崖。

(Kinh: Ai sẽ thọ trì tam-muội này, đa văn sâu rộng không ngằn mé).

Ai thọ trì thì người ấy đạt được lợi ích. Đức Thế Tôn nói chân thật như thế, trực tiếp thúc đẩy chúng ta tiến nhập lợi ích của pháp tắc này.

(Kinh) Trí huệ tự nhiên vô khuyết giảm, công đức thịnh mãn nhược minh nguyệt.

()智慧自然無缺減功德盛滿若明月。

(Kinh: Trí huệ tương ứng chẳng khuyết giảm, công đức tràn đầy như trăng sáng).

Đây là đối trước người thọ trì tam-muội mà trực tiếp tán thán, hứa khả, và ấn khế lợi ích của nó.

(Kinh) Thùy đương thọ trì thị tam-muội, đắc đổ chư Phật bất tư nghị. Trí huệ quán sát hy hữu pháp, bất tư nghị nhân giai thủ hộ.

()誰當受持是三昧得睹諸佛不思議 。智慧觀察希

有法不思議人皆守護。

(Kinh: Ai sẽ thọ trì tam-muội này, được thấy chư Phật chẳng nghĩ bàn. Trí huệ quan sát pháp hy hữu, người chẳng nghĩ bàn đều thủ hộ).

“Bất tư nghị nhân giai thủ hộ” (Người chẳng nghĩ bàn đều thủ hộ): Nói đến “tư nghị”, con người phần nhiều là nghĩ bàn tà kiến, nghĩ bàn ác kiến, tức là nghĩ bàn do cưỡng chấp Ngã. Nghĩ bàn cưỡng chấp sẽ rất đau khổ. Vì sao? Do chẳng có trí huệ. Dùng cái tâm đắm nhiễm để quan sát, rất đau khổ! Dùng cái tâm thanh tịnh vô nhiễm để quan sát, người ấy sẽ được giải thoát, trụ trong an lạc. “Trí huệ quán sát hy hữu pháp” (Dùng trí huệ quan sát pháp hiếm có): Tức là quan sát thanh tịnh, chẳng nhiễm, chẳng chấp trước, quan sát rộng lớn chẳng nhiễm, chẳng chấp trước, quan sát rốt ráo chẳng nhiễm, chẳng chấp trước. Do đó, “trí huệ quán sát hy hữu pháp, bất tư nghị nhân giai thủ hộ” (trí huệ quan sát pháp hiếm có, người chẳng nghĩ bàn đều thủ hộ): Trí huệ vốn chẳng suy nghĩ, bàn luận pháp chẳng nghĩ bàn, nhưng do tập quán tư duy hư vọng của chúng sanh, đức Thế Tôn mới nói trí bất tư nghị, nói ra pháp tắc bất tư nghị, nói thiện xảo bất tư nghị, khiến cho chúng sanh tùy thuận tiến nhập.

(Kinh) Thùy thường thọ trì thử tam-muội, tằng kiến vô lượng chư Thế Tôn.

()誰常受持此三昧曾見無量諸世尊。

(Kinh: Ai từng thọ trì tam-muội này, từng thấy vô lượng các Thế Tôn).

Đức Thế Tôn không ngừng nêu ra “ai thường thọ trì tam-muội này”, chính là không ngừng nhắc nhở chúng ta. “Tằng kiến vô lượng chư Thế Tôn” (Từng thấy vô lượng các Thế Tôn): Đây cũng là thọ ký. Nếu là người thọ trì tam-muội này, [người ấy đã] từng thấy vô lượng các đức Thế Tôn. Chúng ta gặp gỡ pháp tắc tam-muội như vậy, quả thật có thiện căn đã từng gặp vô lượng chư Phật. Nếu quý vị không tin, có thể đọc lời thọ ký trong kinh điển. Nếu quý vị nói: “Ta chẳng tin lời Phật”, vậy thì chẳng cần xưng mình là Phật tử nữa, quý vị đang chống trái Phật. Nếu chống trái Phật mà vẫn nói “ta đang học Phật”, sẽ quá đau khổ! Có kẻ không chỉ chống trái Phật, mà còn biến đổi Phật, thậm chí toan vượt hơn Phật. Trong giới cư sĩ lẫn người xuất gia, đều có kẻ nói sẽ “vượt xa Phật”. Vì sao? Chẳng lấy giáo ngôn của Phật làm pháp tắc, chỉ do tâm trí cuồng vọng của chính mình mà nói “Phật nói như thế này, Phật nói như thế nọ”, đều là nói cưỡng chấp. Đức Phật nói lời thanh tịnh, lời từ bi, lời phương tiện, lời lợi ích rộng khắp, lời lợi ích chúng sanh, lời khiến cho chúng sanh lìa khổ, được vui, còn loại hữu tình ấy (hữu tình toan vượt hơn Phật) nói gì? Lời điên đảo, lời cuồng vọng, lời tăng thượng mạn, lời khiến cho chúng sanh mê mất và sợ hãi. Loại hữu tình ấy tuy nói xoen xoét là học Phật, thật ra chẳng phải là người trong Phật pháp. Chúng ta biết: Người nhập chủng tánh Phật, Tín Nhẫn, Thuận Nhẫn, sẽ cùng lúc được thấy, vì tôn trọng, yêu thích hữu tình, tôn trọng pháp tánh, biết hết thảy chúng sanh vốn là Phật, cho nên có thiện xảo Tín Nhẫn và Thuận Nhẫn. Pháp Tịnh Độ nói về thanh tịnh, bình đẳng, nói “hết thảy chúng sanh đều có thể vãng sanh”. Chỉ có từ trong Tín Nhẫn và Thuận Nhẫn thì mới có thể tùy thuận tri kiến như vậy, mới có thể nhập Phật tri kiến, mới có thể vào biển thệ nguyện của Phật. Nếu không, quý vị sẽ đi ngược đường, sẽ đề ra tà kiến “người ta có thể vãng sanh bằng cách nào” như thế đó. Vì sao? Quý vị chẳng tin “hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh”. Lại càng chẳng tin “hết thảy chúng sanh vốn sẵn là Phật”, lại càng chẳng tin đại nguyện nghiệp lực của A Di Đà Phật thâu nhiếp trọn khắp mười phương chẳng vướng mắc, chẳng trở ngại, lại càng chẳng tin Phật là đấng Vô Úy Thí, là đấng phương tiện thí, là đấng bố thí rốt ráo, là đấng thí sự chọn lựa, là đấng thí lợi ích thanh tịnh. Người như vậy sẽ chẳng đạt được lợi ích nơi Phật pháp.

(Kinh) Bỉ Phật thuyết pháp nan xưng lượng, giai đương phụng thừa tu cúng dường.

()彼佛說法難稱量皆當奉承修供養。

(Kinh: Phật thuyết pháp khó thể tính kể, đều nên phụng sự và cúng dường).

Nếu chúng ta thật sự muốn cúng dường Phật pháp, hãy nên cung kính đảnh lễ đức Thế Tôn, cung kính Phật pháp, tu tập Phật pháp, thủ hộ Chân Như. Vì thế, nơi sự tướng, thường lễ kính chư Phật, dùng hoa tươi, đèn, đuốc, thức ăn ngon lành, và các thứ trân bảo để cúng dường, yêu mến, thủ hộ, tán thán không ngớt. Trong tâm trí, thủ hộ y hệt, chẳng có đối đãi, tôn trọng hết thảy hữu tình dường như chư Phật Thế Tôn. Đấy có phải là điểm chú trọng chủ chốt hay không? Bản thân chúng ta hãy xét kỹ tự tâm, quan sát pháp tắc được thủ hộ.

(Kinh) Thùy năng thọ trì thử tam-muội, bỉ vi thế gian tác đăng quang.

()誰能受持此三昧彼爲世間作燈光。

(Kinh: Ai hay thọ trì tam-muội này, bèn làm đèn sáng cho thế gian).

Chúng ta biết thế gian này đã bị các thứ như tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến che lấp, là thế gian hắc ám. Gọi là “hắc ám” là vì nếu chúng sanh chẳng xa lìa loại cát bụi này, sẽ bị khuất lấp. Nếu tâm trí trí huệ sanh khởi, sẽ có thể chiếu soi thế gian, làm ngọn đèn vô tận, từng ngọn đèn tiếp nối nhau, tiếp nối huệ mạng, lợi ích thế gian rộng lớn.

(Kinh) Đại bi như tư bạt chúng sanh, sở hữu Thế Tôn tất cúng dường.

()大悲如斯拔衆生所有世尊悉供養。

(Kinh: Đại bi như thế cứu chúng sanh, tất cả  Thế  Tôn  đều  cúng dường).

Đấy là pháp tắc thủ hộ của mười phương chư Phật. Nếu chúng ta thật sự tu tập pháp tắc này, chư Phật sẽ đều cúng dường quý vị. Nhưng nếu chúng ta muốn tạo thị phi, tranh đấu, dẫu một giọt nước cũng khó tiêu! Trong giáo ngôn, đức Thế Tôn đã dạy: Nếu ai tùy thuận pháp, thủ hộ pháp, tu tập pháp, vàng ròng dày vạn trượng cũng có thể tiêu! Nếu đối với Phật pháp mà chẳng tu tập, chẳng thủ hộ, chẳng yêu mến, giọt nước cũng khó tiêu, bất luận quý vị là thân phận gì. Thân phận chẳng ăn nhập chi cả, pháp ích rất tương ứng. “Sở hữu Thế Tôn tất cúng dường” (Tất cả các đức Thế Tôn đều cúng dường), nhất định đừng nghĩ đây chỉ là một câu nói suông phù phiếm, tôi tin sâu chẳng nghi. Nếu không tin, chúng ta sẽ rất khó hành pháp. Nếu chẳng tin lời dạy của Phật, chúng ta rất khó làm đệ tử của Phật Đà! Bất luận hiện tướng gì, nếu chẳng phải là đệ tử của Phật Đà, làm thế nào mới có thể tiêu được thức ăn được cúng thí trong tự viện? Pháp tắc mà chúng ta thủ hộ đều là do phước đức của Phật Đà ban bố. Nếu quý vị nói chính mình giỏi hơn đức Thế Tôn, quý vị hãy nên kiến lập một giáo pháp ngoài giáo pháp của đức Thế Tôn, chẳng thể kiến lập một [thứ dị thuyết] trong giáo pháp của đức Thế Tôn! Vì đức Phật đã giao phó hai mươi năm phước đức cho những người tu tập trong đời Mạt Pháp, đương nhiên Tăng chúng được đức Thế Tôn trân trọng hơn. Sự trân trọng ấy là vì mong cho Phật pháp trụ thế. Do vậy, [Tăng chúng] là nội quyến thuộc thực thi giáo ngôn. Tuy là như thế, đối với mọi người hành pháp thì đức Phật đều thật sự yêu thương, che chở y hệt như nhau. Nếu chúng ta chẳng thấy xác thực ở chỗ này, sẽ nẩy sanh cái tâm tăng thượng mạn, đâm ra chẳng thể tương ứng với pháp.

(Kinh) Thùy năng thọ trì thử tam-muội, vị lai vô số chư thánh tôn. Nhược hữu Bồ Tát dục kiến giả, thanh tịnh tín tâm tu cúng dường.

()誰能受持此三昧未來無數諸聖尊。若有菩薩欲見者清淨信心修供養。

(Kinh: Ai hay thọ trì tam-muội này, vô số đức thánh đời vị lai. Nếu có Bồ Tát muốn gặp gỡ, tín tâm thanh tịnh tu cúng dường).

Bồ Tát, long thiên cũng sẽ đến cúng dường như thế. Trong phần trước, chúng ta đã học điều này. Trong pháp này, nếu có người cầu gặp pháp này, hoặc là người đọc tụng, thọ trì kinh điển này, vì người khác giải nói, hoặc chứng đắc tam-muội này, lợi ích ấy rộng lớn bao trùm các loài nhân phi nhân, quỷ thần. Chư thiên, Bồ Tát, chư Phật Như Lai đều yêu thương, che chở, bảo vệ, nghĩ nhớ, hiện tiền v.v… Cho nên chẳng thể coi thường sự tu trì Niệm Phật tam-muội, Ban Châu tam-muội, Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội này. Vì sao? Thật sự thuộc về địa vị Phật, thật sự là Phật tánh, thật sự là pháp tánh, thật sự là Tăng tánh, thật sự là công đức tạng, thật sự là chỗ lợi ích chẳng thể nghĩ bàn!

(Kinh) Thùy năng thọ trì thử tam-muội, bỉ thắng đắc lợi nan tư nghị. Thiện năng hạ sanh ư nhân gian, thường đắc xuất gia thiện cầu thực.

()誰能受持此三昧彼勝得利難思議。善能下生於人間常得出家善求食。

(Kinh: Ai hay thọ trì tam-muội này, được lợi thù thắng khó nghĩ bàn. Khéo hay hạ sanh trong nhân gian, thường được xuất gia, khéo khất thực).

Trong phần kệ rất ngắn này, đức Thế Tôn dùng câu “thùy năng thọ trì thử tam-muội” (ai có thể thọ trì tam-muội này) ở tám chỗ; sau đó, trần thuật khá nhiều công đức và lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của tam-muội này. Đấy là Ngài đã cảnh sách hiện tiền đại chúng và các hữu tình hữu duyên trong pháp này hãy tới thọ trì tam-muội này, tu tập tam-muội này. Tuy đức Thế Tôn đã rát miệng buốt lòng như thế, chẳng ngừng tỉ mỉ tuyên nói trọn vẹn rộng khắp pháp ích và hành pháp cho chúng ta, nhưng trong tâm linh của chúng ta, có kẻ được kích phát sâu nặng, có kẻ mỏng ít, có kẻ trơ trơ vô cảm, cũng có kẻ lần đầu được nghe, cảm thấy trọn chẳng liên can gì đến mình! Tuy là hoàn toàn chẳng liên can, vẫn là chủng tánh Bồ Đề, chân thật chẳng thể nghĩ bàn, hễ thoảng qua tai, vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo. Chư vị thiện tri thức ơi! Quyết định chớ nên bỏ phế ở chỗ này, chớ nên dễ dãi lướt qua. Nếu chúng ta được nghe một lần, hai lần, ba lần, hãy nên thật sự hành trì, tu tập nó.

Có nhiều vị Bồ Tát đã sớm hành trì pháp này, cũng có thể là do thiện căn trong quá khứ, ví như Hiền Hộ Bồ Tát, tám vị Đại Sĩ, cho đến năm trăm vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di đối trước đức Thế Tôn phát nguyện cho đến hết đời vị lai sẽ truyền bá pháp này, thủ hộ pháp này, tu tập pháp này, cho đến giải nói, giáo hóa hữu tình, khiến cho họ thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Cũng có thể là năm trăm vị ấy đang hiện diện nơi đây, ai biết? Phật biết. Ai biết? Người hoằng truyền biết. Ai biết? Nếu là người có tam minh tứ trí sẽ biết. Biết như thế nào? Chẳng mai một, mê muội tâm trí, chẳng xả thệ nguyện mà tiếp tục thực hiện đến tận tương lai. Chúng sanh do nghiệp tận Phần Đoạn Sanh Tử, sanh sanh tử tử, luân hồi chẳng ngơi. Bồ Tát dùng nguyện lực là chỗ nương tựa cho sanh mạng, kéo dài đến vị lai. Do hết thảy chư Phật an trụ trong đại nguyện, thành tựu chân thật, dùng tam-muội-da giới chiếu sáng mười phương, an trụ trên kim cang pháp tòa, ngự trên Bồ Đề tòa, lợi ích khắp mười phương mà chẳng lìa pháp tòa, đều do nương vào thệ nguyện mà kiến lập.

Vì thế, chúng ta tu tập pháp này, nếu chẳng nương vào sức thệ nguyện để thủ hộ tam-muội lực này, hoặc là nếu chẳng thật sự yêu mến pháp tắc này, chúng ta sẽ chẳng thể giống như chư Phật, Bồ Tát lợi ích thế gian rộng khắp, cứu vớt chúng sanh khổ nạn, ban cho chúng sanh an lạc và vui sướng, ban cho chúng sanh phước đức để trang nghiêm. Nếu là một người học Phật như thế, muốn thật sự tương ứng, sẽ rất khó!

(Kinh) Thùy năng hộ trì thử tam-muội, bỉ thọ đa phước bất tư nghị. Phục năng trụ trì ư tương lai, hoạch tư công đức tối hậu lợi.

()誰能護持此三昧彼受多福不思議。復能住持於將來獲斯功德最後利

(Kinh: Ai hay hộ trì tam-muội này, sẽ hưởng nhiều phước chẳng nghĩ bàn. Lại hay trụ trì trong tương lai, đạt được công đức lợi sau rốt).

Vô thượng đại lợi, lợi ích rốt ráo chính là “tối hậu lợi”. “Phục năng trụ trì ư tương lai” (Lại có thể trụ trì trong tương lai), tức là có thể khiến cho pháp này được tồn tại trong tương lai. Trong phần trước, đức Thế Tôn đã thọ ký, dạy chúng ta: Thuở đức Thế Tôn tại thế, có năm trăm vị [tăng ni, cư sĩ nam nữ], tám đại Chánh Sĩ phát nguyện hoằng truyền pháp này cho đến hết đời vị lai, thành tựu vô lượng vô biên chúng sanh, khiến cho họ đều do pháp tắc này mà đắc bất thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, cho đến có thể thành tựu. Nay chúng ta có hiện duyên này, tối thiểu là đã được nghe lời dạy như thế, giải nói giáo ngôn như thế, trao đổi giáo ngôn như thế, cho đến có nhiều vị thiện tri thức cũng đang tu tập giáo ngôn ấy, thật sự là phước đức thù thắng chẳng thể nghĩ bàn! Tuy là do oai đức của chư Phật gia trì khiến cho chúng ta thành thục, đó cũng là do cơ chế thiện căn thành thục, do công đức vốn sẵn có cũng thành tựu chẳng thể nghĩ bàn, cho nên hãy nên tự tôn (tự tôn trọng chân tánh của chính mình, tôn trọng cơ hội trong hiện duyên), tự khéo thủ hộ, đừng vì tri kiến [nông cạn, chấp trước] mà coi thường, hủy báng! Trong Phật pháp hiện thời, người tự tôn mười phần hiếm hoi! Nếu là kẻ trọn đủ hiện pháp, sẽ là Bồ Tát, sẽ là bậc giác ngộ, là bậc tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, là người yêu mến thế gian, là người nhàn tản trong Phật pháp, là người tạo lợi ích trong Phật pháp, là người có thể lựa chọn tự tại nơi quả vị. Loại hữu tình như thế tuyệt đối lợi ích thế gian chẳng sợ hãi, rộng hoằng truyền Phật pháp mà chẳng chán ghét.

Chư Phật Thế Tôn xuất hiện trong cõi đời, chẳng ngoài ý muốn khiến cho chúng sanh phát khởi niềm vui xuất thế rộng lớn thù thắng, như là “pháp lạc”, niềm vui do các Thiền Định, niềm vui từ bi, niềm vui trí huệ, niềm vui phương tiện, cho đến các niềm vui diễn tả mầu nhiệm, niềm vui lợi ích rộng khắp hữu tình. Các niềm vui ấy thật sự xa lìa nỗi khổ vì ngũ dục trong thế gian, nỗi khổ vô thường. Nhưng mọi người chúng ta thật sự đều ở trong tam đồ bát nạn, trong thế tục có nhiều khổ nạn, chúng sanh vì chẳng có niềm vui Phật pháp, cho nên tham cầu niềm vui thế tục. Đó cũng là chuyện tất nhiên. Nếu có niềm vui trong Phật pháp, các niềm vui khác thật sự chẳng thể sánh bằng, tự nhiên sẽ bỏ qua niềm vui vô ích trong thế tục. Vì sao? Do tạo nhiều nghiệp, dù thiện hay ác, thoạt nhìn hơi vui sướng, chớp mắt liền hoại, lại thêm các nỗi khổ bức bách trong thời đại, càng khiến cho nghiệp luân hồi lừng lẫy!

Do vậy, đối với nội hàm thực chất của pháp tắc này, vẫn mong mọi người sau khi học tập, có thể thật sự thâm nhập tu tập, cho đến thành tựu tam-muội, hoặc là đích thân thấy chư Phật, thấy Phật nghe pháp, thiện căn thật sự thành thục, sẽ lợi ích trời, người rộng khắp, đạt được oai đức thiện xảo, bất luận là tâm trí hay lời nói, giáo pháp, tu trì, vô úy, của cải, hết thảy các thời, các chỗ, đều đạt được phương tiện. Vận dụng như thế chính là mục đích học tập Phật pháp, mà cũng là mục đích hành trì tam-muội của chúng ta.

13. Phẩm thứ mười: Cụ Túc Ngũ Pháp

Kinh điển là chủng tử Bồ Đề, là chủng tử kim cang, mà cũng là Phật tánh, Pháp tánh, Tăng tánh, là chỗ căn bản để chúng ta ấn khế tự tánh. Phật pháp hoàn toàn được chọn lựa ở nơi ấy, cội nguồn ở đấy, là nơi có thể xuất sanh công đức của hết thảy chư Phật, có thể dưỡng dục hết thảy Bồ Tát, có thể lợi ích hết thảy chúng sanh. Nếu chúng ta khéo quan sát, khéo học tập, khéo thủ hộ, lợi ích ấy sẽ là chẳng thể nghĩ bàn!

Chúng ta thường vì hiện duyên mỏng ít, bèn coi duyên vị lai, hoặc cho rằng duyên thù thắng là sâu, phần nhiều đánh mất chỗ thật sự khế nhập Phật pháp của chính mình, tức là [khế nhập] ngay trong hiện tiền, cũng như cơ chế thật sự thành thục Phật pháp vẫn ở ngay trong hiện tiền. Cũng như cơ chế hoàn thiện thật sự vẫn là ngay trong hiện tiền. Thật sự lựa chọn vẫn là ngay trong hiện tiền. Thật sự truyền bá, chấp nhận, vẫn chẳng lìa hiện tiền. Hiện tiền tuy vẫn không ngừng tiếp nối, chẳng ngừng sanh diệt, thay đổi, nhưng đều chẳng rời hiện tiền! Đối với chuyện trong hiện tiền, niệm hiện tại, và bản thể của chính nó ngay trong hiện tiền, nếu nhận biết, chúng ta sẽ thấy phương tiện.

Kinh điển không gì chẳng phải là một phương tiện giúp cho chúng ta dùng ngoại cảnh để ấn khế tự tâm. Nếu tự tâm nhận biết ngoại cảnh, lúc cảnh và tâm như một, toàn thể kinh điển là tâm địa. Kinh điển miêu tả tâm trí của chúng ta. Toàn thể tâm trí được miêu tả trong kinh điển, bất nhị như vậy mà duy trì pháp tắc này. Chấp nhận pháp tắc này, tu tập pháp tắc này, truyền đạt, giải nói pháp tắc này, cho đến thành tựu pháp tắc này, quý vị sẽ học tập Phật pháp đắc lực, sẽ thật sự đắc lực nơi pháp tắc này.

Học Phật chẳng khó, nhưng ngay trong hiện tiền mà tôn trọng thì rất khó, vì phàm phu hữu tình phần nhiều dùng cái tâm mong mỏi cao xa đối với tương lai, chẳng biết sự chân thật trong hiện tại, phần nhiều coi hiện tại là yếu kém, phần nhiều vì duyên của chính mình yếu kém, bèn mong mỏi duyên khác, mong mỏi lúc khác, mong mỏi duyên thù thắng, mong mỏi quả thù thắng, mà đánh mất tự tôn, tự đắc, cũng như [đánh mất] Phật tánh tự nhiên trọn đủ. Đó chính là công đức vốn sẵn có của hết thảy chúng sanh. Đánh mất chính mình trong một niệm hiện tiền, khinh miệt chính mình, coi thường chính mình, khinh phạm chính mình. Trong quá trình học tập, chúng ta trang nghiêm đạo tràng, nghiêm trì nghi quỹ, hoặc là mọi người dùng cái tâm trang trọng, tâm nghiêm túc, tĩnh lặng, như bệnh nhân đối trước bậc y vương, như người bệnh nặng đối trước thuốc hay, như người trúng độc đối diện cam lộ, dùng cái tâm nghĩ tưởng “vĩnh viễn chẳng có cơ hội lần nữa, vĩnh viễn chẳng có duyên lần nữa” để nghe pháp, để trao đổi Phật pháp, để liễu giải tâm trí, thì tâm trí sẽ dễ được tỏ lộ.

Tâm trí tỏ lộ vốn là chuyện tuyệt đối chẳng thể lặp lại, mà cũng chẳng có lý do lặp lại, vì pháp chẳng có tự tánh, thời gian cũng chẳng có tự tánh, cho nên nó sẽ chẳng thể lặp lại. Chúng ta làm một việc, hoặc lao động, thoạt nhìn dường như lặp đi lặp lại. Thật ra, vẫn chỉ là cái tâm lặp lại, do vọng tâm nhận biết, chấp lấy, cho là có lặp lại! Học tập lần này cũng giống như thế! Hễ duyên này kết thúc, cũng sẽ chẳng thể lặp lại, bất luận chúng ta dùng tâm tình như thế nào, đều là “hễ đi, sẽ chẳng trở lại”. Trong đời người, nếu nhận biết điều này, đối với mỗi chuyện, ngay trong mỗi niệm, đối với bản thể của niệm ấy, nếu chúng ta dùng cái tâm viên mãn, khi ấy sẽ ngay lập tức viên mãn, ngay lập tức trọn đủ, chính là bản thể của nó. Nếu chẳng dùng tâm trí viên mãn, chẳng duyên theo cái duyên ấy, mà duyên theo các thứ tưởng như vọng tưởng, tạp tưởng, nghiệp tập tưởng, ý tưởng chênh lệch chẳng đồng đều, ý tưởng mong làm chuyện cao xa, mong tưởng vị lai v.v… sẽ hứng chịu đủ thứ quả báo, đủ thứ nhân duyên, đủ thứ tiếp nối. Lần này, chúng thường trụ tại Hằng Dương Am đã tốn rất nhiều công sức, cũng tốn rất nhiều thời gian. Mỗi ngày [đều phải chuẩn bị] đèn, đuốc, hoa tươi để đưa đón cúng dường, thật sự là công sức chẳng luống uổng, lợi ích chẳng thể mai một! Chư Phật, Bồ Tát sẽ gia trì, hết thảy hiền thánh đều nghĩ tưởng, hết thảy long thiên hộ pháp cũng sẽ thủ hộ.

Ngôn ngữ chẳng có cao hay thấp, sự cũng chẳng có lớn hay nhỏ, tâm trí tương ứng hay không mới là quan trọng nhất. Vì người học Phật chẳng có gì để học, chỉ là liễu giải tự tâm. Người học Phật chẳng có pháp gì để có thể đắc, chỉ là sự chân thật nơi tri kiến chẳng có tự tánh. Người học Phật cũng chẳng có gì để sợ hãi, chỉ là đối diện với mỗi niệm hiện tiền như huyễn. Trong cái hiện tiền như huyễn, như mộng ấy, quý vị dùng gì để vận dụng sanh mạng? Dùng gì để vận dụng trí huệ? Dùng gì để vận dụng tâm trí? Thật sự là bản thân mỗi người chúng ta đều phải nên xét kỹ, phải nên quan sát, phải nên thủ hộ, phải nên nhận thức sâu sắc, phải nên thủ hộ sâu sắc, quan sát sâu sắc, tôn trọng như thật, thủ hộ như thật, vận dụng như thật. “Như thật” là như thế nào? Tức là “tự tôn”, nghĩa là tự tôn trọng hiện duyên của chính mình giống hệt như tôn trọng chư Phật, tôn trọng hiện duyên giống hệt như tôn trọng lợi ích vãng sanh của chính mình. Điều này có mức độ khó khăn nhất định. Khó do nghiệp tập, khó do vọng tưởng che lấp. Nếu một khi trừ khử sự che lấp của phiền não nghiệp tập, vậy thì sẽ muôn dặm quang đãng, mặt trời rạng ngời chiếu rọi. Đó là tâm trí đã sáng suốt, chẳng vướng mắc gì, như mặt trời xoay chuyển trên không trung! Khi chúng ta học tập bản dịch kinh Ban Châu Tam Muội Đại Tập Hiền Hộ này cũng giống như thế. Bất quá nhờ vào sự tôn quý của kinh, nhờ vào sự chân thật của Pháp Bảo để liễu giải sự tôn quý và chân thật của tự tánh. Cũng như liễu giải sự tôn quý của nhất niệm hiện tiền, sự chân thật của nhất niệm hiện tiền, bản thể của hiện tiền. Quý vị sử dụng được thì sẽ gọi là “chưa chứng tam-muội mà chẳng tách rời công đức của tam-muội”. Do vậy, quý vị có thể nhận biết rõ ràng, vận dụng thành thục giáo ngôn của hết thảy chư Phật.

(Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần Cụ Túc Ngũ Pháp phẩm đệ thập.

()大方等大集賢護分具足五法品第十。

(Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần. Phẩm thứ mười: Đầy ĐNăm Pháp).

Trong một phẩm này, đức Thế Tôn đã nhiều lượt nêu ra năm thứ pháp tắc để có thể thành tựu tam-muội này. Đấy là sau khi trọn đủ ứng cúng, bèn tuyên nói giáo ngôn chân thật, vì trong cơ chế giáo ngôn của đức Thế Tôn, có pháp và có duyên thì mới có thể thực thi, mới có thể thủ hộ thành tựu. Duyên ấy là do dùng nghiệp tướng để nói? Hay là dùng tâm trí dấy khởi ý niệm để nói? Hay là dùng phước đức đầy đủ để nói? Ở đây, đức Thế Tôn đã thực hiện sự diễn luyện. Chúng ta hãy xem Ngài diễn luyện như thế nào?

(Kinh) Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát tùng tòa nhi khởi, chỉnh lý y phục, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, cung kính hiệp chưởng, nhi bạch Phật ngôn: – Thế Tôn! Duy nguyện Thế Tôn cập tỳ-kheo tăng, minh nhật thực thời, lâm cố ngã gia, thọ ngã cúng dường, lân mẫn ngã đẳng chư chúng sanh cố.

()爾時賢護菩薩從坐而起整理衣服偏袒右肩右膝着地恭敬合掌而白佛言世尊唯願世尊及比丘僧明日食時臨顧我家受我供養憐愍我等諸衆生故

(Kinh: Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh đốn y phục, trật vai áo phải, gối phải đặt sát đất, cung kính chắp tay, bạch cùng đức Phật rằng: – Bạch Thế Tôn! Kính mong đức Thế Tôn và các vị tỳ-kheo vào giờ dùng bữa ngày mai, quang lâm nhà con, nhận sự cúng dường của con vì thương xót bọn chúng sanh chúng con).

Ở đây, Hiền Hộ cũng đại diện cho hết thảy hữu tình cầu pháp, hữu tình hành pháp, cho đến hữu tình thành tựu, đối trước đức Thế Tôn biểu đạt, biểu đạt điều gì vậy? Muốn thỉnh pháp, muốn được nghe pháp, cho đến thật sự thủ hộ và thành tựu. Đấy là một sự phát khởi. Tuy Hiền Hộ Bồ Tát cúng dường đức Phật và các vị tỳ-kheo tăng, nhưng Hiền Hộ Bồ Tát nói “lân mẫn ngã đẳng chư chúng sanh cố” (vì thương xót bọn chúng sanh chúng con), tức là Hiền Hộ Bồ Tát vì các chúng sanh mà cầu thỉnh đức Thế Tôn và các vị tỳ-kheo đến ứng cúng.

(Kinh) Thế Tôn mặc nhiên, thọ Hiền Hộ thỉnh.

()世尊默然受賢護請。

(Kinh: Đức Thế Tôn im lặng nhận lời thỉnh của Hiền Hộ).

“Im lặng” là cách đức Thế Tôn thầm chấp thuận ứng cúng. Vì cớ sao? Đức Thế Tôn là đấng Nhất Thiết Trí, đối với hết thảy thức ăn, y phục, và hết thảy vật dụng của thế gian, Ngài đều chẳng cần đến. Đối với pháp cũng như thế, vì Ngài chẳng thiếu khuyết. Do vậy, chẳng nói là chấp nhận hay không chấp nhận, chỉ im lặng khế hợp sự phát tâm ấy, khiến cho người phát tâm đạt được sự đáp ứng thanh tịnh. Vì thế, im lặng thọ thực, hoặc im lặng thọ thỉnh, chẳng trả lời như [người bình phàm trong] thế gian. Hễ im lặng tức là đã đáp ứng.

(Kinh) Thời, bỉ Hiền Hộ tri Phật thọ dĩ.

()彼賢護知佛受已。

(Kinh: Khi đó, ngài Hiền Hộ biết Phật đã nhận lời).

Hết thảy đệ tử của đức Phật Thế Tôn cũng giống như thế. Khi các vị tỳ-kheo thọ thỉnh, các Ngài chỉ im lặng thì cũng là ngầm đồng ý. Trong Tăng pháp, có pháp tắc đa số im lặng chấp thuận. Chẳng hạn như đối với kẻ đã phạm lầm lỗi, phải nên chỉ ra. Nếu chẳng chỉ ra, tức là im lặng chấp nhận, hoặc có nghĩa là quý vị tùy hỷ. Nếu là ứng cúng thì cũng giống như thế. Ngay như trao đổi lời lẽ, hoặc trao đổi pháp tắc, cũng có nhiều lúc im lặng. Sự im lặng ấy có nghĩa là tiếp nhận.

(Kinh) Đảnh lễ tôn túc, hữu nhiễu tam táp. Ư thị từ hoàn, toại phục nghệ bỉ Ma Ha Ba Xà Ba Đề tỳ-kheo-ni sở.

()頂禮尊足右繞三匝 。於是辭還 遂復詣彼摩訶

波闍波提比丘尼所。

(Kinh: Đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn, nhiễu theo chiều phải ba vòng. Liền đó, từ biệt quay về, bèn tới chỗ của tỳ-kheo-ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề).

Tỳ-kheo-ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahāprajāpatī Gautamī) là tên [tiếng Phạn] chưa dịch nghĩa của tỳ-kheo-ni Đại Ái Đạo. Chúng ta biết đức Thế Tôn được di mẫu (dì) là bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề nuôi lớn. Sau khi đức Thế Tôn thành đạo, di mẫu và năm trăm thị nữ phát tâm theo đức Thế Tôn xuất gia, ba lượt thỉnh cầu đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn không chấp nhận, họ bèn từ trăm dặm [đi bộ], đuổi theo đức Thế Tôn. Ngài A Nan bất nhẫn trước tâm bi cảm thiết tha cầu pháp của bà Đại Ái Đạo [và các thị nữ], cho nên đã thay họ hướng về đức Thế Tôn cầu xin [cho phép nữ chúng] xuất gia. Do vậy, đức Thế Tôn nói: “Này A Nan! Sở dĩ đức Thế Tôn chẳng chấp thuận là vì có ý nghĩa sâu xa”. Do A Nan ba lượt thỉnh cầu, đức Thế Tôn mới định ra tám pháp thanh tịnh[1] để cho phép nữ giới trở thành sa-môn trong giáo ngôn của Phật Thích Ca, hiện hình tướng sa-môn.

(Kinh) Đáo dĩ, đảnh lễ Ba Xà Ba Đề tỳ-kheo-ni túc, nhi tức bạch ngôn: – Nguyện A-lê-da cập chư ni chúng, lân mẫn ngã cố, thọ ngã minh triêu sở thiết vi cúng.

()到已頂禮波闍波提比丘尼足而即白言願阿梨耶及諸尼衆憐愍我故受我明朝所設微供

(Kinh: Đã đến nơi, đảnh lễ dưới chân tỳ-kheo-ni Ba Xà Ba Đề, liền bạch rằng: – Kính mong A-lê-da và các ni chúng vì thương xót con, chấp nhận lễ cúng dường nhỏ nhoi do con sắp đặt vào ngày mai).

Đối với vị thủ lãnh của các vị ni là ngài Ma Ha Ba Xà Ba Đề, [Hiền Hộ Bồ Tát] bèn dùng từ ngữ A-lê-da (Aryā, tôn quý) để xưng hô, tức là A-xà-lê (Ācārya), cũng là Quy Phạm Sư (規範師), có thể làm chỗ nương tựa cho chúng sanh, làm bậc dạy bảo, hướng dẫn, bố thí pháp, có thể thí vô úy cho chúng sanh, khiến cho chúng sanh an lạc. Hiện thời, tại vùng Vân Nam, trong dân gian còn có giáo ngôn của A Trát Lê[2], tức là bậc Quy Phạm Sư tại gia, từ Miến Điện, Thái Lan truyền qua đã lâu. Trên thực tế, [các vị A Trát Lê ấy] thuộc một pháp hệ của Mật Thừa được truyền bá [tại Vân Nam] rất sớm, còn sớm hơn Tạng truyền Phật giáo rất nhiều.

“Lân mẫn ngã cố, thọ ngã minh triêu sở thiết vi cúng” (Vì thương xót con, chấp thuận lễ cúng dường nhỏ nhoi do con sắp đặt vào ngày mai). Vì sao nói là “vi cúng” (cúng dường nhỏ nhoi)? Đối trước các bậc thánh giả, trí giả ấy, cho đến đối với chư Phật, Bồ Tát là những vị đại oai đức thiện xảo, tất cả sự cúng dường trong thế gian chỉ có thể nói coi là “vi cúng”. Vì sao? Chư Phật Như Lai là bậc đạo sư của tam giới, là đấng được trời, người cúng dường. Sự cúng dường của nhân loại hết sức nhỏ nhoi, đạm bạc, dẫu tận lực, cùng kiệt tài sản, vẫn là sự cúng dường nhỏ bé, đạm bạc. Nếu chẳng nói như thế, sẽ chẳng phải là như thật!

(Kinh) Nhĩ thời, Ma Ha Ba Xà Ba Đề tỳ-kheo-ni mặc nhiên thọ thỉnh.

()爾時摩訶波闍波提比丘尼默然受請。

(Kinh: Lúc bấy giờ, tỳ-kheo-ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề im lặng nhận thỉnh).

Cũng giống như đức Thế Tôn im lặng nhận lời thỉnh.

(Kinh) Hiền Hộ tri dĩ, đảnh lễ từ hoàn. Thời, bỉ Hiền Hộ phục nghệ Bảo Đức Ly Xa Tử sở.

()賢護知已頂禮辭還。時彼賢護復詣寶德離車子所。

(Kinh: Hiền Hộ đã biết, đảnh lễ, từ biệt, quay về. Khi đó, ngài Hiền Hộ lại đến chỗ của Bảo Đức Ly Xa Tử).

Thuở đức Thế Tôn tại thế, cũng có nhiều ngoại đạo được thành tựu, ở trong thế gian đã đạt được an lạc. Rất nhiều ngoại đạo tuy chưa rõ ràng quy y giáo ngôn của đức Thế Tôn, cũng thường đến chỗ đức Thế Tôn đang dạy bảo, hoặc tới pháp hội của Ngài để nghe giáo pháp, do sức bức xạ từ oai đức rộng lớn của đức Thế Tôn.

(Kinh) Ngữ Bảo Đức ngôn: – Bảo Đức! Nhữ lai nhữ chi sở hữu thân thích, quyến thuộc, bằng hữu, tri thức, cập thử hội trung ưu-bà-tắc chúng, nãi chí nhất thiết Vương Xá đại thành, cập dĩ tự dư thành ấp, tụ lạc, chư tân lai giả, vị ngã thỉnh viết: “Thọ ngã minh triêu sở thiết phạn thực”.

()語寶德言 寶德 汝來汝之所有親戚眷屬朋友

知識及此會中優婆塞衆乃至一切王舍大城及以自餘城邑聚落諸新來者爲我請曰受我明朝所設飯食

(Kinh: Nói với Bảo Đức rằng: – Này Bảo Đức! Ông đến chỗ tất cả thân thích, quyến thuộc, bạn bè, người quen biết của ông, và các vị ưu-bà-tắc trong hội này, cho tới hết thảy những người mới đến trong đại thành Vương Xá, và các thành ấp, xóm làng khác, vì tôi mời như sau: “Ngày mai hãy đến dùng bữa cơm do tôi thết đãi”).

Vì sao ở đây nói là “phạn thực” (bữa cơm), chẳng nói là “vi cúng” (cúng dường nhỏ nhoi)? Tương ứng với chuyện thí cho nhân loại thì “phạn thực” là từ ngữ tương ứng. Ở đây, Hiền Hộ Bồ Tát mở pháp hội Vô Giá cúng dường thức ăn rộng lớn, khiến cho hết thảy kẻ hữu duyên đều được cúng dường. Không chỉ là người trong thành Vương Xá, mà cho đến các thành thị, làng xóm khác cũng nên thọ thỉnh (chấp thuận lời mời).

Vì sao chỉ nhắc tới ưu-bà-tắc, chẳng nhắc tới ưu-bà-di? Đây là một phong tục tập quán của riêng Ấn Độ. Trong phần trước, chúng ta đã thấy, đức Thế Tôn thường nhắc tới khá nhiều long thiên hộ pháp, đủ loại quỷ thần, đủ loại trời, cho đến trưởng giả, chủng tánh Sát-lợi vương, Bà La Môn, ưu-bà-tắc, nhưng chẳng nói đến ưu-bà-di thọ thỉnh. Đó là tôn trọng cách nói theo phong tục của dân tộc ấy. Vì đức Thế Tôn sống trong thời đại có phong tục dân tộc như thế ấy, cho nên Ngài cũng chẳng bỏ phong tục dân tộc. Đó gọi là “thí giáo ư thế gian, bất hủy ư thế tục” (bố thí giáo pháp trong thế gian, chẳng hủy phong tục của thế gian). Nếu thí giáo trái nghịch với thế tục, hữu tình trong thế gian sẽ chẳng tiếp nhận. Đức Thế Tôn là bậc trí huệ trọn đủ, phương tiện thiện xảo, cho nên Ngài tùy thuận thế tục. Về sau, chúng ta đến nơi khác học pháp, dạy pháp, cũng phải nên chẳng xả loại phương tiện ấy, cũng chớ nên trái nghịch phong tục của dân chúng trong thế gian. Nếu vứt bỏ, sẽ bị xung đột và tổn thương, hoặc mâu thuẫn.

(Kinh) Nhĩ thời, Bảo Đức Ly Xa Tử đồng tử thọ Hiền Hộ ngôn, tức cáo hội trung chư ưu-bà-tắc, thân thích, quyến thuộc đẳng viết: “Nhân bối đương tri, bỉ Hiền Hộ Bồ Tát linh ngã cáo nhữ. Minh nhật thực thời, thọ ngã vi cúng”. Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát, Bảo Đức Ly Xa Tử, cập Thiện Thương Chủ trưởng giả, Già Ha Ngập Đa cư sĩ tử, Na La Đạt Đa Ma Nạp, Thủy Thiên trưởng giả, tịnh cập nhất thiết chư dư quyến thuộc, bằng hữu, tri thức đẳng, đảnh lễ Phật túc dĩ, hoàn bỉ Hiền Hộ Bồ Tát xá trạch. Đáo dĩ, tá bỉ Hiền Hộ kinh doanh. Tức ư kỳ dạ, ước sắc gia nhân, biện cụ chư chủng tinh diệu thượng soạn, sở vị thế gian phàm khả thực đạm, sắc, hương, mỹ vị, bách vật bị hữu. Nãi chí ngoại quốc viễn lai bần cùng khất cái, diệc vị biện cụ chủng chủng tinh thiện, nhi cung cấp chi, dữ chư đại chúng, nhất đẳng vô dị.

()爾時寶德離車子童子受賢護言即告會中諸優婆塞親戚眷屬等曰仁輩當知彼賢護菩薩令我告汝。明日食時受我微供。爾時賢護菩薩寶德離車子及善商主長者伽訶岌多居士子那羅達多摩納水天長者並及一切諸餘眷屬朋友知識等頂禮佛足已還彼賢護菩薩舍宅。到已佐彼賢護經營。即於其夜約敕家人辦具諸種精妙上饌所謂世間凡可食啖色香美味百物備有。乃至外國遠來貧窮乞丐亦爲辦具種種精膳而供給之與諸大衆一等無異。

(Kinh: Lúc bấy giờ, đồng tử Bảo Đức Ly Xa Tử tiếp nhận lời dặn của Hiền Hộ, liền bảo các vị ưu-bà-tắc trong hội, thân thích, quyến thuộc v.v… rằng: “Các vị nhân giả hãy nên biết, Hiền Hộ Bồ Tát bảo tôi nói với các vị: Vào giờ dùng bữa ngày mai, hãy tiếp nhận sự cúng dường nhỏ nhoi của ông ta”. Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát, Bảo Đức Ly Xa Tử, và trưởng giả Thiện Thương Chủ, con trai cư sĩ Già Ha Ngập Đa, Na La Đạt Đa Ma Nạp, trưởng giả Thủy Thiên, và hết thảy các quyến thuộc, bằng hữu, kẻ quen biết khác, đảnh lễ dưới chân đức Phật xong, trở về nhà của Hiền Hộ Bồ Tát. Tới nơi, họ giúp Hiền Hộ lo liệu. Ngay trong đêm hôm ấy, căn dặn gia nhân, chuẩn bị đầy đủ các món ăn ngon khéo, tức là các thứ có thể ăn nuốt trong thế gian, sắc hương, vị ngon, trăm vật đều có đủ. Cho đến đối với những kẻ nghèo túng, ăn mày từ nước ngoài xa xôi tìm đến, cũng vì họ chuẩn bị đầy đủ các thứ thức ăn ngon khéo để cung cấp, giống hệt chẳng khác các món đãi đằng đại chúng).

Ở đây, chúng ta thấy tâm hạnh bình đẳng của Bồ Tát. Chúng ta tu pháp trong thế gian này, nếu dùng tâm bình đẳng yêu thích, tôn trọng hết thảy hữu duyên trong hiện tiền, thật sự là thiện xảo. Đó chính là tâm trí thiện xảo bình đẳng của Bồ Tát. Chúng ta chớ nên dùng cái tâm cao thấp, tâm chẳng bình đẳng, tâm yêu ghét, tâm thân sơ để tu tập pháp. Tu pháp [mà có các tâm] như vậy, nói chung chẳng tương ứng. Nếu chẳng có tâm rộng lớn, tâm bình đẳng, tâm chẳng thể như đại địa an trụ chúng sanh, khiến cho chúng sanh trụ trong an lạc. Như thế chính là cô phụ pháp tắc mà chính mình đã gặp. Chúng ta ở trong đạo tràng này, cũng giống như thế. Nếu có thể dùng cái tâm bình đẳng, tâm chân thật để bảo ban, an ủi hữu tình trong thế gian, bảo ban, an ủi các nhân duyên hiện tiền chung quanh. Đó là chân thật thủ hộ tâm bình đẳng, tâm thanh tịnh. Tâm như đại địa, có thể chuyên chở hết thảy, đó là chỗ an ổn, hãy nên chọn lựa chân thật.

(Kinh) Sở dĩ giả hà? Phàm chư Bồ Tát, tâm vô tăng ái, bất cảm khinh tha, ư chư chúng sanh giai bình đẳng cố.

()所以者何凡諸菩薩心無憎愛不敢輕他於諸衆生皆平等故。

(Kinh: Vì cớ sao vậy? Vì các vị Bồ Tát tâm chẳng yêu ghét, chẳng dám khinh người khác, đối với các chúng sanh đều bình đẳng).

Chỗ này mười phần trọng yếu, vì chúng sanh duyên theo tâm trí sai khác, nhưng cung kính và tôn trọng ai nấy đều cần thiết. Tâm trí yêu ghét thường khiến cho người khác sanh khởi cảm giác thân, sơ, bất bình đẳng, cho đến cảm giác ô nhiễm, phần nhiều có tâm khinh mạn và tôn quý. Như thế thì sẽ khiến cho lòng người bất bình đẳng, bị nhiều thương tổn. Chúng ta làm thế nào để vận dụng cái tâm bình đẳng trong thế gian bất bình đẳng như thế này, vận dụng tâm trí bình đẳng để bảo ban, an ủi hữu tình? Đó thật sự là tu trì hai pháp bi và trí, cũng là tu trì an trụ thanh tịnh bình đẳng. Đấy chính là một mắt xích trọng yếu mà tất cả những người tu tập Phật pháp chúng ta phải nên xem kỹ, phải nên quan sát, phải nên đúng lý xem xét kỹ càng, quán sát như lý, phải nên đúng lý tu tập pháp tắc, đúng lý thành tựu pháp tắc, rất trọng yếu, hết sức trọng yếu!

(Kinh) Nhĩ thời, Sa Bà thế giới chủ Đại Phạm thiên vương.

()爾時娑婆世界主大梵天王。

(Kinh: Lúc bấy giờ, chủ của thế giới Sa Bà là Đại Phạm thiên vương).     

Ở đây dịch Đại Phạm thiên vương là chủ của thế giới Sa  Bà, cũng

có khi dịch Đại Tự Tại Thiên là chủ của thế giới Sa Bà, nhưng Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật là đấng giáo hóa pháp tắc chủ của thế giới Sa Bà. Một tam thiên đại thiên thế giới ắt có một đức Thế Tôn trụ thế, khiến cho chúng sanh trong thế giới ấy được trụ trong an lạc. Nếu chẳng có Thế Tôn ngự, đức Thế Tôn sẽ dùng đủ mọi phương tiện, đủ mọi thân để thuyết giáo, trọn chẳng vứt bỏ, vì chư Phật chẳng bỏ hết thảy thế giới và hết thảy chúng sanh.

(Kinh) Nãi chí Đao Lợi thiên vương, Thích Đề Hoàn Nhân, tứ thiên đại vương Đề Đầu Lại Trá đẳng cập bỉ Thiện Đức thiên tử, dữ chư quyến thuộc, hàm vi nhân thân tán trợ kỳ sự.

()乃至忉利天王釋提桓因四天大王提頭賴吒等及彼善德天子與諸眷屬咸爲人身贊助其事。

(Kinh: Cho đến Đao Lợi thiên vương, Thích Đề Hoàn Nhân, tứ thiên đại vương như Đề Đầu Lại Trá (Dhṛtarāṣṭra, Trì Quốc thiên vương) v.v… cùng với thiên tử Thiện Đức và các quyến thuộc, đều dùng thân người để giúp đỡ chuyện ấy).

Liền chuyển đổi thân tướng, dùng thân người thông thường để giúp Hiền Hộ, muốn làm cho chuyện cúng dường ấy được thành tựu. Vì đấy là chuyện cúng dường Phật Đà Thế Tôn, Tăng chúng, cho đến ngoại đạo, kẻ ăn mày, hết thảy nhân dân, đều là bình đẳng cúng dường trọn khắp, rộng lớn, thanh tịnh, cùng một vị, tức là sự cúng dường Vô Giá (無遮, không ngăn che). Loại cúng dường Vô Giá này quả thật là thứ mà tâm trí chúng ta, nhất là người trong thời Mạt Pháp thiếu khuyết nhất. Tại Ấn Độ có tập tục như thế này: Nếu trong lúc hành đạo, hoặc trong nhà có nạn duyên, bèn rộng hành bố thí, cho đến dốc cạn tài lực gia sản để bố thí. Trong tâm trí của người Hoa, đó là chuyện rất hiếm xảy ra. Nhìn từ các ghi chép lịch sử, từ các sự kiện lịch sử, chắc là người Hoa rất ít người có khái niệm làm như thế! Thậm chí còn cho rằng đấy là một chỗ rất đáng sợ hãi, vì người Trung Hoa, nhất là người nơi đất Hán, coi trọng an cư lạc nghiệp, tích tụ gia sản dồi dào, cũng có thể nói là tâm trí “thành gia lập nghiệp, thủ hộ tổ nghiệp”. Giáo ngôn và tri kiến ấy một mực tuôn chảy trong huyết dịch của toàn thể dân tộc rất sâu dày. Nhưng trong dân tộc Tây Tạng, hoặc dân tộc du mục, phần nhiều có trạng thái tâm lý dốc cạn gia sản để bố thí. Vì họ thường xuyên xuất hiện tình huống trong một đêm ngay lập tức mất sạch gia sản. Chẳng hạn như một trận tuyết lớn có thể phủ trùm toàn bộ bãi cỏ của trại chăn nuôi, cũng có thể là tất cả gia súc bị chết cóng hết sạch, hoặc một trận ôn dịch cũng sẽ khiến họ chẳng còn một vật nào. Vì thế, họ đã nếm đủ sự vô thường, nhưng người ở đất Hán vì an cư lạc nghiệp, các thế hệ đều nối tiếp nhau sanh tồn trong cơ chế “thường pháp”, cho nên ý thức sai khác rất lớn. Nếu người ở đất Hán có thể tư duy chỗ này một lượt, sẽ là thuận tiện.

Tôi nhớ khi tôi mới xuất gia, rất nhiều người hỏi: “Anh làm thế nào để bỏ hoàn cảnh sống quen thuộc? Làm thế nào để bỏ được công việc quen thuộc và gia đình?” Họ cảm thấy chẳng thể nghĩ bàn, bỏ được bằng cách nào? Dẫu nhà nghèo cách mấy, giống như con chẳng chê mẹ xấu, người ta chẳng hiềm nhà nghèo. [Họ cho rằng]: Có nạn duyên chi đó, nhân duyên gì đó thì mới có thể khiến cho quý vị chẳng sanh tồn trong nhà được, đành phải xuất gia? Thật ra, đối với khái niệm “xả gia”, người Hoa mười phần khó thể tiếp nhận. Xả gia là buông bỏ nhân duyên quá khứ, bất luận là giàu hay nghèo, là tốt hay xấu, là thiện hay ác, tức là buông xả một hoàn cảnh quen thuộc mà thôi, đối diện một hoàn cảnh hoàn toàn mới toanh, hoàn cảnh lạ lẫm, để như thật biết rõ có sợ hãi hay không, có như thật an trụ tự tâm trong hoàn cảnh mới toanh ấy hay không? Dùng chuyện ấy để tu tập sanh mạng. Đấy quả thật là một sự bố thí. Bản thân của chuyện xuất gia là bố thí, còn tại gia sẽ bố thí như thế nào? Quý vị có thể tư duy, nghĩ ngợi. Giả sử chính mình bố thí toàn bộ, tâm lý sẽ là như thế nào? Quý vị chẳng cần bố thí, trước tiên hãy suy sâu nghĩ chín, suy tưởng thì cũng là phương tiện. Dẫu cho quý vị tư duy như thế, trong tâm trí của người Hoa vẫn là mười phần khó khăn. Tôi cảm thấy chúng ta xả không được cũng không sao, thật sự là có thể cổ vũ, khích lệ chính mình một phen. Trước hết, hãy thầm tưởng, thầm nghĩ, thầm quán thì cũng là phương tiện. Đó cũng là một lần huấn luyện cái tâm, là một loại phương pháp tu hành mười phần trọng yếu. Nếu chúng ta chẳng thể buông bỏ tự ngã, cho đến hết thảy phước đức và nhân duyên trong đời hiện tại, mà mong thật sự khế hợp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, sẽ mười phần khó khăn! Vì sao? Do phần nhiều có nghiệp tập, có thế tục trói buộc, chẳng thể khiến cho quý vị thật sự khế hợp thanh tịnh, viên mãn lợi ích trong Phật pháp.

“Hàm vi nhân thân tán trợ kỳ sự” (Đều dùng thân người để giúp đỡ chuyện ấy): Chư thiên dùng thân người để giúp đỡ, tức là diệt quang minh, diệt oai đức của họ, dùng thân người làm bầu bạn. Có chư thiên có phương tiện như vậy, mà cũng có quỷ thần biến hóa cũng có phương tiện như thế. Người bình phàm nếu trông thấy chư thiên, sẽ đều té xỉu, hoặc có thể nói là mê loạn, vì thân người và thân trời khác biệt quá lớn. Chẳng hạn như tướng mạo sai khác, loài người rất xấu xí, thô kệch. Vì chúng ta chẳng biết chư thiên có sắc thân tinh tế, mầu nhiệm, trọn đủ quang tướng, oai thần, trang nghiêm, cho nên còn thường tự cho mình là xinh đẹp. Ngài Nan Đà do thấy tướng mạo của vợ quá đẹp, chẳng nỡ xuất gia! Đức Thế Tôn bèn đem Ngài lên thiên đường nhìn thử, [đã thấy dung mạo của các thiên nữ], Ngài bèn nguyện ý tu đạo. [Đức Phật lại đem Ngài] xuống địa ngục xem [những tội nhân thọ báo do phóng túng ái dục], Ngài liền bằng lòng phát tâm xuất ly. Tướng mạo của con người nếu so sánh trong nhân loại thì có thể vẫn còn đẹp đẽ. Nếu đem so với con khỉ, chúng ta cảm thấy [loài người] cũng rất đẹp, nhưng đem so với chư thiên, chúng ta quả thật rất xấu, chủ yếu là chẳng thể so sánh nổi!

Lại như đối với trang phục của chúng ta, người xuất gia hiện thời đắp tấm khoác (y ca-sa) chính là tấm áo do Đại Phạm ban tặng, tức là “tùy ý y”. Đại Phạm có thể dùng tấm áo ấy làm nhà cửa, làm tấm che, làm thuyền bè, tùy ý sử dụng, nhưng chúng ta dùng tấm áo ấy thì chỉ là một mảnh vải, mặc lâu ngày sẽ nồng sực mùi mồ hôi, sẽ dính tro bụi. Do chín lỗ của chúng ta thường tuôn chảy chẳng ngớt, y phục mặc mấy ngày chẳng giặt sẽ không được! Nhân loại thật sự đối diện rất nhiều khó khăn, đều là áp lực sanh tồn đối với bản thân chúng ta, là áp lực do nghiệp báo mang lại, nhưng con người vẫn thường tự cho là tốt đẹp, chủ yếu là vẫn chẳng so sánh. Trước kia, tôi sống trong núi, đã từng nửa năm chẳng giặt quần áo, nhưng nếu như tâm trí hơi đắm nhiễm, hơi dính thế tục, hơi động niệm, thậm chí hơi nghĩ đến thức ăn, hơi nghĩ đến ngủ nghê, sẽ chẳng được. Áo trời chẳng cần giặt giũ, vì sao? Cõi trời chẳng có bụi bặm. Chúng ta đều biết, chư thiên có bốn suy tướng: Một khi phước báo đã hết, tràng hoa kết trên mão sẽ héo trước, dưới nách có mùi hôi, sau đó y phục mới có tro bụi. Nếu áo có vết bụi, phước báo của vị trời ấy đã hết, các quyến thuộc ngay lập tức lìa bỏ kẻ đó. Khi đó, nếm mùi khổ sở gấp mấy lần địa ngục. Vì sao? Bình thường có vô lượng quyến thuộc bầu bạn vui chơi, một khi bị lìa bỏ, tâm trí chẳng thể chịu đựng nổi, cho nên khổ sở gấp mấy lần nỗi khổ trong địa ngục.

Loài người chúng ta so sánh với chư thiên là như thế. Nếu so với súc sanh, chúng ta cảm thấy chính mình thanh tịnh, trang nghiêm hơn nhiều. Nếu so với ác quỷ, địa ngục, sẽ càng tốt hơn nữa. Vì súc sanh chỉ lo trả nợ, ác quỷ chỉ hứng chịu khổ báo, địa ngục chỉ là chịu đựng trừng phạt, chẳng có duyên nào khác, nhưng nhân loại chúng ta còn có phương tiện để chọn lựa. Tuy vậy, con người rất khó biết chính mình, cho nên thông thường dễ dung tục tự mãn. Vì sao nói những điều trên đây? Nhằm khích lệ chúng ta đối với chính mình phải có sự tự tôn, hoặc là phát tâm, nhưng đối với nghiệp xứ, phải biết [nghiệp chướng của] mình trầm trọng, nặng gánh, đau khổ, bẩn thỉu, hoặc là nói “chẳng thể tự khống chế”, tức là nỗi khổ bất tịnh, nỗi khổ vì vô thường ngắn ngủi tạm bợ. Nếu chẳng có chút tri kiến này, sẽ thường là sống suốt đời xoàng xĩnh, chẳng thể tự thoát, chẳng thể nhạy bén đối với pháp.

(Kinh) Dục linh Hiền Hộ Bồ Đề quả báo tốc thành tựu cố. Nhĩ thời, Hiền Hộ dữ chư quyến thuộc, thiện hữu, tri thức đẳng, tảo sái kỳ gia, nãi chí Vương Xá đại thành nhai, hạng, đạo lộ, xứ xứ giai tất huyền diệu phan, cái, quảng thiết chủng chủng chư trang nghiêm cụ nhi trang sức chi. Hựu dĩ chư chủng vi diệu hoa, hương, bố tán kỳ địa, phục thiêu thế gian đệ nhất danh hương nhi vi cúng dường.

()欲令賢護菩提果報速成就故。爾時賢護與諸眷屬善友知識等掃灑其家乃至王舍大城街巷道路處處皆悉懸妙幡蓋廣設種種諸莊嚴具而莊飾之。又以諸種微妙華香佈散其地復燒世間第一名香而爲供養。

(Kinh: Vì muốn khiến cho quả báo Bồ Đề của Hiền Hộ mau thành tựu. Lúc bấy giờ, Hiền Hộ và các quyến thuộc, thiện tri thức v.v… quét dọn nhà cửa, cho đến ngõ hẻm, đường sá trong đại thành Vương Xá, nơi nơi đều treo các phan, lọng đẹp đẽ, bày rộng khắp các thứ vật trang nghiêm để trang hoàng. Lại dùng các thứ hoa, hương vi diệu rắc rải trên mặt đất, lại đốt các thứ hương nổi tiếng bậc nhất trong thế gian để cúng dường).

Hoa tươi, đốt hương cũng là một thứ phong tục, đều để cúng dường. Trong quá khứ, người Hoa, nhất là hoàng gia, trưởng giả, hiền giả, cũng rất coi trọng việc thắp hương!

(Kinh) Thời, bỉ Hiền Hộ như thị trang nghiêm Vương Xá đại thành cập diệu thực dĩ, ư minh đán thời, dữ chư quyến thuộc, nghệ Thế Tôn sở, đầu diện lễ kính, nhi khải bạch ngôn: “Thế Tôn! Ngã sự dĩ biện, nguyện tri thử thời”. Nhĩ thời, Thế Tôn ư thần triêu thời, vị Hiền Hộ cố, trước y, trì bát, d bỉ vô lượng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, thiên, nhân đại chúng, tả hữu vi nhiễu, hướng bỉ Hiền Hộ Bồ Tát xá trạch.

()彼賢護如是莊嚴王舍大城及妙食已於明旦時與諸眷屬詣世尊所頭面禮敬而啓白言世尊我事已辦願知此時。爾時世尊於晨朝時爲賢護故着衣持鉢與彼無量比丘比丘尼優婆塞優婆夷天人大衆左右圍繞向彼賢護菩薩舍宅。

(Kinh: Khi đó, Hiền Hộ trang nghiêm đại thành Vương như thế và sắp đặt các thức ăn ngon lành xong, vào buổi sáng ngày hôm sau, cùng với quyến thuộc, tới chỗ đức Thế Tôn, đầu mặt lễ kính, thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Con đã lo xong chuyện, xin biết đã đến lúc”. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vào lúc sáng sớm, vì Hiền Hộ bèn đắp y, cầm bát, cùng với vô lượng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, thiên, nhân đại chúng vây quanh hai bên, đến nhà của Hiền Hộ Bồ Tát).

“Trước y” tức là đắp y, để trang nghiêm. Trong quá khứ, khi ứng cúng, khất thực, hoặc tuyên nói pháp, phải trọn đủ trang nghiêm. Chúng ta thấy rất nhiều tượng Phật của Phật giáo Nam truyền đều đắp y. Cái y để đắp ấy là vật để thể hiện sự trang nghiêm.

(Kinh) Ư thị, Hiền Hộ phát như tư niệm: – Ngã gia ải tiểu, bất thọ đa chúng.

()於是賢護髮如斯念我家隘小不受多衆

(Kinh: Trong lúc, ngài Hiền Hộ nghĩ như thế này: “Nhà ta nhỏ hẹp, chẳng chứa được nhiều người”).

Hiền Hộ Bồ Tát thấy nhiều người như vậy thong thả đi tới, làm sao chứa hết? Ngài phải cầu nguyện. Quý vị nói đây chẳng phải là chuyện thần thoại ư? Chúng ta không quan tâm, nhưng cầu nguyện rất quan trọng, tức là tâm địa như thế, nếu nói: “Nhà tôi nhỏ hẹp, người đông như thế, quý vị đừng tới. Người khác đừng tới, Phật Đà tới ứng cúng là được rồi!” Đó là tâm địa nhỏ hẹp, chẳng phải là nhà cửa nhỏ hẹp. Vì thế, nhà cửa nhỏ hẹp, nhưng tâm trí rộng lớn, tâm địa của các vị Bồ Tát hành pháp tất nhiên rộng lớn như thế. Chúng ta hãy xem tiếp: Mở rộng tâm địa của chính mình như thế nào? Quả báo của mở rộng tâm địa là gì?

(Kinh) Tự phi Thế Tôn oai linh gia hộ, linh trạch khoan  quảng, tận vi lưu ly, linh chư thành nội nhất thiết nhân dân, mạc bất minh kiến, diệc linh kim thử thiên nhân đại chúng tùy ý thọ dụng, vô sở phạp thiểu, bất diệc khoái hồ?

()自非世尊威靈加護令宅寬廣盡爲琉璃令諸城內一切人民莫不明見亦令今此天人大衆隨意受用無所乏少不亦快乎

(Kinh: Nếu chẳng do oai linh của đức Thế Tôn gia hộ, khiến cho nhà cửa rộng rãi, toàn bằng lưu ly, khiến cho hết thảy nhân dân trong các thành, không ai chẳng thấy rõ, cũng khiến cho đại chúng trời, người hiện nay thọ dụng, chẳng bị thiếu thốn, cũng chẳng vui lắm ư?)

Đây là tâm địa rộng lớn. Vì sao? Do biết oai thần của đức Phật rộng lớn, trọn đủ, chân thật chẳng hai, chẳng bị trở ngại nơi pháp, cho nên dấy lên ý niệm như thế, phát tâm như thế.

(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn tri bỉ Hiền Hộ tâm sở niệm dĩ, tức dĩ thần lực, linh kỳ gia trạch nghiêm lệ, khoan quảng, sở hữu chúng cụ biến thành lưu ly, diệc linh thành nội nhất thiết nhân dân giai đắc đổ kiến, phân minh hiển liễu, túc linh đại chúng tùy ý dụng chi.

()爾時世尊知彼賢護心所念已即以神力令其家宅嚴麗寬廣所有衆具變成琉璃亦令城內一切人民皆得睹見分明顯了足令大衆隨意用之。

(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn biết tâm niệm của Hiền Hộ rồi, liền dùng sức thần thông khiến cho nhà của ông ta trang nghiêm, tráng lệ, rộng rãi, tất cả các vật đều biến thành lưu ly, cũng khiến cho hết thảy nhân dân trong thành đều được trông thấy phân minh, rõ rệt, đủ để đại chúng tùy ý sử dụng).

Vì sao? Phật là đấng Nhất Thiết Trí, do Nhất Thiết Trí chiếu soi, hay biết.

(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn nhập Hiền Hộ trạch, tùy kỳ sàng tòa, an tường nhi tọa, diệc linh nhất thiết chư tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, nhân thiên đại chúng, tùy kỳ bộ loại, thứ đệ nhi tọa.

 ()爾時世尊入賢護宅隨其牀座安詳而坐亦令一切諸比丘比丘尼優婆塞優婆夷 人天大衆

其部類次第而坐。

(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vào nhà của Hiền Hộ, an tường ngồi trên sàng tòa, cũng để cho hết thảy các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, đại chúng trời, người tùy thuộc bộ loại theo thứ tự mà ngồi).

“Bộ loại” rất trọng yếu. Trong cảm nhận của người Trung Hoa, chắc là quan sát đối với bộ loại khá ít, nhưng tại các quốc gia như Ấn Độ, chủng tánh và bộ loại mười phần rõ rệt. Chẳng hạn như nói đến chủng loại Sát-lợi vương, thì phải là Sát-lợi vương, trưởng giả tử là trưởng giả tử, trưởng giả là trưởng giả, Bà La Môn là Bà La Môn, tỳ-kheo là tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni là tỳ-kheo-ni, trình tự rất rõ ràng, chẳng thể lẫn lộn, cho nên họ ngồi theo thứ tự.

(Kinh) Thời, bỉ Hiền Hộ cập Bảo Đức Ly Xa Tử, Thiện Thương Chủ ưu-bà-tắc, Già Ha Ngập Đa trưởng giả tử, Na La Đạt Đa trưởng giả tử, ký kiến Thế Tôn, dữ bỉ tứ bộ thiên nhân đại chúng, giai an tọa dĩ. Ư thị, Hiền Hộ cung dĩ tự thủ, trì tối diệu thực phụng thượng Thế Tôn.

()彼賢護及寶德離車子善商主優婆塞伽訶岌多長者子那羅達多長者子既見世尊與彼四部天人大衆。皆安坐已。於是賢護躬以自手持最妙食奉上世尊。

 (Kinh: Khi ấy, Hiền Hộ, và Bảo Đức Ly Xa Tử, ưu-bà-tắc Thiện Thương Chủ, con ông trưởng giả Già Ha Ngập Đa, con ông trưởng giả Na La Đạt Đa, đã thấy đức Thế Tôn và bốn bộ chúng trời, người đều an tọa xong. Lúc đó, Hiền Hộ cung kính, đích thân đem thức ăn ngon lành nhất dâng lên đức Thế Tôn).

“Phụng thượng” (奉上) là nâng cao khỏi đầu. Đây vẫn là một điều thuộc về phong tục, là một hình thức biểu đạt tâm trí của người dâng cúng.

(Kinh) Thế Tôn thọ dĩ, nhiên hậu thọ dữ chư tứ bộ chúng, cập dữ nhất thiết thiên nhân đại chúng, chủng chủng thượng diệu hương mỹ vị thực, hàm linh tự tứ, tất giai phong mãn.

()世尊受已然後授與諸四部衆及與一切天人大衆種種上妙香美味食咸令自恣悉皆豐滿。

(Kinh: Đức Thế Tôn thọ cúng xong, sau đó, [Hiền Hộ] dâng cho bốn bộ chúng và hết thảy trời, người đại chúng các thứ thức ăn thơm ngon, hay khéo nhất, khiến cho mọi người đều tùy ý lấy dùng, thảy đều phong phú, tràn đầy).

“Tự tứ” (自恣) là tùy ý lấy dùng.

(Kinh) Như thị nhất thiết phạn thực tư tất, tháo thủ, sấu khẩu, nãi chí tẩy địch bát khí, trì cử giai cánh.

()如是一切飯食斯畢澡手漱口乃至洗滌鉢器持舉皆竟。

(Kinh: Dùng cơm như thế xong xuôi, rửa tay, súc miệng, cho đến rửa sạch bát đựng, cất đi xong xuôi).

Đây là nói đến quá trình ăn uống của Ấn Độ. Họ dùng tay bốc thức ăn. Nếu dùng bát cỡ lớn, đủ cho sáu người ăn. Bát cỡ trung thì đủ cho bốn người ăn. Dùng bát cỡ nhỏ thì đủ cho hai người ăn. Sau khi bốc ăn, cần phải rửa tay. Ở đây, rửa tay, súc miệng, cho đến rửa sạch bát là một quá trình sinh hoạt của Tăng nhân.

(Kinh) Hiền Hộ ư thị biệt trí tiểu tòa. Tại Thế Tôn tiền, đầu diện đảnh lễ, nhiên hậu thoái tọa, nhất tâm chiêm ngưỡng.

()賢護於是別置小座。在世尊前頭面頂禮然後退坐一心瞻仰。

(Kinh: Hiền Hộ khi đó xếp riêng một chỗ ngồi nho nhỏ. Đối trước đức Thế Tôn, đầu mặt đảnh lễ đức Phật, sau đó, ngồi lui qua, nhất tâm chiêm ngưỡng).

Cũng là một loại phong tục. Vì làm cho mắt từ bi của đức Thế Tôn nhìn rộng khắp hết thảy hữu tình, tâm quang chiếu soi, hộ trì. Cho nên vì đức Phật lập một tòa ngồi cao rộng, còn Hiền Hộ xếp đặt một tòa nhỏ, biểu thị lòng tôn trọng, cúng dường.

“Nhất tâm chiêm ngưỡng” tức là chắp tay ngắm dung nhan kỳ diệu của đức Thế Tôn, trong tâm tán dương. Đó gọi là “cung kính nhiễu, chiêm ngưỡng”, tức là dùng tâm tôn trọng, tâm kiền thành để chiêm ngưỡng đức Thế Tôn.

(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn tức vị Hiền Hộ Bồ Tát, cập Bảo Đức Ly Xa Tử, Thiện Thương Chủ ưu-bà-tắc, Già Ha Ngập Đa trưởng giả tử, Na La Đạt Đa Ma Nạp đẳng, nãi chí tứ bộ thiên nhân đại chúng đẳng, như ứng thuyết pháp, linh kỳ giải tri, khai đạo ủy dụ, linh kỳ hoan hỷ. Nhiên hậu, dữ chư tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, thiên, nhân đại chúng quy hoàn bổn sở. Thời, bỉ Hiền Hộ Bồ Tát hậu thực tất dĩ.

()爾時世尊即爲賢護菩薩及寶德離車子善商主優婆塞伽訶岌多長者子那羅達多摩納等乃至四部天人大衆等如應說法令其解知開導慰喻令其歡喜。然後與諸比丘比丘尼天人大衆歸還本所。時彼賢護菩薩後食畢已。

(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liền vì Hiền Hộ Bồ Tát, và Bảo Đức Ly Xa Tử, ưu-bà-tắc Thiện Thương Chủ, con ông trưởng giả Già Ha Ngập Đa, Na La Đạt Đa Ma Nạp v.v… cho đến bốn đại chúng trời, người thuyết pháp thích ứng, khiến cho họ hiểu biết, hướng dẫn, an ủi, khuyên nhủ, khiến cho hoan hỷ. Sau đó, các tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, trời, người đại chúng trở về chỗ mình. Khi đó, Hiền Hộ Bồ Tát ăn sau xong xuôi).

Hiền Hộ chăm sóc cho bốn bộ đại chúng ăn trước, sau đó mới tự mình dùng bữa.

(Kinh) Tương chư quyến thuộc, thiện hữu, tri thức, cập bách thiên chúng tả hữu vi nhiễu, chí Thế Tôn sở.

()將諸眷屬善友知識及百千衆左右圍繞至世尊所。

(Kinh: Dẫn các quyến thuộc, thiện hữu tri thức, và trăm ngàn người vây quanh hai bên đến chỗ đức Thế Tôn).

Hiền Hộ là vị đứng đầu của mười sáu Chánh Sĩ, là người đứng đầu tám vị Đại Sĩ, cho đến là người đứng đầu của năm trăm vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di đối trước đức Thế Tôn phát nguyện thủ hộ pháp Ban Châu  tam-muội. “Thủ” là  người  phát  khởi  trước, thủ  hộ

trước. Vì thế, Hiền Hộ dẫn mọi người tới chỗ đức Thế Tôn.

(Kinh) Cung kính lễ bái, thoái tọa nhất diện, hồ quỳ, hiệp chưởng.

()恭敬禮拜退坐一面胡跪合掌。

(Kinh: Cung kính lễ bái, lui qua ngồi một phía, hồ quỳ, chắp tay).

“Hồ quỳ” là quỳ một gối xuống đất.

(Kinh) Nhi bạch Phật ngôn: – Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc kỷ pháp, đương năng chứng thử hiện tiền tam-muội?

()而白佛言世尊菩薩摩訶薩具足幾法當能證此現前三昧?」

(Kinh: Bèn bạch đức Phật rằng: – Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ mấy pháp thì sẽ có thể chứng hiện tiền tam-muội này?)

“Bồ Tát” ở đây chính là người thọ trì, yêu mến, tu tập pháp này, khéo thủ hộ pháp này, có thể chứng tam-muội. Bất luận xuất gia hay tại gia, đều dùng danh xưng Bồ Tát để gọi.

(Kinh) Phật ngôn: – Hiền Hộ! Bồ Tát nhược năng thành tựu ngũ pháp, tắc tiện đắc thử hiện tiền tam-muội. Hà đẳng vi ngũ?

()佛言賢護菩薩若能成就五法則便得此現前三昧。何等爲五

(Kinh: Đức Phật nói: – Này Hiền Hộ! Bồ Tát nếu có thể thành tựu năm pháp, liền đạt được hiện tiền tam-muội này. Những gì là năm?)

Đức Thế Tôn nhiều lượt nêu ra năm pháp. Dưới đây là pháp thứ nhất.

(Kinh) Sở vị: Nhất giả, cụ thậm thâm Nhẫn, diệt trừ chí tận.

()所謂一者具甚深忍滅除至盡。

(Kinh: Tức là: Một là trọn đủ nhẫn rất sâu, diệt trừ cho đến hết).

“Thâm nhẫn” là nói đến Tín Nhẫn, Thuận Nhẫn, và Vô Sanh Nhẫn. Tức là đối với hết thảy các pháp, đều có thể tùy thuận, im lặng, nghe theo, tín thuận, tùy thuận, yêu thích. Nói “diệt trừ chí tận” tức là đối với các pháp, không có gì để đạt được, mà đối với vô sở đắc, cũng chẳng bị nhiễm gì. Đối với không đắm nhiễm, cũng là chẳng nói năng, cũng chẳng có gì để biết. Đấy thật sự là cội nguồn của phát tâm, là tướng mạo thanh tịnh của Vô Thượng Bồ Đề tâm. Năm pháp đầu tiên này đều là tướng tâm trí của cội nguồn Vô Thượng Bồ Đề tâm. Nếu chẳng phải là người khéo nói, có thể thuận theo lời này để khéo biểu đạt Vô Thượng Bồ Đề tâm, tức chẳng phải là tạo tác Bồ Đề tâm, mà là chân thật Bồ Đề tâm.

(Kinh) Nhị giả, thật vô sở tận, vô hữu tận xứ.

()二者實無所盡無有盡處。

(Kinh: Hai là thật ra chẳng có để tận, chẳng có chỗ cùng tận).

Pháp thứ hai tiếp nối của pháp thứ nhất. Đức Thế Tôn hướng dẫn theo thứ tự. Tuy chẳng có sâu hay cạn, vẫn khiến cho người đời có thể tuân theo. Biểu đạt chân tâm, Vô Thượng Bồ Đề tâm, Phật tâm, pháp tánh như thế, chính là có thể biểu đạt trọn đủ, hoàn toàn. Trong hành pháp Ban Châu tam-muội, điều này được nói đầu tiên. Bởi lẽ, muốn chứng tam-muội, năm pháp này là tâm trí phải chọn lựa đầu tiên, chính là cách phát tâm và vận dụng phải chọn lựa đầu tiên.

(Kinh) Tam giả, bổn vô hữu loạn, diệt trừ chư loạn.

()三者本無有亂滅除諸亂。

(Kinh: Ba là vốn chẳng có loạn mà diệt trừ các loạn).

Vốn là kẻ nhàn tản, vốn vô sự, vì sao tạo tác? Vốn chẳng có sanh tử, hư vọng tự thiết lập giả dối. Vốn chẳng có phiền não, kẻ tầm thường tự quấy nhiễu! Chúng ta hãy tự khéo quan sát, vì vốn không có gì để loạn, cho nên khiến cho các loạn được trừ. Vì cớ sao? Các loạn hiện ra sau đó đều là vốn chẳng thể được, do chẳng có tự tánh. Vì thế, các loạn ngay lập tức trừ sạch. Vì sao? Vì vốn là vô sanh.

(Kinh) Tứ giả, bổn vô hữu cấu, diệt trừ chư cấu.

()四者本無有垢滅除諸垢。

(Kinh: Bốn là vốn chẳng có cấu, diệt trừ các cấu).

Các vị thiện tri thức ơi! Đây là  giáo  ngôn  rất  sâu, thanh  tịnh, vô nhiễm, chân thật ấn khế tâm trí cội nguồn thanh tịnh của chúng sanh. Nếu sử dụng được, sẽ là phương tiện hiện tiền, chẳng nhờ vào tu chứng, cùng lúc trọn đủ! Đây là giáo ngôn an lập thực thi Vô Thượng Bồ Đề tâm, xa lìa tạo tác.

(Kinh) Ngũ giả, bổn vô hữu trần, đoạn ly chư trần.

()五者本無有塵斷離諸塵。

(Kinh: Năm là vốn chẳng có trần, đoạn lìa các trần).

Tợ hồ là “thuyết” mà chẳng thuyết, ngôn mà vô ngôn, “cấu” là vô cấu, loạn là chẳng loạn, sanh thì vô sanh, trừ thì vô trừ, diệt thì vô diệt. Ngay lập tức gột rửa hết sạch, trọn chẳng có gì, ngay lập tức chân thật! Giải quyết từ chỗ căn bản, hết thảy nhân duyên huyễn hóa, ở nơi trí huệ, thanh tịnh, trong diệu dụng của pháp tánh. Đó gọi là “pháp tánh vốn tịch tĩnh, nhất thời diệu dụng sanh khởi”. Muốn chứng tam-muội này như thế, căn cơ rất chín muồi, sẽ chẳng khó khăn!

(Kinh) Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc thành tựu Vô Sanh Nhẫn cố, nhi năng đắc thử hiện tiền tam-muội.

()賢護是爲菩薩摩訶薩具足成就無生忍故而能得此現前三昧。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Đó là Bồ Tát Ma Ha Tát do thành tựu đầy đủ Vô Sanh Nhẫn mà có thể đạt được hiện tiền tam-muội này).

Năm pháp cần phải trọn đủ ấy đều dùng Vô Sanh Nhẫn để miêu tả, tức là nói “chẳng đến, chẳng đi, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng thiện, chẳng ác, chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng”, cũng chẳng nói đến xanh, vàng, đỏ, trắng. Cho nên hết thảy các cách nói đối đãi sẽ ngay lập tức tiêu mất, hết thảy giả thiết sẽ ngay lập tức vứt bỏ, hết thảy trần cấu ngay lập tức gột sạch sành sanh. Vì sao? Do vốn vô sanh. Vì vô sanh, cho nên cũng vô diệt, chẳng nhơ mà cũng chẳng tịnh. Trong chân tâm như thế, được thấy pháp tắc. Người hành pháp như thế tất nhiên tương ứng, ắt chứng Bồ Đề, ắt có thể chứng tam-muội hiện tiền này.

Năm pháp ấy là vì trọn đủ pháp, tức là vốn sẵn vô tánh, cũng là trọn đủ Vô Sanh Nhẫn. Ở đây, thoạt nhìn dường như ngôn thuyết quá cao, lý giáo quá cao, thật ra chẳng phải vậy! Cao hay thấp chỉ là do tâm tướng của chúng sanh. Nếu có thể tùy thuận, sẽ rất là thuận tiện! Ở đây, nếu muốn tư duy, giả thiết, muốn thông hiểu, sẽ rất khó khăn! Đây là giáo pháp ấn khế, giáo pháp chọn lựa, chẳng nhờ vào tư duy, chẳng cậy vào phương tiện, mà thẳng thừng ấn khế, tức là từ tướng của Vô Sanh Nhẫn, từ diện mạo của Vô Sanh Nhẫn, từ chỗ công đức và lợi ích của Vô Sanh Nhẫn, từ ngay năm pháp ấy mà có thể đắc hiện tiền tam-muội này!

(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát phục hữu ngũ pháp năng đắc tam-muội.

()復次賢護菩薩摩訶薩復有五法能得三昧。

(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát lại có năm pháp để có thể đắc tam-muội).

Đây là “năm pháp” thứ hai.

(Kinh) Nhất giả, thâm yếm chư hữu, bất thọ chư hành.

()一者深厭諸有不受諸行。

(Kinh: Một là chán sâu xa các cõi, chẳng thọ các hành).

Trong hết thảy các nhiễm pháp, chán lìa sâu xa, chẳng có đối đãi. Đối với các hành, hiểu chúng là vô nhiễm, trọn chẳng có gì để đạt được!

(Kinh) Nhị giả, nhất thiết sanh xứ, niệm Bồ Đề tâm.

()二者一切生處念菩提心。

(Kinh: Trong hết thảy chỗ sanh, đều nhớ tới tâm Bồ Đề).

Dù là thiện niệm hay ác niệm, dù là niệm hay phi niệm, phàm niệm hay thánh niệm, trong hết thảy các niệm xứ, đều dùng Bồ Đề tâm để soi tỏ, nhận biết, đấy là chánh tu hành! Vì vậy, nơi pháp tắc thứ hai, chánh tu hành phát khởi, vì đối với các hành đều chẳng thọ. Do vậy, trong hết thảy các chỗ, vận dụng Bồ Đề tâm, niệm Bồ Đề tâm, quán Bồ Đề tâm, hành Bồ Đề tâm, hiểu rõ Bồ Đề tâm, chế phục Bồ Đề tâm, trong hết thảy các chỗ sanh đã hiển hiện, chỉ dùng Bồ Đề tâm để chọn lựa hiện duyên.

(Kinh) Tam giả, sở sanh thường kiến chư Phật Thế Tôn.

()三者所生常見諸佛世尊。

(Kinh: Ba là đối với chỗ sanh, thường thấy chư Phật Thế Tôn).

Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát hành hai pháp trước, chỗ nào cũng sẽ thấy Phật. Quý vị nói: “Ta đã phát Bồ Đề tâm, vì sao chẳng thấy?” Vì quý vị chưa thường tu, rốt ráo tu, tu chẳng gián đoạn, tu vô nhiễm, chân thật hành Bồ Đề tâm, thấu hiểu Bồ Đề tâm, chế phục Bồ Đề tâm, chứng Bồ Đề tâm, trọn đủ Bồ Đề tâm. Nếu là như thế, niệm Bồ Đề tâm sẽ là chân thật. Do vậy, thường thấy chư Phật Thế Tôn.

(Kinh) Tứ giả, chung bất đam trước ấm giới chư nhập.

()四者終不躭著陰界諸入。

(Kinh: Bốn là trọn chẳng đắm chấp ấm, giới, các nhập).

Trong các cảnh giới, cho đến thấy tướng quang minh, cho đến trông thấy chư Phật, cũng chẳng đắm nhiễm, càng chẳng cần phải nói tới ấm cảnh, mộng cảnh, huyễn cảnh, vọng cảnh trong thế gian, đều chẳng thể nhập. “Chẳng nhập” là như nhìn vật trong gương, giống như xem tuồng. Chúng ta chẳng cần diễn tuồng, chỉ nên xem tuồng. Nếu nhập vào trong tuồng, sợ rằng tự tâm sẽ mê, đánh mất thân phận! Tham gia làm diễn viên, một chốc buồn, một chốc vui, một chốc phàm, một chốc thánh, luân hồi chẳng ngơi trong sáu đường, mê mất tự tâm. Vì thế, “chẳng nhập” là chẳng trụ vào các cảnh, chẳng đánh mất các cảnh.

(Kinh) Ngũ giả, chung bất ái trước thọ dục lạc sự. Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc ngũ pháp thành tựu tam-muội.

()五者終不愛著受欲樂事。賢護是爲菩薩摩訶薩具足五法成就三昧。

(Kinh: Năm là trọn chẳng yêu đắm, tiếp nhận các chuyện dục lạc. Này Hiền Hộ! Đó là Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ năm pháp thành tựu tam-muội).

Đối với hữu tình trong Dục Giới, điều này rất khó! Khó ở chỗ nào? Dục Giới hữu tình lẩn quẩn trong ngũ dục. Chỗ này là chỗ chúng ta phải tự mình xem xét kỹ càng. Khi niệm Phật, khi muốn thấy Phật, đối với niềm vui ngũ dục, hãy nên có tâm lìa bỏ. Vì lẽ nào? Khi được thấy đức Thế Tôn, thiện căn sẽ thành thục, quý vị sẽ thấy rõ niềm vui ngũ dục trong thế gian quả thật là niềm vui chẳng tương ứng, vì nó là vô thường!

(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Bồ Tát  Ma  Ha  Tát  phục  hữu  ngũ pháp năng đắc tam-muội.

()復次賢護菩薩摩訶薩復有五法能得三昧。

(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát lại có năm pháp có thể tam-muội).

Đây là “năm pháp” thứ ba.

(Kinh) Nhất giả, thường đương tư niệm vô biên tế tâm.

()一者常當思念無邊際心。

 (Kinh: Một là thường nghĩ niệm tâm không ngằn mé)

“Tâm” không bị hạn chế, chẳng có giới hạn.

(Kinh) Nhị giả, thường năng thiện nhập Thiền Định tư duy.

()二者常能善入禪定思惟。

(Kinh: Hai là thường có thể khéo nhập Thiền Định tư duy).

“Chư Thiền Định tư duy” và cảm nhận, tư duy của chúng sanh về Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp sai khác tột bậc to lớn. Do tu trì bốn loại vô biên mà người ta sẽ đắc Thiền Định thiện xảo. Vì sao? Vì hết thảy thức tâm sẽ tiêu tan, lìa thoát, không chấp trước gì!

(Kinh) Tam giả, phân biệt tư duy nhất thiết chư pháp.

()三者分別思惟一切諸法。

(Kinh: Ba là phân biệt, tư duy hết thảy các pháp).

“Phân biệt” ở đây là khéo phân biệt, quan sát trong pháp tắc vô phân biệt. Vô phân biệt chính là nơi tự tánh tồn tại. Do khéo phân biệt mà liễu đạt tự tánh, chẳng có gì phân biệt. Trong vô phân biệt, hiện các thứ tướng phân biệt. Vì thế, nói là “khéo phân biệt hết thảy các pháp”.

(Kinh) Tứ giả, ư chư chúng sanh vô hữu tránh tâm.

()四者於諸衆生無有諍心。

(Kinh: Bốn là đối với các chúng sanh, chẳng có tâm tranh chấp).

Trong pháp tắc tu trì Ban Châu tam-muội, cái tâm vô tránh rất quan trọng. Nó chính là căn bản để thủ hộ của người niệm Phật. Có kẻ nói chính mình là người niệm Phật, nhưng chỗ nào cũng là “người này đúng, người nọ sai”. Như thế sẽ chẳng thể niệm Phật, vì sao? Phật là đấng thanh tịnh, đấng bình đẳng, đấng chân thật, đấng lợi lạc rộng khắp chúng sanh, đấng yêu thương chúng sanh, đấng dẹp khổ cho chúng sanh, đấng ban vui cho chúng sanh, đấng ban phước huệ cho chúng sanh, sẽ chẳng tranh giành với người khác, sẽ chẳng có duyên cớ tranh chấp, sẽ chẳng có tâm tranh chấp, sẽ chẳng có ý tranh chấp!

(Kinh) Ngũ giả, thường dĩ Tứ Nhiếp nhiếp thọ chúng sanh. Sở vị, bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc ngũ pháp thành tựu tam-muội.

()五者常以四攝攝受衆生。所謂佈施愛語利行同事。賢護是爲菩薩摩訶薩具足五法成就三昧。

(Kinh: Năm là thường dùng pháp Tứ Nhiếp để nhiếp thọ chúng sanh, tức là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Này Hiền Hộ! Đó là Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ năm pháp thành tựu tam-muội).

Tứ Nhiếp Pháp, bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự là thiện xảo để giao tiếp, thiện xảo để nhiếp thọ chúng sanh, là thiện xảo để tôn trọng, là pháp tắc trọng yếu trong tu hành hết thảy Phật pháp, là điều mà hết thảy hữu tình học Phật phải nên quen thuộc, phải nên khéo thủ hộ, khéo tu tập. Như thế thì đoàn thể Tăng chúng và đoàn thể cư sĩ sẽ hòa hợp, sẽ có ý nghĩa. Trong Tăng chúng và trong cư sĩ hiện thời, tột bậc thiếu khuyết pháp tắc Tứ Nhiếp, lợi ích rộng khắp người khác ít ỏi, bố thí ít ỏi, đồng sự ít ỏi. Kẻ nói “ta cao minh, ta vĩ đại, ta trang nghiêm, ta chánh xác, ta chân thật” nhiều lắm. Đó chẳng phải là đồng sự với người khác. Đồng sự là vô ngã, vô ngã tướng, không có người khác, không có tướng người khác. Như thế thì sẽ có thể tiêu trừ hết sạch cảm nhận bất bình đẳng, vì có thể khéo thực hiện bố thí, ái ngữ, có thể lợi ích rộng khắp hữu tình.

(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát phục hữu ngũ pháp năng đắc tam-muội.

()復次賢護菩薩摩訶薩復有五法能得三昧。

(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát lại có năm pháp có thể đắc tam-muội).

Đây là “năm pháp” thứ tư.

(Kinh) Nhất giả, ư chư chúng sanh sở, thường hành từ tâm.

()一者於諸衆生所常行慈心。

(Kinh: Một là đối với các chúng sanh, thường hành từ tâm).

Các vị Bồ Tát ơi! Đừng coi thường lời dạy này! Chúng ta có thể dùng năm pháp này để đối chiếu với tâm trí và hành vi thường nhật của chính mình xem có trọn đủ hay không? Quý vị sẽ biết vì sao chính mình chưa chứng tam-muội, chưa đắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền! Chúng ta dùng cái gương vi tế này để soi rọi nghiệp của chính mình, vì sao nghiệp chẳng chín muồi? Vì sao hành pháp chẳng tương ứng? Thường hành từ tâm đối với các chúng sanh, chẳng phải là một loại, chẳng phải nhân loại, chẳng phải thiên loại, chẳng phải đồng loại, chỉ là đối với chúng sanh thường hành từ tâm!

(Kinh) Nhị giả, ư nhất thiết thời, niệm tu thánh hạnh.

()二者於一切時念修聖行。

(Kinh: Hai là trong hết thảy các thời, nghĩ tu thánh hạnh).

Đừng nên hành hạnh của phàm ngu, hoặc hạnh đọa lạc.

(Kinh) Tam giả, thường hành nhẫn nhục, kiến phá giới giả, hằng sanh kính tâm.

()三者常行忍辱見破戒者恆生敬心。

(Kinh: Ba là thường hành nhẫn nhục, thấy kẻ phá giới luôn sanh tâm kính trọng).

Điều này mười phần trọng yếu. Vì nhẫn nhục, cho nên thấy kẻ phá giới vẫn sanh lòng tôn trọng, yêu mến. Vì sao nói như thế? Trong giáo ngôn Đại Thừa của đức Thế Tôn đã dạy: “Trì giới bất kính, phạm giới bất sỉ” (Chẳng kính người trì giới, chẳng sỉ nhục kẻ phạm giới). Vì sao? Do cái tâm thanh tịnh, do bình đẳng, do có thể nhẫn nhục hết thảy sai biệt.

Đây là một sự tu trì tâm lý hết sức trọng yếu, tức là tâm lý thanh tịnh, bình đẳng. Hãy nên tu trì như thế, sự tu trì ấy mười phần trọng yếu. Vì mọi phàm nhân hễ thấy kẻ khác có lỗi, tâm họ sẽ sanh sân oán, bài xích, lìa bỏ. Đối với pháp như thế, chẳng thể đạt được an lạc thật sự và tâm từ bi rốt ráo, tâm bình đẳng chẳng thể chọn lựa sanh khởi.

(Kinh) Tứ giả, ư tự hòa thượng, A Xà Lê sở, bất thuyết kỷ năng.

()四者於自和尚阿闍梨所不說己能。

(Kinh: Bốn là đối với hòa thượng, A Xà Lê của chính mình, chẳng khoe tài năng của bản thân).

Hết sức trọng yếu! Vì sao? Do tôn sư trọng đạo! Vì nếu đối với “tự hòa thượng, A Xà Lê sở”, khoe tài năng của chính mình, tức là khoe khoang, là khinh miệt thầy, là báng pháp. Vì sao? Do cái tâm kiêu mạn mà ra, do cái tâm tà kiến mà ra. Trong quá khứ, chuyện này được gọi là “khi nhục sư trưởng” (dối gạt, làm nhục sư trưởng). Tôi nêu một thí dụ để mọi người dễ cảm nhận hơn. Chẳng hạn như có một người giúp kẻ khác buôn bán, cho kẻ đó mượn tiền, lót đường cho kẻ đó buôn bán. Sau đó, kẻ đó do buôn bán mà phát tài, bèn tới trước mặt người đã giúp đỡ hắn, bô bô: “Nay tao rất có tiền! Tao nói cho mày biết…” Tự huênh hoang dạy đời, khiến cho người kia cảm thấy kẻ đó chẳng tử tế, chẳng tương ứng. Vì sao? Kẻ đó chẳng được người khác giúp đỡ, đức hạnh sẽ chẳng thể an lập. Nếu có thể an lập, hãy nên thanh tịnh thủ hộ, cảm kích thủ hộ. Vì thế, chẳng khoe tài năng của chính mình rất quan trọng.

Tôi nhớ có lần tôi đến đạo tràng của vị ân sư thế độ. Sư phụ nói: “Nay con làm pháp sư, nghe nói con giảng kinh khá lắm, hãy đến đây giúp thầy giảng kinh”. Tôi thưa: “Thầy chớ nên giảm tổn đệ tử của chính mình! Thầy nói như thế, con chỉ có nước đỏ mặt mà thôi!” Trước mặt sư phụ, đối đáp nhân duyên như thế làm sao được? Tôi chỉ có thể cảm ơn sư trưởng đã giáo huấn, dìu dắt, ban tặng, chẳng thể nói chi khác. Vì thế, đối trước hòa thượng, A Xà Lê, chẳng thể khoe tài năng của chính mình. Đấy là điều chúng ta phải tránh, phải chú ý chỗ này. Nếu không chú ý, sẽ có tâm tăng thượng mạn, thậm chí sanh tâm tà kiến, như thế thì sẽ tổn hại thiện căn của quý vị. Sư trưởng sẽ không cho quý vị cơ hội, hoặc sẽ chẳng nói pháp giáo cho quý vị. Dẫu có giáo ngôn thiện xảo rất sâu, thầy cũng chẳng truyền dạy quý vị. Vì sao? Như thế sẽ khiến cho quý vị bị đọa lạc, thương tổn, giống như kẻ giàu có ăn nhậu, chơi bời, cờ bạc, chẳng tương ứng! Vì thế, người khéo gìn giữ gia sản, sẽ để cho đứa con hiếu thuận thủ hộ gia sản, truyền thừa cho đời sau, hoặc lợi ích thế gian. Cũng giống như vậy, nếu chúng ta chẳng thể khéo vận dụng pháp tắc, sư trưởng sẽ ngăn trở nhân duyên của chúng ta. Đó là chuyện tất nhiên. Khinh mạn sư trưởng là chẳng tương ứng, bất cứ người học Phật nào cũng đều nên chú ý điểm này!

(Kinh) Ngũ giả, ư nhất thiết xứ, bất cảm khinh tha. Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc ngũ pháp, tắc năng chứng thị hiện tiền tam-muội.

()五者於一切處不敢輕他。賢護是爲菩薩摩訶薩具足五法則能證是現前三昧。

(Kinh: Năm là trong hết thảy các chỗ, chẳng dám khinh mạn người khác. Này Hiền Hộ! Đó là Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ năm pháp sẽ có thể chứng hiện tiền tam-muội này).

Càng trọng yếu hơn! Trong hành pháp Ban Châu, chớ nên coi thường hết thảy chúng sanh, dẫu là hữu tình tội ác tột bậc, điên đảo cùng cực, cuồng vọng cùng cực, phạm lầm lỗi cùng cực, cũng chớ nên khinh kẻ đó. Chúng ta chẳng có lý do gì để coi thường sự tồn tại và giá trị của bất cứ sanh mạng nào! Vì sao? Quý vị chẳng biết kẻ đó là do vị Bồ Tát nào thị hiện, do vị thiện tri thức nào thị hiện, hoặc do nhân duyên nào thị hiện, khi quý vị chẳng thấy thấu suốt, tuyệt đối phải nên tôn trọng hết thảy, trừ phi biết túc mạng trong bao kiếp lâu xa giống như đức Thế Tôn. Nếu không, quyết định chớ nên [khinh thường].

Trong lúc đức Thế Tôn tại thế thuyết pháp, tôn giả Ca Diếp đã mấy lần thưa với đức Thế Tôn lời lẽ như thế. Có một lần, các vị đại A La Hán thấy một hữu tình già khọm muốn xuất gia, mỗi vị đều cho là ông cụ đó chẳng có thiện căn để xuất gia. [Các Ngài quán thấy] suốt một kiếp, hai kiếp, cho đến tám vạn đại kiếp, xét theo nhân duyên, chẳng thấy ông lão có mảy may thiện căn, làm sao có thể xuất gia cho được? Cụ già ấy được gặp đức Thế Tôn, đức Thế Tôn quán thấu triệt thiện căn, phước đức, nhân duyên của người ấy, biết bao kiếp lâu xa về trước, cụ là tiều phu. Có con cọp đói toan ăn thịt. Cụ liền trèo lên cây. Cọp đói quá sức, nhe nanh gặm cây. Cụ già trong lòng hoảng hốt, bèn niệm một câu “nam-mô Phật”.

Do thiện căn từ bao kiếp lâu xa về trước ấy, đức Thế Tôn cho phép cụ xuất gia. Khi cụ xuất gia, liền chứng A La Hán. Lúc ấy, các vị đại A La Hán đều khó hiểu, nói vì sao vậy? “Bạch Thế Tôn! Người này trong tám vạn đại kiếp chẳng có mảy may thiện căn nào, vì sao đức Thế Tôn vừa nói, ông ta lập tức chứng A La Hán? Rất là bất công!” Đức Thế Tôn bèn tuyên nói với các vị A La Hán từ bao kiếp lâu xa về trước, người tiều phu này có thiện căn xưng “nam-mô Phật”. Do [thiện căn ấy] đã vượt ra ngoài tám vạn đại kiếp, các vị A La Hán chẳng thể suy xét sâu hơn, nhưng đức Thế Tôn có thể thấy thấu triệt, khiến cho thiện căn của người ấy thành thục. Ngay khi đó, tôn giả Ca Diếp đảnh lễ dưới chân đức Phật, tán thán rằng: “Lành thay! Đức Thế Tôn oai đức hy hữu, đã vì con mở kho công đức thù thắng, khiến cho con được thấy chỗ vô tận thiện căn của chúng sanh. Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau, chúng con chẳng thể khinh báng hết thảy kẻ hữu duyên, sẽ coi hết thảy nhân duyên giống như Thế Tôn”. Đó là tôn giả Ca Diếp ở chỗ đức Thế Tôn, đối với chuyện đức Thế Tôn đã vì chúng sanh chỉ ra lợi ích chân thật của bảo tạng trân quý, bèn ngay lập tức thốt ra lời cung kính thọ trì. Ngài nói gì vậy? Tôn trọng hết thảy hữu tình; đấy là bảo tạng.

Chúng ta nói: “Vì chúng sanh mở kho báu vô tận”, kho báu vô tận ở chỗ nào? Chính là tôn trọng hết thảy. Các vị thiện tri thức ơi! Đừng coi các thứ duyên là tạp duyên, đừng coi các thứ duyên là ác duyên. Nếu chúng ta mở con mắt trí huệ, hết thảy các hiện duyên đều là duyên trí huệ. Nếu chúng ta mở con mắt “trọn đủ”, hết thảy các hiện duyên đều là trân bảo. Vì kẻ mù chẳng thể thấy, do phòng tối đóng kín, cho nên bị nhiều thứ trân bảo làm bị thương. Trân bảo ở nơi đó cũng trở thành ác duyên. Vì sao là ác? Do con mắt trí huệ chẳng mở! Năm pháp trọn đủ ấy nhất là đối với chúng ta là những kẻ phàm ngu hữu tình đang hành trì Ban Châu lại càng trọng yếu, nhất là trong thời đại này, chúng ta tự mình hèn kém, khiến cho kẻ khác hèn kém. Mọi người hãy nên tự khéo quan sát, thủ hộ bảo tạng ấy.

(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát phục hữu ngũ pháp năng đắc tam-muội.

()復次賢護菩薩摩訶薩復有五法能得三昧。

(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát lại có năm pháp có thể đắc tam-muội).

Đây là “năm pháp” thứ năm.

(Kinh) Nhất giả, thường y thánh giáo, như thuyết tu hành.

()一者常依聖教如說修行。

(Kinh: Một là nương theo thánh giáo, tu hành đúng như lời dạy).

Pháp này đơn giản, chẳng cần phải tư duy. Tu hành theo đúng lời dạy chính là phương tiện.

(Kinh) Nhị giả, thanh tịnh ý nghiệp, diệt thân khẩu ác.

()二者清淨意業滅身口惡。  

(Kinh: Hai là thanh tịnh ý nghiệp, diệt điều ác nơi thân và miệng).

Đây là thiện xảo Tứ Chánh Cần, rất dễ nắm vững, có thể vận dụng trong hiện duyên bất cứ lúc nào!

(Kinh) Tam giả, thanh tịnh giới hạnh, đoạn trừ chư kiến.

()三者清淨戒行斷除諸見。

(Kinh: Ba là giới hạnh thanh tịnh, đoạn trừ các kiến).

Giới do chư Phật Thế Tôn chế định. Bất luận Bồ Tát giới, Thanh Văn giới, tại gia giới, hay xuất gia giới, trong các loại giới hạnh, nếu nương theo giới, tự nhiên có thể trừ các kiến.

(Kinh) Tứ giả, thường cầu đa văn, thâm tín chư thiện.

()四者常求多聞深信諸善。

(Kinh: Bốn là thường cầu đa văn, tin sâu các điều thiện).

Trong các pháp, chẳng sanh nghi báng, bất luận là tự pháp hay tha pháp, bình đẳng yêu thích, nhưng nương theo tự pháp để thâm nhập tu tập, phương tiện thủ hộ. Vì thế, chớ nên tự khen mình, báng bổ người khác.

(Kinh) Ngũ giả, thường niệm Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác. Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc ngũ pháp, tắc năng hoạch đắc hiện tiền tam-muội.

()五者常念如來應等正覺。賢護是爲菩薩摩訶薩具足五法則能獲得現前三昧。

(Kinh: Năm là thường niệm Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác. Này Hiền Hộ! Đó là năm pháp mà Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ, sẽ có thể đạt được hiện tiền tam-muội).

Phải nên thường niệm “Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác là đấng ta tôn kính”. Chớ xem thường câu này, hãy thường tư duy, hãy luôn để trong lòng.

(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát phục hữu ngũ pháp năng đắc tam-muội.

()復次賢護菩薩摩訶薩復有五法能得三昧。

(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát lại có năm pháp có thể đắc tam-muội).

Đây là “năm pháp” thứ sáu.

(Kinh) Nhất giả, thường hành đại thí. Năng vi thí chủ, bất khởi xan tham, tâm vô tật đố, hoằng quảng tâm thí, thuần trực vô siểm. Ư chư sa-môn cập Bà La Môn, bần cùng, cô độc, nhất thiết khất nhân, vô sở ái tích, vô hữu thắng thượng khả trọng chi vật, nhi bất thí giả. Sở vị nhất thiết vi diệu ẩm thực, danh y thượng phục, đệ nhất phòng xá, chư chủng phu cụ, đăng, chúc, hoa, hương, phàm sở thọ dụng, giai tất xả chi. Tuy thường hành thí, nhi bất cầu báo, lân mẫn nhất thiết, vô nghi hoặc tâm. Ký thí chi hậu, chung vô biến hối.

()一者常行大施。能爲施主不起慳貪心無嫉妒宏廣心施純直無諂。於諸沙門及婆羅門貧窮孤獨一切乞人無所愛惜無有勝上可重之物而不施者。所謂一切微妙飲食名衣上服第一房舍諸種敷具燈燭花香凡所受用皆悉舍之。雖常行施而不求報憐愍一切無疑惑心。既施之後終無變悔。

(Kinh: Một là thường hành bố thí to lớn. Có thể làm bậc thí chủ, chẳng dấy lòng keo tham, tâm chẳng ghen tỵ, bố thí bằng cái tâm rộng lớn, tinh thuần thẳng thắn, chẳng siểm ngụy. Đối với các sa-môn và Bà La Môn, kẻ nghèo túng, cô độc, hết thảy ăn mày, đều chẳng yêu tiếc, chẳng có vật nào thù thắng, thượng diệu đáng trọng mà chẳng thể thí. Tức là hết thảy các thứ thức ăn vi diệu, y phục sang đẹp nổi tiếng, nhà cửa bậc nhất, các thứ để trải, đèn, đuốc, hoa, hương, phàm là thứ thọ dụng nào cũng đều xả được. Tuy thường hành bố thí, mà chẳng cầu báo, thương xót hết thảy, chẳng có tâm ngờ vực. Sau khi đã thí, trọn chẳng đổi dạ, hối hận).

Đây thật sự là tâm địa rộng lớn. Quý vị nói: “Tôi chẳng có gì cả, [bố thí] rộng lớn bằng cách nào đây?” Trên thực tế, bần cùng cũng rất dễ bố thí. Có phương pháp [bố thí] là người nghèo cùng nếu chẳng sát sanh, yêu mến sanh mạng [của chúng sanh]. Đó chính là bố thí. Nếu “biết đủ” thì là bố thí hết thảy tiền tài.

(Kinh) Nhị giả, thường vi thí chủ nhi hành pháp thí. Sở vị thường vị chúng sanh thuyết như tư pháp, sở vị đệ nhất tối thượng, tối thắng, tối diệu, tối tinh. Tu hành như thị đại pháp thí thời, năng xuất nhất thiết vô ngại biện tài, văn nghĩa thứ đệ, tương tục bất đoạn. Như Lai sở thuyết thậm thâm pháp trung, giai năng an trụ, thành tựu thâm nhẫn. Hoặc thời bị tha phỉ báng, mạ nhục, chủy kích, tiên đả, chung vô sân hận, uế trược độc tâm, diệc vô kinh cụ, chủng chủng khổ não, nhi tâm vô úy, thường hoài hoan hỷ.

()二者常爲施主而行法施。所謂常爲衆生說如斯法所謂第一最上最勝最妙最精。修行如是大法施時能出一切無礙辯才文義次第相續不斷。如來所說甚深法中皆能安住成就深忍。或時被他誹謗罵辱捶擊鞭打終無瞋恨穢濁毒心亦無驚懼種種苦惱而心無畏常懷歡喜。

(Kinh: Hai là thường làm thí chủ để hành pháp thí. Tức là thường vì chúng sanh mà nói pháp như thế này, chính là [các pháp] bậc nhất, tối thượng, tối thắng, mầu nhiệm nhất, tinh vi nhất. Khi tu hành đại pháp thí như thế, có thể phát ra hết thảy biện tài vô ngại, văn và nghĩa theo thứ tự, liên tục chẳng ngừng. Trong các pháp rất sâu do Như Lai đã nói, đều có thể an trụ, thành tựu Nhẫn sâu. Hoặc có lúc bị kẻ khác phỉ báng, nhục mạ, đánh đập, đòn vọt, trọn chẳng có tâm sân hận, nhơ bẩn, tàn độc, cũng chẳng có tâm kinh sợ, các thứ khổ não, mà tâm chẳng sợ hãi, thường có lòng hoan hỷ).

Lành thay! Đây thật sự là những pháp tắc mà chúng ta có thể sử dụng trong lúc bình thời, có thể xem xét kỹ!

(Kinh) Tam giả, nhược văn tha thuyết thử tam-muội thời, chí tâm thính thọ, thư tả, độc tụng, tư duy kỳ nghĩa, quảng vị tha nhân phân biệt, diễn thuyết, linh thị diệu pháp cửu trụ thế gian, chung vô bí tàng, sử pháp tật diệt.

()三者若聞他說此三昧時至心聽受書寫讀誦思惟其義廣爲他人分別演說 令是妙法久住世間 無祕藏使法疾滅。

(Kinh: Ba là nếu khi nghe người khác nói tam-muội này, chí tâm nghe nhận, biên chép, đọc tụng, tư duy nghĩa lý, rộng vì người khác phân biệt, diễn nói, khiến cho diệu pháp này tồn tại lâu dài trong thế gian, trọn chẳng giấu kín khiến cho pháp mau diệt).

Các vị thiện tri thức ơi! Đây thật sự là một bảo điển! “Năm pháp” ấy chính là lời bí mật, lời như thật, lời công đức của chư Phật, có thể khiến cho chúng sanh ấn khế tự tâm, lựa chọn lợi ích. Sự lợi ích ấy được lựa chọn từ đâu? Quý vị nói: “Tôi hành Ban Châu trong một thời gian dài như thế, vì sao chẳng tương ứng?” Tương ứng với gì vậy? Tương ứng với vọng tưởng của quý vị ư? Tương ứng với sự thấy Phật giả lập của quý vị ư? Do quý vị giả lập, nói chung là chẳng tương ứng! Vì thế, ở đây chẳng có sự giả lập, nhưng khi tương ứng, chúng ta sẽ có thể đạt được công đức của Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội như thế. “Chung vô bí tàng, sử pháp tật diệt” (Trọn chẳng giấu giếm, khiến cho pháp mau diệt): Vì thế, công đức tuyên nói pháp này rất chẳng thể nghĩ bàn! Kinh văn trong phần trước đã nói bốn điều:

1) Nếu cầu pháp này, công đức chẳng thể nghĩ bàn.

2) Nếu đọc tụng kinh điển này, công đức chẳng thể nghĩ bàn.

3) Nếu vì người khác tuyên nói, công đức chẳng thể nghĩ bàn.

4) Nếu đích thân chứng tam-muội này, công đức chẳng thể nghĩ bàn, chỉ có chư Phật biết, chỉ có Bồ Tát thủ hộ, chỉ có người thiện căn thuần thục truyền đạt.

(Kinh) Tứ giả, thường vô tật đố, viễn ly chư não, khí xả Cái Triền, đoạn trừ trần cấu, bất tự xưng dự, diệc bất hủy tha.

()四者常無嫉妒遠離諸惱棄捨蓋纏斷除塵垢不自稱譽亦不毀他。

(Kinh: Bốn là thường chẳng ghen tỵ, xa lìa các não, vứt bỏ Cái Triền, đoạn trừ trần cấu, chẳng tự khen ngợi, cũng chẳng hủy báng kẻ khác).

“Ghen tỵ” là chuyện phiền toái nhất trong loài người hiện thời. “Cái Triền” bao gồm Ngũ Cái và Thập Triền. “Bất tự xưng dự” tức là chẳng tự mình ca ngợi những gì chính mình đã đạt được. Hữu tình hiện thời thường nói: “Ta nay tốt đẹp hơn trước rất nhiều, nay ta được lắm! Nay ta như thế này, như thế nọ…” Ca ngợi chính mình như thế đó, chẳng thể tiến bộ, sẽ đứng ì tại đó, hoặc là hãm trong sự ca tụng chính mình, chẳng thể thoát ra. “Diệc bất hủy tha” (Cũng chẳng hủy báng kẻ khác). Vì sao? Kẻ tự khen mình, tất nhiên sẽ báng bổ kẻ khác. Nếu bảo là ta đúng, tất nhiên kẻ khác sai bét! Trong pháp tương đối, sẽ tự nhiên sanh khởi như thế, chọn lựa như thế. Quý vị chẳng cần phải hoài nghi!

(Kinh) Ngũ giả, ư chư Phật sở, thường trọng tín tâm. Ư chư sư trưởng, thường hành kính úy. Ư tri thức xứ, thường sanh tàm quý. Ư chư ấu trĩ, thường hoài từ lân. Nãi chí thọ tha tiểu ân, thượng tư hậu báo. Hà huống nhân hữu trọng đức, nhi cảm triếp vong. Thường trụ thật ngôn, vị tằng vọng ngữ. Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc ngũ pháp, tắc năng hoạch đắc như thị tam-muội.

()五者於諸佛所常重信心。於諸師長常行敬畏。於知識處常生慚愧。於諸幼稚常懷慈憐。乃至受他小恩尚思厚報。何況人有重德而敢輒忘。常住實言未曾妄語。賢護是爲菩薩摩訶薩具足五法則能獲得如是三昧

(Kinh: Năm là ở nơi chư Phật, thường có tín tâm sâu nặng. Đối với sư trưởng, thường giữ lòng kính sợ. Ở nơi tri thức, thường sanh lòng hổ thẹn. Đối với những kẻ nhỏ dại, thường có lòng từ bi, thương xót. Cho đến nhận ân nhỏ của người khác, còn nghĩ báo đáp sâu đậm. Huống hồ đối với người có đức sâu nặng mà dám vội quên. Thường trụ trong lời chân thật, chưa từng nói dối. Này Hiền Hộ! Đó là Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ năm pháp, sẽ có thể đạt được tam-muội như thế).

Kính sợ sư trưởng chính là thiện xảo, diệt trừ kiêu mạn, lập tức cung kính. Tâm cung kính chính là căn bản của hết thảy các pháp. Nếu chẳng có tâm cung kính, hết thảy các pháp đều chẳng thể đạt được, hết thảy các pháp đều chẳng thể thành, hết thảy các tam-muội đều chẳng thể thành tựu. Đó là điều chắc chắn, chẳng có mảy may hoài nghi nào! Bởi lẽ, sư trưởng là vị hướng dẫn tốt lành cho chúng ta. Chư Phật là đấng khéo hướng dẫn chúng ta, vì [các Ngài] dẫn dắt, phát khởi sự cung kính chọn lựa cho chúng ta. “Thường trụ thật ngôn, vị tằng vọng ngữ” (Thường trụ trong lời thật, chưa hề nói dối): Vì hành trì pháp Niệm Phật, và hành trì pháp tắc của chư Phật, nói dối sẽ gây tổn thương rất lớn cho con người. Vì thế, phải nên mười phần chú ý.

Đức Thế Tôn nêu ra sáu thứ “ngũ pháp”, chúng ta hãy thường nên luyện tập, thường đọc tụng, thường tu tập, thường ấn khế tự tâm, như thật biết tự tâm, sẽ đích thân chứng đắc tam-muội này chẳng khó!

(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa, dĩ kệ tụng viết.

()爾時世尊爲重明此義以偈頌曰。

(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vì nói rõ lại nghĩa này, dùng kệ tụng nói như sau).

Đây là theo lệ thường, kệ tụng nhằm trùng tuyên ý nghĩa [trong phần Trường Hàng]. Vì sao như thế? Đức Thế Tôn giáo huấn chúng ta, muốn khiến cho chúng ta đạt được sự nhận biết rõ ràng đối với pháp tắc tam-muội, tư tưởng ít đi theo đường vòng, có thể rõ ràng nhờ vào danh tướng và ngôn từ mà hiểu rõ tự tâm, nhờ vào ngôn thuyết mà biết rõ tự tâm, nhờ vào ngôn thuyết mà hiểu rõ pháp tắc.

Đối với pháp tắc, dựa theo đạo lý, thường là chúng ta nhận biết chẳng phải là rất khó, nhưng nếu muốn nhận biết rõ ràng, chẳng nghi, cần phải không ngừng tập cho quen thuộc. Vì chúng ta đối với nghiệp tập tiếp nối từ vô thỉ đến nay, tức là những cái gọi là phiền não và tri kiến chẳng chánh đáng, cho đến tham, sân, si, mạn, nghi, đủ loại tư duy, chúng ta đều hết sức quen thuộc. Đối với sự nhận biết đắm nhiễm trong sáu căn và sáu trần, chúng ta đã hết sức quen thuộc, đã thuần thục rất lâu, nhưng đối với sự tư duy về pháp, sự nhận biết về pháp thì hết sức xa lạ! Nếu chẳng do thiện căn nhiều kiếp, đối với pháp chúng ta còn chẳng thể nghe, huống hồ có thể quen thuộc, hoặc thuần thục với nó, tu tập nó, cho đến thành tựu nó ư? Vì thế, chớ nên coi thường nhân duyên quen thuộc và thâm nhập quan sát một pháp tắc. Thật sự cần phải có một cơ chế rất sâu rộng thì mới có thể thành thục tiếp xúc, nhận biết, tu tập, cũng như thành thục thiện căn thù thắng, duyên thù thắng, hay nghiệp thù thắng của một pháp tắc.

Nói theo phía đại đa số người học Phật, cảm giác xa lạ [đối với pháp] biểu hiện khá rõ rệt, nhưng đấy chính là chỗ chúng ta chẳng sợ hãi, là chỗ phải nên hoan hỷ. Nói “hoan hỷ” hoàn toàn chẳng phải là chúng ta dễ dãi, hời hợt nhận biết một vấn đề, liền cho là đã có thành tựu, hoặc đã đạt được điều chi đó. Hoàn toàn chẳng phải là như vậy, mà là chúng ta có thể thật sự đắc lực tập trung vào sanh mạng. Tức là khi có phiền não, nghịch duyên, tạp duyên, bèn có thể từ đó thoát ra, thật sự từ trong phiền não mà thoát ly phiền não, từ nơi nghịch hạnh mà được tự tại, từ chỗ ác duyên mà đạt được thuần tịnh. Như thế thì mới có thể thật sự hiển thị sức mạnh và phương tiện chẳng thể nghĩ bàn của Phật pháp. Ở đây, cũng giống như thế. “Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa” (Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vì nói rõ lại nghĩa này) để khiến cho mọi người hiểu rõ. Nếu chúng ta chẳng hiểu rõ các duyên hiện tiền, dẫu hết thảy chư Phật đều hiểu rõ, cũng chẳng liên can gì với chúng ta, vô ích cho chúng ta!

(Kinh) Nhược ư thâm pháp tâm dục nhạo, yếm ly nhất thiết chư hậu hữu.

()若於深法心欲樂厭離一切諸後有。

(Kinh: Nếu với pháp sâu, tâm ưa thích, chán lìa hết thảy các hậu hữu).

Đối với hai chữ “hậu hữu”[3], chúng ta phải nên chú ý, dốc sức tư duy, quan sát. “Yếm ly nhất thiết chư hậu hữu” (Chán lìa hết thảy các hậu hữu): Nếu đối với tương lai chẳng tính toán, đối với vị lai chẳng có nhiều điều mong mỏi, chẳng có nhiều vọng tưởng, nghiệp tập của người như thế đã mỏng ít. Nếu đối với sự tạo tác của “hậu hữu” trong đời vị lai mà xa lìa sự cưỡng chấp nơi ý chí của tự ngã, chỉ vì pháp tắc, vì lợi lạc thế gian, người như thế sẽ đạt được sự an ủi nơi pháp tắc. Nếu trong khi lợi lạc thế gian mà vận dụng thuần thục hai pháp bi và trí, người ấy đạt được công đức và lợi ích thù thắng trong sự thành tựu. Nếu hiểu rõ ràng sự vận dụng liên tục trong từng sát-na cho đến hết đời vị lai, tâm thanh thản, tâm vô công dụng, chỉ xét theo sự tướng có tác dụng lợi ích rộng khắp thế gian, người ấy đã đoạn trừ hậu hữu, đích thân chứng các thứ tướng công đức thù thắng chẳng thể nghĩ bàn!

Đối với Thanh Văn, “sở tác dĩ biện, phạm hạnh dĩ lập” (việc làm đã xong, phạm hạnh đã lập) chẳng phải là nói theo hậu hữu, mà là đã chứng thanh tịnh như thế. “Chẳng vì hậu hữu”, nói theo những người đang học Phật trong hiện tiền, vốn là một điều phải nên quan sát hàng đầu, phải nên phản tỉnh trong sự tu trì nội tâm. “Hậu hữu” thường là ích kỷ, nhưng nếu đối với một pháp tắc mà liên tục tu trì, Hữu ấy sẽ là “hữu chẳng luân hồi”, mà là Hữu tăng thượng. Tuy chưa đắc đạo, mà đã có đạo cơ (cơ duyên ngộ đạo, chứng đạo). Tuy chưa lìa vô minh, cái duyên “có thể trừ khử vô minh” đã hiện tiền. Cũng có nghĩa là nếu đối với vị lai, chúng ta còn có rất nhiều sự giả lập tự ngã, khát vọng, hoặc mong mỏi hư vọng, huy hoàng, tức là vẫn đắm chìm trong dòng nghiệp vô minh. Hậu hữu kiểu đó chớ nên có, đừng nên có! Nếu chúng ta muốn lưu truyền Phật pháp rộng khắp trong thế gian, thực hiện các thứ thiện xảo, và huân tu, trao đổi, tu hành các thứ pháp tắc, hoặc kiến thiết đạo tràng, “hậu hữu” kiểu đó chính là thiện duyên tăng thượng. Điều này càng trọng yếu hơn nữa đối với hữu tình còn đang mê muội. Do vậy, phải nên vận dụng Hậu Hữu như thế nào? Quan sát như thế nào?

Xa lìa hết thảy hậu hữu, thật sự là sự lựa chọn theo pháp tánh thanh tịnh, mà cũng là một loại duyên khởi thanh tịnh, viên mãn, tự đạt được trong Phật giáo, chính là tu ngay trong hiện tiền. “Tu” là chọn lựa, chấp thuận ngay trong hiện tại, nhất là trong nghịch duyên, trong nhân duyên chẳng vừa lòng, trong ác duyên. “Ngay trong hiện tại” giống như hòn đá thử vàng, vì trong thuận duyên, trong cái tâm vui sướng thì sẽ thoải mái, cho nên thường là chẳng có trở ngại gì, còn nghịch duyên thì vừa khéo là thời khắc trọng yếu để hiển hiện sức mạnh trí huệ. Do vậy, “yếm ly nhất thiết chư hữu” (chán lìa hết thảy các cõi) chính là cái được gọi là “duyên khởi trí huệ hạnh”, mà cũng là vận dụng trí huệ ngay trong hiện tiền. Có chán thế gian, lìa thế gian, sẽ là rất có ý nghĩa. “Chán” là có tâm nguyện vứt bỏ, cảm thấy mệt nhọc, khốn đốn. “Lìa” là đã lìa bỏ nhị nguyên đối đãi, thiện ác bức bách, hoặc là lấy bỏ, được mất. Hai pháp “ghét” và “lìa” chính là cơ sở của Bồ Đề tâm, mà cũng là bước khởi đầu đặc biệt trọng yếu để chúng ta học tập Ban Châu tam-muội.

(Kinh) Trí giả bất nguyện nhất thiết sanh, nhược năng như thị đắc tam-muội.

()智者不願一切生若能如是得三昧。

(Kinh: Người trí chẳng nguyện hết thảy sanh. Nếu được như thế, đắc tam-muội).

Chúng ta biết “sanh” trong “vãng sanh thế giới Cực Lạc” chính là thủ hộ căn bản Vô Sanh. Nói “sanh” tức là sanh vào cõi Vô Sanh. Thế giới Cực Lạc chẳng phải là một cõi nước luân hồi, chẳng phải là hậu hữu, mà là cõi an dưỡng, nương về để thành Phật rộng độ hữu tình, trọn đủ thiện pháp, trọn đủ oai đức. Đấy chính là chánh tướng “chẳng vì hậu hữu”. Do vậy, quốc độ ấy là “các tướng vô tướng”, [nhân dân trong cõi ấy] đều đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo, bình đẳng nhất vị, trọn đủ các sức trang nghiêm, oai đức, thần thông tự tại vô sai biệt. “Vô sai biệt” là chẳng có sự nhọc nhằn vì hậu hữu. Vì thế, “trí giả bất nguyện nhất thiết sanh” (người trí chẳng muốn hết thảy các thứ sanh) chẳng phải là đoạn diệt, mà cũng chẳng chấp giữ sanh. Đó chính là chỗ tồn tại của công đức chân thật nơi cõi An Dưỡng (Cực Lạc), mà cũng là chỗ tồn tại của tam-muội lực. Như trong sáu loại “ngũ cụ túc pháp” trên đây, các điều được thủ hộ bởi năm pháp thuộc loại đầu tiên là “vốn chẳng có sanh diệt, vốn chẳng có trần cấu, vốn chẳng chấp trước, vốn chẳng có gì được sanh”, cho nên có thể thủ hộ duyên khởi của tam-muội này. Vô sanh chính là duyên khởi, vô cấu chướng chính là duyên khởi. Nói “chính là duyên khởi” nghĩa là: Do vốn chẳng sanh, do vốn chẳng có nghiệp ấy, mà cũng do vốn chẳng có duyên ấy. Đó là chánh duyên hiện tiền.

Nếu chúng ta chẳng thể biết rõ ràng, rành mạch năm pháp đầu tiên, thì mỗi loại “năm pháp” do đức Thế Tôn đã nói sau đó đều là hướng dẫn dần dần theo thứ tự, cho đến năm pháp thuộc loại thứ sáu, đã phân tích tỉ mỉ, cặn kẽ, rộng khắp cho các hữu tình phàm phu nhiệt não, khiến cho chúng ta dùng năm pháp để đạt được niềm vui tam-muội, xa lìa các nỗi khổ do tản mạn, vô ký, thiện, ác trong thế tục. Niềm vui tam-muội ấy được hết thảy các bậc có trí, bậc thiện căn thuần thục thủ hộ, mà cũng có nghĩa là tam-muội vương này trọn đủ hết thảy các pháp, là Phật địa, là Phật trí, là Pháp tánh, là Tăng tánh, lợi ích chân thật như thế, chúng ta hãy nên siêng học, siêng tu trì, siêng quan sát!

“Nhược năng như thị đắc tam-muội” (Nếu có thể như thế thì sẽ đắc tam-muội): Trong quá trình học tập, giáo điển này không ngừng nhắc nhở chúng ta về sự thanh tịnh ngay trong hiện tiền, hiện tiền trọn đủ, hiện tiền chân thật. Nếu thật sự có thể trong mỗi thời khắc đều vận dụng mỗi niệm hiện tiền rất khéo, đạo tràng Ban Châu sẽ ở ngay trong mỗi bước chân, trong mỗi lúc giơ tay, đặt chân, mỗi câu nói năng của chúng ta đều là hành tam-muội. Mỗi ý niệm dấy động nơi ý thức đều là sự tiếp nối tam-muội chánh thọ. Đạo tràng Ban Châu lớn nhất ở ngay trong sự suy nghĩ, quán tưởng đúng pháp, ở ngay trong hiện duyên như pháp!

Thông thường, chúng ta đối với một đạo tràng hành trì  Ban Châu mà có sự cảm nhận rõ ràng, có sự quy hướng khá rõ ràng, thì sẽ hoặc là đến đó tu tập, hoặc sẽ sợ hãi. Đương nhiên cũng có kẻ sợ hãi. Kẻ sợ hãi đều tự biết, như một số vị xuất gia hay tại gia Bồ Tát nói như thế này: “Trời ơi! Đợi cho tới khi tôi đầy đủ tư lương rồi mới kinh hành Ban Châu”. Hoặc là nói: “Tôi nghi ngờ pháp Ban Châu”. Chuyện này thật sự là do có người đầy đủ phước đức, có người chẳng đủ; có người pháp đầy đủ, có người pháp chẳng đủ. Nếu hai pháp phước và huệ thật sự trọn đủ thì mới có thể đặc biệt hành pháp Ban Châu. Đây chẳng phải là cố ý khen ngợi, hoặc tung hô pháp tắc này, chẳng phải như vậy! Nếu chúng ta thật sự đơn độc, chuyên nhất hành Ban Châu, quả thật là phải có nhiều thiện căn, phước đức, và nhân duyên chín muồi! Rất ít người thật sự quan sát chỗ này! Chúng ta chẳng ngại lắng đọng cái tâm xen tạp để quan sát đôi chút: Nếu thật sự trọn đủ cơ hội chuyên môn hành pháp, phải có các duyên để thành tựu, các duyên phải chín muồi. Thiếu một duyên chẳng chín muồi, sẽ khó hành trì! Rất nhiều người phát tâm trong một khoảng thời gian rất dài, dùng cả mấy tháng để chuẩn bị, kết quả thường là chẳng thể thuận theo ý nguyện của chính mình để hành pháp, vì các duyên rất khó trọn đủ! [Hành trì] một ngày một đêm thì còn thuận tiện, chứ nếu nhiều ngày hơn, ba ngày, bảy ngày, hoặc thời gian càng dài hơn, nhân duyên như thế càng khó thật sự tương ứng! Một người kinh hành suốt bảy ngày bảy đêm, hoặc bảy ngày tám đêm theo hành pháp Ban Châu, sẽ cần phải có khá đông người khác bỏ ra tinh lực, tâm lực, từ bi, và trí huệ lực của chính họ để phục vụ cho toàn thể quá trình hành pháp của người ấy, nhất là trong bốn ngày cuối. Khá nhiều người kinh hành bảy ngày bảy đêm, do sức tự khống chế chẳng đủ, kết quả là [tuy một người hành Ban Châu, mà thành ra] cơ bản mọi người đều hành Ban Châu. Đối với chuyện này, chúng tôi đều đã thấy, biết, tham dự rồi!

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hành Ban Châu, tức là tu trì Tùy Ý tam-muội như người đạo nghiệp thuần thục đã nói. Đó là pháp tắc mà hữu tình thiện căn cực thuần thục có thể duy trì thanh tịnh liên tục. Nếu thất niệm, người ấy sẽ sanh lòng hổ thẹn. Nếu đối với mặt Sự mà đánh mất lợi ích nơi pháp tắc, hoặc là trong một niệm hiện tiền mà chẳng tương ứng với pháp, người ấy sẽ có lòng hối hận, hoặc tâm chán lìa, hoặc dùng Bồ Đề tâm để quán chiếu, hoặc mạnh mẽ trực tiếp thấu đạt pháp tánh, chẳng dính chặt với sự tướng để rồi đánh mất pháp tắc thanh tịnh. Tu trì như thế, trên thực tế, chúng ta phải nên có một sự thiện xảo rộng lớn để cổ vũ khích lệ phổ biến. Vì trong tu tập pháp Ban Châu, rốt cuộc là rất ít người, cực ít người có thiện căn và cơ chế thành thục. Ngay như trong hiện tại, còn có rất nhiều vị xuất gia hay tại gia Bồ Tát sanh lòng sợ hãi đối với pháp này, thậm chí mười phần sợ hãi. Sợ hãi gì vậy? Chẳng ngủ nghê, chẳng ngồi, mỗi ngày ăn một bữa. Đối với họ, đó là chuyện chẳng thể tưởng tượng. Cũng có lẽ đối với những người đã hành Ban Châu như chúng ta, chuyện này chẳng có gì đáng sợ. Người huân tập pháp tắc này trong một thời gian dài, đối với chuyện này (không ngủ, không ngồi, ăn một bữa) cũng chẳng có cảm giác gì, coi điều đó là rất tự nhiên, rất bình thản, thậm chí còn nói là một pháp tắc rất tốt. Nhưng đối với các hữu tình chưa hề bén mảng, còn sợ hãi, thì đâm ra những điều ấy vẫn là chỗ đáng sợ hãi! Có những kẻ tự ngỡ chính mình có thiện căn rất lớn, nhưng dính dáng đến hành pháp như thế liền chẳng dám chen chân vào! Vì sao? Vẫn là do có nỗi sợ hãi. Thoạt nhìn dường như dễ dàng, nhưng để thành thục thiện căn ấy, vẫn thật sự phải được oai thần của Phật gia bị, cần phải thường cầu nguyện hòng thành thục các duyên hòa hợp như thế. Do vậy, chúng ta chẳng ngại sử dụng hai chân để đi lại (tức là dùng hai pháp để thực hành Ban Châu trong cuộc sống thường nhật):

– Một là vận dụng hành pháp Ban Châu chuyên nhất trong pháp môn Ban Châu.

– Hai là trong cuộc sống hằng ngày, đối với chính mình chớ nên buông lung, chớ nên quá mức dung túng bản thân.

Đương nhiên là tâm địa phải nên khoan dung, phải nên như pháp, nhưng đối với các tâm niệm thế tục đã hết sức thuần thục, hoặc các thói quen trong phương thức tư duy, và phương thức sống thuộc về nghiệp lực luân hồi, đừng dung túng chính mình! Như thế thì đối với pháp, chúng ta sẽ có cái tâm hướng về, có cái tâm mạnh mẽ. Do vậy, thiện căn tinh tấn sẽ dễ chín muồi!

Dựa theo lời thọ ký của đức Thế Tôn, thời đại này là thời đại chẳng có sức tu trì. Vì sao đức Thế Tôn lại thọ ký pháp hội Ban Châu sẽ thịnh hành rộng rãi trong cõi đời? Chính là do oai đức, thần lực, và thệ nguyện của đức Thế Tôn gia bị, phước đức của đức Thế Tôn truyền lại cho chúng ta, khích lệ cơ duyên cuối cùng của chúng ta. Người trong thế giới Sa Bà do hành đạo và nghe pháp trong tuổi thọ trăm năm, sẽ khó thể tư duy, quán kỹ các hữu tình thuộc các thế giới ở phương khác, vì thọ mạng quá ngắn ngủi. Chúng ta tự cho hoàn cảnh sống trong hiện thời vẫn rất ưu việt, nhưng nếu thật sự biết các thế giới ở phương khác, hoặc là hoàn cảnh sống và tình huống thọ mạng của những vị thiện căn thành thục, hay công đức thành tựu thù thắng, nhất định là chúng ta sẽ khóc òa, tuôn lệ, nhất định sẽ quý trọng sự liên tục nơi sanh mạng của chính mình trong mỗi phút, mỗi giây. Vì sao? Do có cảm giác tương phản cực lớn. Nếu chúng tôi so sánh [phước đức của chúng ta với] phước đức của người có thọ mạng tám vạn bốn ngàn năm, quý vị sẽ nói: “Tôi lại chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng biết, so sánh bằng cách nào?” Có thể nương theo kinh giáo để so sánh. Chẳng hạn như trong quần thể sanh tồn của nhân loại, thiện căn, phước đức, nhân duyên và quả báo đã thấy khác biệt rất lớn. Có người thân thể rất khỏe mạnh, có người thọ mạng khá dài, có kẻ rất trẻ đã chết non, có người đến tuổi trung niên mới từ trần, có người mắc đủ các thứ bệnh tật khó thể nói trọn, có người sống trong các khu vực thiếu thốn tài nguyên sinh hoạt, có người sống ở nơi có hoàn cảnh khí hậu ác liệt, có người sống trong hoàn cảnh phước đức khá đầy đủ, điều kiện khá hoàn thiện. Những khác biệt ấy mọi người đều có thể trông thấy, nhưng nếu so sánh với các hữu tình trọn đủ phước đức ở phương khác, sẽ rất giống với từng chút sai biệt ấy. Vì sao thường nhắc tới những lời lẽ ấy? Vẫn là vì cổ vũ chúng ta biết rõ vô thường, thường niệm vô thường.

Pháp sư Ấn Quang có một câu nói mười phần cảm động lòng người! Các vị thiện tri thức thuở trước, hễ thuyết pháp cho đến dặn dò, lời lẽ đều rất sâu nặng vì bi tâm cùng cực, thúc giục, cảnh tỉnh kẻ mạt học, khiến cho người đời sau có thể tỉnh ngộ hiện duyên và cơ chế của chính mình. Vì thế, lão pháp sư nói “dùng một chữ Chết dán lên trán”. Chúng ta chẳng biết sanh mạng này ngày nào sẽ vùi xuống đất vàng, hoặc thành một nắm tro xương? Ai nấy đều khó tránh khỏi, thời tiết nhân duyên nào vậy? Có mấy ai có thể biết rõ, có mấy ai có thể nắm vững, có mấy ai có thể chọn lựa? Đối với chuyện này, quả thật chúng ta phải nên chánh quan sát, chánh tư duy. Nếu chẳng dán chữ Chết trên trán, chúng ta rất khó thể thật sự tư duy pháp tắc này! Vì cái tâm tương tục nơi hậu hữu mười phần xa rộng; cho nên người ta thường chẳng khéo tiếp nhận chữ Chết. Có các giáo ngôn nhằm dạy chúng ta tu trì sự an lạc đối với tử vong, quan tâm tử vong, sanh lòng hớn hở đối với tử vong, vui sướng đối với tử vong, không ngừng vun bồi cho chính mình cảm giác chẳng sợ hãi và thân thiết đối với tử vong. Cách tu vô úy đối với tử vong cho đến các pháp quan sát ấy khiến cho chúng ta có thể vứt bỏ Ngã Chấp. Nếu chẳng thường xuyên tu tập như thế, sẽ có các cách suy nghĩ như “vô thường đại quỷ dường như chẳng thể giết chúng ta, chúng ta hãy còn trẻ, còn khỏe mạnh, còn có nhiều cơ chế mà ta vẫn chưa can dự” v.v… Các pháp vừa nói đó, không gì chẳng nhằm khiến cho mọi người tư duy, tham chiếu “yếm ly nhất thiết chư hậu hữu” (chán lìa hết thảy hậu hữu), “trí giả bất nguyện nhất thiết sanh” (người trí chẳng nguyện hết thảy các thứ sanh).

(Kinh) Bất dụng nhất thiết chư ngoại luận, nãi chí ngữ ngôn bất thính thọ.

()不用一切諸外論乃至語言不聽受。

(Kinh: Chẳng dùng hết thảy các ngoại luận, cho đến lời lẽ chẳng nghe nhận).

“Cầu pháp ngoài tâm” chính là ngoại đạo, chính là tri kiến của ngoại đạo! Chúng ta thật sự chẳng nên bị ràng buộc quá lố bởi các cảnh giới và tạp duyên, hãy nên thấu đạt trực tiếp bổn tâm, trực tiếp thấu triệt cội nguồn, thấy trực tiếp pháp tắc, chẳng dụng công hư giả, ủy khuất để đi theo nhiều con đường vòng, đạt lợi ích ít ỏi, tức là nhọc nhằn lắm nỗi mà chẳng đạt được lợi ích. Vì thế, “nãi chí ngữ ngôn bất thính thọ” (cho đến chẳng nghe nhận lời lẽ [của ngoại đạo]). Nếu chẳng có tri thức tương ứng, phần nhiều sẽ bị thị phi, rối ren mê hoặc tâm trí của chúng ta, khiến cho chúng ta chấp trước sự tướng. Hãy đừng nghe những lời lẽ ấy, trước hết, hãy gạt nó qua một bên, tự mình niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Tam Bảo, nghĩ thương xót, dùng phương tiện như thế, cộng trụ và cư xử với nhau như thế thì sẽ có sự gia trì thanh tịnh và khích lệ lẫn nhau, sẽ hữu ý hay vô ý tạo lợi ích cho nhau!

Chúng ta nói như thế, và cũng phải không ngừng làm như thế, chẳng quản người khác đánh chửi, tán thán, hay khinh nhục chính mình, chúng ta cứ quan sát như vậy. Trên thực tế, đánh chửi, tán thán, khinh nhục, cho đến chửi rủa, đích xác là chẳng phải do chúng ta nghe nhận. Nếu đối với chỗ này mà mê hoặc, đắm nhiễm, cho là có thật, chúng ta sẽ đánh mất cơ chế tu tập hành pháp hoặc niệm Phật trong hiện tiền, kết quả là vẫn bị tri kiến của ngoại đạo gây rối, chịu nhiều nỗi ủy khuất. Sự ủy khuất ấy kéo dài càng lâu, chúng ta lìa pháp càng xa, mà cũng xa lìa lợi ích thật sự càng xa. Do đó, mê mất càng lâu. Chúng ta trải qua một khoảng thời gian học tập, tri kiến đại khái đã chẳng có vấn đề, nhưng đã vận dụng được hay chưa? Vẫn phải tùy thuộc mỗi vị thiện tri thức tự mình chiếu kiến trong hiện tiền. Chúng ta chỉ có thể tự mình xem xét, chứ xét đoán người khác sẽ gặp quá nhiều khó khăn, quá nhiều nỗi bất tiện, quá nhiều thứ nặng nề, quá nhiều thứ chẳng thể nắm bắt! Hãy xét kỹ tự tâm, nhận biết vạn pháp duy tâm, nhận biết cảnh giới Nhất Thật, nhận biết vốn chẳng sanh diệt, đích xác sẽ là mười  phần  pháp  hỷ, mười phần thiện xảo.

(Kinh) Vĩnh đoạn thế gian chư ngũ dục, nhược năng như thị chứng tam-muội.

()永斷世間諸五欲若能如是證三昧。

(Kinh: Vĩnh viễn đoạn ngũ dục thế gian. Được như thế, sẽ chứng tam-muội).

Đối với “ngũ dục”, chúng ta hiểu khá rõ ràng, rất dễ cảm nhận được. “Vĩnh đoạn” (Vĩnh viễn dứt trừ), đừng sợ hãi! Trong hành vi mà sợ hãi “vĩnh đoạn” thì chúng ta chẳng ngại trước hết hãy dùng tâm niệm để “vĩnh đoạn”, dùng ý thức để luyện tập, kiến lập một trụ xứ an lạc để vĩnh viễn đoạn trừ ngũ dục trong vương quốc ý niệm, cũng là dùng niềm vui do năm pháp, tức “giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến” để quan sát, dùng niềm vui do từ bi độ chúng sanh để quan sát, dùng Thiền Định, thần thông, đại phương tiện để quan sát lỗi họa của ngũ dục. Như thế thì chúng ta sẽ chẳng đắm chìm trong ràng buộc của ngũ dục và thế tục.

Chúng ta phải xét kỹ tự tâm, đừng bận tâm [xét đoán] người khác, vì khi soi mói người khác, sẽ thường là dùng vọng niệm để suy đoán, có quá nhiều khổ nạn và chẳng tương ứng. Nếu chúng ta ai nấy đều hướng theo ngoại duyên để suy lường, như thế sẽ chẳng phải là một đạo tràng, mọi người sẽ tranh đấu, vô duyên cớ tranh đấu, tranh đấu chẳng có ngằn hạn. Nhưng khi mỗi người chúng ta tự xét mình, đạo nghiệp sẽ tồn tại, đạo tràng tồn tại. Mỗi người tự xét kỹ tâm mình sẽ là lợi ích lẫn nhau; như thế thì Phật pháp sẽ thanh tịnh, sẽ tiếp tục tồn tại không sợ hãi. Người học Phật chúng ta phải nên sanh tâm vô úy, cho nên nêu ra ý kiến hoặc thuyết giáo cho người khác, nhất định là phải nên vô úy, thậm chí đối với nghiệp xứ cũng phải nên vô úy. Vì sao? Trong quá trình tiếp nối sanh mạng của chúng ta, nhất là hữu tình phàm phu, còn có khá nhiều nghiệp tập phiền não đã biết hoặc chưa biết. Đối với những điều đã biết, chúng ta hãy khéo sám hối, đó là sự chuyển hóa tăng thượng rất tốt. Nếu chẳng biết, vẫn thật sự cần người sáng suốt hoặc người hiểu biết khéo cảnh tỉnh.

Chư vị thiện tri thức ơi! Chúng ta nhận thức “vĩnh đoạn thế gian chư ngũ dục” (vĩnh viễn đoạn các ngũ dục trong thế gian) như thế nào? Trước hết, trong ý thức phải dám nghĩ tưởng; sau đấy mới có thể thật sự thực hiện nơi nghiệp tướng! Cho đến đối với quả báo trong đời vị lai, chúng ta mới có thể thật sự từ trong sức thần thông oai đức rộng lớn, trong sự thiện xảo, trong phương tiện độ sanh, trong cõi nước thanh tịnh của chính mình mà lợi ích rộng khắp trời, người, ta lẫn người đều viên mãn. Nếu ý niệm còn chưa mơ tưởng tới [chuyện vĩnh viễn đoạn trừ ngũ dục thế gian], tự tâm vẫn còn mê mờ trong tham, sân, si, tà kiến, hai thứ chánh báo và y báo của chính mình vẫn bị vùi dập trong phiền não thô trọng thì quả thật vẫn là khá khổ não. Vì chúng ta đã biết: Nếu một pháp có thể tự hại, sẽ có thể nghịch hại các hữu tình chung quanh. Nếu [một pháp] có thể tự lợi, sẽ có lúc vô ý thức mà lợi ích hữu tình.

“Vĩnh đoạn thế gian chư ngũ dục, nhược năng như thị chứng tam-muội” (Vĩnh viễn đoạn trừ các ngũ dục trong thế gian. Nếu có thể như thế thì sẽ chứng tam-muội): Đối với Ban Châu tam-muội, tuy chưa đoạn ngũ dục, đã có thể khiến cho mười phương chư Phật thảy đều hiện tiền, tuyên nói chánh pháp, khiến cho chúng ta tiến nhập Vô Sanh Nhẫn, chứng đắc các thứ thiện xảo. Chúng ta đọc một đoạn văn tự trả lời ngài Viễn Công của La Thập đại sư. La Thập đại sư nêu ra sự tu chứng của mấy loại tam-muội lực và mấy loại nhân duyên thấy Phật, như vừa mở đầu [khóa giảng kinh này], chúng tôi đã nhắc tới bốn pháp để thấy Phật: Trong cảnh giới hiện tiền, hoặc trong mộng, hoặc khi xả báo, hoặc trong Thiền Định có thể thấy chư Phật. Trong bốn pháp đó, chúng ta có thể sử dụng phương pháp nào để thấy Phật? Nếu có tịnh dục Bồ Tát đạt được thiện xảo do các sức thần thông, có Thân Như Ý Thông, có thể qua lại các thế giới ở phương khác, muốn thấy Phật ở các phương khác. Do nương vào sức thần thông, trong khoảng nháy mắt đã đến nơi, đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn, thiện xảo nghe pháp. Đó là người thiện căn đã chín muồi. Chẳng có sức thần thông như thế thì làm như thế nào? Nhất là hàng phàm phu chưa tịnh dục (chưa trừ sạch các dục vọng), làm thế nào để có thể thấy Phật, nghe pháp trong hiện tiền? Ban Châu tam-muội là một giáo ngôn bất cộng: “Vĩnh đoạn thế gian chư ngũ dục” (Vĩnh viễn đoạn ngũ dục của thế gian). Tuy là một sự chỉ dạy dành cho người trí, dành cho người có cái tâm mạnh mẽ mong thấy Phật, vẫn chẳng bỏ sót người có thiện căn. Vậy thì quý vị nói: “Đối với ngũ dục trong thế giới này, tâm tham ái của tôi quá lừng lẫy, tôi tu tập pháp tắc này bằng cách nào đây?” Thật sự là khi niệm Phật, khi kinh hành, tức là trong lúc chuyên tu, hãy dũng mãnh lìa bỏ thì cũng đạt được phương tiện.

Vì hiện thời, trong khi hành pháp, chúng ta vẫn chưa chứng, dẫu đã chứng đắc A La Hán, vẫn chẳng thấy biết tâm trí bản chất trong quá khứ, hiện tại, vị lai của hữu tình ở chỗ nào. Do vậy, sẽ chẳng thể phát hiện thiện căn của người khác. Vì thế, trong thời đại Mạt Pháp mà suy lường người khác, sẽ đặc biệt khó khăn. Nhưng trong thời đại này, kẻ chú ý ngôn thuyết của người khác, quan tâm nghiệp tướng quanh mình khá nhiều, mà kẻ thủ hộ tự tâm, hiểu thấu tự tâm, người tu pháp hiểu biết tự tâm lẫn nhau đâm ra hiếm hoi! Do vậy, chúng ta hãy nên xét kỹ trong tâm niệm, chẳng cần nhất định phải lập tức tiếp nhận nơi sự tướng, chỉ cần có thể thử thí nghiệm trong tâm niệm. Nếu như trong hiện thực chẳng làm được, thì có thể thử trong mộng!

[1] Tám pháp tức là Bát Kính Pháp (Aṭṭha-garudhamma) còn dịch là Bát Tôn Pháp, Bát Tôn Trọng Pháp, Bát Tôn Sư Pháp, Bát Kính Giới, Bát Tôn Kính Pháp, hoặc Bất Khả Việt Pháp, là các quy định tỳ-kheo-ni phải thể hiện sự tôn trọng đối với tỳ-kheo. Theo thánh điển Pali của Phật giáo Nam truyền, khi đức Phật thành đạo vào năm thứ năm, vua Tịnh Phạn qua đời, bà Đại Ái Đạo đã xin xuất gia trong dịp đức Phật về thành Ca Tỳ La Vệ chủ trì tang lễ cho cha, nhưng đức Thế Tôn ba lần cự tuyệt. Sau đó, đức Phật đi sang thành Tỳ Xá Ly, bà Đại Ái Đạo dẫn theo mấy trăm thị nữ, đi bộ hơn 250 cây số theo chân Phật đến thành Tỳ Xá Ly. Họ đều tự cạo tóc, đắp y, cầu xin Phật cho phép xuất gia, kêu khóc ngoài cửa tinh xá. Ngài A Nan thương xót cầu xin ba lần, đức Phật đều từ chối. A Nan liền hỏi nữ chúng có thể chứng Tứ Hướng, Tứ Quả hay không? Đức Phật bảo được. A Nan liền nhắc đến ân dưỡng dục của bà Đại Ái Đạo để cầu xin. Đức Phật cho biết chánh pháp vốn dài một ngàn năm, nếu cho nữ chúng xuất gia, sẽ giảm mất 500 năm. Nếu nữ chúng tuân thủ Bát Kính Pháp, chánh pháp có thể tồn tại một ngàn năm. Nữ chúng phải hành Bát Kính Pháp thì mới có đủ tư cách là tỳ-kheo-ni. Bát Kính Pháp như sau:

1. Dẫu tỳ-kheo-ni trăm tuổi, trông thấy tỳ-kheo mới xuất gia, vẫn phải đứng dậy nghênh đón, lễ bái, trải tọa cụ sạch sẽ, mời vị ấy ngồi.

2. Tỳ-kheo-ni không được an cư kết hạ tại một địa phương nếu không có tỳ-kheo ở gần đó.

3. Vào mỗi dịp bố-tát (uposattha, tụng giới), tỳ-kheo-ni phải cử người sang chỗ tỳ-kheo cầu Tăng chúng sai một vị đến thuyết giới và dạy bảo.

4. Khi An Cư mùa Hạ kết thúc, phải cử người sang chỗ Tăng chúng cầu ba sự Tự Tứ thấy, nghe, và nghi.

5. Tỳ-kheo-ni không được phép mắng chửi tỳ-kheo.

6. Tỳ-kheo-ni không được cử tội của tỳ-kheo, rêu rao lỗi của họ, nhưng tỳ-kheo được quyền nói lỗi của tỳ-kheo-ni.

7. Thức-xoa-ma-na đã học giới (sáu pháp của Học Giới Nữ) phải cầu thọ đại giới từ chúng Tăng (tỳ-kheo và tỳ-kheo ni).

8. Tỳ-kheo ni hễ phạm Tăng Tàn, phải đối trước hai bộ Tăng sĩ (tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni) hành Ma Na Đỏa (ý hỷ) trong nửa tháng.

Hiện thời, tại Đài Loan có một số tỳ-kheo-ni do chịu ảnh hưởng của phong trào nữ quyền và tâm đấu tranh thế tục quá nặng, đã chủ trương Bát Kính Pháp là bất bình đẳng, trọng nam, khinh nữ, xướng suất phế trừ Bát Kính Pháp. Ngày 31 tháng 03 năm 2001, tỳ-kheo-ni Thích Chiêu Huệ ở Đài Nam đã xướng suất phong trào này, nêu ra luận thuyết Bát Kính Pháp không do đức Phật chế định, cũng như cho rằng những giới trong giới Tỳ Kheo Ni nhỏ nhặt có thể bỏ. Bà ta cho rằng Bát Kính Pháp kỳ thị nữ chúng, xâm phạm nữ quyền, tăng trưởng tâm kiêu mạn của tỳ-kheo.

[2] A Trát Lê là biến âm của chữ A Xà Lê trong ngôn ngữ người Thái tại Vân Nam, cũng giống như danh xưng Ajahn hoặc Acharn trong tiếng Thái Lan (để gọi các vị Tăng có từ mười tuổi hạ trở lên).

[3] Hậu Hữu (Punar-bhava): Quả báo trong đời vị lai, hoặc thân tâm trong đời sau. Hiểu theo một nghĩa hẹp hơn, Hậu Hữu là thân sanh tử cuối cùng, còn gọi là Tối Hậu Thân, tức là thân cuối cùng của một vị Bồ Tát trước khi thành Phật. Ở đây, Hậu Hữu hiểu theo nghĩa thứ nhất.