Đại Phương Đẳng Đại Tập
Hiền Hộ Kinh giảng ký
大方等大集賢護經講記
慈法法師主講
Chủ giảng: Pháp sư Từ Pháp
Địa điểm: Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

(Kinh) Chư thiên trú dạ thường ca thán, nhất thiết Thế Tôn ái nhược tử. Nhược nhân vị tha thường chuyển độc, nhất thiết pháp trung vô hữu nghi.

()諸天晝夜常歌嘆一切世尊愛若子。若人爲他常轉讀一切法中無有疑。

(Kinh: Chư thiên ngày đêm thường ca ngợi, hết thảy Thế Tôn thương như con. Nếu vì người khác thường chuyển đọc, trong hết thảy pháp đều chẳng nghi).

“Nhược nhân vị tha thường chuyển độc, nhất thiết pháp trung vô hữu nghi” (Nếu ai vì người khác thường đọc tụng, trong hết thảy các pháp chẳng có gì nghi ngờ): Không chỉ riêng chính mình hành pháp tắc này! Nếu có thể truyền đạt cho người khác, cho đến lần lượt hướng dẫn hữu tình học tập, tu tập, đọc tụng kinh điển như thế, thì trong hết thảy các pháp, sẽ chẳng nghi ngờ, chẳng bị ngăn ngại, chẳng thể có tâm trí và cơ hội như thế!

Đối với kinh điển Ban Châu Tam Muội này, sau khi chúng ta đã học, tôi thấy người vứt bỏ pháp bảo này, pháp tắc này thì nhiều, người trân quý đã hiếm lại càng hiếm hơn. Cũng có nghĩa là người coi pháp bảo này như tròng mắt của chính mình ít lắm. Thật ra, pháp này còn trọng yếu hơn tròng mắt rất nhiều! Vì mắt có thể sanh, có thể diệt, có thể tốt, có thể xấu. Trăm năm cũng kết thúc, nhưng pháp bảo này thì sao? Cho đến hết đời vị lai, luôn tồn tại rộng rãi trong thế gian, lợi ích rộng khắp vô lượng chúng sanh thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Chúng ta có yêu mến thủ hộ pháp bảo này như trân bảo hay không? Đối với chuyện này, chúng ta cần phải tự phản tỉnh, quan sát. Chính quý vị còn chẳng trân quý, quý tiếc pháp này, há còn có thể tuyên nói với người khác, truyền đạt kinh điển này ư? Khi tôi được gặp kinh Ban Châu Tam Muội lần đầu tiên, mười phần rúng động! Vì khá nhiều vấn đề nghi nan trong việc hành Ban Châu đều được nhắc tới, và cũng đều giải quyết hết! Bởi thế, tôi rất kích động, mang kinh này từ miền Đông Bắc tới đây, hy vọng chúng ta sẽ có cơ hội học tập như thế. Lúc ấy, tôi học tập vẫn chưa phải là bản kinh này, mà chỉ coi nó như một tài liệu tham khảo, vì giáo ngôn trong kinh này hết sức tỉ mỉ, thanh tịnh, toàn vẹn, giải quyết các nghi nan đối với chuyện hành trì Ban Châu trong hiện tiền, bất cứ vấn đề gì cũng đều chẳng bỏ sót! Quý vị có thể thường xuyên đọc, nhất là đối với người thường hành Ban Châu, có thể thật sự đọc thì rất nhiều vấn đề căn bản là chẳng cần phải hỏi ai khác, chỉ cần hỏi kinh điển là có thể giải quyết.

(Kinh) Bỉ chư dung sắc vô đẳng luân, khởi ư Bồ Đề hữu thoái giảm? Nhược năng chuyển giáo chư chúng sanh, tao trị ác vương, nhân dân loạn. Thời niên kháng hạn, cốc giá quý, chung vô thọ tệ cập cơ hoang.

()彼諸容色無等倫豈於菩提有退減若能轉教諸衆生遭值惡王人民亂。時年亢旱谷價貴終無受弊及饑荒。

(Kinh: Người ấy dung mạo đã khôn sánh, há có thoái giảm nơi Bồ Đề? Nếu hay dạy lại các chúng sanh, gặp gỡ vua ác và dân loạn. Nhằm lúc hạn hán, giá gạo cao, trọn chẳng chịu khổ và đói kém).

“Thời niên kháng hạn, cốc giá quý, chung vô thọ tệ cập cơ hoang” (Gặp lúc hạn hán, giá gạo cao, trọn chẳng chịu khổ và đói kém): Nhằm năm đói kém, cho đến bị tai ương hạn hán, lũ lụt, giá gạo cao v.v… chúng ta đều chẳng gặp phải các nỗi nguy hại như thế. Có thể là nhân loại phải đối diện các vấn đề mà chẳng hay biết. Nếu hay biết, sẽ có thể giải quyết. Giống như hiện thời, chúng ta hành pháp Ban Châu gặp các vấn đề, nếu thật sự biết, nếu liễu giải chánh xác, cũng sẽ chẳng trở thành vấn đề. Điều chánh yếu là khi chúng ta gặp phải vấn đề mà chẳng hiểu biết vấn đề, đó là vô minh, là lúc nguy hiểm nhất.

Hiện thời, nhân loại sanh tồn trên quả địa cầu này trong không gian, chúng ta gặp các tai nạn có thể nhận biết và không thể nhận biết. Tai nạn có thể nhận biết thì có thể dự phòng; tai nạn không thể nhận biết luôn ấp ủ trong ý thức sanh mạng của chúng ta tột bậc chẳng thể nghĩ bàn. Tôi chẳng mong nói bất cứ điều gì đem lại sự bất an cho đại chúng, nhưng sâu thẳm trong tâm linh của toàn thể nhân loại, toàn là các nhân duyên chẳng an ổn, cho đến các nhân duyên có tánh chất xấu ác cực đoan như ích kỷ, tội ác, tà kiến. Sau đó, [các nhân duyên xấu ác ấy] sẽ dẫn đến các quả báo đúng là chẳng thể nghĩ bàn!

Tôi đã trải qua vài lần nhân duyên tai nạn khá lớn ở Trung Hoa trong thời gian gần đây. Chẳng hạn như đại thủy tai, động đất, bệnh SARS (severe acute respiratory syndrome, hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng) v.v… Lúc dịch SARS dữ dội nhất là ở Quảng Châu, tôi trực tiếp đến Quảng Châu. Lúc ấy, cũng là lúc Quảng Châu rối loạn nhất, mọi người sợ hãi bệnh SARS đã đến mức cùng cực. Sau khi nhân duyên ở Quảng Châu đã giảm xuống, tôi đến Bắc Kinh đúng ngay lúc tình hình dịch ở Bắc Kinh bắt đầu nghiêm trọng. Khi nhân loại đối diện nỗi kinh hoảng trước tai nạn không biết rõ, quả thật rất đáng thương. Vì sao? Vì chẳng hiểu biết! Tôi nói: “Tôi dùng sanh mạng của chính mình để thể nghiệm SARS đôi chút xem rốt cuộc nó là gì?” Về sau, tôi nói: “SARS là một con rắn. Hễ trông thấy, ắt phải chết”. Lúc ấy, có rất nhiều người hỏi tôi, tôi đều nói như thế. Vì sao người ta thấy nó ắt sẽ chết? Con người phần nhiều sợ hãi nó, mà chẳng hiểu biết nó!

Tôi cảm thấy nỗi sợ hãi là một thứ lớn nhất trong sanh mạng, sợ hãi đối với vô minh, sợ hãi đối với nghiệp báo. Như chúng ta kinh hành Ban Châu, rất dễ gặp các nhân duyên trước kia chưa từng gặp, hoặc các tướng cảnh giới trước kia chưa hề biết. Như thế thì hữu tình tà kiến sẽ đắm nhiễm. Ở trong đó, bèn nói cao, nói thấp, nói sợ hãi, nói chẳng sợ hãi. Nếu là người trí, đối với họ, đó chỉ là một quang cảnh, tùy duyên trông thấy, trọn chẳng liên can. Vì thế, họ an trụ trong thanh tịnh, hồi thí giáo ngôn thanh tịnh cho người khác, khiến cho chúng sanh thẳng thừng tiến nhập Bồ Đề, thấy chư Phật thanh tịnh thí giáo. Đó là pháp tắc chẳng thể nghĩ bàn! Khi nạn SARS bùng nổ khá dữ dội tại Trung Hoa, tôi thật sự cảm nhận tâm lý mười phần sợ hãi của nhân loại ngu si đối với vô minh. Đương nhiên cũng có một số ít, một số người cực ít chẳng sợ hãi chuyện này; nhưng đại đa số thì trong chỗ thẳm sâu của tâm lý đều sợ hãi, không thể đè nén được. Nỗi sợ hãi ấy chẳng thể diễn tả được! Thật ra, thật sự là chẳng có gì, chủ yếu là nỗi sợ hãi trong tâm trí, là ma nạn do vô minh đem lại. Phần lớn mọi người chẳng có duyên với thứ ấy, nhưng họ đều sợ hãi.

So với các nghiệp duyên mà nhân loại phải đối diện mai sau, chắc là SARS yếu ớt nhất. Giống như một trận gió phất qua thế gian nhiệt não này, bất quá trận gió ấy u ám mà thôi. Chắc là có liên quan đến bất cứ một người nào đó, hoặc đều chẳng liên quan. Nếu một người ẩn núp trong căn phòng “khỏe mạnh, điều nhu, chẳng sát sanh” của chính mình, chắc là cơn gió đen đúa ấy chẳng thổi qua quý vị. Nhưng nếu kẻ nào đang thuộc trong nghiệp duyên của sát nghiệp, ác nghiệp, vô minh nghiệp hừng hực mà chẳng có gì ngăn đón, sẽ rất khó chẳng bị thương tổn! Đối với quả báo trong tương lai, rất nhiều người đã dự đoán chuyện này. Chuyện này cũng chẳng cần phải dự đoán! Đó là nhân duyên mà nhân loại chúng ta phải đối diện, đòi hỏi mỗi cá nhân chúng ta, tức là những người đang sống, từng người trong thế gian hiện thời, đối với chỗ thẳm sâu trong tâm linh của chính mình, cần phải khéo quan sát xem nó có khỏe mạnh hay không? Có cần điều trị hay không? Nó là từ bi, trí huệ, hay là vô minh, điên đảo? Là thương xót thế gian, yêu mến thế gian, bố thí cho thế gian, hay là xâm hại thế gian, nhiễu loạn thế gian, rối loạn thế gian? Các vị thiện tri thức ơi! Hãy tự khéo quan sát, khéo tư duy, đừng nghe lời kẻ khác. Người khác nói tốt hay xấu đều vô ích. Chẳng hạn như trên núi Kê Túc đã ba lần có bão lốc lớn, có người bèn mua cho chúng tôi một lều trại và chiếc xuồng loại thổi lên được [để sử dụng thoát hiểm]; nhưng chuyện ấy thật sự chẳng liên quan đến chúng tôi. Người khác dự báo tai nạn, vốn chẳng liên quan đến quý vị. Vì sao? Trong cộng nghiệp còn có biệt nghiệp. Nếu quý vị nhớ Phật, niệm Phật, có gì sợ hãi? Quý vị có thể dùng gạo để ngăn chặn tai nạn hay không? Quý vị có thể dùng bè cao su để ngăn chặn kiếp thủy (nước lụt trong lúc hoại kiếp) hay không? Quý vị có thể dùng lều trại để ở tại nơi không thể ở hay chăng? Đây thật sự là tâm trí đang bị tướng cảnh giới dao động rất đáng thương, nhưng trong thế gian này, nỗi sợ hãi lan truyền rất mạnh mẽ!

Nếu chúng ta hành pháp, hộ pháp, nương theo pháp để hành, thâm nhập tu tập, đích thân chứng tướng đại công đức của Chư Phật Hiện Tiền tam-muội như thế, sẽ chẳng sợ hãi các tai nạn ấy. Quý vị chỉ có thể trừ diệt Kiếp Hỏa, diệt tai nạn, lợi ích rộng khắp các hữu tình đang mắc nạn, chẳng sợ hãi, làm nơi chốn an ổn cho chúng sanh đang mắc tai nạn. Đấy chẳng phải là nói suông, mà thật sự phải nên là như thế. Đó là tâm địa chân thật, tâm địa rộng lớn, tâm địa an lạc, tâm địa chọn lựa, mà cũng là tâm địa bi trí vô úy. Ở chỗ này, chúng ta hãy nên thật sự tu tập pháp tắc này. Chẳng hạn như khi người khác bị tai nạn, khi thế gian có nguy nạn, chúng ta hãy nên thật sự đứng ra, thật sự tu pháp ở nơi đó, bố thí vô úy, bố thí an lạc cho chúng sanh ở nơi đó. Chẳng phải là trốn tránh, hoặc là hời hợt nói về tai nạn!

Chín năm trước, tôi nói chỗ chúng ta đang ở này sẽ dần dần thích hợp cho nhân loại sống. Nay chúng ta đã đạt được đôi chút thể nghiệm. Trước kia, hễ đến mùa mưa, ắt là người xuất gia ở chùa Phóng Quang không ai chẳng khoác áo bông. Hễ mưa xuống, ẩm ướt và rét buốt rất khó chịu đựng, nhưng hiện thời trên cơ bản là một lớp áo. Buổi sáng thức dậy, mặc thêm đôi chút là được rồi. Lại sau mấy năm, chỗ này đã dần dần trở thành ấm áp, vừa thích hợp cho con người sống sót. Nhưng ở rất nhiều nơi khác, cuộc sống của nhân loại phải đối diện vấn đề thích ứng với nhiệt độ rất cao! Quý vị thấy tại Ấn Độ, hay khu nhiệt đới ở Bản Nạp, rất nóng, người ta vẫn sống được. Chúng tôi nói theo trạng thái thông thường, đương nhiên là con người không ngừng dùng máy điều hòa không khí để điều hòa hoàn cảnh sống. Nhưng trong hoàn cảnh hiện thời của chúng ta, nếu nhân duyên của mọi người đầy đủ, xây được ao phóng sanh ở phía trước chùa, phước đức của người sống ở nơi đây sẽ khá an ổn, chúng ta chẳng cần phải điều chỉnh chi khác, mà có thể sống bình thường, yên ổn. Đương nhiên, chẳng phải vì sanh tồn mà chúng ta tới chỗ này, nhưng hoàn cảnh như vậy đối với sự dụng công tu đạo khá thích hợp. Hoàn cảnh như vậy ở trong nước ngày càng ít. Rất nhiều nơi hoàn cảnh đã trở thành mười phần náo nhiệt, chẳng ai muốn bàn đến chuyện tu trì, chỉ cần có cơ chế bảo đảm sanh mạng là được rồi. Cũng có nghĩa là quý vị có thể tiếp nối sanh mạng, chẳng phải bực bội, chẳng cần giãy giụa, đừng bị tật bệnh, tai nạn là được rồi. Nhưng hoàn cảnh của chúng ta ở đây khá thích hợp, khá rộng rãi, thong dong, mọi người có thể tụng kinh, kinh hành, cho đến học tập pháp gì [cũng được]. Có thể nói đó là các chuyện chẳng thể thực hiện được trong hoàn cảnh náo nhiệt, bức bách, hoặc hoàn cảnh đã mất cân bằng, [thế mà] chúng ta có thể thực hiện ở nơi đây.

Đây là một nhắc nhở liên quan đến khu vực. Lại còn vì sao mọi người kinh hành Ban Châu ở nơi đây? Tôi cảm thấy nơi này được phước đức hộ trì. Ở chỗ khác, chẳng phải là không thể kinh hành Ban Châu được. Nhưng nếu đi kinh hành Ban Châu tại chỗ có “đất mỏng”, đại địa sẽ bị chấn động, quỷ thần bất an, họ sẽ nhiễu loạn quý vị. Có người nói “cảnh giới ở chỗ này nhiều như vậy”. Chẳng hạn như có người sống tại Chung Nam Sơn (tỉnh Thiểm Tây), cảnh giới hết sức nhiều, sống ở chỗ X… còn có hữu tình bị quỷ thần công kênh chạy vòng vòng. Đó là vì ở chỗ “đất mỏng”, là nơi quỷ thần, ác La Sát cư trụ! Nếu quý vị làm thiện pháp cho họ, niệm Phật, tụng kinh, bái sám, hồi hướng cho họ, họ sẽ hoan hỷ, thủ hộ quý vị. Nhưng nếu quý vị tạo ác nghiệp ở đó, ăn uống phóng túng, vui chơi buông lung, quý vị sẽ lãnh quả báo ác tương ứng, thậm chí có thể bị tàn hại sanh mạng. Hiện thời, có nhiều kẻ sống ở trong tự viện, ở trong núi, do phóng dật mà đâm ra mắc hại khá nhiều, vì chẳng biết tu hành đúng pháp, tức là do chẳng biết đúng pháp cúng dường, thủ hộ, hồi thí, cho nên mắc nhiều họa hại!

Tự viện của chúng ta ở trong vùng núi rừng này, vẫn mong mọi người hãy quý tiếc nhân duyên hành pháp của chính mình. Nếu quý vị trở về nhà, chúng tôi chẳng nói tới, nhưng nếu đã ở nơi đây, hãy quý tiếc mỗi ngày của chính mình. Đó thật sự là chuyện có ý nghĩa! Chẳng phải là cưỡng ép chính mình, mà là phải tôn trọng nhân duyên của chính mình. Cưỡng ép chính mình sẽ chẳng có ý nghĩa chi hết! Chẳng hạn như nếu quý vị mười phần chẳng muốn làm chuyện này, hãy nên trở về nhà nghỉ ngơi, an dưỡng. Nhưng nếu đã hành pháp, tự viện quả thật là một nơi chốn thích hợp, là chuyện có ý nghĩa. Chúng ta ở ngay nơi vùng địa chấn của Vân Nam mà còn có cơ chế hành pháp an ổn, phải nên quý trọng! [Có trường hợp, tuy] có chỗ để kinh hành Ban Châu, nhưng thật sự chẳng làm được. Chẳng hạn tại nơi có cơ chế ác duyên trong gia đình khá nhiều, để kinh hành Ban Châu sẽ cần phải có sức đột phá chướng ngại khá lớn! Nhưng kinh hành Ban Châu trong các đạo tràng sẽ khá thuần tịnh, đơn giản, hoặc tại nơi nhà cửa đơn giản, yên ổn, vẫn là rất có ý nghĩa! Nếu thời gian kinh hành Ban Châu khá dài thì ở trên lầu cũng chẳng thích hợp cho lắm. Trước kia, kinh hành Ban Châu tại chùa Bảo An, tầng hai bị rúng động, rất nhiều người đều cảm thấy giống như đang ở trên chiếc thuyền tròng trành. Đó là vấn đề thuộc về cơ chế tải trọng. Chùa Bảo An ở trên một quả núi có tên là Thố Thạch Sơn (厝石山), là một khối đá, hễ kinh hành, cả quả núi rúng động. Nếu chúng ta ngủ tại đó thì không bị lay động, nhưng khi chúng ta niệm Phật kinh hành chính là truyền bá đại oai đức. Sức đại oai đức được tiếp nối, nội hàm thực chất của sức oai đức đều được biểu hiện trong quá trình chúng ta niệm Phật kinh hành. Nếu quý vị quan sát tỉ mỉ, tu tập như thật, như vậy thì chúng ta sẽ khế nhập nội hàm thực chất của pháp tắc này, sẽ chẳng thoát lệch kinh điển, chẳng cách biệt quá lớn đối với pháp tắc.

(Kinh) Nhược nhân giải thuyết thử tam-muội, sở hữu công đức bất tư nghị. Giả tuy ma nhiễu chư chúng sanh, bất năng động tư nhất mao phát. Ngã tiền thuyết bỉ trì kinh nhân, chúng hoạn khủng bố cập phiền não. Bỉ chung bất năng gia tổn hại, duy trừ vãng nghiệp tiên định ương.

()若人解說此三昧所有功德不思議。假雖魔嬈諸衆生不能動斯一毛髮。我前說彼持經人衆患恐怖及煩惱。彼終不能加損害唯除往業先定殃。

(Kinh: Nếu ai giải nói tam-muội này, tất cả công đức chẳng th nghĩ bàn. Dẫu cho ma nhiễu loạn chúng sanh. Chẳng động mảy tóc, lông người ấy. Trước kia, ta nói người trì kinh, ương hoạn, sợ hãi, và phiền não. Trọn chẳng thể tổn hại người ấy, chỉ trừ định nghiệp gây ương hoạn).

“Ngã tiền thuyết bỉ trì kinh nhân, chúng hoạn khủng bố cập phiền não. Bỉ chung bất năng gia tổn hại, duy trừ vãng nghiệp tiên định ương” (Trước kia, ta đã nói người trì kinh ấy, các sự họa hoạn, kinh sợ và phiền não trọn chẳng thể gây tổn hại cho người ấy, chỉ trừ các tai ương do định nghiệp từ trước). Vì sao nói như thế? Có nhiều hữu tình bạc phước ít đức, chẳng thể sám hối, chẳng thể tiến nhập một pháp tắc, phần nhiều dùng tà kiến, tâm kiêu mạn, tâm lừa dối để hành pháp. Có khi còn có các chướng duyên hiện tiền! Nếu chúng ta có chướng duyên hiện tiền, hãy sám hối, niệm Phật, vứt bỏ tạp duyên ác tánh của chính mình, nhất tâm niệm Phật, thủ hộ pháp tắc ấy, thì hết thảy ác duyên sẽ trọn chẳng thể gia hại. Đích xác là có hữu tình bạc phước, hữu tình ác duyên đã chín muồi, hữu tình có thiện duyên chẳng đầy đủ, gặp pháp này, sẽ nẩy sanh ác phiền não và ác kiến, đâm ra mắc hại. Nỗi hại ấy là họa hại nhất thời, nhưng nói rốt ráo thì vẫn là kết duyên thù thắng chân thật với Vô Thượng Bồ Đề.

(Kinh) Nhược hữu hộ trì ư thử kinh, thị tắc ư ngô vi trưởng tử.

()若有護持於此經是則於吾爲長子。

(Kinh: Nếu ai hộ trì kinh điển này, người ấy là con cả của ta).

Trong giáo ngôn Tịnh Độ, đức Thế Tôn một mực dạy: Người niệm Phật chẳng phải là Tiểu Thừa, mà là trưởng tử của ta. Nói “trưởng tử” tức là một pháp tắc tôn quý, thù thắng. “Một pháp tôn quý, thù thắng” chẳng phải do chúng ta tự xưng. Nếu chúng ta tự xưng, sẽ xuất hiện vấn đề, nhưng đức Thế Tôn có thể tuyên nói như thế. Bảo Vương tam-muội như thế dung nạp hết thảy các tam-muội, trọn đủ hết thảy các tam-muội, thành tựu hết thảy tam-muội, vì là Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập, cho nên nói trọn hết thảy các pháp. Vì trong hết thảy các pháp, Phật là chủ của hết thảy các pháp, Ngài có thể tuyên nói hết thảy các pháp. Hễ thấy hết thảy chư Phật, sẽ trọn đủ hết thảy các pháp. Vì thế, được gọi là Bảo Vương tam-muội, chân thật, không giả! Đây là nói vô úy, nói chân thật, chẳng phải vì khuyến dụ chúng sanh mà nói giả thiết. Vì thế, từ xưa tới nay, kinh Ban Châu Tam Muội là một pháp bổn bất cộng, được các vị đại thiện tri thức trải các đời thủ hộ, tu tập, tôn sùng. Các vị thành tựu trải các đời đều thâm nhập tu tập kinh điển này, thâm nhập quan sát. Các Ngài thật sự tu tập thành tựu, thủ hộ. Bất luận Giáo Hạ, Luật Tông, Tịnh Độ Tông, cơ bản là lịch đại tổ sư của các tông, các thiện tri thức phần nhiều đều hành trì pháp này. Nhất là các vị thiện tri thức thuộc Luật Tông, các thiện tri thức Tịnh Độ Tông, các thiện tri thức thuộc Giáo Hạ đã hành trì pháp này khá trọn khắp. Cơ bản là đến cuối cùng, các Ngài ắt đều hành pháp này. Do vậy, “thị tắc ư ngô vi trưởng tử” (vì thế, chính là con cả của ta). Đức Thích Ca Thế Tôn đã như thật tuyên nói với chúng ta như thế, vì trong tám vạn bốn ngàn pháp, pháp này như biển cả, hết thảy các pháp đều quy về pháp này, thường nói là “Tịnh Độ vi quy” (Tịnh Độ là chỗ quay về). Đó chính là một cơ chế giáo ngôn được các vị thiện tri thức trong hết thảy các pháp môn từ xưa đến nay đã đề ra. Chẳng nói như thế tức là đã trái nghịch lợi ích chân thật của giáo ngôn Đại Thừa, lìa khỏi cơ chế chân thật của giáo ngôn Đại Thừa. Trong quyển thứ tám mươi mốt [của kinh Hoa Nghiêm], tức phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, đức Thế Tôn đã nêu ra như thế. Các vị Pháp Thân đại sĩ như Văn Thù, Phổ Hiền, quy kết đến cuối cùng, đều phát nguyện vãng sanh quốc độ Cực Lạc của A Di Đà Phật. Phát nguyện gì vậy? “Nguyện tôi lâm chung chẳng chướng ngại, vãng sanh cõi Vô Lượng Quang của A Di Đà Phật”. Vì sao phải phát ra thệ nguyện như thế? Bậc Pháp Thân đại sĩ, Phổ Hiền đã thành Phật, cho đến vị đã sớm thành Phật là Văn Thù Sư Lợi, các bậc đại sĩ như thế đều hướng dẫn về Cực Lạc, vì muốn cho hết thảy hành giả có trí huệ, hành giả được hưởng pháp ích rộng lớn, sẽ thành Phật ngay trong một đời.

(Kinh) Ngã dĩ xưng tán ư bỉ đẳng, đương lai chi thế diệc phục nhiên.

()我已稱讚於彼等當來之世亦復然。

(Kinh: Ta đã xưng tán những người ấy, trong đời tương lai cũng giống vậy).

Ở đây, đức Thế Tôn khen ngợi, tán thán người ấy, cho đến vị lai Phật cũng xưng tán. Vì sao? Chư Phật trụ thế, không vị nào chẳng tán thán giáo ngôn này, vì muốn thấy Phật. Phật tán thán loại hữu tình ấy, rốt cuộc đều thành tựu Phật đạo, công đức chẳng thể nghĩ bàn!

(Kinh) Nhược năng hộ trì như tư pháp, tự ưng hằng phát hoan hỷ tâm. Hàm cộng tuyên thông vật phóng xả, ngã kim vị nhữ như thị thuyết.

()若能護持如斯法自應恆發歡喜心。咸共宣通勿放舍我今爲汝如是說

(Kinh: Nếu hay hộ trì pháp như thế, hãy nên luôn phát tâm hoan hỷ. Đều cùng tuyên nói, đừng buông bỏ, ta nay vì ông nói như thế).

Kinh điển từ lúc bắt đầu tuyên nói mãi cho đến hiện tại, đức Thế Tôn đều nói như thế, khuyên chúng ta thủ hộ, tu tập, thâm nhập pháp tắc này. Các vị thiện tri thức ơi! Hãy khéo tư duy, khéo quan sát!

12. Phẩm thứ chín: Nhiêu Ích

(Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần Nhiêu Ích phẩm đệ cửu.

()大方等大集賢護分饒益品第九。

(Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần. Phẩm thứ chín: Lợi Ích Rộng Khắp).

Phẩm này nêu bày Nhất Thiết Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội có trọn đủ các công đức và lợi ích, cho nên gọi là phẩm Nhiêu   Ích.

(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: – Hiền Hộ! Ngã niệm vãng tích, quá ư vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, thời hữu nhất Phật, hiệu Vô Úy Vương Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, xuất hưng ư thế.

()爾時世尊復告賢護菩薩言賢護我念往昔過於無量阿僧祇劫時有一佛號無畏王如來應供等正覺明行足善逝世間解無上士調御丈夫天人師世尊出興於世。

(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: – Này Hiền Hộ! Ta nhớ xưa kia, quá vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, khi đó, có một vị Phật hiệu là Vô Úy Vương Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện trong cõi đời).

Đức Thế Tôn thuyết pháp, dùng chuyện này để tuyên nói nội hàm trang nghiêm tâm trí rộng lớn của hết thảy chúng sanh. Quá khứ, hiện tại, vị lai, cùng lúc lựa chọn. Nếu dựa theo báo đức sai biệt, đức Thế Tôn đã từng trong vô lượng kiếp xuất hiện nơi cõi đời để lợi ích thế gian rộng khắp. Nay khi chúng ta học Phật, hễ tâm trí dấy khởi một niệm, nếu dùng vô úy thiện xảo để chân thật thủ hộ, tức là khi tùy thuận Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội này, thì cũng giống như Vô Úy Vương Như Lai xuất hiện trong cõi đời, trọn chẳng khác biệt! Do một niệm chọn lựa, phát tâm giống như chư Phật, trí giống như chư Phật, oai đức giống như chư Phật, tiếp nối thanh tịnh như thế, quyết định đích thân chứng đắc.

Hết thảy chư Phật đều tuyên nói như thế, chẳng hề có cao thấp, không có lời nào khiến cho chúng sanh sợ hãi, khiến cho chúng sanh lựa chọn pháp chân thật. Nói theo phía Thế Tôn, báo đức là như thế. Nói theo lý tánh của pháp tắc, trong sát-na chúng sanh sanh khởi một niệm tối sơ, vô úy như thế, chọn lựa tùy thuận hành pháp Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội như thế, yêu mến thủ hộ thì sẽ có thể lợi ích thế gian rộng khắp y hệt!

(Kinh) Đương nhĩ chi thời, hữu trưởng giả tử, danh Tu Đạt Đa, dữ nhị vạn nhân, câu nghệ bỉ Phật Vô Úy Vương sở. Đáo dĩ, đảnh lễ bỉ Thế Tôn túc.

()當爾之時有長者子名須達多與二萬人俱詣彼佛無畏王所。到已頂禮彼世尊足。

(Kinh: Trong thuở đó, có con ông trưởng giả, tên là Tu Đạt Đa, cùng với hai vạn người cùng đến chỗ đức Phật Vô Úy Vương ấy. Đã đến nơi bèn đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn ấy).

Lễ dưới chân đức Thế Tôn. “Túc” là Lưỡng Túc Tôn. Nếu tùy thuận Thế Tôn Lưỡng Túc Tôn, tùy thuận giáo ngôn của Thế Tôn Lưỡng Túc Tôn, tùy thuận sự tu trì của Lưỡng Túc Tôn, tùy thuận sự hồi thí của Lưỡng Túc Tôn, sẽ đều đạt được hai con mắt phước và huệ. Lúc này, chúng ta đang học pháp, có phải thật sự là tâm và thân giống hệt nhau mà lễ kính đấng Lưỡng Túc Tôn hay không? Hữu tình trong hiện thời, phần nhiều lễ kính nghiệp duyên, hiện duyên của chính mình, cho đến tùy thuận nghiệp tập của chính mình, bất luận là túc nghiệp hay hiện nghiệp. Đó gọi là trong cái cảm nhận sai khác hoặc tương tự đối với sự huân tập đắm nhiễm, chẳng phải là oai đức của chư Phật. Vì thế, chẳng có tự ngã để vứt bỏ, chẳng thể tùy thuận giáo ngôn của Như Lai Lưỡng Túc Tôn.

(Kinh) Kính lễ tất dĩ, thoái tọa nhất diện.

()敬禮畢已退坐一面。

(Kinh: Kính lễ xong xuôi, lui qua ngồi một phía).

Do cơ chế giáo ngôn, khiến cho hết thảy chúng sanh vứt bỏ tự ngã, lễ kính dưới chân đức Phật, có thể thanh tịnh an lập, trọn đủ hiện duyên.

(Kinh) Thời, Tu Đạt Đa tức tiện thỉnh bỉ Vô Úy Vương Như Lai, quảng tuyên như thị tam-muội thâm nghĩa.

()須達多即便請彼無畏王如來廣宣如是三昧深義。

(Kinh: Khi đó, Tu Đạt Đa liền thỉnh đức Vô Úy Vương Như Lai tuyên nói rộng khắp nghĩa sâu của tam-muội như thế).

Ở đây, chúng ta thấy sự biểu hiện rõ rệt của các vị thiện tri thức xuất hiện trong cõi đời thuở quá khứ, cho đến nói về lúc Nhiên Đăng Cổ Phật (Dīpaṃkara) vừa mới phát tâm, dùng thân phận của trưởng giả tử Tu Đạt Đa để xuất hiện lễ kính dưới chân đức Thế Tôn, thưa hỏi đức Thế Tôn giáo ngôn Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội rất sâu, nhằm dẫn dắt chúng ta là bọn hữu tình trong đời Mạt Pháp tùy thuận cầu thỉnh như thế, giáo ngôn như thế, tu trì như thế.

(Kinh) Hiền Hộ! Nhĩ thời, bỉ Vô Úy Vương Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, tri trưởng giả tử hữu thâm tín tâm.

()賢護爾時彼無畏王如來應供等正覺知長者子有深信心。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Lúc bấy giờ, Vô Úy Vương Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác biết trưởng giả tử có tín tâm sâu đậm).

“Tri” là thấy ông ta cung kính, lễ bái, như thật tùy thuận, như thật khải thỉnh giáo pháp, cho nên yêu thích, thủ hộ. Hiện tiền chúng ta hành pháp này, hoặc một ngày, hoặc trong ba năm, năm năm, mười năm, chẳng đạt được lợi ích như đã nói, phần nhiều sanh lòng thoái khuất, thậm chí sanh tâm phỉ báng, ngờ vực, tâm dè bỉu. Vì sao như thế? Do cái tâm thâm tín chẳng đủ! Nói đến “tâm thâm tín”, tức là biết pháp tánh đầy đủ và chẳng đầy đủ, có phải là vận dụng pháp hiển hiện hay không. Nếu tin sâu pháp tánh, há có đầy đủ hay chẳng đầy đủ? Nếu có tâm thâm tín, há có pháp tắc tương ứng hay chẳng tương ứng ư? Phần nhiều là cái tâm hư giả, tâm siểm khúc, tâm chú trọng lợi ích bất cần thủ đoạn, tâm chẳng tương ứng, hoặc là tâm thích lọc lừa mưu mô, hoặc cái tâm xu phụ lợi ích, chẳng thể thuận theo pháp tánh, chẳng thể tin sâu thuận theo pháp tắc, chẳng thể tùy thuận công đức do lợi ích thế gian, phần nhiều là chạy theo lợi lộc, cái tâm chỉ biết cầu lợi bất cần thủ đoạn. Vì thế, chẳng thể thâm nhập một pháp, chẳng thể thành tựu! Đấy là căn bệnh chung của người tu tập trong thời đại này. Hằng ngày thay đầu, mỗi giờ sửa mặt, sáng ba, tối bốn, luôn luôn chẳng tương ứng! Vì thế, thông thường chúng ta hành pháp, tốt nhất là đừng nên thay đổi đường lối, chớ nên hành trì khác lạ, cứ một môn thâm nhập như thế. Nếu chọn lựa một pháp nghĩa, sẽ có thể liễu đạt hết thảy pháp tắc. Vì sao? Vì pháp nào cũng đều bình đẳng, nhưng phải thấy chân tâm, dùng chân tâm để lựa chọn. Nếu chẳng phải như vậy, sáng ba, tối bốn, nói chung là chẳng liên quan gì cả, nói chung là cái tâm vô thường, cái tâm biến hóa. Đó gọi là cái tâm hư giả, chỉ chú trọng lợi ích bất cần thủ đoạn, như thế thì sẽ là tặc tâm, sẽ là bất lợi nhất trong Phật pháp. Nói “đại lợi” tức là cái tâm chọn lựa.

(Kinh) Nhạo dục thính văn như thị tam-muội, ứng thời tùy thuận nhi vị phu diễn.

()樂欲聽聞如是三昧應時隨順而爲敷演。

(Kinh: Vui thích nghe nói tam-muội như thế, sẽ ngay lập tức tùy thuận mà diễn giảng rộng khắp).

“Phu diễn” (敷演) là tiếp nối rộng khắp, diễn thuyết pháp tắc này.

(Kinh) Hiền Hộ! Thời, Tu Đạt Đa ư bỉ Phật sở, văn tam-muội dĩ, độc tụng, thọ trì, tư duy kỳ nghĩa, tức như thuyết hành. Ký tu hành dĩ, hoàn tức ư bỉ Vô Úy Vương Như Lai pháp trung, xả gia, xuất gia, thế trừ tu phát, phục ca-sa y.

()賢護須達多於彼佛所聞三昧已讀誦受持思惟其義即如說行。既修行已還即於彼無畏王如來法中舍家出家剃除鬚髮服袈裟衣。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Khi đó, Tu Đạt Đa ở nơi đức Phật ấy, nghe tam-muội xong, đọc tụng, thọ trì, tư duy nghĩa lý, liền tu hành đúng như lời dạy. Đã tu hành rồi, lại còn ở trong pháp của Vô Úy Vương Như Lai, bỏ nhà xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa).

Chúng ta thấy duyên khởi này là như thế nào? Từ kiền thành lễ kính dưới chân đức Phật, sau đó, lui qua ngồi một phía, khải vấn đức Thế Tôn dạy bảo như thế. Tức là thưa hỏi pháp tắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội. Hỏi xong, đức Thế Tôn thâm nhập quan sát, biết ông ta yêu mến, bèn tuyên nói cho ông ta. Ông ta nghe xong, có thể đọc tụng, thọ trì, tư duy nghĩa lý, đúng như lời dạy hành trì, còn ở ngay trong pháp của đức Vô Úy Vương Như Lai, bỏ nhà xuất gia.

Người hành pháp trong quá khứ triệt để tùy thuận, chẳng giữ lại gì, nhất tâm quy mạng, cung kính, trân trọng thọ trì. Trong hiện thời, người xuất gia lẫn tại gia chúng ta phần nhiều có giữ lại. “Giữ lại” tức là gì vậy? Chính là chẳng dám xả thân, hoàn toàn phó mình cho một pháp tắc, có lắm nỗi sợ hãi; nhưng các vị thiện căn thành thục chẳng hề sợ hãi gì, đối với pháp bèn dũng mãnh, chẳng tiếc nuối sanh mạng!

(Kinh) Kinh bát vạn tuế, tư duy trụ trì như thị tam-muội.

()經八萬歲思惟住持如是三昧。

(Kinh: Trải qua tám vạn năm, tư duy trụ trì tam-muội như thế).

Hiện thời, những người tu pháp chúng ta thường có những kẻ thoạt đầu rất dũng mãnh tìm đến, nhưng ba ngày sau bèn nói: “Ối trời ơi! Chúng tôi vẫn chẳng thích hợp pháp này, tôi vẫn nên tu pháp khác vậy”. Nếu có thể dùng tám vạn năm để tư duy, thủ hộ pháp tắc này, chắc là vẫn có ý nghĩa. Vì sao? Có kẻ dăm ba ngày, mười ngày, tám bữa đều kiên trì chẳng nổi, sẽ nẩy sanh lòng nghi ngờ đối với pháp. Còn có người chừng một năm, nửa năm, hoặc bảy ngày, nửa tháng, chẳng biết chính mình là gì! Tâm kiêu mạn sanh khởi, tà tâm sanh khởi, tâm tội ác cũng sanh khởi. Cái tâm tham cầu lợi dưỡng và tiếng tăm cũng sanh khởi, bèn đi giáo hóa người khác.

Chúng ta thấy ông Tu Đạt Đa, tức Nhiên Đăng Cổ Phật thuở tu nhân, suốt tám vạn năm tư duy, tu trì, thủ hộ tam-muội này như thế. Chúng ta phải so sánh, đối với pháp phải phát khởi sự thủ hộ chân thật và lựa chọn thủ hộ rộng lớn trong vị lai. Nếu dăm ba ngày, một năm, nửa năm, đã nóng lòng mong đạt được hiệu quả và lợi ích; đó chẳng phải là người tu pháp, sẽ chẳng đạt được lợi ích trong Phật pháp, chỉ đáng gọi là kẻ trộm ở trong Phật pháp, vênh vang một thời, sau đó sẽ phải hối hận. Vì sao? Quý vị chẳng chân thật tu tập, thủ hộ pháp tắc, mà là mong giành lấy lợi ích nơi pháp. Giành lấy lợi ích gì vậy? Chính là nhờ vào pháp để hoàn thành lợi ích riêng tư của chính mình. Như thế thì sẽ chẳng đạt được sự chân thật trong Phật pháp. Trong pháp tắc này, có nhiều hữu tình thuộc loại đắm nhiễm, vì thiện căn và phước đức của hữu tình trong thời ác trược mỏng ít, bèn dựa vào pháp tắc để nuôi nấng tà kiến và danh lợi của chính mình. Như thế thì sẽ gặp nhiều họa hại. Họa hại ấy là họa hại ngay trong đời hiện tại, có ý nghĩa rốt ráo, chúng ta chẳng thể phủ nhận. Nhưng dù là họa hại trong đời hiện tại, cũng có [các trường hợp] có thể miễn trừ, tức là những ai có thiện căn thành thục và cơ chế thành thục.

(Kinh) Hựu phục tại bỉ Vô Úy Vương Như Lai sở, văn nhất thiết pháp, giai tất thọ trì.

()又復在彼無畏王如來所聞一切法皆悉受持。

(Kinh: Lại ở chỗ Vô Úy Vương Như Lai, nghe hết thảy pháp, thảy đều thọ trì).

Do công đức trong tám vạn năm tư duy, trụ trì tam-muội này, cho nên sau đó, lại tu tập hết thảy các giáo pháp của Vô Úy Vương Như Lai. Nếu ta có thể chọn lựa thuần thục một pháp tắc, vậy thì tất nhiên sẽ thủ hộ hết thảy các pháp. Chẳng hạn như nếu chúng ta thật sự chọn lựa lợi ích của pháp tắc Niệm Phật này, vậy thì hành trì hết thảy các pháp cũng là chọn lựa, là vô úy. Đương nhiên, nếu trong các pháp tắc khác, thật sự chọn lựa lợi ích thì cũng sẽ yêu mến, tu tập hết thảy các pháp tắc. Vì sao? Hễ chọn lựa một pháp tắc, sẽ chẳng sợ hãi, chẳng có gì thoái thất, chẳng có gì được hay mất, chẳng có gì tán hoại. Đó là tu tập rộng lớn, tu tập thanh tịnh, tu tập chân thật, đối với không gian rộng lớn để tạo tác các nghiệp trong tâm địa, sẽ ngay lập tức vượt qua. Trong quá khứ, bị tội ác nghiệp, điên đảo nghiệp, phiền não nghiệp, vô minh nghiệp, đối đãi nghiệp, phan duyên nghiệp, đủ loại nghiệp lấp đầy không gian và thời gian, cùng lúc vọt ra, từ đó mà phát khởi rộng lớn đến vị lai, trong hết thảy các pháp, nẩy sanh diệu dụng thanh tịnh. Do vậy, chúng ta nói “tâm trí rộng lớn đã thật sự thành thục”. Đó là chỗ thiện xảo vô úy trong Phật pháp.

(Kinh) Thị hậu phục kinh chư Như Lai sở, văn thuyết tư pháp.

()是後復經諸如來所聞說斯法。

(Kinh: Sau đó, lại từ chỗ các đức Như Lai, nghe nói pháp này).

Không chỉ nghe nói giáo ngôn Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội từ một đức Như Lai, mà còn đến chỗ các đức Như Lai để nghe nói kinh pháp này.

(Kinh) Diệc giai năng trì. Ư chư Phật sở, chủng chư thiện căn, năng quảng thành tựu bất tư nghị dĩ. Nhiên hậu xả mạng, tức đắc thượng sanh Tam Thập Tam Thiên, đồng thọ quả báo, tức bỉ kiếp trung, hoàn phục trị ngộ đệ nhị Như Lai, nhi bỉ Như Lai, tùng sát-lợi sanh, xuất gia thành đạo, danh viết Điện Đức Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Nhi phục ư bỉ Điện Đức Như Lai pháp trung, xuất gia tu hành, kinh bát vạn tứ thiên tuế, hoàn phục tư duy như thị tam-muội, nhi cánh trị ngộ đệ tam Như Lai. Bỉ đệ tam Phật, ư Bà La Môn gia sanh dĩ, diệc xuất gia thành đạo, hiệu viết Quang Vương Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Phục ư bỉ Như Lai sở, xuất gia tu hành, diệc ư bát vạn tứ thiên tuế trung, thường đắc tư duy như thị tam-muội.

()亦皆能持。於諸佛所種諸善根能廣成就不思議已。然後捨命即得上生三十三天同受果報即彼劫中還復值遇第二如來而彼如來從剎利生出家成道名曰電德如來應供等正覺。而復於彼電德如來法中出家修行經八萬四千歲還復思惟如是三昧而更值遇第三如來。彼第三佛於婆羅門家生已亦出家成道號曰光王如來應供等正覺。復於彼如來所出家修行亦於八萬四千歲中常得思惟如是三昧。

(Kinh: Cũng đều có thể thọ trì. Ở chỗ chư Phật, gieo các thiện căn, đã có thể thành tựu rộng khắp chẳng thể nghĩ bàn. Sau đó, xả mạng, liền được sanh lên Tam Thập Tam Thiên, cùng hưởng quả báo, liền ngay trong kiếp ấy, lại được gặp gỡ vị Như Lai thứ hai. Vị Như Lai ấy sanh trong chủng tánh Sát-đế-lợi, xuất gia, thành đạo, tên là Điện Đức Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. [Tu Đạt Đa] lại ở trong pháp của Điện Đức Như Lai xuất gia tu hành, trải qua tám vạn bốn ngàn năm, vẫn lại tư duy tam-muội như thế, lại được gặp gỡ đức Như Lai thứ ba. Vị Phật thứ ba ấy, sanh trong gia đình Bà La Môn, cũng xuất gia thành đạo, hiệu là Quang Vương Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Lại ở chỗ Như Lai ấy, xuất gia tu hành, cũng trong tám vạn bốn ngàn năm thường được tư duy tam-muội như thế).

Đây là Nhiên Đăng Cổ Phật trong khi tu nhân, đã gặp giáo ngôn của chư Phật. Ở chỗ vị Phật thứ nhất, trải qua tám vạn năm. Nơi vị Phật thứ hai, trải qua tám vạn bốn ngàn năm, nơi vị Phật thứ ba lại trong tám vạn bốn ngàn năm thường tư duy tam-muội như thế. Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta hãy xem chính mình hành trì tam-muội này, thời gian yêu mến được mấy năm, hay mấy ngày? Đối với tam-muội này, tin sâu hay vẫn sợ hãi? Hay là thủ hộ rốt ráo? Tôi thường nghe có Bồ Tát tìm đến đây phát nguyện, phát nguyện xong bèn thoái đọa. Thoạt đầu vì ở nhà chịu khổ, chịu nạn, do tình cảm thế tục dây dưa, nghiệp duyên chằng néo, áp lực cuộc sống trói buộc, đủ thứ trói buộc, chẳng được rồi! Tính đến tự viện để chứng tam-muội, nói: “Tôi chẳng thể nào không chứng tam-muội này!” Được ít lâu bèn nói: “Không được rồi! Tôi tu trì thời gian dài ngần ấy mà chẳng thể tương ứng!” Nếu so với tám vạn năm, hay tám vạn bốn ngàn năm, như thế nào thì mới tương ứng? Đức Thế Tôn chẳng dùng số năm để ảnh hưởng chúng ta, chỉ nói chúng ta dùng tâm trí và lập ý nguyện rộng lớn rốt ráo, tin sâu và yêu mến, như thế thì mới có thể chọn lựa, xác lập ý hướng rộng lớn.

Nếu quý vị chẳng lập, phước đức mỏng ít, nông cạn đối với pháp, tín tâm nông cạn, hành pháp nông cạn, phát tâm lẫn phước đức lẫn nhân duyên đều nông cạn, pháp duyên nông cạn. Nông cạn ở chỗ nào? Một niệm hiện tiền của quý vị vừa động, đã văng tuốt qua nơi khác. Vừa mới mon men, đã dấy nghi tâm, chẳng hề có thâm tín. Nhiên Đăng Cổ Phật đã vì chúng ta chọn lựa như thế: Ngài thường tu tập một pháp, chẳng thoái đọa, ắt được thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Nếu chúng ta đối với pháp thường xuyên tán hoại, mà mong đạt được lợi ích thế tục trong pháp ấy, cho đến vì nhân duyên tà kiến, sẽ là chẳng tương ứng.

(Kinh) Hiền Hộ! Thời bỉ trưởng giả tử Tu Đạt Đa tự thị chi hậu, quá bách dư kiếp, tức đắc thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

()賢護時彼長者子須達多自是之後過百餘劫即得成就阿耨多羅三藐三菩提。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Trưởng giả tử Tu Đạt Đa từ thuở đó về sau, trải qua hơn một trăm kiếp, liền được thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề).

Trăm kiếp thành Phật, thật khó! Thông thường, nói theo quy củ thông thường, sẽ là ba đại A-tăng-kỳ kiếp bèn thành tựu Phật đạo. Nhiên Đăng Cổ Phật thị hiện trong một trăm kiếp đã thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Trong khi tu nhân, Thích Ca Văn Như Lai (Thích Ca Mâu Ni Phật) do cái tâm mạnh mẽ, tán thán Phất Sa Phật suốt bảy ngày bảy đêm, chỉ nói: “Thiên thượng thiên hạ vô như Phật, thập phương thế giới diệc vô tỷ, thế gian sở hữu ngã tận kiến, nhất thiết vô hữu như Phật giả”, bèn vượt qua chín kiếp, thành Phật trước ngài Di Lặc. Đó là sự thiện xảo khích lệ được thành tựu bởi cái tâm mạnh mẽ. Trong khi hành pháp này, chúng ta có nhận biết như thế hay không?

Có người nói: “Nếu trăm kiếp thành Phật, tôi chẳng hành pháp này. Vì niệm A Di Đà Phật, vãng sanh thế giới Cực Lạc, đắc bất thoái chuyển ngay trong một đời, thành Phật ngay trong một đời, tôi vẫn nên cầu sanh về thế giới Cực Lạc”, cũng rất tốt lành! Chúng ta đối với pháp so sánh như thế, vì sao đức Thế Tôn muốn làm cho hết thảy chúng sanh thành Phật ngay trong một đời mà thiết lập một pháp tắc chân thật, thù thắng rộng lớn như thế? Để cho chúng ta so sánh. Trong quá khứ, chư Phật đã siêng khổ tu trì trong bao kiếp lâu xa, muốn khiến cho chúng sanh đạt được lợi ích chân thật. Vì lẽ nào? Do lập tức thành tựu Phật đạo, do xa lìa các khổ. Vì nếu chúng ta chẳng lập tức thành tựu Phật đạo, nhiều đời mê muội, một hai ngày còn mê muội, huống hồ nhiều kiếp, huống hồ chẳng thể nói cùng tận kiếp, lẽ nào chẳng mê muội ư? Suốt đời này, chúng ta có bao nhiêu thứ gây mê hoặc? Mê muội đối với pháp, mê muội đối với tín tâm, mê muội đối với tương lai, mê muội trong tu hành. Quý vị có thể thật sự như thật thọ trì ư? Tiến nhập như pháp ư? Chẳng cần ầm ĩ phô trương cái tâm của chính mình! Quý vị hãy như thật quán sát chính mình có phải là thâm tín hay không? Nếu chẳng tin sâu, dẫu ầm ĩ phô trương thì vẫn là cái tâm sanh diệt, tâm đối đãi! Nó chẳng liên tục, vì sao? Thật sự chẳng có sự nương tựa liên tục, vì trong cái tâm sanh diệt mà muốn liên tục, ắt cần phải thanh tịnh phát khởi thâm tín, chẳng có con đường thứ hai! Nếu lập ra một con đường khác, sẽ là luân hồi. Các vị thiện tri thức ơi! Nhất định phải khéo quan sát, khéo tư duy.

(Kinh) Hiền Hộ! Nhữ ưng đương tri, nhĩ thời, bỉ trưởng giả tử Tu Đạt Đa giả, khởi dị nhân hồ? Tức bỉ quá khứ Nhiên Đăng Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác thị dã. Hiền Hộ! Thị cố, đương tri, bỉ trưởng giả tử Tu Đạt Đa giả, dĩ hữu như thị ái nhạo pháp cố. Phục hữu như thị cầu pháp hành cố, năng tốc thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề dã.

()賢護汝應當知爾時彼長者子須達多者豈異人乎即彼過去然燈如來應供等正覺是也。賢護是故當知彼長者子須達多者以有如是愛樂法故。復有如是求法行故能速成就阿耨多羅三藐三菩提也。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Ông hãy nên biết, trưởng giả tử Tu Đạt Đa thuở ấy, há có phải ai khác? Chính là quá khứ Nhiên Đăng Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác vậy. Này Hiền Hộ! Vì thế, hãy nên biết: Trưởng giả tử Tu Đạt Đa do yêu mến pháp như thế, lại do cầu pháp hành như thế mà có thể mau chóng thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề).

Chúng ta đều biết Thích Ca Văn Phật được thọ ký A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề từ chỗ Nhiên Đăng Cổ Phật. Chư Phật đã thành tựu trong quá khứ phần nhiều đều là ở nơi chư Phật, đích thân được thọ ký là “sẽ đích thân chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”. Nếu đã đích thân được thọ ký, chắc chắn sẽ chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề, chẳng có nghi tâm, sẽ hành trì chẳng chần chừ. Đó là lúc oai đức và thiện xảo thành thục chẳng thể nghĩ bàn. Nếu là người chưa được thọ ký, sẽ có nhiều nỗi hoài nghi!

Trong kinh Kim Cang, đức Thế Tôn đã nói: Nếu đối với hành pháp mà có sở đắc, thì Nhiên Đăng Cổ Phật đã chẳng thọ ký. Nay chúng ta có phải là có sở đắc hay chăng? Đức Phật có thọ ký cho chúng ta hay không? Chúng ta có yêu mến hành pháp Ban Châu, hay là có hành pháp sở cầu hay không? Nếu quý vị chẳng yêu mến pháp như thế, thích pháp như thế, mà yêu thích những thứ khác, quý vị phải cẩn thận, có thể là đã đi lệch đường mất rồi!

(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Nhữ kim đương quán thị tam-muội vương, vị chư Bồ Tát cập chúng sanh bối, nhi tác kỷ hứa đại hoằng ích sự.

()復次賢護汝今當觀是三昧王爲諸菩薩及衆生輩而作幾許大弘益事。

(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Ông nay hãy nên quán tam-muội vương này, vì các Bồ Tát và chúng sanh thực hiện chừng đó chuyện lợi ích to lớn).

Ở đây, đức Phật dạy ngài Hiền Hộ quán. [Trong đoạn kinh văn này, phải hiểu] Hiền Hộ là hữu tình cầu pháp, ưa thích pháp, yêu mến pháp, khéo thủ hộ trong hiện tiền, chẳng phải là nói đến một vị Bồ Tát. Thượng Thủ của hết thảy các vị Bồ Tát đều là Hiền Hộ Bồ Tát, mà Thượng Thủ của hết thảy Bồ Tát đều là hữu tình yêu mến pháp, ưa thích pháp trong hiện tiền. Nếu quý vị yêu mến pháp, ưa thích pháp, hướng về pháp, sẽ giống như ngài Hiền Hộ, thuộc về cùng một pháp vị với ngài Hiền Hộ, là Thượng Thủ của mười sáu vị Chánh Sĩ. “Thủ” là yêu mến pháp, ưa thích pháp, hành pháp, thủ hộ sự thành tựu của pháp, truyền bá pháp, như vậy chính là người đứng đầu của hết thảy các vị Chánh Sĩ, bất luận xuất gia hay tại gia. Đây là nói chân thật theo tỷ dụ, cũng là nói tới sự thiện xảo trụ thế của Hiền Hộ Bồ Tát, cũng có phần trụ trong an lạc nơi sự tùy thuận của Hiền Hộ Bồ Tát trong đời Mạt Pháp. Vì tùy thuận tâm trí và sự thủ hộ của Hiền Hộ Bồ Tát, sẽ nhất định có thể thành tựu công đức chẳng thể nghĩ bàn này!

Đối với “tam-muội vương”, chớ nên quá bận tâm về danh tự này. Thêm vào một chữ Vương, tức là chẳng dám khinh dễ hứa khả cho hữu tình. Trong phần sau, đối với sự tán thán về lai lịch, cũng nói tột bậc. Tất cả các ngôn từ đều vận dụng tới cực hạn, chẳng phải là khoa trương. Thế nào là tột bậc? Chính là tuyên nói như thật!

(Kinh) Sở vị đương đắc nhất thiết chư Phật trí địa cố.

()所謂當得一切諸佛智地故。

(Kinh: Được gọi là sẽ đạt được trí địa của hết thảy chư Phật).

Các vị thiện tri thức ơi! Đối với pháp tắc này, nếu có thể tương ứng, quyết định sẽ chẳng thoái chuyển đối với trí địa của chư Phật! Vì trí Nhất Thiết Trí của chư Phật, nói theo phía Như Lai, sẽ là chẳng có gì để nói năng. Nếu xét theo danh xưng, như trong phần sau, đối với các thứ trí đều có nhắc tới, nhưng các thứ trí ấy đều yếu ớt so với trí của chư Phật, vì danh hiệu trí huệ của chư Phật, nội dung của danh tự, nếu muốn xưng thuyết, sẽ có thể ngập tràn toàn thể trần sa, toàn thể thế giới hải, cho đến thế giới chủng tử hải. Vì sao? Mỗi trí của chư Phật đều trọn khắp chân thật, chẳng có gì không bao hàm trong ấy.

(Kinh) Phục năng nhiếp thọ nhất thiết chư Phật đa văn hải cố.

()復能攝受一切諸佛多聞海故。

(Kinh: Lại có thể nhiếp thọ biển đa văn của hết thảy chư Phật).

Tam-muội vương ấy chính là trí địa của hết thảy chư Phật, cũng là biển đa văn của chư Phật. Chư Phật dùng trí trọn khắp để nghe hết thảy các pháp, hành hết thảy các pháp, trọn đủ công đức của hết thảy các pháp. Cho nên chúng ta dùng công đức chân thật của một pháp, một tam-muội để nhập biển trí của hết thảy chư Phật, nhập biển đa văn của hết thảy chư Phật.

(Kinh) Hiền Hộ! Thị cố, nhữ đẳng đương ưng cần cầu như thị tam-muội, thường nhạo thính văn, độc tụng thọ trì, tư duy tu hành. Ký văn thọ dĩ, đương phục vị tha độc tụng, thọ trì, giải thích nghĩa lý, linh tha cần cầu, hàm đắc văn thọ, chánh niệm tư duy, như thuyết tu hành. Sở dĩ giả hà? Hiền Hộ! Nhược năng cần cầu, độc tụng, thọ trì, chánh niệm tu hành, quảng tuyên lưu bố thị tam-muội giả, bất cửu đương đắc chứng chư Phật trí, chư Như Lai trí, đại tự tại trí, bất tư nghị trí, bất khả xưng trí, vô đẳng đẳng trí, Nhất Thiết Trí trí, nãi chí đắc bỉ bất cộng tha trí cố. Hiền Hộ! Nhược phục hữu nhân, năng thiện tuyên thuyết, bỉ ưng chánh ngôn.

()賢護是故汝等當應勤求如是三昧常樂聽聞讀誦受持思惟修行。既聞受已當復爲他讀誦受持解釋義理令他勤求咸得聞受正念思惟如說修行。所以者何賢護若能勤求讀誦受持正念修行廣宣流佈是三昧者不久當得證諸佛智諸如來智大自在智不思議智不可稱智無等等智一切智智乃至得彼不共他智故。賢護若復有人能善宣說彼應正言。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Vì thế, các ông hãy nên siêng cầu tam-muội như thế, thường ưa thích nghe, đọc, tụng, thọ trì, tư duy tu hành. Đã nghe nhận rồi, sẽ lại vì người khác đọc, tụng, thọ trì, giải thích nghĩa lý, khiến cho người khác siêng cầu, đều được nghe, nhận, chánh niệm tư duy, tu hành đúng như lời dạy. Vì sao vậy? Này Hiền Hộ! Nếu có thể siêng cầu, đọc tụng, thọ trì, chánh niệm tu hành, tuyên nói, truyền bá rộng rãi tam-muội này, chẳng lâu sau, sẽ chứng chư Phật trí, chư Như Lai trí, trí đại tự tại, trí chẳng thể nghĩ bàn, trí chẳng thể diễn nói, trí không sánh bằng, trí Nhất Thiết Trí, cho đến trí mà mọi người khác đều chẳng có. Này Hiền Hộ! Nếu lại có ai có thể khéo tuyên nói, người ấy hãy nên tuyên nói chánh đáng).

“Chánh ngôn” ở đây là tuyên nói như thật, tuyên nói chẳng tăng giảm, chẳng tuyên nói những điều được thiết lập hư giả.

(Kinh) Kim thử tam-muội tức thị nhất thiết chư Bồ Tát nhãn.

()今此三昧即是一切諸菩薩眼。

(Kinh: Nay tam-muội này chính là mắt của hết thảy các Bồ Tát).

Trí huệ là mắt của Bồ Tát, tức Bát Nhã Ba La Mật.

(Kinh) Chư Bồ Tát phụ.

()諸菩薩父。

(Kinh: Cha của Bồ Tát).

Do có thể sanh ra các Bồ Tát.

(Kinh) Chư Bồ Tát mẫu.

()諸菩薩母。

(Kinh: Mẹ của các Bồ Tát).

Do dưỡng dục các Bồ Tát.

(Kinh) Năng dữ nhất thiết chư Bồ Tát bối chư Phật trí giả. Hiền Hộ! Như thị thuyết giả, thị vi thiện thuyết thời, thiện thuyết thị tam-muội dã. Hiền Hộ! Nhược phục hữu chư nam tử, nữ nhân năng thiện thuyết thời, bỉ đương chánh ngôn.

()能與一切諸菩薩輩諸佛智者。賢護如是說者是爲善說時善說是三昧也。賢護若復有諸男子女人能善說時彼當正言。

(Kinh: Có thể ban trí của chư Phật cho hết thảy các vị Bồ Tát. Này Hiền Hộ! Nói như thế thì là lúc khéo nói, sẽ khéo nói tam-muội này. Này Hiền Hộ! Nếu nhằm lúc các nam tử, nữ nhân có thể khéo nói, họ hãy nên tuyên nói chánh đáng).

Lần thứ hai đề cập “chánh ngôn” đối với tam-muội này. “Chánh ngôn” là nói như thật về công đức chân thật, lợi ích chân thật, và pháp tắc chân thật được chứa đựng trong tam-muội này.

(Kinh) Thị tam-muội giả, tức thị Phật tánh, tức thị pháp tánh, tức thị Tăng tánh, tức thị Phật địa.

()是三昧者即是佛性即是法性即是僧性即是佛地。

(Kinh: Tam-muội này chính là Phật tánh, chính là pháp tánh, chính là Tăng tánh, chính là Phật địa).

Lành thay! Đối với giáo ngôn quá sâu này, đối với lời ấn khế này, chúng ta phải nên khéo tư duy, khéo quan sát, khéo thủ hộ, khéo truyền bá! Trong kinh Hiền Hộ, đức Thế Tôn đã như thật bảo chúng ta: Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội chính là Phật tánh, mà cũng là triệt để, như thật tuyên nói lợi ích và công đức chân thật của pháp tắc này, biểu đạt chẳng chiết khấu pháp này chính là Phật tánh, là Pháp tánh, là Tăng tánh, cho đến Phật địa. Nếu chứng đắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, tức là có thể thấy Phật. Thấy Phật thì sẽ có thể nghe pháp, nghe pháp sẽ có thể hiểu rõ công đức của pháp là chân thật, chẳng có tự tánh, tức là an trụ nơi lợi ích chân thật do thấy chư Phật, đối với Vô Sanh Pháp Nhẫn bèn tùy thuận. Cho nên “tức thị Phật địa” (chính là Phật địa). Đấy là nói vô úy, chỉ có đức Thế Tôn có thể nói như thế.

(Kinh) Thị đa văn hải, thị vô tận tạng Đầu Đà, thị vô tận tạng Đầu Đà công đức.

()是多聞海是無盡藏頭陀是無盡藏頭陀功德。

(Kinh: Là biển đa văn, là vô tận tạng Đầu Đà, là vô tận tạng Đầu Đà công đức).

Đầu Đà (Dhūta) là nói theo kiểu chẳng dịch nghĩa, có rất nhiều cách dịch. [Dịch Đầu Đà thành] Đẩu Tẩu (抖擻) là một cách dịch khá phổ biến. Đẩu Tẩu hình dung chúng ta giũ sạch tro bụi trên y phục. Hạnh Đầu Đà có thể giũ sạch nghiệp tướng trần lao của hết thảy các nghiệp thiện ác từ vô thỉ tới nay, tâm trí thanh tịnh. Trong biển vô tận cõi nước, đó là chỗ quy kết của hết thảy các thứ nỗ lực tiến lên, hoặc là chỗ quy kết của sức công đức thanh tịnh để triệt để trở về cội nguồn. Điều đó được gọi là “vô tận tạng Đầu Đà công đức”.

(Kinh) Thị vô tận tạng chư Phật công đức.

()是無盡藏諸佛功德。

(Kinh: Là vô tận tạng công đức của chư Phật).

Hai chữ “vô tận” rất dễ lý giải. “Tạng” được tuyên nói như thế nào? Chính là công đức vốn sẵn có của hết thảy chúng sanh và hết thảy chư Phật, chẳng phải do tạo tác mà có. Nói “vô tận tạng chư Phật công đức” là vì muốn ngăn trở lòng kiêu mạn bình phàm của hết thảy chúng sanh mà nói như thế. Trong vô tận tạng, hết thảy công đức của chư Phật và công đức của hết thảy chúng sanh vốn bình đẳng như nhau. Vì ngăn che cái tâm kiêu mạn của chúng sanh, vì thật sự ban cấp lợi ích của Phật pháp, cho nên nói như thế!

(Kinh) Thị vô tận tạng năng sanh thâm nhẫn.

()是無盡藏能生深忍。

(Kinh: Là vô tận tạng có thể sanh ra nhẫn sâu).

Vô Sanh Pháp Nhẫn là môn Nhẫn khó nhất trong hết thảy các môn Nhẫn, chẳng sanh, chẳng diệt, bất cấu, bất tịnh, chẳng đến, chẳng đi, nhất tâm chân thật như thế, phô bày sự an trụ trong công đức chân thật của Vô Sanh Pháp Nhẫn. Hết thảy hữu tình, cho đến hết thảy Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát ở nơi đây chẳng thể sanh khởi quyết định. Như Bồ Tát còn có hạnh nguyện để an lập, Thanh Văn còn có sự tịch diệt, Niết Bàn còn có thể cầu chứng, bậc trí thì còn có trí huệ để thủ hộ, người từ bi thì còn có từ bi phải nên thực hiện, phàm phu hữu tình thì còn có tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến bất chánh, cho đến các Tùy Phiền Não thường bầu bạn, cho nên đối với Vô Sanh Nhẫn chẳng thể lựa chọn.

(Kinh) Thị năng sanh đại từ, năng sanh đại bi.

()是能生大慈能生大悲。

(Kinh: Có thể sanh đại từ, có thể sanh đại bi).

Đồng thể đại bi, vô duyên đại từ. Vì sao nói như thế? Pháp từ bi chính là dẹp khổ, ban vui. Hết thảy các bậc thiện xảo, hết thảy những người học Phật đều nên tu tập pháp này, nương vào trí huệ làm gốc, dùng tâm trí bất động, chẳng tăng, chẳng giảm, phát khởi thiện xảo oai đức rộng lớn. Oai đức thiện xảo ấy phát khởi từ chỗ nào? Từ cái được gọi là “tâm chẳng có chuyện gì”, từ trong cái tâm chẳng tạo tác, từ trong cái tâm chẳng có đến, đi, đối đãi. Nếu trong tâm chúng ta có đối đãi, cho đến có cái đắm nhiễm, sẽ trọn chẳng thể đạt được đại từ và đại bi.

(Kinh) Năng sanh Bồ Đề dã.

()能生菩提也。

(Kinh: Có thể sanh Bồ Đề).

Trong kinh giáo, đức Thế Tôn đã tuyên nói có Thanh Văn Bồ Đề, Duyên Giác Bồ Tát, và tối thượng thừa Bồ Đề của chư Phật. Trong hết thảy các giáo ngôn về Bồ Đề, chẳng lìa ba tâm Bồ Đề ấy. Nếu là phước báo nhân thiên, sẽ chẳng thể dùng Bồ Đề để an lập, chẳng thể dùng Bồ Đề để nói năng, vì đó chẳng phải là pháp thủ hộ bởi lục đạo chúng sanh. Bởi lẽ, Bồ Đề phần là xuất thế thiện xảo, là tướng công đức thiện xảo lợi ích thế gian.

(Kinh) Hiền Hộ! Thị vi bỉ năng thiện thuyết thời, thuyết thị tam-muội dã. Hiền Hộ! Nhược phục hữu nhân năng thiện tuyên thuyết thị tam-muội thời, bỉ ưng chánh ngôn.

()賢護是爲彼能善說時說是三昧也 。賢護

復有人能善宣說是三昧時彼應正言。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Đó là người khi khéo nói bèn nói tam-muội này. Này Hiền Hộ! Nếu lại có người khi khéo tuyên nói tam-muội này, người ấy phải nên nói năng chánh đáng).

Đối với “chánh ngôn”, đức Thế Tôn không ngừng uốn nắn chúng ta phải nên tuyên nói Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội bằng ngôn ngữ chánh giáo, chánh pháp tắc, lời lẽ chân thật, lời lẽ chẳng đùa cợt, lời lẽ như thật, lời lẽ chẳng tăng giảm như thế nào. Tức là đối với tam-muội này, bèn nói như thật. Đức Thế Tôn đích thân dạy chúng ta tuyên nói với người khác như thế nào, chẳng phải là dùng lời lẽ tăng giảm, lời lẽ do quý vị tự suy nghĩ, lý giải, hoặc là lời lẽ xuất phát từ sự chứng lượng[1]. Sự chứng lượng của quý vị ở đây chẳng dấy lên tác dụng. Vì sao? Do đức Thế Tôn đích thân dạy bảo, đúng như đức Thế Tôn đã chế giới. Hết thảy các giới pháp do đức Thế Tôn chế định, chẳng phải do các vị Bồ Tát hoặc hiền thánh nào khác có thể an lập! Vì thế, lời dạy ở đây giống như giới pháp, chẳng thể tăng giảm, do chính miệng của đức Phật tuyên thuyết.

(Kinh) Thị tam-muội vương, năng phá nhất thiết chư pháp hắc ám, năng tác nhất thiết đại pháp quang minh.

()是三昧王能破一切諸法黑暗能作一切大法光明。

(Kinh: Tam-muội vương này có thể phá sự tối tăm nơi hết thảy các pháp, có thể làm quang minh cho hết thảy các đại pháp).

Trong công đức chân thật nơi đại quang minh tạng của chư Phật Như Lai, trong sự lợi ích chân thật rộng khắp của Nhất Chân pháp giới, hết thảy hữu tình trong chín pháp giới dù thánh hay phàm, đều là tối tăm, chỉ do mức độ sai biệt mà nói là ảm đạm, tối tăm, hay âm u như thế đó thôi. Âm u là thứ được chúng sanh trong ba ác đạo thủ hộ, tối tăm là thứ được ba thiện đạo thủ hộ, ảm đạm là các thứ Hoặc vi tế của chư Bồ Tát, tức là nhân duyên do Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc mang lại. Trong đại quang minh tạng do chư Phật đích thân chứng đắc, chẳng có gì hắc ám, chẳng có pháp tắc nào đối đãi.

(Kinh) Hiền Hộ! Thị vi bỉ năng thiện thuyết tam-muội dã.

()賢護是爲彼能善說三昧也。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Đó là người có thể khéo nói tam-muội).

Ở đây, đức Thế Tôn đã khiến cho chúng ta trực tiếp thuận theo giáo ngôn của đức Thế Tôn để tuyên nói công đức của môn tam-muội này.

(Kinh) Hiền Hộ! Nhữ nghi quán thử Bồ Tát Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội, vị chư chúng sanh, tác đại lợi ích, nãi chí nhất thiết chư Bồ Tát bối, trụ ư thử độ, biến kiến thập phương nhất thiết thế giới chư Phật Thế Tôn, đáo chư Phật sở, cung kính lễ bái, thính văn chánh pháp, cúng dường chúng Tăng, diệc bất tham trước.

()賢護汝宜觀此菩薩唸佛現前三昧爲諸衆生作大利益乃至一切諸菩薩輩住於此土遍見十方一切世界諸佛世尊到諸佛所恭敬禮拜聽聞正法供養衆僧亦不貪著。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Ông nên quán tam-muội Bồ Tát Niệm Phật Hiện Tiền này, vì các chúng sanh tạo lợi ích to lớn, cho đến hết thảy các vị Bồ Tát ở trong cõi này, thấy trọn khắp chư Phật Thế Tôn nơi hết thảy các thế giới trong mười phương, tới chỗ chư Phật, cung kính lễ bái, lắng nghe chánh pháp, cúng dường chúng Tăng mà cũng chẳng tham đắm).

Đây là nói theo thứ tự. “Trụ ư thử độ” (Trụ trong cõi này) rất quan trọng. Vì tu trì pháp tắc này chính là “chẳng lìa cõi mình, mà thấy mười phương chư Phật”. Kinh văn rất rạch ròi, rất rõ ràng bảo chúng ta: Các vị Bồ Tát nếu hành pháp này, sẽ đạt được lợi ích ấy. Lợi ích ấy được biểu lộ ở chỗ nào? Chính là “trụ ư thử độ, biến kiến thập phương nhất thiết thế giới chư Phật Thế Tôn” (trụ trong cõi này, thấy trọn khắp chư Phật Thế Tôn nơi hết thảy các thế giới trong mười phương). Trông thấy chư Phật, do chư Phật thảy đều hiện tiền, cho nên “đáo chư Phật sở” (đến chỗ chư Phật), sau đó “cung kính lễ bái”. Đấy là một pháp. “Thính văn chánh pháp” lại là một pháp nữa. “Cúng dường chúng Tăng” lại là một pháp nữa. “Diệc bất tham trước” (Cũng chẳng tham đắm) là quy kết về căn bản.

Nếu tham đắm chỗ này, sẽ gọi là kẻ tăng thượng mạn, là kẻ đắm nhiễm, tất nhiên sẽ đọa nhập “dĩ vi hữu sở đắc” (cho là có cái để đạt được). Kết quả là chỗ nào cũng đều dùng cái tâm tăng thượng mạn để tuyên nói pháp tắc “cho là có pháp để có thể đạt được” khiến cho chúng sanh mê mất. Vì thế, thông thường hành Ban Châu tam-muội hoặc hành Niệm Phật tam-muội, trông thấy chư Phật, lắng nghe giáo huấn của chư Phật, phần nhiều thủ hộ nghiêm mật tam nghiệp, nhất là khẩu nghiệp phải nên thủ hộ nghiêm mật nhất, trọn chẳng dễ dãi tuyên nói với kẻ khác. Vì sao vậy? Để khỏi tăng thượng mạn, để chẳng tham đắm, vì chẳng có một pháp để có thể đạt được, vì thấy Phật, nghe pháp, liễu đạt tự tánh, chẳng đắm nhiễm, vì chẳng tăng, chẳng giảm. Do nhân duyên này, “diệc vô tham trước” (cũng chẳng tham đắm) rất quan trọng, đó là chỗ quy kết. Sự quy kết ấy chính là chỗ lợi ích chân thật, tức là nghe giáo pháp của chư Phật, [liễu giải] pháp chẳng có tự tánh. Nếu chẳng phải là như vậy, Phật pháp cũng là có đắm nhiễm!

(Kinh) Hiền Hộ! Dĩ thị nghĩa cố, chư Bồ Tát đẳng nhược dục thành tựu tam-muội vương giả.

()賢護以是義故諸菩薩等若欲成就三昧王者。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Do bởi nghĩa ấy, các vị Bồ Tát nếu muốn thành tựu tam-muội vương).

Niệm Phật tam-muội là vua của các tam-muội; đây là nói quyết định, cho đến Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội cũng được thành tựu bởi Niệm Phật tam-muội. Công đức ấy chẳng hai, chẳng khác, chỉ là Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền do kinh Ban Châu Tam Muội tuyên nói (kinh Hiền Hộ mà nay chúng ta đang học là một bản dịch của kinh ấy) [đặc biệt ở chỗ] chẳng lìa cõi này mà thấy mười phương chư Phật. Đây là một giáo pháp bất cộng. Các pháp môn khác cũng có giáo pháp [quán tưởng, hoặc xưng niệm danh hiệu] của một vị bổn tôn nào đó, một vị thiện tri thức nào đó, một vị Phật nào đó, hoặc [quán tưởng] một hình tượng nào đó, chỉ có [đối tượng để tu trì trong] pháp này là Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội. Lời dạy rộng lớn như thế chỉ có kinh Ban Châu Tam Muội lựa chọn và tuyên nói. Đây thật sự là một bảo điển, khó có, khó gặp! Có thể nghe lời dạy như vậy, tìm cầu sự tu trì như vậy thì chính là chẳng thể nghĩ bàn. Như trong phần trước, chúng tôi đã nói công đức và lợi ích của Ban Châu tam-muội đối với người hướng đến, mong cầu được truyền dạy pháp này, đọc tụng kinh điển này, tuyên nói cho người khác, cho đến chứng đắc tam-muội này cũng là công đức chẳng thể nghĩ bàn, chư Phật dẫu tán thán cũng chẳng thể tận.

(Kinh) Thường đương chuyên tâm tinh cần quán sát bỉ Tứ Niệm Xứ.

()常當專心精勤觀察彼四念處。

(Kinh: Thường nên chuyên tâm siêng ròng quan sát Tứ Niệm Xứ).

Tứ Niệm Xứ (Smṛtyupasthāna) ở đây khác với Tứ Niệm Xứ của Thanh Văn. Tứ Niệm Xứ [của Thanh Văn] là “quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã”. Tứ Niệm Xứ ở đây là quán như thế nào?

(Kinh) Hiền Hộ! Vân hà Bồ Tát quán Tứ Niệm Xứ? Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát thường đương chuyên tâm quán sát thân hạnh, tất cánh bất kiến nhất thiết chư thân.

()賢護云何菩薩觀四念處賢護菩薩摩訶薩常當專心觀察身行畢竟不見一切諸身。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Thế nào là Bồ Tát quán Tứ Niệm Xứ? Này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát thường nên chuyên tâm quan sát thân hạnh, rốt ráo chẳng thấy hết thảy các thân).

Ở đây là quan sát, chẳng phải là dễ dãi, hời hợt phủ nhận. Trong giáo ngôn của chư Phật Thế Tôn, chẳng buộc chúng ta dễ dãi, hời hợt chấp nhận một pháp tắc, cũng như dễ dãi mù quáng tuân theo một pháp tắc, mà là để cho chúng ta tự mình xét kỹ, quan sát, quan sát đúng như lý, quan sát đúng như lời dạy, quan sát bằng trí huệ, quan sát bằng từ bi, trọn chẳng quan sát giả dối, mù quáng. Quan sát như vậy có thể khiến cho chúng ta chọn lựa pháp tắc, có thể an trụ trong lợi ích chân thật.

(Kinh) Thường đương chuyên tâm quan sát thọ hạnh, nhi diệc bất kiến nhất thiết chư thọ.

()常當專心觀察受行而亦不見一切諸受。

(Kinh: Thường nên chuyên tâm quan sát thọ hạnh, mà cũng chẳng thấy hết thảy các thọ).

Một là quan sát thân hạnh, hai là quan sát thọ hạnh.

(Kinh) Thường đương nhất tâm quán sát tâm hạnh, nhi diệc bất kiến nhất thiết chư tâm.

()常當一心觀察心行而亦不見一切諸心。

(Kinh: Thường nên nhất tâm quán sát tâm hạnh, mà cũng chẳng thấy hết thảy các tâm).

Thiện tri thức ơi! Chớ nên dễ dãi, hời hợt coi nhẹ môn Tứ Niệm Xứ này! Trong giáo ngôn của Thanh Văn, đức Thế Tôn đã có lời dạy thanh tịnh về Tứ Niệm Xứ dành cho các vị tỳ-kheo. Ngài nói: “Các thầy tỳ-kheo! Hãy nên an trụ trong Tứ Niệm Xứ như thế, hành các thiện pháp an lạc”. Tứ Niệm Xứ là pháp ắt phải tu của các vị sư phụ xuất gia trong quá khứ, “quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã”. Quán như thế, sẽ đạt được tâm trí tịch tĩnh, trụ trong an lạc rốt ráo, xa lìa thế gian, xa lìa quá khứ, xa lìa hết thảy đối đãi đắm nhiễm, có thể khiến cho tự tâm tịch diệt, có thể giải thoát ngay trong đời hiện tại. Môn Tứ Niệm Xứ này có ý nghĩa. Chúng ta chớ nên xem nhẹ nó. Nếu có thể tùy thuận pháp tắc như thế, chúng ta sẽ có thể thực hiện nó.

(Kinh) Thường đương nhất tâm quán sát pháp hạnh, nhi diệc bất kiến nhất thiết chư pháp.

()常當一心觀察法行而亦不見一切諸法。

(Kinh: Thường nên nhất tâm quan sát pháp hạnh, mà cũng chẳng thấy hết thảy các pháp).

Tứ Niệm Xứ ở đây khác với Tứ Niệm Xứ của Thanh Văn. Đấy là bốn phép Quán được lập ra cho các hữu tình hành Bồ Tát đạo. Nếu một khi đã có thể lựa chọn bốn phép Quán chẳng có tự tánh này, Định kiến (kiến giải do tu Định) sanh khởi, chúng ta có thể dùng ấn Thật Tướng để ấn khế vạn sự vạn vật, hòng đạt được giải thoát. Như thế thì trong hết thảy hiện duyên, có thể nói là thường luôn tu, tu cho đến hết thọ mạng, tu ngay trong hiện tiền, tu chẳng gián đoạn, tu chân thật, tu cung kính, thường nói là “như pháp tu hành, thành tựu Bồ Đề”.

(Kinh) Hiền Hộ! Như thị đẳng sự, thùy năng tín giả.

()賢護如是等事誰能信者。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Chuyện như thế, ai có thể tin được?)

Chuyện như vậy ai có thể tin tưởng? Trên thực tế, đức Thế Tôn vẫn nêu ra một tỷ dụ, chẳng phải là lựa chọn, để khiến cho mọi người trở về pháp vị như thế.

(Kinh) Duy bỉ lậu tận A La Hán, cập dĩ A Tỳ Bạt Trí chư Bồ Tát đẳng.

()唯彼漏盡阿羅漢及以阿毘跋致諸菩薩等。

(Kinh: Chỉ có lậu tận A La Hán và các vị Bồ Tát A Tỳ Bạt Trí).

A La Hán là bậc đạo nghiệp chẳng thoái chuyển; cho nên hoàn thành tất cả sự tu tập ngay trong một đời, phạm hạnh đã lập, không bị trói buộc bởi hậu hữu (thân sau). A Bệ Bạt Trí (A Tỳ Bạt Trí, Avaivartika) đã thành tựu công đức chân thật của ba thứ bất thoái, bao gồm Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, và chẳng thoái chuyển nơi pháp tắc. Chúng ta nói Bát Địa Bồ Tát trụ trong A Bệ Bạt Trí, đạt được chẳng thoái chuyển.

Giáo ngôn Tịnh Độ từ đầu tới cuối đều tuyên nói: Nương vào nguyện lực của Phật, nương vào pháp giáo rất sâu của Phật, hồi thí quả địa, cho đến khiến cho Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội được thành tựu như thế. Đó cũng là hạnh của bậc A Bệ Bạt Trí. Nói theo phía phàm phu, mong đạt được thánh đạo hạnh của A Bệ Bạt Trí, sẽ chẳng thể đạt được ngay trong một đời. Vì sao? Không chỉ là một đời, một mạng, mà nhiều đời, nhiều kiếp, mới hòng đạt được công đức chẳng thoái chuyển của A Bệ Bạt Trí. Muốn đạt được A Bệ Bạt Trí ngay trong một đời, trong đời này chỉ có cách nương theo Tịnh Độ, chỉ có nương theo giáo ngôn về quả địa là pháp Ban Châu có công đức chẳng thể nghĩ bàn như vậy thì mới có thể thành tựu. Đương nhiên, cũng có các giáo thuyết khác, tức là “thành tựu ngay trong một đời” cũng thường tuyên nói trong các giáo pháp khác thuộc quả địa [như Mật Tông chẳng hạn]. Giáo ngôn Tịnh Độ là giáo ngôn thuộc về quả địa; đó là điều chắc chắn, chẳng thể nghi ngờ! [Giáo ngôn Tịnh Độ] muốn khiến cho hết thảy chúng sanh đắc A Bệ Bạt Trí ngay trong một đời, hoặc có thể nói là thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề trong một đời. Vì sau khi đã có thể đạt được công đức và lợi ích to lớn do vãng sanh quốc độ Cực Lạc của A Di Đà Phật, [người đã vãng sanh] sẽ có thọ mạng vô lượng liên tục rộng khắp đến tận đời vị lai, cho nên sẽ trực tiếp thành tựu Bồ Đề. Từ Sơ Phát Tâm cho tới khi thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, chẳng vượt khỏi một đời. Đó là tướng đại công đức. Tâm lực của Bồ Tát sẽ chẳng thể thấu đạt công đức ấy, hết thảy hiền thánh chẳng thể do sức của chính mình mà biết nổi! Hết thảy Bồ Tát, hết thảy hiền thánh tụ tập cùng một chỗ, cùng nhau nghĩ bàn, phân tích cặn kẽ trí huệ chẳng thể nghĩ bàn ấy cũng đều chẳng thể bén mảng được!

(Kinh) Hiền Hộ! Thị trung nhất thiết ngu hoặc phàm phu, ư bỉ Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội, thường đương tư duy chư Phật Thế Tôn, bất đắc sanh trước.

()賢護是中一切愚惑凡夫於彼唸佛現前三昧常當思惟諸佛世尊不得生著。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Hết thảy phàm phu ngu hoặc trong ấy, đối với Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội, hãy thường nên tư duy chư Phật Thế Tôn, đừng sanh chấp trước).

Tư duy mà chẳng sanh chấp trước, lành thay! Lời này rất sâu, chẳng thể nghĩ bàn! Vì sao? Do chẳng thể nghĩ bàn, khiến cho chúng ta thường tư duy. Tư duy điều gì vậy? Tư duy về sự hồi thí, ân đức, diệu tướng, và lời dạy của đức Thế Tôn, nhưng chẳng đắm nhiễm. “Chẳng chấp trước” tức là chẳng chấp trước những thứ chúng sanh hay biết, những hành vi đã biết, sự được mất, cảm xúc, tức là chỗ bất khả đắc (chẳng thể đạt được) trong Tứ Niệm Xứ đã được nói trong phần trước: Không thấy hết thảy các pháp, không thấy hết thảy các Thọ, cho đến chẳng đắm nhiễm hết thảy thân, thọ, tâm, pháp v.v… Do đó, nói là “không thấy”. “Không thấy” có nghĩa là “chẳng nhiễm”. Vì thế, thường tư duy, thường quán mà chẳng nhiễm. Đây là một yêu cầu hành pháp, mà cũng là một pháp tắc đặc biệt trọng yếu.

Thường là chúng ta đối với một hành pháp, hễ tư duy bèn đắm nhiễm, bèn chấp trước. Vì thế, “thị trung, nhất thiết ngu hoặc phàm phu, ư bỉ Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội, thường đương tư duy Phật Thế Tôn, bất đắc sanh trước” (ở trong ấy, hết thảy phàm phu ngu hoặc đối với Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội, thường nên tư duy chư Phật Thế Tôn mà chẳng sanh chấp trước). Tức là phàm phu ngu hoặc vì ưa chấp trước, đó là “ngu hoặc”. Nếu chúng ta tư duy Niệm Phật tam-muội, tư duy cơ chế giáo ngôn của chư Phật Thế Tôn, tư duy về chư Phật Thế Tôn như thế mà chẳng sanh chấp trước. Đó là đã vượt khỏi phàm ngu, tức là đã vượt thoát sự chướng ngại trong tâm trí của phàm phu ngu hoặc.

Trưa hôm nay, khi mọi người học Cổ Văn, đã bàn đến vấn đề quản lý và quản chế. Phật pháp chẳng quản chế chúng ta, mà là khiến cho chúng ta an lạc. Sự giáo dục và sự điều dưỡng đúng đắn thì phải có thể khiến cho chúng ta an lạc nơi pháp, tâm trí điều phục, nhu thuận, chẳng cảm thấy bị ép bức, chẳng bị hạn chế, được an trụ trong công ước chung của cộng đồng. Đó là hình thức quản lý đúng lẽ, là quản lý có trí huệ, là một loại hình thức giao tiếp từ bi. Còn quản chế thì sao? Áp bức, dồn ép lẫn nhau, tổn hại và hạn chế lẫn nhau, khiến cho con người đau khổ. Đó chẳng phải là Phật pháp, nhưng trong nhân duyên hiện thời, phần đông là kẻ ham muốn quyền lợi, phần nhiều là kẻ chẳng biết pháp từ bi thiện xảo, phần nhiều đắm nhiễm. Do vậy, hạn chế lẫn nhau, [khiến cho] kẻ khác đau khổ, chẳng thể cảm nhận sự thủ hộ do trí huệ và từ bi của Phật pháp ban tặng.

Nếu đã gặp gỡ Phật pháp, mà còn sanh ra các nỗi đau khổ ấy, thì còn dính dáng gì đến Phật pháp nữa? Đó chính là trái nghịch chánh nhân xuất thế của Phật pháp. Chư Phật xuất thế nhằm dẹp khổ, ban vui, là trí huệ, từ bi, và thiện xảo. Hiện thời, trong việc quản lý người xuất gia và tại gia, trong cơ chế học Phật, có nhiều sự hạn chế, còn chuyện mọi người giao tiếp trong tình huống yêu mến, bảo vệ, tôn trọng, cũng như những người cùng nhau điều hợp một pháp tắc, thủ hộ đạo tràng, thủ hộ một nguyên tắc cộng đồng thì càng ngày càng thưa thớt! Trên cơ sở rất thưa thớt ấy, càng cần thiết chúng ta phải nên đứng ra, vận dụng hai pháp phương tiện bi và trí đối với hữu tình. Cũng có nghĩa là hiện thời, người tạo sự thuận tiện cho kẻ khác rất ít ỏi, mà người ước thúc kẻ khác rất nhiều.

Trong cơ chế như thế, chúng ta càng phải nên thật sự đứng ra vận dụng trí huệ, vận dụng từ bi để lợi ích rộng khắp hiện tiền hữu tình! Tôn trọng hiện tiền chính là tôn trọng tự tâm. Vì sao? Do tâm cảnh nhất như. Đối với cảnh giới hiện tiền của chính mình, chúng sanh hiển hiện trong cảnh giới hiện tiền cho đến hữu duyên biến hiện, nếu chẳng tôn trọng, sẽ là chẳng tôn trọng tự tâm, tức là từ trong pháp chẳng đối đãi mà nẩy sanh sự tổn hại do đối đãi. Quý vị sẽ gây nên mối hại vô cùng, đánh mất pháp ích thanh tịnh rộng lớn. Các vị thiện tri thức ơi! Phải khéo tư duy, khéo quan sát!

(Kinh) Hựu diệc tư duy chư Phật Thế Tôn thuyết như tư pháp, nhi diệc bất trước.

()又亦思惟諸佛世尊說如斯法而亦不著。

(Kinh: Lại cũng tư duy chư Phật Thế Tôn nói pháp như thế, nhưng cũng chẳng chấp trước).

Đức Thế Tôn lặp đi lặp lại lời nhắc nhở này, trước là nói về pháp tắc của giáo nghĩa, sau là nói về lợi ích của pháp tắc giáo nghĩa, nhằm dạy chúng ta tư duy, dạy chúng ta pháp tắc để giảng nói Ban Châu tam-muội đúng lý bằng các lời lẽ chánh đáng, cũng như lợi ích chân thật của môn Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội này. Ngài dùng lời lẽ chẳng khác lạ, lời lẽ chẳng thêu dệt, lời lẽ chẳng phải chỉ có chính mình hiểu nổi để đúng như thật truyền đạt giáo ngôn của đức Thế Tôn, nói giãi bày trọn vẹn, nói không che lấp, chẳng giấu giếm. Đó chính là điều chúng ta tu hành, mà cũng chính là chỗ tồn tại của công đức và lợi ích nơi chánh hạnh.

(Kinh) Hựu diệc tư duy: “Ngã thính văn pháp, nhất thiết sở vi giai bất đắc trước. Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Chư pháp giai không, bổn lai vô sanh cố.

()又亦思惟我聽聞法一切所爲皆不得著。何以故賢護諸法皆空本來無生故。

(Kinh: Cũng lại tư duy:Ta nghe pháp, đối với hết thảy các việc làm đều chớ nên chấp trước”. Vì sao? Này Hiền Hộ! Các pháp đều là Không, do vốn chẳng sanh).

Vốn vô sự! Thiên hạ vốn bình an, vốn chẳng nhuốm mảy trần. Do vậy, nếu khi có người khởi tâm, liền liễu giải ngôn từ và tâm trí của người ấy ở chỗ nào. Đó là sự quan sát thấy thấu suốt cảnh giới Nhất Thật. Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo thí giáo như thế, khiến cho thiện tri thức xét kỹ thế gian chẳng nhiễm, chẳng dính mắc, tức là xét quán kỹ cảnh giới Nhất Thật. Như trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo đã có nhắc nhở như thế, xem kỹ thế gian như thế nào, xem kỹ nhân quả như thế nào? Có Chiêm Sát Luân để chiêm sát ba nghiệp thân, khẩu, ý trong quá khứ, hiện tại, vị lai, cho đến nói Thập Thiện, Thập Ác, khiến cho người khác hiểu biết để chọn lựa nghiệp, xu hướng theo pháp, hoặc nói tới nguyên do v.v… Trong cảnh giới Nhất Thật là sự chọn lựa như thế, khởi tâm động niệm liền có thể biết rõ. Vì sao vậy? Do vốn vô sự, vốn chẳng nhuốm bụi, vốn chẳng có một pháp, vốn vô sanh. Chọn lựa như thế, các thiện tri thức sẽ đạt được đại thiện xảo, đại phương tiện. Vì vậy, trong thời hiện tiền, một khi sanh khởi, sẽ có thể biết rõ kết quả. Vì sao? Do hiện duyên sanh khởi, có duyên thì sẽ ắt có tiếp tục. Hễ có sự tiếp tục, ắt sẽ có kết quả, chẳng nhờ vào bất cứ phương tiện nào mà trực tiếp thấu suốt bổn hoài, trực tiếp thấu suốt cội nguồn, trực tiếp liễu giải tướng nhân quả.

(Kinh) Hiền Hộ! Chư pháp bất khả niệm, vô niệm xứ cố.

()賢護諸法不可念無念處故。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Các pháp chẳng thể niệm, do chẳng có niệm xứ).

Lành thay! Chúng ta tạo niệm, dù thiện niệm hay ác niệm, dù là niệm hay phi niệm, dù sanh niệm, diệt niệm, dù là thánh niệm, hay phàm niệm, trong các thứ niệm đều là sanh sanh diệt diệt, tiếp nối trong từng sát-na. Nếu là niệm trong “chư pháp bất niệm” (các pháp chẳng niệm), chánh niệm hiện tiền như thế, các pháp chẳng nhiễm, sẽ vận dụng các pháp để thành tựu sự yêu mến và thủ hộ. Vì sao? Hiện duyên sanh khởi chính là pháp tướng, niệm mà vô niệm, chính là cách niệm thanh tịnh, lợi ích rộng khắp hữu tình. Chúng ta thường muốn dùng niệm để xua đuổi niệm. Xua đuổi niệm sẽ thường có cảm giác nặng nề, có sự sanh diệt tiếp nối, có sự khích lệ sanh diệt. Do vậy, trôi giạt trong biển sanh tử, chẳng thể tự thoát ra được, vì sóng nghiệp ngập trời, hoặc chìm xuống, hoặc nổi lên, quý vị chẳng có sức tự tại. “Chư pháp bất khả niệm” (Các pháp chẳng thể niệm) là nói như thật, nói chân thật.

(Kinh) Hiền Hộ! Chư pháp viễn ly, tuyệt tâm tưởng cố. Hiền Hộ! Chư pháp bất khả chấp trì, Chân Như vô đắc cố.

()賢護諸法遠離絕心想故。賢護諸法不可執持真如無得故。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Các pháp xa lìa, do dứt bặt tâm tưởng. Này Hiền Hộ! Các pháp chẳng thể chấp trì, do chẳng đắc Chân Như).

Lành thay! Đức Thế Tôn dạy chúng ta trí huệ chân thật như thế, gột sạch trần cấu chẳng thể đạt được từ vô thỉ đến nay của chúng ta. Vì trần cấu chẳng thể đạt được chính là vọng nhiễm, chấp trước hư vọng, cho nên ngay lập tức gột rửa hết sạch! Nếu tùy thuận lời dạy, sẽ gột rửa cấu nhơ trong tâm. Nếu vẫn dùng tâm để tưởng, do những điều hay biết về sau, Phiền Não Chướng sẽ che lấp tự tâm, trần cấu lại bừng bừng dấy lên. Giáo ngôn rất sâu như thế được tuyên nói như thật trong kinh Ban Châu Tam Muội, mọi người có thể thân cận giáo ngôn thù thắng, khó được nghe như thế, quả thật là do phước đức chín muồi. Nếu nhất niệm tùy thuận, công đức của người ấy chẳng thể nghĩ bàn, thậm chí chư Phật chẳng thể tán thán cùng tận!

(Kinh) Hiền Hộ! Chư pháp vô nhiễm như hư không cố.

()賢護諸法無染如虛空故。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Các pháp chẳng nhiễm vì như hư không).

Các thiện tri thức ơi! Hãy khéo tùy văn nhập quán, thuận theo kinh văn để ấn tâm, thuận theo kinh văn để biết cái tâm, chẳng nhờ vào giải thích, chẳng nhờ vào tăng giảm, chỉ thẳng thừng ấn khế là được rồi! Vì chúng ta do tập quán hay biết, do thói quen tư duy, khiến cho chúng ta luôn bị trói buộc trong suy nghĩ và những điều chính mình đã biết, chẳng đạt được phương tiện tự tại rộng lớn. Nếu có thể như thật nương vào giáo ngôn thanh tịnh của đức Thế Tôn để ấn chứng tự tâm, tự tâm tất nhiên sẽ giống như tâm Phật, an trụ như thật.

(Kinh) Hiền Hộ! Chư pháp thanh tịnh, viễn ly chúng sanh cố. Hiền Hộ! Chư pháp vô trược, nhân duyên diệt cố.

()賢護諸法清淨遠離衆生故。賢護諸法無濁因緣滅故。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Các pháp thanh tịnh vì xa lìa chúng sanh. Này Hiền Hộ! Các pháp chẳng vẩn đục vì nhân duyên diệt).

Nói “các pháp do nhân duyên sanh, duyên diệt, pháp cũng diệt”, thật sự chẳng có một pháp để đạt được. Vì do duyên sanh thì sẽ theo duyên mà diệt. Các thứ nhân duyên quá khứ, hiện tại, vị lai sanh khởi từ một niệm trong hiện duyên; đấy chính là nhân duyên. Cái nhân duyên ấy rất thuận tiện, có thể thấy thấu suốt, có thể quan sát. Đối với nhân duyên trong quá khứ, nếu mê mờ trong ấy, đó chính là nghiệp tướng vô minh, chẳng thể hiểu rõ. Đối với các mong mỏi trong tương lai, nếu chẳng thể như thật, các mong mỏi trong tương lai cũng trở thành cơ duyên đọa lạc, chẳng có sức tự tại. Do vậy, “các pháp chẳng vẩn đục, vì nhân duyên diệt”, duyên khởi, duyên diệt, thật sự là huyễn sanh, huyễn diệt. Đó chính là hiện duyên khích lệ. Chúng sanh từ vô thỉ tới nay, nếu lúc một niệm nẩy sanh, dù là tiếp tục tịnh, hay tiếp tục nhiễm, sẽ sanh ra hai thứ thế gian tịnh và nhiễm. Do đó, có Tịnh Độ của chư Phật. Vì chư Phật thông đạt pháp tánh, đích thân chứng pháp tánh, Tịnh Độ của chư Phật hiện. Chúng sanh do mê mất tâm trí thanh tịnh vốn sẵn có, cho nên từ Năng và Sở mà kiến lập thiện và ác. Do vậy, ngũ trược ác thế và các thứ ác thế, các thứ trược nhiễm trong thế gian sẽ cùng lúc sanh khởi, liên tục kiến lập. Chúng ta hãy khéo quan sát, khéo tư duy.

(Kinh) Hiền Hộ! Chư pháp vô vi, Phú-già-la bất khả đắc cố.

()賢護諸法無爲富伽羅不可得故。        

(Kinh: Này Hiền Hộ! Các pháp vô vi, do Phú-già-la (Pudgala)[2] chẳng thể được).

Đối với tâm trí của hết thảy chúng sanh, chẳng thể chấp trước được!

(Kinh) Hiền Hộ! Chư pháp tức Niết Bàn tướng, bổn tánh thanh tịnh cố.

()賢護諸法即涅槃相本性清淨故。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Các pháp chính là tướng Niết Bàn, vì bổn tánh thanh tịnh).

“Chư pháp tức Niết Bàn tướng” (Các pháp chính là tướng Niết Bàn). Vì sao? Dựa theo bản chất để nói thì do bổn tánh thanh tịnh, cho nên các pháp tịch diệt, tức là tướng Niết Bàn. Thiện tri thức có “pháp nghĩa” như thế để ấn khế tự tâm của chúng ta. Tâm trí của chúng ta vốn chẳng tạo tác, chỉ khi nào ấn khế như thật, sẽ có thể thanh tịnh biết rõ giáo ngôn của chư Phật. Ngày hôm qua, tôi nhận được điện thoại của một vị Bồ Tát. Ông ta đại khái đã tiếp xúc Phật pháp từ mười năm trước. Về sau, sanh khởi ngờ vực đối với Phật pháp; sau đó, nhờ học Phật, niệm Phật, nay đã có đôi chút cảm nhận. Ông ta nói: “Đối với Nhất Thiết Trí, phải có tri kiến quyết định”. “Tri kiến quyết định” chính là “pháp chẳng có tự tánh”, quyết định tùy thuận, sanh lòng vui thích đối với pháp.

“Chư pháp tức Niết Bàn” (Các pháp chính là Niết Bàn), “phiền não tức Bồ Đề”. Đây thật sự là dùng Phật ấn để ấn chứng, khiến cho chúng ta trực tiếp ấn khế hết thảy các hiện duyên. Đối với hết thảy hiện duyên, chỉ dùng Phật ấn để ấn, đừng dùng vọng tưởng để ấn khế sự cảm nhận. Đó là nghiệp ấn! Nghiệp ấn của phàm phu chỉ là nghiệp tướng liên tục. Vì thế, dùng nghiệp để kế tục nghiệp, kết quả giống như nước lũ, khiến cho quý vị bị cuốn vào biển sanh tử, chẳng phải là biển trí và biển đại trí nguyện của chư Phật. Do vậy, có biển nghiệp của chúng sanh, mà cũng có biển nguyện của chư Phật. Một niệm sai lầm, sẽ là biển nghiệp. Biển nghiệp vô biên, vùi dập vô tận trong biển sanh tử. Một niệm khác đi, sẽ là biển Chánh Biến Tri của chư Phật, an trụ nơi vô nghi, lợi ích thế gian rộng lớn. Biển nghiệp và biển nguyện vốn là một biển. Vì thế nói: “Vốn chẳng có biển đại tịch diệt để đạt được!” Trong biển đại tịch diệt, sẽ trông thấy bổn tánh.

(Kinh) Hiền Hộ! Chư pháp vô sở hữu, nhất thiết vật bất khả đắc cố. Hiền Hộ! Thị cố, chư Bồ Tát đẳng nhược dục tư duy thử tam-muội giả, bất khả dị tướng nhi năng đắc nhập.

()賢護諸法無所有一切物不可得故。賢護是故諸菩薩等若欲思惟此三昧者不可異相而能得入。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Các pháp vô sở hữu, vì hết thảy các vật chẳng thể được. Này Hiền Hộ! Do đó, các vị Bồ Tát nếu muốn tư duy tam-muội này, chẳng thể do tướng khác mà có thể nhập được!)

Nếu nương vào điều thiện tạp loạn và tư duy vọng tưởng của chính mình mà muốn nhập môn tam-muội này, sẽ chẳng thể thấy, chẳng thể nhập, chẳng thể thành tựu. Do vậy, chư Phật Như Lai đã có lời dạy “chánh ngôn” đối với tam-muội này, khiến cho chúng ta  chánh  tư  duy, chánh khế nhập, chánh thiện xảo hòng ấn khế tự tâm.

(Kinh) Vô đắc tướng cố, đắc kiến chư Phật.

()無得相故得見諸佛。

(Kinh: Do chẳng đạt được tướng, cho nên được thấy chư Phật).

Lành thay! Hai câu nói này rất trọng yếu! Thường là chúng ta sẽ dùng hai thứ đối đãi ấy. Trong tâm trí đối đãi, sanh khởi pháp tắc đối đãi; nhưng trong tâm trí chẳng đối đãi, lập tức viên dung. Pháp tắc “chẳng đối đãi” viên dung như thế nào? Trong kinh Kim Cang, đức Thế Tôn đã dạy: “Kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai” (Thấy các tướng chẳng phải là tướng, liền thấy Như Lai); ở đây nói: “Vô đắc tướng cố, đắc kiến chư Phật” (Do chẳng đạt được tướng, cho nên được thấy chư Phật). Kinh khác nhau cùng nói giống nhau [về sự] lựa chọn chân thật. Đây là sự tuyên nói chân thật trong trí huệ chân thật. Đối với điều này, chúng ta thường sanh khởi sợ hãi; vì trong tâm trí đối đãi, sẽ nhất định sanh khởi cảm nhận đối đãi: Một là vô tướng, hai là thấy chư Phật. Chư Phật là vô tướng. Nếu quý vị dám lựa chọn, sẽ ngay lập tức đạt được đại lợi. Vì chúng ta bị câu thúc bởi các tướng, cho nên chẳng thấy tướng của chư Phật. Nếu chẳng bị câu thúc bởi các tướng, sẽ thấy diệu tướng thanh tịnh của chư Phật.

Chọn lựa như thế nào? Trọn chẳng thể nương vào tư duy của quý vị để hiểu. Cái được hiểu bởi tư duy chính là pháp đối đãi. Trong pháp đối đãi, sẽ rất khó khế nhập. Thiện tri thức ơi! Trong trí chẳng thể nghĩ bàn, muốn tư duy, suy nghĩ cưỡng chấp ý nghĩa, điều lợi ấy sẽ chẳng thể hiện tiền. Nếu một người đột phá chỗ này, tức là [đột phá] chỗ tri kiến đối đãi, người ấy sẽ đạt được nhân duyên thiện xảo. Hai người đột phá thì hai người đạt được. Ba người đột phá thì ba người đạt được. Nếu vô lượng chúng sanh đột phá, vô lượng chúng sanh sẽ đạt được. Nếu quý vị dùng tri kiến đối đãi mà muốn nghe giáo ngôn, như “vô đắc tướng cố, đắc kiến chư Phật” (do chẳng đạt được tướng, được thấy chư Phật); nếu trụ trong tâm trí đối đãi, sẽ vĩnh viễn chẳng thể nghe, dẫu nghe mà như chẳng nghe, chỉ là gieo chủng tử [vào tạng thức]! Khi lần sau lại được nghe, quý vị còn kêu: “Trời ạ! Câu này nói lần trước mâu thuẫn với lần sau!” Do vậy, trong tâm trí chẳng đối đãi, sẽ tự nhiên thuận theo, tùy văn nhập quán, đạt được pháp ích. Nhập quán gì vậy? Trí quán, quán chẳng đắm nhiễm đối đãi, quán thanh tịnh, quán chẳng động tâm niệm, tức là cái được gọi là “quán như thật, chẳng tăng giảm”.

Nhưng tâm trí phàm phu, từ vô thỉ đến nay, nương vào đối đãi mà kiến lập, nói tốt, nghe xấu, hoặc dựa vào xấu mà nói tốt, đều là an lập trong pháp đối đãi, lẩn quẩn trong hai loại Biên Kiến, rất khó dùng cái tâm viên dung, tâm chẳng đối đãi, tâm thanh tịnh, tâm ấn khế, tâm chẳng tăng giảm để như thật an trụ, tùy thuận pháp tắc. Do vậy, người y giáo phụng hành rất hiếm hoi. Tuy đức Thế Tôn khắp nơi dạy chúng ta “y giáo phụng hành”, nhưng chúng ta thường là “y giải phụng hành” (nương vào kiến giải của chính mình để phụng hành), nương theo sự suy nghĩ của chính mình, nương vào Phật pháp đã qua xử lý của chính mình để phụng hành. Vì thế, phần nhiều chẳng thể đạt được lợi ích chân thật, do chẳng thể tùy thuận Phật trí, chẳng thể vào trong biển Phật trí. Do nương vào hạn lượng mà chính mình vốn có, cho nên dùng hạn lượng để gò ép Phật pháp vào “khuôn khổ”. Phật pháp kiểu đó là Phật pháp do quý vị sửa đổi, là Phật pháp bị biến dạng, là Phật pháp do nương theo cái tâm tăng giảm của phàm phu, kết quả vẫn là tri kiến phàm phu. Do vậy, chẳng đạt được lợi ích nơi Phật pháp.

(Kinh) Chánh niệm chư Phật hòa hợp tương ứng, diệc đắc tư duy Trợ Bồ Đề Phần, niệm văn chánh pháp, tư lượng phân biệt, tuyển trạch Bồ Đề Phần, nhi bất kiến tự thân, diệc bất chứng chư pháp.

()正念諸佛和合相應亦得思惟助菩提分念聞正法思量分別選擇菩提分而不見自身亦不證諸法。

(Kinh: Chánh niệm chư Phật hòa hợp tương ứng, cũng tư duy Trợ Bồ Đề Phần, nghĩ tưởng, nghe chánh pháp, suy lường, phân biệt, chọn lựa Bồ Đề Phần, mà chẳng thấy tự thân, cũng chẳng chứng các pháp).

Đoạn văn tự này mười phần quan trọng! Chính là chuyển biến to lớn của tri kiến phàm hay thánh. Quý vị nhất định phải tự hỏi chính mình có chuyển biến ở chỗ này hay không? Quý vị có thể khám nghiệm tri kiến của chính mình là tri kiến thanh tịnh, tri kiến chẳng đối đãi, chánh tri, chánh kiến, hay là tri kiến ngu si, tri kiến điên đảo, tri kiến hư vọng, tri kiến đối đãi? Nếu là tri kiến thuộc loại sau, sẽ chẳng thể thành tựu Bồ Đề, vì quý vị cưỡng chấp. Nếu buông xuống, liền nhập Phật trí. Chúng ta có thể dùng đoạn văn tự này để phán đoán, ấn khả tự tâm, dù phàm hay thánh, dù trí hay ngu, có thể tự mình cân nhắc chỗ thuận theo và nương tựa trong tâm trí của chính mình.

Trong rất nhiều kinh điển, đức Thế Tôn đều nói như thế để khiến cho chúng sanh buông xuống tri kiến của chính mình, tùy thuận chánh giáo của Như Lai, khế nhập lợi ích của Phật pháp. Đó gọi là “hồi quán tự tâm, vô nhiễm, vô trước” (quay lại quán tự tâm, chẳng nhiễm, chẳng chấp trước). Các cơ chế giáo ngôn ấy thật sự không ngừng ấn khế chúng ta. Các vị thiện tri thức trong quá khứ khi có khai ngộ, có chứng ngộ, hoặc đối với pháp mà cho rằng có gì để đắc, sẽ đến chỗ thiện tri thức để gột sạch tâm cấu, để thiện tri thức ấn khế cho mình, chứng thực tri kiến của chính mình, cũng như [ấn chứng] pháp tắc do chính mình đã chứng thật sự tương ứng với lời dạy của Phật. Như Lục Tổ đại sư khi gặp tổ Hoằng Nhẫn, chân tâm Lục Tổ thường sanh hoan hỷ, trong hết thảy thiện duyên sanh khởi sự vô úy và yêu thích, tâm thường sanh quang minh chiếu sáng thế gian. Trong sự tối tăm của hết thảy hiện duyên, giống như đèn sáng trong cõi đời. Tuy là như thế, [Lục Tổ] vẫn cần pháp sư Hoằng Nhẫn dùng pháp nghĩa để ấn chứng, hứa khả, dùng kinh Kim Cang để ấn chứng, hứa khả, khiến cho Lục Tổ vô ngại rốt ráo. Cho nên Ngài đã diễn tả [bằng ba câu] “hà kỳ tự tánh, hà kỳ tự tánh, hà kỳ tự tánh” (nào ngờ tự tánh [vốn tự thanh tịnh], nào ngờ tự tánh [vốn chẳng sanh diệt], nào ngờ tự tánh [vốn tự trọn đủ]). Đoạn văn tự ở đây cũng là ngôn ngữ để ấn khế.

(Kinh) Sở dĩ giả hà? Hiền Hộ! Thị trung bất khả dĩ sắc tướng cố nhi đắc kiến Phật.          

()所以者何賢護是中不可以色相故而得見佛。

 (Kinh: Vì sao vậy? Này Hiền Hộ! Vì trong ấy, chẳng thể dùng sắc tướng để thấy Phật).         

Ở đây, đã tổng kết rõ ràng. Đó là giáo ngôn mười phần rõ rệt, giáo ngôn mười phần như thật, giáo ngôn mười phần chẳng thể nghĩ bàn, là giáo ngôn xa lìa đối đãi! Nếu quý vị nương vào tâm trí đối đãi, sẽ ngay lập tức đối đãi. Vì cớ sao? “Thị trung bất khả dĩ sắc tướng cố nhi đắc kiến Phật” (Trong ấy, chẳng thể dùng sắc tướng để thấy Phật): Quả thật đã ban cho chúng ta một pháp tắc tu hành và sự lựa chọn tu hành rất rõ rệt. Vậy thì quý vị có thể tu tập như thế hay không? Nhiều người đã lý giải chỗ này. Hễ lý giải [suông mà không tu tập] thì chẳng thể đạt được lợi ích. Chỉ có người tu tập sẽ tất nhiên ấn khế tự tâm!

Dùng giáo ngôn “không tăng giảm” để ấn khế tự tâm rất thuận tiện, như chúng ta dùng một cái ấn to để đóng dấu. Quý vị chẳng cần phải lý giải, cứ đóng dấu là được rồi! Chúng ta thấy một tay [trong ngàn cánh tay] của Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát cầm một cái ấn, ấn gì vậy? Chính là một chữ chủng tử (Bīja)[3] biểu thị Quán Thế Âm, biểu thị A Di Đà Phật, biểu thị ấn khế của mười phương chư Phật. Hễ áp [cái ấn ấy] xuống, liền thành lập. Vì thế, trong kinh điển Đại Thừa, khắp nơi có cách nói như thế này: “Cửu hành nhi bất chứng, phóng quang tức Bồ Đề” (Hành đã lâu ngày mà chẳng chứng, phóng quang chính là Bồ Đề). Cũng có nghĩa là: Một niệm tương ứng liền được khế nhập, liền được thành tựu, chẳng phải nhọc nhằn thực hiện! Chọn lựa ở chỗ này mười phần khó khăn! Khó ở chỗ nào? Khó buông xuống chấp trước hư vọng, khó buông xuống Ngã Chấp, khó buông xuống nhiễm tâm, khó buông xuống phân biệt đối đãi. Dẫu chỉ buông xuống trong sát-na, vẫn chẳng muốn buông bỏ! Vì sao? Sẽ sanh lòng hoảng sợ. Chúng ta có thể khéo quan sát tâm linh của chính mình. Có người nói: “Ta nghe pháp một niệm hoan hỷ”, vì sao? Khi đó chẳng đắm nhiễm, chẳng chấp trước, chẳng có chỗ đối đãi, có thể vui sướng vì thật sự ấn khế trong nháy mắt. Nếu có thể tiếp tục duy trì, sẽ liên tục thủ hộ sự thành tựu. Nếu chẳng thể liên tục, chỉ là tiếp xúc một phen, vẫn chưa thật sự ấn khế tự tâm. Vì nếu có thể ấn khế tự tâm, tất nhiên chẳng nghi!

(Kinh) Bất khả dĩ thanh tướng cố, nhi đắc văn pháp.

()不可以聲相故而得聞法。

(Kinh: Chẳng thể dùng thanh tướng để được nghe pháp).

Nay chúng ta trao đổi Phật pháp, thật sự nhờ vào nhĩ căn, nhãn căn, và thân tiếp xúc của mọi người để kích phát tâm trí vốn sẵn có nơi mỗi người, tức là tâm trí “chẳng đến, chẳng đi” nhằm thuần thục tướng công đức và công đức tạng ấy. Thật sự chẳng có pháp nào để đạt được, chẳng có pháp nào để gặp, chẳng có pháp nào để có thể thành, đúng như thật mà biết tự tâm!

(Kinh) Bất khả dĩ hy vọng tâm thành tựu Đàn Ba La Mật.

()不可以希望心成就檀波羅蜜

(Kinh: Chẳng thể dùng cái tâm hy vọng để thành tựu Đàn Ba La Mật).

“Đàn” (Dāna) là bố thí, có pháp bố thí, tài bố thí, và vô úy bố thí. Nếu hy vọng được đền đáp, do Đàn Ba La Mật là “chẳng dùng gì để thành tựu”, cho đến Lục Ba La Mật, tức Trì Giới, Tinh Tấn… cho đến Thập Ba La Mật, nếu có tâm cầu được đền đáp, sẽ khó thể đạt được lợi ích thanh tịnh trong Phật pháp, khó thể đạt tới bờ kia. Vì sao? Một khi đức Thế Tôn thuyết pháp, sẽ là tam luân thể không, chẳng có chỗ nào đắm nhiễm! Do vậy, bố thí mà chẳng có vật để bố thí, chẳng có đối tượng tiếp nhận sự bố thí, mà cũng chẳng có người hành bố thí, [đó là “tam luân thể không”], là Đàn Ba La Mật. Đối với pháp bố thí, cũng giống như thế. Nếu quý vị cho rằng chính mình có ơn với người khác, đó là tà kiến! Vì sao? Do muốn tìm kiếm nhân duyên càng lớn hơn nữa! Người như vậy chẳng đạt được lợi ích từ Phật pháp. Vì thế, trong Phật pháp, Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, cho đến các loại trí huệ Ba La Mật, đều lấy “chẳng đắm nhiễm, chẳng chấp trước” làm phương tiện cội gốc!

Hiện thời, trong tự viện, đạo tràng của chúng ta, hành pháp cũng thế, làm mọi việc cũng thế, duy trì đạo tràng cũng thế, xuất gia hay tại gia cũng thế, nếu có cái tâm đắm nhiễm, tâm mong được đền đáp, kẻ ấy sẽ chẳng đạt được lợi ích nơi Phật pháp. Vì sao? Giống như đã nói trong phần trước: Giống hệt như quý vị buôn bán. Bất quá, quý vị là một gã lái buôn trong Phật pháp, bán chác Như Lai, vụng trộm rỉa ráy từng chút một, vẫn chẳng thể chân chánh, đúng như thật thủ hộ và truyền thừa gia nghiệp của Như Lai. Vì thế, “bất khả dĩ hy vọng tâm thành tựu Đàn Ba La Mật” (chẳng thể dùng cái tâm hy vọng để thành tựu Đàn Ba La Mật). Lúc chúng ta ban cho người khác pháp, tài vật, hoặc vô úy, tuyệt đối chẳng thể dùng cái tâm hư vọng, tức là cái tâm “mong được đền đáp” để hành trì. Nếu dùng cái tâm như thế, sẽ chẳng phải là người tu tập Phật pháp, cho nên chẳng thể thành tựu Đàn Ba La Mật, tức Bố Thí Ba La Mật. Hết thảy các thứ khác cũng giống như thế, nêu lên một sẽ suy ra ba, chúng ta có thể dùng cách loại suy (analogy)[4] để xem xét kỹ lưỡng rộng khắp!

Hiện thời, có kẻ tạo chút thiện căn, chẳng hạn như vì tự viện làm một tí việc, sẽ tính toán: “Ta đã làm bao nhiêu chuyện cho Phật pháp, phải ban cho ta chút gì chớ? Ta sẽ đạt được gì?” Kẻ như thế phải nên thật sự học Phật pháp, chớ nên kinh doanh Phật pháp! Có lắm kẻ đầu cơ bán chác Phật pháp, có kẻ biết, có kẻ chẳng biết. Kẻ biết tức là cố ý làm, sẽ là kẻ bại hoại, hủy diệt Phật pháp. Kẻ không biết là do ngu si cho nên chẳng biết, ngỡ Phật pháp cũng là buôn bán, khiến cho Phật pháp đọa vào thế tục. Rất nhiều kẻ thật sự lợi dụng kẽ hở trong Phật pháp, lợi dụng Phật pháp để bán chác Như Lai, mong đổi lấy các quả báo hư giả cho bản thân, nhưng trên thực tế là chẳng tương ứng, đâm ra, chẳng đạt được gì! Vì thế, đức Thế Tôn nói: “Nếu ai có thể trì giới, sẽ có thể đạt được ba thứ lợi”. Hoặc như trong giới Bồ Tát có nói: “Nếu ai có thể trì giới, sẽ đạt được năm loại lợi”. Năm loại lợi ấy chẳng cầu mà đạt được, nhưng người đời xấu ác mà cầu, tham cầu cho nhiều, thậm chí liều mạng cầu, vắt óc tìm mưu kế, nghĩ hết mọi biện pháp, sử dụng trọn mọi mánh khóe, để rồi sau đó hứng chịu toàn là quả báo của mánh khóe, quả báo vì đã vắt óc tìm mưu kế, oan uổng hứng chịu khổ báo. Bởi lẽ, những gì đã tạo tác đều sanh khởi khổ duyên, chẳng phải là lợi ích thật sự tồn tại. Chư vị thiện tri thức ơi! Chúng ta hãy khéo tư duy, khéo quan sát!

(Kinh) Bất khả dĩ nhạo trước chư hữu cụ túc Thi Ba La Mật.

()不可以樂著諸有具足屍波羅蜜。

(Kinh: Chẳng thể yêu đắm các thứ đang có mà mong trọn đủ Trì Giới Ba La Mật).

Nếu quý vị chấp trước “ta có các pháp tắc chi đó”, “ta có giới và giới đức gì đó”, như thế thì sẽ chẳng đạt được Thi Ba La Mật (Thi Ba La Mật, Trì Giới Ba La Mật, Sīla Pāramitā). Nếu có thiện tri thức khéo đọc tụng, thì sẽ đạt được sự an ủi từ Đại Trí Độ Luận, vì trong ấy, Long Thọ Bồ Tát đối với thời Mạt Pháp, đối với giới pháp, đã phân tích sâu sắc, nhất là đối với Thi Ba La Mật. Chúng ta hãy khéo tư duy, khéo quan   sát.

Hiện thời, rất nhiều hữu tình nói: “Chờ ta phát tâm thanh tịnh, viên mãn rồi sẽ làm chuyện chi đó”. Thật ra là chẳng liễu giải tự tâm, chẳng liễu giải pháp thật ra chẳng có viên và bất viên, chỉ nên như thật liễu giải tự tâm. Tự tâm chưa viên, sự tướng sẽ chẳng viên. Nếu thấu triệt tự tâm thanh tịnh, hết thảy vốn viên! Trước kia, khi chùa Phóng Quang sắp kiến thiết, tôi nói với mọi người: “Đây là một đạo tràng Bổn Giác, vốn trọn đủ, chẳng cần phải tạo tác. Tất cả tạo tác đều là ý thức bị nhiễm về sau, là pháp sanh diệt, là pháp đối đãi, chẳng phải do đạo tràng Bổn Giác an lập”. Vì thế, chùa Phóng Quang đã được kiến thiết hoàn thành từ lâu, nay chúng ta chỉ là người sử dụng. Người nào sử dụng? Người thành tựu đạo nghiệp sử dụng! Ai tới thành tựu đạo nghiệp thì là người sử dụng đạo tràng này, kiến thiết đạo tràng này. Do trong quá trình kiến thiết ấy, đạo tràng này đã là một đạo tràng vốn trọn đủ. Nói “đạo tràng vốn trọn đủ” tức là vốn sẵn có, vốn an lập, vốn đã thành tựu. Do trong đạo tràng, chuyện làm nhiều hay làm ít đều có, nhưng tính toán hết sức nhiều! Có người dựng một gian nhà cũng tính, có người mua hai khối gỗ hay đá cũng tính, có người đảnh lễ ba mươi vạn lễ, mười vạn lễ, mua mấy quyển kinh cũng đều có thể tính. Tính toán gì vậy? Ta đã vì Phật pháp làm các chuyện nhiều ngần ấy, ta có thể đạt được những gì? Loại người ấy rất đáng thẹn, rất đáng thương, nhưng nhân duyên ấy lại là sự biểu hiện rất chân thật phàm tình của phàm phu. Do vậy, tôi không ngừng đề cập “đây là một đạo tràng Bổn Giác, là một đạo tràng vốn đã kiến tạo hoàn thành”. Những người kiến thiết về sau đều là hưởng thụ phước đức chín muồi từ công đức vốn sẵn có ấy. Đạo tràng này chẳng cần chúng ta xây dựng. Vì sao? Tất cả các sự kiến thiết của chúng ta đều vì duy trì Phật pháp, duy trì thành tựu, duy trì một cơ chế chân thật mà thôi, là phước đức chín muồi mà thôi, chỉ là như thế đó thôi!

“Chư hữu trọn đủ” là một thứ tâm tham lam của hữu tình trong thế gian. Người như thế chẳng thể trì giới. Kinh thường nói: “Ta phải viên mãn pháp thế gian, mà cũng phải viên mãn pháp xuất thế gian”. Như thế thì có lẽ chúng ta chẳng thể thành tựu trong một đời được, cần phải nhiều đời nhiều kiếp mới dần dần thành tựu. Vì nhìn từ tướng nhân quả của thế tục thì sẽ là như thế. Nếu chúng ta muốn thành tựu pháp tắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề ngay trong một đời, chớ nên giữ ý tưởng như thế. Nếu là có thể giữ, quý vị sẽ chẳng thể thành tựu được!

(Kinh) Bất khả dĩ xan lận bí pháp, nhi đắc Niết Bàn. Bất khả dĩ thâm trụ Phú Già La tưởng, nhi hoạch đa văn.

()不可以慳吝祕法而得涅槃。不可以深住富伽羅想而獲多聞。

(Kinh: Chẳng thể do keo tiếc pháp bí mật mà đắc Niết Bàn. Chẳng thể do trụ sâu nơi ý tưởng Phú Già La mà đạt được đa văn).

Dùng tâm dục của chúng sanh để mong đạt được đa văn, sẽ là chuyện chẳng thể được!

(Kinh) Bất khả dĩ phan duyên chư hạnh, nhi năng viễn ly chư sự.

()不可以攀緣諸行而能遠離諸事。

(Kinh: Chẳng thể do nắm níu các hạnh mà có thể xa lìa các sự).

Đối với chuyện này, từ các pháp đối đãi, chúng ta có thể quan sát thấy.

(Kinh) Bất khả dĩ nhạo trước trụ xứ, nhi đắc chứng quả.

()不可以樂著住處而得證果。

(Kinh: Chẳng thể do yêu chấp chỗ ở mà được chứng quả).

Trong Tứ Hướng và Tứ Quả nơi pháp Thanh Văn, Tứ Quả chẳng có sở chứng, chẳng có gì để đắc. Bồ Tát từ Tín vị, Hiền vị, Trụ vị, Hạnh vị, cho đến các địa vị Hồi Hướng, cho đến Sơ Địa, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác, cũng chẳng chấp trước. Nếu có chấp trước, sẽ chẳng phải là quả vị.

Trong hữu tình thế gian, có kẻ nói: “Ta đã chứng quả”. Tôi nói [với người ấy]: “Quý vị hãy tìm Phật ấn chứng”. Chứng quả gì vậy? Vẫn là tự mình đạt được. Trong pháp “chẳng có gì để đạt được”, há có gì để chứng quả? Người ấy tâm đắm nhiễm, nhiễm ở chỗ nào? Ngỡ là có sở đắc! Vì thế, người ấy sẽ bắt giữ một thứ gì đó. Nếu lầm lạc hứa khả cho kẻ đó, kẻ đó sẽ gây nguy hại cho thế gian. Có người nói: “Tôi đối với chỗ nào đó có ngộ xứ”. Ngộ xứ có thể coi là giải ngộ, chứng ngộ, có thể nương theo kinh điển, hoặc nương theo pháp tắc để ấn khế, nhưng nếu nói chính mình chứng quả, điều này mười phần nguy hiểm! Hiện thời, cái tâm chứng quả (tức tự nghĩ là mình đã chứng quả chi đó) rất nhiều; có người cho rằng chính mình đã dự vào địa vị Bồ Tát chi đó. Tôi nói: “Quý vị chẳng cần nói chính mình là Bồ Tát, chẳng cần nói chính mình đã đăng địa! Quý vị chẳng biết chư vị Bồ Tát có thiện xảo to cỡ nào. Nếu hay biết, căn bản là quý vị sẽ chẳng ăn nói quàng xiên!” Vì Đăng Địa Bồ Tát có vô lượng tam-muội thiện xảo cùng lúc hiện tiền, vô lượng tam-muội thiện xảo tự nhiên trọn đủ, vô lượng tam-muội thiện xảo tự nhiên vận dụng, vô lượng thần thông do đạt được hết thảy sức tự tại. Như Long Thọ Bồ Tát vừa mới nhập Hoan Hỷ Địa, liền tự đắc lực nơi trăm ngàn tam-muội. Khi thuyết pháp cho người khác, Ngài thường nhập Nguyệt Quang tam-muội, [người nghe] chỉ thấy ánh trăng thanh tịnh chiếu rọi, chẳng thấy thân Ngài. Chẳng phải là hễ quý vị nói chứng quả bèn chứng quả! Phải nên mười phần hiểu rõ chỗ này!

(Kinh) Bất khả dĩ tùy thuận tham ái, ly chư quá phi. Bất khả dĩ thường nhạo đấu tránh, thành tựu chư Nhẫn.

()不可以隨順貪愛離諸過非。不可以常樂鬥諍成就諸忍。

(Kinh: Chẳng thể tùy thuận tham ái để lìa các lỗi sai. Chẳng thể do thường thích tranh đấu mà thành tựu các Nhẫn).

Trong Lục Độ, công đức của pháp Nhẫn Nhục thâm nhập, rộng rãi hơn so với Bố Thí và Trì Giới, vì sao? Do thường chẳng tranh đấu, do hòa hợp với thế gian, do lợi ích hữu tình. Ở đây, tâm trí lợi ích dễ dàng hiện tiền. Có người bố thí mà cũng có thể đấu tranh, chẳng hạn như có tâm mong được đền đáp, có tâm mong thành tựu mà bố thí. Người như vậy sẽ nẩy sanh tâm kiêu mạn, khiến cho các hữu tình mà kẻ ấy tiếp xúc cảm thấy hèn hạ, khiến cho trong tâm họ sanh ra áp lực, chẳng thoải mái. Có người trì giới mà cũng có thể đấu tranh, khiến cho kẻ được gọi là “phạm giới” sanh khởi lòng sợ hãi, thương tổn. Người thật sự trì giới sẽ khiến cho kẻ chẳng trì giới hoặc kẻ chẳng biết giới đạt được an vui. Vì sao? Do giữ lấy, hướng theo giới đức thì sẽ được an lạc. Nếu quý vị trì giới thì sẽ an lạc, điều phục, nhu thuận, sẽ là chẳng đắm nhiễm, tức là dùng Thi La Ba La Mật để đạt được hai pháp bi và trí. Như vậy thì kẻ chẳng trì giới và kẻ phạm giới sẽ hướng đến giới pháp, chẳng sanh lòng sợ hãi đối với giới pháp. Rất nhiều người trì giới khiến cho kẻ khác sanh khởi sợ hãi. Như thế thì chẳng phải là Thi La Ba La Mật, chẳng thể thành tựu Thi La Ba La Mật thiện xảo. Do vậy, hễ thường đấu tranh, sẽ chẳng thể thành tựu Nhẫn Ba La Mật.

Trong các đối pháp ở đây, chúng ta có thể quán chiếu tâm trí của chính mình mười phần rõ ràng. Hiện thời, có người nói chính mình có bản lãnh to nhiều, nhưng thường thích tranh đấu, chẳng có gì vẫn bới ra chuyện để tranh chấp, vô duyên cớ bới ra chuyện. Tôi cảm thấy mọi người phải nên ngăn trở hạng người ấy, hoặc là xa lìa sự tướng, hoặc là khuyến hóa hạng người đó đừng ham sanh sự, vì ham thích sanh sự là khổ nạn. Đối với kẻ ham thích sanh sự, mọi người phải tận lực giúp đỡ kẻ đó, tập thể giúp đỡ, tập thể quan tâm, yêu mến kẻ đó. Khi kẻ đó sanh sự, lập tức dẹp yên, đừng để cho các chuyện ấy lan truyền, vì truyền bá các chuyện ấy sẽ rất khổ; nhất là khi truyền bá càng nhiều, càng mạnh mẽ, sẽ thương tổn cả mình lẫn người. Vì thế, “vốn vô sự” chính là sự an trụ thanh tịnh trong Phật pháp. “Vốn nhàn” là sự an trụ chân thật trong Phật pháp. Như vậy thì mới có thể lợi ích rộng khắp hữu tình, hiệp trợ đạo tràng, thành tựu đạo nghiệp. Nếu trong tâm tưng bừng nhốn nháo, náo nhiệt, chẳng có chuyện gì cứ bới ra chuyện. Hễ có chuyện bèn làm lớn chuyện, khiến cho mọi người bất an. Đối với người như thế, mọi người hãy nên tôn trọng, yêu mến, che chở, giúp đỡ kẻ đó, bất luận là ai. Vì chuyện như thế nếu quá nhiều, mọi người sẽ chịu chẳng nổi!

Đối với bậc trí, có thể ngay lập tức xử lý thị phi. Vì sao? Do tâm trí của bậc trí vô nhiễm. Đối với chuyện đúng hay sai, chúng ta dựa theo sự tướng để xử lý là được rồi. Xử lý như thế nào? Chúng ta khiến cho hữu sự trở thành vô sự là được rồi, chẳng còn so đo chuyện ấy, chớ nên tranh chấp chuyện ấy! Chẳng tranh chấp, nhưng cần phải điều chỉnh. Có người biện giải nói chính mình chẳng có chuyện ấy. Đó là do chẳng tự xét mình, chẳng sanh khởi tâm thương xót chúng sanh. Đối với chúng sanh gây chuyện, chúng ta đều phải nên thương xót. Ai gây chuyện, mọi người đều nên thương xót kẻ đó. Do kẻ đó ngu si, điên đảo, do tâm trí tối tăm, mê muội. Tối thiểu là kẻ đó chẳng từ bi đối với chính mình, chẳng từ bi đối với người khác. Vậy thì mọi người chúng ta đều phải nên từ bi đối với kẻ như thế, thương xót kẻ như thế, thông cảm với kẻ như thế, ban cho kẻ đó một không gian rộng lớn, bảo kẻ đó thật sự là chẳng có chuyện gì. Cái tâm [khoan dung] ấy sẽ khiến cho sự nóng nảy, bực bội của mọi người sẽ lắng xuống; nhưng nếu quý vị tranh biện với kẻ đó, sẽ đúng là chẳng có trí, mà cũng chẳng có bi. Như thế sẽ khiến cho một cuộc tranh cãi mới nổ ra! Vì thế, nếu đã có chuyện, mọi người lập tức xử lý, chẳng cần biện bác! Hễ cần điều chỉnh liền điều chỉnh. Điều chỉnh như thế nào? Để cho người có chuyện sẽ nêu ra, chúng ta sẽ điều chỉnh. Quý vị chẳng cần biện bác, bào chữa chính mình chẳng có chuyện ấy. Nếu biện bác, sẽ sanh ra đấu tranh, như thế thì mọi người cư xử với nhau sẽ mười phần gian nan. Vì thế, người trí chẳng biện bác. Do người trí vô nhiễm, cho nên chẳng dây dưa ở chỗ này.

Vẫn hy vọng mọi người thật sự thành tựu đạo nghiệp, chẳng phải là thành tựu “ai lớn, ai nhỏ, ai đúng, ai sai, ai mạnh, ai yếu”. [Tranh biện] kiểu đó vô ích, chẳng phải là Phật pháp. Do vậy, khi có đấu tranh thị phi, mọi người hãy cùng nhau yêu thương, che chở kẻ gây thị phi, mỗi người tạo cho kẻ ấy đôi chút cảm giác không thị phi là được rồi. Kẻ đó có thị phi, quý vị chẳng có thị phi là được rồi. Quý vị chẳng chấp trước vào đó, chuyện sẽ qua! Nếu thật sự cần phải giải quyết, vậy thì giải quyết là xong. Chúng ta học Phật, nhất định phải khéo quan sát, khéo nhận biết, khéo thành tựu!

(Kinh) Bất khả dĩ thường hành ác nghiệp, nhi đắc thiện quả.

()不可以常行惡業而得善果。

(Kinh: Chẳng thể do thường tạo ác nghiệp mà đạt được thiện quả).

Kẻ chuộng thị phi là kẻ hành ác nghiệp, vì nhiều thị phi thì sẽ bị xâm hại nhiều. Nếu tâm trí thanh nhàn, xa lìa thiện ác, sẽ là tướng giải thoát. Nếu tưởng thường làm việc thiện pháp, thì là lạc tướng. Nếu thường từ bi lợi ích rộng khắp hữu tình, dẹp khổ, ban vui, tức là tướng từ bi. Nếu chẳng nhiễm, chẳng chấp trước, thì là tướng trí huệ. Chúng ta dùng tướng gì vậy? Nếu chuộng đấu tranh, khiến cho người khác sợ hãi, khiến cho tâm người khác bất an, đấy thật sự là tướng ngu si, tướng ác nghiệp. Kẻ đó sắp bị rơi xuống giếng, mọi người hãy cấp tốc chìa tay giúp đỡ. Hãy nên giúp đỡ người như thế, chớ nên tranh luận với họ!

(Kinh) Bất khả dĩ Thanh Văn thừa nhân, nhi chứng Bồ Tát Niệm Phật tam-muội.

()不可以聲聞乘人而證菩薩念佛三昧

(Kinh: Người thuộc Thanh Văn Thừa chẳng thể chứng Bồ Tát Niệm Phật tam-muội).

Hữu tình thuộc Thanh Văn Thừa chẳng thể thấy pháp tánh và Phật tánh, chỉ tùy thuận tịch diệt, chẳng hiểu rõ Phật tánh. Nếu thấu đạt Phật tánh, sẽ tiến nhập tâm trí rộng lớn của giáo ngôn Đại Thừa. Đó là sự sai biệt thuộc về cơ chế ngôn giáo.

(Kinh) Diệc bất khả đắc chư Bồ Tát nhẫn.

()亦不可得諸菩薩忍。

(Kinh: Cũng chẳng thể đắc các môn nhẫn của Bồ Tát).

Nếu chúng ta vẫn chìm đắm trong thị phi, vẫn tranh chấp thiện ác, sẽ lìa khỏi Phật pháp quá ư là xa! Do vậy, chúng ta chớ nên đưa Phật pháp lên cao chót vót rồi chẳng dùng đến. Nếu như vậy, rất đáng tiếc. Chúng ta phải vận dụng Phật pháp vào tâm trí, sanh mạng, và nghiệp duyên của chính mình. Nghiệp phiền não đưa đến, vừa khéo vận dụng Phật pháp. Hữu tình gặp phải khổ não đưa đến, vừa khéo vận dụng Phật pháp. Có kẻ nói chuyện thị phi, vừa khéo vận dụng Phật pháp, chẳng nhiễm, chẳng chấp trước. Nếu đối phương cưỡng chấp, ắt thương xót hồi thí, hãy nên dẹp trừ, cứu vớt sự khổ ấy, khiến cho kẻ đó an vui. Kẻ nói thị phi quá khổ, kẻ tạo thị phi càng khổ hơn. Kẻ cưỡng chấp thị phi, truyền đạt thị phi, chính là bị Khổ Khổ bức bách! Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta thấy rõ mà cũng cảm nhận rõ rệt chuyện này. Khi mọi người cộng trụ (cùng ở chung một chỗ), nếu ai nấy đều tiêu trừ thị phi, ai nấy đều tiêu trừ đắm nhiễm, mọi người đều là đạo hữu. Nếu ai nấy tranh nhau nói thị phi, nói thiện, nói ác, mày, tao, người nọ, kẻ khác, như thế thì chắc chắn sẽ xảy ra vấn đề. Vấn đề gì vậy? [Chỗ cộng trụ của] mọi người chẳng phải là đạo tràng, mà là đấu tranh tràng, xa lìa Phật pháp, chẳng mảy may liên quan đến Phật pháp. Chúng ta tiêu diệt Phật pháp, hay kiến lập lợi ích của Phật pháp? Hãy khéo tư duy, khéo quan sát chỗ này.

“Bồ Tát nhẫn” là lúc nghịch hại bèn lợi ích rộng khắp hữu tình. Chúng ta đọc câu chuyện của vua Ca Lợi, trong lúc tu nhân, đức Thế Tôn đã bị vua Ca Lợi cắt đứt chân tay. Đức Thế Tôn bảo nhà vua: “Sau khi ta chứng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, sẽ độ ngươi đầu tiên”. Đó chính là chư Phật, Bồ Tát hành nhẫn vậy!

(Kinh) Diệc bất khả dĩ tật đố thủ trước, nhi đắc Không tam-muội.

()亦不可以嫉妒取著而得空三昧。

(Kinh: Cũng chẳng thể do ghen ghét, chấp trước mà đắc Không tam-muội được).

Tức là giải thoát tam-muội của ba môn tam-muội Không, Vô Tướng, Vô Nguyện. Hoặc dùng Không tam-muội, hoặc dùng Vô Tướng tam-muội, hoặc dùng Vô Nguyện tam-muội mà đạt được ba môn giải thoát. Nói “giải thoát” tức là công đức chân thật, chẳng đắm nhiễm, chẳng chấp trước, chẳng vướng mắc. Có thể hành tam-muội như thế hay không? Thường tư duy, chánh quan sát, thuận theo pháp tánh để quan sát, sẽ đạt được sức tam-muội ấy!

(Kinh) Diệc bất khả dĩ hành ái dục, nhi nhập Xa-ma-tha.

()亦不可以行愛慾而入奢摩他。

(Kinh: Cũng chẳng thể do hành ái dục mà nhập Chỉ).

Tức là chẳng thể thành tựu Chỉ Quán, trong cách nói của Đại Thừa bèn tuyên nói như thế. Nói “ái dục” tức là tri kiến, tri kiến điên đảo của chúng sanh, sanh khởi từ tâm trí thiếu sót, là sự đắm nhiễm kéo dài. “Chỉ” là Chỉ trong “chỉ ác dương thiện” (止惡揚善, dứt điều ác, tuyên dương điều thiện), tự nhiên thành tựu Tỳ-bà-xá-na chẳng thể nghĩ bàn, tức pháp tắc thuộc về trí huệ hạnh và trí huệ quán. Do Chỉ Quán mà có thể nhập trí quán, khiến cho mọi người sanh chánh kiến, chánh niệm, đạt được tâm trí trí huệ.

(Kinh) Diệc bất khả dĩ giải đãi, lãn nọa, chứng chư thánh đạo.

()亦不可以懈怠懶惰證諸聖道。

(Kinh: Cũng chẳng thể dùng giải đãi, lười nhác để chứng các thánh đạo).

Đây là lời dạy mười phần đơn giản, rõ ràng. Từ lời dạy đối với pháp này, chúng ta có thể khéo ấn khế tự tâm, trọn chẳng thể dùng tri kiến tự đại, tự phụ để ấn khế tự tâm. Đó là chẳng tương ứng.

(Kinh) Nãi chí  bất  khả  dĩ  bất  xả  dị  niệm  chư  vật, nhi  năng thành tựu tư duy dã.

()乃至不可以不捨異念諸物而能成就思惟也。

(Kinh: Cho đến chẳng thể do không xả ý niệm khác về các vật mà có thể thành tựu tư duy được).

Sự tư duy này là chánh tư duy. Nếu chẳng tùy thuận tri kiến của Như Lai để chánh tư duy, tri kiến mà chúng ta nương vào đều là tư duy bất chánh! Nếu là tư duy bất chánh, sẽ tạo thành cái gọi là “tà kiến vọng tưởng”. Nếu chánh tư duy, chánh ngữ tất nhiên hiện tiền, chánh nghiệp và chánh mạng tất nhiên thành tựu. Do sanh ra chánh niệm, sẽ có chánh định và chánh trí. Vì thế, tự nhiên thông suốt Bát Chánh Đạo, một mực thủ hộ.

(Kinh) Hiền Hộ! Thị cố, ngã kim dĩ thử tam-muội, phó chúc thế gian chư thiên vương bối, thọ trì, thủ hộ, diệc phó ư nhữ, đương lai tuyên bố, vật linh đoạn tuyệt.

()賢護是故我今以此三昧付囑世間諸天王輩受持守護亦付於汝當來宣佈勿令斷絕。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Vì thế, ta nay đem tam-muội này phó chúc cho các vị thiên vương trong thế gian thọ trì, thủ hộ, cũng giao phó cho ông tuyên diễn, lưu truyền trong tương lai, đừng để đoạn tuyệt).

Ở đây, đức Thế Tôn căn dặn các vị thiên vương. Đối với đạo tràng Ban Châu này, rất nhiều vị có Thiền Định thường quán nơi này, yêu mến, bảo vệ nơi này. Mọi người tự giác hoặc không tự giác từ các nơi trên toàn quốc gạt bỏ mọi việc, buông xuống thân tình để đến đạo tràng này, cũng phần nhiều là được các vị thiên thần, long thiên hộ pháp, thiện tri thức gia trì, mới có sức đến đây. Nếu chỉ dựa vào nghiệp duyên của chính mình, chắc là người tìm đến rất thưa thớt! Đây là nói như thật. Nếu quý vị cho rằng [nói như vậy] là khoa trương, thì đó là khoa trương. Nếu chẳng cho đó là khoa trương, tức là quý vị có thiện căn.

Đức Thế Tôn căn dặn các vị thiên vương, vì so với các hữu tình trong thế tục, so với các loại phàm phu hữu tình, thiên vương vẫn có oai đức hơn. Chư thiên hộ pháp muốn ảnh hưởng đến huyễn mộng của nhân loại, cho đến tạo nghiệp hết sức thiện xảo, đối với họ, [thực hiện các điều đó] rất đơn giản. Vì thế, trong quá khứ có Lục Niệm, tức “niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Huệ, niệm Tử, niệm Thiên”. Người tại gia đều niệm phước đức của chư thiên, vì sao? Vì loại thiên chúng ấy phần nhiều được bậc Thập Địa Bồ Tát thủ hộ, ứng hóa trong thế gian, chư Phật phần nhiều giao phó [việc hộ pháp] cho họ.

“Chúc lụy” (囑累) chính là căn dặn, truyền đạt, giao phó quý vị: Quý vị phải thủ hộ khiến cho pháp tắc này tiếp tục tồn tại. Ở đây, đức Thế Tôn là căn dặn Hiền Hộ Bồ Tát truyền đạt pháp tắc này, khiến cho nó được tồn tại lâu dài. Hiền Hộ Bồ Tát là vị đứng đầu truyền đạt giáo ngôn này trong năm trăm vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cũng như là Thượng Thủ của mười sáu vị Chánh Sĩ, tám vị Đại Sĩ. Vì thế, đức Phật căn dặn vị này (Hiền Hộ Bồ Tát), thay vì căn dặn năm trăm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di hoằng truyền pháp này, mà cũng là căn dặn tám vị Đại Sĩ, mà cũng là căn dặn mười sáu vị Chánh Sĩ. Hơn nữa, đức Thế Tôn minh xác căn dặn các vị thiên vương, họ cũng là người đại diện. Đức Thế Tôn dùng chư thiên để đại diện thiên long bát bộ, cho đến hàng nhân phi nhân, khiến cho họ thủ hộ rộng lớn.

(Kinh) Ư thị, Thế Tôn thuyết tư pháp thời, hữu bát na-do-tha Dục Sắc Giới chư thiên tử, giai phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm.

()於是世尊說斯法時有八那由他欲色界諸天子皆發阿耨多羅三藐三菩提心。

(Kinh: Ngay lúc đó, khi đức Thế Tôn nói pháp ấy, có tám na-do-tha các vị thiên tử trong Dục Giới và Sắc Giới đều phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm).

Đối tượng để tuyên nói trong kinh Đại Tập là hai cõi Dục Giới và Sắc Giới, chẳng tuyên nói trong Vô Sắc Giới.

Đại Tập bao gồm hai ý:

– Một là chỉ hữu tình trong hai cõi Sắc Giới và Dục Giới, tuyên nói trong hàng trời, người.

– Một ý nghĩa khác là nói đến chuyện mọi người tu tập nghe pháp, như đã trần thuật trong Tự Phần của kinh này: Chư thiên, các vị thánh nhân, các tỳ-kheo, các vị trưởng giả, con của các vị trưởng giả, quốc vương, chủng tánh Bà La Môn, chủng tánh Sát-đế-lợi, nhân phi nhân v.v… Các loại chúng sanh tập hợp tại Trúc Lâm Tinh Xá, nghe đức Thế Tôn tuyên nói giáo ngôn rất sâu này, dự vào chỗ tụ tập to lớn này.

Hai ý nghĩa của Đại Tập được nêu rõ ở đây!

(Kinh) Phục hữu vô lượng bách thiên nhân, diệc phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm. Nhiên nhi tư bối, giai ư vị lai quá Hằng sa kiếp, tận đắc thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, giai đồng nhất hiệu, danh Chánh Giải Thoát Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, trụ thế giáo hóa, thọ mạng diệc đẳng.

()復有無量百千人亦發阿耨多羅三藐三菩提心。然而斯輩皆於未來過恆沙劫盡得成就阿耨多羅三藐三菩提皆同一號名正解脫如來應供等正覺住世教化壽命亦等。

 (Kinh: Lại có vô lượng trăm ngàn người cũng phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Nhưng những người ấy, trong vị lai, qua khỏi Hằng sa kiếp, trọn hết đều được thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đều có cùng một hiệu là Chánh Giải Thoát Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, trụ thế, giáo hóa, thọ mạng cũng như nhau).

Giống như trong kinh Vô Lượng Thọ đã thọ ký danh hiệu Diệu Âm Như Lai. Người niệm Phật, người tu trì pháp tắc rộng lớn này, luôn cùng một ngàn vị Phật chẳng hề trở ngại lẫn nhau, ai nấy đều thành Phật, lợi ích hữu tình rộng khắp. Sự giáo hóa và lợi ích của các Ngài thật sự là như thế, giống như huấn luyện tập thể, chẳng ảnh hưởng tới chuyện quý vị thành Phật. Nếu quý vị nói: “Mọi người đều đã thành Phật, tôi chẳng thành Phật”, đó là nghiệp ngu si, tâm ngu si, hạnh điên đảo. Dẫu cho vô lượng chúng sanh thành Phật, ta vẫn thành Phật. Vì sao? Vì đấy là pháp tắc bản chất, chẳng phải là nghiệp duyên hư vọng.

(Kinh) Hiền Hộ! Dĩ tư sơ phát Bồ Đề tâm cố.

()賢護以斯初發菩提心故。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Do những người ấy mới phát Bồ Đề tâm).

“Tư sơ phát Bồ Đề tâm” (Những người đó mới phát Bồ Đề tâm). Vì sao? Vì gặp pháp này và giáo ngôn này. Nay chúng ta cũng gặp đức Thế Tôn nói pháp như thế, giáo ngôn như thế, chúng ta có phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề hay không? Phần văn tự sau đó đúng là đã khích lệ chúng ta cũng phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm, cũng tức là cái tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, xa lìa siểm khúc, xa lìa tri kiến đối đãi tự tha, xa lìa thương tổn. Người học Phật nhất định chớ nên thương tổn chính mình. Nói “gạt bỏ tự ngã” chẳng phải là tự hại. Nếu cưỡng chấp tự ngã, cho là có ngã, nhất định sẽ tự tàn hại chính mình, hoặc bị hại vì thiện pháp, hoặc do vì [chấp trước] nặng nề mà bị hại, hoặc bị ác pháp hại, các thứ nguy hại đều gây nguy hại cho chính mình.

Chư vị thiện tri thức hãy khéo học Phật pháp, xa lìa cái gọi là “tổn hại tự ngã”, tức cưỡng chấp tự ngã. Hai gánh nặng của chúng ta, một là gánh nặng trân bảo, tức là quý vị tự cho rằng chính mình luôn đúng. Thứ kia là gánh nặng rác rưởi, tức quý vị cho rằng người khác đều sai be bét. Hai gánh nặng ấy sẽ đè chết người. Xưa kia, người Hoa có nói: “Thôi phiên liễu tam tòa đại sơn” (Xô đổ kềnh ba quả núi lớn). Trên thực tế, nay thân chúng ta bị đè bởi hai quả núi:

– Một là những thứ trân bảo do chính mình thâu thập, chẳng hạn trân bảo “ngỡ chính mình là đúng”, trân bảo chánh kiến, trân bảo “ngỡ là có sở đắc”, chẳng phải là những thứ tốt đẹp, quý vị tuyệt đối chẳng thâu thập. Các thứ trân bảo ấy là một quả núi to, ở bên vai trái của quý vị.

– Thứ kia là những điều xấu xa của kẻ khác: Người khác ác, người khác đúng, người khác sai, không ngừng thâu gom. Sau đấy, đúng là hai vai mỗi bên đều nặng trĩu, chẳng biết nó sẽ đè sụm chính mình hay không? Quý vị gồng gánh lâu ngày, khi sụm xuống sẽ khổ lắm!

Tác phẩm Phù Bản Truyện (蜉蝂傳) của Liễu Tông Nguyên[5] nhằm khen ngợi, ca tụng loại người ấy, nhưng người như thế ở quanh ta quá nhiều, chính là “hễ gặp vật gì bèn còng lưng cõng”. Gặp thứ gì cũng đều tự mình bắt lấy, để làm gì? Vác nặng mà đi, trọn chẳng vứt bỏ, bị đè sụm mới thôi! Sau đó trèo lên cao, để làm gì? Ngã chết mới thôi! Người học Phật kiểu đó đúng là đáng thương. Vì thế, “người ấy mang tiếng là danh nhân, thật ra là tiểu trùng mà thôi!” Mọi người hãy đọc [tác phẩm ấy], hãy nên tự răn nhắc chính mình. Nếu chúng ta nay thật sự do nhân duyên này mà phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm, sẽ xa lìa hết thảy các chuyện trái lương tâm, tức là chuyện nguy hại cho tự ngã, bỏ lìa Ngã Chấp, tức tình kiến của chúng sanh, cũng chính là “Phú-già-la kiến” đã nói trong phần trước. Cái chúng sanh kiến này chính là vấn đề đầu tiên phải giải quyết trong Phật pháp, nhưng đối với khá nhiều hữu tình chẳng có tri kiến chánh đáng, đó là chướng ngại đầu tiên: “Chỉ có ta đúng, kẻ khác sai bét”, chẳng có lời thứ hai nào! Tất cả hành pháp đều vây quanh hai chữ “đúng, sai”, một đằng là ta, đằng kia là kẻ khác. Ta đúng, kẻ khác sai. Hai thứ đối ứng ấy chẳng hề lìa bỏ, quá nặng nề! Tôi cảm thấy mọi người hãy nên che chở người như vậy, mạnh mẽ che chở. Vì sao? Người như vậy quá khổ, tạo nghiệp vô lượng, chẳng thể tu tập Phật pháp, lại còn chẳng thể phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm, đáng tiếc! Ở đây, kinh văn cổ vũ chúng ta phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm.

(Kinh) Thượng đắc như thị vô lượng công đức, cụ túc thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Huống phục ngã tích hành Bồ Đề thời, cúng dường ngã giả, bỉ ninh bất tốc thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề dã!

()尚得如是無量功德具足成就阿耨多羅三藐三菩提。況復我昔行菩提時供養我者彼寧不速成就阿耨多羅三藐三菩提也

(Kinh: Còn đạt được vô lượng công đức như thế, thành tựu đầy đủ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Huống hồ những người trong khi ta hành Bồ Đề xưa kia, đã từng cúng dường ta, há họ chẳng nhanh chóng thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề ư!)

Nếu trong quá khứ có thiện căn, gặp được giáo ngôn như vậy, chỉ là Sơ Phát Tâm Bồ Đề mà có thể đạt được cái quả như thế. Huống hồ những người đã từng cúng dường đức Thế Tôn khi Ngài ứng thế? Do thiện căn rộng lớn ấy, quyết định xa lìa khổ nạn, xa lìa điên đảo, xa lìa tự hại và hại người khác, phát tâm Bồ Đề thanh tịnh, chính là tâm Bồ Đề vô nhiễm, Thắng Nghĩa Đế Bồ Đề tâm, chẳng tạo tác Bồ Đề tâm. Nếu là tạo tác Bồ Đề tâm, sẽ thệ nguyện lợi ích hữu tình rộng lớn, chẳng nhiễm, chẳng chấp trước. Đó là lập thệ nguyện rộng lớn trong tạo tác Bồ Đề tâm phần, đại thệ nguyện gì vậy? “Chúng sanh độ hết, mới thành Phật đạo. Chúng sanh vãng sanh, ta thành Bồ Đề”. Đấy là thật sự lấy Phật nguyện làm nguyện của chính mình, phát thệ nguyện rộng lớn, yêu mến thế gian. Nếu nương theo nguyện như vậy, chúng ta có phiền não gì? Có thị phi gì? Có thống khổ gì? Có gì chẳng thể chịu đựng? Quý vị có thể khéo quan sát, khéo tư duy.

[1] Chứng lượng ở đây phải hiểu là trình độ, mức độ chứng ngộ của một cá nhân.

[2] Phú-già-la (Pudgala, Pudgalāstikāya) còn được phiên âm là Bổ Đặc Già La, Phúc Già La, Phất Già La, hay Phổ La. Đôi khi còn dịch nghĩa là Số Thủ Thú, Hữu Tình, Chúng Sanh, hoặc Ngã, có ý nghĩa chánh yếu là “chủ thể xoay chuyển luân hồi trong lục đạo”, tức là cái Ngã đang bị vọng chấp, vô minh ràng buộc. Bộ phái Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ cho rằng Phú Già La chỉ là giả danh của Ngũ Ấm, chẳng có thực chất (Học phái Trung Quán kế thừa tư tưởng này). Độc Tử Bộ thì chủ trương Phú Già La là một cái Uẩn “phi tức, phi ly”, chẳng thể nói là Ngã, nhưng nó mang theo các nghiệp từ đời trước đi luân hồi. Nó là chủ thể có tánh chất luân hồi, có ký ức, và là chủ thể của sáu thức.

[3] Chủng tử (Bīja, seed syllable) của A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát đều là chữ Hrī (ह्री) thường được dịch là Tâm. Trong Mật Tông, khi quán chủng tử của chữ này thì dùng văn tự Tất Đàm (Siddhaṃ). Thông thường, để quán Bổn Tôn, hành giả quán tự tâm có một tòa sen, trên đó, có mặt trời và mặt trăng xếp chồng lên nhau. Trên hai vầng nhật nguyệt ấy, xuất hiện chữ chủng tử. Chữ Hrī của Quán Thế Âm Bồ Tát là màu trắng, chữ Hrī của A Di Đà Phật là màu đỏ. Chữ ấy sẽ dần dần biến thành hình tượng Bổn Tôn trong pháp hành giả đang tu. Chẳng hạn như khi quán chú Lục Tự Đại Minh thì quán chiếu chữ Hrī phóng quang minh sáu màu, mỗi màu chiếu vào một đường tương ứng trong lục đạo (chẳng hạn màu trắng ứng với thiên đạo, màu xanh ứng với A Tu La đạo…). Sau đó, chủng tử biến thành Quán Thế Âm Bồ Tát bốn tay, thân có màu trắng, ngồi xếp bằng trên tòa sen, vai khoác da nai, mặc quần ngũ sắc, thiên y trắng có các dải lụa vờn quanh. Hai tay Ngài chắp trước ngực ôm châu Như Ý Ma Ni, hai tay kia giơ ngang vai, một tay cầm hoa sen, tay kia cầm tràng hạt, từ trong tâm Bổn Tôn lại hiện ra chủng tử, lưu xuất vô tận bổn tôn Quán Thế Âm Bồ Tát có hình dạng giống hệt như thế, trùng trùng vô tận… Mỗi hóa thân ấy lại ngự trên đỉnh đầu của mỗi chúng sanh, cảm hóa họ thấm đẫm trong tâm từ bi. Bản thân hành giả cũng trở thành Quán Thế Âm phóng quang cứu độ chúng sanh y hệt. Sau đó lại lần lượt quán các Bổn Tôn lưu xuất ấy hồi nhập vị Bổn Tôn chính. Vị Bổn Tôn chính lại trở thành chủng tử, chủng tử tan biến vào vầng nhật nguyệt nơi hoa sen trong tâm. Cuối cùng toàn thể biến thành không, rỗng rang chẳng còn gì.

[4] “Suy luận loại suy” là dựa trên hai sự vật giống nhau để suy ra các đặc tánh tương tự. Chẳng hạn như Trái Đất là hành tinh có khí quyển bao bọc, có chứa nước. Hỏa Tinh (Mars) cũng có khí quyển, và cũng là hành tinh. Suy ra, Hỏa Tinh cũng có thể có nước.

[5] Liễu Tông Nguyên (773-819), tự là Tử Hậu, là một văn học gia, tư tưởng gia thời Đường. Ông quê Hà Đông, tỉnh Sơn Tây, làm quan đến chức Giám Sát Ngự Sử đời Đường. Do tích cực tham dự cuộc cách tân do Vương Thúc Văn đề xướng dưới đời Đường Thuận Tông (bãi bỏ quy chế cho phép thái giám can dự triều chánh, trừ bỏ các phe đảng thái giám trong triều đình, bỏ chế độ tiến cống, bãi bỏ nữ nhạc v.v…) Cuộc cách tân thất bại, ông bị biếm làm Tư Mã Vĩnh Châu (Hồ Nam), rồi bổ làm Thứ Sử Liễu Châu (nay thuộc Quảng Tây) và mất tại đó. Ông để lại tác phẩm Liễu Hà Đông Tập (45 quyển) và Cổ Kim Thi (gồm 140 bài). Thơ của ông được khen ngợi là tình cảm chân thành, thi pháp điêu luyện, có nhiều bài phê phán hiện thực xã hội thối nát thời bấy giờ. Ông được coi là người có ảnh hưởng mạnh nhất đến sáng tác văn xuôi của Trung Hoa.