Đại Phương Đẳng Đại Tập
Hiền Hộ Kinh giảng ký
大方等大集賢護經講記
慈法法師主講
Chủ giảng: Pháp sư Từ Pháp
Địa điểm: Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang
(Kinh) Bỉ chư công đức bất khả số, đa kiếp tuyên thuyết mạc năng cùng. Ư Bồ Đề trung vô tăng giảm, thường niệm hộ trì thị kinh pháp.
(經)彼諸功德不可數,多劫宣說莫能窮。於菩提中無增減,常念護持是經法。
(Kinh: Các công đức ấy chẳng thể đếm, nhiều kiếp tuyên nói chẳng tận cùng. Trong Bồ Đề chẳng hề tăng giảm, thường nghĩ hộ trì kinh pháp này).
Đức Thế Tôn cũng khó nghĩ bàn công đức và lợi ích của pháp này, cho nên “đa kiếp tuyên thuyết mạc năng cùng” (nhiều kiếp tuyên nói chẳng thể cùng tận).
(Kinh) A Nan! Nhược nhân hộ thử kinh, thư tả, độc tụng, cập ức niệm. Nhữ ưng quyết định hưng ái kính, chung bất ly thị ngũ bách trung.
(經)阿難若人護此經,書寫讀誦及憶念。汝應決定興愛敬,終不離是五百中。
(Kinh: A Nan! Nếu người hộ kinh này, biên chép, đọc tụng và nghĩ nhớ. Ông nên quyết định yêu kính họ, trọn chẳng lìa năm trăm người ấy).
Thiện tri thức ơi! Lời thọ ký này là sự gia trì tăng thượng và cổ vũ hết sức có ý nghĩa. Thật sự là ấn khế sự thành tựu. Trong năm trăm vị hiền giả, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di ấy, vị nào là bậc thiện xảo? Dù nhận biết hay không nhận biết, quý vị đều phải nên khéo thủ hộ pháp tắc.
(Kinh) A Nan! Nhược nhân trì thử kinh, tự đương cần tâm cầu kiên cố. Tịnh trì cấm giới, xả thụy miên, quyết định đắc tư diệu tam-muội. Ngã Tỳ Ni xứ thuyết Mộc Xoa, chư tỳ-kheo học cư Lan Nhã. Nhược năng Đầu Đà bất xả ly, đắc thử tam-muội định vô nghi.
(經)阿難若人持此經,自當勤心求堅固。淨持禁戒舍睡眠,決定得斯妙三昧。我毘尼處說木叉,諸比丘學居蘭若。若能頭陀不捨離,得此三昧定無疑。
(Kinh: A Nan! Nếu ai trì kinh này, hãy nên tâm siêng cầu kiên cố. Giữ giới thanh tịnh, bỏ ngủ nghê, chắc chắn đắc tam-muội mầu nhiệm. Trong Luật Tạng nói đến Mộc Xoa, các tỳ-kheo học, trụ Lan Nhã. Nếu chẳng xả lìa hạnh Đầu Đà, quyết đắc tam-muội này chẳng nghi).
Mộc Xoa tức là Ba La Đề Mộc Xoa, dịch sang tiếng Hán là Các Cá Bảo Giải Thoát Giới (các giới bảo đảm sự giải thoát). Lan Nhã tức là chỗ A Lan Nhã, tâm trí tịch tĩnh, bỏ các ồn náo. Đầu Đà: Mười hai hạnh Đầu Đà, chẳng hề thọ thỉnh (tức chẳng nhận lời thỉnh cúng dường riêng), mặc y phấn tảo, ăn một bữa, một chiếc áo do các mảnh vải vụn chằm lại, tu một mình dưới tàng cây v.v… Nếu ai có thể thường thủ hộ [hạnh ấy], nhất định sẽ có thể thành tựu tam-muội này.
(Kinh) Nhất thiết biệt thỉnh tận năng xả, phàm thị mỹ vị giai đoạn trừ.
(經)一切別請盡能舍,凡是美味皆斷除。
(Kinh: Hết thảy biệt thỉnh đều xả hết, phàm là vị ngon đều đoạn trừ).
Tham cầu sắc, vị, tham chuộng lợi dưỡng, sẽ khó thể thành tựu pháp này.
(Kinh) Sư sở thường khởi chư Phật tâm, thùy vân bất chứng tư tam-muội?
(經)師所常起諸佛心,誰云不證斯三昧?
(Kinh: Tâm thường tưởng thầy như chư Phật, lẽ đâu chẳng chứng tam-muội này?)
Nếu đối với thầy, thường nói là trong pháp tắc giáo thọ tam-
muội, tưởng thầy như Phật, cái tâm ấy sẽ viên mãn. Viên mãn là vì có khởi đầu viên mãn; cho nên chứng đắc tam-muội chẳng xa. Trong thời đại này, đối với kinh điển, đối với thầy dạy mà khởi lên ý tưởng đúng như pháp, sẽ khá khó khăn! Vì hữu tình trong đời Mạt Pháp có nhiều nghiệp tập, có lắm tâm nghiệp chẳng viên mãn, cho nên tưởng thầy giống như Phật rất khó! Làm như thế nào? Y pháp, bất y nhân, chẳng đánh mất thiện xảo. Nhưng nếu quý vị nói: “Ta chẳng quan tâm chuyện này, ta biết sư trưởng là phương tiện hư giả lập ra. Nếu cái tâm viên mãn, ta sẽ coi thầy giống như Phật”. Đó là quý vị thiện xảo, đạt được lợi ích ấy, chẳng phải do duyên nào khác, mà là do tâm duyên sanh ra. Coi đó là sự thật, ắt sẽ thành tựu tam-muội này.
(Kinh) Tham, khuể, si hoạn tiên giác tri, ngã mạn, tật đố hàm viễn ly.
(經)貪恚癡患先覺知,我慢嫉妒咸遠離。
(Kinh: Tham, giận, si hoạn nhận biết trước, ngã mạn, ghen tỵ đều xa lìa).
Đây là một nhân tố cơ bản nhất, hoặc có thể nói là pháp tắc thuộc về nền tảng hòng thành tựu pháp tắc này.
(Kinh) Tình vô cấu trước niệm vô vi, độc tụng, tư duy thắng tam-muội.
(經)情無垢著念無爲,讀誦思惟勝三昧。
(Kinh: Tình chẳng chấp cấu, niệm vô vi. Đọc tụng, tư duy thắng tam-muội).
Khi chúng ta đọc tụng kinh điển này, sẽ thấy phần nhiều là nhắc nhở chúng ta: “Đây là tư duy tam-muội”.
(Kinh) Thanh tịnh ý xứ vô khả nhiễm, điều phục chư căn, tức oán hiềm. Nhất tâm chuyên niệm Như Lai thân, độc tụng, thọ trì diệu tam-muội. Nhược hữu Bồ Tát tại cư gia, tâm thường kiên trụ xuất gia sự. Thọ trì, độc tụng khẩu nghiệp thành, tâm thường niệm học thử tam-muội.
(經)清淨意處無可染,調伏諸根息怨嫌。一心專念如來身,讀誦受持妙三昧。若有菩薩在居家,心常堅住出家事。受持讀誦口業成,心常念學此三昧。
(Kinh: Tâm ý thanh tịnh chẳng thể nhiễm, điều phục các căn, dứt oán hiềm. Nhất tâm chuyên niệm thân Như Lai, đọc tụng, thọ trì diệu tam-muội. Nếu có Bồ Tát sống tại gia, tâm thường trụ chắc chuyện xuất gia. Khẩu nghiệp chuyên đọc tụng, thọ trì, tâm thường niệm học tam-muội này).
“Tâm thường kiên trụ xuất gia sự” (Tâm thường trụ vững nơi chuyện xuất gia): Tuy đang ở tại gia, nhưng thường nghĩ xuất gia, thường nghĩ tới y bát. Đấy là người tu hành tại gia có đủ thiện duyên và phước đức tăng thượng. Đức Thế Tôn đối với các vị đại Bồ Tát, tức tại gia Bồ Tát, đã dạy nhiều lượt như vậy, tán thán sự chân thật của công đức xuất gia. Trong đời Mạt Pháp này, tuy rất nhiều người xuất gia có vị đúng pháp, có kẻ chẳng đúng pháp, hoặc là có các thứ tướng trạng đáng nghi, nhưng vẫn chẳng thể ô nhiễm, nhuốm bẩn lợi ích và pháp tắc căn bản của xuất gia. Chớ nên vì nghiệp duyên của con người, vì nghiệp tập, chướng duyên, cộng nghiệp của thời đại mà ngăn chướng công đức xuất gia trong Phật pháp. Chớ nên vì hoàn cảnh con người, hoàn cảnh của thời đại mà soi mói Tam Bảo. Nếu ai vì một vị Tăng có những chỗ chẳng đúng pháp mà phỉ báng Tam Bảo, phỉ báng Tăng pháp, kẻ đó là người ngu muội. Nếu do đôi ba người hoặc nhiều người mà phỉ báng, cũng giống như thế. Cho đến do nhân duyên một đoàn thể, nhiều đoàn thể, hoặc do Tăng nhân trong một thời đại có lắm lầm lỗi mà ngờ vực, phỉ báng công đức xuất gia của Tam Bảo thì cũng giống như thế. Vì cớ sao? Công đức xuất gia chẳng do một kẻ nào mà có, mà là do công đức của người thật sự hành hạnh xuất gia thủ hộ và thành tựu. Đối với chuyện này, các vị thiện tri thức nhất định phải khéo quan sát, đừng vì sai trái nơi hành vi của kẻ khác mà che lấp tâm duyên của chính mình, chướng ngại pháp tắc và lợi ích của chính mình. Thường nghe nói có người chửi bới Tăng pháp, Tăng nhân, chớ nên như thế! Nghiệp tạo tác và hành vi của con người trong mỗi thời đại hoàn bị hay không là do cộng nghiệp của thời đại ấy biểu hiện, chẳng phải do người xuất gia ấy muốn làm, mong làm, thực hiện. Vì thế, chớ nên chửi bới người xuất gia. Xuất gia chỉ là tướng mạo bề ngoài! Nếu quý vị tưởng người xuất gia như thấy Phật, quý vị sẽ thấy Phật. Nếu quý vị hễ thấy [người xuất gia] bèn sanh ý tưởng thị phi, chỗ nào cũng thấy lỗi lầm, tức là quý vị mang tâm tưởng lầm lỗi, sẽ mắc quả báo lầm lỗi, vướng duyên lầm lỗi. Các vị thiện tri thức ơi! Pháp do chúng ta duyên theo sẽ trở thành chủng tử, quả báo trong vị lai tất nhiên sẽ chín muồi. Do vậy, người thật sự tu hành chẳng thấy lỗi của thế gian. Vì sao ở đây [đức Phật dạy]: Ở bất cứ nơi nào, đều phải nghĩ đến pháp xuất gia? Vì công đức xuất gia chẳng phải bất cứ ai cũng có thể chiếm hữu, chẳng phải là người hiện tướng xuất gia hay tại gia có thể chiếm hữu. Chỉ có người hành pháp tắc xuất gia, ngưỡng mộ xuất gia thì mới đạt được lợi ích, đạt được thiện xảo. Do vậy, người hành pháp tại gia thường nghĩ xuất gia, kiên cố cái tâm, “thọ trì, đọc tụng, thành tựu khẩu nghiệp, tâm thường mong học tam-muội này”. Đó là yêu cầu đối với người tại gia.
(Kinh) Hằng ưng tu trì ngũ chủng giới, diệc thường sổ thọ Bát Giới Trai. Thường trụ tự miếu, xả tư sanh, độc tụng, tư duy thử tam-muội.
(經)恆應修持五種戒,亦常數受八戒齋。常住寺廟舍資生,讀誦思惟此三昧。
(Kinh: Luôn nên tu trì năm loại giới, cũng thường xuyên thọ Bát Giới Trai. Thường ở chùa miếu, xả của cải, đọc tụng, tư duy tam-muội này).
“Năm loại giới” là chẳng giết, chẳng trộm, chẳng nói dối, chẳng dâm, và chẳng uống rượu, thanh tịnh thủ hộ như thế. “Thọ tám giới”: Thông thường chúng ta đề xướng người tại gia ở trong chùa miếu thọ trì Bát Quan Trai Giới, hoặc là phi gia bát giới. Do đó, có thể làm chuyện của người xuất gia, khiến cho chúng ta chẳng đánh mất cái duyên thù thắng trong chùa, chẳng mất cơ hội thù thắng nơi tự viện, chẳng đánh mất công đức được đại chúng huân tu. Như thế thì chúng ta chẳng đánh mất cơ hội của chính mình, chẳng rối loạn nhân duyên của chính mình, có thể thật sự khởi tác dụng của việc trụ trong tự viện, tác dụng của cộng tu, xa lìa cái hại tại gia, công đức chẳng thể nghĩ bàn, cho tới trong một thế giới Diêm Phù Đề, nhiều thế giới, các hữu tình trong trọn khắp mỗi thế giới đều trì ngũ giới, chẳng bằng công đức thù thắng, công đức chẳng thể sánh bằng của một người thanh tịnh vâng giữ Bát Quan Trai Giới. Vì thế, các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta là người xuất gia, đương nhiên phải thủ hộ pháp tắc xuất gia, thật sự hãy nên tôn trọng hiện duyên của chính mình. Còn người tại gia đến chùa miếu xin thọ trì, thủ hộ Bát Quan Trai Giới, quả thật là thiện căn của quý vị chẳng thể nghĩ bàn! Nếu kẻ tại gia chúng ta muốn thọ Bát Giới, muốn thủ hộ sẽ rất khó. Vì lẽ nào? Do tạp duyên hừng hực, do nhiều người quấy nhiễu, do bị ngoại duyên chế ngự, gây khó. Chúng ta thủ hộ tám giới ở trong tự viện rất dễ. Mọi người trọn đủ cái duyên thù thắng như vậy, ai nấy hãy nên quý trọng!
“Thường trụ tự miếu, xả tư sanh” (Thường ở trong chùa miếu, bỏ của cải), tức là chẳng tham cầu thế gian, thường yêu thích đạo tràng, yêu thích hành pháp, yêu thích duy trì pháp tắc Phật pháp, thích huân tập.
(Kinh) Bất đương đam trước chúng phụ thiếp, vật ái nhi nữ cập trân tài. Trụ ưu-bà-tắc hành tu tàm, đản đương ức trì thử tam-muội.
(經)不當耽著衆婦妾,勿愛兒女及珍財。住優婆塞行羞慚,但當憶持此三昧。
(Kinh: Đừng nên đắm đuối các thê thiếp, đừng yêu con cái và của báu. Trụ ưu-bà-tắc hành hổ thẹn, chỉ nên nhớ giữ tam-muội này).
“Bất đương đam trước chúng phụ thiếp, vật ái nhi nữ cập trân tài”: Đấy là nói về nam nữ. Nam thì đừng đắm đuối thê thiếp, nữ thì đừng quá yêu đắm con cái và của cải. “Hành tu tàm” (Giữ lòng hổ thẹn), đó là nói ưu-bà-tắc phải nên biết tại gia chẳng thể làm chuyện của bậc đại trượng phu, phải hổ thẹn. Quý vị nói: “Tôi là tại gia cư sĩ, có cần sanh khởi lòng hổ thẹn hay không?” Nếu đối với giáo ngôn của đức Thế Tôn, chẳng thể mạnh mẽ vứt bỏ các thứ trói buộc tại gia, quả thật phải nên sanh lòng hổ thẹn. Quý vị chẳng thể xuất gia, hãy nên sanh lòng hổ thẹn. Đó là phương tiện tăng thượng trong tu pháp. Nếu quý vị nói chính mình là kẻ tại gia không hổ, không thẹn, vẫn rất tốt đẹp, thì đạo nghiệp khó thể tăng thượng thành tựu, vì quý vị chẳng có tâm yêu thích tăng thượng!
(Kinh) Mạc ư tha sở khởi hại tâm, duy tư trừ khử chư điều hý. Vô xứ khả trước trụ ư nhẫn, đản niệm tư duy thử tam-muội.
(經)莫於他所起害心,唯思除去諸調戲。無處可著住於忍,但念思惟此三昧。
(Kinh: Đừng dấy lòng hãm hại người khác, chỉ nghĩ trừ bỏ các đùa bỡn. Không chỗ chấp trước, trụ nơi Nhẫn, chỉ nghĩ tư duy tam-muội này).
“Mạc ư tha sở khởi hại tâm” (Đừng đối với người khác dấy lòng làm hại): Trong thế tục, đừng làm các điều ác, khó lắm! Nhưng trong tự viện, chẳng hạn như chúng xuất gia, nếu tạo ác nghiệp, hoặc tâm tưởng ác nghiệp, thật sự sẽ bị ràng buộc, lại còn không chỉ là những thứ tiếp nhận trong nội tâm. Vì sao xuất gia? Do có sự ngăn che, bảo vệ thiện xảo, vì được mọi người nhìn ngó, được mọi người yêu mến, được mọi người thủ hộ, được mọi người giám sát, đốc thúc, được mọi người cúng dường. Do nhân duyên ấy, cho nên người xuất gia có phương tiện tu đạo, có phương tiện xuất ly. Chẳng hạn như tiếp nhận sự tín thí của mười phương. Của tín thí nuôi thân ta; nếu chẳng thành tựu đạo nghiệp, đời đời kiếp kiếp khó thể đền trả mười phương tín thí. Đêm ngày ba lượt trăn trở, dùng gì để triệt tiêu? Vì thế, hàng xuất gia nếu chẳng tu hành đạo nghiệp, nếu chẳng dùng tâm trí chân thật để thủ hộ đạo nghiệp, đúng là cho đến đời vị lai chẳng thể đền trả! Món nợ ấy lần lượt tăng trưởng, chẳng thể nghĩ bàn, khó thể tính lường! Đối với chuyện này, hàng tại gia ưu-bà-tắc phải nên sanh tâm hổ thẹn, vì pháp tắc xuất gia có lợi ích chân thật như thế. Tuy thấy tợ hồ có áp lực, nhưng [pháp tắc xuất gia] thật sự khiến cho hữu tình chân thật xuất ly. Nếu người xuất gia chẳng thành tựu, cái nợ túc thế khó thể đền trả, đời này qua đời khác, trăm đời, ngàn đời, vạn đời, nhiều đời nhiều kiếp chẳng thể đền trả cái nợ thập phương. Đấy chẳng phải nói để [người nghe] sợ hãi, mà là nói đến nhân quả. Đó gọi là “tha phương tín thí, nhật dạ tam phiên” (Đối với tín thí từ phương khác, ngày đêm ba lượt trăn trở). Người tín thí có sức cũng lớn, công năng cũng cao, vì tịnh tín cho nên chân thành. Chân thành thì sẽ tăng trưởng chẳng ngớt!
“Duy tư trừ khử chư điều hý” (Chỉ nghĩ trừ khử các đùa bỡn): Do người tại gia có các thứ giải trí, các thứ phóng dật, các thứ hành vi chẳng ngăn đón, các thứ ngôn thuyết có ích hay vô ích, có trở ngại hay không trở ngại, cho nên có nhiều điều buông lung, gây hại cho cõi đời, [có hại] cho cả mình lẫn người. Trong Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận của Long Thọ Bồ Tát có phẩm Tri Tại Gia Quá Hoạn, [quý vị] có thể tra duyệt văn tự hòng liễu giải những họa hoạn của tại gia. Rất nhiều cư sĩ tuổi trẻ sẽ nói: “Tôi còn chưa hưởng thụ hết phước đức trong nhân gian. Thế gian còn rất nhiều thứ lạ lùng tốt đẹp, còn có những trò vui tôi chưa nếm thử”. Nhưng quý vị chẳng dám bảo đảm chính mình còn có thể sống mấy ngày, sống mấy năm! Có người nói, “tôi về già sẽ học Phật”. Quý vị có thể sống đến già hay không, vẫn là một ẩn số! Ai cũng chẳng dám nói chính mình có thể sống đến năm nào, tháng nào, ngày nào? Trừ phi chính mình có Thiên Nhãn Minh, mười phần biết rõ tương lai của chính mình. Hoặc là nói có sanh mạng tự tại lực, người như vậy có thể nắm giữ sanh mạng, nhưng người ấy tuyệt đối sẽ chẳng lần khân trong thế tục. Chúng ta vẫn cứ ngỡ chính mình còn rất trẻ, có rất nhiều thời gian để vui chơi, buông lung, cho đến tiếp tục làm những chuyện có hại, tức là tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng. Đúng là hãy nên cảnh tỉnh chính mình: Mạng người vô thường, trôi tuột qua như nước trên núi, sớm tối khó giữ được. Hôm nay hãy còn sống, ngày mai khó bảo đảm! Đó chẳng phải là lời dọa nạt, mà thật sự là lời chân thành! Có thể là vì ngoại duyên của tôi lừng lẫy, cơ bản là mỗi ngày đều gặp phải cảnh cáo tử vong.
Vì thế, đối với sanh tử vô thường, luôn có cảm giác mười phần thân thiết! Nhân loại đối diện với một người bạn nghiêm túc nhất, thân cận nhất là tử vong! Các bạn bè thân tình khác, tuổi thọ, cho đến tiếng tăm, lợi dưỡng, các thứ hưởng thụ, đều chẳng phải là bạn bè thật sự của ta, đều là gặp gỡ trong một lúc, do nhân duyên hòa hợp mà tạm thời gặp gỡ! Chỉ có tử vong là thân cận nhất, luôn luôn bầu bạn, luôn luôn theo sát, chẳng hề lìa bỏ! Chẳng có một khắc nào lìa bỏ chúng ta, chỉ đến khi nhân duyên chín muồi, sẽ trở thành sự thật. Nếu chẳng quán như thế, đạo nghiệp của quý vị làm sao thành tựu cho được? Quý vị dùng gì để duyên khởi vậy? Vì thế, các vị thiện tri thức hãy khéo quan sát nhé!
(Kinh) Mạc ư tài vật sanh chấp trước, hoa, hương, đồ phấn, cập chư man. Vô xứ nhiễm trước an bỉ nhẫn, đản đương thọ trì thử tam-muội.
(經)莫於財物生執着,花香塗粉及諸鬘。無處染著安彼忍,但當受持此三昧。
(Kinh: Đừng với tài vật sanh chấp trước, hương, hoa, phấn bôi, tóc mượt mà. Chẳng hề nhiễm đắm, an trụ Nhẫn, chỉ nên thọ trì tam-muội này).
“Vô xứ nhiễm trước an bỉ nhẫn” (Chẳng hề đắm nhiễm mà an trụ trong Nhẫn): Đối với các chỗ đắm nhiễm, tâm có thể thanh tịnh quan sát, chẳng nhiễm, chẳng chấp, đó là an nhẫn. Nhẫn là chấp nhận, tùy thuận. Vô Sanh Nhẫn chính là pháp Nhẫn chẳng tạo tác.
(Kinh) Nhược tỳ-kheo-ni cầu thử kinh, đương cần quy kính, trừ tật đố. Điều hý, cống cao, cập ngã mạn, chứng bỉ Bồ Đề diệc bất nan.
(經)若比丘尼求此經,當勤歸敬除嫉妒。調戲貢高及我慢,證彼菩提亦不難。
(Kinh: Nếu tỳ-kheo-ni cầu kinh này, nên siêng quy kính, trừ ghen tỵ. Đùa bỡn, kiêu căng, và ngã mạn, chứng Bồ Đề ấy cũng chẳng khó).
Từ tỳ-kheo, ưu-bà-tắc, và ngay lập tức nói đến tỳ-kheo-ni, vì sao? Trong rất nhiều cách thuyết pháp, đức Thế Tôn đều nói theo kiểu như vậy. Được nhắc đến ở đây là do tỳ-kheo-ni cũng thuộc vào hai chúng xuất gia, chúng [tỳ-kheo-ni] này có phân lượng nhất định, cần phải nhắc đến. “Đương cần quy kính trừ tật đố, điều hý, cống cao, cập ngã mạn” (Hãy nên siêng năng quy ngưỡng, kính trọng, trừ ghen ghét, đùa bỡn, kiêu căng và ngã mạn). Đấy đều là những lầm lỗi mà nữ chúng thường mắc phải!
(Kinh) Ưng phát tinh tấn, phá thụy miên, nhất thiết chư cầu giai đương đoạn. Tâm ái nhạo pháp, tịnh mạng tồn, duy đương độc tụng thử tam-muội.
(經)應發精進破睡眠,一切諸求皆當斷。心愛樂法淨命存,唯當讀誦此三昧。
(Kinh: Nên phát tinh tấn, trừ ngủ nghỉ, hết thảy mong cầu đều nên đoạn. Tâm yêu mến pháp, giữ tịnh mạng, chỉ nên đọc tụng tam-muội này).
“Nhất thiết chư cầu giai đương đoạn” (Hết thảy các mong cầu đều nên đoạn): Đó gọi là sống thiểu dục tri túc, an trụ trong tâm trí nhàn tĩnh, xa lìa ồn náo. “Tâm ái nhạo pháp tịnh mạng tồn, duy đương độc tụng thử tam-muội” (Tâm yêu thích pháp, luôn giữ ý niệm sống thanh tịnh, chỉ nên đọc tụng tam-muội này), khiến cho chúng ta chuyên thâm nhập, tu tập pháp tắc này. Trong tự viện, so ra có nhiều cơ hội và cũng có nhiều nhân duyên hơn để thực hiện chuyện này. Do vậy, sau đấy, chúng tôi cổ vũ mọi người hãy tận lực đến tự viện thọ giới, tu hành pháp tắc. Như thế thì sẽ chẳng đánh mất nhân duyên thù thắng của tự viện, đợi đến khi chúng ta quay về thế tục, sẽ nói đến chuyện thế tục. Đó cũng là một phương tiện.
(Kinh) Tâm thường bất cộng tham dục câu, mạc khởi khuể hận vô bách não. Bất dĩ ma phược hệ chúng sanh, duy đương thọ trì thử tam-muội.
(經)心常不共貪慾俱,莫起恚恨無迫惱。不以魔縛系衆生,唯當受持此三昧。
(Kinh: Tâm thường chẳng xen tạp tham dục, đừng dấy nóng giận, chẳng bức não. Đừng để ma trói buộc chúng sanh, chỉ nên thọ trì tam-muội này).
Hãy đừng nên trộn lẫn với tham dục, chẳng xen tạp sân hận bức não. Hiện thời, hữu tình trong thế gian sân hận, bức bách, não hoạn là chuyện hết sức thường xuyên, hết sức dễ dàng sanh khởi. Nữ chúng càng biểu hiện dữ dội hơn! Hãy nên chú ý! Nhất là người xuất gia, tâm hãy nên thường sanh từ bi. Người xuất gia trong quá khứ, bất luận là tỳ-kheo, hay tỳ-kheo-ni, đều phải nên có hai thứ tu trì, tức là từ tâm quán và quang minh quán. Từ tâm quán là khiến cho hết thảy hữu duyên thanh thản, vui sướng, an lạc, hoặc dấy lên thiện niệm. Quang minh quán là trừ hết thảy đối đãi thiện ác, tâm chẳng vướng mắc, gột trừ cấu nhơ trong tâm, được trụ trong an lạc. Hai pháp ấy chính là pháp tắc ắt phải hành của hàng xuất gia. Nếu không có hai pháp hạnh ấy, xuất gia rất khó, bất luận xuất gia với hình thức như thế nào, sẽ luôn chẳng tương ứng, luôn rất khó đạt được lợi ích chân thật. Ở đây, vẫn hy vọng chúng ta xa lìa các triền phược, chẳng phiền não lẫn nhau. Nếu chúng ta cộng trụ mà chẳng có tâm từ bi, tâm yêu mến, tâm tạo thêm lợi ích cho đối phương, hoặc là chẳng cùng nhau huân tập, chẳng có tâm tu pháp, vậy thì sẽ có não hại, mà não hại sẽ khiến cho tâm trí của kẻ khác phiền bực, chẳng thể an ổn, cho đến nẩy sanh oán hận, đối địch.
(Kinh) Vô dĩ siểm khúc hữu sở vi, vật tham hảo y cập đồ huân. Mạc hành lưỡng thiệt, ly phân tha, duy đương thọ trì thử tam-muội.
(經)無以諂曲有所爲,勿貪好衣及塗薰。莫行兩舌離分他,唯當受持此三昧。
(Kinh: Đừng hành các hạnh tâm siểm khúc, đừng tham áo đẹp và hương xông. Đừng nói đôi chiều, lời ly gián, chỉ nên thọ trì tam-muội này).
Ở đây, nữ chúng dễ vướng vào trạng thái này. “Vô dĩ siểm khúc hữu sở vi” (Đừng làm các chuyện siểm khúc): Siểm khúc khiến cho kẻ khác bị thương tổn nhất, vì nó chẳng thật. Nay chúng ta tu pháp, hãy y pháp, đừng y nhân. Hoàn cảnh như thế sẽ mười phần thích đáng, hữu ích. Mọi người đều duyên theo một pháp tắc trong Phật pháp để tới nơi đây.
Vì thế, đối với pháp phải nên siêng ròng, hãy nên đọc tụng kinh điển cho nhiều, hãy tu tập pháp tắc cho nhiều, lìa bỏ nhân ngã thị phi, xa lìa siểm khúc, xa lìa a dua, nịnh hót, màu mè giả dối, hãy như thật tự biết pháp tắc của chính mình, như thật thủ hộ tâm trí của chính mình, gạt bỏ các hành vi chẳng thật. Thật ra, đối với các hành vi chẳng chân thật, ai nấy đều chẳng ưa. Đối với chuyện này, chúng tôi đề xướng “y pháp, bất y nhân” rất thuận tiện, vì trong siểm khúc, sẽ có nhiều tình cảm giả dối xen vào.
“Vật tham hảo y cập đồ huân” (Đừng tham áo đẹp và hương xông): Chẳng tham đắm trang phục! [Miễn sao y phục] có thể chống lạnh, ngăn trùng, rắn, có thể che chỗ xấu xa, có thể khiến cho người trụ trong an lạc thì là có ý nghĩa. Nó có thể khiến cho chúng ta thành tựu đạo nghiệp, như thế là đủ rồi! Đối với những thứ khác, chớ nên quá mức dụng tâm, kẻo tiêu hao sanh mạng và sự duy trì sanh mạng của chính mình. Đồ huân (塗薰), tức là hương bôi và hương xông. Người Ấn Độ có thói quen ấy. Nay chúng ta cũng có huân hương, nhưng chẳng phải mong cầu tốt đẹp cho riêng mình, mà là để khiến cho đại chúng an lạc, cho đến khiến cho người hộ pháp được an lạc, vui sướng.
“Mạc hành lưỡng thiệt, ly phân tha” (Đừng nói đôi chiều, chia cách kẻ khác): Đây có thể là nghiệp tướng tột bậc đặc thù của nữ chúng. Bên này nói bên nọ, có tác dụng ly gián lẫn nhau, tổn hại cả mình lẫn người, như thế sẽ khiến cho mọi người đều chẳng thoải mái. Đối với khẩu nghiệp, nữ chúng càng phải nên chú ý, vì mọi người tụ hội rất dễ tán gẫu, hý luận nhiều lắm, thậm chí phê phán ưu khuyết, đúng sai. Vì thế, chúng ta ngoài lúc tu hành, hãy ít nói năng những lời tầm phào chẳng có ý nghĩa, tức là [đừng bàn luận] nhân ngã thị phi, hãy nói nhiều về pháp tắc, cho đến niệm Phật cho nhiều, cho đến “đánh chết ý niệm”, tịnh tâm niệm Phật. Đó là phương tiện.
(Kinh) Nam nữ thanh sắc bất hệ tâm, tịch tuyệt vô chư tà niệm sự. Ư giáo sư sở sanh Phật tưởng, duy đương thọ trì thử tam-muội.
(經)男女聲色不繫心,寂絕無諸邪念事。於教師所生佛想,唯當受持此三昧。
(Kinh: Thanh sắc nam nữ chẳng bận lòng, dứt bặt không còn chuyện tà niệm. Đối với thầy dạy, tưởng như Phật, chỉ nên thọ trì tam-muội này).
Tà niệm là tâm chẳng thể tự chế ngự được. Đó gọi là “diện đới hý sắc, tà thái ngoại dật” (mặt mang vẻ cợt nhả, tâm thái tà vạy bộc lộ ra ngoài, chẳng thể giấu giếm được), do tâm trí bất chánh. Nếu người nào tâm trí hoảng hốt, chẳng thể tự an lạc thủ hộ tâm trí, sẽ chẳng thể duy trì pháp tắc chân thật, còn người tâm trí đơn thuần, tâm trí thẳng thắn, tâm trí nhất như sẽ “duy đương thọ trì thử tam-muội” (chỉ nên thọ trì tam-muội này).
(Kinh) Sở sanh vĩnh ly chúng ác đạo, ư Phật pháp trung bất không tín. Phá trừ tam hữu chư chướng nạn, yếu thường thọ thị tam-ma-đề.
(經)所生永離衆惡道,於佛法中不空信。破除三有諸障難,要常受是三摩提」。
(Kinh: Thọ sanh mãi lìa các đường ác, đối với Phật pháp chẳng tin suông. Phá trừ các chướng nạn ba cõi, phải thường thọ lãnh tam-muội này).
“Sở sanh vĩnh ly chúng ác đạo, ư Phật pháp trung bất không tín” (Đối với chỗ thọ sanh, vĩnh viễn lìa khỏi các đường ác. Đối với Phật pháp chẳng tin suông): Như hiện thời chúng xuất gia và tại gia ở nơi đây, đến tự viện mà nếu chẳng thể đúng pháp hành trì, sẽ đúng là xuất gia rỗng tuếch, học Phật phí công! Rơi vào trường hợp danh tự hư giả, thật sự chẳng tương ứng, chủ yếu là cô phụ bốn ân đức sâu nặng, cô phụ khát vọng của hữu tình trong tam đồ nạn duyên, cô phụ tín thí, cô phụ thầy dạy. Vì thế, trong Phật pháp, chúng ta phải nên chân thật thủ hộ, tu tập đúng như lý. “Phá trừ tam hữu chư chướng nạn, yếu thường thọ thị tam-ma-đề” (Phá trừ các chướng nạn trong tam giới, phải thường thọ lãnh tam-ma-đề này): Tam-ma-đề là tam-muội, thành tựu an trụ, công đức chân thật. Bài kệ này tiếp nối phần Trường Hàng trước đó, không ngừng khích lệ chúng ta nhận biết pháp tắc trì giới đầy đủ. Sau khi chúng ta đã kết thúc học tập, mọi người có thời gian, hãy lật xem kinh điển, niệm Phật, kinh hành, tư duy, quan sát. Chớ nên nghĩ lúc chúng ta học tập chỉ học tập. Sau khi ra khỏi thời khóa, bèn tán gẫu. Nếu cứ như thế thì thiện pháp chẳng thể duy trì liên tục được, tu pháp chẳng liên tục, đạo nghiệp chẳng liên tục, thiện căn công đức rất khó chín muồi! Cổ nhân đã nêu một thí dụ: Giống như nấu nước, đốt nóng tới sáu bảy mươi độ, để nguội, lại đun đến ba mươi độ, hai mươi độ, lại để nguội. Cứ đun đi đun lại như thế, nói chung là chẳng thể tiếp tục đun sôi được! Vì thế, đối với pháp, chúng ta phải liên tục. Học tập trong hiện tiền là điều trọng yếu, nhưng học tập sau đó càng trọng yếu hơn, vì thời gian học tập sau đó càng dài, càng nhiều hơn!
11. Phẩm thứ tám: Xưng Tán Công Đức
Pháp vốn trọn đủ, chẳng cần chúng ta phải bỏ thêm công sức. Thông qua một pháp hội, chỉ là biểu hiệu một phần, hoặc ít phần nội dung thực tế, vì muốn khiến cho các hữu duyên hữu tình trong hiện tiền sẽ nhờ vào cơ chế ấy mà thành thục thiện căn của chính mình, có thể tu chứng, cho đến thành tựu tam-muội này.
Đối với pháp tu trì Ban Châu tam-muội, muốn đắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội như thế, quả thật chẳng khó! Khó ở chỗ phát tâm, khó ở chỗ như thật liễu giải toàn thể cơ chế của pháp này, khó ở chỗ thệ nguyện quyết định thủ hộ. Trong cõi đời, vốn chẳng có hai pháp khó và dễ, hoặc có chuyện khó hay dễ, chỉ tùy thuộc vào tư lương có đầy đủ hay không, pháp duyên có đủ hay không! Các chuyện đều trọn đủ nhân duyên, khó và dễ là nói tương đối! Thật ra, chẳng có gì có thể chướng ngại cơ hội khiến cho chúng ta đích thân chứng tam-muội như vậy. Chúng ta có cơ hội học tập và coi trọng nó, tất nhiên cũng có cơ hội thành tựu. Hết thảy đại chúng hiện tiền đừng ngờ vực điều này. Chư Phật là đấng nói lời thành thật, đấng nói lời chân thật, chúng ta có thể như lý, như pháp học tập, nhận thức pháp tắc này, hiểu rõ sự phát tâm. Như thế thì đối với công đức và lợi ích chân thật của tam-muội Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền như thế, sẽ thật sự không xa! “Xa” chỉ vì dụng tâm khác nhau, do cảm nhận nghiệp tướng [khác biệt]. Nếu chúng ta thoát khỏi sự cưỡng chấp nghiệp tướng từ vô thỉ tới nay của chính mình, thật sự liễu giải pháp tắc “vạn pháp duy thức”, liễu giải giáo nghĩa chân thật “tánh Không duyên khởi”. Lại nhìn pháp này, sẽ thật sự giống như vật trong lòng bàn tay. Điều chủ yếu nhất trong tu tập Phật pháp là phát tâm, nhân duyên tối sơ ở chỗ phát tâm. Sự tiếp nối tu tập sau đó chính là sự chứng thực và xác lập của phát tâm.
Nay đang trong thời gian An Cư, năm nay có tháng Bảy nhuận, có thể là ba tháng an cư, mà cũng có thể bốn tháng an cư. Chúng thường trụ chùa Phóng Quang nhất trí yêu cầu bốn tháng an cư. Vì sao trong vòng một tháng của tháng Bảy nhuận chúng ta học tập pháp này? Điều chủ yếu nhất là vì muốn cho mọi người sau khi An Cư kết thúc, sẽ có một pháp để tiếp tục [tu tập], có một pháp để thực hành. Vì một khi An Cư kết thúc, mỗi cá nhân đối với sự y chỉ và nhận thức pháp tắc sẽ có thể là muôn ngàn sai khác, nhưng sau khi chúng ta đã học tập, vừa khéo là mỗi người sẽ dựa theo nhân duyên [riêng biệt của chính mình] để tu tập pháp tắc này, thâm nhập pháp tắc này, cho đến thành tựu lợi ích chân thật nơi tam-muội.
(Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh, quyển đệ tứ.
Hiền Hộ Phần Xưng Tán Công Đức phẩm đệ bát.
Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát, cập Bảo Đức Ly Xa Tử, Thiện Thương Chủ trưởng giả, Già Ha Ngập Đa cư sĩ tử, Na La Đạt Đa Ma Nạp, Thủy Thiên trưởng giả, dữ ngũ bách đồ chúng đẳng, văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ, tức dĩ ngũ bách thượng y phục, phụng phú Thế Tôn. Phục dĩ đa chủng cúng cụ, cúng dường Thế Tôn, tâm nhạo pháp cố.
(經)大方等大集賢護經卷第四。
賢護分稱讚功德品第八。
爾時,賢護菩薩,及寶德離車子,善商主長者,伽訶岌多居士子,那羅達多摩納,水天長者,與五百徒衆等,聞佛所說,皆大歡喜,即以五百上衣服,奉覆世尊。復以多種供具,供養世尊,心樂法故。
(Kinh: Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh, quyển thứ tư.
Hiền Hộ Phần. Phẩm thứ tám: Khen Ngợi Công Đức.
Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát, và Bảo Đức Ly Xa Tử, trưởng giả Thiện Thương Chủ, con của cư sĩ Già Ha Ngập Đa, Na La Đạt Đa Ma Nạp, trưởng giả Thủy Thiên, và năm trăm đồ chúng v.v… nghe lời Phật dạy, đều hết sức hoan hỷ, liền dùng năm trăm y phục thượng diệu dâng lên che đức Thế Tôn. Lại dùng nhiều loại vật cúng để cúng dường đức Thế Tôn vì tâm vui thích pháp).
“Tâm nhạo pháp cố” (Do tâm ưa thích pháp): Bốn chữ này đã nêu rõ năm trăm đồ chúng dùng năm trăm bộ y phục thượng diệu để dâng cúng đức Thế Tôn, hòng biểu lộ sự vui thích đối với pháp, biểu lộ sự vui sướng, hớn hở trong nội tâm.
“Đa chủng cúng cụ” (Nhiều loại vật cúng): Không vật dụng nào chẳng phải là các vật dụng được người cúng dường hoan hỷ, tôn trọng, yêu thích. Phong tục tập quán của Ấn Độ là như thế đó. Nhằm biểu lộ tâm tình vui sướng, tâm tình tôn trọng của chính mình, bèn dùng các phẩm vật mà chính mình tôn trọng, yêu thích làm phương thức biểu lộ. Xá-lợi răng Phật hay xá-lợi xương Phật ở Trung Hoa thường được đưa triển lãm tại nước ngoài, nhất là đến các nước như Miến Điện, Thái Lan v.v… Các chỗ xe chở xá-lợi đi qua, người ta đều đem các thứ mà chính mình nghĩ là quý trọng nhất ném lên xe. Y phục của các vị pháp sư thủ hộ xe chở xá-lợi đều bị đè nặng trĩu! Đấy là một thứ phong tục tập quán của họ. Người Hoa nếu tôn trọng thứ chi đó, có thể là tán thán mấy câu, nói mấy lời rất hoan hỷ là được rồi, “điểm đến thì dừng”, chắc chắn chẳng đem những món đồ quý trọng rải lên đó! Chẳng có thói quen ấy, chẳng có phong tục ấy! Nhưng tại các quốc gia như Ấn Độ và Đông Nam Á, họ sẽ biểu hiện có phần cụ thể hơn!
(Kinh) Các dĩ kỷ thân phụng thừa Như Lai.
(經)各以己身奉承如來。
(Kinh: Ai nấy đều dùng thân của chính mình để phụng sự Như Lai).
Tức là lễ bái, tán thán, tùy thuận lời dạy của tổ sư. Như một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ-kheo thường theo đức Thế Tôn du hóa, cũng là dùng thân tâm để cúng dường đức Thế Tôn, dùng công đức quyến thuộc để trang nghiêm đức Phật.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo A Nan ngôn: – Thị Hiền Hộ Bồ Tát thường ư bỉ đẳng ngũ bách đồ chúng, nhi tác nghĩa sư.
(經)爾時,世尊告阿難言:「是賢護菩薩常於彼等五百徒衆,而作義師。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài A Nan rằng: – Vị Hiền
Hộ Bồ Tát này thường làm thầy dạy về nghĩa lý cho năm trăm đồ chúng ấy).
“Nghĩa sư” là vị hướng dẫn phát tâm, hướng dẫn về pháp tắc, cho đến hướng dẫn về cách thành tựu và xác định pháp tu.
(Kinh) Thuyết chư pháp yếu, giáo hóa ủy dụ.
(經)說諸法要,教化慰喻。
(Kinh: Nói các pháp yếu, giáo hóa, an ủi, huấn dụ).
Các vị thiện tri thức thường nói tỷ dụ, muốn cho chúng sanh hướng tới pháp, tạo thành cơ hội tăng thượng để thoát lìa các nạn duyên đối với pháp. Có khi chúng ta tu pháp sẽ gặp đủ loại trở ngại, chẳng đủ tư lương, cho đến nẩy sanh sợ hãi, sanh tâm thoái đọa. Vì thế, hết thảy Bồ Tát và thiện tri thức đều an ủi, khuyên dụ, thành thục thiện căn cho người đó, khiến cho người đó tiến nhập Bồ Đề.
(Kinh) Linh bỉ hoan hỷ. Dĩ hoan hỷ cố, bỉ bối tức đắc tùy thuận chi tâm, chân thật chi tâm, thanh tịnh chi tâm, ly dục chi tâm, trừ chư phiền não, vô phục Cái Triền.
(經)令彼歡喜。以歡喜故,彼輩即得隨順之心,真實之心,清淨之心,離欲之心,除諸煩惱,無復蓋纏。
(Kinh: Khiến cho họ hoan hỷ. Do hoan hỷ, nên họ liền có tâm tùy thuận, tâm chân thật, tâm thanh tịnh, tâm ly dục, trừ các phiền não, chẳng còn có Cái và Triền).
“Đắc” trong từ ngữ “tức đắc” chính là “có thể thành tựu”. Trong quá trình chúng ta học tập giáo ngôn Ban Châu, nếu có thể thường xuyên sanh vui mừng đối với pháp này, thích cúng dường pháp tắc này, cho đến lễ bái kinh điển, tán thán người hành pháp, cúng dường người hành pháp, thủ hộ đạo tràng hành pháp, sẽ đạt được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn nơi Phật pháp, cho tới thành tựu tín thuận, tùy thuận lợi ích của pháp tắc này!
“Vô phục Cái Triền” (Chẳng còn có Cái và Triền): Hai pháp Cái và Triền là nghiệp tướng của chúng sanh. Ở đây, chúng tôi không ngại nêu ra. Phàm phu trọn đủ hai pháp Cái và Chướng (tên gọi khác của Triền). “Cái” được chia thành năm món Cái. Cổ nhân nói [danh tướng của các món Cái] không đồng nhất. Có người nói [Ngũ Cái] là tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê. Cũng có người cho rằng [Ngũ Cái] là Tham Dục Cái, Sân Khuể Cái, Điệu Cử Cái, Thụy Miên Cái (chướng ngại do ngủ nghê gây ra), và Nghi Cái. “Cái” (蓋) có nghĩa là khiến cho chúng sanh chẳng thấy được vầng mặt trời trí huệ, chẳng đạt được phương tiện trí huệ, trong tâm tối tăm, phần nhiều chẳng trọn đủ thiện xảo. Ngũ Cái che lấp tâm thức, khiến cho chánh pháp mai một; do vậy, chẳng thể đạt được các thiện xảo nơi thế gian và xuất thế gian.
“Triền” thì có Thập Triền, phiền não nhập tâm. Do nó khiến cho hành nhân chẳng có sức tự tại, cho nên gọi là Triền (纏, trói buộc). “Cái” trong phần trước là phiền não thô nặng, còn Triền trong phần sau là Tùy Phiền Não. Thập Triền phổ biến nhất nơi con người hiện thời. Mười loại Triền bao gồm: Một là vô tàm (chẳng xấu hổ), hai là vô quý (chẳng biết thẹn). Kẻ chẳng hổ, chẳng thẹn sẽ không có cách nào tiến nhập pháp tắc, phần nhiều đọa trong hạng tầm thường, tự thỏa mãn, đạt được chút ít đã cho là đủ. Trong lúc đức Thế Tôn giảng kinh Pháp Hoa, có năm ngàn người rời đi. Đức Thế Tôn nói những kẻ tăng thượng mạn ấy rời đi, rất tốt! Vì sao? Vì họ chứng đắc chút ít đã cho là đủ, tự cho là đúng. Ba là ngủ nghê, bốn là hậu hối (làm rồi bèn hối hận), năm là xan (慳, keo kiệt), sáu là tật (嫉, ganh ghét), bảy là điệu (掉, lao chao), tám là miên (眠, trầm mê), chín là phẫn (忿, căm phẫn), mười là phú (覆, giấu giếm). Mười Triền pháp do nghiệp phần của chúng sanh mà hiện. Hiện thời, nếu chúng ta chẳng sử dụng hành pháp Ban Châu mà mong đối trị Thập Triền và Ngũ Cái thì hầu như không có cách nào, rất khó trực tiếp nhận biết chúng, hoặc điều chỉnh chúng, nhưng hành pháp Ban Châu tiêu trừ các món Cái và Triền Phược ấy rất dễ dàng!
Đối với điều thứ ba là Thụy (睡, ngủ nghê) trong Thập Triền, phải nên nhắc tới đôi chút. Thông thường, chúng ta cho rằng nhắm mắt là ngủ. Ngủ gây chướng ngại cho việc sử dụng sức tự tại của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý, tức năm căn bế tắc thì gọi là Ngủ. Có người tu pháp trong mộng[1], người ấy chẳng gọi là Ngủ. Vì sao? Người ấy đang tu pháp. Nếu chúng ta đã biết pháp tắc trong Phật pháp, mà vẫn buông lung vô độ, tham ngủ nghê, thì về sau sẽ hối hận. Về sau hối hận gì vậy? Luống uổng một đêm, luống uổng một ngày, ngày này qua ngày nọ luống uổng như thế đó. Trong một đời người, ta dùng mất nửa thời gian để ngủ; thực tế là thuộc vào trạng thái chẳng thể tự chủ. Ban ngày, khi mặt trời mọc, chúng ta trông thấy tướng quang minh, toàn thể nhân loại đều được ánh sáng mặt trời soi rọi, khá có tinh thần, các thứ hành vi có thể rõ ràng hơn, tự chủ hơn. Khi mặt trời lặn, khi màn đêm buông xuống, sẽ dễ buồn ngủ, tâm trí mất đi sự tự chủ. Đó là tướng biểu hiện của cộng nghiệp.
Trong tướng biểu hiện của cộng nghiệp, chúng ta sẽ cảm nhận, và cũng có thể trông thấy: Lúc ngủ, sức tự chủ của chúng ta bị vùi lấp bởi sự bức bách của nghiệp, bị đè nén bởi cảm nhận, bị vô minh đè nén. Do bị đè nén mà chẳng đắc lực. Vì thế, trong khi mơ ngủ, phần nhiều chẳng tự chủ. “Dạ” (Ban đêm) có ý nghĩa “tối tăm che phủ”. Thật ra, ban ngày chúng ta có tự chủ hay chăng? Chẳng phải là thường bị tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến sai khiến ư? Nếu là như vậy, trong lúc ban ngày và trong mộng, chúng ta đều chẳng thể tự chủ, kết quả là một kẻ thường mơ màng, tăm tối!
“Tứ hối” (Điều thứ tư là Hối): Đối với Hối (悔), trong Phật giáo thường nói đến sám hối, chẳng có duyên gây ra hậu hối (後悔, hối hận sau khi đã làm chuyện gì đó). Hậu hối phần nhiều là vì nhân duyên “kết quả đạt được chẳng tương ứng với lòng mong mỏi của chính mình”, bèn nẩy sanh một thứ tướng phiền não. Do vậy, gọi là Triền, cũng gọi là Tùy Phiền Não. Người hậu hối sẽ thường nói: “Ôi trời ơi! Ta chẳng nên làm chuyện này, ta chẳng thể làm chuyện kia…” Người như thế suốt đời chẳng thành tựu chuyện gì! Những người có trí huệ đã sớm biết duyên khởi, quá trình và kết quả, chọn lựa rõ ràng pháp tắc như thế, sẽ tuyệt đối chẳng khiến cho chính mình bị che lấp, mê mờ, cũng sẽ chẳng bị sự tướng che lấp, càng chẳng bị mê mờ vì điều được, lẽ mất!
“Ngũ xan” (Điều thứ năm là Xan): “Xan” (慳, keo kiệt) là chẳng nỡ bỏ các vật. Đối với tài vật, chính mình còn chẳng thể dùng, huống hồ cho người khác ư? Hữu tình thời Mạt Pháp ích kỷ, keo kiệt rất nghiêm trọng!
“Lục tật” (Điều thứ sáu là ghen ghét): Chẳng muốn kẻ khác hơn mình, đó là Tật (嫉, ghen ghét). Vì thế, do cái tâm hiếu thắng, sẽ có lắm điều ghen tỵ. Người ghen tỵ cần phải hành pháp tùy hỷ cho nhiều, thường hành pháp tùy hỷ khiến cho tâm trí của chính mình sáng sủa, an trụ trong lợi ích rộng lớn, coi sự thành tựu của người khác như sự thành tựu của chính mình. Như thế thì thiện duyên sẽ trọn đủ, tự thân an lạc. Trong thời đại này, cái tâm so đo, háo thắng khá nhiều. Do vậy, chính là thời đại đấu tranh kiên cố, cái tâm ghen tỵ mười phần phổ biến. Chúng ta phải nên tự khéo tư duy, tiêu trừ nó (tâm ghen tỵ) từ nghiệp tướng của chính mình. Dùng tâm trí tùy hỷ và tán thán để tùy hỷ công đức và thiện duyên của người khác, tùy hỷ phước báo và thành tựu của người khác. Như thế thì chúng ta sẽ đạt được sự an vui rộng lớn, vì lúc quý vị tùy hỷ sự thành tựu của người khác, nếu thấy người khác thành tựu cũng giống như chính mình đạt được. Như vậy thì sẽ nẩy sanh sự vui sướng và an lạc, sẽ sống hết sức hòa bình, rộng lớn, xa lìa các khổ não bức bách trong tâm. Có nhiều hữu tình muốn hơn người khác đã lâu, vĩnh viễn mong luôn ở trong trạng thái tôn quý, giỏi giang hơn người khác. Đó là tâm trí Tu La. Kết quả của tâm trí như thế là cuộc sống đấu tranh chẳng ngơi, quá khó khăn, quá khổ sở. Cuộc sống như vậy sẽ khá bức bách!
“Thất điệu” (Điều thứ bảy là lao chao): “Điệu cử” (掉舉, trạo cử) là tâm trí bộp chộp, thiện căn khá mỏng ít, là kẻ hư vọng chấp giữ “lấy, bỏ”, rất khó có tâm trí trầm tĩnh, bình thản. Tâm trí chẳng an, chẳng thể thủ hộ điều gì, chẳng được an vui trong các cảnh giới. Đó gọi là chẳng thể Chỉ, tức là tu trì Xa-ma-tha sẽ khó thể thành tựu. Hôn trầm và điệu cử là một cặp pháp đối ứng. Hữu tình trong thời Mạt Pháp nếu chưa đắc Thiền Định, phần nhiều chẳng hôn trầm thì sẽ đọa vào điệu cử. Chẳng điệu cử, ắt sẽ rơi vào hôn trầm, chẳng thể thoát ra, chẳng có con đường thứ ba để đi! Nhưng con đường thứ ba chính là Chỉ Quán thành tựu, đạt được niềm vui tam-muội.
“Bát miên” (Điều thứ tám là Miên): Mê ngủ có tính chất hôn trầm kéo dài, chẳng thể tự khống chế.
“Cửu phẫn” (Món Triền thứ chín là phẫn): Vì tâm chẳng tương ứng, chẳng thể sanh ra lợi lạc, bèn sanh sân hận. Cổ nhân nói “phẫn phẫn bất bình”. Tuy chẳng kịch liệt như Sân Hận, nhưng cũng là một thứ phiền não. Vì vậy, nói Phẫn là Não Hoạn.
“Thập phú” (Món triền phược thứ mười là Giấu Giếm): Thường che giấu khuyết điểm của chính mình, mong tự bào chữa, vì sợ mất danh dự. Danh dự đúng là hư giả, nhưng rất nhiều người vì danh dự hư dối, chẳng tiếc sức giấu giếm. Người thời Mạt Pháp, nghiệp duyên hừng hực, tạp duyên hừng hực, thường xuyên qua lại với người khác, suốt đời siêng năng tạo lỗi, tức là cơ hội phạm phải lầm lỗi rất nhiều. Chỉ cần tỏ lộ thì sẽ được an lạc, giống như phương tiện vứt bỏ rác rưởi, nhưng nếu che giấu khuyết điểm, sẽ giống như tiếc nuối, cất giấu rác rưởi! Có các vị Bồ Tát suốt đời siêng năng tom góp rác rưởi, thường hay tự bào chữa, luôn mong tô vẽ cho chính mình có bộ dạng rất viên mãn, rất thiện lương, rất nghiêm túc. Kết quả là tự thân hứng chịu tràn trề các lỗi lầm vì chẳng như thật! Vì lỗi lầm chẳng có tự tánh, cho nên hễ sám hối bèn được an lạc!
Vì sao phải nêu ra hai loại Triền và Cái? Chính là do chúng ta sống trong thời Mạt Pháp, trong khi tu tập, chẳng nhận biết rõ ràng, nhưng đấy lại là một nghiệp tướng đặc biệt trọng yếu. “Tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng” khá thô nặng, thông thường chúng ta có thể thấy được, nhưng các món Triền sau đó như vô tàm, vô quý, hôn trầm, điệu cử, hậu hối, keo tham, ghen tỵ, mọi người chẳng để ý. Thật ra, chúng nó đều có thể sanh khởi căn bản phiền não giống y hệt như năm món trước (tham, sân, si, mạn, nghi). Hễ hơi nặng hơn thì “tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng” là sáu món căn bản phiền não sẽ bộc lộ. Sáu căn bản phiền não ấy mười phần thô nặng! Nhưng người học Phật trong hiện thời, đội cái mũ “là người học Phật” thì đông, chỉ là đeo đội để trang sức, chứ thật ra chẳng phải vậy. Nếu chẳng đối trị thích đáng “tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng” của chính mình, tiêu trừ nó, chuyển hóa nó, sẽ chẳng trở thành người học Phật! Chẳng thể tiêu trừ Tùy Phiền Não của chính mình, quý vị học Phật để làm gì? Có ý nghĩa chi đâu? Nhưng người hiện thời khoác lấy danh xưng học Phật đông lắm, kẻ tiêu trừ phiền não của chính mình ít ỏi! Do vậy, “lìa khổ, được vui” ít kẻ đạt được! Vì nỗi khổ phiền não, nỗi khổ do Sở Tri Chướng, bất luận là phiền não thô nặng, hay Tùy Phiền Não, đều đem đến nỗi khổ cho chúng ta là chuyện rất rõ ràng, xác đáng! Chẳng hạn như chúng ta có thể trực tiếp cảm nhận nỗi khổ tham, sân, si. Nếu chúng ta thông qua học tập và tu tập Phật pháp, khéo điều chỉnh, khéo nhận thức, thoát khỏi chúng, sẽ có thể lìa khổ, được vui, mà cũng có thể khiến cho người khác lìa khổ, được vui, cũng chính là tự lợi và lợi tha, tự giúp mình, giúp đỡ người khác.
Nhắc nhở những điều này là vì người học Phật trong hiện thời tự giát vàng đông lắm, tự mình trang hoàng cho bản thân càng ngày càng “giống”, tức là bề ngoài càng ngày càng giống [người đang tu hành] Phật pháp, nhưng nội dung càng ngày càng đậm phiền não! Có kẻ Sở Tri Chướng càng ngày càng nhiều, có kẻ phiền não càng ngày càng nặng, học Phật như thế chính là đi ngược đường. Vì thế, đa văn càng lắm, chỉ ăn nói tăng thêm lưu loát, khinh mạn kẻ khác, phiền não lừng lẫy, tạo các ác nghiệp, đời này khổ nạn, đời sau ắt hẳn sẽ bị nhiều quả báo ác, tất nhiên sẽ đọa lạc, chẳng được nghe danh tự Tam Bảo. Vì sao vậy? Vì vận dụng Phật pháp hư giả, chẳng chân thật. Như thế thì quả thật là vô nghĩa. Các vị thiện tri thức ơi! Đối với chuyện này, chúng ta nhất định phải đích thân khéo quan sát nhé!
(Kinh) Thời, ngũ bách nhân nhất tâm hiệp chưởng, cung kính đảnh lễ, thoái trụ nhất diện. Nhĩ thời, Hiền Hộ tức bạch Phật ngôn: – Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc kỷ pháp, nhi năng đắc thử Niệm Phật tam-muội dã?
(經)時,五百人一心合掌,恭敬頂禮。退住一面。爾時,賢護即白佛言:「世尊!菩薩摩訶薩具足幾法,而能得此唸佛三昧也?」
(Kinh: Khi đó, năm trăm người nhất tâm chắp tay, cung kính đảnh lễ, đứng lui qua một phía. Lúc bấy giờ, ngài Hiền Hộ liền bạch cùng đức Phật rằng: – Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ mấy pháp sẽ có thể đắc Niệm Phật tam-muội này?)
Khắp nơi trong kinh điển đều khơi gợi mọi người liễu giải chỗ y chỉ cơ bản để tu trì hòng thành tựu môn Niệm Phật tam-muội này.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Hiền Hộ ngôn: – Hiền Hộ! Nhược Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc tứ pháp, đắc thị tam-muội.
(經)爾時,世尊告賢護言:「賢護!若菩薩摩訶薩具足四法,得是三昧。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Hiền Hộ rằng: – Này Hiền Hộ! Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ bốn pháp, sẽ đắc tam-muội này).
“Cụ túc tứ pháp” tức là có thể tương ứng với bốn pháp.
(Kinh) Hà đẳng vi tứ? Nhất giả, bất trước nhất thiết ngoại đạo ngữ ngôn.
(經)何等爲四?一者、不著一切外道語言。
(Kinh: Những gì là bốn? Một là chẳng chấp trước các lời lẽ của ngoại đạo).
“Nhất thiết ngoại đạo ngữ ngôn” (Hết thảy lời lẽ của ngoại đạo) không gì chẳng phải là cầu pháp ngoài tâm, tâm trí hư vọng tăng giảm, tâm trí tạo tác, đáng gọi là pháp tắc hữu lậu của các tạp duyên hừng hực trong sự liên tục đối đãi nhị nguyên, là pháp tắc sanh diệt, là pháp tắc thiện ác, là các loại như thế. Chúng ta biết: Trong giáo ngôn, đức Thế Tôn đã nói lời như thật, lời chân thật, lời vô lậu, lời trí huệ, lời từ bi, lời phương tiện. Các lời lẽ như thế đều là cơ sở y chỉ của việc chứng tam-muội. Vì sao rất nhiều người niệm Phật, hoặc trì chân ngôn, dẫu hằng ngày niệm tám vạn câu Phật hiệu, hoặc sáu vạn câu Phật hiệu, trì chân ngôn mấy ngàn biến, mấy vạn biến, nhưng phiền não vẫn hừng hực y như cũ? Điều chủ yếu nhất là do chẳng nắm chắc một điểm, chẳng nhận biết, tức là nói dối, nói thêu dệt chưa ngưng dứt. Ác tâm, hư ngụy tâm, mạn tâm chưa ngưng dứt. Tu trì như thế thì chân ngôn chẳng thể thành tựu, niệm Phật chẳng thể tương ứng. Nếu chúng ta chẳng biết khéo gìn giữ khẩu nghiệp, chân ngôn sẽ chẳng thể nào thành tựu được! Nếu chúng ta chẳng khéo thủ hộ tâm trí, sẽ không có cách gì thành tựu niệm Phật được! Do vậy, là người niệm Phật cũng thế, mà người trì chân ngôn cũng thế, hãy nói lời thành thật, lời chân thật, thủ hộ tâm địa nhất như, càng là trọng yếu! Đừng nên dùng cái tâm hư vọng, tâm hư giả tạo nhiều khẩu nghiệp. Nếu cứ như thế mà mong có thành tựu, sẽ chẳng tương ứng. Đối với chuyện này, chúng ta nhất định phải tự mình chú tâm coi trọng.
(Kinh) Nhị giả, bất nhạo nhất thiết chư ái dục sự.
(經)二者、不樂一切諸愛慾事。
(Kinh: Hai là chẳng ưa thích hết thảy các chuyện ái dục).
Chuyện ái dục mười phần rộng khắp. Có người nói: Trong Dục Giới này, do có tình thức mà yêu mến lẫn nhau. Tình yêu mến ấy do vì lẽ gì mà yêu mến? Do nghiệp vô minh thôi thúc, sai khiến, chẳng thể tự khống chế được. Có kẻ say mê tiền tài, có người say mê thế lực, có kẻ say sưa danh vọng, có kẻ yêu mến oai đức. Cho đến người học Phật bèn yêu chuộng [cái danh] “ta là người học Phật”. Xét tới nhân duyên thực tế, lợi ích thực tế, [các thứ đó] có phải là tồn tại hay không? Cái được gọi là “ái dục” là vì mê mất mà kiến lập, do thiếu khuyết mà kiến lập, tức là tâm trí chẳng đầy đủ, chẳng trọn đủ, chẳng biết cội nguồn, mà tạo thành một sự khúc xạ trong pháp đối đãi, đó là điều hữu tình trong Dục Giới đều cùng có. Nếu xa lìa ái dục, các môn Thiền Định, tức Sắc Giới thiện xảo, sẽ tự nhiên hiện tiền, sanh vào Sắc Giới Thiên, hoặc là ở trong nhân gian mà hưởng thụ đủ loại vui sướng của Sắc Giới Thiên. Chúng ta có thể khéo quan sát chuyện này.
(Kinh) Tam giả, thường bất viễn ly Đầu Đà công đức.
(經)三者、常不遠離頭陀功德。
(Kinh: Ba là thường chẳng xa lìa công đức Đầu Đà).
Đó gọi là “thiểu dục, tri túc” để nuôi thân, như thật thủ hộ pháp tắc tịch tĩnh, yêu thích chốn A Lan Nhã, cho đến buông bỏ các duyên trong tâm và các duyên bên ngoài. “Xả” là chẳng nắm níu, đúng như thật mà tiến nhập, thủ hộ tịch tĩnh.
(Kinh) Tứ giả, thường yếm tam giới chư hữu sanh xứ.
(經)四者、常厭三界諸有生處。
(Kinh: Bốn là thường chán các chỗ “có sanh” trong tam giới).
Tam giới là Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới. Chúng ta nói người tu pháp hiện thời phần nhiều phiền não thô nặng, cho đến đối với Tùy Phiền Não, chẳng thể tiêu trừ, chuyển hóa tướng phiền não, nghiệp phiền não, và nỗi khổ phiền não của chính mình. Căn bản là chẳng thể nói đến chuyện thoát tam giới được, vì chẳng mảy may dính líu đến xuất tam giới. Nếu chúng ta nhờ vào Phật pháp để kết duyên thì cũng là có ý nghĩa! Nhưng nếu hiện thời gặp gỡ Phật pháp mà không trừ phiền não nơi tự thân, cũng như phiền não của người khác, bất luận là căn bản phiền não, hay Tùy Phiền Não, chúng ta đều phải nên xét kỹ Phật pháp rốt cuộc để làm gì? Phật pháp xuất hiện trong cõi đời là vì muốn trừ Sở Tri Chướng và Phiền Não Chướng, thành tựu Bồ Đề cho chúng sanh. Người tu tập Phật pháp, nếu tâm sân hận sâu nặng, tâm đố kỵ sâu nặng, tâm phiền não sâu nặng, tâm tham dục sâu nặng, chẳng thể tự kiềm chế, thậm chí khổ chẳng thể nói nổi. Khi đó, cần phải điều chỉnh, nhận thức chính mình và pháp tắc đã học, để coi xem chính mình có phải là người thật sự tu tập, ứng dụng, thành tựu pháp tắc hay không? Nếu chẳng như vậy, sẽ vẫn là một kẻ khoác lấy danh tiếng Phật pháp hư giả, giống như kẻ nắm giữ báu ma-ni có thể xuất sanh vạn vật mà lại đi ăn mày. Nói theo cách nói phổ biến nhất trong quá khứ thì là “nã trước kim oản khứ yếu phạn” (cầm chén vàng đi xin ăn)!
(Kinh) Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc tứ pháp, đắc thử tam-muội.
(經)賢護!是爲菩薩摩訶薩具足四法,得此三昧。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Đó là Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ bốn pháp, đắc tam-muội này).
Chúng ta hãy khéo quan sát, khéo tu tập, có thể tương ứng trọn đủ bốn pháp ấy, ắt chứng tam-muội sẽ chẳng phải là chuyện khó. Nếu chẳng trọn đủ [bốn pháp ấy], đối với tam-muội này, chẳng cần phải bàn tới, chẳng dính dáng, vì vẫn còn cách biệt quá xa, vẫn phải nên buông bỏ rất nhiều thứ!
(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân độc tụng, thọ trì thị tam-muội điển, hoặc thời phục năng vị tha giải thuyết, hiện tiền tức hoạch ngũ chủng công đức.
(經)復次賢護!若有善男子善女人 ,讀誦受持是三昧 典,或時復能爲他解說,現前即獲五種功德。
(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân đọc tụng, thọ trì kinh điển tam-muội này, hoặc có khi lại có thể vì người khác giải nói, hiện tiền sẽ đạt được năm loại công đức).
Đây là hai pháp. Một là tự mình đọc tụng, thọ trì kinh điển tam-muội này, đạt được năm thứ công đức và lợi ích. Hai là khi vì người khác giải nói, sẽ liền đạt được năm thứ công đức trong hiện tiền. Chúng ta có thể nghiệm chứng năm loại công đức ấy và lợi ích của chúng. Vì báng pháp thì sẽ có nỗi khổ do báng pháp, chửi bới sẽ tự có nỗi khổ do chửi bới, hành pháp sẽ tự có niềm vui do hành pháp. Đối với lạc, chúng ta có thể như thật quan sát. Đức Thế Tôn dạy: Trì tụng kinh điển này, cho đến vì người khác giải nói, sẽ có năm thứ công đức. Sau khi chúng ta đã có nhân duyên tự mình đọc tụng, do nhân duyên trao đổi, giải nói với người khác, sẽ có thể thấy năm thứ công đức ấy tương ứng hay không? Nếu tương ứng, tức là chư Phật nói lời thành thật. Nếu chẳng tương ứng, lẽ nào Phật chẳng nói lời thành thật ư? Hãy nên tự hỏi ngược lại chính mình, xét xem chính mình có phải là thật sự đọc tụng kinh điển này, vì người khác giải nói hay không? Như thế chính là hành chân thật!
(Kinh) Hà đẳng vi ngũ? Nhất giả, nhất thiết chúng độc bất năng tổn hại.
(經)何等爲五?一者、一切衆毒不能損害。
(Kinh: Những gì là năm? Một là hết thảy các chất độc chẳng thể tổn hại).
Do công đức hành pháp hoặc tụng kinh, hết thảy các chất độc chẳng thể tổn hại. Nếu quý vị nói: “Tôi cố ý tìm các chất độc đến thử xem sao?” Tâm trí kiểu đó chẳng tương ứng! Cũng có nghĩa là: Nếu chúng ta thật sự tu tập pháp tắc này, hết thảy các thứ độc hại do thiếu ý thức, hoặc các thứ độc hại của người khác đều chẳng thể làm hại chúng ta!
(Kinh) Nhị giả, nhất thiết binh trượng bất năng phá thương.
(經)二者、一切兵仗不能破傷。
(Kinh: Hai là hết thảy các thứ vũ khí chẳng thể gây thương tổn).
Chẳng bị vũ lực, hung khí gây thương tổn. Ở đây, đức Thế Tôn nói đến lợi ích và công đức trong hiện tiền. Chúng ta chớ nên sợ hãi lợi ích, mà cũng đừng nên tham cầu lợi ích; chỉ nên như thật đối diện lợi ích này!
(Kinh) Tam giả, nhất thiết chư thủy bất năng phiêu một.
(經)三者、一切諸水不能漂沒。
(Kinh: Ba là hết thảy các thứ nước chẳng thể trôi chìm được).
Đương nhiên đây chẳng phải là để cho chúng ta thí nghiệm, chẳng hạn như nói: “Ta nhảy xuống nước xem sao?” Nhất định đừng nên có loại tâm lý chẳng tương ứng ấy. Đức Thế Tôn nói các pháp ấy, hoàn toàn chẳng vì để cho chúng ta thách thức các nạn duyên ấy, mà nhằm bảo chúng ta: Giả sử nhằm lúc có nạn duyên ấy hiện tiền, công đức và lợi ích ấy sẽ hiện tiền.
(Kinh) Tứ giả, nhất thiết mãnh hỏa bất năng phần thiêu. Ngũ giả, ác vương, huyện quan bất năng đắc tiện.
(經)四者、一切猛火不能焚燒。五者、惡王縣官不能得便。
(Kinh: Bốn là hết thảy lửa mạnh chẳng thể thiêu đốt. Năm là vua ác và quan huyện chẳng thể có dịp làm hại).
Kẻ ác không gì chẳng vì tâm trí chỉ quan tâm đến lợi ích hiện tiền. Ở đây, nói cách khác là chẳng bị kẻ nắm giữ quyền cao chức trọng nô dịch, sai sử.
(Kinh) Sở dĩ giả hà? Do thị tam-muội từ tâm lực cố.
(經)所以者何?由是三昧慈心力故。
(Kinh: Vì cớ sao vậy? Do sức từ tâm của tam-muội này vậy).
Đọc tụng hoặc vì người khác giải nói, sức từ tâm của tam-muội này sẽ tự nhiên tương ứng. Tuy chưa chứng tam-muội, sức ấy đã sanh khởi. Cũng có nghĩa là: Tuy đã giải nói cho người khác, tam-muội vẫn chưa tương ứng, nhưng sức tam-muội đã sanh khởi chủng tánh chín muồi trong tâm Từ, cho đến có thể nói là cơ chế hoàn thiện. Do vậy sẽ đắc lực, tức là sẽ đắc lực khi nạn duyên hiện tiền.
(Kinh) Hiền Hộ! Nhược bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhất tâm cần cầu thị tam-muội thời, độc tụng, thọ trì thị tam-muội thời, tư duy tu tập thị tam-muội thời, vị tha giải thích thị tam-muội thời.
(經)賢護!若彼善男子善女人,一心勤求是三昧時,讀誦受持是三昧時,思惟修習是三昧時,爲他解釋是三昧時。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy khi nhất tâm siêng cầu tam-muội này, khi đọc tụng, thọ trì tam-muội này, khi tư duy, tu tập tam-muội này, khi vì người khác giải thích tam-muội này).
Đây là bốn loại chúng sanh, tức là các chúng sanh dùng bốn loại phương pháp để tiếp xúc giáo ngôn của tam-muội này: Có người là cầu tam-muội này, có người thì đọc tụng, thọ trì tam-muội này, có người tu tập, tư duy tam-muội này, có người vì kẻ khác giải nói tam-muội này. Bốn loại hữu tình ấy đạt được công đức và lợi ích như sau…
(Kinh) Nhược hữu chúng độc, cập dĩ binh trượng, nhất thiết thủy, hỏa, ác vương, huyện quan năng thương hại giả, vô hữu thị xứ!
(經)若有衆毒,及以兵仗,一切水火惡王縣官能傷害者,無有是處。
(Kinh: Nếu có các thứ chất độc, cùng với vũ khí, hết thảy nước, lửa, vua ác, quan huyện có thể tổn thương [người hành trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, vì người khác giải nói tam-muội này], chẳng có lẽ ấy).
Vì sao đức Thế Tôn cổ vũ chúng ta như vậy? Thật ra, Ngài như thật bảo cho chúng ta biết lợi ích do tư duy tam-muội này, lợi ích do giải nói tam-muội này, lợi ích do siêng cầu tam-muội này, lợi ích do đọc tụng, thọ trì tam-muội này. Trong bốn loại cơ chế, lợi ích đều giống hệt như nhau!
(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Giả sử thế gian Hoại Kiếp chi hỏa, thế giới diễm hách, thiên địa đỗng nhiên. Nhược bỉ thọ trì thử tam-muội điển, chư thiện nam tử cập thiện nữ nhân, thiết linh đọa lạc đại kiếp hỏa trung, tam-muội oai thần, bỉ hỏa tức diệt.
(經)復次賢護!假使世間壞劫之火,世界焰赫,天地洞然。若彼受持此三昧典 ,諸善男子及善女人 ,設令墮落
大劫火中,三昧威神,彼火即滅。
(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Giả sử khi thế gian bốc lửa Hoại Kiếp, thế giới cháy sáng rực, trời đất rỗng tuếch. Nếu các thiện nam tử và thiện nữ nhân thọ trì kinh điển tam-muội này, dù rơi vào lửa đại kiếp, do sức oai thần của tam-muội, lửa ấy bèn tắt).
Trong phần trước, đức Thế Tôn đã thọ ký mười phần rõ rệt, nơi một ngàn đức Phật trong Hiền Kiếp, cho đến tột cùng đời vị lai, có năm trăm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cho đến tám vị Đại Sĩ v.v… đều thủ hộ sự thiện xảo của tam-muội này, chẳng để kinh điển bị mai một trong thế gian, độ nhiều chúng sanh, lợi ích rộng khắp nhiều hữu tình. Đời đời tiếp tục như thế, Ngài lại còn nói: Khi Di Lặc Phật Thế Tôn giáng thế, pháp này cũng được thanh tịnh tiếp nối, lưu truyền rộng khắp trong thế gian. Do vậy, sức của môn tam-muội này chẳng phải là pháp riêng biệt, hoặc phương pháp giải thoát riêng biệt của đức Thế Tôn, mà đều có thể truyền bá rộng khắp trong các nơi chốn của mười phương chư Phật, khiến cho hết thảy hữu tình hữu duyên đều có thể đạt được lợi ích chân thật rộng lớn. Chư vị thiện tri thức ơi! Chúng ta liên tưởng văn tự trong phần trước, sẽ có cảm nhận và quan sát rành rẽ đối với lời dạy của đức Thế Tôn.
(Kinh) Hiền Hộ! Hựu như anh thủy năng diệt tiểu hỏa. Như thị Hiền Hộ! Giả sử trì kinh chư thiện nam tử, cập thiện nữ nhân, lạc bỉ hỏa trung, tam-muội lực cố, đại hỏa tùy diệt. Nhược bất diệt giả, vô hữu thị xứ.
(經)賢護!又如罌水能滅小火。如是賢護!假使持經諸善男子及善女人,落彼火中,三昧力故,大火隨滅。若不滅者,無有是處。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Lại như nước từ cái vò có thể diệt lửa nhỏ. Như thế đó Hiền Hộ! Giả sử các thiện nam tử và thiện nữ nhân trì kinh rơi vào lửa ấy, do sức của tam-muội, lửa lớn liền tắt. Nếu chẳng tắt, chẳng có lẽ ấy).
Bọn phàm phu bình phàm chúng ta chẳng thể thấy biết kiếp hỏa. Nếu kiếp hỏa xảy ra, sanh mạng sẽ không có chỗ nào nương nhờ. Ở đây, đức Phật nói tướng đại công đức có thể diệt kiếp hỏa khi kiếp hỏa xảy ra. Đức Thế Tôn là đấng nói lời thành thật, muốn khiến cho chúng sanh thật sự nhận thức lợi ích của pháp tắc này trong Phật pháp, cho đến lợi ích của tam-muội.
(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Nhược bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ trì kinh thời, nhược bỉ ác vương, nhược ác huyện quan, nhược kiếp tặc, nhược sư tử, nhược hổ lang, nhược độc xà, nhược năng tác chướng ngại giả, vô hữu thị xứ.
(經)復次賢護!若彼善男子善女人受持經時,若彼惡王,若惡縣官,若劫賊,若師子,若虎狼,若毒蛇,若能作障礙者,無有是處。
(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy lúc thọ trì kinh mà hoặc là vua ác, hoặc quan huyện ác, hoặc giặc cướp, hoặc sư tử, hoặc cọp, sói, hoặc rắn độc, giả sử có thể gây chướng ngại thì chẳng có lẽ ấy).
Không chỉ là chẳng bị kiếp hỏa tổn hoại, mà các ác duyên cũng chẳng thể thành tựu, cũng chẳng có lẽ ấy!
(Kinh) Hựu thiết bỉ đẳng hành thị kinh thời, nhược bị dạ-xoa, nhược La-sát, nhược ngạ quỷ, nhược Cưu Bàn Trà, nhược Tỳ Xá Xà, nãi chí nhất thiết phi nhân năng vi chướng ngại, diệc vô hữu thị xứ.
(經)又設彼等行是經時,若被夜叉,若羅剎,若餓鬼,若鳩槃茶,若毘舍闍,乃至一切非人能爲障礙,亦無有是處。
(Kinh: Lại giả sử những người ấy khi tu hành kinh này, nếu bị dạ-xoa, hoặc la-sát, hoặc ngạ quỷ, hoặc Cưu Bàn Trà, hoặc Tỳ Xá Xà, cho đến hết thảy phi nhân có thể gây chướng ngại thì cũng chẳng có lẽ ấy).
Trong phần trước đã nói thế gian chẳng thể xâm hại; ở đây nói quỷ thần cũng chẳng thể xâm hại.
(Kinh) Hựu nhược bỉ nam tử, nữ nhân độc tụng kinh thời, chánh tư duy thời, vị tha thuyết thời, nhập tam-muội thời.
(經)又若彼男子女人讀誦經時,正思惟時,爲他說時,入三昧時。
(Kinh: Lại nếu người nam kẻ nữ ấy khi đọc tụng kinh, khi chánh tư duy, khi vì người khác nói, khi nhập tam-muội).
Trong bốn loại cơ chế ở đây, hoặc là khi đọc tụng, khi vì người khác giảng nói, khi tư duy, khi nhập tam-muội, lợi ích đều giống nhau. Chẳng phải là đã chứng đắc tam-muội thì mới có lợi ích như thế. Khi đọc tụng, lợi ích cũng giống hệt. Khi tư duy, lợi ích cũng giống như hệt. Khi nói cho người khác, lợi ích giống hệt. Khi nhập tam-muội, lợi ích giống hệt. Dù là khi tu nhân, hay khi vừa mới hướng đến, hay được tiếp xúc, cho đến một niệm tùy hỷ, cũng đạt được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn này. Như thế thì chúng ta sẽ yêu mến pháp tắc này, tiếp xúc tam-muội này sẽ phát khởi duyên khởi rộng lớn, thanh tịnh, chân thật, tức là duyên khởi lợi ích thế gian, ta lẫn người đều được lợi.
(Kinh) Hành phạm hạnh thời, nhược thất y, nhược thất bát, nãi chí hữu chư chướng ngại sự giả, vô hữu thị xứ.
(經)行梵行時,若失衣,若失鉢,乃至有諸障礙事者,無有是處。
(Kinh: Khi hành phạm hạnh, nếu mất y, hoặc là mất bát, cho đến có các chuyện chướng ngại thì chẳng có lẽ ấy).
Đức Thế Tôn nói công đức và lợi ích của pháp tắc này đến chỗ cực vi tế, thậm chí những chi tiết vặt vãnh trong cuộc sống, như các chuyện nhỏ nhặt như mất y, mất bát v.v… Ngài đều nhắc nhở chúng ta: “Do hành pháp này, sẽ chẳng có chướng ngại như thế”. Trước kia, khi tôi ở trong núi, thường có kẻ hỏi: “Ở trong núi có gì ăn? Dùng gì đây?” Thật ra, nếu chúng ta thật sự nương theo lời giáo huấn của Thích Ca Thế Tôn, bất luận sống ở chỗ hẻo lánh tới mấy đi nữa, chẳng cần phải lo nghĩ vì cơm áo. Quý vị có thể thí nghiệm thử xem! Quý vị hành trì đúng pháp, đọc tụng đúng pháp, thâm nhập pháp tắc đúng pháp, chánh tư duy quan sát pháp tắc này, quý vị sẽ đạt được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Trước kia, vị thầy quy y của tôi khi vừa mới tiếp xúc Phật pháp, thầy thường ở trong núi. Mỗi ngày, hai giờ sáng thầy thức dậy, trèo lên núi để tu trì pháp mà thầy nghĩ là đáng nên tu trì. Có khi tới các chỗ rất hẻo lánh, nơi chẳng có người sống để tu tập pháp tắc, thường chẳng có cơm ăn. Chẳng phải là chính thầy không có cơm ăn, mà là do Ngài thường chẳng có ý nghĩ nấu cơm. [Thế nhưng] cứ mỗi khi thầy cảm thấy đói bụng, sẽ thường có người đưa thức ăn tới. Thầy gặp rất nhiều chuyện như thế. Sau đó, tôi ở trong núi, cũng đích thân thể nghiệm như thế rất nhiều. Không chỉ là sự ăn uống và tiêu dùng của chính mình, mà cho đến pháp tắc, cho đến các nhân duyên khác, đều có chư Phật, Bồ Tát, hộ pháp long thiên, thiện tri thức dùng oai thần nhiếp thọ, hộ trì, khiến cho hiện duyên của quý vị nhanh chóng chuyển hóa. Quý vị có tin hay không? Phải tu tập! Chẳng tu tập, sẽ chẳng được!
Quý vị nói xem, lợi ích nhiều như thế có thật hay không? Trong quá trình kinh hành Ban Châu, quý vị cứ thong thả quan sát, tu tập, chẳng vì lợi ích mà kinh hành; nhưng quý vị phải quan sát chuyện này, phải quan sát vi tế. Chẳng quan sát các lợi ích ấy, sẽ chẳng thể liễu giải Ban Châu. Quý vị nói: “Tôi là người vừa mới phát tâm cầu tam-muội này, có lợi ích như thế hay không?” Có chứ! Quý vị nói: “Tôi vừa mới đọc tụng kinh điển này, có lợi ích như thế hay không?” Có chứ! Quý vị nói: “Tôi vừa mới giải nói cho người khác, chính tôi chẳng chứng đắc tam-muội như thế, có lợi ích như thế hay không?” Có chứ! Nếu đã chứng đắc tam-muội như thế, sẽ chẳng mảy may hoài nghi lợi ích ấy, tự nhiên sẽ có thiện xảo rộng lớn!
Do vậy, trong bốn loại cơ chế ấy, lợi ích giống nhau, chỉ là nói theo phương diện chủ động hay bị động. Chẳng hạn như đối với người đã chứng đắc tam-muội thì là chủ động. Lại như chúng ta hướng tới pháp tắc này, cũng là chủ động, chỉ là phẩm lượng chủ động có khác biệt. Tuy là như thế, nhưng nói theo cơ chế hành pháp chủ động thì lợi ích giống hệt nhau. Nếu nhận thức điều này, chúng ta đối với pháp sẽ chẳng có chuyện chẳng yêu mến, chẳng truyền bá, chẳng thực tập. Chúng ta đã gặp món trân bảo này, chớ nên bỏ mất, nhất là pháp này có thể hành, có thể biết, có kinh điển để có thể nương cậy, có pháp để có thể tu tập!
(Kinh) Duy trừ túc ương bất khả chuyển giả.
(經)唯除宿殃不可轉者。
(Kinh: Chỉ trừ [trường hợp đã có] ương hoạn từ đời trước chẳng thể chuyển được).
Đối với câu nói này, có những Bồ Tát chắc là nẩy sanh lo ngờ. Cớ sao nêu ra điểm này? Chúng tôi nêu ra một thí dụ. Chẳng hạn như một người mà phước đức và nhân duyên đã tới tột cùng, tức là nghiệp đã đến chỗ cùng tận, định nghiệp đã hiện, vốn nên sống tới sáu mươi tuổi. Quý vị nói: “Kinh hành Ban Châu sẽ có thể sống tới một trăm hai mươi tuổi”. Đây chắc là một cách nói chẳng tương ứng cho lắm, vì trong nghiệp báo có định nghiệp. Như sắc thân này của chúng ta có định nghiệp “ắt phải chết”, vì chúng ta là Phần Đoạn Sanh Tử. Cái ngày sanh ra đời chính là một chỉ dấu “sắc thân này ắt phải tử vong”. Đó là định nghiệp xứ. Ngoại trừ loại nghiệp duyên này, các chướng duyên khác [do công đức hành Ban Châu] đều có thể tiêu trừ. Quý vị nói: “Tôi kinh hành Ban Châu có thể sống tới vạn vạn năm hay không?” Sắc thân của quý vị không được, nhưng thiện duyên của quý vị có thể tiếp nối. Chẳng thể nói là “Ngã tiếp nối”, vì nếu nói như thế, chẳng phải đã trở thành “thường pháp” hay sao? Chính là “nghiệp tiếp nối”, chẳng phải “Ngã tiếp nối!”
Có hữu tình chấp trước pháp tắc “có Ngã”. Ta có thể sống khá lâu, hoặc là nói “trong vị lai, Ngã là như thế nào?” Đó đều là nói giả thiết, vì Ngã có dấu hiệu là gì? Có người nói dùng Tứ Đại làm dấu hiệu, người ấy đã chết thì cái Ngã làm sao an lập cho được? Có người coi ý thức là Ngã. Ý thức biến đổi, Ngã làm sao tồn tại cho được? Thật ra, Phật pháp quan sát rất thấu triệt, quan sát chân thật: Pháp là vô ngã, con người cũng là vô ngã. Sự vật, ý thức, cho đến hết thảy các thứ đều chẳng có tự tánh, chúng ta phải quan sát như thật. Biểu hiện của sắc thân và ý thức chỉ là biểu hiện của nhân duyên mà thôi! Do nhân duyên liên tục, bèn miễn cưỡng gọi nghiệp tướng là Ngã. Rất nhiều người nói: Trong Tạng truyền Phật giáo, có người này chuyển thế bao nhiêu đời, người kia chuyển thế bao nhiêu đời, đó chẳng phải là Ngã ư? Chẳng phải. Đó là một thệ nguyện, nghiệp tướng liên tục đó thôi! Nếu thật sự là một cái Ngã, sẽ chẳng gọi là Hoạt Phật (Phật sống). Họ cũng chẳng “hoạt” được, mà cũng chẳng có ý nghĩa! Do vậy, chúng ta từ sự tiếp nối nghiệp vô ngã, tiếp nối nhân duyên vô ngã, mà trông thấy sự tiếp tục của từng pháp tắc đó thôi!
Bàn tới Vô Ngã, chớ nên sanh lòng sợ hãi, phải dám quan sát, vì trong giáo ngôn của đức Thế Tôn, pháp là vô ngã, pháp là vô thường. Ắt cần phải nhận thức điều ấy. Nếu quý vị chẳng liễu giải, cứ mong né tránh điều này, sẽ nẩy sanh rất nhiều nỗi sợ hãi, hoảng hốt, cho đến chẳng dám léo hánh các chuyện này! Như thế thì sẽ chẳng đạt được giải thoát, trí huệ, và phương tiện rốt ráo. Đối với điều này, chúng ta nhất định phải khéo tư duy và quan sát.
Vì thế, “duy trừ túc ương bất khả chuyển hóa” (chỉ trừ ương hoạn từ đời trước chẳng thể chuyển hóa), tức là dị duyên (cái duyên của Dị Thục Quả) nối tiếp chín muồi, tức là mạng của người ấy được chuyển tới chỗ này. Đó có phải là Túc Mạng Luận hay không? Chẳng phải! Chỉ bất quá là nhân duyên của nó chín muồi, chín muồi như thế đó. Vậy thì chúng ta phải biến đổi điều gì? Trên thực tế là trừ phiền não, trừ chướng ngại, lìa các nỗi khổ hậu hoạn. Cũng có nghĩa là chẳng còn tạo tác các nỗi khổ hậu hữu. Đó là sự thiện xảo của Phật pháp trong hiện đời.
Nếu quý vị mong cho nỗi khổ trước kia cũng ngưng dứt, tức là có tâm vị lai, tâm quá khứ, tâm hiện tại. Nếu cưỡng chấp an lập ba cái tâm ấy, người như thế sẽ luân hồi chẳng ngớt, vì loại tâm đối đãi ấy tất nhiên là có nghiệp tướng luân hồi.
(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Nhược bỉ thọ trì tam-muội kinh điển, chư thiện nam tử, thiện nữ nhân bối, nhược hoạn nhãn, nhược hoạn nhĩ, nhược hoạn tỵ, nhược hoạn thiệt, nhược hoạn thân, nhược hoạn tâm. Phục hữu chư dư chủng chủng hoạn nạn, nãi chí mạng nạn, phạm hạnh nạn giả, diệc vô thị xứ. Phục thứ Hiền Hộ! Nhược bỉ nam tử, nữ nhân, ư thử kinh trung, đắc như thị văn, đắc như thị kiến, đắc như thị tri, như thị cụ túc dĩ, nhược bất trị Phật, nhược báng chánh pháp, phá hòa hợp Tăng, bối Phật Bồ Đề giả, diệc vô thị xứ!
(經)復次賢護!若彼受持三昧經典,諸善男子善女人輩,若患眼,若患耳,若患鼻,若患舌,若患身,若患心。復有諸餘種種患難,乃至命難,梵行難者,亦無是處。復次賢護!若彼男子女人,於此經中,得如是聞,得如是見,得如是知,如是具足已,若不值佛,若謗正法,破和合僧,背佛菩提者,亦無是處。
(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Nếu các vị thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ trì kinh điển tam-muội ấy, hoặc bị bệnh mắt, hoặc bị bệnh tai, hoặc bị bệnh mũi, hoặc bị bệnh lưỡi, hoặc bị bệnh về thân, hoặc bệnh về tâm. Lại có các thứ hoạn nạn khác, cho đến nạn về tánh mạng, chướng nạn về phạm hạnh thì cũng chẳng có lẽ ấy. Lại này Hiền Hộ! Nếu nam tử, nữ nhân ấy ở trong kinh này được nghe như thế, được thấy như thế, được biết như thế, trọn đủ như thế, mà nếu chẳng gặp Phật, hoặc báng chánh pháp, phá hòa hợp Tăng, trái nghịch Bồ Đề của Phật thì cũng chẳng có lẽ ấy).
Đoạn văn tự này từ các hoạn nạn nơi thân thể mà nói đến chuyện không có các hoạn nạn. Một là từ chỗ hoạn nạn thuộc về pháp duyên và chỗ hoạn nạn thuộc về thiện pháp để nói tới chuyện không có các hoạn nạn, tức là sẽ miễn trừ các loại bệnh tật nơi thân thể, [hai là] cũng sẽ tránh khỏi các thứ mạng nạn thuộc về phạm hạnh nhờ sức của tam- muội.
“Nhược bất trị Phật, vô hữu thị xứ” (Nếu chẳng gặp Phật, chẳng có lẽ ấy), nghĩa là nhất định sẽ gặp Phật. Vì lẽ nào? Tu trì Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập tam-muội, dù là đắc hay chẳng đắc, do đã gieo cái nhân, hễ quả đã thành, tức là tam-muội hiện tiền, mười phương chư Phật đều hiện tiền, sẽ được trông thấy, sẽ vận dụng. Chẳng hiện tiền thì cái nhân ấy vẫn chân thật, chẳng dối; trong tương lai sẽ đạt được cái quả ấy. Nếu quý vị nói: “Tôi chẳng cầu trong tương lai, mà muốn cầu ngay trong hiện tại, có được hay không?” Muốn vậy thì quý vị hãy đích thân chứng tam-muội, sẽ được thấy chư Phật, đích thân được nghe dạy bảo.
“Nhược báng chánh pháp, phá hòa hợp Tăng, bối Phật Bồ Đề giả, diệc vô hữu thị xứ” (Nếu báng chánh pháp, phá hòa hợp Tăng, trái nghịch Bồ Đề của Phật, cũng chẳng có lẽ ấy): Chúng ta thật sự nương tựa giáo điển như thế, mà nếu báng pháp, phá hòa hợp Tăng, trái nghịch Bồ Đề, chẳng thể có lẽ ấy. Đừng nên xem thường trạng thái trong xã hội hiện thời! Hiện thời, kẻ phá hoại Tăng pháp, phá hoại pháp Bồ Đề của Phật, phỉ báng chánh pháp thường lừng lẫy trong những người học Phật, chứ ngoại đạo chẳng thể phá! Do vậy nói: “Ngoại thú chẳng thể xâm phạm, quấy nhiễu sư tử vương. Chỉ có trùng sanh trong bụng sư tử mới có thể khiến cho xương cốt, thể chất của sư tử bị tan hoại, sắc thân tan hoại”. Phật pháp cũng giống như thế đó! Tuy Phật pháp đã thể hiện tướng trạng Mạt Pháp, thân tướng sư tử rất oai hùng, dũng mãnh, ngoại đạo vẫn chẳng dám xâm phạm, quấy nhiễu, nhưng Ba Tuần đã lập thệ nguyện, chúng ta cũng chớ nên quên! Tức là hắn sẽ từ trong nội bộ của Phật pháp mà bại hoại, tàn diệt Phật pháp, hủy diệt tự viện, hủy diệt đạo tràng. Có kẻ thích làm cho đạo tràng tu pháp chẳng được an lạc, chẳng được yên tĩnh. Mọi người tu tập Phật pháp chẳng có thứ tự. Đối với những kẻ phá diệt đạo tràng ấy, chúng ta hãy nên dùng lời thệ nguyện của Ba Tuần cảnh tỉnh họ, khiến cho họ bỏ ác duyên “trở thành quyến thuộc của Ba Tuần”. Đấy là ác duyên, nếu quý vị chẳng nhắc tới chuyện ấy, sẽ có kẻ đến tự viện để gây họa hại cho tự viện, phá hoại sự kiến thiết của quý vị.
Chúng ta đều biết: Trong Bồ Tát giới, chỗ nào cũng đều bảo chúng ta, đối với chuyện kiến lập tháp miếu, dựng lập tượng Phật, khiến cho chúng sanh có chỗ để tu pháp, hành pháp, nghe giảng, và trao đổi Phật pháp. Nhân duyên phước đức như thế chúng ta đều phải thực hiện. Các vị tăng sĩ là người phải nên thủ hộ tự viện, thủ hộ đạo tràng, siêng năng tu tập các pháp trong đạo tràng, cho đến thành tựu các pháp. Hàng Bồ Tát và các vị Thanh Văn tuy thọ trì và truyền bá [các pháp môn] sai khác, nhưng bất luận xuất gia hay tại gia, đều phải bảo vệ đạo tràng, thực hiện pháp tắc, tôn trọng hòa hợp, chẳng trái nghịch Bồ Đề. Đấy là con đường chánh đáng tất nhiên, là điều có ý nghĩa. Đối với kẻ trái nghịch, chúng ta nhất định phải cảnh tỉnh chính mình và người khác: “Đừng đọa lạc thành quyến thuộc của Ba Tuần, phá hoại đạo tràng, hủy hoại Phật pháp, khiến cho việc kiến thiết đạo tràng gặp nhiều duyên trái nghịch, thậm chí chẳng thể thành tựu”. [Nếu làm các hành vi phá hoại] như thế thì quý vị đắp y của Như Lai mà phá hoại pháp của Như Lai, ăn cơm của Như Lai mà diệt giáo pháp của Như Lai! Đó gọi là “đệ tử của Ba Tuần”, vì Ba Tuần đã lập thệ nguyện như thế này: Vào lúc đức Thế Tôn sắp diệt độ, hắn đã đối trước đức Thế Tôn thốt ra lời ác như sau: “Thế Tôn! Sau khi Ngài nhập diệt, ta sẽ sai quyến thuộc của ta đắp y của Ngài, ăn cơm của Ngài, ở trong chùa của Ngài, phá hoại pháp của Ngài”. Ở trong chùa miếu, chúng ta phải cảnh tỉnh chính mình, cảnh tỉnh người khác như thế nào? Nếu gặp phải kẻ hoại pháp, hủy diệt hòa hợp, khiến cho tự viện chẳng kiến thiết tương ứng, chửi bới Tăng chúng, rủa xả Phật pháp, hãy nên nhắc nhở kẻ đó đừng đọa lạc thành quyến thuộc của Ba Tuần, chớ làm quyến thuộc của Ba Tuần. Đó là chuyện có lợi, có ý nghĩa, có xuất xứ. Nếu trong quá trình chúng ta thật sự hành trì pháp tắc tam-muội, sẽ chẳng hành trì các pháp tắc [phá hoại Phật pháp, phá hòa hợp Tăng như thế]. Nếu thật sự yêu mến pháp tắc tam-muội, sẽ chẳng có cơ hội để tạo tác các nghiệp duyên ấy! Cho nên nói là “vô hữu thị xứ” (chẳng có lẽ ấy, không thể nào xảy ra được).
(Kinh) Hiền Hộ! Đương tri tức bỉ trì kinh nam tử, nữ nhân, như thượng chư sự mạc năng vi ngại, duy trừ túc ương bất năng chuyển nhĩ!
(經)賢護!當知即彼持經男子女人,如上諸事莫能爲礙,唯除宿殃不能轉耳。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Hãy nên biết các chuyện trên đây chẳng thể trở ngại, người nam, kẻ nữ trì kinh được, chỉ trừ ương họa trong đời trước chẳng thể chuyển mà thôi!)
Có các vị Bồ Tát tuy đến tu tập pháp, nhưng tâm trí chẳng tương ứng, hoặc là trong tâm chẳng tiếp nhận. Đối với chuyện này, trong các kinh Đại Thừa, đức Thế Tôn đã thọ ký khiến cho mọi người vui mừng, được cổ vũ. Sau khi Ba Tuần đã phát ác thệ như trên, đức Thế Tôn dùng tâm trí quang minh rộng lớn, thọ ký cho Ba Tuần và con cái của hắn: “Lành thay! Ông đã phát ra ác nguyện, nhưng vì công đức oai thần chẳng thể nghĩ bàn của Phật pháp, quyến thuộc của ông do đắp y Như Lai, ăn cơm của Như Lai, hành pháp của Như Lai, ở trong chùa của Như Lai, bèn được thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”. Ở đây, chúng ta cũng có thể nhắc nhở: Chẳng hạn như có kẻ tạo nhiều duyên trái nghịch, gây nguy hại cho Tăng chúng, nguy hại đạo tràng, nguy hại hòa hợp, nguy hại người khác học pháp tắc trong Phật pháp, lời thọ ký này của đức Thế Tôn cũng có thể nhắc nhở kẻ đó tín thuận lời đức Phật dạy như thế, thủ hộ lời dạy của đức Thế Tôn, có thể thoát lìa sanh tử y hệt. Vì thế, đối với chỗ thiện xảo rộng lớn trong lời dạy của đức Thế Tôn, cho đến các loại hữu tình nếu hữu duyên với Phật pháp, ắt sẽ thành tựu.
(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân trì thị kinh giả, thường vị nhất thiết chư thiên xưng tán.
(經)復次賢護!彼善男子善女人持是經者,常爲一切諸天稱讚。
(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy do trì kinh này, thường được hết thảy chư thiên ca ngợi).
Sau đó, đức Thế Tôn bảo chúng ta: Hành pháp tắc này, sẽ được hết thảy hữu tình trong thế gian ca ngợi, kính yêu, thủ hộ, mong gặp gỡ, quan tâm chiếu cố. Tức là Ngài đã từ đủ mọi khía cạnh để nêu ra công đức thù thắng, công đức chẳng thể nghĩ bàn, công đức viên mãn rộng lớn rốt ráo của pháp tắc này. Ở đây, Ngài nói theo phương diện “xưng tán”.
(Kinh) Diệc vị nhất thiết chư long xưng tán, hựu vị nhất thiết Dạ Xoa xưng tán. Hựu vị nhất thiết Càn Thát Bà đẳng chi sở xưng tán. Hựu vị nhất thiết A Tu La đẳng chi sở xưng tán. Hựu vị nhất thiết Ca Lâu La đẳng chi sở xưng tán. Hựu vị nhất thiết Khẩn Na La đẳng chi sở xưng tán. Hựu vị nhất thiết Ma Hầu La Già chi sở xưng tán. Hựu vị nhất thiết nhân phi nhân đẳng chi sở xưng tán. Hựu vị nhất thiết tứ đại thiên vương chi sở xưng tán. Hựu vị nhất thiết Đế Lợi Thiên Vương chi sở xưng tán. Hựu vị nhất thiết Đại Phạm Thiên Vương chi sở xưng tán. Như thị nãi chí thường vị nhất thiết chư Phật Thế Tôn chi sở xưng tán dã.
(經)亦爲一切諸龍稱讚,又爲一切夜叉稱讚。又爲一切乾闥婆等之所稱讚。又爲一切阿修羅等之所稱讚。又爲一切迦樓羅等之所稱讚。又爲一切緊那羅等之所稱讚。又爲一切摩睺羅伽之所稱讚。又爲一切人非人等之所稱讚。又爲一切四大天王之所稱讚。又爲一切帝利天王之所稱讚。又爲一切大梵天王之所稱讚。如是乃至常爲一切諸佛世尊之所稱讚也。
(Kinh: Cũng được hết thảy các rồng khen ngợi, lại được hết thảy Dạ Xoa khen ngợi. Lại được hết thảy Càn Thát Bà ca ngợi. Lại được hết thảy A Tu La ca ngợi. Lại được hết thảy Ca Lâu La ca ngợi. Lại được hết thảy Khẩn Na La ca ngợi. Lại được hết thảy Ma Hầu La Già ca ngợi. Lại được hết thảy nhân phi nhân ca ngợi. Lại được hết thảy tứ đại thiên vương ca ngợi. Lại được hết thảy Đế Lợi Thiên Vương ca ngợi. Lại được hết thảy Đại Phạm Thiên Vương ca ngợi. Như thế cho đến thường được hết thảy chư Phật Thế Tôn ca ngợi).
Nói theo phương diện khen ngợi: [Người thọ trì kinh điển này] được hết thảy hữu tình trong thế gian, cho đến chư Phật, Bồ Tát đều khen ngợi. Đức Thế Tôn dùng thiện xảo đại oai đức như thế để khích lệ chúng ta yêu mến, đọc tụng, tu tập, truyền bá, giải nói, đích thân chứng đắc pháp tắc này.
(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Hựu bỉ chư thiện nam tử, thiện nữ nhân trì thị kinh giả, thường vị nhất thiết chư thiên ái kính. Như thị nãi chí thường vị nhất thiết chư long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng chi sở ái kính. Hựu vị nhất thiết tứ thiên đại vương chi sở ái kính. Như thị thường vị nhất thiết Đế Lợi Thiên Vương, nãi chí nhất thiết Đại Phạm Thiên Vương chi sở ái kính. Như thị thường vị nhất thiết chư Bồ Tát bối, nãi chí nhất thiết chư Phật Thế Tôn chi sở ái niệm dã.
(經)復次賢護!又彼諸善男子善女人持是經者,常爲一切諸天愛敬。如是乃至常爲一切諸龍、夜叉、乾闥婆、阿修羅、迦樓羅、緊那羅、摩睺羅伽、人非人等之所愛敬。又爲一切四天大王之所愛敬。如是常爲一切帝利天王,乃至一切大梵天王之所愛敬。如是常爲一切諸菩薩輩,乃至一切諸佛世尊之所愛念也。
(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân trì kinh này lại thường được hết thảy chư thiên yêu kính. Như thế cho đến thường được hết thảy các rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… yêu kính. Lại được hết thảy tứ thiên đại vương yêu kính. Như thế thường được cho đến hết thảy Đế Lợi Thiên Vương, cho tới hết thảy Đại Phạm Thiên Vương yêu kính. Thường được hết thảy các hàng Bồ Tát cho tới hết thảy chư Phật Thế Tôn yêu mến, nghĩ nhớ như thế).
Ngài dùng hai pháp tán thán và ái kính như trên để viên mãn bảo chúng ta: Người cầu được truyền dạy pháp Ban Châu tam-muội, người đọc tụng, người giải nói, người đích thân chứng đắc như thế, sẽ đạt được tướng công đức rộng lớn, rốt ráo chẳng thể nghĩ bàn, được hết thảy hữu tình trong thế gian yêu kính, cho đến được hết thảy chư Phật, Bồ Tát yêu mến, tưởng nhớ. Chuyện này quả thật chẳng thể nghĩ bàn. Nếu chư Phật, Bồ Tát yêu mến, nghĩ nhớ một ai, hoặc yêu mến, nghĩ nhớ một pháp tắc, sẽ có lợi ích như thế nào? Tâm trí của quý vị giống như một chiếc cell phone, trong ấy chứa đầy các dãy số của chư Phật, Bồ Tát. Quý vị tùy tiện nhấn số nào, cũng đều nhận được lời chúc phước trí huệ của Phật, Bồ Tát, chúc phước quý vị cát tường, khỏe mạnh, oai đức, chúc phước vô tận pháp tắc và gia trì. Bởi đó, quý vị sẽ nhận được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn! Nhưng có kẻ do bị La Sát thâu nhiếp, ác quỷ thâu nhiếp, chẳng hạn như kẻ nhằm lúc hành tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, bị lục đạo ác tánh thâu nhiếp, sẽ biểu lộ thành phiền não thô nặng! Sắc thân này của chúng ta nếu chẳng được thiện hay ác thâu nhiếp, sẽ đều là tướng “không lập” (tồn tại rỗng tuếch), tức là giống như một cái bát, trong đó chẳng đựng chi hết, rỗng không. Một khi nghiệp báo của sắc thân này sắp tận, thiện thần lẫn ác thần đều buông bỏ, thân thể rỗng tuếch, người ấy sẽ chết! Vì thế, đừng nên cho rằng sắc thân này là cái Ta chi cả! Muốn đem nó giả dạng thành thứ gì, quý vị giả dạng chẳng đầy vài chục năm, nó sẽ mất đi. Chẳng cần biết quý vị trau chuốt nó cỡ nào, nó sẽ tan hoại. Thật sự chẳng có thứ gì vĩnh hằng, mà cũng chẳng có một cái Ngã bất hoại! Chúng ta phải như thật nhận thức tánh chất vô thường ấy!
(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Hựu bỉ chư thiện nam tử, cập thiện nữ nhân, dĩ kinh lực cố, thường vị nhất thiết chư thiên thủ hộ.
(經)復次賢護!又彼諸善男子及善女人,以經力故,常爲一切諸天守護。
(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Các thiện nam tử, và thiện nữ nhân ấy, do sức của kinh, lại thường được hết thảy chư thiên thủ hộ).
Trong phần trước là khen ngợi, yêu kính, ở đây nói đến chuyện thủ hộ.
(Kinh) Như thị thường vị nhất thiết chư long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, cập nhân phi nhân chi sở thủ hộ. Hựu vị nhất thiết tứ thiên đại vương, như thị Đế Lợi Thiên Vương, nãi chí Đại Phạm Thiên Vương chi sở thủ hộ. Như thị thường vị nhất thiết chư Bồ Tát bối, nãi chí nhất thiết chư Phật Thế Tôn, tất giai phú hộ.
(經)如是常爲一切諸龍、夜叉、乾闥婆、阿修羅、迦樓羅、緊那羅、摩睺羅伽、及人非人之所守護。又爲一切四天大王,如是帝利天王,乃至大梵天王之所守護。如是常爲一切諸菩薩輩,乃至一切諸佛世尊,悉皆覆護。
(Kinh: Thường được hết thảy các rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, và nhân phi nhân thủ hộ như thế. Lại được hết thảy tứ thiên đại vương, Đế Lợi Thiên Vương như thế, cho đến Đại Phạm Thiên Vương thủ hộ. Thường được hết thảy các vị Bồ Tát cho đến hết thảy chư Phật Thế Tôn thảy đều che chở, bảo vệ như thế).
Trong phần trước nói là “thủ hộ”, vì sao đến chỗ chư Phật, Bồ Tát bèn đổi thành “phú hộ”? Nếu còn nói “thủ hộ” sẽ chẳng tương ứng, khiến cho chúng sanh có tâm tăng thượng mạn; cho nên liền thay đổi một từ ngữ, nói là “phú hộ” (覆護), hàm ý chư Phật, Bồ Tát dùng đại oai đức chân thật thành tựu, chẳng chấp tướng mà che chở, bảo vệ. Trừ Phật, Bồ Tát ra, hết thảy Đại Phạm Thiên Vương, Đế Lợi Thiên (Trāyastriṃśa, Đao Lợi Thiên), tứ thiên vương, cho đến Càn Thát Bà, A Tu La, các rồng, Dạ Xoa, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… đều là đối tượng được lợi ích do niệm Phật, cho nên nói “họ đến thủ hộ quý vị”. Vì lẽ nào? Niệm Phật có thể ban cho họ lợi ích chân thật; cho nên nói “họ sẽ đến ca ngợi, đến yêu kính”, cho tới “đến thủ hộ”. Ở đây, chư Phật Thế Tôn như thật khen ngợi, yêu mến, nghĩ nhớ, che chở, bảo vệ, chư Bồ Tát cũng giống như thế. Đối với chuyện này, tôi cảm thấy mọi người tu tập pháp này vẫn là thuận tiện nhất. Mỗi người chúng ta thật sự tu tập pháp tắc này, lợi ích chân thật sẽ thấm vào sanh mạng của chúng ta, sẽ như thật tồn tại trong sự duy trì sanh mạng, sẽ thiết thực khiến cho chúng ta cảm nhận, vận dụng được!
(Kinh) Thập phương thế giới vô lượng A-tăng-kỳ thế giới trung, hiện trì pháp giả.
(經)十方世界無量阿僧祇世界中,現持法者。
(Kinh: Những người đang trì pháp trong vô lượng A-tăng-kỳ thế giới khắp mười phương thế giới).
Mười phương chư Phật, Bồ Tát che chở, bảo vệ người đang trì pháp trong vô lượng A-tăng-kỳ thế giới trong mười phương thế giới.
(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Hựu bỉ chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, dĩ kinh oai lực cố.
(經)復次賢護!又彼諸善男子善女人,以經威力故。
(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy lại do oai lực của kinh).
Chúng ta nhất định phải chú ý đôi chút. Quý vị được che chở, bảo vệ, yêu mến, tưởng nhớ, ca ngợi, đều là do đọc tụng, cầu được truyền trao, cho đến giải nói kinh điển và đích thân chứng đắc sức tam-muội, cho nên mới có lợi ích tương ứng ấy. Chúng ta nhất định đừng nên vứt bỏ cội nguồn: “Dĩ kinh oai lực cố” (Do sức oai đức của kinh). Do sức của kinh, mỗi đoạn [kinh văn] đều có ngôn từ như vậy để nhắc nhở chúng ta. Nếu chẳng nương theo pháp tắc này, chẳng nương theo kinh điển này, chẳng thể thọ trì kinh điển này, chẳng giải nói, truyền đạt, tu tập kinh điển này, chẳng thủ hộ tam-muội này, các lợi ích ấy sẽ chẳng thể tương ứng.
Có người vì chính mình đã tu tập pháp tắc đôi chút, đạt được đôi chút tương tự lợi ích, bèn quăng kinh điển và pháp tắc qua một bên, do tham cầu oai đức cho chính mình, ngỡ chính mình có oai đức, người như thế sẽ hứng chịu quả báo ác. Nêu một thí dụ đơn giản nhất để nói, chẳng hạn như chúng ta ngồi trong xe thiết giáp, súng ống bình thường chẳng bắn trúng ta. Khi đó, chúng ta nói: “Ối chà! Ta thật sự có oai đức, súng chẳng bắn trúng ta được!” Sau đó, từ trong xe thiết giáp xông ra ngoài, kết quả là súng vừa bắn liền thủng toang. Chúng ta chớ nên cậy vào oai đức của thiện pháp để biểu lộ nghiệp duyên hư vọng của chính mình. Có người có thể mặc áo giáp chống đạn, bị người khác bắn trúng, liền nói: “Các ngươi thấy đó, ta trúng đạn mà chẳng chết!” Nhưng nếu kẻ đó cởi áo chống đạn ra, súng vừa bắn trúng sẽ chết tươi! Chúng ta đạt được các thứ phước đức, nhân duyên, đều nhờ vào sức tam-muội này, nhờ vào sức của kinh điển này, nhờ vào đọc tụng, truyền đạt, hướng đến, cho đến do thành tựu pháp tắc này mà đạt được lợi ích chân thật. Ở đây, chẳng thể nói suông, chẳng thể khoe mẽ giả dối được! Rất nhiều kẻ chẳng đạt được lợi ích trong Phật pháp là vì đã khoe mẽ giả dối như thế, cũng như dựa vào hình tượng hư giả “ta học Phật” mà mong đạt được nội dung thực chất, nhưng thật sự hoàn toàn chẳng thật sự tu tập Phật pháp; cho nên lợi ích chẳng tương ứng. Rất nhiều kẻ học tập Phật pháp, nhưng chẳng tu tập pháp tắc, chỉ trộm cái danh, trộm lấy ngôn thuyết để sau đó đi khoe với người khác, có được hay chăng? Khi nói với người khác, đạt được lợi ích, nhưng vì cái tâm hư giả, khi muốn bản thân chiếm hữu lợi ích ấy, lập tức vứt bỏ kinh điển và pháp tắc, sẽ bị thương tổn. Chúng ta có thể khéo quan sát, phải như thật nhận biết tánh chất liên tục của pháp này.
(Kinh) Nhất thiết chư thiên giai dục kiến chi.
(經)一切諸天皆欲見之。
(Kinh: Hết thảy chư thiên đều muốn trông thấy).
Ở đây, lại dùng pháp “dục kiến” (muốn thấy) để bảo cho chúng ta biết công đức quang minh chân thật và công đức trang nghiêm rộng lớn của pháp tắc tam-muội này. Đó gọi là “lợi ích chân thật”, tức là lợi ích được an lập trong hết thảy thế gian, bất luận là Sắc Giới, hay Dục Giới, cho đến Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát giới, chư Phật giới, lợi ích của người hành pháp đều là trực tiếp khế hợp với sự biểu đạt này. Đó là lợi ích rộng lớn rốt ráo như thật, an trụ viên mãn chân thật, là chân thật chẳng dối!
(Kinh) Như thị nhất thiết chư long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, cập nhân phi nhân đẳng, giai tư dục kiến.
(經)如是一切諸龍、夜叉、乾闥婆、阿修羅、迦樓羅、緊那羅、摩睺羅伽、及人非人等,皆思欲見。
(Kinh: Cũng như thế, hết thảy các rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, và nhân phi nhân v.v… đều nghĩ muốn trông thấy).
Vì sao? Do thiện xảo hồi thí, do sức oai đức của kinh, do tạo phương tiện cho hết thảy chúng sanh, do mở kho báu lớn cho hết thảy chúng sanh, do hồi thí chân thật cho hết thảy chúng sanh, thường nói là “vị chúng khai pháp tạng, quảng thí công đức bảo” (vì chúng mở kho pháp, rộng thí báu công đức). Người niệm Phật bất luận là thân phàm, thân thánh, thân ngu si, hay thân điên đảo, chỉ nương theo danh hiệu của Phật, có thể lợi lạc trọn khắp hữu tình thuộc chín pháp giới trong mười phương, khiến cho thiện nghiệp của hữu tình trong thiện đạo hừng hực, khiến cho hữu tình trong thánh đạo thành tựu viên mãn, khiến cho hữu tình ngu si, tội ác thoát lìa tổn thương trong chốn u minh. Đó là chân thật chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải là nói tùy tiện, chẳng phải là ngôn thuyết vô nghĩa, hoặc khoa trương vô nghĩa. Pháp tắc ấy chân thật lợi ích trọn khắp hữu tình thuộc chín pháp giới trong mười phương, an trụ trong công đức rộng lớn như thật nơi thế gian, cho nên là đại phước đức, oai đức thù thắng thành thục! Chúng ta chớ nên vì được gặp gỡ mà coi rẻ, buông bỏ nó. Càng chớ nên vì đã được gặp gỡ mà chẳng coi là thật, để rồi tham lam các pháp tắc khác. [Nếu hành xử như thế], đúng là chỗ đáng buồn, đáng đau khổ của hết thảy trời, người, vì thế gian đã đánh mất trân bảo này. Nếu chúng ta đánh mất ma-ni trân bảo lợi ích hết thảy thế gian này thì chư thiên, quỷ thần, cho tới chư Phật, Bồ Tát sẽ đều vì chúng ta buồn bã than thở. Ở đây, hãy nên như thật xét kỹ pháp tắc này!
(Kinh) Hựu bỉ nhất thiết tứ thiên đại vương, như thị nhất thiết Đao Lợi Thiên Vương, nãi chí nhất thiết Đại Phạm Thiên Vương, giai tư dục kiến. Như thị nhất thiết chư Bồ Tát bối, nãi chí nhất thiết chư Phật Thế Tôn, các dục kiến chi.
(經)又彼一切四天大王,如是一切忉利天王,乃至一切大梵天王,皆思欲見。如是一切諸菩薩輩,乃至一切諸佛世尊,各欲見之。
(Kinh: Lại nữa, hết thảy tứ thiên đại vương, hết thảy Đao Lợi Thiên Vương cho tới hết thảy Đại Phạm Thiên Vương, đều nghĩ muốn trông thấy như thế. Cũng như thế, hết thảy các vị Bồ Tát, cho đến hết thảy chư Phật Thế Tôn đều muốn trông thấy).
Phân lượng ở đây rất nặng, nói hết thảy hữu tình trong thế gian, dù thánh, hay phàm, người trí, kẻ ngu, cùng với hết thảy chư Phật đều muốn trông thấy. Vì Ban Châu tam-muội vốn có tên là Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền, hiện tiền như thế nào? Nếu chẳng muốn thấy quý vị, quý vị làm sao có thể thấy được? Do vậy, “đắc kiến” (được thấy) là do oai thần của chư Phật gia bị, do nhân duyên ấy mà sanh ra thiện xảo.
(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Hựu bỉ chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, dĩ kinh oai cố, nhất thiết chư thiên thường chí kỳ sở, thân kiến kỳ hình, linh bỉ quán đổ.
(經)復次賢護!又彼諸善男子善女人,以經威故,一切諸天常至其所,親見其形,令彼觀睹。
(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy lại do oai lực của kinh mà hết thảy chư thiên thường đến chỗ người ấy, đích thân hiện hình dáng của họ để cho những người ấy được trông thấy).
Ở đây, phân lượng càng lớn hơn nữa! Chúng ta thấy “dục kiến” (muốn thấy) cũng thế, “tán thán” cũng thế, cho đến “ái niệm” cũng thế, vẫn có cảm giác cách biệt. Ở đây, đức Thế Tôn trực tiếp bảo chúng ta: “Dĩ kinh oai cố, nhất thiết chư thiên, thường chí kỳ sở” (Do oai lực của kinh, hết thảy chư thiên thường tới chỗ người ấy). Chỗ người ấy là chỗ nào vậy? Chính là chỗ người hành pháp, người yêu mến pháp, chỗ người muốn cầu pháp này, người đọc tụng kinh điển, người giải nói cho kẻ khác, người đích thân chứng tam-muội. Chỗ của những người như thế đó!
Khi tôn giả Hỗ Ba (Khruba Bonchum) đến đây[2], đã nhắc tôi rất nhiều lần: Chỗ này của chúng ta tụ tập rất nhiều vị trời. Tôi chẳng nghi ngờ chuyện ấy, vì điều ấy đúng như kinh điển đã nói. Đó là chuyện rất như thật, rất chuẩn xác, rất chân thật. Tôi tin tưởng kinh giáo sâu đậm, mà cũng tin vào con mắt của các bậc trí giả. Đương nhiên mọi người sẽ nói: “Vì sao tôi chẳng trông thấy?” Vậy thì quý vị cứ từ từ, nếu quý vị có các thiện xảo như thiên nhãn, pháp nhãn, huệ nhãn, chuyện này cũng chẳng khó. Nếu nương theo kinh điển, cũng là cảm nhận thấy rất thuận tiện, vì ở đây mọi người đều niệm Phật, hành Ban Châu hơn một năm qua, ngày đêm chẳng gián đoạn, rất cảm động người trong thế gian. Chúng ta trong tiếng niệm Phật, trong đạo tràng, dấy khởi đủ thứ chủng tử có tánh ác hay tánh thiện, nhân duyên tốt, nhân duyên xấu, nhưng nhất định là nhân duyên chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao vậy? Đạo nghiệp, đạo tràng sẽ chuyển hóa loại nhân duyên ấy, chẳng hạn như khi chư thiên, quỷ thần đến làm chứng cho chúng ta, sẽ trực tiếp gia trì chúng ta thiện xảo tăng thượng. Như vậy thì ác duyên sẽ bị tiêu trừ.
(Kinh) Như thị nhất thiết chư long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng, giai kiến kỳ hình, tùy nghi lợi ích. Hựu bỉ nhất thiết tứ thiên đại vương, Đế Lợi Thiên Vương, nãi chí nhất thiết Đại Phạm Thiên Vương đẳng, giai thân lâm thị.
(經)如是一切諸龍、夜叉、乾闥婆、阿修羅、迦樓羅、緊那羅、摩睺羅伽、人非人等,皆見其形,隨宜利益。又彼一切四天大王,帝利天王,乃至一切大梵天王等,皆親臨視。
(Kinh: Cũng như thế, hết thảy các rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… đều hiện thân hình, tùy nghi tạo lợi ích. Lại nữa, hết thảy tứ thiên đại vương, Đế Lợi Thiên Vương, cho đến hết thảy Đại Phạm Thiên Vương v.v… đều đích thân giáng lâm cho thấy).
Các thiện tri thức ơi! Lời nói này có phân lượng rất nặng. Nó từng chút dẫn dắt chúng ta, sợ chúng ta sẽ kinh hoảng. Nếu ngày nào đó, quý vị thật sự trông thấy, đừng nên sợ hãi! Có người đột nhiên trông thấy thân to lớn sẽ sanh sợ hãi, vì thân vi tế của chư thiên đều rất cao lớn, hoặc rất sáng ngời, rất trang nghiêm, rất oai đức. Lại các loài như rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, thiên long bát bộ, có nhiều loài khiến nhân loại trông thấy sẽ sợ hãi, kinh hoảng. Hàng Bồ Tát phần nhiều đều là bậc thiện căn thuần thục, hoặc có rất nhiều vị là Thập Địa, hoặc Bát Địa Bồ Tát. Do các nhân duyên như thế mà đích thân hiện trước chúng ta, gia trì thủ hộ đạo nghiệp của đạo tràng này, thật sự là chuyện chẳng thể nghĩ bàn. Họ cũng là bậc hồi thí lợi ích do hành pháp, lợi ích lẫn nhau. Như thế thì chúng ta dần dần cũng có thể tập quen, sẽ chẳng hoảng sợ!
(Kinh) Như thị nhất thiết chư Bồ Tát bối, nãi chí nhất thiết chư Phật Thế Tôn, phi đản trú nhật, hoặc ư mộng trung, vị hiện hình tượng, tự xưng danh hiệu, ma đảnh ủy an, xưng dương, khuyến phát dã.
(經)如是一切諸菩薩輩,乃至一切諸佛世尊,非但晝日,或於夢中,爲現形像,自稱名號,摩頂慰安,稱揚勸發也。
(Kinh: Cũng như thế, hết thảy các vị Bồ Tát cho đến hết thảy chư Phật Thế Tôn, không chỉ là trong ban ngày, mà hoặc là còn trong mộng bèn hiện hình tượng, tự xưng danh hiệu, xoa đầu an ủi, khen ngợi, khuyên phát tâm).
Đối với đoạn văn tự này, chúng ta phải nên mười phần cẩn thận đọc tụng, liễu giải, hướng tới pháp tắc này, mong cầu pháp tắc này, đọc tụng kinh điển này, vì người khác giải nói, đích thân chứng tam-muội, cho đến đối với người cùng được tiếp xúc, thủ hộ pháp này và kinh điển này, sẽ dìu dắt họ đúng như kinh điển đã dạy, sẽ đều đạt được sự nghĩ nhớ yêu mến, thủ hộ, che chở chẳng thể nghĩ bàn, cho đến đích thân giáng lâm, các thứ công đức như thế. Chúng ta nhất định sẽ nhận biết rõ ràng, tư duy cặn kẽ. Như thế thì đối diện với tướng cảnh giới, trông thấy quỷ, thần, trời, Bồ Tát, Phật, sẽ chẳng kinh hãi, chẳng sanh lòng hoảng hốt, chẳng đến nỗi mai một, đắm nhiễm bởi nhân duyên ấy, có thể trụ trong an lạc, có thể thấy Phật để hỏi pháp, trực tiếp tiến nhập, đích thân chứng tam-muội, tức Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội.
(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Hựu bỉ chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, tuy vị tằng văn chư dư kinh điển, dĩ thị tam-muội oai thần lực cố, tự nhiên hữu nhân lai chí kỳ sở, nãi chí mộng trung, vị kỳ tuyên thuyết, linh bỉ đắc văn, ức trì bất thất dã.
(經)復次賢護!又彼諸善男子善女人,雖未曾聞諸餘經典,以是三昧威神力故,自然有人來至其所,乃至夢中,爲其宣說,令彼得聞,憶持不失也。
(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Lại nữa, các thiện nam tử, thiện nữ nhân
ấy tuy chưa từng nghe các kinh điển khác, do sức oai thần của tam-muội này, tự nhiên có người đến chỗ kẻ đó, thậm chí trong mộng, vì kẻ đó tuyên nói, khiến cho kẻ đó nghe rồi sẽ ghi nhớ, vâng giữ, chẳng quên mất)
Đức Thế Tôn nói Tam Tạng mười hai bộ loại, hoặc là hiển thuyết, hoặc mật thuyết, các thứ giáo ngôn, do oai thần của sức tam-muội này, đối với những người chưa nghe pháp này, chưa tu tập kinh điển này, sẽ khiến cho họ được nghe, vâng giữ chẳng quên! Pháp Tịnh Độ vốn ngầm hộ trì tam thừa, ngầm hành trì pháp tắc tam thừa, vì trong lúc tu nhân, A Di Đà Phật Thế Tôn đã dùng sức thệ nguyện đại chủng tử Đà-la-ni của Ngài, khiến cho hết thảy chúng sanh đạt được sức vô ngại, đạt được tự tại trong hết thảy các pháp. Chúng ta thường cho rằng pháp Niệm Phật chỉ đơn giản là trì danh hiệu Phật, thật ra chẳng phải vậy! Vì chủng tử thiện xảo ấy, có thể khiến cho hết thảy chúng sanh nhập tâm trí của bốn loại vô ngại lực, đạt được tự tại trong hết thảy các pháp tắc, có thể thực hành, hộ trì rộng lớn hết thảy các pháp, đích thân chứng hết thảy các pháp. Vì một câu Nam-mô A Di Đà Phật thật sự gồm trọn bổn nghĩa chân thật trong giáo ngôn thanh tịnh của hết thảy chư Phật, được hết thảy chư Phật như thật tuyên nói, có thể triển khai các phương diện tỉ mỉ, vi tế, tối thắng, sai biệt trong giáo ngôn của hết thảy Như Lai. Có sức chẳng thể nghĩ bàn như thế, phàm tình chẳng thể suy lường được! Nếu có thể thâm nhập pháp tắc này, vô lượng pháp môn sẽ được tự tại thiện xảo, nhập vào sức tự tại vô ngại. Đó là thệ nguyện do A Di Đà Phật Thế Tôn đã phát trong khi tu nhân. Trong kinh Vô Lượng Thọ và phẩm Vô Lượng Thọ Như Lai Hội của kinh Đại Bảo Tích, đức Phật cũng đối trước A Dật Đa Bồ Tát thọ ký nhiều lượt: Nếu có các chúng sanh sanh khởi tín tâm đối với pháp môn này, hành trì, thủ hộ, sẽ sanh khởi phương tiện oai đức rộng lớn, có sức tự tại chọn lựa đối với vô lượng pháp môn. Vì thế, trong ấy có nội hàm của cơ chế thọ ký, thệ nguyện, và huân tu.
Trong giáo ngôn Tịnh Độ được truyền bá trên thực tế tại Trung Hoa, có nhiều vị Bồ Tát truyền bá pháp tắc “chuyên tu, chuyên niệm A Di Đà Phật”, quả thật là vì mong lợi lạc hữu tình đang mê mất, hữu tình đang tán loạn, hữu tình đa nghi, hữu tình tự coi là hèn kém và thiện căn chẳng thành thục sẽ có thể đối với một pháp môn mà tùy thuận tự tại, tùy thuận khế nhập, đối với một pháp môn sẽ đạt được nhân duyên cổ vũ, khích lệ, giáo hóa. Nhưng có nhiều hữu tình hiểu lầm, hoặc có thể nói là hữu tình ngu si, mê muội, điên đảo, cưỡng chấp một pháp, cho nên thường nẩy sanh những giáo thuyết quá khích gây ngăn trở, thậm chí diệt pháp, báng pháp, hủy pháp. Đó là sự tuyên nói chẳng tương ứng với pháp tắc do thời đại này tạo thành. Nếu đối với hữu tình trong thời Mạt Pháp không có sức tu trì, hữu tình thiện căn chưa thành thục, hữu tình nhiều lo ngờ, hữu tình chẳng khéo tu tập pháp tắc, mà hướng dẫn các loại hữu tình ấy thâm nhập một môn, sẽ là rất thiện xảo, là sự lựa chọn có ý nghĩa.
Có nhiều hữu tình do tâm tham, tâm tạp loạn, tâm kiêu mạn, tâm tà kiến, dẫu muốn tu pháp thành tựu mà chẳng thể thành tựu, chẳng thể thâm nhập, chẳng thể chọn lựa. Vì vậy, đức Thế Tôn cho đến các vị thiện tri thức truyền pháp trong đời sau, đều dùng đủ mọi thiện xảo để dẫn dụ, hướng dẫn chúng ta thâm nhập một môn, ngõ hầu thành tựu sự lựa chọn trong hết thảy các pháp, cho đến thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, đắc Bất Thoái Chuyển ngay trong một đời. Quả thật, chẳng có pháp cố định, mà cũng chẳng có pháp để phỉ báng các duyên khác, hoặc ngôn thuyết thật sự để gây trở ngại cho duyên khác. Những thứ như thế chỉ là phương tiện nhất thời để ngăn che, bảo vệ. Hiện thời, trong thế gian này, chúng ta thường nghe nói kiểu truyền bá Phật pháp chẳng tương ứng, tức là “dùng một pháp để diệt các pháp” như thế đó. [Kiểu nói thế ấy thúc giục hành nhân hãy] thực hiện giáo ngôn dựa theo các ngôn thuyết quá khích, mâu thuẫn với nội hàm thực chất rộng lớn, “nhiếp trọn khắp ba căn, lợi ích rộng khắp hết thảy hữu tình” của giáo ngôn Tịnh Độ[3]. Nói theo nội hàm chân thật của giáo ngôn Tịnh Độ, thật sự là “chẳng bỏ hết thảy các pháp, chứa đựng rộng khắp hết thảy các pháp, trọn đủ nội dung chân thật của hết thảy các pháp, có thể lợi ích rộng khắp hết thảy hữu tình trong pháp giới”. Đó là nội hàm công đức chân thật của pháp Tịnh Độ. Công đức và lợi ích của Ban Châu tam-muội cũng là như thế.
(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Ngã nhược thuyết bỉ chư thiện nam tử, cập thiện nữ nhân tạm trì tam-muội vi diệu kinh điển, sở đắc công đức, thiết kinh kiếp số, chung bất năng tận. Ngã chi trí biện, tuy phục vô cùng, diệc bất năng thuyết. Hà huống bỉ bối, văn thử tam-muội, y giáo tu hành, như pháp nhi trụ dã.
(經)復次賢護!我若說彼諸善男子,及善女人暫持三昧微妙經典,所得功德,設經劫數,終不能盡。我之智辯,雖復無窮,亦不能說。何況彼輩,聞此三昧,依教修行,如法而住也」。
(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Nếu ta nói công đức đạt được do các thiện nam tử, và thiện nữ nhân ấy tạm trì kinh điển tam-muội vi diệu, dẫu trải qua bao kiếp số, trọn chẳng thể nói hết được. Biện tài trí huệ của ta tuy vô cùng, vẫn chẳng thể nói! Huống hồ bọn họ nghe tam-muội này, y giáo tu hành, an trụ đúng pháp).
Trong nhiều kiếp, vô cùng kiếp, đức Thế Tôn tán thán chẳng thể trọn hết, huống hồ hết thảy các vị Bồ Tát, các vị Thanh Văn, các vị Duyên Giác, cho đến hết thảy hàng phàm phu mà có thể tán thán cùng tận ư? Công đức đạt được do tạm nghe, cho đến tạm trì kinh điển này, Phật còn chẳng thể tán thán trọn hết, huống hồ [công đức do] tu trì, thâm nhập tu tập pháp như thế ư?
Đức Thế Tôn nêu ra một so sánh, một lời khuyên dạy như vậy để xưng tụng, tán thán công đức và lợi ích của pháp này, mong cho hết thảy chúng sanh hữu duyên sẽ thật sự liễu giải công đức và lợi ích chân thật của pháp này, tức là nêu ra tướng công đức to lớn cho đến lợi ích rốt ráo chẳng thể nghĩ bàn của Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội!
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa, nhi thuyết kệ viết.
(經)爾時,世尊爲重明此義,而說偈曰。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vì muốn nêu rõ lại nghĩa này bèn nói kệ rằng).
Trùng tuyên các công đức do thọ trì, cầu truyền dạy, giải nói, cho đến đích thân chứng đắc Ban Châu tam-muội.
(Kinh) Nhược nhân hữu năng giải thích tư, chư Phật đại tịch thắng tam-muội. Giả linh ngã kim thuyết công đức, do bỉ Hằng hà thủ nhất sa. Nhược năng vị tha thuyết tam-muội, thủy bất năng nịch, hỏa bất thiêu. Đao, trượng, độc hại sở bất thương. Vương, tặc, ác quan bất đắc tiện. Nhược năng độc tụng tam-muội kinh, bất úy nhất thiết khủng bố sự. Như bỉ đại xà, chư đại độc, thử đẳng kinh lực năng diệt trừ. Nhược hữu thọ trì thị kinh điển, bất úy nhất thiết chư ác nhân. Dạ Xoa, La Sát, cập chư long, bỉ đồ chung vô đắc kỳ tiện. Nhược thường thủ hộ, cúng dường giả, tiện tại Lan Nhã vi bằng loại. Sư tử, hổ, lang, chư thú đẳng, tê ngưu, sài, báo, cập dã ngưu. Nhược năng hộ trì thử tam-muội, bỉ hữu oai lực bất khả đương. Viễn ly nhất thiết ác tâm nhân, cập chư Dạ Xoa đạm tinh khí.
(經)「若人有能解釋斯,諸佛大寂勝三昧。假令我今說功德,猶彼恆河取一沙。若能爲他說三昧,水不能溺火不燒。刀杖毒害所不傷,王賊惡官不得便。若能讀誦三昧經,不畏一切恐怖事。如彼大蛇諸大毒,此等經力能滅除。若有受持是經典,不畏一切諸惡人。夜叉羅剎及諸龍,彼徒終無得其便。若常守護供養者,便在蘭若爲朋類。師子虎狼諸獸等,犀牛豺豹及野牛。若能護持此三昧,彼有威力不可當。遠離一切惡心人,及諸夜叉啖精氣。
(Kinh: Nếu ai giải thích môn tam-muội, thù thắng đại tịch của chư Phật. Nếu nay ta nói công đức ấy, như nhặt hạt cát từ sông Hằng. Nếu vì người khác nói tam-muội, nước chẳng nhấn chìm, lửa chẳng đốt. Đao, trượng, độc hại chẳng thương tổn. Vua, giặc, quan ác chẳng hại được! Nếu hay đọc tụng kinh tam-muội, chẳng sợ hết thảy chuyện kinh hãi. Như rắn lớn, chất độc rất mạnh, do sức kinh này diệt trừ ngay. Nếu ai thọ trì kinh điển này, chẳng sợ hết thảy các kẻ ác. Dạ Xoa, La Sát, và các rồng, chúng chẳng thừa cơ gây hại được. Nếu thường thủ hộ, cúng dường kinh, khác nào trụ trong A Lan Nhã. Sư tử, cọp, sói, các loài thú, tê giác, sài, báo, và trâu rừng. Nếu hay hộ trì tam-muội này, oai lực người ấy thật khôn sánh. Xa lìa hết thảy kẻ tâm ác, và các Dạ Xoa nuốt tinh khí).
“Viễn ly nhất thiết ác tâm nhân” (Xa lìa hết thảy kẻ tâm ác): Thật sự là do sức tam-muội mà có thể khiến cho kẻ có tâm ác chuyển thành thiện. Đó là chân thật, chẳng dối. Trước đó, đã nhắc tới tê giác, sài[4], báo, cọp, sói, các loài thú cũng do sức tam-muội này khiến cho ác tâm mãnh liệt của chúng ngưng dứt tạo tác, cho đến chuyển sang thủ hộ những người hành pháp này. Rất nhiều người hành pháp trong quá trình tu hành, đã thấy các sanh mạng, các thứ tướng cảnh giới, các thứ cảm nhận, nhân loại, phi nhân loại, loài thú, loài chẳng phải thú, thiên, phi thiên, các vị hiền thánh, Bồ Tát, thảy đều trông thấy, nhưng chẳng đắm nhiễm. Vì sao? Duyên theo sức tam-muội chiếu kiến. Đối với chuyện này, cũng chớ nên sợ hãi, vì giống như huyễn lực, như vật soi bóng trong gương, như sương, như tia chớp, như mộng huyễn, chẳng có thực chất. Nếu người hành pháp chọn lựa như thế, sẽ thẳng một đường mà đi, chẳng ngoái cổ lại, sẽ đạt được niềm vui thù thắng của pháp ích từ các lợi ích do pháp đem lại, rốt ráo an trụ trong pháp tắc như thế.
Các vị Bồ Tát đang hiện diện ơi! Đối với pháp tắc này, có vị hành trì sâu hơn, có vị hành cạn hơn, có vì hành lâu hơn, có vị vừa mới tiếp xúc, có vị thậm chí còn chưa tiếp xúc, có vị chỉ nghe nói, yêu mến pháp tắc như thế, công đức ấy đều chẳng thể nghĩ bàn. Vì công đức ấy trọn đủ chặng đầu, trọn đủ chặng giữa, và trọn đủ chặng cuối cùng. Phát tâm cầu được truyền dạy, đọc tụng kinh điển đều chẳng thể nghĩ bàn. Giải nói cho người khác, tuyên nói kinh điển này, đích thân chứng tam-muội, chẳng thể nghĩ bàn!
“Cập chư Dạ Xoa đạm tinh khí” (Và các Dạ Xoa nuốt tinh khí): Đấy là những quỷ thần ác theo sát chúng sanh trong thế gian. Loại quỷ ăn nuốt tinh khí này đoạt mạng con người, đoạt tâm trí của con người, đoạt sắc thân của con người, nhất là người hiện thời uống rượu, hút thuốc, ăn hành tỏi, các thứ tanh tưởi, do ngũ huân khiến cho thân thể con người tỏa ra hơi hướng xấu ác. Do vậy, các loài quỷ ăn tinh khí sẽ thường theo sát. Có nhiều hữu tình bị các chứng hôn trầm, lãng quên v.v… phần nhiều vì [nguyên nhân] như thế mà phát sanh, tức là bị quỷ thần ác rình rập, khiến cho tâm thần vô lực. Đó là nạn duyên có tánh chất ác do quỷ ăn tinh khí tạo thành. Khi tâm trí quý vị thanh tịnh, tạp duyên yếu ớt, nhất là do nhân duyên chẳng ăn, chẳng dùng các thứ hôi tanh v.v… liên tục đã lâu, hôn trầm sẽ nhanh chóng giảm thiểu. Vậy thì người xuất gia, người tu pháp đã tu tập lâu ngày, vì sao vẫn lắm hôn trầm? Vì các chủng tử trong quá khứ chẳng dễ gì thoát được!
Sắc thân của chúng ta vốn chẳng bị hôn trầm, chẳng bị sức hôn trầm khống chế, [bị hôn trầm hay không] đều là do ác thần hay thiện thần bầu bạn. Mỗi người sanh ra đều có hai vị thần tụ tập, tức là hai thiên thần bầu bạn từ lúc còn sống cho đến khi chết đi, bầu bạn suốt cuộc đời. Nếu hai vị thần lìa bỏ, thân thể sẽ tiêu vong. Có người đến bệnh viện, trông thấy người sống đời thực vật, thân thể còn sống, nhưng chẳng có ý thức hay cảm giác, tức là thân thể chỉ có tướng trạng rỗng không. Trong tình huống thông thường, thân thể trống rỗng sẽ chẳng dễ duy trì sanh mạng, nhưng có bệnh nhân dựa vào các thứ như được truyền dịch dinh dưỡng v.v… để kéo dài sanh mạng, nhưng cảm giác đã chẳng còn, do hai vị thiện và ác thần đã đều lìa bỏ. Người bị ác thần sai sử, sẽ hiện tướng hung ác, cố ý làm chuyện hung ác, cho đến làm các chuyện thuộc về ác duyên và ác tướng. Nếu thiện thần thủ hộ, người ấy sẽ làm các chuyện thiện xảo, làm các thứ thiện duyên, nói những lời mềm mỏng, làm các chuyện mềm mỏng và lợi ích. Đối với điều này, trong kinh điển, đức Thế Tôn đã chỉ rõ, nhưng nếu quý vị thật sự đạt được tâm trí Bồ Đề thanh tịnh, xa lìa tam giới, sẽ chẳng bị chuyện này quấy nhiễu, chẳng thuộc vào loại này.
Thông thường, sau khi đã ngồi nghe giảng mười lăm phút ở đây, chủng tử của con người sẽ xuất hiện. Càng hành pháp lâu ngày, khi đạt đến mức mấp mé, sẽ càng cảm thấy có tình huống như thế này: Nếu được nhắc nhở thì không sao, chẳng được nhắc nhở thì con người sẽ rất nhanh chóng buồn ngủ. Nhất là đối với những người tu pháp đã đạt được an ổn đôi chút. Người ấy cứ ngỡ ngoại duyên đã an ổn, cho nên sẽ buông lung. Hễ buông lung, sẽ buồn ngủ liền. Tình huống ấy xảy đến rõ rệt nhất trong khi đang tu pháp; chứ lúc bình thời, ở trong ngũ dục, hoặc là trong khi làm các thứ nghề nghiệp, sẽ chẳng bị hôn trầm, vì người đang làm việc, do thân tâm an lạc, hoặc phải suy nghĩ, bàn bạc; còn trong khi tu pháp thì lại bị che lấp. Sự che lấp ấy phần nhiều là vì ác quỷ thần che lấp. Kẻ càng tự nghĩ chính mình hành pháp đắc lực, có thọ dụng tốt đẹp, sẽ càng bị che lấp! Do chủng tử nổi dậy, tâm kiêu mạn sanh khởi, sẽ bị che lấp. Có khi tôi thấy trong khi đả thất, nhất là vào trong nội viện, [hành nhân] ngủ gục hết. Nếu là người sáng suốt, bèn hét to một tiếng để xua đuổi loại hữu tình ác ấy. Ai đã chèo kéo các hữu tình tánh ác ấy? Do các hữu tình hôn trầm chuốc vời! Họ dưỡng dục chúng nó, dùng sanh mạng của chính mình để dưỡng dục. Kẻ hút thuốc, ăn hành tỏi, có khi từ xa đã khiến cho người khác cảm thấy có mùi vị khó ngửi, hoặc khiến cho người khác có cảm giác không ưa thích. Thật ra, kẻ ấy đã bị quỷ thần ác xâm phạm. Thông thường, chúng ta sẽ cho rằng nói như vậy chẳng tương ứng, nhưng trong kinh điển nhà Phật, trong giáo ngôn về sự tu trì, trong nghi quỹ, đều đòi hỏi rất nghiêm ngặt. Đối với hai thứ điệu cử và hôn trầm, đều quở trách, thống trách! Kẻ tự xưng là “tu pháp” trong hiện thời, nhất là kẻ tự đắc ý, tức là kẻ ngỡ chính mình tu pháp có thành tựu, sẽ hôn trầm nhiều nhất. Chúng ta chỉ nên phê phán đôi chút, mười phần thì tám chín phần đang hôn trầm! Trước kia, trong xã hội, tôi đã gặp một số người nói: “Ông X… tu hành rất khá, bà Y… tu hành rất thiện xảo!” Tôi nói: “Tạm thời không cần bàn luận. Cứ ngồi xuống là biết ngay!” Chẳng hạn như ngồi hai tiếng đồng hồ. Họ vừa ngồi xuống, chừng năm mười phút đã hôn trầm, hai mươi phút bèn điệu cử. [Nếu đã hôn trầm trong khi tĩnh tọa], trong các lúc khác, sẽ chẳng thể nói là như thật được! Nếu có thể thật sự ngồi thanh tịnh, thân tâm khinh an, sự khinh an từ bên trong phát ra, tịch tĩnh khinh an, đó là người thật sự tu hành Phật pháp. Nếu không, sẽ là kẻ hôn trầm, ngồi đó làm chi? Tiếp nhận mười phương cúng dường, chính mình hôn trầm, cứ lãng phí từng lúc như thế. Kẻ sơ phát tâm, tinh tấn dũng mãnh, phần nhiều có thể xa rời tật này. Người tu hành “lão đạo” ngược lại, sẽ hãm nhập sâu đậm trong ấy! Từ chúng xuất gia hay chúng tại gia, đều có thể thấy chuyện này! Pháp Ban Châu nếu phát tâm dũng mãnh, sẽ có thể tránh khỏi nhân duyên này. Vì trừ phi nương dựa vào một chỗ nào đó [để tạm nghỉ], chỉ cần đang đi kinh hành, hễ hôn trầm sẽ ngã chỏng gọng, hoặc quý vị dùng phương pháp tự dối gạt khi bị hôn trầm, sẽ chẳng thể được, sẽ ngay lập tức lảo đảo. Vì thế, phương pháp này mười phần chẳng thể nghĩ bàn!
(Kinh) Nhược năng giải thuyết thử tam-muội, bỉ vô chư bệnh, cập chướng tai. Sở sanh báo nhãn chung bất suy, ngôn từ thanh diệu, hữu đại biện.
(經)若能解說此三昧,彼無諸病及障災。所生報眼終不衰,言詞清妙有大辯。
(Kinh: Nếu hay giải nói tam-muội này, chẳng có các bệnh và tai chướng. Báo nhãn vốn có chẳng hề suy, ngôn từ thanh diệu, đại biện tài).
“Sở sanh báo nhãn chung bất suy” (Con mắt được sanh bởi quả
báo chẳng hề bị kém đi): Đối với người hành Ban Châu, có người nói: “Chẳng ngủ trong một thời gian dài, sợ mắt sẽ bị hỏng”. Chẳng phải như vậy! Người thật sự hành Ban Châu, mắt chẳng bị ảnh hưởng, thường là mắt rất sáng. Nhưng người hiện thời tin sâu pháp này rất ít, ngờ vực thì nhiều, vì đã dùng phàm tình để biện định, cho nên bị ngăn trở, rất khó tùy thuận sức tam-muội, chẳng đạt được nguyện lực và sức thần thông chẳng thể nghĩ bàn của Phật gia trì, cho đến chẳng được phước đức bất cộng gia trì, chẳng thể tùy thuận [các sức gia trì ấy], chỉ tùy thuận nghiệp duyên của chính mình, đọa trong hiện duyên của chính mình, chẳng thể tự thoát được!
(Kinh) Nhược nhân chứng tri thâm tịch Thiền, thân thể hùng kiện vô chúng bệnh. Nhất sanh vĩnh tuyệt chư ác sắc, hậu chung bất úy địa ngục đạo.
(經)若人證知深寂禪,身體雄健無衆病。一生永絕諸惡色,後終不畏地獄道。
(Kinh: Nếu người chứng biết Thiền sâu lắng, thân thể khỏe mạnh, chẳng bệnh tật. Suốt đời dứt bặt các ác sắc, chết đi, chẳng sợ đường địa ngục).
Trong sự tu trì hiện tiền của chúng ta, sẽ sanh khởi sự lựa chọn vô úy. Đã là vô úy ngay trong hiện tiền, sao còn có thể sợ hãi địa ngục? Cho tới đối với lục đạo, đều chẳng sợ hãi. Vì sao? Người ấy đã lập tức lựa chọn dứt khoát, lựa chọn ngay trong một niệm này, chọn lựa trong một niệm kia. Niệm nào cũng lựa chọn dứt khoát, tu ngay trong lập tức, tu ngay nơi mỗi niệm, được gọi là “người thường hành đạo”, cho nên chẳng sợ hãi lục đạo. Các vị thiện tri thức ơi! Nếu chúng ta thật sự nương theo pháp để tu trì, nương theo pháp để hành, nương theo giáo để tu trì, nương theo giáo để hành, có thể hướng đến, tùy thuận tam-muội này, mong cho mỗi niệm hiện tiền đều là duyên khởi thanh tịnh, duyên khởi bình thản, duyên khởi viên mãn, duyên khởi vô ngại, duyên khởi chân thật, duyên khởi vô úy, duyên khởi thanh tịnh, từ bi, trí huệ giống hệt như Phật.
Trong mỗi duyên khởi, đều tu ngay trong mỗi niệm hiện tiền, tức là nếu có thể tiếp nối duyên khởi, chẳng tạo tác, người ấy chắc chắn sẽ tương ứng với tam-muội. Cho nên đích thân chứng tam-muội chẳng khó!
(Kinh) Nhược hữu năng độc tam-muội điển, chư thiên thủ hộ cập long thần. Dạ Xoa, La Sát, dữ oán cừu, bỉ tuy ác lâm, bất kinh cụ. Nhược năng vị tha thuyết tư kinh, thiên, long, Dạ Xoa giai hoan hỷ.
(經)若有能讀三昧典,諸天守護及龍神。夜叉羅剎與怨仇,彼雖惡臨不驚懼。若能爲他說斯經,天龍夜叉皆歡喜。
(Kinh: Nếu ai đọc kinh điển tam-muội, chư thiên, long thần đều thủ hộ. Dạ Xoa, La Sát, và oán cừu, tuy hiện tướng ác, chẳng sợ hãi. Nếu vì người khác nói kinh này, trời, rồng, Dạ Xoa đều hoan hỷ).
“Thiên long Dạ Xoa giai hoan hỷ” (Trời, rồng, Dạ Xoa đều hoan hỷ): Vì khi chúng ta niệm Phật, thân tướng quang minh. Có nhiều người niệm Phật, hành pháp, sau khi đã như thật hành trì, sau khi kinh hành, sắc thân sẽ biến hóa. Nếu trong khi hành đạo Ban Châu, cứ tìm kiếm cơ hội để ngủ, người như thế sau khi kinh hành xong, khí sắc chẳng có gì! Nhưng nếu thật sự như lý, như pháp hành trì suốt một ngày một đêm, ấn định kỳ hạn để cầu chứng, trong một ngày một đêm yêu mến, bảo vệ, trân trọng mỗi niệm hiện tiền, tu trì đúng pháp trong một ngày một đêm ấy, sắc tướng của người đó sẽ rực rỡ chẳng thể nghĩ bàn, có thể chiếu pháp giới. Vì thế, sẽ như trong phần Trường Hàng trước đó đã nói: Do được chư thiên, quỷ thần, cho tới các vị Bồ Tát, chư Phật nghĩ tưởng, đích thân giáng lâm, yêu thương che chở, hộ niệm, bảo bọc, cho nên quang minh chói ngời chẳng thể nghĩ bàn! Vì sao có hữu tình sau khi kinh hành Ban Châu lại đâm ra chẳng tương ứng? Vì trong khi hành Ban Châu, đã nhất định ngủ thiếp đi. Quý vị chớ nên trách lỗi người ấy, mà cũng chẳng cần phải tới hỏi người ấy, cứ để cho người ấy tự mình sám hối là đúng. Chẳng thể đòi hỏi! Vì hành pháp hoàn toàn dựa vào sự hướng về pháp của chính mình, cũng như sự nhận thức phát tâm của chính mình. Nếu quý vị chẳng phát tâm, chẳng thật sự niệm Phật, vậy thì khí sắc và quang tướng của quý vị sẽ ảm đạm. Nếu quý vị dối gạt kẻ khác, hoặc nội tâm dấy lên sân tâm, mạn tâm, cho tới tâm tà kiến, tâm báng pháp, chính mình sẽ mắc hại. Vì sao? Rồng, trời, quỷ thần, La Sát, cho đến oán đối sẽ đích thân kéo đến, quý vị sẽ bị lừa dối, làm nhục, đích xác là chẳng thể nghĩ bàn như thế! Nếu lúc các ác quỷ thần đó, cho đến trời, rồng, kẻ oán, người thân v.v… đều đích thân kéo đến, hãy nói kinh cho họ. Dẫu chỉ niệm Phật cũng được, hoàn toàn chẳng phải là quý vị phải tuyên giảng gì cho họ! Chỉ dùng Phật hiệu, tức sáu chữ chân ngôn (nam-mô A Di Đà Phật) đã trọn đủ hết thảy kinh giáo rộng lớn và Tam Tạng mười hai bộ loại, chỉ sợ quý vị chẳng trì niệm. Nếu quý vị dùng cái tâm chẳng ô nhiễm để niệm tụng sáu chữ chân ngôn, sẽ là pháp môn tổng trì lợi ích trời, người rộng khắp, chẳng hề thiếu khuyết. Rồng, trời sẽ đều hoan hỷ.
Pháp tắc này do chính mình khám nghiệm, chẳng cần người khác uốn nắn, kiểm soát chi cả! Chúng ta có thể tự quan sát chính mình hành pháp có như pháp hay không, tương ứng hay không, chân thật hay không? Sự phát tâm của chúng ta và kết quả tuyệt đối tương ứng; đó là chân thật chẳng giả. Vì ở đây, đức Thế Tôn đã nói như thế, và cũng có rất nhiều người không ngừng tu tập tại đây. Ta tiếp xúc hành giả như pháp, từ sự phát nguyện cho đến hành pháp, mãi cho tới khi kết thúc, cho đến ngày kế tiếp vẫn giữ vững hoặc hộ trì, nếu [người ấy] chẳng tùy ý ngủ mất, hoặc nói những lời tạp nhạp v.v… Người có thể gìn giữ như thế, liên tục hành trì, diện mạo sẽ mỗi ngày một mới mẻ. Đó là điều chắc chắn, chẳng ngờ! Đương nhiên cũng có hành giả chẳng đúng pháp, chẳng hạn như tuy phát tâm hành Ban Châu một ngày một đêm, nhưng phần nhiều tinh thần sa sút, vọng tưởng, thậm chí lười nhác. Sau khi ra khỏi đạo tràng, nói năng tạp nhạp rất nhiều, vọng tưởng tơi bời, người khác sẽ hiểu lầm pháp tắc này, chê bai pháp tắc này. Nhưng [các lỗi lầm ấy] đích xác là do nghiệp duyên thúc đẩy tạo thành, chẳng phải là khuyết điểm của pháp tắc này. Chúng ta nhất định phải nhận rõ điều này!
Ngoài ra, trong hành pháp này, nếu có lúc được thấy, nghe, tiếp xúc những gì, nhất định chớ nên sợ hãi. Vì lẽ nào? Quý vị là người nương theo Phật, là người niệm Phật, lập một niệm, đoạn các tưởng, chẳng sợ hãi Ấm cảnh hiện tiền. Đối với cảnh quang minh, cho đến cảnh trang nghiêm, chư Phật hiện tiền, đều chớ nên sợ hãi. Chỉ nên do thấy Phật mà được nghe pháp, đừng nên làm chi khác. Như thế thì sẽ có thể trực tiếp tiến nhập Bồ Đề, chẳng bị thoái chuyển. Trong thứ tự tu hành, hiện thời có một số người bị Ấm cảnh đánh bại. Thật ra là do họ phát tâm chẳng rõ ràng, cũng tức là vừa mới ra khỏi cửa, trông thấy quang cảnh tốt đẹp, [do đắm đuối phong cảnh], chẳng tới được chỗ muốn đến, bèn nói: “Ối trời! Chỗ định đến cũng chẳng có chi hết, chỗ này đã rất tốt rồi!” Đó là bị Ấm cảnh trói buộc, bị cảnh tướng hiện duyên trói buộc, chẳng thể vượt qua. Cảnh giới quang minh, cảnh giới trang nghiêm, cảnh giới chư Phật hiện tiền đều trọn chẳng thể được. Vì sao? Do quý vị chẳng tiến nhập pháp tắc.
Có nhiều người bị Ấm cảnh lừa gạt. Tôi đã gặp người hành pháp
bảy ngày tám đêm, thường là hễ trông thấy cảnh quang minh, tức là tướng cảnh giới hơi tốt đẹp đôi chút, liền bị hãm rất sâu vào đó. Kẻ thoát ra rất ít. Thường là người hành pháp từ ba ngày trở xuống, người thoát khỏi Ấm cảnh rất ít, nhưng người thật sự phát tâm rõ rệt, chẳng đắm nhiễm cảnh giới. Đương nhiên là cũng có người chẳng có cảnh giới, vì sức tự chủ vẫn đủ, cho nên chẳng có cảnh giới gì! Nếu thật sự chẳng đắm nhiễm cảnh giới, chẳng sợ cảnh giới, sẽ chẳng hâm mộ cảnh giới, mà cũng chẳng sợ hãi cảnh giới. Hành pháp như thế là thuận tiện nhất, sẽ là chuyện nước chảy thành sông. Thấy Phật chẳng phải là cưỡng cầu! Đã phát ra cái nguyện như thế, niệm Phật mà muốn thấy chư Phật là để nghe pháp, hễ phát nguyện liền đạt được, chẳng còn tiếp tục dùng ý niệm để quấy nhiễu chính mình, chỉ hành pháp niệm Phật là được rồi! Như thế thì sẽ rất thuận tiện. Nếu trong mỗi niệm [đều mong mỏi] “ta muốn thấy Phật, ta muốn thấy Phật”, có được hay không? Sợ rằng [cứ mong ước như thế], sẽ trở thành gánh nặng, đâm ra bị nó trói buộc, bị tri kiến ấy trói buộc, bị trì hoãn trong trạng thái ấy, sẽ nẩy sanh cái nguyện chẳng tương ứng. Chúng tôi phải nên nhắc nhở đôi chút về chuyện này.
[1] Đây là pháp tu quán tưởng và điều khiển ý thức trong mộng của Mật Tông Tây Tạng, thường được biết đến với tên gọi là Dream Yoga (Svapnadarśanta trong tiếng Sankrit, hay Milam Naljor trong tiếng Tây Tạng). Pháp tu nổi tiếng nhất gọi là Lục Pháp của Naropa do tôn giả Naropa đề xướng. Tôn giả Gamgopa đề xướng các bước căn bản như sau:
1. Nắm bắt giấc mộng: Nhận thức sinh động trong giấc mơ. Để thực hiện điều này, hành giả phải quán mọi cảm nhận trong cuộc sống hằng ngày đều như giấc mơ, để đến khi ngủ, khi nằm nghiêng bên phải, họ thật sự nhận biết chính mình đang bắt đầu tiến vào mộng, đồng thời mật niệm chân ngôn, quán tưởng ý thức hình thành từ từng chủng tử trong tâm trí trước khi ngủ thiếp đi.
2. Huấn luyện giấc mộng: Hành giả phải tập luyện sao cho tâm trí nhận biết chính mình đang nằm mộng, đối diện với mọi cảnh tượng trong mộng đều chẳng hoan hỷ hay sợ hãi.
3. Quán tưởng: Hành giả kiểm nghiệm tự tâm trong giấc mộng, luôn nhận biết chính mình đang nằm mộng, trừ khử mọi ý niệm vi tế sợ hãi hay chấp trước, luôn nhận thức cái tâm vô ngại.
4. Thiền Định: Hành giả phân tích mọi trình tự của giấc mộng, biết đó chỉ là sự phản chiếu của mọi ý niệm vi tế ẩn tàng trong tạng thức. Nếu tán tâm hay hôn trầm trong giai đoạn này, khi thức giấc hành giả phải lập tức quán chiếu các chủng tự (bija) của các chân ngôn tương ứng và thực hành phép quán Đại Thủ Ấn (Mahamudra) khi vừa thức dậy.
Mỗi tông phái trong Tạng truyền Phật giáo có các bước quán tưởng về giấc mộng sai khác đôi chút, nhưng chẳng rời ngoài bốn giai đoạn chánh yếu như trên. Các vị thầy có thẩm quyền về pháp tu này đều khuyến cáo: Để tu pháp này, phải được truyền thừa, hướng dẫn, và giám hộ bởi một vị đạo sư có kinh nghiệm thực chứng, không thể tự tiện học qua sách vở hay tài liệu vì dễ đi sai đường, hay bị tẩu hỏa nhập ma. Cũng như nếu không cẩn thận, học nhằm pháp tu của đạo Bon cũng có danh xưng tương tự, sẽ rơi vào cảnh giới của thần đạo, hay quỷ đạo, chẳng phải là Kim Cang Thừa.
[2] Tôn giả Khruba Bonchum được mời đến chùa Phóng Quang ở Kê Túc vào tháng Tư năm 2006 (chú thích của người ghi lại lời giảng).
[3] Tức là các “giáo thuyết” do hiểu lệch lạc kinh nghĩa, hoặc muốn lập dị, nhằm tạo sắc thái “đặc biệt” cho đường lối của chính mình hòng lôi kéo tín đồ, chỉ gây thêm hoang mang cho người tu Tịnh Độ trong hiện thời, như đề xướng phải niệm A Mi Đà Phật thì mới được vãng sanh, niệm A Di Đà Phật là sai. Hoặc bịa chuyện bảo chư tổ Việt Nam kiêng không niệm A Mi Đà Phật vì Mi là tên của một công nương nào đó, phải kiêng húy, tuy chẳng nêu ra được tên của vị công nương đó. Hoặc dù đã quy y, phải tìm một vị pháp sư Tịnh Tông quy y lại để được đặt pháp danh là Diệu Âm thì mới đúng là hành giả Tịnh Độ! Hoặc phải hành trì theo lời dạy của Tổ Thiện Đạo (tuy cách hành trì ấy do họ hiểu lệch lạc lời dạy của Tổ) mới đúng là giáo nghĩa Tịnh Độ chân chánh, coi các lời dạy của chư tổ Tịnh Độ sau đó là lệch đường, hoặc quá khích đến nỗi đề xướng “chỉ cần tin và phát nguyện vãng sanh là đủ, không cần tam quy, ngũ giới” v.v…
[4] Sài (豺, dhole, mountain wolf, whistling dog, còn gọi là sài cẩu, hồng lang, sài khuyển) tức là một loài chó hoang tại châu Á, thường được người Việt gọi là sói lửa, hay sói đỏ. Loài động vật ăn thịt hoạt động về đêm này rất hung bạo, thường ăn thịt các loài nai, hươu, lợn rừng, nhưng khi quá đói, chúng có thể tấn công cả trâu, bò, ngựa. Chúng thường sống thành bầy đàn, từ năm bảy con cho đến năm mươi con.