Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh
giảng ký 1
大方等大集賢護經講記
慈法法師
Chủ giảng: Pháp sư Từ Pháp
Địa điểm: Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang
(Kinh) Hiền Hộ! Như thị đẳng nhân, Thế Tôn tất kiến, tất tri, tất thức dã.
(經)賢護!如是等人,世尊悉見悉知悉識也。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Hạng người như thế, Thế Tôn đều biết, đều thấy, đều rõ).
Lời này chẳng thể nghĩ bàn! Sức gia trì ấy chẳng thể nghĩ bàn! Có nhiều chúng sanh nếu là tại gia thì học tập kinh điển nhà Phật, nhưng xuất gia mấy năm, do chẳng đạt được lợi ích trong Phật pháp, vướng mắc nơi mâu thuẫn, phần nhiều nẩy sanh kiêu mạn, chẳng thể tăng thượng thiện căn. Vì lẽ nào vậy? Do chẳng được chư Phật gia bị, do cự tuyệt tăng trưởng thiện căn. Có kẻ còn trực tiếp phủ nhận sự gia trì của Tam Bảo, tự dùng cách tu trì kiêu mạn để tăng thượng, tức là tự cao tự đại, tự phụ. Chẳng được Tam Bảo gia trì, dẫu tu trì bao kiếp dài lâu, vẫn giống như tảng đá, chẳng thể tăng trưởng thiện căn, chẳng thể nuôi lớn sanh mạng chân thật được! Thật ra, từ sơ phát tâm tu trì, cho đến lúc chúng ta thành Đẳng Chánh Giác, đều chẳng lìa Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo gia trì. Nếu rời lìa, người ấy làm sao có thể thành tựu cho nổi? Bất quá là tự kiêu mạn, tự phụ là đã thành tựu đó thôi! Nơi đất Hán, lắm kẻ tự phụ “tự tánh vốn sẵn trọn đủ”, chẳng biết công đức chân thật do được Tam Bảo gia trì tăng trưởng thiện căn ở chỗ nào. Cho nên có lắm nỗi ngờ vực đối với đại thiện căn và oai đức do chư Phật Như Lai đã tu trì trong bao kiếp lâu xa! Phần nhiều bị tự kiêu mạn, tà tâm, tà kiến làm hại, dẫu nhiều năm dường như học pháp, nhưng chẳng thể tăng trưởng thiện căn, khiến cho kẻ khác rất tiếc hận!
(Kinh) Hiền Hộ! Chư Phật Thế Tôn, vân hà kiến tư chư thiện nam tử, cập thiện nữ nhân? Phục vân hà tri? Hựu vân hà thức? Hiền Hộ! Nhược hữu năng độc tụng, thọ trì, tư niệm thử tam-muội môn, như thị chi nhân, chung bất vi ác.
(經)賢護!諸佛世尊,云何見斯諸善男子,及善女人?復云何知?又云何識?賢護!若有能讀誦受持,思念此三昧門,如是之人,終不爲惡。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Chư Phật Thế Tôn thấy các thiện nam tử và các thiện nữ nhân ấy như thế nào? Lại biết như thế nào? Lại hiểu như thế nào? Này Hiền Hộ! Nếu có người có thể đọc tụng, thọ trì, nghĩ nhớ môn tam-muội này, người như thế trọn chẳng làm ác).
Ở đây, đức Thế Tôn trực tiếp nêu ra: Người thường đọc tụng, tư duy kinh điển như thế, hành trì pháp tắc như thế, y giáo phụng hành, sẽ trọn chẳng làm ác.
(Kinh) Bất phá tịnh giới, bất hoại chánh tín, bất nhập tà tụ.
(經)不破淨戒,不壞正信,不入邪聚。
(Kinh: Chẳng phá giới pháp thanh tịnh, chẳng hủy hoại chánh tín, chẳng rơi vào Tà Định Tụ).
Trong thế gian, đức Thế Tôn đã chia hữu tình thành ba “loại tụ”:
1) Những ai thuộc về tam thánh đạo, tức Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, được gọi là Chánh Định Tụ.
2) Các hữu tình thiện hay ác trong ba thiện đạo, còn chưa chọn lựa dứt khoát, còn đang băn khoăn thì thuộc về Bất Định Tụ. Như phàm phu hữu tình chúng ta, phần nhiều là Bất Định Tụ.
3) Lại còn có các tà kiến hữu tình, ắt đọa vào ác đạo. Cho nên hữu tình trong ba ác đạo là Tà Định Tụ. Tà Định là các sự nghiệp tà ác đều đã thành tựu, chẳng thể thoát khỏi các thứ khổ nạn!
(Kinh) Hiền Hộ! Thị chư thiện nam tử, thiện nữ nhân đẳng, tất định thâm tín, thành tựu tư duy, năng phân biệt, thành tựu tư duy. Ư thị pháp trung, cụ túc tín tâm, thường năng độc tụng, nhiếp trì thị pháp. Hiền Hộ! Đương tri thị nhân, quyết bất cầu thiểu công đức, diệc bất chủng thiểu thiện căn.
(經)賢護!是諸善男子善女人等,必定深信,成就思惟,能分別,成就思惟。於是法中,具足信心,常能讀誦,攝持是法。賢護!當知是人,決不求少功德,亦不種少善根。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy nhất định là tin sâu, thành tựu tư duy, có thể phân biệt, thành tựu tư duy. Ở trong pháp này, trọn đủ tín tâm, thường có thể đọc tụng, nhiếp trì pháp này. Này Hiền Hộ! Hãy nên biết người ấy chắc chắn chẳng cầu công đức ít ỏi, mà cũng chẳng gieo thiện căn ít ỏi).
Chẳng tham cầu thành tựu Thanh Văn hay Duyên Giác, chẳng tham cầu sự vui thế gian, tức chẳng phải là “ít thiện căn”.
(Kinh) Hiền Hộ! Thị thiện nam tử, thiện nữ nhân, phàm sở sanh xứ, hoặc phạp tư nhu, nhiên chư thiện căn, quảng đại bất thiểu.
(經)賢護!是善男子善女人,凡所生處,或乏資需,然諸善根,廣大不少。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Các thiện nam tử và thiện nữ nhân ấy, phàm là ở nơi sanh ra có thể thiếu thốn các thứ cần thiết, nhưng các thiện căn đều rộng lớn chẳng ít).
Tuy biểu hiện có thiếu thốn, nhưng thực chất biểu hiện là “quảng đại bất thiểu” (rộng lớn chẳng ít).
(Kinh) Hiền Hộ! Thị cố, tư chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, dĩ ư quá khứ chư Như Lai sở, tu hành, cúng dường, chủng chư thiện căn.
(經)賢護!是故,斯諸善男子善女人,已於過去諸如來所,修行供養,種諸善根。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Vì thế, các thiện nam tử và thiện nữ nhân ấy trong quá khứ đã từng tu hành, cúng dường, gieo các thiện căn nơi các đức Như Lai).
Chúng ta hoàn toàn có thể thành thục thiện căn trong đời trước của chính mình, hành trì pháp này. Nếu chôn vùi thiện căn đời trước, bỏ phế thiện căn đời trước, được gặp gỡ pháp tắc như thế này mà chẳng sanh lòng vui thích, lại nẩy sanh nhiều nỗi hoài nghi, báng bổ. Đối với chuyện hành trì pháp Ban Châu, chúng ta phải khéo quan sát tự tâm, khéo quan sát những kẻ hữu duyên chung quanh mình, đúng như kinh điển nhà Phật đã nói, mười phần hiểu rõ trạng thái thiện căn, trạng thái thành tựu, và nghiệp tướng được thủ hộ trong cõi đời.
(Kinh) Hiền Hộ đương tri! Thử bối phi ư nhất Như Lai sở, tu hành, cúng dường, chủng chư thiện căn dã, diệc phi ư nhị, tam, tứ, ngũ, nãi chí thập Như Lai sở, chủng chư thiện căn dã. Diệc phi ư bách thiên ức số chư Như Lai sở, chủng chư thiện căn dã. Hiền Hộ! Đương tri thử chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, dĩ ư quá bách thiên số vô lượng vô biên chư Như Lai sở, tu hành, cúng dường, chủng chư thiện căn, phương đắc văn thử Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội.
(經)賢護當知!此輩非於一如來所,修行供養,種諸善根也,亦非於二、三、四、五,乃至十如來所,種諸善根也。亦非於百千億數諸如來所,種諸善根也。賢護!當知此諸善男子善女人,已於過百千數無量無邊諸如來所,修行供養,種諸善根,方得聞此念佛現前三昧。
(Kinh: Hiền Hộ hãy nên biết! Những người ấy chẳng phải là đã tu hành, cúng dường, gieo các thiện căn nơi một vị Như Lai, cũng chẳng phải là đã gieo các thiện căn nơi hai, ba, bốn, năm, cho đến mười vị Như Lai. Cũng chẳng phải là gieo các thiện căn nơi trăm ngàn ức số các vị Như Lai. Hiền Hộ! Hãy nên biết các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy tu hành, cúng dường, gieo các thiện căn nơi nhiều hơn con số trăm ngàn vô lượng, vô biên các đức Như Lai thì mới được nghe Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội này).
Sự thọ ký này chính là sự gia trì chẳng thể nghĩ bàn, là sức công đức to lớn dìu dắt và thúc đẩy. Nếu là kẻ tín thuận, sẽ đều thành đạo vô thượng, đạt được phương tiện trợ duyên nơi vô thượng đạo, trở thành phương tiện trợ duyên cho sự phát tâm trong tâm trí. Phương tiện này do được đức Phật thọ ký, có oai đức lớn, có sức to lớn. Nếu chẳng tin tưởng
chỗ này, sẽ đánh mất loại công đức đại thiện xảo này!
(Kinh) Văn dĩ sanh tín, tâm khai ý giải, tức dĩ vi thật, vô phục nghi võng. Ký hoạch văn dĩ, nhạo dục thư tả, độc tụng, thọ trì, nãi chí vị tha quảng tuyên thị nghĩa.
(經)聞已生信,心開意解,即以爲實,無復疑惘。既獲聞已,樂欲書寫,讀誦受持,乃至爲他廣宣是義。
(Kinh: Nghe rồi sanh lòng tin, tâm ý mở mang, thấu hiểu, coi đó là thật, chẳng còn nghi ngờ. Đã được nghe rồi bèn ưa thích, biên chép, đọc tụng, thọ trì, cho đến vì người khác rộng nói).
Nếu cho là thật, người ấy ắt sẽ thủ hộ, hành trì. Nếu chẳng coi là thật, ắt sẽ sanh khởi ngờ vực. Do vậy, kẻ ở trong tham, sân, si, tri kiến bất chánh, nghi căn sâu nặng, sẽ chẳng thể chọn lựa pháp, chẳng thể thâm nhập pháp, chẳng thể hành trì pháp. Hiện tiền đại chúng hãy quán tự tâm sâu xa. Nếu chẳng phải vì danh vọng và lợi dưỡng, chẳng phải vì cái tâm kiêu mạn, chẳng phải vì ghen tỵ, háo thắng mà hành trì, thủ hộ pháp tắc như vậy, người ấy rất chẳng thể nghĩ bàn. Cái tâm rất chẳng thể nghĩ bàn ấy đều được chư Phật biết, thấy. Nếu chúng ta vì cái tâm kiêu mạn, tâm ghen tỵ, tâm ham hố danh vọng lợi dưỡng, tâm thích gây chuyện mà tu trì pháp này thì cũng chẳng tương ứng với Phật pháp.
Chư vị thiện tri thức ơi! Nhất định phải khéo quan sát tự tâm, chớ nên nhận định qua loa. Có người nói: “Tôi cũng hành pháp này, vì sao chẳng đạt được lợi ích to lớn?” Quý vị hãy xét xem chính mình có phải là cái tâm danh vọng, tâm lợi dưỡng, tâm ghen tỵ, tâm kiêu mạn mà tu trì pháp tắc này hay không? Tu pháp như thế này, đích xác là phải nên phát tâm uốn nắn cho đúng, tín giải đúng như thật, tu trì chân thật, thì sẽ có thể thoát lìa tam giới, lợi ích trời, người rộng rãi. Nếu chẳng như thế, sẽ hãm nhập trong cái tâm kiêu mạn hẹp hòi và cái tâm cầu danh lợi của chính mình. Hiện thời, tôi thường gặp các cư sĩ nói như thế này: “Ái chà! Tôi kinh hành Ban Châu, trở về nhà sẽ phú quý lắm, sẽ ít có chướng ngại, sẽ có cuộc sống thế tục càng tốt đẹp hơn”. Chuyện này giống như trong phần trước đức Thế Tôn đã nói: Hệt như dùng một viên báu ma-ni để đổi lấy một con trâu! Hữu tình giống như vậy quá nhiều. Tuy họ tối thiểu kết mối thiện duyên với pháp tắc này, nhưng tới khi nào thì mới có thể đạt được lợi ích rốt ráo nơi vô thượng đạo? Đó quả thật là một dấu hỏi!
(Kinh) Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Tư chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, vãng tích dĩ ư chư Như Lai tiền, văn thị tam-muội, độc tụng, thọ trì. Dĩ thị nghĩa cố, Như Lai diệt hậu, ư tối mạt thế ngũ bách niên chung, pháp dục diệt thời, pháp tương hoại thời, hoàn đương đắc văn như thị tam-muội, văn tức sanh tín, vô hữu kinh nghi, bất thoái, bất một, sanh đại hoan hỷ, biến mãn thân tâm.
(經)何以故?賢護!斯諸善男子善女人,往昔已於諸如來前,聞是三昧,讀誦受持。以是義故,如來滅後,於最末世五百年終,法欲滅時,法將壞時,還當得聞如是三昧,聞即生信,無有驚疑,不退不沒,生大歡喜,遍滿身心。
(Kinh: Vì sao vậy? Này Hiền Hộ! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy xưa kia đã ở trước các đức Như Lai nghe tam-muội này, đọc tụng, thọ trì. Do bởi nghĩa ấy, sau khi đức Như Lai diệt độ, vào năm trăm năm cuối của đời Mạt Pháp, khi pháp sắp diệt, khi pháp sắp hoại, vẫn sẽ được nghe tam-muội như thế này, nghe rồi liền tin, chẳng có kinh hãi, ngờ vực, chẳng thoái chuyển, chẳng mất đi, sanh niềm vui to lớn tràn ngập thân tâm).
Trong rất nhiều kinh điển, đức Thế Tôn đã nói “hỷ duyệt biến mãn thân tâm” (vui sướng tràn ngập thân tâm) như thế. Nếu ai trong một đời, hoặc là nhiều đời, nhiều kiếp, siêng khổ thủ hộ thiện căn, cúng dường chư Phật Như Lai, phát Bồ Đề tâm, cho đến nghe lời dạy về tam-muội này, lại sanh lòng hoan hỷ to lớn, sự vui sướng ấy đầy ngập thân, tâm, và thế giới, người ấy sẽ rất dễ dàng tương ứng với tam-muội. Lại có các chúng sanh nghe các pháp tắc “tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến” mà sanh tâm hoan hỷ. Lại có những kẻ hiếu sự trong tự viện, tạo ra các ác sự, ác duyên mà sanh lòng hớn hở, hoan hỷ. Đó gọi là “căn tánh khác nhau”. Có kẻ nghe pháp bèn vui mừng, nghe dạy bảo bèn hoan hỷ; đó là do thiện căn đã chín muồi. Có người thì nghe nhân duyên xấu ác bèn sanh lòng hoan hỷ, hoặc lúc trời, người đều bi ai, kẻ đó cũng sanh hoan hỷ. Vì sao? Ác tánh đã thành thục rồi!
(Kinh) Độc tụng, thọ trì, tư duy kỳ nghĩa, vị tha giải thuyết, nãi chí nhất nhật, nhất dạ, hành thị tam-muội.
(經)讀誦受持,思惟其義 ,爲他解說 ,乃至一日一夜,行是三昧。
(Kinh: Đọc tụng, thọ trì, tư duy ý nghĩa, vì kẻ khác giải nói, cho đến trong một ngày, một đêm hành tam-muội này).
Hiện thời, vì sao chúng tôi phải đề xướng hành pháp Ban Châu một ngày một đêm? Đương nhiên là có rất nhiều người phủ định chuyện này. Chẳng hạn như trước kia, tôi đến một số tự viện, dẫu là các tự viện khá lớn, cũng bị phủ định. Thậm chí có rất nhiều vị thiện tri thức có danh vọng cũng mở miệng phủ nhận pháp này. Vậy thì tại sao đức Thế Tôn lại nhắc đi nhắc lại tánh chất trọng yếu của pháp này, cũng như tánh chất trọng yếu của việc tu tập? Chính là vì thành thục thiện căn cho chúng ta! Nhất là trong thời Mạt Pháp, các chúng sanh thiện căn mỏng ít, ít có kẻ tu tập các pháp tắc tam-muội. Kẻ tu trì các sức thần thông càng ít hơn nữa, đã ít lại càng ít hơn! Như Địa Tạng Vương Bồ Tát đã tuyên nói trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, trong thời Mạt Pháp, các chúng sanh chẳng hiểu sự thiện xảo của sức thần thông, chẳng tu tập, phần nhiều ưa chuộng nói năng, phần nhiều đọa trong sự tướng, siêng khổ nơi sự tướng, chẳng thể thâm nhập pháp tắc, chẳng đạt được lợi ích chân thật trong Phật pháp.
(Kinh) Hiền Hộ! Nhược phục hữu nhân, văn thử tam-muội, vô hữu kinh bố, diệc bất thoái một, bất sanh báng hủy, văn dĩ tùy hỷ, tức dĩ vi thật, tư duy, phân biệt, tâm khai ý giải.
(經)賢護!若復有人,聞此三昧,無有驚怖,亦不退沒,不生謗毀,聞已隨喜,即以爲實,思惟分別,心開意解。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Nếu lại có người nghe tam-muội mà chẳng kinh sợ, cũng chẳng thoái thất, chẳng sanh hủy báng, nghe rồi bèn tùy hỷ, cho là thật, tư duy, phân biệt, tâm ý thông hiểu).
Tùy hỷ có công đức chẳng thể nghĩ bàn! Vì thiện căn, phước đức, nhân duyên có chín muồi và chẳng chín muồi, có tương ứng và chẳng tương ứng. Quý vị chẳng hành trì pháp tắc này, vẫn hoàn toàn được, nhưng nhất định chớ nên chửi bới, ngăn cấm người khác hành trì pháp tắc. Nếu làm như thế (ngăn cản, chửi bới), lầm lỗi sẽ vô lượng vô biên, vì lỗi lầm ấy giống hệt như đã ngăn lấp đạo Niết Bàn của người khác, bức bách người khác tiến vào đường ác. Do lỗi lầm sâu nặng, cho nên các vị thiện tri thức nhất định phải khéo quan sát, tư duy, đừng nên đánh mất lợi ích to lớn trong Phật pháp, vì lòng tin hời hợt và tâm kiêu mạn mà nghi ngờ, báng bổ Phật pháp, hủy hoại giáo pháp thù thắng! Tội lỗi xả pháp và báng pháp rất lớn! Chúng ta chẳng hành pháp, chớ nên trở ngại kẻ khác, càng chớ nên gây chướng ngại, phá hoại nhân duyên hành pháp của kẻ khác. Chư vị thiện tri thức ơi! Chuyện này thoạt nhìn dễ dàng, thật ra, chúng ta vẫn phải rất chú tâm cẩn thận quan sát khởi tâm động niệm của chính mình ở chỗ này. Có thể là có người suốt đời chỉ có một lần có nguyện vọng hành pháp duy nhất, đã tích tụ thiện căn tư lương của chính mình lâu ngày, sau khi người ấy đã bị trở ngại, đã bị công kích một lượt, suốt đời sẽ khó hành! Chúng ta là người tu tập, thủ hộ Phật pháp, có nhân duyên và phước đức thành tựu đạo nghiệp cho người khác, thiện căn ấy chẳng thể nghĩ bàn! Nhưng nếu hủy diệt cơ chế thiện căn và hành pháp của người khác, ác nghiệp ấy sao có thể miêu tả cho được?
Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta không thể chẳng tư duy, không thể chẳng quan sát. Xuất gia cũng thế mà tại gia cũng thế, mọi sự đều có thể làm bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào. Thật ra, chúng ta đời đời kiếp kiếp đều ở trong sự nghiệp, trong các sự nghiệp ấy, có ác sự nghiệp, có thiện sự nghiệp, mà cũng có cái được gọi là vô lậu sự nghiệp, có sự nghiệp lợi ích thế gian và tăng ích thế gian, đích xác là cũng có sự nghiệp buông lung vô độ, phóng túng theo lòng ham muốn, có sự nghiệp tội ác và luân hồi, cũng có sự nghiệp hủy diệt Phật pháp, phỉ báng Tam Bảo. Rốt cuộc là chúng ta làm sự nghiệp gì vậy? Hãy khéo như thật nhìn thấu tự tâm, dò xét sự phát tâm trong chỗ sâu thẳm của tâm linh. Đó là điều trọng yếu nhất!
(Kinh) Đản năng vị tha tạm thời xưng thiện, sở hoạch phước tụ, thượng bất khả lượng, huống năng độc tụng, thọ trì, cần tư nhi hành, vị tha quảng thuyết, chí nhất nhật dạ.
(經)但能爲他暫時稱善,所獲福聚,尚不可量,況能讀誦受持,勤思而行,爲他廣說,至一日夜。
(Kinh: Chỉ có thể vì người khác tạm thời khen ngợi điều lành, sẽ đạt được khối phước còn chẳng thể lường, huống hồ có thể đọc tụng, thọ trì, siêng năng suy nghĩ để hành trì, vì người khác rộng nói cho đến một ngày đêm).
Chẳng sanh nghi báng, người ấy có thiện căn chẳng thể nghĩ bàn.
Nếu có thể nói cho kẻ khác biết, người ấy tất nhiên sẽ có tâm trí tán thán và tùy hỷ công đức của chư Phật.
(Kinh) Hiền Hộ đương tri! Thị thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhân thị sự cố, tức tiện hoạch đắc quá ư vô lượng A-tăng-kỳ đại công đức tụ, toại đắc trụ ư bất thoái chuyển địa, tùy sở nguyện dục, như ý tức thành.
(經)賢護當知!是善男子善女人,因是事故,即便獲得過於無量阿僧祇大功德聚,遂得住於不退轉地,隨所願欲,如意即成。
(Kinh: Hiền Hộ hãy nên biết! Thiện nam tử, thiện nữ nhân do vì chuyện này liền đạt được khối công đức vượt quá con số vô lượng A-tăng-kỳ, liền trụ trong địa vị bất thoái chuyển, tùy theo lòng mong muốn liền thành tựu như ý).
Đây là tán thán công đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật pháp, tức là hiển hiện lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của công đức do tùy hỷ. Trong tu trì mười đại nguyện vương, có tu trì tùy hỷ công đức, chẳng báng duyên của người khác, hãy tùy hỷ đối với sự tu trì, người như thế sẽ có nhiều thiện căn tăng thượng. Như mọi người ở trong tự viện có các thứ phát tâm, nhân duyên khác nhau, nhưng cái tâm tùy hỷ chớ nên diệt mất, cái tâm báng pháp chớ nên sanh khởi. Có người do một niệm tâm nhạy bén, sẽ sanh khởi nghi hoặc, báng bổ. Cái gọi là “tâm nhạy bén” ấy chính là tự đại, tự kiêu mạn, tự phụ. Hễ sanh khởi cái tâm như thế, sẽ phỉ báng pháp tắc. Đó gọi là tâm trí quá khích!
Pháp Ban Châu quả thật dễ bị kẻ khác nghi ngờ, hủy báng nhất! Vì nhiều hành giả chẳng thể nhanh chóng đích thân chứng tam-muội này. Hoặc là tuy có thiện căn tương tự, nhưng chẳng thể liên tục thủ hộ, phần nhiều sẽ khiến cho các hữu tình chẳng hành pháp bèn sanh khởi nghi hoặc. Tôi đã so sánh, như có những nơi, mọi người khá siêng khổ, nghiêm cẩn thủ hộ, liên tục tu tập pháp tắc này, có người dùng cái tâm điều nhu, tâm tùy hỷ, tâm tán thán để thủ hộ, cúng dường người khác hành pháp. Như thế thì những người chung quanh cũng sanh khởi lòng yêu thích, ngưỡng mộ, vui thích pháp ấy, nhưng lại có hữu tình khác dẫu hành pháp lại khiến cho người ta ngờ vực, phỉ báng, chửi bới, là vì lẽ nào? Suy rộng ra, trong quá trình hành trì pháp tắc ấy, phần nhiều sanh lòng lo ngờ, cái tâm dao động, phần nhiều vì tâm danh lợi thúc đẩy mà truyền bá và thực hiện pháp tắc này. Do vậy, khiến cho chúng sanh ngờ vực. Đối với điều này, nhất định phải quan sát cẩn thận.
Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn thọ ký: Pháp do Ngài truyền lại, sẽ có pháp vận là một vạn hai ngàn năm. Sau một vạn năm của thời Mạt Pháp, giáo pháp của Ngài liền diệt sạch, phải đợi năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm sau, Di Lặc Phật Thế Tôn giáng thế, truyền pháp rộng lớn. Sự thọ ký này chính là nói về người có thiện căn trong quá trình [Phật pháp] dần dần tiêu vào lúc giảm kiếp (tuổi thọ con người dần dần giảm đi). Trong thời Chánh Pháp, thiện căn của chúng sanh thành thục, nghe pháp liền chứng đạo. Nay chúng ta đã bước vào một vạn năm của thời Mạt Pháp, cũng có nghĩa là trong năm trăm năm cuối cùng, tức là vào lúc cuối cùng của chánh pháp, thiện căn của hữu tình mỏng ít, bại hoại, phần nhiều sanh lòng kiêu mạn và tà kiến. Nói “tà kiến” tức là do tự đắm nhiễm nơi pháp, tự chấp trước pháp, tự phụ nơi pháp mà đọa vào tà kiến. Nhưng do trong lúc cuối của chánh pháp, chánh pháp của đức Thế Tôn vẫn nghiễm nhiên lưu truyền trong thế gian, người thiện căn chín muồi vẫn đạt được lợi ích rốt ráo. Chỉ vì có nhiều hữu tình thiện căn mỏng ít, khiến cho dòng pháp bị nghẽn tắc trong hiện tiền, cho nên gọi là “Chánh Pháp mạt quý” (cuối thời Chánh Pháp).
“Mạt” là vì có nhiều chúng sanh ngờ vực, báng bổ pháp tắc, sanh lòng kiêu mạn, chẳng tin kinh giáo, chẳng tu tập pháp, hoặc phần nhiều là dựa hơi Phật pháp, thật sự là tâm trí ngoại đạo. Đức Thế Tôn thọ ký Phật pháp trong thời đại ấy, những kẻ dựa hơi Phật pháp để kiếm sống rất đông, rất nhiều. Lại còn có Ba Tuần và đệ tử của hắn phát ra thệ nguyện tội ác, rất nhiều ngoại đạo dựa dẫm Phật giáo. Chúng ta cứ nhìn vào mọi chuyện trong thế gian sẽ biết ngay. Do vậy, những người xuất gia chúng ta phải nên cảnh giác. Nếu là đệ tử của Phật mà chẳng có thệ nguyện thủ hộ giáo pháp của Phật Thích Ca, duy trì Phật pháp, ắt sẽ là con cái của Ba Tuần! Dùng điều gì để chọn lựa? Trên thực tế, toàn là ý hướng thiện căn trong tâm niệm của quý vị!
Thông thường, thọ ký trong kinh điển là do đức Thế Tôn quan sát pháp nhân duyên. Đương nhiên, đấy chẳng phải là pháp cố định, vì thiện căn của hết thảy chúng sanh bất định. Có những hữu tình phát ra một niệm tâm trí Bồ Đề mạnh mẽ, có thể thoát khỏi sự mê muội trong nhiều đời nhiều kiếp sanh tử. Như Thích Ca Mâu Ni Phật khi tu nhân, trông thấy tướng hảo quang minh của Phất Sa Phật Thế Tôn khi Ngài nhấc một chân, trong suốt bảy ngày tán tụng “thiên thượng, thiên hạ vô như Phật, thập phương thế giới diệc vô tỷ, thế gian ngã kim giai tận kiến, nhất thiết vô hữu như Phật giả” (trên trời, dưới đất Phật khôn sánh, mười phương thế gian đều chẳng bằng, con nay thấy trọn khắp thế gian, hết thảy chẳng ai được như Phật). Tùy hỷ, tán thán công đức của Phật chẳng hề chán ngán. Do công đức tinh tấn như thế, vượt thoát chín kiếp, thành Phật trước ngài Di Lặc!
Di Lặc Thế Tôn từng bước tu tập rất ổn. [Ngài giáng thế] nhằm lúc nhân loại thọ tám vạn bốn ngàn năm, là lúc phước đức tụ tập, lúc thiện căn chín muồi. Ngài giáng sanh trong cõi đời, thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, thị hiện đại oai đức. Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn có nhiều nỗi ủy khuất, tuy đã thành Phật, có rất nhiều ủy khuất, vì nhân loại thọ một trăm năm. Đời người ngắn ngủi, phước đức mỏng ít, hết sức đáng thương xót. Mười phương thế giới đều coi thường bọn chúng sanh chúng ta, chỉ trong thời gian liếc mắt, chúng ta đều đã diệt mất, chẳng có cách nào quan tâm chúng ta được. Do vậy, nếu chúng ta chẳng siêng ròng nơi pháp tắc, lại dùng cái tâm kiêu mạn để lãng phí sanh mạng của chính mình, đúng là rất đáng tiếc, vì trải bao kiếp lâu xa, khó thể gặp gỡ! Con người thọ trăm tuổi, có Thích Ca Thế Tôn giáo hóa trong thế giới ác trược này, chúng ta có phước đức, được nghe giáo ngôn như thế, nhất là vào cuối thời giáo pháp của Phật Thích Ca, sẽ càng khó khăn hơn!
Lời dạy rất sâu này khiến cho chúng ta chẳng thoái chuyển, mười phần chẳng dễ! Tuy có rất nhiều hành pháp, nhưng nếu muốn đắc bất thoái chuyển ngay trong một đời, khó khăn mười phần. Nói “bất thoái” chính là Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, và Niệm Bất Thoái. Bát Địa Bồ Tát mới có công đức này, nhưng người thật sự niệm Phật, thật sự thuận tùng, hướng theo Niệm Phật tam-muội để tu trì, sẽ có thể đắc bất thoái chuyển ngay trong một đời. Trên thực tế, chính là có cùng một ý nghĩa, nhưng sử dụng từ ngữ khác biệt so với “tức thân thành tựu” (thành tựu ngay trong thân này). Vì ba loại Bất Thoái chính là công đức thành Phật, được gọi là A Bệ Bạt Trí. So ra, đối với tín niệm, ý thích, và nguyện vọng của người hiện thời, nếu mong đắc Bồ Tát Chuyển ngay trong một đời, mà chẳng hành trì pháp Niệm Phật, sẽ mười phần khó thể đạt được! Có nhiều người trong cõi đời ngoài việc nghi hoặc pháp tắc này, cứ lẩn quẩn trong dòng nghiệp của chính mình, mười phương chư Phật đều thương xót loại hữu tình ấy! Nếu chẳng gặp gỡ pháp tắc thì thôi, nhưng nếu đã gặp pháp tắc mà ngăn che tự tâm, che lấp pháp tắc, hoặc ngăn trở người khác, lỗi lầm như thế mười phần to lớn. Ở đây, đức Thế Tôn đã nêu bày như thế!
Đối với mỗi năm trăm năm, đức Thế Tôn đều có thọ ký, cho đến một vạn năm của thời Mạt Pháp, con người tu trì rất khó khăn. Vì sao khó khăn? Vì bạch pháp bị chìm đắm, đấu tranh kiên cố, tự kiêu mạn, tự phụ. Đấy là tình thế trong thời đại này, nhưng ở đây, [đức Thế Tôn] nói tổng quát: Có nhiều chúng sanh ngu si, tăng cường tự ngã, cho rằng [kiêu mạn, tự phụ, ngu si] chính là tự ngã, coi những thứ đó là chính mình. Như thế chính là đã tự xác định cuối thời Mạt Pháp cho chính mình, xác định tâm trí của chính mình. Nếu là như thế, tu pháp sẽ rất khó khăn! Đúng thế, chúng ta đang sống trong thời Mạt Pháp, nhưng phải nên nhận biết, vâng giữ pháp tắc này như thế nào, hoàn toàn phụ thuộc vào sự phát tâm. Chúng ta nước chảy bèo trôi, vật vờ qua ngày, có phải là như thế hay không, ai nấy hãy nên xét kỹ!
“Toại đắc trụ ư Bất Thoái Chuyển địa” (Bèn được trụ trong địa vị Bất Thoái Chuyển): Bất Thoái Chuyển ở đây thuộc về Bát Địa Bồ Tát. Chúng ta thường nói có hai loại cầu thiện xảo A Bệ Bạt Trí:
– Một là tự mình tu trì, đoạn trừ hai thứ Kiến Hoặc và Tư Hoặc nơi bản thân, chứng đắc quả A La Hán, đạt được Bất Thoái Chuyển. Vì cớ sao? Có cơ chế chẳng thoái chuyển, trụ trong địa vị Ứng Cúng.
– Loại kia là ở trong Bồ Tát đạo, tùy thuận Phật nguyện, tùy thuận Phật lực, tu tập giáo ngôn Tịnh Độ, an trụ trong sự che chở do Phật lực nhiếp hóa, nương vào sự duy trì của Phật lực. Do Phật lực chẳng thoái chuyển, khiến cho chúng sanh tiến nhập Vô Thượng Bồ Đề, chẳng bị thoái chuyển. Đó gọi là Dị Hành Đạo của pháp môn Tịnh Độ.
Đương nhiên cũng có hành pháp tự lực của Bồ Tát, như kinh Nhân Quả đã tuyên nói: Bồ Tát trong ba đại A-tăng-kỳ kiếp siêng khổ tu trì, hành trì chẳng xả, chẳng bị mê mất, cũng có thể đạt được ba thứ thoái chuyển giống hệt. Đấy là kết quả của việc siêng khổ huân tu trong ba đại A-tăng-kỳ kiếp.
(Kinh) “Hiền Hộ! Kỳ sự tuy nhĩ, ngã kim vị nhữ, cánh tuyên thí dụ, minh hiển thử nghĩa dã. Phục thứ Hiền Hộ! Thí như hữu nhân, thủ thử tam thiên đại thiên thế giới nhất thiết đại địa, tận mạt vi trần. Phục thủ nhất thiết thảo mộc chi diệp, bất vấn đại tiểu, giai vi vi trần. Bỉ nhân nhĩ thời, ư bỉ trần tụ, thủ nhất vi trần, phá hoại phân tích, hoàn linh đắc tác nhĩ hứa vi trần. Nhiên hậu, phục thủ bỉ nhất thiết trần, thứ đệ phân tích, giai linh đẳng bỉ sơ vi trần số. Hiền Hộ! Ư ý vân hà? Thị vi trần số, khả vị đa phủ?” Hiền Hộ đáp viết: “Thậm đa Thế Tôn!” Phật ngôn: “Hiền Hộ! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, thủ tiền nhĩ hứa vi trần số Phật sát, thịnh mãn chúng bảo, trì dụng bố thí. Hiền Hộ! Ư ý vân hà? Bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân, sở hoạch phước tụ, phục vi đa phủ?” Hiền Hộ báo viết: “Thậm đa Thế Tôn! Nhiên bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhân thị sự cố, hoạch đắc quá bỉ vô lượng vô biên A-tăng-kỳ phước tụ”. Phật phục cáo ngôn: “Hiền Hộ! Ngô cánh ngữ nhữ! Như bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân, dĩ nhĩ hứa trần số Phật sát, thịnh mãn thất bảo, trì dụng bố thí, hoạch như tư phước. Phục hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thử Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội, tạm sanh tùy hỷ, tín tâm, phân biệt, dĩ vi chân thật, tâm khai ý giải, độc tụng, thọ trì, nãi chí tạm thời vị tha giải thuyết, thị thiện nam tử, thiện nữ nhân, sở hoạch phước tụ, thắng tiền thí phước vô lượng, vô biên, phi khả xưng toán, phi khả giảo kế, phi khả tư lượng. Hiền Hộ! Như thị thiện nam tử, thiện nữ nhân văn thử tam-muội, sanh tùy hỷ tâm, nãi chí tạm thời, vị tha giải thuyết, thượng hoạch vô lượng, vô biên phước tụ. Hà huống thị thiện nam tử, thiện nữ nhân, ư thử tam-muội Tu Đa La trung, như văn nhi tín, như tín nhi thọ, như thọ nhi thuyết, như thuyết nhi hành dã”.
(經)賢護!其事雖爾,我今爲汝,更宣譬喻,明顯此義也。復次賢護!譬如有人,取此三千大千世界一切大地,盡末爲塵。復取一切草木枝葉,不問大小,皆爲微塵。彼人爾時,於彼塵聚,取一微塵,破壞分析,還令得作爾許微塵。然後,復取彼一切塵,次第分析,皆令等彼初微塵數。賢護!於意云何?是微塵數,可謂多不?」賢護答曰:「甚多世尊!」佛言:「賢護!若有善男子善女人,取前爾許微塵數佛剎,盛滿衆寶,持用佈施。賢護!於意云何?彼善男子善女人,所獲福聚,復爲多不?」賢護報曰:「甚多世尊!然彼善男子善女人,因是事故,獲得過彼無量無邊阿僧祇福聚」。佛復告言:「賢護!吾更語汝!如彼善男子善女人,以爾許塵數佛剎,盛滿七寶,持用佈施,獲如斯福。復有善男子善女人,聞此唸佛現前三昧,暫生隨喜,信心分別,以爲真實,心開意解,讀誦受持,乃至暫時爲他解說,是善男子善女人,所獲福聚,勝前施福無量無邊,非可稱算,非可校計,非可思量。賢護!如是善男子善女人,聞此三昧,生隨喜心,乃至暫時,爲他解說,尚獲無量無邊福聚。何況是善男子善女人,於此三昧修多羅中,如聞而信,如信而受,如受而說,如說而行也」。
(Kinh: “Này Hiền Hộ! Chuyện ấy tuy là như thế, nay ta sẽ vì ông lại nói thí dụ để làm sáng tỏ nghĩa ấy. Lại này Hiền Hộ! Ví như có người đem hết thảy đại địa trong tam thiên đại thiên thế giới này đều nghiền nát thành bụi. Lại lấy hết thảy cành lá của cỏ cây, bất luận lớn hay nhỏ, đều nghiền thành vi trần. Khi đó, người ấy, lại đối với lượng bụi đó, lấy mỗi hạt vi trần, chia chẻ, phá vỡ, lại khiến cho nó tách thành chừng đó hạt vi trần. Sau đó, lại lấy hết thảy các hạt bụi đó, theo thứ tự chia chẻ, đều khiến cho chúng nó bằng với số lượng các hạt vi trần thuở đầu. Này Hiền Hộ! Ý ông nghĩ sao? Số vi trần ấy có thể nói là nhiều hay chăng?” Hiền Hộ thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, rất nhiều!” Đức Phật nói: “Này Hiền Hộ! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân lấy các cõi Phật bằng với số lượng vi trần trên đây, chứa đầy các thứ báu, dùng để bố thí. Này Hiền Hộ! Ý ông nghĩ sao? Thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đạt được khối phước, há có nhiều chăng?” Hiền Hộ thưa rằng: “Bạch đức Thế Tôn, rất nhiều! Nhưng thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy do vì chuyện này, đạt được khối phước vượt quá con số vô lượng vô biên A-tăng-kỳ”. Đức Phật lại bảo rằng: “Này Hiền Hộ! Ta lại nói với ông. Như thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy dùng các cõi Phật nhiều như số vi trần để chứa đầy bảy báu đem bố thí, đạt được phước như thế. Lại có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe tam-muội Niệm Phật Hiện Tiền này, tạm sanh lòng tùy hỷ, tín tâm, phân biệt, cho là chân thật, tâm ý thông hiểu, đọc tụng, thọ trì, cho đến tạm thời vì người khác giải nói. Thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đạt được khối phước nhiều hơn phước bố thí của người trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính kể, chẳng thể so sánh, chẳng thể suy lường. Này Hiền Hộ! Thiện nam tử, thiện nữ nhân như thế, nghe tam-muội này, sanh tâm tùy hỷ, cho đến tạm thời vì người khác giải nói, còn đạt được vô lượng vô biên khối phước. Huống hồ thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đối với Khế Kinh tam-muội này, có thể đúng như điều đã được nghe mà sanh lòng tin, đúng như lòng tin mà thọ trì, đúng như sự thọ trì mà giải nói, đúng như đã giải nói mà hành vậy).
Đức Phật là đấng nói lời chân thật, đấng nói lời như thật, đấng chẳng nói lời khác lạ. Có nhiều hữu tình do thiện căn mỏng ít, đối với lời dạy của đức Thế Tôn chẳng sanh lòng vui thích, cứ ngỡ sự suy lường do vọng tưởng của chính mình là chân thật. Do đó, chẳng đạt được thiện căn, chẳng đạt được phước đức, chẳng thể thành thục tự thân. Vì sao? Do chẳng tùy thuận lời dạy của đức Phật, do chẳng tùy thuận sự hướng dẫn của Phật, do chẳng tùy thuận lời Phật nói. Đúng là đã đến núi báu mà trở về tay không, chẳng lấy được gì! Kinh điển Đại Thừa lưu truyền rộng khắp, quả thật là kho báu của Như Lai, mà cũng là kho báu trong tâm trí, tức là Như Lai Tạng Tánh trong tâm trí của hết thảy chúng sanh được hiển lộ. Nếu mở bản kinh này ra, hoan hỷ, hớn hở, thủ hộ, tu tập, thì chính là đã mở toang và thành thục Như Lai Tạng Tánh của chính mình. Nếu đối với chỗ này mà quý vị nghi hối, khinh mạn, chẳng coi là đúng, thiện căn sẽ lập tức bị tán hoại.
Có thể thành thục thiện căn ở chỗ nào? Các vị thiện tri thức hãy nên quan sát, hãy khéo tư duy. Nơi đất Hán, có một hiện tượng đặc biệt bất bình thường là coi thường kinh điển, coi thường lời dạy của đức Thế Tôn. Đối với ngôn giáo của đức Thế Tôn, phần nhiều chẳng sanh chánh tín, không thể yêu thích, thủ hộ, khinh rẻ, coi thường kinh điển chẳng phải là trân bảo. Kết quả là đối với giáo pháp trân bảo do đức Như Lai đã nói, dẫu nghe mà cũng như không nghe, dẫu xem mà cũng như chẳng xem! Đúng là chẳng biết do nhân duyên nào? Nếu nói thiện căn chẳng thành thục, cớ sao lại được gặp gỡ? Hy vọng các vị thiện tri thức hãy khích lệ chính mình thành thục thiện căn, cổ vũ chính mình buông xuống tri kiến, cổ vũ chính mình yêu thích Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo. Nếu yêu thích Tam Bảo, quý vị nhất định sẽ sanh khởi ý tưởng coi kinh điển là trân bảo, là khó gặp, sanh ý tưởng nghe xong sẽ siêng năng tu tập. Quả thật là phải nên chủ động phát khởi vậy!
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh tư nghĩa, dĩ kệ tụng viết: – Nhược dĩ tam thiên đại thiên giới, thịnh mãn thất bảo dụng hành Đàn. Ngã thuyết bỉ phước tuy vi đa, bất như văn kinh thiểu công đức.
(經)爾時,世尊爲重明斯義,以偈頌曰:「若以三千大千界,盛滿七寶用行檀。我說彼福雖爲多,不如聞經少功德。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vì muốn nhắc lại nghĩa này, bèn dùng kệ tụng nói: – Nếu dùng tam thiên đại thiên cõi, đựng đầy bảy báu để bố thí. Ta nói phước ấy tuy khá nhiều, chẳng bằng nghe kinh chút công đức).
“Đàn” là Đàn Ba La Mật (Dāna-pāramitā), có nghĩa là bố thí. Dùng bảy báu đầy ắp các tam thiên đại thiên thế giới số lượng nhiều vi trần để cúng dường, chẳng bằng công đức của người nghe kinh này. Đức Phật nói lời thành thật như thế. Nếu thiện căn của chúng ta chẳng thành thục, chẳng thể sanh lòng tin, có nhiều nỗi ngờ vực, đến nỗi dẫu nghe mà cũng như chẳng nghe. Có người nghe pháp đúng là rởn cả lông tóc, vì lẽ nào? Thiện căn chín muồi, vui mừng vì được thấy, cũng sanh khởi ý niệm coi trọng. Vì sao chúng ta nghe pháp mà chẳng thể sanh lòng hoan hỷ? Phần nhiều là vì cái tâm thế tục huân nhiễm, do tri kiến của chính mình che lấp tự tâm, cự tuyệt sự tưới nhuần của chánh pháp, cho nên cái tâm phước đức khô cằn của chúng ta chẳng được thấm nhuần!
(Kinh) Bồ Tát vị cầu đa phước tụ, tín giải, độc tụng, phục tư duy.
(經)菩薩爲求多福聚,信解讀誦復思惟。
(Kinh: Bồ Tát vì cầu nhiều khối phước, tín giải, đọc tụng, lại tư duy).
Tức là được nghe pháp tắc như vậy, hãy nên “độc tụng, phục tư duy” (đọc tụng, lại tư duy), đấy là khích lệ và gia trì, hướng dẫn chúng ta tiến nhập đại thiện căn, phước đức, nhân duyên. Trên thực tế, đức Thế Tôn đúng là dùng hết thảy các pháp, dùng hết thảy các thiện xảo, dùng hết thảy lời chân thật để hướng dẫn chúng ta trừ khử tự ngã.
(Kinh) Giải thuyết, tu hành Niệm tam-muội, tư sở hoạch phước quá ư bỉ. Mạt tam thiên giới tận vi trần, phục phân nhất trần đẳng tiền số. Tận thủ như thị chư trần sát, thịnh mãn trân bảo dĩ hành Đàn. Chư Phật sở tán tam-muội kinh, đơn dĩ nhất kệ vị tha thuyết. Ngã ngôn tư nhân hoạch công đức, siêu bỉ đàn phước bất khả lượng. Nhược phục vị tha cụ túc thuyết, hạ chí nhất cấu ngưu nhũ gian. Tư duy tăng quảng chư thiện căn, hà huống trường viễn vô lượng phước. Nhất thiết chúng sanh tận tác Phật, tịnh huệ chung cánh chứng bỉ như.
(經)解說修行念三昧,斯所獲福過於彼。末三千界盡爲塵,復分一塵等前數。盡取如是諸塵剎,盛滿珍寶以行檀。諸佛所贊三昧經,單以一偈爲他說。我言斯人獲功德,超彼檀福不可量。若復爲他具足說,下至一𤚲牛乳間。思惟增廣諸善根,何況長遠無量福。一切衆生盡作佛,淨慧終竟證彼如。
(Kinh: Giải nói, tu hành Niệm tam-muội, đạt được phước đức hơn số đó. Nghiền hết tam thiên thành vi trần, lại chia mỗi trần bằng số trước. Lấy hết các cõi bằng số trần, chứa đầy trân bảo để bố thí. Với kinh tam-muội chư Phật khen, chỉ dùng một kệ bảo người khác. Ta nói người ấy được công đức, hơn phước bố thí chẳng thể lường. Nếu lại nói trọn với người khác, thậm chí trong khoảng vắt sữa bò. Tư duy các thiện căn rộng lớn, hà huống vô lượng phước dài lâu. Hết thảy chúng sanh trọn thành Phật, tịnh huệ chứng trọn hệt như vậy).
“Nhất thiết chúng sanh tận tác Phật, tịnh huệ chung cánh chứng bỉ như” (Hết thảy chúng sanh đều trọn thành Phật, rốt cuộc chứng đắc trí huệ thanh tịnh giống như thế): Pháp tắc như thế chính là Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập tam-muội. Hết thảy chúng sanh nếu có thể tương ứng với nhân duyên này, thì sẽ “nhất thiết chúng sanh tận tác Phật” (hết thảy chúng sanh đều thành Phật). Vì sao có phước đức nhân duyên to lớn như thế? Đó chính là nội hàm vốn có của giáo nghĩa rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn trong pháp này.
(Kinh) Giả ư ức số đa kiếp trung, thuyết tư kệ phước bất khả tận.
(經)假於億數多劫中,說斯偈福不可盡。
(Kinh: Giả sử trong nhiều ức số kiếp, phước nói kệ này chẳng thể tận).
Như Thích Ca Thế Tôn trong khi tu nhân đã nói bài kệ “thiên thượng, thiên hạ vô như Phật”, bèn thành Phật trước ngài Di Lặc chín kiếp. Đó là tấm gương về sự phát tâm dũng mãnh thành tựu Bồ Đề. Nay đang trong thời Mạt Pháp, người phát tâm dũng mãnh rất thưa thớt. Khi tôi mới xuất gia, đã gặp rất nhiều vị xuất gia ngày đêm chẳng ngơi nghỉ. Mọi người cảm thấy chuyện tiến nhập Phật pháp là chuyện rất tự nhiên, là chuyện thuộc bổn phận của chính mình. Là người xuất gia bèn chuyên môn tu đạo, chứng tam-muội, chứng Bồ Đề, chứng sức thần thông, chứng thiện xảo. Đấy là sự nghiệp chuyên biệt, là chuyện rất tự nhiên. Dần dần về sau, tôi thấy rất nhiều vị xuất gia sư phụ dường như coi chuyện hành pháp là chuyện để cho kẻ khác làm, học Phật là để cho kẻ khác học. Trong mấy năm ngắn ngủi, sai biệt rất lớn! Sự tu trì của thế hệ sau so với thế hệ trước, sai khác rất lớn. Vì thế, người trong quá khứ điều phục, nhu thuận. Trước kia, trong tự viện, tôi gặp một số vị lão Bồ Tát, họ đều suốt đêm lạy Phật, thế mà sáng ra, bất luận tụng niệm công khóa cũng thế, chấp tác cũng thế, phục vụ trong tự viện cũng thế, tất cả đều theo đại chúng, cũng là ăn một bữa y hệt, họ rất tự nhiên siêng gắng canh tác, rất hoan hỷ, mà cũng rất bình đạm thủ hộ chuyện ấy, coi đó là bổn phận. Chúng ta trong hiện thời thì sao? Hễ tu pháp một chút, tâm kiêu mạn sanh khởi. Hơi dụng công đôi chút, bèn sanh lòng tự đại. Do vậy, chẳng thể thâm nhập pháp, sẽ gặp phải trở ngại rất mau chóng!
Chẳng biết vì sao thời đại này biến hóa dữ dội như thế? Sự phát tâm yêu mến đối với pháp tắc biến hóa dữ dội, quả thật khiến cho người ta chẳng thể tiếp nhận! Kẻ dũng mãnh đối với pháp càng ngày càng hiếm, kẻ tự đại, tự kiêu thân phận mười phần mạnh mẽ. Cũng có nghĩa là [người xuất gia chẳng lo tu trì đạo nghiệp, mà] mong biến đổi thân phận của chính mình. Cái tâm mong trở thành thứ chi đó mười phần mạnh mẽ! Trước kia, người hành sa-di suốt mười năm, tám năm rất nhiều. Họ đích xác là rất dụng công nơi pháp, mười phần quan tâm đạo nghiệp của chính mình [tiến triển] như thế nào, chẳng đặt chuyện biến đổi thân phận của bản thân làm điều mong mỏi của chính mình. Đó là các thứ do sư trưởng và đạo hữu đốc thúc. Thời đại này thì sao? Mười phần bận tâm đến thân phận của chính mình, chẳng thèm đoái hoài đạo nghiệp của chính mình! Đó là chỗ khiến cho mọi người rúng động nhất! Thân phận dẫu biến đổi thế nào đi nữa, nhưng nếu chẳng có thực chất, lại có ý nghĩa gì chăng? Vờ vịt đặt ra mà thôi! Giống như bong bóng kinh tế vậy, dù có thổi phồng to lớn cách mấy, vẫn cần phải thực tiễn!
Vẫn mong mọi người thật sự tu tập pháp tắc, đích thân chứng nhập, nhất định phải nỗ lực, siêng gắng nỗ lực! Các phương diện khác có thể thong dong, chẳng cần phải dụng sức quá mức. Nhất là đối với chuyện thay đổi thân phận, tôi khuyên các vị chớ nên dốc sức nơi đó. Dốc sức vào đó thì giống hệt như người trong xã hội: Ông Giáp tậu một căn biệt thự, ông Ất sắm một chiếc xe. Người sau bắt đầu so kè với người trước, dẫu ta phải vay nợ, cũng phải sắm xe, cũng phải mua nhà, so bì với kẻ khác mà! Trong tình huống thiện căn chẳng chín muồi, quý vị mong có thân phận [cao quý hơn], sẽ là vay mượn, phải cõng gánh nặng to lớn, vì thiện căn của quý vị chẳng thể như thật, chẳng thể thành thục! Rất nhiều người bị nghiền ép ở ngay chỗ này, bị đả kích nặng nề, dăm ba năm vẫn chẳng thể khôi phục. Vì sao tôi nêu ra chuyện này? Tôi cảm thấy mọi người học Phật cần phải tự biết đúng lẽ thật, đừng nên thùng rỗng kêu to! Kêu to cho lắm, vẫn phải trở về cày cấy từ đầu, tu tập lại từ đầu, vẫn phải quay trở lại. Vì lẽ nào? Quý vị cứ vùn vụt xông lên trước, đằng sau là một mảnh hoang vu, chẳng có gì thật sự tồn tại cả!
Mọi người nhất định phải chú ý chỗ này, phước báo tuyên nói một bài kệ của đức Thế Tôn chẳng thể cùng tận. Ở đây, đức Phật Thích Ca đã đích xác tu tập, nếu chúng ta chẳng suy nghĩ sâu xa về sự phát tâm của chính mình, đắm nhiễm nơi nghiệp tướng, sẽ phải đi rất nhiều đường vòng!
(Kinh) Kỳ gian bỉ Phật giai diệt dĩ, đa ức số kiếp thường quảng tuyên. Chung diệc bất tận bỉ phước biên, duyên thử thâm kinh tứ cú kệ. Nhất thiết sở hữu chư thế giới, tứ phương, thượng, hạ, cập tứ duy. Mãn trung chúng bảo trì dữ tha, vị cầu thắng phước phụng chư Phật. Bỉ chư công đức nan khả lượng, xưng kế dữ chư thế giới đẳng. Kỳ hữu văn thọ thị tam-muội, thiện năng tuyên thuyết phước quá tiền. Nhược nhân ư thử vô trì nghi, kỳ ư chư pháp diệc minh liễu. Bỉ tắc vĩnh tuyệt chư ác thú, năng nhập thắng tịch tam-muội Thiền.
(經)其間彼佛皆滅已,多億數劫常廣宣。終亦不盡彼福邊,緣此深經四句偈。一切所有諸世界,四方上下及四維。滿中衆寶持與他,爲求勝福奉諸佛。彼諸功德難可量,稱計與諸世界等。其有聞受是三昧,善能宣說福過前。若人於此無遲疑,其於諸法亦明了。彼則永絕諸惡趣,能入勝寂三昧禪。
(Kinh: Phật trong thuở ấy đều diệt hết, nhiều ức số kiếp thường rộng nói, vẫn trọn chẳng hết phước báo ấy. Nhờ bốn câu kệ kinh sâu này, hết thảy tất cả các thế giới, bốn phương, trên, dưới, và bốn góc, chứa đầy các báu thí người khác, vì cầu thắng phước, dâng chư Phật. Các công đức ấy chẳng thể lường, tính kể sánh bằng các thế giới. Có ai nghe nhận tam-muội này, khéo hay tuyên nói, phước hơn trước. Ai với pháp này chẳng do dự, cũng lại hiểu rõ các pháp khác. Vĩnh viễn dứt mất các đường ác, hay nhập Thiền Định thắng tịch diệt).
Trong bộ kinh này, đức Thế Tôn đã một mực bảo chúng ta pháp tắc này là giáo ngôn để đắc bất thoái ngay trong một đời, là Đà-la-ni giáo. Cho nên có thể hiểu rõ các pháp, tổng trì hết thảy các thiện xảo. Vì thế, có thể vĩnh viễn chấm dứt hết thảy các đường ác, có thể nhập vào tam-muội Thiền thù thắng tịch tĩnh.
(Kinh) Bỉ nhược thường năng cúng dường ngã, tất thọ đa phước bất tư nghị. Tăng trưởng đa văn chứng Bồ Đề, do tư chư Phật sở tán Định. Kim ngã ngữ nhữ thành thật ngôn, đương niệm tinh tấn, mạc phóng dật.
(經)彼若常能供養我,必受多福不思議。增長多聞證菩提,由思諸佛所贊定。今我語汝誠實言,當念精進莫放逸。
(Kinh: Nếu ai thường hay cúng dường ta, ắt được phước nhiều chẳng nghĩ bàn, tăng trưởng đa văn, chứng Bồ Đề, do nghĩ định được chư Phật khen. Nay ta nói lời thật với ông, hãy nghĩ tinh tấn, đừng phóng dật).
Đối với sự buông lung trong thế gian hiện thời, mọi người chúng ta đều có thể như thật suy tưởng, xem xét. Người trong thời đại này giỏi buông lung, kẻ có tâm trí tinh tấn hiếm hoi. Thường là chỉ cần có cơ hội, sẽ nghĩ lắm cách để buông lung!
(Kinh) Nhất tâm hoan hân phát dũng mãnh, tự nhiên tốc chứng bỉ Bồ Đề. Bỉ vị cúng dường bách số Phật, nãi năng thọ thị tam-ma-đề.
(經)一心歡欣發勇猛,自然速證彼菩提。彼爲供養百數佛,乃能受是三摩提。
(Kinh: Một lòng vui sướng, khởi dũng mãnh, tự nhiên mau chứng đắc Bồ Đề. Người đã cúng dường trăm vị Phật, mới được thọ dụng chánh định này).
Đức Thế Tôn còn thọ ký cho chúng ta. Nếu chứng đắc tam-muội nơi pháp tắc này, sẽ gọi là “Tam-ma-ba-đề thọ trì giả” (người thọ trì Đẳng Chí). An trụ trong công đức của tam-muội, đó là Tam-ma-đề. Tam-ma-ba-đề (Samāpatti, Đẳng Chí) tức là thành tựu an trụ chân thật, vô công dụng thiện xảo thành tựu, trọn đủ hết thảy các tam-muội, chẳng cần phải dụng công. Ở đây là nói đến sự tiến nhập.
(Kinh) Giả ư hậu thế khủng bố thời, tự đương tốc chứng vi diệu định. Nhược hữu kiến ngã dữ tỳ-kheo, cập nhữ Đại Sĩ Hiền Hộ đẳng. Như thị Bồ Tát nhạo đa văn, quyết định đương đắc thử tam-muội. Nhược đắc văn thử thánh tam-muội, vị tha giải thích hoặc thư tả.
(經)假於後世恐怖時,自當速證微妙定。若有見我與比丘,及汝大士賢護等。如是菩薩樂多聞,決定當得此三昧。若得聞此聖三昧,爲他解釋或書寫。
(Kinh: Giả sử đời sau khi sợ hãi, sẽ tự mau chứng Định vi diệu. Nếu ai thấy ta và tỳ-kheo, cùng các Đại Sĩ như Hiền Hộ… Bồ Tát như thế chuộng đa văn, quyết định sẽ đắc tam-muội này. Nếu được nghe thánh tam-muội này, giảng cho người khác và biên chép).
Đối với sức mạnh của môn tam-muội này, đức Thế Tôn dùng những lời ca ngợi như báu tam-muội, thánh tam-muội v.v… Chẳng phải là nói hư dối, mà cũng chẳng phải là nói quá lố. Thật sự là lời tán thán tương ứng và đúng sự thật.
(Kinh) Thị Đà-la-ni Thế Tôn thán, năng chứng nhất thiết Phật Bồ Đề.
(經)是陀羅尼世尊嘆,能證一切佛菩提。
(Kinh: Thế Tôn khen Đà-la-ni này, có thể chứng trọn Phật Bồ Đề).
Tu trì pháp Ban Châu, tức Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, trọn đủ hết thảy các pháp, trọn đủ hết thảy oai đức. Vì sao vậy? Thấy hết thảy chư Phật, sẽ trọn đủ hết thảy các thiện căn, trọn đủ hết thảy các pháp, vì hết thảy chư Phật trọn đủ hết thảy các pháp, được hết thảy chư Phật tổng trì, được hết thảy chư Phật truyền đạt. Do thấy hết thảy chư Phật, có thể thành tựu hết thảy các pháp, cho nên nói là “nhập Đà-la-ni môn”. Đấy là lời chân thật, lời thành thật, chẳng phải là lập bày hư giả. Có nhiều kẻ băn khoăn nơi pháp, gặp pháp này phải nên sanh lòng tin, phải nên thủ hộ, phải nên tu tập.
“Năng chứng nhất thiết Phật Bồ Đề” (Có thể chứng Bồ Đề của hết thảy chư Phật): Do là Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, là pháp tắc có đại oai đức như thế, trong đời này chúng ta được nghe, phước đức đã là chẳng thể nghĩ bàn, được chư Phật tán thán. Nếu được nghe mà có thể tin tưởng, tiếp nhận, phước đức sẽ chẳng thể nghĩ bàn! Nếu chúng ta có thể tu tập thành tựu, đó là công đức như thế nào? Mỗi hữu tình chúng ta hãy nên quán kỹ càng như thật, đừng nên khinh dễ bỏ qua! Vì được nghe pháp như thế này rất khó, nay mọi người đã có thể thấy nghe, đích xác là thiện căn chín muồi. Nếu Pháp Bảo hiện tiền, quý vị chẳng thể thuận tùng, nhất định là quý vị đã noi theo vọng tưởng của chính mình!
Người trong quá khứ vốn rất khó để đạt được một pháp. Chúng ta đều biết: Đức Thế Tôn vì nửa câu kệ mà xả thân. Nếu coi đó như trò cười, chúng ta sẽ trọn chẳng sanh khởi mảy may tôn trọng đối với pháp, coi pháp bảo khác nào cặn bã! Chúng ta đều biết: Có một vị Tam Tạng pháp sư tới núi Thiên Thai, bảo Trí Giả đại sư: “Thầy viết bộ Ma Ha Chỉ Quán rất tương ứng với kinh Lăng Nghiêm”. Trí Giả đại sư thưa: “Thật sự có kinh điển như thế ư?” Tam Tạng pháp sư nói: “Có chứ! Tên bộ kinh ấy là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh”. Vì thế, Trí Giả đại sư liền lập bái kinh đài, hướng về phương Tây, lễ bái suốt mười tám năm, mong thấy kinh ấy, nhưng chẳng được thấy! Nay chúng ta nhà nào mà chẳng có kinh Lăng Nghiêm? Nhưng lại có mấy ai trân quý, yêu mến hay chăng? Kinh điển mà chúng ta được đọc trong hiện thời là các kinh điển do những bậc tiên hiền trong quá khứ đã vì học pháp mà vượt ngàn núi vạn sông sang phương Tây thỉnh về. Trăm người đi, chỉ một hai vị trở lại! Chúng ta có thật sự tôn trọng pháp hay không? Các vị thiện tri thức ơi! Quý vị có thật sự coi trọng nhân duyên của chính mình hay chăng? “Trọng” là tự trọng, “tôn” là tự tôn. “Khinh” là tự khinh, “mạn” là tự lừa gạt mình. Vẫn mong chúng ta hãy tự lay tỉnh sự giác ngộ từ chỗ thẳm sâu trong tâm linh của chính mình, lay tỉnh sự yêu mến pháp của chính mình. Đừng nên qua quýt, lãng phí sanh mạng của chính mình, ngày này qua ngày khác đọa lạc, buông lung! Người trong thời Mạt Pháp gặp pháp khó lắm! Ai sẽ nâng đỡ quý vị? Ai sẽ thành tựu quý vị?
(Kinh) Nhược nhân thiện tư thử tam-muội, nhất thiết chư Phật hàm cộng xưng. Đương đắc chủng tánh cập đa văn, chư Phật thứ đệ nhi diễn thuyết.
(經)若人善思此三昧,一切諸佛鹹共稱。當得種姓及多聞,諸佛次第而演說」。
(Kinh: Nếu ai khéo nghĩ tam-muội này, hết thảy chư Phật cùng ca ngợi, sẽ được chủng tánh và đa văn, chư Phật lần lượt đều diễn nói).
“Đắc chủng tánh” là dự vào chủng tánh Như Lai, trụ nơi địa vị Bất Thoái Chuyển trong Phật pháp, bất luận là Vị Bất Thoái Chuyển, Hạnh Bất Thoái Chuyển, hay Niệm Bất Thoái Chuyển, ba loại Bất Thoái ấy chỉ có A Bệ Bạt Trí thủ hộ, chỉ có người niệm Phật thành tựu.
Phẩm này tuyên giảng về sự thọ trì, chỉ do tư duy và chánh tín mà có thể thọ trì. Nếu chúng ta quý trọng Pháp Bảo, sẽ nhất định có thể như thật thọ trì. Nếu chẳng trân trọng pháp này, sẽ giống như đạp đất vượt qua, pháp này chẳng thể chuyên chở quý vị. Vì thế, các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta có thể gặp pháp bảo này, hãy nên quý trọng, hãy nên yêu mến, hãy nên thủ hộ, hãy nên tu tập!
9. Phẩm thứ sáu: Quán Sát
Hết thảy phương tiện văn tự, không gì chẳng ấn khế tự tâm như thế. Nếu tự tâm chẳng tiếp nhận, văn tự làm sao an lập cho được? Chúng ta có thể tụ tập nơi đây học tập kinh Hiền Hộ, cũng tức là thiện căn trong đời trước đối với Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội đã chín muồi, nhân duyên chín muồi, cho nên có thể có cơ chế phước đức như vậy, dùng tâm địa của chư Phật Như Lai để ấn khế tâm địa vốn chẳng có gì để ấn khế của chúng ta. Vì sao vậy? Tâm chẳng thể tự thấy. Dùng tri kiến của Phật Như Lai để dẫn phát chánh tri kiến của chúng ta, an trụ trong pháp và tri kiến, cho tới liên tục tiếp nối đến đời vị lai, tạo lợi ích rộng rãi cho hữu tình.
(Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần Quán Sát phẩm đệ lục.
(經)大方等大集賢護分觀察品第六。
(Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần. Phẩm thứ sáu: Quán Sát).
Từ văn tự trong phần trước, chúng ta có thể cảm nhận thân thiết đức Thế Tôn đang dần dần hướng dẫn chúng ta đúng như lý quan sát nội hàm, động thái, chỗ nương cậy, và chỗ thuận theo của pháp tắc này.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: – Hiền Hộ! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát tức dục tư duy thử tam-muội giả, đương vân hà tư? Hiền Hộ! Bỉ chư Bồ Tát, dục tư duy giả, tức ưng đương tác như thị tư duy.
(經)爾時,世尊復告賢護菩薩言:「賢護!若諸菩薩摩訶薩即欲思惟此三昧者,當云何思?賢護!彼諸菩薩,欲思惟者,即應當作如是思惟。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: – Này Hiền Hộ! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát muốn tư duy tam-muội này, hãy nên nghĩ như thế nào? Này Hiền Hộ! Các vị Bồ Tát ấy nếu muốn tư duy, hãy nên tư duy như thế này).
Ở đây, đức Thế Tôn trực tiếp dạy Bồ Tát Ma Ha Tát hãy nên khéo tư duy như thế nào, chẳng để cho chúng ta dùng vọng tưởng, hoặc tri kiến của chính mình để suy lường pháp tắc nào, hoặc tiếp tục duy trì một tư tưởng nào! Ngài trực tiếp dạy chúng ta tư duy. Ví như đức Thế Tôn đã nói Tam Thập Ngũ Phật Kinh. Kinh Tam Thập Ngũ Phật là do đức Thế Tôn trực tiếp dạy cho hết thảy các vị Bồ Tát Ma Ha Tát một pháp tắc để thực hành sám hối, Ngài trực tiếp chế định cho các vị đại Bồ Tát. Lại như chúng ta thọ Tam Quy, Ngũ Giới, Bát Giới, Thập Giới, cho đến giới tỳ-kheo, giới Bồ Tát, tam-muội-da giới[1], các thứ giới pháp, không gì chẳng phải do đức Thế Tôn khéo ban bố, khéo chọn lựa, khiến cho hết thảy các hữu tình chẳng cần phải nhờ đến phương tiện chọn lựa để tùy thuận, trong sự tùy thuận bèn tự nhiên chọn lựa, tức là nói đến sự lựa chọn pháp, trực tiếp tiến nhập Vô Thượng Bồ Đề, đạt được bất thoái chuyển. Vì thế, “ưng đương tác như thị tư duy” (hãy nên tư duy như thế), tức là đức Thế Tôn đã trực tiếp chọn lựa cho chúng ta, chẳng cần chúng ta phải dùng đến phương tiện phân tích.
(Kinh) Như ngã Thế Tôn, kim giả hiện tại thiên nhân chúng trung, tuyên thuyết pháp yếu. Hiền Hộ! Bồ Tát như thị nhất tâm tư duy, chư Phật Như Lai tọa sư tử tòa, tuyên thuyết chánh pháp.
(經)如我世尊,今者現在天人衆中,宣說法要。賢護!菩薩如是一心思惟,諸佛如來坐師子座,宣說正法。
(Kinh: Như đức Thế Tôn ta nay đang ở trong đại chúng trời, người, tuyên nói pháp yếu. Này Hiền Hộ! Bồ Tát nhất tâm tư duy như thế, chư Phật Như Lai ngồi trên tòa sư tử, tuyên nói chánh pháp).
Chúng ta thấy các loại tượng Phật đều có đài sen hoặc tòa sư tử, hoặc là các vị Bồ Tát mỗi vị đều có tọa kỵ (坐騎, con vật để cưỡi), như Phổ Hiền Bồ Tát có voi trắng sáu ngà, Văn Thù Sư Lợi có sư tử xanh, Địa Tạng Vương Bồ Tát có Đế Thính, Quán Thế Âm Bồ Tát cũng cưỡi [con vật] mang tướng oai đức là Kim Mao Hống[2]. Mỗi vị đều an lập như thế, nhằm biểu hiện điều gì? Vì muốn khiến cho hết thảy chúng sanh tùy thuận, tin phục, như mưa to có thể nhuần thấm rộng khắp thế gian. Lại như sấm lớn có thể rung chuyển thế gian, khiến cho chúng sanh thức tỉnh. Chư Phật Như Lai tuyên nói chánh pháp cũng lại như thế.
(Kinh) Cụ túc thành tựu nhất thiết tướng hảo, tối diệu, tối cực, thù đặc đoan nghiêm, nhạo quán vô yếm.
(經)具足成就一切相好,最妙最極,殊特端嚴,樂觀無厭。
(Kinh: Thành tựu trọn đủ hết thảy các tướng hảo, mầu nhiệm nhất, tột bậc nhất, đoan nghiêm thù thắng đặc biệt, ưa nhìn chẳng chán).
Phần trước là quan sát từ sự thuyết pháp, ở đây là quan sát diệu tướng. Đức Thế Tôn dùng bốn pháp để rộng độ hữu tình trong thế gian, khiến cho hết thảy chúng sanh trụ trong an lạc. Diệu tướng trang nghiêm là pháp tắc thù thắng nhất, trực tiếp tiếp dẫn chúng sanh. Phật giáo chẳng phải là tôn giáo thờ ngẫu tượng, nhưng chẳng quên dùng các loại phương tiện như ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo, khiến cho chúng sanh được thấy, được nghe, biết đến pháp tắc chẳng thể nghĩ bàn như thế, tùy thuận diệu tướng mà lợi ích to lớn vô thượng!
(Kinh) Như thị quán sát chư đại nhân tướng, ư nhất nhất tướng, ưng đương chí tâm, tức đắc minh liễu kiến chư Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác. Ký đắc kiến dĩ, đương tiên tư vấn bất kiến đảnh tướng.
(經)如是觀察諸大人相,於一一相,應當至心,即得明了見諸如來應等正覺。既得見已,當先諮問不見頂相。
(Kinh: Quan sát các tướng đại nhân như thế. Đối với mỗi tướng, hãy nên chí tâm, liền được thấy rõ ràng các đức Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác. Đã được thấy rồi, trước hết hãy nên thưa hỏi về tướng đỉnh đầu chẳng thể trông thấy [của Như Lai]).
“Tư vấn” (諮問) là vì hết thảy chư Phật Như Lai do đại công đức tùy thuận thành tựu chân thật mà nhập vào hết thảy biển Như Lai Tạng Tánh, hết thảy Bồ Tát đều chẳng thể suy lường. Thanh Văn và Duyên Giác cũng như thế, các loài phàm phu càng chẳng có dấu vết để tìm tòi. Do vậy, phải thưa hỏi chư Phật Như Lai các thứ pháp nghĩa. Trong kinh điển, thường nói như thế này: Khi ấy, vị Bồ Tát nào đó nương theo oai thần của đức Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa hỏi giáo ngôn nào đó. Vì lẽ nào? Nếu chư Phật Như Lai chẳng dùng oai thần và trí đức gia bị, hết thảy các vị Bồ Tát chẳng thể rời khỏi chỗ ngồi để thưa hỏi, tức là chẳng thể lìa khỏi tri kiến của chính mình để dẫn phát công đức chân thật của giáo ngôn vô thượng.
(Kinh) Ký đắc vấn dĩ, nhiên hậu thứ đệ biến quán chư tướng, giai linh minh liễu. Như thị quán dĩ, cánh phục tư duy, chư Phật Như
Lai chúng tướng vi diệu, thị vi hy hữu!
(經)既得問已,然後次第遍觀諸相,皆令明了。如是觀已,更復思惟,諸佛如來衆相微妙,是爲希有。
(Kinh: Đã được thưa hỏi rồi, sau đó theo thứ tự, quán trọn khắp các tướng, sao cho đều rành rẽ. Quán như thế xong, lại tư duy các tướng vi diệu của chư Phật Như Lai là hy hữu).
Trong quá trình chúng ta học tập tu trì Phật pháp, nghe lời dạy thù thắng của đức Phật, nếu nghe xong bèn hành trì, nghe xong bèn hoan hỷ, nghe xong rồi kính cẩn tiếp nhận, ắt sẽ đạt được lợi ích to lớn. Thấy diệu tướng của chư Phật, nếu tùy thuận quan sát, kiến lập nguyện vọng thanh tịnh thì cũng sẽ tương ứng. Sau đó chính là sự hướng dẫn và cách quan sát tương ứng với nguyện vọng quán tướng.
(Kinh) Nguyện ngã vị lai, hoàn đắc như thị cụ túc thành tựu chư diệu tướng thân.
(經)願我未來,還得如是具足成就諸妙相身。
(Kinh: Nguyện tôi trong đời vị lai cũng được thành tựu trọn đủ thân có các diệu tướng như thế).
Trong các cách tu Quán Phật tam-muội, nương theo một loại, hai loại quán pháp để quán vô kiến đảnh tướng của Như Lai. Cho đến quán tướng tóc xanh biếc có ánh đỏ, tướng lông tóc đều cuộn theo chiều phải, tướng da đầu như sắc vàng ròng, tướng xương đầu như bạch hạc, tướng não như lưu ly, trong não có mười bốn mạch, mỗi mạch có mười bốn luồng sáng, mỗi luồng sáng đều chiếu sáng rực mười phương pháp giới, lợi ích rộng lớn hết thảy hữu tình…
Cho đến tướng bánh xe vạn căm dưới lòng bàn chân, theo thứ tự mà quan sát. Dù thuận quán hay nghịch quán, quán sát như thế, sẽ được ấn khế sâu xa, an lạc thanh tịnh, xa lìa các nạn, thân tâm an lạc. Đó là quán diệu tướng trọn đủ công đức.
(Kinh) Nguyện ngã vị lai, diệc đắc như thị thanh tịnh cấm giới, cụ túc oai nghi.
(經)願我未來,亦得如是清淨禁戒,具足威儀。
(Kinh: Nguyện tôi trong đời vị lai, cũng đạt được giới cấm thanh tịnh như thế, trọn đủ oai nghi).
Hết thảy diệu tướng đều đến từ giới đức chánh đáng, thanh tịnh. Đối với điều này, chư Phật Như Lai đều có sự che chở, bảo vệ như thế. Vì nếu nói ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo chính là Như Lai thì Kim Luân Vương cũng là Như Lai! Vì sao Phật trọn đủ ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo lại được gọi là Như Lai? Vì Ngài trọn đủ công đức của hết thảy các giới, có đại oai đức thiện xảo lợi ích trọn khắp thế gian. Tuy Kim Luân Vương cũng trọn đủ ba mươi hai tướng và tám mươi loại hảo, nhưng vì chẳng có trí vô lậu, chẳng có thập lực, mười tám pháp bất cộng, tứ vô úy, cho nên chẳng thể gọi là Phật. Như Lai Thế Tôn dùng đủ loại cảnh giới, đủ loại oai nghi, đủ loại phương tiện thiện xảo để lợi ích trời, người rộng lớn. Cho nên các Luân Vương chẳng thể tương tự! Dẫu tướng Luân Vương cũng thanh tịnh, viên mãn, trang nghiêm, chỉ là xét theo pháp thì chẳng trọn đủ như Phật, cho nên chứng đắc chẳng đồng nhất.
(Kinh) Nguyện ngã vị lai, diệc đắc như thị cụ túc tam-muội. Nguyện ngã vị lai, diệc đắc như thị cụ túc trí huệ. Nguyện ngã vị lai, diệc đắc như thị cụ túc giải thoát. Nguyện ngã vị lai, diệc đắc như thị giải thoát tri kiến. Nguyện ngã vị lai, thành mãn như thị chư tướng thân dĩ, tức đắc thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
(經)願我未來,亦得如是具足三昧。願我未來,亦得如是具足智慧。願我未來,亦得如是具足解脫。願我未來,亦得如是解脫知見。願我未來,成滿如是諸相身已,即得成就阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh: Nguyện ta trong đời vị lai, cũng đắc trọn đủ tam-muội như thế. Nguyện ta trong đời vị lai, cũng đắc trọn đủ trí huệ như thế. Nguyện ta trong đời vị lai, cũng đắc trọn đủ giải thoát như thế. Nguyện ta trong đời vị lai, cũng đắc giải thoát tri kiến như thế. Nguyện ta trong đời vị lai, thành tựu viên mãn thân có các tướng như thế rồi, sẽ liền được thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề).
Đây là từ năm phần Pháp Thân, tức Giới, Định, Huệ, Giải Thoát, và Giải Thoát Tri Kiến, mà khế nhập biển Chánh Biến Tri của chư Phật, sáng ngời thế gian.
(Kinh) Ký thành Phật dĩ, diệc đương như thị. Xử bỉ thiên nhân đại chúng chi trung, cụ túc tuyên thuyết như tư diệu pháp. Bồ Tát như thị cụ túc quán sát chư Phật Như Lai, nãi chí thành tựu Nhất Thiết Chủng dĩ, phục ưng cánh tác như thị tư duy: Thị trung hà giả thị ngã?
(經)既成佛已,亦當如是。處彼天人大衆之中,具足宣說如斯妙法。菩薩如是具足觀察諸佛如來,乃至成就一切種已,復應更作如是思惟:是中何者是我?
(Kinh: Đã thành Phật rồi, cũng sẽ như thế. Ở trong đại chúng trời, người, tuyên nói đầy đủ diệu pháp như thế, Bồ Tát quan sát trọn đủ chư Phật Như Lai như thế, cho đến thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí rồi, lại nên tư duy như thế này: Trong ấy, thứ gì là ta?)
Vì sao? Nếu an lập công đức bổn tôn thành tựu, lợi ích rộng khắp thế gian, chẳng nhiễm đắm vào đâu, sẽ là lợi ích chân thật của diệu tướng trang nghiêm thanh tịnh rộng lớn. Nếu có đắm nhiễm, sẽ là ngã mạn. Ngã mạn tiếp nối, ắt sẽ thuộc vào tăng thượng mạn. Tăng thượng mạn thì ắt sẽ thuộc vào đại vọng ngữ, tăng tấn dần dần, sẽ đọa vào thế gian. Nếu chúng ta chẳng tùy thuận sự quan sát thiện xảo của chư Phật Như Lai, dẫu tu thiện pháp đôi chút, đạt được đôi chút lợi ích, đạt được khinh an đôi chút, đạt được tướng quang minh đôi chút, cho đến đạt được tự tại thần thông đôi chút, sẽ rơi vào ngã mạn, tức là thuộc vào tăng thượng mạn. Thậm chí dần dần tiếp nối, ngỡ chính mình thật sự có sở đắc, ngỡ đã đắc pháp nơi pháp chưa đắc, chưa chứng mà nói là chứng, hư vọng nhận biết. Sau đấy, tất nhiên trở thành kẻ đáng gọi là “quyến thuộc của ma”, nguy hại thế gian! Chúng ta nhất định phải chú trọng điều này!
“Thị trung hà giả vi ngã” (Trong ấy thứ gì là ta): Đấy là thiện xảo để quán nhằm phá bổn tôn[3]. Vì thế, bổn tôn quán phải nên khéo đạt được lợi ích nơi Phật pháp mà chẳng đắm nhiễm. Nếu có đắm nhiễm, tất nhiên sẽ đọa lạc, nhất định phải chú ý. Đó là sự chuyển biến thanh tịnh trong Phật pháp, mà cũng là vận dụng thiện xảo rộng lớn, nhưng chẳng đắm nhiễm, thuộc vào sức mạnh của trí huệ.
(Kinh) Thùy vi ngã sở pháp? Thùy năng đắc thành chư Phật Bồ Đề? Vi thân đắc da? Vi tâm đắc da?
(經)誰爲我所法?誰能得成諸佛菩提?爲身得耶?爲心得耶?
(Kinh: Ai là pháp của ta? Ai có thể thành tựu Bồ Đề của chư Phật? Là thân đắc ư? Là tâm đắc ư?)
Từng bước hướng dẫn chúng ta tùy văn nhập quán.
(Kinh) Nhược thân đắc giả, thị thân ngoan ngãi, vô giác, vô tri, do như thảo mộc, thạch bích, kính tượng.
(經)若身得者,是身頑騃,無覺無知,猶如草木,石壁鏡像。
(Kinh: Nếu là thân đắc thì thân này ngu độn, vô giác, vô tri, ví như cỏ cây, vách đá, hình bóng trong gương).
Sắc thân này của chúng ta do Tứ Đại hợp thành. Địa, Thủy, Hỏa, Phong có tác dụng là gì? Sắc thân của chúng ta, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, nếu bỏ đi ý thức, chẳng phải là như cỏ cây ư? Hãy nên khéo quan sát.
(Kinh) Nhiên bỉ Bồ Đề, vô sắc, vô hình, phi tượng, phi tướng, bất khả kiến tri, bất khả xúc chứng.
(經)然彼菩提,無色無形,非像非相,不可見知,不可觸證。
(Kinh: Nhưng Bồ Đề ấy vô sắc, vô hình, chẳng phải là hình tượng, chẳng phải là tướng, chẳng thể thấy biết, chẳng thể chạm để nhận biết).
Chúng ta thường từ trong danh tướng và ngôn thuyết đàm luận mà biểu đạt tâm phần Bồ Đề, biểu đạt tướng mạo của Bồ Đề. Nói “chẳng đến, chẳng đi, chẳng nhơ, chẳng sạch, từ vô thỉ tới nay rộng lớn vi diệu, nhiếp thọ thế gian rộng lớn, chẳng có bụi bặm, chẳng có đắm nhiễm, chẳng lìa một pháp”. Đối với chỗ chẳng thể nói năng này mà cưỡng lập ngôn thuyết, khiến cho chúng sanh có phương tiện văn tự và ngôn ngữ để khế nhập, có thể biết rõ sự liễu tri trong “bất khả kiến tri” (chẳng thể thấy biết). Trong biển Chánh Biến Tri, cái tâm trí nguồn cội ấy chẳng tạo tác mà đạt được, chẳng thể mất đi. Vì thế, chư Phật chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nhưng đối với pháp này bèn chẳng có gì để có thể chứng, phàm phu hữu tình ngu si điên đảo trầm luân nơi đây chẳng thể tước giảm!
(Kinh) Vân hà cánh dĩ ngoan ngãi, vô tri, vô kiến, vô thức, vô sở phân biệt, vô tác chi thân, đắc bỉ Bồ Đề?
(經)云何更以頑騃無知,無見無識,無所分別,無作之身,得彼菩提?
(Kinh: Sao có thể dùng cái thân ngu độn, chẳng biết, chẳng thấy, chẳng nhận biết, chẳng phân biệt, chẳng tạo tác để đạt được Bồ Đề?)
Đây là phá trừ hết thảy chấp trước và hết thảy cái tâm sở đắc. “Đắc Bồ Đề” thì dùng gì để đắc Bồ Đề? Thông thường, những ai đã học giáo ngôn về tạng tánh, đều có thể liễu giải “hết thảy chúng sanh vốn là Phật”, “hết thảy chúng sanh đều có đầy đủ trí huệ và đức tướng của Như Lai”. Đối với các lời lẽ sâu mầu như thế, lời chân thật rộng lớn rất sâu như thế, dùng gì để có thể ấn khế vạn pháp duy tâm? Dùng gì để liễu tri cảnh giới Nhất Thật?
(Kinh) Bồ Đề như thị ký vô hình sắc, phi tướng, phi tượng, bất khả kiến tri, bất khả xúc chứng, thùy phục ư trung nhi hành chứng giả? Nhược tâm đắc giả, thị tâm vô sắc, bất khả đắc kiến. Thị tâm vô tướng, bất khả đắc tri. Thử tâm như thị đồng ư huyễn hóa.
(經)菩提如是既無形色,非相非像,不可見知,不可觸證,誰復於中而行證者?若心得者,是心無色,不可得見。是心無相,不可得知。此心如是同於幻化。
(Kinh: Bồ Đề đã chẳng có hình sắc như thế, chẳng phải tướng, chẳng phải hình tượng, chẳng thể thấy biết, chẳng thể đụng chạm để chứng biết, ai lại có thể chứng biết trong ấy? Nếu là tâm đắc [Bồ Đề], thì cái tâm ấy vô sắc, chẳng thể trông thấy. Cái tâm ấy vô tướng, chẳng thể biết được. Cái tâm ấy giống như huyễn hóa như thế đó).
Hết thảy sự nhận biết không gì chẳng phải do nhân duyên mà sanh, chẳng thể chạm đến, chẳng thể thấy biết!
(Kinh) Nhiên bỉ Bồ Đề diệc nhĩ, vô sắc bất khả kiến, vô tướng bất khả tri, vô lậu, vô vi, diệc đồng huyễn hóa.
(經)然彼菩提亦爾,無色不可見,無相不可知,無漏無爲,亦同幻化。
(Kinh: Nhưng Bồ Đề cũng thế, chẳng có sắc chẳng thể thấy, chẳng có tướng chẳng thể biết, vô lậu, vô vi, cũng giống như huyễn hóa).
Đức Thế Tôn phán định tướng mạo của Bồ Đề như thế, khiến cho chúng ta có một cái gọi là sự hay biết [giống như] “ấn hoại văn thành” (ấn nát, nhưng nét khắc nơi ấn đã hiện ra) là sự hay biết vô nhiễm, là sự hay biết viên mãn, là sự hay biết triệt để phát khởi tự tại trong hiện tại.
(Kinh) Vân hà khả chứng? Vân hà giác tri, nhi ngôn thân tâm đắc Bồ Đề da?
(經)云何可證?云何覺知,而言身心得菩提耶?
(Kinh: Làm thế nào để có thể chứng? Làm thế nào để hay biết mà nói thân tâm đắc Bồ Đề ư?)
Quan sát như thế, tư duy như thế. Đấy là đức Như Lai Thế Tôn dùng trí chẳng thể nghĩ bàn để hướng dẫn chúng sanh chánh quan sát, khéo quan sát, như lý quan sát, chân thật quan sát, chẳng tăng giảm mà quan sát. Nếu chúng ta dùng vọng tâm quan sát, sẽ chẳng thể được. Dùng cái tâm do chính mình xếp đặt để quan sát, cũng chẳng thể được. Vì thế, đức Thế Tôn hướng dẫn chúng ta hãy khéo quan sát.
(Kinh) Bỉ Bồ Tát Ma Ha Tát như thị quán thời, phân minh liễu liễu, kiến thị thân tướng, bất đắc Bồ Đề, diệc tri thị tâm bất đắc Bồ Đề. Hà dĩ cố? Chư pháp vô hữu dĩ sắc chứng sắc, dĩ tâm chứng tâm cố.
(經)彼菩薩摩訶薩如是觀時,分明了了,見是身相,不得菩提,亦知是心不得菩提。何以故?諸法無有以色證色,以心證心故。
(Kinh: Khi vị Bồ Tát Ma Ha Tát ấy quán như thế, rành rẽ, phân minh, thấy thân tướng này chẳng đắc Bồ Đề, cũng biết là tâm chẳng đắc Bồ Đề. Vì lẽ nào? Do các pháp chẳng có pháp nào dùng sắc để chứng sắc, dùng tâm để chứng tâm).
Giống như Tâm Kinh đã nói, “vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề Tát Đỏa” (không có trí mà cũng chẳng đạt được. Do chẳng có gì để đạt được, nên Bồ Tát…) Trong giáo ngôn của chư Phật, chọn lựa pháp vô tự tánh thì chẳng có một pháp nào để có thể thành, thật sự là chẳng có pháp nào để có thể lập, thế mà rộng lập các pháp, lợi ích hữu tình đắm nhiễm trong thế gian, khiến cho họ tiêu trừ hết thảy chấp trước huyễn chướng, khiến cho họ thành tựu lợi ích to lớn vô thượng.
(Kinh) Nhiên bỉ ư ngôn thuyết trung, tri nhất thiết pháp, tuy vô sắc, vô hình, vô tướng, vô lậu, vô khả đổ kiến, vô hữu chứng tri, diệc phi vô chứng.
(經)然彼於言說中,知一切法,雖無色無形,無相無漏,無可睹見,無有證知,亦非無證。
(Kinh: Nhưng trong ngôn thuyết, họ biết hết thảy các pháp tuy vô sắc, vô hình, vô tướng, vô lậu, chẳng thể trông thấy, chẳng có chứng biết, mà cũng chẳng phải là vô chứng).
Vì lẽ nào? Nói chứng và chẳng chứng như thế, thật sự là hý luận. Có thể đắc và chẳng thể đắc, đúng, sai, hết thảy ngôn thuyết đối đãi ở đây đều lặng thinh không có tiếng. Vì trong tâm trí nhị nguyên của bọn phàm phu chúng ta, cứ đối đãi liên tục. Nếu trừ sạch đối đãi, tâm trí A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề thanh tịnh vốn sẵn có sẽ ngay lập tức sáng rực thế gian, chẳng cần tạo tác.
(Kinh) Hà dĩ cố? Dĩ nhất thiết chư Như Lai thân vô hữu lậu cố. Hựu chư Như Lai thân vô lậu cố, tâm diệc vô lậu. Hựu chư Như Lai tâm vô lậu cố, sắc diệc vô lậu.
(經)何以故?以一切諸如來身無有漏故。又諸如來身無漏故,心亦無漏。又諸如來心無漏故,色亦無漏。
(Kinh: Vì cớ sao? Do thân của hết thảy các Như Lai chẳng có hữu lậu. Lại do thân của chư Như Lai vô lậu, nên tâm cũng vô lậu. Lại do tâm của chư Như Lai vô lậu, sắc cũng vô lậu).
“Vô lậu” là chẳng tạo tác, thanh tịnh, xa lìa hết thảy công dụng, tức là xa lìa hết thảy tác ý đối đãi. Trong quá trình học Phật pháp, chúng ta đều biết một danh từ, tức là hàng Bồ Tát chưa đạt đến Bát Địa, đều gọi là “bất tịnh ý Bồ Tát”. “Bất tịnh ý” tức là có tác ý, có sự tác ý liên tục. Phàm phu hữu tình nếu chẳng tác ý, tâm chẳng có chỗ nào ràng buộc. Nếu tâm chẳng ràng buộc, ý thức sẽ mờ mịt, thậm chí là mê mất. Vì thế, hàng Bồ Tát chưa đạt đến Bát Địa, vẫn cần phải tác ý, tạo tác tăng thượng thiện xảo, siêng năng tu pháp chánh đáng như thế, tức là “trừ hết thảy ác, hành hết thảy thiện, điều thiện chưa sanh khiến nẩy sanh, điều ác đã sanh bèn sám hối”. Người siêng năng chánh đáng như thế chính là tác ý thiện xảo. Nhưng chư Phật Như Lai và hàng Bồ Tát từ Bát Địa trở lên thì tâm ý vô công dụng, chẳng cần tạo tác, chẳng cần đối đãi, Thật Tướng hiện tiền, thanh tịnh hồi thí công đức chân thật, dùng điều đó để an trụ. Đấy là điều sẵn có của Báo Đức, do thiện căn thật sự viên mãn thành thục, chẳng phải do nương vào Tu Đức mà cưỡng chấp. Phàm phu hữu tình nếu chẳng nhờ sự tu trì hậu thiên (sự tu trì sau khi đã tín giải), sẽ thường chẳng thể chấp nhận pháp tánh chân thật. Nếu ở trong các sự, các tướng, thuận ứng hiện duyên, thuận ứng pháp tánh, hai pháp cùng nêu, Tu Đức và Tánh Đức cùng lúc trọn đủ, khi ấy có thể nói là “tu pháp phần”. Như thế thì chúng ta sẽ có thể có cơ chế an trụ nơi đạo nghiệp vô thượng, cho đến có cơ duyên tu tập.
Đoạn văn tự này đã ban cho chúng ta một cơ chế hướng dẫn quan sát và tư duy. Chương trước là phẩm Thọ Trì, dùng thọ trì để chuyển tiếp, hướng dẫn chúng ta đạt đến chánh quan sát. Trước phẩm Thọ Trì có phẩm Chánh Tín. Trước đó, lại có phẩm Tư Duy, tức là dùng tư duy để khế nhập chánh tín, dùng chánh tín để khế nhập thọ trì, dùng nhân duyên thọ trì để khéo quan sát pháp tắc, khéo quan sát tâm địa. Đức Thế Tôn giáo hóa chúng ta như thế, tuyên nói giáo pháp như thế, khiến cho chúng ta thiết thực tư duy, khéo thủ hộ!
(Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh, quyển đệ tam.
Hiền Hộ Phần Quán Sát phẩm chi dư.
Hựu chư Như Lai, Sắc vô lậu cố, Thọ diệc vô lậu, nãi chí Hành, Thức diệc vô lậu. Hựu chư Như Lai, Giới diệc vô lậu, sở hữu tam-muội trí huệ diệc vô lậu, nãi chí Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến diệc vô lậu. Như thị nãi chí chư Như Lai, chư Như Lai sở hữu ngôn thuyết, dĩ thuyết, kim thuyết, đương thuyết, cập nhất thiết pháp, tư giai vô lậu dã.
(經)大方等大集賢護經卷第三。
賢護分觀察品之餘。
又諸如來,色無漏故,受亦無漏,乃至行識亦無漏。又諸如來,戒亦無漏,所有三昧智慧亦無漏,乃至解脫,解脫知見亦無漏。如是乃至諸如來,諸如來所有言說,已 說,今說,當說,及一切法,斯皆無漏也。
(Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ, quyển thứ ba.
Hiền Hộ Phần, phần còn lại của phẩm Quán Sát.
Lại nữa, các đức Như Lai do Sắc vô lậu, nên Thọ cũng vô lậu, cho đến Hành, Thức cũng vô lậu. Lại nữa, Giới của các đức Như Lai cũng vô lậu, tất cả trí huệ tam-muội cũng vô lậu, cho đến Giải Thoát và Giải Thoát Tri Kiến cũng vô lậu. Như thế cho đến các đức Như Lai, tất cả ngôn thuyết của các đức Như Lai đã nói, đang nói, sẽ nói, và hết thảy các pháp đều là vô lậu).
Vô Lậu là một danh từ chuyên biệt của Phật giáo, biểu đạt Phật pháp, biểu đạt đặc tánh chỉ riêng Phật pháp mới có, chứ hết thảy các pháp chẳng có, hết thảy các ngoại đạo chẳng có. Phật giáo nói đến Lục Thông, hết thảy các ngoại đạo đều có pháp tắc Ngũ Thông, nhưng chỉ Phật giáo có Lậu Tận Thông, A La Hán là người đích thân chứng đắc [Lậu Tận Thông]. Hàng Bồ Tát từ Bát Địa trở lên đều đích thân chứng đắc, chư Phật Như Lai đích thân chứng đắc công đức vô lậu chân thật ấy.
(Kinh) Hiền Hộ! Chư như thị đẳng nhất thiết Phật pháp, trí nhân năng đạt, ngu giả mạc tri.
(經)賢護!諸如是等一切佛法,智人能達,愚者莫 知。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Hết thảy các Phật pháp như thế, người trí có thể thông đạt, kẻ ngu chẳng biết).
Hai pháp trí và ngu chẳng phải là phê phán, mà là khi vận dụng, vì hai pháp trí và ngu cũng chẳng có tự tánh. Như người học Phật chúng ta, trì giới, phạm giới, người thiện, kẻ ác, phàm phu, thánh nhân cũng giống như thế, chẳng thể nào xác định cứng ngắc được. Các thứ pháp vị trong Phật pháp như Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả, Tứ Quả, các loại quả vị, có phải là có địa vị hay chăng? Địa vị ấy cũng là thiện xảo tăng thượng, hướng dẫn hữu tình, khiến cho họ thấy thấu triệt tâm trí. Đó gọi là “phương tiện gia trì tăng thượng”, hiển lộ sự thiện xảo nơi bổn vị.
(Kinh) Bỉ nhược năng tác như thị quán thời, nhất thiết chư pháp tất bất khả đắc.
(經)彼若能作如是觀時,一切諸法悉不可得。
(Kinh: Nếu lúc người ấy có thể quán như thế, thì sẽ [thấu triệt] hết thảy các pháp đều chẳng thể đạt được).
Đối với phàm phu trong thế gian, “có pháp để có thể đạt được” chính là động lực duy nhất chi phối hết thảy các hành vi của chúng ta, thường nói là “chẳng có lợi sẽ không làm”. Trong pháp tắc thuộc về giáo ngôn của chư Phật, quả thật chẳng có một pháp để có thể đạt được. Do vận dụng trí huệ để quán, dùng từ bi để quán, do lợi ích rộng khắp thế gian mà quán, thì đều chẳng có một pháp nào để có thể đạt được!
(Kinh) Vân hà bất khả đắc? Sở vị thùy năng chứng dã bất khả đắc! Vân hà chứng dã diệc bất khả đắc? Hà duyên chứng dã diệc bất khả đắc?
(經)云何不可得?所謂誰能證也不可得!云何證也亦不可得?何緣證也亦不可得?
(Kinh: Vì sao chẳng thể đạt được? Tức là nói “ai có thể chứng” thì chẳng thể được! Vì sao đã chứng thì cũng chẳng thể đạt được? Do duyên nào mà đã chứng cũng chẳng thể đạt được?)
Đối với pháp “bất khả đắc” (chẳng thể đạt được) ở đây, chúng ta hãy khéo tư duy, quan sát. Tư duy như thế, sẽ dẫn dắt chúng ta dần dần tiến nhập, quan sát các thứ sự tướng chung quanh.
(Kinh) Bỉ năng tác thị quán dĩ, như thị nhập Diệt Tịch Định, phân biệt chư pháp, diệc bất phân biệt chư pháp.
(經)彼能作是觀已,如是入滅寂定,分別諸法,亦不分別諸法。
(Kinh: Người ấy đã có thể quán như thế xong, nhập Diệt Tịch Định như thế, phân biệt các pháp, mà cũng chẳng phân biệt các pháp).
Hiểu rõ ràng, phân minh, trọn chẳng đắm nhiễm hết thảy các pháp như đã nói trong phần trước. Cái được gọi là Diệt Tịch Định, hoặc còn gọi Tịch Diệt Định, tức là đã ngưng dứt hết thảy các tạo tác, trong hết thảy các trần lao cũng đã an trụ. Do chẳng tăng, chẳng giảm, cho nên hiểu phân minh các pháp mà chẳng đắm nhiễm.
(Kinh) Hà dĩ cố? Chư pháp vô cố.
(經)何以故?諸法無故。
(Kinh: Vì lẽ nào? Do các pháp là Không).
Sự lựa chọn này rất quan trọng!
(Kinh) Hiền Hộ! Như hỏa vị sanh, hoặc thời hữu nhân phát như thị ngôn: “Ngã ư kim nhật, tiên diệt thị hỏa”. Hiền Hộ! Ư ý vân hà? Bỉ nhân thị ngữ vi thành thật phủ?
(經)賢護!如火未生,或時有人發如是言:「我於今日,先滅是火」。賢護!於意云何?彼人是語爲誠實不?」
(Kinh: Này Hiền Hộ! Như lửa chưa sanh, nếu khi ấy, có kẻ nói như thế này: “Hôm nay ta sẽ diệt lửa ấy trước”. Này Hiền Hộ! Ý ông nghĩ sao? Lời ấy của kẻ đó có thành thật hay không?)
Phiền não hư vọng của hết thảy chúng sanh trong thế gian vốn chẳng có gì để đạt được. Do hư vọng mà tạo thành phiền não. Thật ra, chẳng có gì để có thể diệt. Đó là diệt! Hết thảy phàm phu hữu tình chấp trước pháp “diệt trừ phiền não”, oan uổng tăng thêm phiền não. Ở trong cái “vốn chẳng có phiền não” mà tăng thêm một cái phiền não mới toanh là “diệt phiền não”, bị luân hồi oan uổng! Luân hồi như thế, giống như quay tròn cây đuốc trong không trung, sẽ thành một vòng lửa. Trong luân hồi, thật sự chẳng có vật gì để có thể đạt được, nhưng vì cưỡng chấp mà sanh ra tướng luân hồi và nghiệp luân hồi.
(Kinh) Hiền Hộ đáp ngôn: “Bất dã, Thế Tôn!” Phật cáo Hiền Hộ: “Như thị chư pháp, tùng bổn dĩ lai, tất cánh vô đắc”.
(經)賢護答言:「不也,世尊!」佛告賢護:「如是諸法,從本以來,畢竟無得。
(Kinh: Ngài Hiền Hộ đáp rằng: “Chẳng phải vậy, bạch Thế Tôn!” Đức Phật bảo ngài Hiền Hộ: “Các pháp như thế vốn rốt ráo chẳng thể được”).
Chúng ta có thể quan sát trọn khắp, tùy thời quan sát, tùy duyên quan sát, có thể quán khắp các chỗ tâm trí trong hết thảy các hiện duyên, [sẽ thấy] các pháp rốt ráo chẳng thể đạt được, chỉ vì hư vọng chấp trước và đắm nhiễm, ngỡ là thật sự có cái để đạt được, bèn sanh khởi các nỗi khổ sở vì chấp trước.
(Kinh) Vân hà ư kim nãi tác tư thuyết: “Ngã năng chứng tri nhất thiết chư pháp, ngã năng liễu đạt nhất thiết chư pháp, ngã năng giác ngộ nhất thiết chư pháp, ngã năng độ thoát nhất thiết chúng sanh ư sanh tử trung”? Thử phi chánh ngôn.
(經)云何於今乃作斯說:「我能證知一切諸法,我能了達一切諸法,我能覺悟一切諸法,我能度脫一切衆生於生死中」?此非正言。
(Kinh: Vì sao nay nói như thế này: “Ta có thể chứng biết hết thảy các pháp, ta có thể liễu đạt hết thảy các pháp, ta có thể giác ngộ hết thảy các pháp, ta có thể độ thoát hết thảy chúng sanh trong sanh tử”? Đó chẳng phải là lời lẽ chánh đáng).
Đấy là lời lẽ của kẻ cuồng vọng, kẻ đắm nhiễm, kẻ ưa thị phi, kẻ trầm luân. Như hữu tình trong thế gian hiện thời phần nhiều nói: “Ta là người trì giới”, “ta là người tu hành”, “ta là người có chánh pháp”, “ta là bậc chánh tri kiến”, “ta là kẻ có nhân duyên chi đó” v.v… Thật ra, kẻ đó là kẻ đắm nhiễm, chấp trước, đọa lạc, tất nhiên sẽ bị xâm hại bởi pháp. Vì sao vậy? Do vô trí mà cũng vô đắc để lợi ích rộng khắp thế gian. Do vô trí mà cũng vô đắc để an trụ trong trí huệ. Do vô trí mà cũng vô đắc, bèn có oai đức đối với hữu tình, có oai đức trong hiện pháp. Nếu có đắm nhiễm, ắt sẽ bị mắc hại. Vì sao đối với pháp, người đời chẳng thể đạt được lợi ích chân thật? Phần nhiều là vì thói quen chấp trước vọng tưởng liên tục, chẳng thể gián đoạn. Chấp trước trong quá khứ là tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng, còn chấp trước trong hiện tại là [chấp trước] những cái gọi là “chánh pháp, chánh kiến, độ chúng sanh, trí, bi”. Các thứ chấp trước như thế vẫn là thay đổi hình dạng chấp trước đó thôi, thật sự là nguồn khổ, thật sự là gốc khổ! Chư Phật Như Lai nói lời thành thật để chúng ta chánh tư duy, quan sát. Hiện thời, trong các đoàn thể cư sĩ học Phật, hoặc đoàn thể tăng nhân, phần nhiều có tri kiến như thế, cứ ngỡ chính mình có pháp để có thể chứng, có pháp để có thể đắc. Cho nên phần nhiều sanh tâm kiêu mạn, đối với cái chẳng thể được, bèn cưỡng chấp “có cái để có thể đạt được”, đối với cái “chẳng có gì để chứng” bèn cho là “có chứng đắc”, oan uổng hứng chịu nỗi khổ ấy!
(Kinh) Sở dĩ giả hà? Bỉ pháp giới trung, bổn vô chư pháp, diệc vô chúng sanh, vân hà ngôn “độ?” Đản Thế Đế trung nhân duyên độ nhĩ!
(經)所以者何?彼法界中,本無諸法,亦無衆生,云何言「度?」 但世諦中因緣度耳!
(Kinh: Vì cớ sao vậy? Trong pháp giới ấy, vốn chẳng có các pháp, mà cũng chẳng có chúng sanh, cớ sao nói là “độ?” Chỉ là độ nhân duyên trong Thế Đế đó thôi!)
Chúng ta quan sát hết thảy các pháp sanh diệt trong thế gian, [sẽ thấy chúng] thật sự chẳng có bản chất, mà cũng thật sự chẳng có tự tánh, do các thứ nhân duyên mà tồn tại liên tục các thứ thế gian. Vì thế, “mười pháp giới rạng ngời hiện tiền”. Dùng gì để hiện tiền? Phật pháp giới, Bồ Tát pháp giới, Thanh Văn, Duyên Giác, nhân, thiên, Tu La, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, mười loại pháp giới ấy đều do nhân duyên mà hiện, chẳng có thực chất! Do nhân duyên mà hiện Phật pháp giới. Do nhân duyên mà hiện Bồ Tát pháp giới. Do nhân duyên mà hiện Thanh Văn pháp giới, cho đến địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Trong các thứ pháp giới như thế, không gì chẳng phải là “duyên sanh, duyên diệt, chẳng có gì để thật sự đạt được, chẳng có một pháp để có thể nhiễm”. Vậy thì chúng ta có gì để có thể chấp trước? Nếu không chấp trước gì, người ấy sẽ được giải thoát. Nếu không nhiễm, người ấy sẽ đạt được trí huệ. Nếu không có gì để độ, người ấy sẽ độ trọn hết chúng sanh.
(Kinh) “Hiền Hộ! Ư ý vân hà? Bỉ như thị thuyết, đắc vi thật phủ?” Hiền Hộ đáp ngôn: “Bất dã, Thế Tôn!”
(經)賢護!於意云何?彼如是說,得爲實不?」賢護答言:「不也,世尊!」
(Kinh: “Này Hiền Hộ! Ý ông nghĩ sao? Kẻ đó nói như thế có phải là thật hay không?” Hiền Hộ thưa: “Bạch Thế Tôn! Không ạ”).
Chúng ta quan sát như vậy. Chẳng hạn như có người nói: “Ta đã vì tự viện làm chuyện này, chuyện kia!” Có người xuất gia nói: “Ta đã vì đạo tràng làm chuyện này, chuyện nọ”. Có người tu hành nói: “Ta vì tu hành mà làm chuyện này, chuyện nọ”. Có người bế quan nói: “Ta đã từng làm chi đó”. Có người đã từng tu giới luật, nói: “Ta đã làm chuyện này, chuyện nọ”. Đắm nhiễm như thế, tuy danh tướng đắm nhiễm khác nhau, nhưng kết quả của chấp trước và đắm nhiễm, xét theo thực chất, trọn chẳng sai khác! Cũng có nghĩa là vốn chẳng có công đức, thế mà hư vọng chấp là công đức, chỉ sanh kiêu mạn. Nhất là trong việc truyền bá Phật pháp trong hiện tiền, kẻ rơi vào trường hợp này rất nhiều! Bởi lẽ, họ chẳng thủ hộ cái tâm thanh tịnh, chẳng an trụ trong lợi ích chân thật. Họ từ chấp trước pháp tắc của phàm phu thoát ra, bèn rơi vào cái được gọi là “chấp trước Phật pháp”, chẳng thể tự thoát được. Loại hữu tình ấy thường tự cho là đúng, thậm chí [cứ ngỡ] chính mình hết sức lỗi lạc, khiến cho thế gian mê hoặc, rối loạn! Vốn chẳng có các pháp, mà cũng chẳng có chúng sanh; nếu chọn lựa chân thật như thế, người ấy sẽ trụ trong an vui. Đó là pháp tắc mà hết thảy người học Phật chúng ta phải nên nhận biết triệt để, rõ ràng, chọn lựa vô úy.
(Kinh) Phật cáo Hiền Hộ: – Thị cố, bỉ chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhược dục thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, nãi chí dục thành Duyên Giác Bồ Đề, Thanh Văn Bồ Đề giả, giai ưng như thị quán nhất thiết pháp.
(經)佛告賢護:「是故,彼諸善男子善女人,若欲成就無上菩提,乃至欲成緣覺菩提、聲聞菩提者,皆應如是觀一切法。
(Kinh: Đức Phật bảo Hiền Hộ: – Do vậy, các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy, nếu muốn thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, cho đến muốn thành Duyên Giác Bồ Đề, hoặc Thanh Văn Bồ Đề, đều nên quán hết thảy các pháp như thế).
Trong giáo ngôn tam thừa, hãy đều nên quan sát thanh tịnh như thế. Vì sự quan sát ấy chính là chánh kiến Trung Quán, xa lìa hai thứ Biên Kiến. Hai loại Biên Kiến tức là: Hoặc là đúng, hoặc là sai, hoặc là phàm, hoặc là thánh, nhiễm hoặc chẳng nhiễm, chấp hoặc chẳng chấp. Vô lượng vô biên cách nói như thế đều rơi vào hai loại Biên Kiến, chẳng thể thoát lìa biển sanh tử đối đãi. Đó là chỗ không có ngằn mé, khiến cho mọi người chẳng thể giải thoát. Trong Bồ Đề tâm của tam thừa, Vô Thượng Bồ Đề tâm được chư Phật thủ hộ, Duyên Giác Bồ Đề tâm do người khéo quan sát mười hai nhân duyên thủ hộ, Thanh Văn Bồ Đề do người nghe giáo pháp mà được độ thoát bèn khéo thủ hộ. Tâm trí phát khởi Bồ Đề của ba loại hữu tình như thế đều chẳng thể lìa khỏi pháp giáo này, cho nên nói “ưng như thị quán” (hãy nên quán như thế). Trừ phi chúng ta chẳng phải là Phật tử thì mới xa lìa sự quan sát như thế!
Chúng ta học tập giáo ngôn tam thừa, hãy nên quan sát như thế. Trong hành pháp Ban Châu thì sao? Cũng lại nên như thế. Vì sao? Chúng ta là Phật giáo đồ, lúc muốn hành Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, nhất định là phải nên quan sát như thế, khéo quan sát hết thảy các pháp không có gì được sanh, vốn không có gì để diệt, mà cũng chẳng đến, đi!
Nếu trong pháp tắc tam thừa mà chẳng quan sát như thế, sẽ vô duyên với Bồ Đề tâm. Vì sao? Trong sự tồn tại liên tục của hết thảy các pháp, mỗi pháp chẳng tự đơn độc dấy lên! Chúng ta thường nói đến chuyện thí giáo (施教, ban bố giáo pháp) của chư Phật Thế Tôn, như tỳ-kheo Mã Thắng nói với ngài Xá Lợi Phất bốn câu kệ: “Chư pháp nhân duyên sanh; duyên tạ, pháp hoàn diệt. Ngô sư đại sa-môn, thường tác như thị quán” (Các pháp nhân duyên sanh, duyên hết, pháp cũng diệt. Thầy tôi đại sa-môn, thường quán như thế đó). Bốn câu kệ ấy là chỗ y chỉ của tam thừa Phật giáo. Nếu chẳng y chỉ pháp ấy, thì trao đổi bằng cách nào? Dùng gì để vận dụng? Dùng gì để phô bày lợi ích trong thế gian?
(Kinh) Tác thị quán thời, tắc nhập Tịch Định, vô hữu phân biệt, phi vô phân biệt.
(經)作是觀時,則入寂定,無有分別,非無分別。
(Kinh: Khi quán như thế bèn nhập Tịch Định, chẳng có phân biệt, chẳng vô phân biệt).
“Tịch định” tức là Tịch Diệt Định, là môn Định do A La Hán đích thân chứng đắc. Còn gọi là Diệt Tịch Định, chứng biết pháp vô sanh: Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệt, xuất nhập tức diệt (diệt hơi thở ra vào). Chứng đắc môn Định này, có thể đoạn hai loại phiền não Kiến và Tư, thành quả A La Hán, vì Thọ tâm diệt thì Ái diệt. Do Ái diệt bèn đoạn Tư Hoặc. Do Tưởng tâm diệt, nên thủ tướng tâm (cái tâm chấp giữ tướng) diệt. Do thủ tướng tâm diệt, nên đoạn Kiến Hoặc. Vì thế, nhập Diệt Tịch Định sẽ có thể đoạn hai loại phiền não Kiến và Tư, chứng quả A La Hán.
(Kinh) Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Bỉ nhất thiết pháp vô sở hữu, bất sanh, nhiên bỉ Định hữu phân biệt, tức thị nhất biên. Định vô phân biệt, phục vi nhất biên.
(經)何以故?賢護!彼一切法無所有,不生,然彼定有分別,即是一邊。定無分別,復爲一邊。
(Kinh: Vì sao vậy? Này Hiền Hộ! Hết thảy các pháp vô sở hữu, chẳng sanh, nhưng do môn Định ấy có phân biệt, nên tức là một bên. Do Định chẳng phân biệt, nên lại là một bên khác).
Định có phân biệt và vô phân biệt chỉ là danh tướng. Quan sát từ biển trí rốt ráo, hết thảy phân biệt chính là pháp tắc khéo phân biệt vốn vô phân biệt. Do vậy, Bồ Tát có thể khéo phân biệt rõ ràng trong pháp tắc vô phân biệt, lợi ích rộng khắp thế gian. Do lợi ích rộng khắp thế gian, cho nên hiện phân biệt. Do vì thật sự chẳng phân biệt mà lợi ích rộng khắp chúng sanh, hiện đủ loại tướng phân biệt. Trong sự phân biệt như thế, trong cái bản chất thật sự vô phân biệt, chiếu rạng ngời thế gian, khiến cho chúng sanh [quen thói] phân biệt ai nấy đều xả trừ phân biệt, chấp trước, quy nhập tâm trí thanh tịnh. Chư Phật Như Lai trọn đủ hết thảy các thiện xảo, nói tám vạn bốn ngàn pháp. Vốn chẳng có một pháp nào để có thể lập, sao lại lập ra tám vạn bốn ngàn pháp? Đó gọi là từ trong “vốn không có gì để lập”, thuận theo cái tâm phân biệt của chúng sanh mà thiết lập, nói đủ loại pháp đối ứng, khiến cho chúng sanh đạt được giải thoát, thỏa mãn tâm nguyện của hết thảy chúng sanh.
Nếu chấp là đúng, hoặc chấp là sai, chấp vào phân biệt, hoặc vô phân biệt, sẽ chẳng thể giải thoát khỏi hai thứ Biên Kiến, tâm trí đối đãi, tâm trí mâu thuẫn, cứ lẩn quẩn trong ấy. Đó thật sự là nỗi khổ vì phải chọn lựa của nhân loại. Hiện thời, người tu tập phần đông đối với chỗ thiện ác, đúng sai, cứ không ngớt lẩn quẩn trong hai loại Biên Kiến như thế, chẳng thể an trụ thanh tịnh, tâm trí dao động, hư vọng nẩy sanh đắm nhiễm!
(Kinh) Nhiên thử nhị biên sở hữu, thị vô tịch định, phi vô tịch định, vô tư lượng xứ, vô phân biệt xứ, vô chứng tri xứ, vô kinh doanh xứ, vô tụ tập xứ, vô tư niệm xứ, vô phát khởi xứ. Hiền Hộ! Thị danh Trung Đạo.
(經)然此二邊所有,是無寂定,非無寂定,無思量處,無分別處,無證知處,無經營處,無聚集處,無思念處,無發起處。賢護!是名中道。
(Kinh: Nhưng tất cả những điều được bao gồm trong nhị biên thì là vô tịch định và chẳng phải vô tịch định, chẳng có chỗ suy lường, chẳng có chỗ phân biệt, chẳng có chỗ chứng biết, chẳng có chỗ suy tính tạo tác, chẳng có chỗ tụ tập, chẳng có chỗ nghĩ nhớ, chẳng có chỗ phát khởi. Này Hiền Hộ! Đó gọi là Trung Đạo).
Trong cơ chế giáo ngôn của đức Thế Tôn, có hai loại cơ chế lớn được lưu truyền rộng khắp trong Diêm Phù Đề: Một là cơ chế giáo ngôn của đức thánh Văn Thù, loại kia cơ chế giáo ngôn của đức thánh Di Lặc, tức là cơ chế Trung Quán và Duy Thức. “Cơ chế” (機制) có nghĩa là “hệ thống các lời dạy”. Bất luận trong Hán truyền Phật giáo, hay Tạng truyền Phật giáo, [tất cả các giáo nghĩa] đều được gồm thâu trong hai đại cơ chế ấy. Giáo ngôn của Nam truyền chẳng thuộc vào hai cơ chế ấy, vì Thanh Văn Thừa có giáo pháp riêng, tức là “cửu bộ giáo pháp”[4] như thường nói.
(Kinh) Sở hữu số, sự, xứ đẳng, đản y Thế Đế thuyết cố.
(經)所有數事處等,但依世諦說故。
(Kinh: Tất cả các pháp như pháp số, sự việc, nơi chốn v.v… đều chỉ là dựa theo Thế Đế để nói).
Tất cả pháp tắc đối đãi và nhân quả, không gì chẳng thuộc về Tục Đế. Cho đến các thứ giáo ngôn, các thứ xếp đặt của chúng ta, đều do nương theo Thế Tục Đế để thiết lập. Nếu là Thắng Nghĩa Đế, sẽ chẳng có ngôn thuyết.
(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Ư bỉ chân thật Đệ Nhất Nghĩa trung, nhược trung, nhược biên, giai bất khả đắc!
(經)復次賢護!於彼真實第一義中,若中若邊,皆不可得!
(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Trong Đệ Nhất Nghĩa chân thật ấy, dù chính giữa, hay hai bên, cũng đều chẳng thể đạt được).
Tất cả ngôn thuyết ở nơi đây đều tiêu tan, chẳng khởi công dụng, chẳng thể biểu đạt. Cho nên “ngôn quyền bất cập” (dẫu nói quyền biến cũng chẳng thể diễn tả thấu đạt được). Từ xưa đến nay, đối với điều này, đã có các cách diễn tả như “ngôn từ dứt bặt”, “ngàn Phật chẳng truyền”, “vô tri” v.v…
(Kinh) Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Nhất thiết chư pháp do như hư không, bổn lai tịch diệt.
(經)何以故?賢護!一切諸法猶如虛空,本來寂滅。
(Kinh: Vì sao vậy? Này Hiền Hộ! Hết thảy các pháp ví như hư không, vốn sẵn tịch diệt).
Lành thay! Ở đây, nếu chẳng lựa chọn, mọi người sẽ vì bộp chộp, do hành xử theo pháp tắc hư vọng mà bị cuốn vào luân hồi. Trong giới tỳ-kheo, chúng ta đã học “tam tế, lục thô”. Trong Tam Tế, tức là trong khoảng sát-na chân tâm vừa động, tướng động đã kiến lập. Nếu trong khi đó, chẳng mê muội chân thật tế, người ấy sẽ được giải thoát. Nếu mê muội Chân Thật Tế, Năng và Sở (chủ thể và khách thể) được kiến lập, liền kiến lập đối đãi. Hễ có đối đãi, bèn kiến lập thế gian, Lục Thô trong thế gian sẽ tiếp nối, sẽ trở thành các thứ phiền não, như là tự phiền não, thánh phiền não, ác nghiệp phiền não, thiện nghiệp phiền não v.v… Đủ loại phiền não bức bách lẫn nhau, sanh từ sáu thô pháp. Nếu khéo biết một niệm vừa mới động trong hiện tại chính là quang minh nơi Bổn Tế, thường gọi là “cội nguồn của trí huệ”, chẳng tạo, chẳng tác, tự được giải thoát, trí huệ viên mãn, sẽ ngay lập tức an trụ. Hữu tình phàm phu Năng và Sở đã kiến lập mà tâm còn chẳng biết, huống hồ [nhận biết] Lục Thô ư? Lúc bổn tâm vừa mới động, còn chẳng biết, huống hồ [nhận biết] Năng và Sở ư? Quang minh từ nơi Bổn Tế lập tức an trụ, chẳng nhờ vào sự nhận biết, cho nên phàm phu là hư vọng phân biệt, mà “phân biệt” chính là đã an lập Năng và Sở. Đó là pháp tắc cực thô, là Kiến Hoặc trong Kiến Tư Hoặc. Người hiện thời tu tập pháp rất thô. Nói là “thô”, tức là phần nhiều dựa theo cảm giác hư vọng của chính mình, lầm lạc dùng sự phân biệt của chính mình để làm chuẩn mực, chẳng biết giáo ngôn thanh tịnh của Phật pháp rốt ráo ở chỗ nào, chẳng biết căn bản của vốn sẵn tịch diệt. Trong Tam Pháp Ấn và Tứ Pháp Ấn, đức Thế Tôn đã nói Khổ, Vô Thường, Vô Ngã, Tịch Tĩnh Niết Bàn. Trong Thật Tướng Ấn, chỉ là “chẳng có tự tánh”, nhất thời lựa chọn, há có được hay mất ư? Vì thế, được hay mất thì chỉ có chúng sanh được hay mất. Nói “được” là nói theo phía chúng sanh, chứ chư Phật Như Lai chỉ dùng trí giải thoát, trí viên mãn, trí từ bi thương xót thế gian, soi sáng thế gian, sẽ chẳng có một vật nào để có thể đạt được!
(Kinh) Phi đoạn, phi thường, vô hữu tích tụ, vô hữu trụ xứ, vô khả y chỉ, vô tướng, vô vi, vô hữu toán số.
(經)非斷非常,無有積聚,無有住處,無可依止,無相無爲,無有算數。
(Kinh: Chẳng đoạn, chẳng thường, chẳng có tích tập, chẳng có chỗ trụ, chẳng thể y chỉ, vô tướng, vô vi, chẳng có toán số).
“Vô khả y chỉ” (Chẳng thể nương cậy): Hữu tình phiền não nói chung là luôn có chấp trước. Lúc chẳng chấp trước, bèn hư vọng nẩy sanh [kiến chấp] đoạn diệt. Đoạn diệt và tịch diệt trọn chẳng liên quan với nhau. Đoạn diệt là tà kiến, tịch diệt là chân thật. Trong Chân Thật Tế, Thật Tế Lý địa, an trụ chư Phật, an trụ chúng sanh. Chúng sanh và chư Phật chỉ là danh tự sai khác. Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai. Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta học tập pháp tắc trong Phật pháp, phải khéo tùy văn nhập quán, ấn khế tự tâm, đừng dùng thức tâm, hoặc dùng cái tâm Năng Sở để tự hư vọng phân biệt. Hãy gột sạch chướng ngại Sở Tri Chướng của chính mình để khỏi sanh khởi các phiền não do Sở Tri Chướng đem lại.
Chúng ta nói: Trong phiền não, Sở Tri Chướng là chướng ngại lớn nhất, rất khó trừ khử, chứ trừ khử Phiền Não Chướng chẳng khó vì nó thô nặng! “Tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng” mười phần thô nặng. Hễ nó vừa dấy lên, người ta có thể nhận biết ngay; nhưng Sở Tri Chướng rất vi tế, do đã được huân tập từ vô thỉ tới nay. Tuy là pháp vô sở đắc (pháp không có gì để đạt) huân tập từ vô thỉ tới nay, bản chất của nó chẳng có gì để đạt được, nhưng vì huân tập lâu ngày, cho nên cấu chướng sâu dày. Cũng có nghĩa là tuy cấu chướng chẳng có tự tánh, nhưng do chấp trước cấu chướng mạnh mẽ, cho nên nó cũng có tướng sâu dày. Vì thế, có nghiệp lực của chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn, sức bổn tánh của pháp giới chẳng thể nghĩ bàn, nguyện lực của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, oai thần và thiện xảo của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, giáo ngôn của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, diệu tướng công đức rất sâu của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, thần biến của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn… Trong các loại chẳng thể nghĩ bàn, “nghiệp lực của chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn” chính là pháp chẳng thể nghĩ bàn mà chúng sanh vốn sẵn có. Đối với pháp chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật, nếu tùy thuận một pháp, sẽ liền được giải thoát. Chư Phật dùng bốn pháp để lợi ích thế gian, tức hoặc là [sử dụng] diệu tướng, hoặc mười hai bộ loại trong Tam Tạng, hoặc phương tiện thần thông thiện xảo. Lại còn có một pháp là dùng công đức nơi danh hiệu của chư Phật khiến cho hết thảy chúng sanh được nghe, chúng sanh được thấy nghe, chúng sanh tùy thuận, sẽ cùng được độ thoát, thành tựu. Các vị thiện tri thức ơi! Nếu chẳng như vậy, nghiệp lực chẳng thể nghĩ bàn, nghiệp lực chẳng thể tự vượt thoát, nghiệp lực chẳng thể tự diệt. Vì sao vậy? Vọng này tăng trưởng vọng kia, vọng này nối tiếp vọng kia. Ở trong biển sanh tử, ở trong biển chấp trước mạnh mẽ, chúng sanh trong thế gian chỉ biết chấp trước, khởi tâm động niệm không gì chẳng phải là đối đãi, khởi tâm động niệm không gì chẳng phải là thiện ác, khởi tâm động niệm không gì chẳng phải là phân biệt, khó buông, khó bỏ! Chẳng nói đến thị phi, tâm trí [của chúng sanh] sẽ bất an. Chẳng nói đến đối đãi, tâm họ chẳng yên ổn được!
(Kinh) Hiền Hộ! Bỉ bất khả số, vân hà vi hữu? Bất khả số cố, bất nhập ư số. Bất nhập số cố, nãi chí vô hữu trí toán danh ngôn dã.
(經)賢護!彼不可數,云何爲有?不可數故,不入於數。不入數故,乃至無有智算名言也。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Do nó chẳng thể tính đếm, làm sao có được? Do chẳng thể tính đếm, nên chẳng thuộc vào con số. Do chẳng thuộc vào con số, thậm chí chẳng có cái trí để tính toán, chẳng có danh tướng, ngôn từ [để tính đếm, diễn tả được]).
Trí huệ theo kiểu La Tập Học (Logic, Lý Luận Học) trong thế gian là trí huệ có thể nghĩ bàn, nào có biết chư Phật Như Lai nương vào phương tiện đại thiện xảo để nhập trí chẳng thể nghĩ bàn, khiến cho hết thảy chúng sanh vào trong trí thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn. Do trong hết thảy các pháp tắc như núi, sông, đại địa… sẽ tự nhiên có pháp tắc hoàn toàn tự nhiên, chẳng phải là tự nhiên mà có pháp tắc phi tự nhiên. Trí bèn có pháp tắc của Trí, Bi bèn có pháp tắc của Bi, lợi ích rộng khắp bèn có pháp tắc thiện xảo của sự lợi ích rộng khắp. Chúng sanh ngu si tự có pháp tắc ngu si. Trong các pháp tắc ấy, mỗi mỗi đều dùng sự nhận biết và chấp giữ để quyết định. Địa ngục, ác quỷ, súc sanh, cũng có pháp tắc để lựa chọn. Vì sao? Thuộc vào Tà Định Tụ, mỗi đường đều tự an lập. Chúng ta thường nói “địa ngục vô môn” (địa ngục chẳng có cửa), vì sao lại thiết trí địa ngục? Ai thiết trí địa ngục? Do kẻ tạo nên ác nghiệp địa ngục tự thiết trí! Một pháp giới hiển, chín pháp giới kia ẩn mất. Hữu tình trong các pháp giới khác trọn chẳng thể thấy địa ngục. Như trong hiện duyên của chúng ta, quý vị dùng gì để thấy địa ngục? Chúng sanh thuộc nhân loại sẽ chỉ quẩn quanh trong cái tâm trí đối đãi của nhân loại; đó là sự lựa chọn của chúng ta. Muỗi mòng có sự lựa chọn của chính nó, “sáng sanh, tối chết” chính là sự lựa chọn của chúng nó. Chư thiên chọn lựa tâm trí đắm đuối trong ngũ dục, Thiền Định, cho đến Sắc, Vô Sắc, Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng. Họ có thọ mạng đến tám vạn đại kiếp, quý vị dùng gì để an lập? Vì thế, mỗi pháp giới có sự chọn lựa riêng để tiếp nối tướng trạng sanh mạng, không gì chẳng phải là tướng lựa chọn. Chư Phật Như Lai dù một kiếp, hai kiếp, ba kiếp, bốn kiếp, nhiều kiếp trụ thế, hoặc trụ thế một ngày, như Nguyệt Diện Phật lúc thành Phật là lúc nhập diệt, vẫn hóa độ chúng sanh, vẫn viên mãn rốt ráo. Mỗi mỗi đều có sự lựa chọn, cho nên nói: “Chư pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ”, trọn chẳng liên quan, trọn chẳng đắm nhiễm, trọn chẳng dao động. Do chúng chẳng liên quan với nhau, cho nên mỗi pháp giới hiển hiện hay diệt mất, mỗi pháp giới tự duy trì, thọ dụng. Cũng có nghĩa là hết thảy các danh tướng và ngôn từ bất quá là do chính mình chọn lựa như thế mà thôi, đều chẳng có thực chất.
(Kinh) Hiền Hộ! Bỉ Bồ Tát Ma Ha Tát như thị quán sát chư Như Lai thời, bất khả chấp trước.
(經)賢護!彼菩薩摩訶薩如是觀察諸如來時,不可執著。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Khi vị Bồ Tát Ma Ha Tát quán sát các Như Lai như thế, chớ nên chấp trước).
Tuy là pháp giáo rộng lớn rất sâu của chư Phật, cũng đừng nên chấp trước. Tám vạn bốn ngàn pháp, chẳng thể chấp một pháp nào! Có nhiều hữu tình cầu pháp trong thế gian này, kẻ cầu pháp cao, kẻ cầu pháp thấp, chẳng biết tâm trí sạch làu, chẳng biết bản chất của tâm trí là như thế, chẳng biết pháp vốn là như thế, cứ muốn cầu bên ngoài, cầu đạt được từ bên trong, muốn tu được, muốn tu chẳng được. Do vậy, hư vọng nẩy sanh tri kiến, oan uổng hứng chịu khổ sở, nhọc nhằn, nào có biết các pháp vốn sẵn như thế, quang minh nơi tự tánh chiếu rọi trọn khắp. Nếu vận dụng, sẽ ngay lập tức đạt được thiện xảo. Nếu không, sẽ là tự tiện phát tâm. Vì thế, hãy nên huân tập Bồ Đề tâm, dần dần thành tựu tâm hạnh Bồ Đề, cho đến rốt ráo viên mãn A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
(Kinh) Hà dĩ cố? Nhất thiết pháp vô chấp trước cố, dĩ vô xứ sở nhi khả chấp trước, diệc vô căn bản thị khả đoạn tuyệt.
(經)何以故?一切法無執著故,以無處所而可執著,亦無根本是可斷絕。
(Kinh: Vì sao vậy? Do hết thảy các pháp chẳng chấp trước, do chẳng có nơi chốn để có thể chấp trước, mà cũng chẳng có căn bản để có thể đoạn tuyệt).
Thật sự chẳng thể đoạn, mà cũng chẳng thể sanh khởi. Có nhiều chúng sanh ngỡ là có phiền não để có thể đoạn, cho là có pháp thù thắng để có thể tu, cho nên hư vọng sanh kiến giải “có tu tập”, hư vọng sanh kiến giải “có đoạn trừ”. Vì thế, đối với loại chúng sanh ấy, đức Phật bèn nói “có pháp để có thể tu”, “có phiền não để có thể đoạn”, như Kiến Tư Hoặc, Trần Sa Hoặc, và Vô Minh Hoặc. An lập các danh tướng ấy tức là an lập nội dung thực chất cho chúng sanh. Chư Phật Như Lai biết rõ pháp chẳng có tự tánh, vốn rỗng rang, tĩnh lặng. Vì thế, chư Phật Như Lai do thấy chúng sanh chấp trước danh tự, bèn an lập [các danh tướng] cho chúng sanh. Sau khi đã an lập, chúng sanh bèn cho là [các danh tướng ấy] có thực chất, cho nên bèn tự lấp đầy nội dung của các danh tự ấy. Chẳng hạn như một khi danh từ “phiền não” sanh khởi, chư Phật Như Lai thấy rõ “trọn chẳng có phiền não để đạt được”, nhưng hết thảy phàm phu hữu tình đều ngỡ là có phiền não. Vì sao? Sanh, lão, bệnh, tử, cầu chẳng được, yêu thương mà phải chia lìa, oán ghét mà cứ phải gặp gỡ, năm Ấm lẫy lừng, ba khổ, tám khổ, đủ loại khổ nạn cùng lúc sanh khởi, họ tự điền kín nội dung. Ai điền thêm nội dung vào đó? Phàm phu hữu tình tự mình điền vào! Nếu quý vị thấu hiểu phiền não chẳng có tự tánh, phiền não chẳng có gì để đạt được, sẽ liền giải thoát, không có gì để có thể đoạn, không có gì để có thể chứng.
(Kinh) Trừ diệt căn bản, cố vô y xứ. Hiền Hộ! Bỉ Bồ Tát Ma Ha Tát đương tác như thị tư duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội. Nhược như thị kiến chư Như Lai dĩ, bất ưng thủ trước, bất đương chấp trì.
(經)除滅根本,故無依處。賢護!彼菩薩摩訶薩當作如是思惟諸佛現前三昧。若如是見諸如來已,不應取著,不當執持。
(Kinh: Do đã trừ diệt căn bản, cho nên chẳng có chỗ để nương tựa. Này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát hãy nên tư duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội như thế. Nếu đã thấy các đức Như Lai như thế rồi, đừng nên chấp giữ, chớ nên chấp trì).
Tôi đã gặp các trường hợp thực tế như vậy không dưới dăm ba lần! Trường hợp như thế nào vậy? Tức là có người hoặc tu Quán Phật tam-muội, hoặc Niệm Phật tam-muội, hoặc trì chân ngôn, hoặc hơi tu tập pháp tu trì quán Bổn Tôn tam-muội, đạt được đôi chút tương ứng, bèn có các hữu tình vốn mẫn cảm đối với Thiền Định, thậm chí là các hữu tình yếu kém trông thấy tướng quang minh, tướng trí huệ, cho đến các tướng thiện xảo v.v… tức là các thứ diệu tướng và oai đức của người tu tập pháp ấy, sẽ ngay lập tức đến đảnh lễ cung kính, cảm kích, thưa bày: “Ôi chao! Thiện tri thức ơi! Ngài tỏa ra quang minh thanh tịnh chiếu rọi thế gian”. Hạng người tu hành ấy nếu [nghe xong các lời tán thán ấy mà] chấp trước, sẽ rơi vào ma kiến. Còn nếu là người biết thiện xảo tu pháp, sẽ có thể lợi ích thế gian rộng khắp!
Kẻ bị bại diệt ở chỗ này rất đông! Nếu có các vị thiện tri thức đã từng có kinh nghiệm ấy, ngỡ chính mình đã chứng pháp như thế, ngỡ chính mình thật sự chứng đắc như thế, quý vị nhất định phải biết rõ đấy là nhân duyên tụ tập, tức là trong sát-na quý vị trì chú hoặc quán diệu tướng của Phật, do được tương ứng mà sanh ra các quang minh. Thật ra, các quang minh ấy chẳng có thực chất! Chớ nên đắm nhiễm, chớ nên ngỡ là có thật, kẻo đọa thành quyến thuộc của ma, đọa vào hầm hố tà kiến, sẽ ở trong pháp “chẳng có gì để đắc” mà lầm lạc tự cho là có pháp để đạt được, hư vọng dối gạt kẻ khác, sanh khởi nỗi khổ vì vọng ngữ từ vô lượng kiếp đến nay, đọa vào địa ngục Bạt Thiệt (拔舌, kéo lưỡi). Hạng người xuất gia hoặc tại gia ấy rất khổ, hư vọng tiếp nhận tín tâm của kẻ khác, hư vọng tiếp nhận người khác cúng dường, tự cho là chính mình có sở đắc, kiêu mạn, tà kiến, tự cao tự đại, tự phụ. Vì thế, chư Phật Như Lai thọ ký hạng hữu tình ấy là kẻ tăng thượng mạn, dẫu niệm Phật mà đã đánh mất cam lộ vị, đọa làm quyến thuộc của ma, ví như con voi cuồng vào trong ao sen, giẫm nát nghiệp duyên của hết thảy chúng sanh!
Đối với chỗ này, đức Thế Tôn đã nhiều lượt tuyên nói, khiến cho chúng ta xa lìa nỗi hại thuộc về ma chướng này. Nếu chẳng khéo tư duy, y giáo tu trì, sẽ bị nhiều hoạn nạn. Rất nhiều kẻ tu pháp đọa lạc ngay tại chỗ này, vì sau khi đã tương ứng, thân tâm khinh an, được kẻ khác kính ngưỡng, nhất là những kẻ kính ngưỡng ấy lại còn chẳng phải là hạng bình phàm. [Kẻ kính ngưỡng] phần nhiều là người có Thiền Định, hoặc có sự cảm nhận tinh tế, nếu người [được kính ngưỡng] ấy chẳng cảnh giác, phần nhiều sẽ ở trong pháp “không có gì để đắc” mà cho là có sở đắc. Vì sao? Vì người ấy cảm thấy khinh an, vui sướng, kẻ khác lại nói người ấy đắc Thiền Định, có diệu tướng. Do vậy, người ấy bị Ấm Ma thâu nhiếp. Chư vị thiện tri thức ơi! Phải thận trọng tư duy, quan sát chỗ này, chớ nên đắm nhiễm, chớ nên chấp giữ, chớ nên tự chấp chặt!
Người niệm Phật rất dễ trụ vào chỗ này, vì trong khi tập thể niệm Phật hoặc đả thất, rất dễ xuất hiện chuyện thấy Phật, thấy diệu tướng trang nghiêm của thế giới Cực Lạc, thấy quốc độ ở phương khác, cho đến các thứ cảnh giới hy hữu khó có trong thiên giới. Hữu tình do nhiều đời đắm nhiễm, sẽ khinh suất kể với kẻ khác, hòng biểu lộ chính mình có công đức thù thắng, khiến cho kẻ khác sanh lòng tôn trọng và yêu mến. Khi đó, nếu có thiện tri thức có thể cảnh tỉnh quý vị [thì quý vị chẳng bị đọa lạc]. Nếu là ác duyên tiếp nối, sẽ tâng bốc lẫn nhau, ắt sẽ trầm luân, đọa lạc ngay trong ấy!
Trong Tăng chúng lẫn hàng cư sĩ đều có người tu tập siêng năng như thế mà bị đọa lạc. Vì sao? Chẳng biết xoay chuyển ở chỗ này. Kẻ chẳng chăm chỉ, do chẳng có cơ duyên tương ứng, cũng sẽ chẳng có ai quan sát quý vị. Quý vị cũng chẳng thể tỏa quang minh. Hóa ra, kẻ đó vì giải đãi mà chẳng bị hại to lớn! Phần nhiều là người tu tập chuyên cần dễ bị đọa lạc ở chỗ này, [lý do] là vì chẳng hiểu giáo lý, chánh kiến chẳng lập, Bồ Đề tâm chẳng biết, sẽ vì nhân duyên như thế mà tu tập đến nỗi bị tổn hại. Đúng là đáng tiếc! Tôi đã gặp một cư sĩ, đấy là chuyện đặc biệt tàn khốc! Người ấy vì chính mình trong khi niệm Phật sau khi đã hơi có cảm giác thanh tịnh và tương ứng, lần đầu kể với kẻ khác, kẻ khác lộ vẻ kinh ngạc. Người ấy liền kể nhiều lần, đã kể ra rồi thì chẳng đạt được cảnh ấy nữa. Vì thế, lừa gạt người khác. Kết quả, vướng lấy quả báo rất xấu ác. Đối với hạng người học Phật kiểu ấy, kẻ khác cảm thấy mười phần thương cảm! Vì sao tu tập Phật pháp mà lại bị mắc hại như vậy? Xét ra, vẫn là vì chẳng có chánh kiến, chẳng nương theo lời dạy, chẳng nương theo giáo ngôn hoàn chỉnh để hành pháp. Hành pháp Ban Châu như thế, tức Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội có một cơ chế tu hành theo thứ tự hoàn chỉnh như thế. Do vậy, trong quá trình tu tập, sẽ thường gặp chuyện như thế. Vì lẽ này, ở đây, tôi phải khá nhiều lượt nhắc nhở mọi người hãy nên chú ý.
Nói theo Tạng truyền Phật giáo, nếu ai đã thành tựu Bổn Tôn (tức là đã quán tưởng thành tựu vị tôn thánh, Phật, Bồ Tát chánh yếu của pháp môn mình đang tu tập), hễ cưỡng chấp thủ hộ, sẽ đọa vào hạng hộ pháp, tức là long thiên bát bộ, chẳng thể coi là rốt ráo thành tựu an ổn. Trong Hán truyền Phật giáo, điều này được gọi là “thừa cấp, giới hoãn” (乘急戒緩), vì kẻ đó chẳng có giới. “Giới” như vừa nói đó chính là phá trừ hết thảy chấp trước, vô lậu, vô nhiễm, đó là Giới. Nói là “thừa cấp” vì rất khinh an, đạt được nhiều thiện xảo, bi trí thiện xảo cũng sanh khởi. Có khi thậm chí các thứ oai đức thần thông thiện xảo cũng dễ sanh khởi, nhưng chẳng có giới đức, tức là dùng tâm trí vô lậu để thủ hộ. Do chẳng có căn bản này thủ hộ, sẽ đọa nhập tri kiến ngoại đạo. Chúng ta thường gặp người nói ra cảnh giới như vậy; đối với những người ấy, nhất định chớ nên cổ vũ, khích lệ, càng chớ nên tán thán, càng chớ nên tùy thuận lời nói của kẻ ấy. Nếu làm như vậy (tức cổ vũ, tán thán tùy thuận kẻ phô trương cảnh giới), chắc chắn quý vị sẽ bị đọa lạc. Quý vị đọa lạc, kẻ đó đọa lạc, đôi bên cùng đọa lạc là vì lẽ nào? Do trong pháp “không có gì để đạt được”, lại cho rằng thật sự có cái để đạt được. Có nhiều cách để đoán trước tình hình này, tức là dùng sức thần thông để quan sát loại hữu tình ấy đọa nhập trong ác duyên ấy.
Vì thế, có các pháp tu chiêm sát, như Địa Tạng Chiêm Sát, Văn Thù Chiêm Sát, Quán Âm Chiêm Sát, Viên Giác Chiêm Sát, đủ loại pháp tắc chiêm sát, hòng tránh cho chúng ta bị chướng ngại và tổn hại bởi những thứ gọi là “pháp tắc thuộc về sức cảm nhận” hay “sức cảnh giới” để rồi hư vọng tự suy lường. Vì thế, quý vị cần phải tu một nghi quỹ, dùng nghi quỹ ấy để hướng dẫn lòng mong mỏi hiểu biết của chúng ta. Do sự mong mỏi hiểu biết ấy mà hướng dẫn chúng ta tu trì một pháp tắc, tu trì một nghi quỹ. Trong thế gian hiện thời, kẻ đọa lạc ở chỗ này rất đông, kẻ bị tổn hại cũng đúng là rất phổ biến. Đây là một vấn đề to lớn!
(Kinh) Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Nhất thiết chư pháp, bất khả chấp trì, do như hư không, thể tánh tịch diệt. Hiền Hộ! Thí như kim trùy, an trí hỏa trung, thiện tác lô cảo dung tiêu luyện dã, xí nhiên độc nhiệt. Hựu như thiết hoàn, tân tùng hỏa xuất, viêm hách xí nhiên. Hữu trí chi nhân, bất ưng chấp xúc. Hà dĩ cố? Thiết lưu, kim xí, xúc tắc xí nhiên cố.
(經)何以故?賢護!一切諸法,不可執持,猶如虛空,體性寂滅。賢護!譬如金錘,安置火中,善作爐藁融消鍊冶,熾然毒熱。又如鐵丸,新從火出,炎赫熾然。有智之人,不應執觸。何以故?鐵流金熾,觸則熾然故。
(Kinh: Vì sao vậy? Này Hiền Hộ! Hết thảy các pháp chẳng thể chấp trì, ví như hư không, thể tánh tịch diệt. Này Hiền Hộ! Ví như trùy vàng đặt vào trong lửa, khéo thổi ống bễ để nung cho tan chảy, nóng rực tột bậc. Lại như viên sắt nóng mới lấy từ lửa ra, nóng bỏng hừng hực, người có trí chớ nên nắm, chạm. Vì sao vậy? Sắt chảy, vàng nóng, hễ chạm vào sẽ bị thiêu đốt).
Sắt nung đỏ chẳng thể dùng tay cầm. Trên thực tế, trong nghiệp “tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng” tạo tác của chúng ta trên thế gian, cho đến nghiệp thuộc về Ngũ Cái, tức “tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê”, trong Sở Tri phiền não, lúc các thứ nghiệp chướng phiền não hiện tiền, nếu chúng ta chẳng thấu hiểu tự tánh của chúng là “chẳng thể được”, lại còn noi theo các pháp ấy. Như thế thì sẽ giống như dùng tay chạm vào sắt nóng đỏ, quý vị sẽ bị đốt phỏng. Trong Đại Trí Độ Luận, Long Thọ Bồ Tát đã nêu một thí dụ: Trí Đại Bát Nhã giống như một đồng tiền bằng bạc nung đỏ, tuy có giá trị, nhưng chẳng thể đưa tay nắm lấy. Cũng tức là nói quý vị chẳng thể chiếm hữu. Hễ chiếm hữu (chấp trước), sẽ bị tổn thương. Phàm phu hữu tình nếu cho rằng “có sở đắc”, cho rằng “có cái để hay biết”, cho rằng có công năng, hư vọng tự gánh vác nghiệp duyên thế tục, cho nên cùng nhau bị hại. Trong pháp tắc này, chúng ta có thể khéo quan sát, quan sát trọn khắp, [sẽ thấy] kẻ tự thổi phồng, rêu rao, kẻ tự đại, cho là chính mình có công phu, phần nhiều sẽ bị công phu làm hại, phần nhiều sẽ bị nghiệp duyên làm hại, khó tránh khỏi kiếp nạn!
(Kinh) Như thị Hiền Hộ! Bồ Tát quán Phật, bất ưng thủ trước, kỳ sự nhược thử. Thị cố, Bồ Tát quán Phật sắc thời, bất ưng sanh trước. Như thị quán Thọ, nãi chí Hành, Thức, bất ưng sanh trước. Hựu bỉ Bồ Tát, nhược quán Giới thời, diệc bất ưng trước. Như thị quán Định, nãi chí Trí Huệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến, diệc bất ưng trước.
(經)如是賢護!菩薩觀佛,不應取著,其事若此。是故,菩薩觀佛色時,不應生著。如是觀受,乃至行識,不應生著。又彼菩薩,若觀戒時,亦不應著。如是觀定,乃至智慧解脫,解脫知見,亦不應著。
(Kinh: Như thế đó, Hiền Hộ! Bồ Tát quán Phật chớ nên chấp trước, cũng giống như thế đó. Vì vậy, khi Bồ Tát quán Sắc của Phật, chớ nên sanh chấp trước. Quán Thọ cho đến Hành, Thức cũng như thế, chớ nên sanh chấp trước. Lại nữa, vị Bồ Tát ấy khi quán Giới, cũng đừng nên chấp trước. Quán Định như thế, cho đến [quán] Trí Huệ, Giải Thoát, và Giải Thoát Tri Kiến, cũng đừng nên chấp trước).
Ở đây, đức Thế Tôn đã nói với chúng ta mười phần rõ ràng, cho đến Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến, tức Ngũ Phần Pháp Thân, chỗ nào cũng đừng nên chấp trước. Nếu chấp trước, ắt sẽ bị tổn hại. Trong tỷ dụ trùy vàng thuộc phần trước, cho đến tỷ dụ hòn sắt cũng giống như thế, khiến cho chúng ta chẳng sanh tâm chấp trước, khéo vận dụng pháp tắc “không chấp trước” để lợi ích thế gian rộng khắp. Nếu chẳng có lời dạy này của chư Phật Như Lai, chúng ta sẽ do đâu mà nhận biết tự tâm, nhận biết pháp tắc? Làm thế nào để tu tập tự tâm, tu tập pháp tắc? Vì thế, ân đức của đức Thế Tôn là ở chỗ này! Chúng ta nghe xong, khéo thủ hộ, khéo thực hiện, chớ nên ngờ pháp, càng chẳng nên báng pháp. Nếu có ngờ vực, hãy nên khéo sám hối, hãy nên khéo nhận biết, hãy nên khéo trừ bỏ!
(Kinh) Hà dĩ cố? Phù thủ trước giả, chung bất năng ly sanh tử khổ pháp. Dĩ thị khổ pháp giai do thủ trước cố.
(經)何以故?夫取著者,終不能離生死苦法。以是苦法皆由取著故。
(Kinh: Vì sao vậy? Phàm là kẻ chấp trước, sẽ trọn chẳng thể lìa pháp đau khổ sanh tử. Bởi những pháp đau khổ ấy đều là do chấp trước).
Những lời này đã đích xác ban cho chúng ta một lời quyết định: Hết thảy đừng nên chấp trước!
(Kinh) Thị cố, Bồ Tát quán sát như thị chư Như Lai thời, bất ưng sanh ư thủ trước chi tưởng. Hiền Hộ! Tuy vô thủ trước, nhiên ưng cần cầu chư Phật Thế Tôn thắng diệu công đức, sở vị Phật trí, Như Lai trí, quảng đại trí, tự nhiên trí, tự tại trí, bất tư nghị trí, nan xưng lượng trí, vô đẳng đẳng trí, Nhất Thiết Trí trí. Nhược dục cầu nhập như thị trí giả, thường đương tinh cần tư duy, quán sát Kiến Phật tam-muội dã.
(經)是故,菩薩觀察如是諸如來時,不應生於取著之想。賢護!雖無取著,然應勤求諸佛世尊勝妙功德,所謂佛智,如來智,廣大智,自然智,自在智,不思議智,難稱量智,無等等智,一切智智。若欲求入如是智者,常當精勤思惟,觀察見佛三昧也」。
(Kinh: Vì thế, khi Bồ Tát quan sát các đức Như Lai như thế, chớ nên sanh ý tưởng chấp trước. Này Hiền Hộ! Tuy chẳng chấp trước, nhưng hãy nên siêng cầu công đức thù thắng, mầu nhiệm của chư Phật Thế Tôn, như là Phật trí, Như Lai trí, trí rộng lớn, trí tự nhiên, trí tự tại, trí chẳng thể nghĩ bàn, trí khó tính kể, trí không gì sánh bằng, trí Nhất Thiết Trí. Nếu muốn cầu nhập các trí như thế, hãy nên thường siêng ròng tư duy, quan sát Kiến Phật tam-muội).
Chư Phật Như Lai đối với Nhất Thiết Chủng Trí, cho tới hết thảy Đạo Chủng Trí, dẫn khởi vô cùng danh tự. Vì hết thảy chúng sanh vô cùng, trí của chư Phật cũng vô cùng. Do danh tướng của chúng sanh vô cùng, tên gọi các trí của Như Lai cũng vô cùng. Vì sao vậy? Do hết thảy chúng sanh rốt cuộc sẽ viên mãn A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, cho nên có trí rộng lớn, trí tự nhiên, trí tự tại v.v… Trong hết thảy danh xưng của các trí, chư Phật Như Lai đều biết là chẳng thể được, tức là tuy hành mà chẳng thể chứng. Đối với pháp tắc “chẳng thể chứng, chẳng thể đắc” như thế, hết thảy chúng sanh đều nên tuân theo, đều nên tu tập, đều nên ưa mến, nhưng chớ nên đắm nhiễm! Vì sao chúng ta tu tập mà chớ nên đắm nhiễm? Vận dụng mà chẳng chấp trước, đó là cơ chế mầu nhiệm chẳng thể nghĩ bàn trong Phật pháp.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa, dĩ kệ tụng viết.
(經)爾時,世尊爲重明此義,以偈頌曰。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vì muốn nêu rõ lại nghĩa này, bèn dùng kệ tụng để nói).
Ở đây, đức Thế Tôn theo thông lệ, dùng văn tự để trùng tuyên nghĩa này, khiến cho chúng ta qua phần văn tự ngắn gọn này, sẽ quan sát có hệ thống một lượt nữa, hòng “ôn cố, tri tân” (温故知新, ôn cái cũ để biết cái mới). Cái được gọi là Biết, thật ra là điều vốn sẵn biết, là Thỉ Giác hiện tiền trong Bổn Giác, là Cứu Cánh Giác an lập, là pháp vốn sẵn như vậy nơi pháp tắc. Nay chúng ta vận dụng, Thỉ Giác sanh khởi, chẳng rời khỏi quang minh của Cứu Cánh Giác.
(Kinh) Thí như minh kính dữ du khí, nữ nhân trang sức diệu kỳ hình. Ngu phu ư thị sanh nhiễm tâm, xứ xứ trì sính vị cầu dục. Bỉ ư vô trung điên đảo tưởng, bất tri thị pháp hư vọng sanh. Bỉ dục xí hỏa chi sở thiêu, tư phụ khởi dục hoàn tự phát. Nhược hữu Bồ Tát tác thị niệm, thị danh “vô trí trước ngã tâm”.
(經)「譬如明鏡與油器,女人莊飾曜其形。愚夫於是生染心,處處馳騁爲求欲。彼於無中顛倒想,不知是法虛妄生。彼欲熾火之所燒,斯婦起欲還自發。若有菩薩作是念,是名無智著我心。
(Kinh: Như dùng gương sáng, đồ đựng dầu, nữ nhân trang điểm soi bóng mình. Kẻ ngu do vậy tâm đắm nhiễm, chốn chốn theo đuổi cầu thỏa dục. Ái tưởng điên đảo nơi cái Không, chẳng biết pháp ấy hư vọng sanh. Hắn bị lửa dục mạnh thiêu đốt, chẳng do cô kia khởi dục niệm, vẫn do tự hắn khởi tham dục[5]. Nếu có Bồ Tát nghĩ thế này: Đó là vô trí, chấp tâm mình).
Đây là dùng người trong thế gian, hoặc có thể nói là dùng chuyện dục nhiễm của hữu tình trong Dục Giới để làm tỷ dụ.
(Kinh) Bồ Đề cam lộ tại đương lai, ngã bạt chúng sanh xuất trọng khổ. Đệ Nhất Nghĩa trung vô chúng sanh, thế gian độc hữu sanh, lão, tử.
(經)菩提甘露在當來,我拔衆生出重苦。第一義中無衆生,世間獨有生老死。
(Kinh: Bồ Đề cam lộ trong tương lai, ta cứu chúng sanh thoát khổ nặng. Trong Đệ Nhất Nghĩa, không chúng sanh, chỉ riêng thế gian sanh, lão, tử).
“Đệ Nhất Nghĩa trung vô chúng sanh” (Trong Đệ Nhất Nghĩa Đế chẳng có chúng sanh): Đây là nương vào Đệ Nhất Nghĩa Đế để lựa chọn. Nếu chẳng chọn lựa như thế, chúng sanh sẽ khó thể tự độ. Như vào đời Đường, Tông Mật đại sư, tức vị tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm, đã tuyên thuyết: Tâm trí Bồ Đề có ba loại tướng là đại trí, đại bi, và đại nguyện. Nói theo đại trí thì trên là chẳng có chư Phật có thể chứng, giữa là chẳng có các pháp để có thể tu, dưới là chẳng có chúng sanh để có thể độ. Nương theo các nhân duyên ấy, sẽ biết rõ sức mạnh của đại trí. Đó là các lời lẽ mô tả tướng mạo [của trí huệ], chứ nội dung thì chỉ người có trí mới biết! “Thế gian độc hữu sanh, lão, tử” (Chỉ riêng thế gian có sanh, già, chết): Thế gian là nương theo Tục Đế mà an lập, nương theo sự công nhận của tri kiến Tục Đế [để nói].
(Kinh) Chư pháp vô hình như thủy nguyệt, khởi hữu Bồ Đề nhi khả cầu.
(經)諸法無形如水月,豈有菩提而可求?
(Kinh: Các pháp vô hình: Trăng trong nước. Há có Bồ Đề có thể cầu?)
Đây là dựa trên Thắng Nghĩa Đế để quan sát hết thảy các pháp, cho đến Bồ Đề. Sanh, lão, bệnh, tử là danh tự, chẳng có tự tánh. Bồ Đề cũng là danh tự, chẳng có tự tánh. Chúng sanh là danh tự, chư Phật Như Lai cũng là danh tự. Vì thế, trong Thắng Nghĩa Đế, trọn chẳng có mảy trần!
(Kinh) Chúng sắc hình mạo nhược kính tượng, như huyễn, như diễm, như hư không.
(經)衆色形貌若鏡像,如幻如焰如虛空。
(Kinh: Hình mạo các sắc: Bóng trong gương, như huyễn, nắng gợn[6], như hư không).
Chúng ta quan sát các thứ pháp giới, các loại thế gian, các loại hữu tình, các thứ tộc loại, các loại tư tưởng, các loại nghiệp tạo tác, thai sanh, thấp sanh, noãn sanh, hóa sanh các loài, chẳng thể nói trọn, đủ mọi loại tụ tập. Tướng trạng của các loài như thế đều giống như hình bóng trong gương, như huyễn, như ánh nắng gợn, như hư không. Đức Thế Tôn đối với hết thảy các pháp hữu vi, lập ra các thứ tỷ dụ, như giọt sương, như tia chớp, như mộng, như huyễn v.v… khiến cho chúng ta quán như thế. Đó là con mắt trí huệ, là chánh kiến Bát Nhã. Nếu chúng ta chẳng có con mắt trí huệ, đối với hết thảy các hành pháp, sẽ như người mù xử sự, như trong giáo điển, đức Thế Tôn đã tỷ dụ người mù sờ voi. Hết thảy các hữu tình chẳng có trí huệ nhận biết thế gian, nhận biết Phật pháp, nhận biết hết thảy các pháp tắc, không ai chẳng phải là kẻ mù sờ voi! Ai nấy đều chấp một bên, chẳng thể thấy toàn thể.
(Kinh) Phàm phu trước tưởng nhi thọ ky, bỉ bối tuy phược, không, vô thật.
(經)凡夫著想而受羈,彼輩雖縛空無實。
(Kinh: Phàm phu chấp tưởng, bị trói buộc. Họ tuy bị trói, không, chẳng thật).
Đã bị trói buộc, nhưng thật ra chẳng có gì để có thể trói buộc. Vì thế, nếu bị trói buộc thì đúng là kẻ đáng thương xót. Người trí thấy phàm phu hữu tình bị oan uổng trói buộc, sanh lòng thương xót. Vì sao sanh khởi bi tâm? Do dùng trí tâm để quan sát, cho nên sanh bi tâm. Nếu chẳng có con mắt trí huệ, lấy gì để sanh lòng bi? Đó chẳng gọi là bi, chỉ có thể là cảm thông, có tình người, thuộc về tình cảm thế gian.
(Kinh) Nhược tư trí giả chư Bồ Tát, tri thế điên đảo cố kiến chân. Liễu đạt vô nhân thùy thọ khổ? Bỉ tắc đương thành Vô Thượng Giác.
(經)若斯智者諸菩薩,知世顛倒故見真。了達無人誰受苦?彼則當成無上覺。
(Kinh: Nếu các Bồ Tát có trí ấy, biết đời điên đảo, thấy lẽ thật. Liễu đạt “không người”, ai chịu khổ? Vị ấy sẽ thành Vô Thượng Giác).
“Liễu đạt vô nhân, thùy thọ khổ? Bỉ tắc đương thành Vô Thượng Giác” (Liễu đạt “không có người” thì ai sẽ chịu khổ? Vị Bồ Tát như thế sẽ thành Vô Thượng Giác): Người còn chẳng thể được, khổ sẽ do ai mà chịu khổ? Vì thế nói “yêu ghét vốn là không, liên quan gì đến sanh tử?” Tuy là nói như thế, chúng ta tư duy nghiệp duyên hiện tiền như thế nào? Những vị có trí dùng trí quán thông đạt thế gian, lợi ích hữu tình. Kẻ ngu do đắm nhiễm, trầm luân trong thế gian, chẳng thể tự thoát ra được! Vì thế, trí bèn có trí dụng, ngu bèn có ngu dụng. Do trọn chẳng có tự tánh, mỗi pháp tự vận dụng, nhưng tất cả nguyện vọng xuất thế của chư Phật Như Lai đều là dùng hai pháp Bi và Trí để nhuần thấm thế gian!
(Kinh) Vô ý phân biệt Phật Bồ Đề, kỳ tâm bổn lai tự minh tịnh. Bất kiến sanh tử chư chỉ trược, bỉ chứng chân thật tối thắng tôn.
(經)無意分別佛菩提,其心本來自明淨。不見生死諸滓濁,彼證真實最勝尊。
(Kinh: Chẳng nghĩ phân biệt Phật Bồ Đề, cái tâm vốn sẵn tự sáng sạch. Chẳng thấy sanh tử các cặn nhơ, bèn chứng chân thật tối thắng tôn).
“Bất kiến sanh tử chư chỉ trược” (Chẳng thấy các cặn bẩn sanh tử): Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đã nói: “Nếu người thật tu hành, chẳng thấy lỗi thế gian”. Ngài thấy như thế nào? Thấy mà như chẳng thấy, tự đạt được giải thoát. Các tướng chẳng phải là tướng, liền thấy Như Lai. Loại thiện tri thức này ở đâu cũng thấy Phật, tâm chẳng vướng mắc, Vô Sanh Nhẫn tự nhiên an lập, dùng gì để thấy? Thấy mà như chẳng thấy, tự đạt được giải thoát. Vì thế, lợi ích rộng khắp thế gian, còn chúng ta thấy gì cũng đều là một thứ chi đó, cho nên bị sự tướng khống chế, chẳng thể xuất ly. Vì sao? Chẳng có cơ hội xuất ly!
(Kinh) Nhất thiết sắc pháp chư vô lậu, bất khả phân biệt vọng dữ không. Diệt trừ chư dục giải thoát tâm, như thị tri giả, chứng tam-muội.
(經)一切色法諸無漏,不可分別妄與空。滅除諸欲解脫心,如是知者證三昧。
(Kinh: Hết thảy sắc pháp đều vô lậu, chẳng thể phân biệt vọng và không. Diệt trừ các dục, tâm giải thoát, người biết như thế chứng tam-muội).
Chúng ta siêng tu pháp tắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội như thế này, rất nhiều hành giả nói: “Vì sao chúng tôi chẳng thấy chư Phật? Vì sao chúng tôi chưa thấy tam-muội?” Thông qua việc học tập bộ kinh điển này, chúng ta sẽ có nhận biết chánh tri kiến, nhận biết pháp tắc thanh tịnh, nhận biết hoàn chỉnh về toàn thể cơ chế giáo ngôn và toàn thể hệ thống pháp tắc. Sau đó bèn tu pháp thì sẽ rất thuận tiện, như thế thì sẽ xa lìa các vô minh và sự siêng gắng vì mong “có sở đắc”, thấy chư Phật. Thấy chư Phật mà không chấp trước, đoạn trừ hết thảy các phiền não, đích thân chứng sức tự tại nơi pháp tánh chẳng đến, chẳng đi. Như thế thì chúng ta sẽ đạt được phương tiện trong Phật pháp.
(Kinh) Sơ niệm chư Phật vô tướng thân, hậu văn chư pháp bổn thanh tịnh. Như thị tư duy vô dư niệm, chứng thử tam-muội thành phi nan.
(經)初念諸佛無相身,後聞諸法本清淨。如是思惟無餘念,證此三昧誠非難。
(Kinh: Trước niệm thân chư Phật vô tướng, sau nghe các pháp vốn thanh tịnh. Tư duy như thế, chẳng nghĩ khác, chứng tam-muội này, thật chẳng khó!)
An lập chánh kiến, chứng tam-muội sẽ chẳng phải là chuyện khó! Chánh kiến chưa lập, hư vọng tìm tòi được mất, tự tâm mê mờ, lấy gì để tu chứng? Vì thế, phần nhiều là phải siêng khổ. Trong mấy năm nay, có nhiều vị tri thức hành pháp Ban Châu một ngày, hai ngày, bảy ngày, cho đến chín mươi ngày, nhưng nói đến người chứng tam-muội, người đạt được lợi ích chân thật nơi tam-muội thì người chứng tự như, người chẳng chứng cũng tự như. “Tự như” gì vậy? Như pháp tắc! Nếu là người chẳng có chánh kiến, sẽ tự có lợi ích do siêng khổ. Nếu là người có chánh kiến, sẽ tự đạt được lợi ích do đúng pháp. Kẻ đạt được lợi ích do siêng khổ chính là kết nhân duyên rất sâu với pháp này. Kẻ đạt được lợi ích tương ứng là đạt được khinh an. Khinh an đúng với bi và trí, khinh an đúng với tịch tĩnh, khinh an tịch diệt. Sự khinh an ấy được chư Phật nuôi dưỡng, tức là dưỡng dục Pháp Thân huệ mạng của chúng ta, khiến cho thiện căn vốn có chín muồi, tức là công đức vốn đang hành sẽ chín muồi, đạt được sức tam-muội. Vì đấy là pháp tắc tương ứng, cho nên “như thị tư duy, vô dư niệm, chứng thử tam-muội thành phi nan” (tư duy như thế, chẳng nghĩ khác, chứng tam-muội này thật sự chẳng khó). Rất nhiều người hành trì pháp tắc này, điều chủ yếu nhất là bị tâm lý chướng ngại, bị nghiệp tướng chướng ngại gây mê hoặc, cũng là do tự mình gây nên hoang mang, tự lập ra chướng ngại!
(Kinh) Thường tác Không tướng nhi tư duy, tức năng diệt bỉ vi trần tụ. Bất phân biệt thành, cập dữ hoại, nhất thiết ngoại đạo thất ư trung. Ư nhất thiết sắc vô phân biệt, kỳ nhãn tuy đổ, bất lụy tâm.
(經)常作空相而思惟,即能滅彼微塵聚。不分別成及與壞,一切外道失於中。於一切色無分別,其眼雖睹不累心。
(Kinh: Thường dùng tướng Không để tư duy, liền diệt trừ khối vi trần ấy. Chẳng phân biệt thành cùng với hoại, hết thảy ngoại đạo mê trong ấy. Hết thảy các sắc chẳng phân biệt, mắt tuy trông thấy chẳng bận lòng).
“Ư nhất thiết sắc vô phân biệt, kỳ nhãn tuy đổ, bất lụy tâm” (Đối với hết thảy các sắc chẳng phân biệt, mắt tuy trông thấy chẳng bận lòng): Đối với tâm trí đối đãi của thế gian, trong phần trước, chúng tôi đã nêu ra hai loại tỷ dụ: Tỷ dụ về rác rưởi của người khác, và tỷ dụ về của báu của chính mình. Hết thảy phàm phu không ai chẳng đắm nhiễm nơi của báu, muốn giữ lấy, muốn đạt được, dù là tự giác hay chẳng tự giác. Còn đối với chỗ được coi là rác rưởi của kẻ khác, sẽ nẩy sanh nhiều lầm lỗi, nhiều suy nghĩ chẳng vừa ý. Quán người nhà, thân thuộc trong thế gian, thoạt đầu cư xử với nhau phần nhiều là kính yêu, lâu sau sẽ chỉ nhớ lỗi lầm của kẻ khác, ngờ vực lẫn nhau, thậm chí dè bỉu, tổn thương. Vì lẽ nào vậy? Bị sắc gây phiền lụy, bị cái Thấy gây phiền lụy, bị hai loại gánh nặng gây phiền lụy, tức là gánh nặng do trông thấy lỗi lầm của kẻ khác, cùng với gánh nặng thâu thập các thứ mà chính mình cho là pháp trân bảo! Chuyện này khiến tôi nhớ khi xưa ở Sơn Đông, nghe người ta nói chuyện: Vị cư sĩ X… có thói quen rất “tốt”, tức là “điều tốt đẹp giao về cho tôi”. Thấy điều gì tốt đẹp, liền nói “cho tôi nhé”. Thật ra, đấy là biểu hiện khá rõ rệt của tánh người. Trong tập quán của con người, “điều tốt đẹp hãy giao cho tôi” là một thói quen, chúng ta sẽ tự giác hay chẳng tự giác, nhận thức như thế đó!
(Kinh) Bỉ kiến chư Phật như nhật luân, pháp giới thế gian đĩnh siêu xuất. Kỳ tâm thanh tịnh, nhãn diệc minh, tuy cần tinh tấn, thường tại Định.
(經)彼見諸佛如日輪,法界世間挺超出。其心清淨眼亦明,雖勤精進常在定。
(Kinh: Trông thấy chư Phật như mặt trời, vượt thoát pháp giới các thế gian. Cái tâm thanh tịnh, mắt cũng sáng, tuy siêng tinh tấn, thường trong Định).
Người tinh tấn dùng sức ít, trụ trong an lạc, trụ trong khinh an, chớ nên dùng thống khổ trần lao để tinh tấn. Chư vị thiện tri thức ơi! Nguyện cho chúng ta hành pháp trong tương lai, thường được khinh an, thường hưởng pháp lạc.
(Kinh) Bỉ đắc đa văn bất khả thuyết, chứng thử tam-muội chân tư duy.
(經)彼得多聞不可說,證此三昧真思惟。
(Kinh: Đạt được đa văn chẳng thể nói, chứng tam-muội này, chân tư duy).
Trong giáo ngôn của Như Lai, có chánh tư duy, có Thiền Định tư duy, có tư duy chẳng thể nghĩ bàn. Đương nhiên là cũng có tư duy với tri kiến chẳng chánh đáng của phàm phu. Nói pháp tắc như thế, muốn cho hết thảy hữu tình phát khởi chánh tư duy chánh định. Những điều được nói trong phẩm Quán Sát này đều là tư duy đúng lý, dùng sự tiến nhập “thường ở trong Định” làm Định tướng để tư duy, tức là chánh tư duy thuộc về tam-muội. Trong các lời dạy theo thứ tự trong giáo ngôn của đức Phật thì Giới, Định, Huệ chính là pháp tắc thuộc về giáo ngôn tăng thượng rõ ràng nhất: Do Giới sanh Định, từ Định sanh Huệ. Huệ ấy chân thật vô nhiễm, là huệ thanh tịnh. Nếu chẳng có chánh tư duy quan sát thuộc tam-muội định lực ấy, chúng ta sẽ thường dựa theo tâm trí phàm phu để tư duy, quan sát. Do đó, chẳng đạt được sự thiện xảo của chánh tư duy, lời lẽ thốt ra và nghiệp tướng chúng ta phải hứng chịu đều chẳng chánh đáng, cũng có nghĩa là khó thể chánh tư duy, khó thể nói năng chánh đáng được!
(Kinh) Nhược dĩ bất kiến chứng tam-muội, nhất thiết manh giả ưng chứng tri.
(經)若以不見證三昧,一切盲者應證知。
(Kinh: Nếu coi chẳng thấy là chứng tam-muội, hết thảy kẻ mù đều chứng biết).
Ở đây, đức Thế Tôn nhắc nhở chúng ta: Chẳng phải là do không thấy Phật mà đắc tam-muội, mà cũng chẳng phải là do thấy Phật mà đắc tam-muội! Cái tâm chớ nên đắm nhiễm, chỉ lấy chuyện thấy Phật làm phương tiện tăng thượng. Tuy thấy Phật mà chẳng nhiễm, đó là sức tam-muội chân thật. Như đức Thế Tôn đã nêu một thí dụ ở đây, nếu coi “chẳng thấy” là chứng tam-muội, bất luận là vì đọa vào lý Không, do tà kiến ngoan không, do tà kiến đoạn diệt mà tư duy, hay là vì đọa vào lý Hữu, dùng chấp trước tình kiến, hay do sự tư duy của chính mình, [hễ có các thứ tư duy chẳng chánh đáng] như thế, sẽ đều chẳng thể liễu giải, chẳng thể hành trì môn tam-muội này! Nếu [chẳng thấy mà] có thể liễu giải thì hết thảy kẻ mù đã sớm chứng đắc tam-muội rồi. Vì thế, hãy nên có chánh tư duy.
Ở đây, đức Thế Tôn cũng khích lệ chúng ta “thấy Phật mà chẳng nhiễm”, được nghe pháp phương tiện, thiện căn chín muồi, đích thân chứng pháp tánh, dùng tánh Không duyên khởi làm pháp tắc chân thật để lựa chọn. Tức là cái được gọi là “lâm giáo quyết trạch”, nghĩa là đích thân đối trước các giáo huấn mà chọn lựa chân chánh, chẳng phải là hời hợt dùng tình kiến và sự nghĩ nhớ của chính mình để tư duy chọn lựa. Nếu chọn lựa [theo kiểu hời hợt] như thế ấy, sẽ có rất nhiều thay đổi: Hễ gặp duyên bèn dao động, gặp duyên bèn biến đổi. Tất cả tam-muội được đích thân chứng đắc là sự chọn lựa mười phần trọng yếu bằng chánh kiến, mà cũng là đích thân chứng được công đức và lợi ích.
(Kinh) Diệc bất dĩ kiến phi bất kiến, thị trung ngoại đạo giai mê một.
(經)亦不以見非不見,是中外道皆迷沒。
(Kinh: Cũng chẳng do thấy, chẳng không thấy, ngoại đạo đều mê muội chỗ này).
Đối với chỗ Thấy và Chẳng Thấy, ngoại đạo đều đọa vào kiến chấp Nhị Biên. Kẻ thấy sẽ tự nói công dụng của cái Thấy, kẻ chẳng thấy sẽ nói cái Lý của việc chẳng thấy; nhưng trong giáo ngôn thanh tịnh vô ngại của đức Phật Thế Tôn, đối với Thấy và Chẳng Thấy, đều đạt được sức tự tại. Nếu chẳng thấy, do thiện căn tăng thượng thành thục, sẽ tương ứng trông thấy.
Cái Thấy ấy thật sự là căn bản của vô kiến, tức cái được gọi là “căn bản của Không Kiến”: Được thấy chư Phật mà chẳng đắm nhiễm, nói đủ loại diệu pháp, lợi ích thế gian rộng khắp, nhưng thật sự chẳng có gì để thấy. “Thật” ở đây là thật sự không có một pháp nào để có thể đạt được, chẳng có một vật nào để có thể nhiễm. Cho đến chẳng có vị Phật nào để có thể đắc, nhưng lợi ích rộng khắp thế gian. Chỗ này rất then chốt, chính là chỗ thiện xảo vận dụng dung thông Tục Đế và Chân Đế của chư Phật. Có nhiều chúng sanh bị mê mất ở chỗ này, đọa trong tri kiến đối đãi nhị nguyên của ngoại đạo, trong tâm chẳng thể khế hợp, chẳng thể vận dụng thiện xảo nơi pháp. Vì thế, đối với Lý, tự nói cái Lý; đối với Sự thì mỗi chuyện đều chẳng tương ứng. Do đó, chư Phật Như Lai xuất hiện trong cõi đời, tuyên thuyết, giáo hóa, chẳng ngoài khiến cho chúng ta thật sự vận dụng hiện duyên thanh tịnh này, chẳng đắm nhiễm trong hết thảy hiện duyên, khiến cho chúng sanh thoát khỏi nỗi mê hoặc nơi hiện duyên, đạt được giải thoát tự tại.
Ngoại đạo đều do tri kiến nhị nguyên đối đãi mà nẩy sanh mê muội, tâm trí kém hèn. Chúng ta có thể thấy: Trong đủ loại giáo ngôn của ngoại đạo, không gì chẳng phải là có một Thượng Đế, không gì chẳng đề xướng một đấng chủ đạo, có quyền uy thống trị tuyệt đối để thống trị, tạo tác, duy trì thế gian này! Phật pháp chẳng tuyên thuyết, giáo hóa như thế! Chư Phật thật sự không có gì để có thể nhiễm, chỉ lắng nghe giáo hóa của các Ngài, chọn lựa pháp ích, đích thân thành tựu, tức là thành tựu cái được gọi là “quán chiếu để trở về cội nguồn thanh tịnh”. Do vậy, tâm tánh tự nhiên thông sáng, chẳng tạo tác, quang minh pháp tánh chiếu trọn khắp pháp giới, tự nhiên lợi ích rộng khắp hữu tình. Ở chỗ này, nếu chẳng lắng nghe giáo hóa của đức Phật, phần nhiều sẽ suy lường hư vọng, lập ra pháp tắc hư giả, chẳng thể thật sự tương ứng, chẳng thể thật sự lợi ích thế gian.
(Kinh) Thường ly tướng tưởng nhi tư duy, kiến bỉ chư Phật thanh tịnh tâm.
(經)常離相想而思惟,見彼諸佛清淨心。
(Kinh: Thường tưởng lìa tướng để tư duy, thấy tâm thanh tịnh của chư Phật).
Ly tướng tưởng được thấy Phật. Thấy Phật mà chẳng lìa tư duy thanh tịnh, [đó là] ly tướng tưởng. Vì sao? Chư Phật Như Lai đều dùng tâm trí “Không, tịnh, vô nhiễm” để hiện thân tướng vi diệu trong mười phương cõi nước, nói pháp tắc vi diệu, độ thoát hết thảy hữu tình đắm nhiễm, cho nên ly tướng thấy Phật. Kinh Kim Cang trực tiếp nhắc nhở chúng ta: “Chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai” (Thấy các tướng chẳng phải là tướng, sẽ thấy Như Lai). Lời thành thật, lời chân thật như thế khiến cho chúng ta có pháp để nương theo, ví như khẩu quyết vậy, trực tiếp tiến nhập chỗ công đức chân thật của pháp tồn tại. Nếu thấy tướng mà đắm nhiễm, sẽ bị các tướng che lấp. Nếu thấy tướng mà sợ tướng, cũng chẳng đạt được lợi ích. Vì thế, chỗ này vi diệu rất sâu, chẳng thể nghĩ bàn! Nếu nhằm lúc suy nghĩ, sẽ có Nhị Biên để nương vào. Nếu là lúc chẳng nghĩ bàn, quang minh hiện tiền, ngay lập tức chiếu kiến. Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay, nương vào cái trí tư duy và cái tâm tư duy, sanh ra pháp tắc nhị nguyên đối đãi đã rất thuần thục. Nếu có một niệm buông bỏ kiểu tư duy đối đãi ấy, tự nhiên quang minh nơi tâm trí sẽ chiếu trọn, thấy trọn, chẳng đắm, chẳng nhiễm! Trong pháp tắc Kiến Phật tam-muội này, sự tu tập cũng giống như thế, muốn khiến cho chúng sanh vượt thoát sự trói buộc bởi Sở Tri Chướng từ vô thỉ cho tới nay, sẽ chứng trọn vẹn công đức chẳng thể nghĩ bàn của Kiến Phật tam-muội, hay còn gọi là Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội!
(Kinh) Như thị kiến dĩ nhất thiết quán, tư nhân tốc thành thử tam-muội.
(經)如是見已一切觀,斯人速成此三昧。
(Kinh: Đã thấy hết thảy quán như thế, người ấy mau thành tam-muội này).
Hai câu kệ này vốn mười phần đẹp đẽ! Ly tướng tư duy, thấy cái tâm thanh tịnh của chư Phật. Ly tướng tư duy, trông thấy chư Phật mà tâm chẳng nhiễm. Quả thật là vi diệu rất sâu, chẳng nhờ vào tư duy, ngưng dứt tạo tác, liền dấy lên diệu dụng. Chư vị thiện tri thức ơi! Khi chúng ta niệm Phật, nếu dùng cái trí rành rẽ, phân minh, nếu hiểu rành rẽ rõ ràng, hiểu rõ cái hạnh vô sở đắc, sẽ tự nhiên hiểu rõ tự tâm, chẳng đắm nhiễm, sẽ có thể thấy chư Phật. Đã thấy chư Phật, bèn quay lại thực hiện sự thủ hộ tâm trí thanh tịnh.
Người đời phần nhiều hễ phá tướng, sẽ liền trở thành ngoan không. Nếu thấy tướng, sẽ liền đắm nhiễm. Hai loại Biên Kiến ấy đã trở thành tập quán tư duy và tập quán ý thức đắm nhiễm của bọn chúng sanh chúng ta, thậm chí là tập quán vận dụng tạo nghiệp. Thói quen ấy khiến cho chúng sanh luân hồi chẳng ngơi trong lục đạo bao kiếp lâu xa, chẳng có cơ hội thoát lìa! Do vậy, chứng đắc tam-muội này quả thật đã phá trừ các tướng vô nhiễm, khiến cho chúng sanh giải thoát, thấy diệu tướng và thiện căn chín muồi của chư Phật, diệu dụng vô cùng, tuy vô cùng mà vô nhiễm, tự đạt được phương tiện trí huệ, dùng pháp tắc ấy lợi ích thế gian rộng khắp, chẳng sanh tà kiến. Chư vị thiện tri thức ơi! Chúng ta nghe nói giáo ngôn thanh tịnh rất sâu của chư Phật, đừng sanh ngờ vực, hãy nên khéo tư duy, khéo quan sát, hãy nên siêng năng tư duy, siêng năng quan sát, đừng rơi vào tri kiến đắm nhiễm từ vô thỉ tới nay của chính mình, cho đến cưỡng chấp Biên Kiến, khiến cho cái tâm đọa lạc.
(Kinh) Bỉ vô địa, thủy cập hỏa, phong, diệc phi Không, Giới, hiện tiền trụ. Nhược dục quán sát nhất thiết Phật, đương tưởng xử tòa diễn diệu âm.
(經)彼無地水及火風,亦非空界現前住。若欲觀察一切佛,當想處座演妙音。
(Kinh: Chẳng có địa, thủy, cùng hỏa, phong, cũng chẳng Không, Giới, hiện tiền trụ. Nếu muốn quan sát hết thảy Phật, tưởng Phật trên tòa thuyết diệu âm).
“Nhược dục quán sát nhất thiết Phật, đương tưởng xử tòa diễn diệu âm” (Nếu muốn quan sát hết thảy Phật, hãy tưởng các Ngài đang ngự trên pháp tòa, diễn nói âm thanh mầu nhiệm): Đấy là Bồ Tát hành pháp mà chẳng hoại Sắc xứ, nhận lấy Sắc mà chẳng nhiễm, thiện căn chín muồi, mỗi phương diện đều hiển lộ oai đức.
(Kinh) Như ngã kim nhật tuyên diệu pháp, tâm nhạo pháp giả đổ ngã thân. Bỉ ưng vô phục dư tư duy, duy đương tưởng Phật thuyết pháp sự.
(經)如我今日宣妙法,心樂法者睹我身。彼應無復餘思惟,唯當想佛說法事。
(Kinh: Như ta nay nói các pháp mầu, kẻ tâm thích pháp thấy thân ta. Hãy nên chẳng còn nghĩ gì khác, chỉ nên tưởng chuyện Phật thuyết pháp).
Chỉ quán diệu tướng thuyết pháp, công đức thuyết pháp, lợi ích do thuyết pháp của đức Thế Tôn, vô tướng và bất tướng; khi đó, thiện căn sẽ thành thục, thấy các tướng mà vô nhiễm, hoan hỷ nghe pháp.
(Kinh) Như thị chuyên niệm mạc tha quán, vị cầu nhược tư đa văn cố. Nhất tâm quán ngã thuyết thử Định, tổng trì chư Phật chi sở tuyên.
(經)如是專念莫他觀,爲求若斯多聞故。一心觀我說此定,總持諸佛之所宣。
(Kinh: Chuyên niệm như thế, đừng quán khác, vì cầu đa văn như thế đó. Nhất tâm quán ta nói Định này, tổng trì lời dạy của chư Phật).
Kinh Kim Cang nói tâm quá khứ, hiện tại, vị lai đều chẳng thể được, ba tâm như thế đều chẳng thể được, quý vị dùng cái tâm gì? Biết gì? Quán gì? Hành gì? Niệm gì? Ở đây, đức Thế Tôn nói “cầu đa văn” tức là muốn nghe pháp, “đa kiến Phật” (thấy nhiều Phật) tức là chánh tư duy. Khi thiện căn chín muồi, bèn muốn “thấy Phật, nghe pháp” để thành thục thiện căn. Do đó, tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai đều chẳng thể được, nhưng cái tâm nghe pháp hòng thủ hộ tâm trí thành thục thiện căn, tức là phương tiện để khế nhập tâm trí thanh tịnh, chẳng phải là nhân duyên khác. Vì sao? Nương theo Phật nghe pháp, sẽ vượt thoát tâm quá khứ, tâm hiện tại, và tâm vị lai. Ba cái tâm ấy chính là tâm luân hồi, tâm đọa lạc, tâm vô minh, tâm ngu si chẳng thể tự thoát ra được của chúng sanh. Ba tâm ấy tiếp nối, chính là do được hết thảy chúng sanh thủ hộ. Nếu chúng ta ưa thích thấy Phật, nghe pháp, ba tâm ấy tự nhiên phá trừ. Vì sao vậy? Thấy Phật, nghe pháp, thiện căn chín muồi, nghe đức Phật nói giáo ngôn về Đệ Nhất Nghĩa Đế rất sâu, tự nhiên thoát khỏi sanh tử luân hồi và tạo tác hư vọng.
(Kinh) Vô hữu nhất Phật tại quá khứ, diệc vô hiện thế, cập đương lai. Duy thử thanh tịnh vi diệu Thiền, bỉ bất khả ngôn chứng năng thuyết. Ngã ư tam giới vô thượng tôn, vị lợi thế gian cố đặc xuất. Niệm chứng chư Phật Bồ Đề cố, tuyên thử tam-muội vô đẳng luân. Nhược dục thân lạc cập tâm lạc, cầu Phật công đức bất tư nghị. Nãi chí chứng bỉ diệu Bồ Đề, yếu đương tu thử thắng tam-muội.
(經)無有一佛在過去,亦無現世及當來。唯此清淨微妙禪,彼不可言證能說。我於三界無上尊,爲利世間故特出。念證諸佛菩提故,宣此三昧無等倫。若欲身樂及心樂,求佛功德不思議。乃至證彼妙菩提,要當修此勝三昧。
(Kinh: Chẳng có một Phật trong quá khứ, cũng chẳng hiện tại và tương lai. Chỉ thanh tịnh vi diệu Thiền này, chẳng thể nói “chứng” hay diễn tả. Ta là vô thượng trong tam giới, vì lợi thế gian, riêng xuất thế. Vì niệm chứng chư Phật Bồ Đề, mà nói tam-muội khôn sánh này. Nếu muốn thân tâm đều vui sướng, cầu công đức Phật chẳng nghĩ bàn. Cho tới chứng đắc diệu Bồ Đề, phải tu tam-muội thù thắng này).
“Nhược dục thân lạc cập tâm lạc, cầu Phật công đức bất tư nghị. Nãi chí chứng bỉ diệu Bồ Đề, yếu đương tu thử thắng tam-muội” (Nếu muốn thân tâm đều vui sướng, cầu công đức Phật chẳng nghĩ bàn. Cho tới chứng đắc diệu Bồ Đề, phải tu tam-muội thù thắng này): Đối với sự vui sướng và pháp lạc thật sự nơi thân tâm, hết thảy những người đích thân chứng pháp tắc tam-muội sẽ chẳng thể dùng lời lẽ để diễn tả trong thế gian được. Chư Phật Như Lai do muốn lợi lạc chúng sanh mà lập ra đủ loại ngôn thuyết, đủ loại thí dụ, khiến cho chúng sanh thuận theo mà khế nhập, đích thân chứng đạt sự ngưỡng mộ và yêu thích tam-muội, cho đến đích thân chứng nhập tam-muội, thọ dụng các thứ niềm vui pháp vị nơi thân tâm, xa lìa nỗi khổ vì vô minh bức bách thân tâm, khiến cho thân tâm thật sự trọn đủ trí huệ và thiện xảo. Như thế cũng là chẳng uổng thọ nhận tấm thân này, chẳng cô phụ cơ chế và nhân duyên có khuyết điểm nơi sanh mạng này!
(Kinh) Dục tịnh thâm quảng đa văn hải, vị chúng sanh cố đương cần cầu.
(經)欲淨深廣多聞海,爲衆生故當勤求。
(Kinh: Muốn tịnh biển đa văn sâu rộng, vì các chúng sanh hãy siêng cầu).
Hết thảy các thiện tri thức học Phật đều nên dùng Tứ Hoằng Thệ Nguyện để siêng năng thủ hộ tự tâm, vượt thoát những cái gọi là Ngã, chấp trước Ngã Sở (Cái thuộc về ta), cùng với chấp trước về ta, và pháp của ta. “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” là sự hướng dẫn căn bản. Dùng điều đó để hướng dẫn, hòng đoạn sạch hết thảy các phiền não, hòng tu tập trọn vẹn hết thảy các pháp tắc, hòng thành tựu Vô Thượng Bồ Đề. Vì vậy, để độ chúng sanh thành Phật, vì lợi ích thế gian mà thành Phật. Đấy chính là chánh nhân thành Phật được hết thảy chư Phật tuyên diễn, là tâm trí mà hết thảy chúng sanh đã mai một.
Hết thảy hữu tình, bất luận trong pháp tắc thế gian, hay xuất thế gian, phần nhiều vì cái Ta, chẳng biết chỗ này chính là căn bản luân hồi của hết thảy thế gian. Nếu càng thêm siêng năng tu trì, càng thêm siêng năng thủ hộ [các chấp trước ấy], cũng sẽ tăng thêm cái nghiệp luân hồi và cái duyên luân hồi. Vì thế, nơi nhân địa, chư Phật Như Lai mỗi vị đều phát diệu nguyện, nguyện thù thắng để độ thoát chúng sanh, do cứu vớt chúng sanh mà lập ra thệ nguyện rộng lớn, thề tu hết thảy các pháp, thề tu hết thảy đạo, thề hành hết thảy thiện xảo, thề đoạn hết thảy phiền não, do muốn độ chúng sanh, do muốn thật sự lợi ích thế gian. Tu pháp Vô Ngã thật sự là một điểm căn bản trọng yếu trong Phật pháp, cũng chính là cái được gọi là “tu trì Bồ Đề tâm chân chánh”, hoặc có thể nói là “tu trì pháp tắc Bồ Đề chân chánh”. Hết thảy phàm phu chẳng thể vượt qua chỗ này, mai một ở chỗ này, mê mất ở chỗ này, bị trói buộc ở chỗ này, thực hành cái được gọi là “tu trì cái Ta, pháp tắc về cái Ta” v.v… Đọa lạc trong Ngã Chấp, Ngã Sở (cái của ta), đắm nhiễm tướng thế gian. Nhưng hết thảy bậc thánh, bậc trí đã sớm thấu đạt sâu xa vô ngã, vô thường, tịch diệt, ấn khế tự tâm nơi pháp tánh, rốt ráo hiểu rõ pháp vô tự tánh trong hết thảy các hiện duyên, quang minh cội nguồn tùy thời chiếu rạng hết thảy sự việc và hết thảy các hình tướng trong cõi đời, rốt ráo vận dụng hai pháp Bi và Trí.
Chúng ta nói người tu môn tam-muội này chẳng hoại Sắc mà được thấy chư Phật, nghe pháp vi diệu rất sâu mà xa lìa các tướng. Do xa lìa các tướng, thiện căn thấy Phật thành thục, do nghe diệu pháp rất sâu, hành rộng khắp các pháp, lợi ích trọn khắp thế gian, đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Nói “chẳng thể nghĩ bàn” trọn chẳng phải là khiến cho hữu tình trơ lỳ, hoặc có tác dụng khiến cho tự tâm mê muội như nha phiến (thuốc phiện), mà là đích xác dấy khởi một pháp có thể khiến cho chúng ta buông xuống chấp trước nặng nề, chấp trước mê muội, trở về tâm trí sẵn có, trong tâm trí thanh tịnh vận dụng điều thường được gọi là “thiện xảo chẳng nghĩ bàn”, cũng tức là thiện xảo chẳng tạo tác, mà cũng là thiện xảo xa lìa đối đãi, mà cũng là thiện xảo tùy thuận trí huệ quang minh của chư Phật để an trụ. Đối với sự tùy thuận ấy, nếu có chúng sanh một niệm tùy thuận, công đức ấy chư Phật tán thán chẳng thể tận, dẫu một kiếp, hai kiếp, hoặc nhiều kiếp, vẫn khó tán thán cùng tận! Vì sao vậy? Do tâm trí ấy ngang bằng với chư Phật!
(Kinh) Bỉ ưng tốc khử chư dục trần, yếu đương tu thử thắng tam-muội. Nhược dục nhất sanh kiến đa Phật, kiến dĩ cung kính phục tư tuân.
(經)彼應速去諸欲塵,要當修此勝三昧。若欲一生見多佛,見已恭敬復諮詢。
(Kinh: Hãy nên mau trừ các dục trần, phải tu tam-muội thù thắng này. Nếu muốn một đời thấy nhiều Phật; thấy rồi cung kính, lại thưa hỏi).
“Nhược dục nhất sanh kiến đa Phật, kiến dĩ cung kính phục tư tuân” (Nếu muốn một đời thấy nhiều Phật; thấy rồi, cung kính lại thưa hỏi): Ở đây, đức Thế Tôn hướng dẫn chúng ta trong một đời, chẳng lìa khỏi thế giới này, mà có thể thấy nhiều vị Phật ở các phương khác. Đã gặp gỡ, hãy nên cung kính thưa hỏi, thưa hỏi các thứ pháp hòng trừ các nỗi nghi!
(Kinh) Bỉ ưng tốc ly vật sanh trước, yếu đương quán thử diệu tam-muội.
(經)彼應速離勿生著,要當觀此妙三昧。
(Kinh: Hãy nên mau lìa, đừng chấp trước, phải quán tam-muội nhiệm mầu này).
Dẫu được nghe pháp, chớ sanh đắm nhiễm. Hãy nên quán pháp tắc tam-muội vi diệu rất sâu này có công đức chân thật chẳng thể nghĩ bàn!
(Kinh) Thị xứ vô dục, phục vô sân, diệc vô ngu si dữ tật đố. Hựu vô vô minh cập nghi võng, yếu đương trụ thử thâm tịch Thiền.
(經)是處無慾復無瞋,亦無愚癡與嫉妒。又無無明及疑網,要當住此深寂禪」。
(Kinh: Chỗ này vô dục lại chẳng sân, cũng chẳng ngu si và ghen tỵ. Lại chẳng vô minh và lưới nghi, hãy nên trụ Thiền thâm tịch này).
Đối với nội dung của sức tam-muội này, đức Thế Tôn đã dùng thí dụ, dùng ngôn thuyết để hướng dẫn chúng ta xa lìa tạo tác, xa lìa nghĩ bàn, xa lìa đối đãi, khiến cho chúng ta tùy thuận vô tạo tác, tùy thuận chẳng đối đãi, tùy thuận chẳng nghĩ bàn, thanh tịnh an trụ, trong tâm phát sanh khinh an, thật sự tăng cao pháp lạc nơi thân tâm, xa lìa khổ hoạn tạo tác!
Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh
giảng ký 1
[1] Tam-muội-da giới (Samaya) là một loại giới pháp của Mật Tông, còn gọi là Phật Tánh Trí Tam-muội-da giới, hoặc Bí Mật Tam-muội-da giới, dùng trí huệ và đức tướng sẵn có của chúng sanh làm giới pháp, quy nhiếp toàn bộ giới pháp của Hiển giáo (ngũ giới, bát giới, thập giới…) vào trí huệ của chư Phật. Phẩm Cụ Duyên trong kinh Đại Nhật giảng: “Đó là tam thế vô ngại trí giới, bao gồm bốn trọng giới, thường chẳng nên xả pháp, đừng lìa bỏ Bồ Đề tâm, đừng keo tiếc hết thảy các pháp, đừng chẳng làm chuyện lợi ích chúng sanh”. Sách Vô Úy Tam Tạng Thiền Yếu lại triển khai thành mười giới, như chẳng lui sụt Bồ Đề tâm, chẳng xả Tam Bảo, chẳng sanh tà kiến, chẳng tự xưng ta đã trọn đủ vô thượng đạo v.v… Đại Nhật Kinh Sớ lại có cách diễn giải khác, chẳng hạn như chẳng nên xả chánh pháp, chẳng báng hết thảy giáo pháp tam thừa, chẳng sanh tà kiến báng bổ không có nhân quả, chẳng bố thí vật gây hại cho người khác…
[2] Kim Mao Hống (金毛犼), còn gọi là Đặng Long, Vọng Thiên Hống, Triều Thiên Hống, là một thần thú có hình dáng giống như kỳ lân, rất dũng mãnh, hung tợn, có thể đánh nhau ngang sức với rồng, ăn óc rồng. Theo truyền thuyết, nó là một trong các đứa con của long vương, có tập quán canh gác. Do nó hay ngửa mặt lên trời, rống to rúng động trời đất, cho nên gọi là Vọng Thiên Hống hay Triều Thiên Hống. Vì thế, nó thường được đắp trên các trụ đá (hoa biểu) quanh các đền đài, cung điện, lăng tẩm, với ước nguyện tấu lên thiên đình ước vọng của con người, và trấn áp xua đuổi tà khí, quỷ quái. Có lẽ hình thức đắp các con nghê (giống như sư tử) hay con sấu trên các cột đá tại các kiến trúc cổ của Việt Nam cũng là hình thức khác của Hống. Theo cổ thư, Hống có mười đặc điểm: Sừng hươu, đầu lạc đà, tai mèo, mắt tôm, mõm lừa, lông như sư tử, cổ rắn, bụng như con Thận (một loài sò lớn ngoài biển, hơi thở của nó có thể tạo thành huyễn cảnh lâu đài, thành thị trên biển), vảy như cá chép vàng, vuốt chim ưng, chân sau giống như chân hổ. Theo Thuật Dị Ký, Hống có thể phun lửa gần cả trăm mét.
[3] “Bổn tôn” trong câu này chính là ý niệm chấp trước, cho rằng có một cái Thật Ngã, là Ngã Chấp, ngỡ bản ngã của chính mình tôn quý, cho là mình chứng đắc cao hơn người khác. Còn bổn tôn trong câu “an lập bổn tôn công đức thành tựu” trong đoạn trước chính là nói về chân tâm thanh tịnh, là Phật Tánh, là tạng tánh. An trụ bổn tôn là nhận biết chính mình sẵn có Phật tánh, chứng nhập chân tâm Thật Tướng v.v…
[4] Cửu bộ giáo pháp (Navāṅga) tức là cách phân loại kinh điển Phật giáo theo truyền thống của Ba Lỵ Luật Tạng (Luật Tạng Nam Truyền bằng tiếng Pali) dựa theo thể loại kinh điển. Tức là Khế Kinh (Sutta), Ứng Tụng (Geyya, kỳ dạ), Ký Thuyết (Veyyākaraṇa), Kệ Tụng (Gāthā, già đà), Tự Thuyết (Udāna, ưu đà na), Như Thị Ngữ (Itivuttaka, y đế mục đa), Bổn Sanh (Jataka), Vị Tằng Hữu Pháp (Abbhutadhamma), và Trí Giải (Vedalla, ngài Huyền Trang dịch chữ này là Quảng Phá). Theo Ma Ha Tăng Kỳ Luật (do ngài Pháp Hiển dịch vào thời Đông Tấn), danh xưng của cửu phần giáo như sau: Tu Đa La, Kỳ Dạ (tương ứng với Ứng Tụng), Thọ Ký (tức Ký Thuyết), Già Đà, Ưu Đà Na (tương ứng với Tự Thuyết), Như Thị Ngữ, Bổn Sanh, Phương Quảng (tương ứng với Trí Giải), và Vị Tằng Hữu.
[5] Theo sách Đại Phương Đẳng Đại Tập Kinh Hiền Hộ Phần Thông Nghĩa của pháp sư Thích Trí Dụ, đã giảng hai câu này như sau: “Kẻ ngu tưởng hình bóng trong gương là thật, điên đảo chấp trước. Chẳng biết hình bóng trong gương là hư vọng, chẳng thật. Kẻ ngu đó bị lửa dục thiêu đốt, thật ra lòng dục ấy chẳng phải do nữ nhân trong gương dấy lên, mà là do cứ chấp nữ nhân là thật, tâm dâm dục của hắn dấy lên vì do chính cái tâm điên đảo của chính mình tạo ra”.
[6] Theo cách diễn giải trong bộ Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần Thông Nghĩa, chữ Diễm ở đây phải hiểu là Dương Diễm (陽焰) tức ảo ảnh xuất hiện khi nắng gắt, hơi nóng khiến cho các lớp không khí gần mặt đất nhìn từ xa sẽ loang loáng như có nước.