Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh
giảng ký 1
大方等大集賢護經講記
慈法法師
Chủ giảng: Pháp sư Từ Pháp
Địa điểm: Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang
(Kinh) Vãng cổ chư Phật cập tương lai, hiện tại nhất thiết nhân trung thắng. Nhữ đẳng nhất tâm cung kính lễ, diệc thường chuyên niệm, tu cúng dường.
(經)往古諸佛及將來,現在一切人中勝。汝等一心恭敬禮,亦常專念修供養。
(Kinh: Chư Phật xưa, nay, và tương lai, trong hết thảy người thù thắng nhất. Các ông nhất tâm cung kính lễ, cũng thường chuyên niệm, tu cúng dường).
Lễ bái và cúng dường, rất là trọng yếu! Sự cúng dường ấy không chỉ là nói suông, mà là từ tâm địa sanh khởi sự ngưỡng vọng và yêu thích. Có người nói: “Con người tôi tham tiền, keo kiệt, muốn thấy Phật, được hay không?” Nhất định là không được! Quý vị còn có cái giữ lại, tức là còn giữ chặt nghiệp tướng, quý vị sẽ thường trông thấy nghiệp tướng của chính mình, chẳng thấy thân tướng diệu sắc thanh tịnh của chư Phật. Tôi thường nghe một số Bồ Tát nói: “Ôi chao! Người khác nói họ thấy Phật, thấy Bồ Tát này nọ. Tôi hằng ngày lạy Phật, niệm Phật, cớ sao chẳng thấy?” Trước hết là do chẳng có cái tâm cung kính. Bản thân những câu nói đó chính là chẳng có tâm cung kính. Vì sao? Nếu quý vị thật sự dốc lòng cung kính, căn bản là sẽ chẳng ăn nói kiểu đó! Quý vị sẽ tôn trọng cái tâm của chính mình, dù thấy hay chẳng thấy, cái tâm cung kính đã là chân thật. Tâm cung kính sẽ chẳng có chuyện đối đãi [thấy mình đã] dốc lòng, làm sao có chuyện quý vị suy xét chính mình có được hồi báo hay là không! Do vậy, đánh mất cái tâm cung kính, thì đa số là lợi ích và hiệu quả sẽ bị khuất lấp!
(Kinh) Nhữ nhược cúng dường bỉ chư Phật, ưng dĩ hoa, hương, cập đồ hương. Huệ thí mỹ thực khởi tịnh tâm, chứng thử tam-muội thù phi nan!
(經)汝若供養彼諸佛,應以華香及塗香。慧施美食起淨心,證此三昧殊非難。
(Kinh: Nếu ông cúng dường chư Phật ấy, nên dùng hoa, hương và hương bôi. Khéo thí món ngon, khởi tâm tịnh, chứng tam-muội ấy thật chẳng khó).
Ở đây, đức Thế Tôn bảo chúng ta: Chẳng phải là chuyện khó! Vì quý vị kiền thành, điều phục, nhu hòa, liên tục ca ngợi, cúng dường, quan sát, tùy thuận, trong lúc ấy, tuy không thấy chư Phật, Phật đã hay biết. Vì lẽ nào? Do tâm trí điều hòa, nhu thuận, cung kính cúng dường, tâm trí tự đạt được điều phục, nhu thuận. Dẫu chưa thấy Phật mà lợi ích do thấy Phật đã hiện tiền! Nếu quý vị chẳng cầu được báo đền thì được rồi! Có người nói: “Tôi ở đây ngoài lễ bái, tán thán, ca ngợi, còn có cái tâm cầu thấy Phật, có được hay không?” Hễ dấy lên cái tâm ấy, hãy buông xuống, sẽ là như thật cúng dường, tán thán, tùy thuận. Đó là có ý nghĩa. Nếu quý vị lạy Phật hai lạy, đã nói: “Phật ơi! Sao Ngài chẳng hiện tiền?” Đó là quý vị nói với ai vậy? Nói điều kiện gì vậy? Dẫu rải các cánh hoa ở đó, vẫn là người khác mua cho quý vị, quý vị ngỡ chính mình có thể thấy Phật ư? Quý vị có một phần tâm chân thành thật sự hay chăng? Chân thành là gì? Nó sanh khởi từ tâm trí chẳng đối đãi! Trong trước tác của Ngài, Thiện Đạo đại sư đã nói: “Nếu là người niệm Phật, dù thấy, hay không thấy [Phật hiện thân], đều biết ân Phật”. Chẳng thấy Phật cũng là Phật ân; thấy Phật cũng là Phật ân. Ở đây là tâm cung kính, tâm chân thật, tâm liên tục! Nếu quý vị chẳng có các tâm như thế, sẽ giống hệt như buôn bán, thời thời khắc khắc tính toán được mất, làm sao có thể thấy Phật cho được? Cái tâm ô nhiễm đã che lấp chính mình mất rồi!
(Kinh) Chư Phật tháp tiền tác chúng nhạc, loa, cổ, chinh, đạc, chư diệu âm. Hoan hỷ dũng dược nan xưng lượng, tất đương thành tựu thử tam-muội.
(經)諸佛塔前作衆樂螺,鼓鉦鐸諸妙音。歡喜踊躍難稱量,必當成就此三昧。
(Kinh: Trước tháp chư Phật, tấu các nhạc, ốc[1], trống, chiêng, linh, các diệu âm. Hoan hỷ, hớn hở, khó tính kể, ắt sẽ thành tựu tam-muội này).
Đối trước Phật, Bồ Tát, chúng ta có thật sự vui thích cúng dường hay không? Công khóa đều chẳng muốn tham dự. Niệm vài câu Nam-mô A Di Đà Phật đã nói: “Niệm nhanh lên cho xong!” Tán Phật, lễ mấy lạy liền cảm thấy mệt mỏi, nhọc nhằn, chẳng muốn lạy nữa. Vậy thì làm sao có thể thấy Phật cho nổi? Quý vị tán Phật để thân tâm của chính mình an lạc đấy chăng? Quý vị tán Phật ư? Chẳng phải là quý vị bồi đắp cảm nhận của chính mình ư? Quý vị mong muốn thấy Phật à? Quý vị thật sự chẳng màng sanh mạng để được thấy Phật à? Chẳng màng nghiệp duyên của chính mình để thấy Phật à?
Tôi gặp một số thiện tri thức tu hành Phật pháp, thật sự là bậc dũng mãnh. Thấy Phật đối với họ chẳng có gì là khó! Chớ nên giải đãi và buông lung, lại càng chớ nên chẳng [tu tập, ức niệm] liên tục. Người tu hành nơi đất Hán mắc cái tật lớn là không liên tục! Chẳng hạn như đến chánh điện bèn tu pháp, ra khỏi chánh điện, khỏi tu luôn! Chẳng tu pháp trong lúc ngoài công khóa thì lên chánh điện [dẫu có ra vẻ tu hành] cũng chẳng tu. Buổi tối [tu hành] rất sốt sắng, sáng ra lên chánh điện ngủ gục! Rời khỏi chánh điện thì “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, lên tụng niệm công khóa chẳng có ai hết. Như vậy mà có thể thấy Phật được sao? Đó là tu tự ngã, tự đại mà thôi, làm sao có thể thấy Phật cho nổi? Phật ở nơi đâu? Dùng gì để duy trì liên tục? Do vậy, trong tu pháp, chúng ta nhất định phải khéo nhận biết, khéo quan sát.
Hiện thời, trong hành pháp Ban Châu, xuất hiện cái duyên trái nghịch ở chỗ này. Trong tâm suy tưởng “ta phải tu pháp! Kệ xác đạo tràng!” Đạo tràng là để làm gì? Đối với đạo tràng, quý vị có chút yêu quý; tu pháp ở đó, sẽ có ý nghĩa. Nếu chẳng mến tiếc đạo tràng này mà muốn tu pháp ở đó, quý vị tu pháp bằng cách nào? Do cái tâm ấy, quý vị sẽ chẳng có cách nào tu pháp! Tâm ấy là tâm gì vậy? Màu xanh ư? Màu xanh ở chỗ nào? Do vậy, chúng ta học Phật, nhất định phải lôi ra cái tâm kiền thành, tâm cung kính. Sau đó, dù làm chuyện gì cho người khác, làm chuyện của đạo tràng, hay làm chuyện của chính mình, đều là đang tu hành! Nếu chẳng có cái tâm cung kính, tâm kiền thành, chính mình sẽ dưới là tu hành nhằm vun bồi ngã mạn, trên là tu buông lung, giải đãi, như thế thì làm sao có thể thành tựu cho được? Thừa sự giả dối, làm sao có thể thành tựu cho nổi? Các vị thiện tri thức ơi! Phải nhận thức cho đúng chỗ này! Hãy nhận thức cho đúng, vận dụng cho đúng nhé!
(Kinh) Khuyến tạo tôn tượng vô tỷ thân, thái họa trang nghiêm, cụ túc tướng. Kim sắc quang đại, vô hà cấu, chứng thử tam-muội lương phi nan. Các các thường niệm tu pháp thí, thanh trì cấm giới cập đa văn. Tinh cần, dũng mãnh, trừ giải đãi, đắc thử tam-muội chung bất cửu.
(經)勸造尊像無比身,彩畫莊嚴具足相。金色光大無瑕垢,證此三昧良非難。各各常念修法施,清持禁戒及多聞。精勤勇猛除懈怠,得此三昧終不久。
(Kinh: Khuyên tạo tôn tượng thân khôn sánh, vẽ vời trang nghiêm, tướng trọn đủ. Kim sắc sáng ngời, không tỳ vết, chứng tam-muội này thật chẳng khó. Ai nấy thường nghĩ tu pháp thí, trì giới thanh tịnh và đa văn. Siêng ròng, dũng mãnh, trừ giải đãi, đắc tam-muội này trọn chẳng lâu!)
Nay chúng ta ở đất Hán, tu pháp liên tục và dũng mãnh đúng là rất khó khăn. Thường là nói chính mình mong đạt được lợi ích ấy, vẫn là chẳng nỡ xả “thân, tâm, thế giới và cảm nhận” của chính mình. Rất nhiều người vì an nhàn mà tu pháp, vì danh dự mà tu pháp, vậy thì làm sao có thể thấy thiện xảo và công đức rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật cho được? Tức là thiện xảo và công đức vô ngã, thiện xảo và công đức bi trí. Bất luận tu pháp hay học tập, làm gì cũng chỉ vì một chữ Ngã! “Đổi đầu, thay mặt” chẳng lìa khỏi Ngã! Vậy thì quý vị làm sao có thể thấy Phật cho nổi cơ chứ!
(Kinh) Bất ưng tha sở hoài độc tâm, diệc xả thế gian chư dục sự. Thường dĩ từ bi niệm nhất thiết, tam-muội khởi viễn tại hiện tiền? Ư pháp sư sở thường tùy hỷ, tôn trọng cung kính đẳng Như Lai. Mạc sanh khinh mạn dữ xan tham, hỷ tâm cúng dường trừ tật đố. Vô lượng chư Phật cộng xưng dương, nhữ đản cần cầu tự đương đắc.
(經)不應他所懷毒心,亦舍世間諸欲事。常以慈悲念一切,三昧豈遠在現前?於法師所常隨喜,尊重恭敬等如來。莫生輕慢與慳貪,喜心供養除嫉妒。無量諸佛共稱揚,汝但勤求自當得。
(Kinh: Đừng ôm lòng ác với người khác, cũng xả thế gian các dục sự. Thường nghĩ từ bi với hết thảy, tam-muội hiện tiền há có xa? Đối với pháp sư luôn tùy hỷ, tôn trọng cung kính hệt Như Lai. Đừng sanh khinh mạn và keo tham, hoan hỷ cúng dường trừ ghen tỵ. Vô lượng chư Phật cùng xưng tán, ông chỉ siêng cầu, tự đạt được).
Đây chẳng phải là chuyện của người khác! Chúng ta đếm trân bảo mà mình sẵn có, tức là siêng năng tu pháp. Nếu vì pháp mà hy sinh thân mạng thì sắc thân này của chúng ta có ý nghĩa. Nếu không, thân này là thân đang tạo nghiệp.
Từ vô thỉ đến nay, chúng ta tạo ác nghiệp, như trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện đã nói: “Nếu [các ác nghiệp ấy] có hình sắc, pháp giới khó thể chứa đựng”. Thế gian khó thể chứa nổi, chẳng lẽ còn chưa đủ nhiều ư?
(Kinh) Thế Tôn trịnh trọng diễn thuyết tư, vị tu như thị diệu pháp cố.
(經)世尊鄭重演說斯,爲修如是妙法故。
(Kinh: Thế Tôn trịnh trọng nói điều đó, vì tu diệu pháp như thế ấy).
Do vậy, đức Thế Tôn trịnh trọng tuyên nói pháp tắc khó được, khó nghe như vậy, khiến cho chúng ta đạt được Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập dễ dàng! Nói giáo pháp như thật, khiến cho chúng sanh có thể vận dụng. Do vậy, được nghe pháp khó nghe, dễ đạt được hiệu quả và lợi ích nơi tam-muội, quả thật là bổn hoài xuất thế của chư Phật.
“Vị tu như thị diệu pháp cố” (Vì tu diệu pháp như thế): Đức Thế Tôn trịnh trọng tuyên nói giáo pháp này, xét ra, mục đích vẫn là khuyên hữu tình tu nơi hiện duyên. Vậy thì chúng ta học tập cũng giống như thế, chẳng có ý gì khác. Nếu chẳng vậy, chúng ta học tập siêng khổ nhọc nhằn, nhưng mọi người lãng phí thời gian, đúng là chẳng có ích gì cho cả mình lẫn người. Vậy thì hãy nên sám hối!
6. Phẩm thứ ba: Kiến Phật
Chúng ta tiếp tục dùng văn tự để ấn khế tâm địa, đừng dùng chi khác! Kinh điển đích xác là quang minh tạng để gột rửa tối tăm trong tâm chúng ta, là cam lộ để gột rửa chất độc trong tâm ta, cũng đích xác là pháp tắc để ấn khế tâm địa tốt nhất, trực tiếp nhất, là pháp tắc thỏa đáng nhất, đắc lực nhất để chỉ đạo cuộc sống khỏe mạnh và hoàn thiện, tiến nhập hoàn thiện, thành tựu hoàn thiện, an trụ hoàn thiện. Kinh điển là một thứ ngôn thuyết trí huệ nhất, từ bi nhất, thiện xảo nhất phun trào từ tâm địa của chúng ta, là âm thanh đẹp đẽ nhất lưu xuất từ tâm trí thiện xảo nhất, từ bi nhất, nghiêm cẩn nhất của mỗi chúng sanh, chẳng phải do kẻ khác nói. Bất quá là Phật tuyên nói, các vị đại Bồ Tát, thiện tri thức kết tập [các ngôn thuyết ấy (các lời dạy của Phật)], chúng ta lại dùng nó để dẫn đường, ấn khế tự tâm. Tâm tương ứng với tâm như thế, đèn này truyền sang đèn khác như thế, tuyệt đối chẳng có tơ hào tăng giảm. Nó là chân thật, chân thật chẳng thể nghĩ bàn, đích xác là có thể lợi ích rộng rãi hữu tình trong thế gian. Nếu như thật gột rửa tâm cấu, thắp đèn trí huệ, vận dụng phương tiện từ bi, chiếu sáng thế gian, vậy thì người học tập kinh điển chúng ta cũng giống như Phật, Bồ Tát, hoặc bậc trí an trụ trong thế gian này. Nếu không, chúng ta dùng tri kiến ngu si, nghiệp ngu si, nghiệp lưu liên tục mà trầm luân trong biển sanh tử vô cùng, chẳng thể tự thoát ra được.
Mục đích học tập của chúng ta cũng là ấn khế tự tâm, trực tiếp thoát khỏi sanh tử, chẳng nhờ vào phương tiện! Sanh tử vốn chẳng thể được, chúng sanh hư vọng tự tạo tác, kiến lập nghiệp sanh tử hư vọng và nghiệp tương tục (sự liên tục của nghiệp), khiến cho chúng ta trầm luân, chẳng thể xuất ly. Nay chúng ta dùng pháp tắc, kinh điển, và giáo ngôn này để ấn khế và nhận thức tự tâm chân thật, chẳng tăng giảm. Đó cũng là trực tiếp thoát khỏi sanh tử. Ở đây, chẳng có sợ hãi. Thường là sợ hãi vì tâm phân biệt che lấp, hoặc do chấp trước che lấp, như bị che lấp bởi [các chấp trước đối đãi] cao, thấp, lớn, nhỏ, thiện, ác, đúng, sai, phàm, thánh, cũng như nghiệp tạo tác bởi tất cả các hành vi của cái Ngã trước kia. Do đó, cõng nặng trĩu gánh nặng lịch sử, bị che lấp bởi tập nhiễm sâu dầy từ vô thỉ tới nay, chính mình khó thể thoát khỏi được, giống như bị hãm trong đầm lầy vậy! Chúng ta làm thế nào để thoát ra? Cần phải nhờ vào kinh giáo, nhất là trong lúc trước hoặc sau khi Phật trụ thế, đức Thế Tôn kế tiếp chưa giáng sanh trong cõi đời, mà đức Thế Tôn trước đó đã nhập diệt, nhưng di giáo của Ngài vẫn còn ảnh hưởng chúng ta. Chúng ta tôn trọng di giáo ấy như thế nào? Di giáo do các vị thầy đời đời truyền thừa, di giáo chẳng tăng giảm. Như vậy thì [di giáo] sẽ có thể chỉ đạo tâm trí của chúng ta, xa lìa các thứ tri kiến độc hại của ngoại đạo, hoặc là tri kiến bất chánh độc hại. Như thật biết tự tâm chẳng phải là pháp nào khác, chẳng từ nơi nào khác đến, mà cũng chẳng đi nơi khác. Thiện và ác chẳng có đến hay đi, pháp tắc phàm thánh cũng chẳng đến hay đi. Vì hết thảy các pháp vốn chẳng có tự tánh, chọn lựa ngay trong hiện tiền. Tâm làm Phật, tâm chính là Phật. Ở ngay chỗ này, chớ duyên theo nơi khác. Pháp tắc đích xác đơn giản, rõ ràng như thế đó! Phật pháp vốn chẳng có nhiều ý chỉ! Cố ý biến Phật pháp thành rất thâm áo, rất huyền diệu, rất xa xôi, sẽ là chuyện chẳng tương ứng. Nhưng nếu coi Phật pháp là rất thấp thỏi, hèn kém, thì cũng chẳng tương ứng! Vì thế, chúng ta dùng hình thức trang trọng và nghiêm túc để khích lệ tự tâm tôn trọng, và thủ hộ một cách tôn trọng. Đó cũng là pháp tắc này và pháp tắc kia ấn khế lẫn nhau!
(Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần Kiến Phật phẩm đệ tam.
(經)大方等大集賢護分見佛品第三。
(Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần. Phẩm thứ ba: Thấy Phật).
Khoa phán là để mọi người nhận thức chỗ trọng yếu trong đoạn văn tự này. Đó gọi là “cương cử mục trương” (nắm lấy dây chài chính của cái lưới giơ lên, các mắt lưới sẽ căng ra). Cái “mục” (mắt lưới, điểm trọng yếu) sẽ có thể khiến cho chúng ta thấy rõ ràng nội dung thực tế của văn tự.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: – Hiền Hộ! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát, dục đắc thành tựu thử tam-muội giả, đương ưng ư bỉ thuyết pháp sư sở, sanh chư Phật tưởng.
(經)爾時,世尊復告賢護菩薩言:「賢護!若諸菩薩摩訶薩,欲得成就此三昧者,當應於彼說法師所,生諸佛想。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: – Này Hiền Hộ! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát muốn được thành tựu tam-muội này, hãy nên đối với vị thầy thuyết pháp, sanh tâm tưởng như chư Phật).
Công đức của chư Phật được thí trọn vẹn cho một người, quả thật là thiện xảo quan sát, cũng là thông qua hoặc nhờ cậy nhân duyên trợ giúp của thầy để trở về căn bản giáo hóa thanh tịnh viên mãn của chư Phật. Đây thật sự là một sự khải phát và giáo dục chẳng thể nghĩ bàn, mà cũng là một sự hướng dẫn chẳng thể nghĩ bàn. Sự hướng dẫn ấy chính là “y pháp, bất y nhân” (nương theo pháp, chẳng dựa dẫm theo người khác). Vì sao vậy? Ở đây, đức Thế Tôn đã nói mười phần rõ ràng, “Ưng ư bỉ thuyết pháp sư sở, sanh chư Phật tưởng” (Đối với vị thầy thuyết pháp ấy, hãy sanh tâm tưởng như chư Phật). Chư Phật trọn đủ bi trí, trọn đủ phương tiện, khiến cho hết thảy chúng sanh nhập tri kiến của Phật, thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Đó là chánh nhân duy nhất của chư Phật.
Chúng ta đều biết, trong giáo ngôn được thủ hộ bởi hết thảy ngoại đạo, đều có một Thượng Đế, hay một vị Chúa chi đó, tức là có một đấng sáng tạo nhân loại có sức mạnh to lớn. Phật giáo chẳng tuyên nói như thế. Phật giáo nói: “Hết thảy chúng sanh đều có thể thành Phật”, hoặc: “Hết thảy chúng sanh vốn là Phật”. Nói “chúng sanh vốn là Phật”, nhưng do chúng sanh mê mờ, cho nên [chư Phật] tạo lập đủ thứ pháp tắc hòng hướng dẫn chúng ta thật sự lựa chọn chánh tri kiến. Kinh Viên Giác nói “hết thảy chúng sanh vốn là Phật”; do vậy, có Bồ Tát bèn hỏi: “Hết thảy chúng sanh vốn là Phật, vậy thì chư Phật Như Lai cớ gì lại sanh kiến giải điên đảo, trở thành chúng sanh đọa lạc vậy?” Đấy là chỗ khiến cho hết thảy chúng sanh ngờ vực, là chỗ đích thân chứng đắc của chư Phật. Tất cả các công đức nơi chư Phật chẳng tăng, tại phàm phu chẳng giảm. Điều như thế được gọi là Phật Tánh. Chắc là đối với pháp tắc như vậy, chúng ta nẩy sanh nhiều nỗi nghi hoặc. “Nghi hoặc” như vừa nói đó là do cái tâm phân biệt, chấp trước, vọng tưởng từ vô thỉ tới nay tạo ra. Tức là cảm giác khác biệt và nghiệp báo sai biệt do các pháp tắc thiện hay ác được tạo thành bởi phân biệt và chấp trước từ vô thỉ tới nay, nẩy sanh cái gọi là “sự thật nghiệp tướng”, tức là cái nghiệp tướng mà mọi người hiện thời có thể trông thấy hay cảm nhận. Kết quả là khiến cho hữu tình trầm luân, đeo gánh nặng trong tự tâm!
Đối với thầy, hãy nên sanh tâm tưởng như chư Phật. Đối với chuyện này, chúng ta phải nhận biết vì sao chư Phật xuất thế, vì sao thí giáo, vì sao lợi lạc chúng sanh? Vì lẽ ấy, trong kinh Pháp Hoa, đức Thế Tôn đã nói về một đại sự nhân duyên duy nhất khiến cho chư Phật Như Lai xuất hiện trong cõi đời. Đó là phán quyết tối hậu, xác định mục đích xuất thế chân thật của chư Phật là để lợi lạc thế gian, vì tạo lợi ích rộng rãi cho hữu tình, vì khiến cho chúng sanh quay về, nhập vào bổn vị của hết thảy chư Phật. Ở đây, sẽ khiến cho chúng sanh có ba loại nghi hoặc: Nói “hết thảy chúng sanh vốn là Phật”, sẽ khiến cho chúng sanh nẩy sanh nghi hoặc, nói “đại sự nhân duyên duy nhất khiến chư Phật Như Lai xuất hiện trong cõi đời”, có thể là mọi người còn nghi hoặc. Khi sanh nghi hoặc thì là lúc vừa khéo học Phật pháp.
(Kinh) Khởi tôn trọng tâm, vật sanh kiêu mạn.
(經)起尊重心,勿生憍慢。
(Kinh: Dấy lòng tôn trọng, đừng sanh kiêu căng, ngạo mạn).
Tâm hết thảy phàm phu đều cho rằng các nghiệp do chính mình đã tạo tác đều là như thật, những gì chính mình thấy là như thật, chính mình cảm nhận đúng như thật, tức là [chấp trước] tri kiến của chính mình là chánh xác, nghiệp do chính mình đã tạo là chánh xác, tư tưởng của chính mình là chánh xác. Đó gọi là “phàm phu tâm”. Trong tâm của chư Phật, Bồ Tát, chẳng có một pháp nào để có thể thành, chẳng có một pháp nào để có thể lập, tuy lợi ích thế gian mà vô vi, vô nhiễm, chẳng đắm chấp! Như nguyện vọng đại bi của Quán Thế Âm Bồ Tát, đáng nên dùng thân gì để độ, vị Bồ Tát ấy liền ứng hiện thân đó. Trong đó, chẳng có đúng, sai, thiện, ác để tuyên nói, nhưng vì có thể khiến cho chúng sanh độ thoát, thành tựu Bồ Đề [mà hiện thân tương ứng]. Rất nhiều kẻ tại gia, xuất gia học Phật bình phàm chúng ta, khởi tâm động niệm là gì vậy? Cảm giác đầu tiên là “ta luôn chánh xác”. Cảm giác thứ hai là “kẻ khác sai be bét”. Cảm giác thứ ba là phải “thuyết phục kẻ khác [suy nghĩ cùng một kiểu như ta]”, đem “tri kiến chánh xác” của ta nói cho người khác. Chuyện này chẳng ăn nhập gì với Phật pháp! Chúng ta có thể quan sát đôi chút, sẽ thấy nỗ lực chinh phục người khác đúng là vô nghĩa! Chư Phật, Bồ Tát xuất thế đều nhằm hướng dẫn chúng sanh “lìa khổ, được vui, thành tựu Bồ Đề”. Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta phải khéo so sánh giữa sự sai biệt của chính mình và sự không sai biệt của chư Phật, Bồ Tát! Cái “sai biệt mà chẳng sai biệt ấy” có phải là do bản thân chúng ta cưỡng chấp tạo tác mà xuất hiện hay chăng?
Vì thế, “khởi tôn trọng tâm, vật sanh kiêu mạn” (dấy lòng tôn trọng, đừng sanh tâm kiêu căng, ngạo mạn): Sự kiêu mạn ấy chính là do quý vị chấp trước “chính mình là chánh xác” nên mới xuất hiện. Quý vị ngỡ chính mình mười phần chánh xác, cho nên mới mười phần kiêu mạn! Ngỡ chính mình mười phần phước đức, quý vị mới mười phần kiêu mạn! Rất nhiều người tại gia học Phật than với tôi: “Người học Phật hiện thời coi bộ không được! Quá kiêu mạn!” Đích xác là làm cho kẻ khác cảm thấy [người học Phật] quá kiêu mạn, cũng có nghĩa là [người học Phật có thói quen] dùng sở học của chính mình để chỉ trích kẻ khác, cho rằng kẻ khác chẳng tu tập, cứ ngỡ người khác chẳng có thiện căn, ngỡ người khác mê mất! Kết quả là ăn nói kiêu mạn, chẳng phải là lời lẽ lợi lạc người khác. Đức Phật dạy pháp Tứ Nhiếp để nhiếp thọ chúng sanh, tức đồng sự, ái ngữ, bố thí, lợi ích rộng rãi (còn gọi là lợi hành). Đồng sự là chẳng nói kẻ khác tốt hay xấu. Ái ngữ là quan tâm, tạo lợi ích cho đối phương. Bố thí: Người khác cần “chẳng sợ hãi” bèn bố thí vô úy cho họ. Cần tiền bạc, tài vật, bèn tài bố thí. Cần pháp tắc, bèn ban cho pháp tắc (pháp bố thí), khiến cho họ an lạc, tiến nhập đạo nghiệp Bồ Đề. Sau đấy mới là công đức thật sự tạo lợi ích rộng rãi. Do vậy, sự khác biệt là dùng cái tâm thế tục để học Phật, vẫn phải dùng chuyện lợi ích người khác để học Phật. Tứ Nhiếp Pháp là một tấm gương trao đổi khá tốt đẹp.
Mọi người khi bàn luận chuyện gì đó, kẻ tâm đã điều phục, mềm mỏng, bèn cười vui vẻ, chẳng nói chuyện thị phi. Nhưng kẻ mà bản thân có chút “tu chứng”, có chút “pháp tắc”, [do kiêu mạn, chấp trước], vừa mở đầu liền phán những điều chính mình nói rất chánh xác, như thế thì phải có nhiều công đức. Kết quả là [cho rằng] kẻ khác dẫu siêng gắng vẫn chẳng làm tốt, mạn tâm sanh khởi, [cứ ngỡ bản thân cao siêu lắm, kẻ khác] chẳng thể rớ tới được, chẳng tiếp xúc được, chẳng thấy được, chẳng thể diễn tả được! Quý vị đối với người khác chẳng cung kính, chẳng cúng dường, chẳng lễ bái, người ta sẽ chẳng tiếp nhận quý vị. Vì sao xuất hiện cái tâm kiêu mạn như thế? Đó là vì chẳng có duyên khởi điều phục nhu hòa được truyền thừa từ vị thầy này sang vị thầy khác. Duyên khởi ấy ở ngay trong cái tâm hiện tại, chúng ta phải bỏ gánh nặng “thiện, ác, nghèo hèn, cao, thấp, phàm, thánh, như pháp, chẳng như pháp” từ vô thỉ tới nay của chính mình. Các thứ ấy đều là các thứ nặng nề do Sở Tri Chướng của quý vị đem lại! Nó sẽ bức bách quý vị, và cũng sẽ bức bách các hữu duyên hữu tình khác, quý vị hãy khéo quan sát.
Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta học Phật là để vận dụng pháp tắc, đích xác là để giải trừ sự đau khổ nơi tâm linh của chính mình, giải trừ chướng ngại nơi tâm linh của chính mình, khiến cho thân tâm của chính mình thật sự mạnh khỏe, chẳng phải là để phô trương “ta chánh xác”. Lập nhãn hiệu, in nhãn hiệu cầu chứng, bộ quý vị tính làm “đồ hiệu nổi tiếng” (brand name) ư? [Làm như thế] có ý nghĩa gì chăng? Điều này thật sự chẳng có ý nghĩa cho mấy, thường là chẳng thể mang lại an lạc cho chính mình, mà cũng khiến cho kẻ khác hoang mang, đau khổ. Điều này tương phản với Phật pháp, chắc là vấn đề thuộc về nhân duyên. Tôi thường nghe hai ba người tranh luận, rất ít khi nghe người ta nói: “Tôi xử lý vấn đề này chẳng thỏa đáng, tôi sám hối. Chỉ cần mọi người có thể học Phật, tôi nhất định sám hối”. Rất ít khi nghe lời lẽ sám hối như thế, cơ bản đều là: “Tôi đúng”. Đối với một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy… hoặc nhiều hơn, có thể nói là mười mấy điều “tôi chánh xác”, “người khác sai”. Sai sót ở điều thứ nhất, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy… Nếu lại nêu ra tiếp, thì có thể nêu ra mười mấy điều [để chứng tỏ] kẻ khác sai lầm. Trao đổi Phật pháp kiểu ấy là đã đi ngược đường. Điều này giống như hai bên lập trận công kích nhau, kiến lập sự đối chọi, chẳng có mảy may tương ứng với Phật pháp. Như thế thì sẽ giống như luyện nắm đấm trong Phật pháp, coi thử ai có nắm đấm cứng hơn. Coi ai có thể chiến thắng đối phương! Duyên khởi ấy chẳng tương ứng. Hễ kẻ nào chiến thắng đối phương, sẽ vạch ra rất nhiều “quá khứ” của đối phương. “Quá khứ” là nói đến lầm lỗi, “quá khứ” là vạch ra lầm lỗi. [Đồng thời], nêu ra rất nhiều quá khứ của chính mình. Quá khứ [của chính mình] là nhân duyên thiện pháp, chánh tri kiến, hành vi, cho đến phước đức và nhân duyên [của chính mình]. Vì sao sanh ra trạng thái học tập Phật pháp mà lại nghịch đạo như thế? Đối với điều này, các vị thiện tri thức tại gia và xuất gia, hãy đều nên nghiêm túc điều phục nhu hòa các hiện duyên nơi tâm trí của chính mình. Cũng có nghĩa là [hãy tự xét] một niệm hiện tiền của quý vị rốt cuộc là duyên theo điều gì? Đối với khởi tâm của quý vị trong hiện thời, bản thân quý vị duyên theo điều gì? Đừng nên quan sát người khác trước! Điều thiết yếu là hãy như thật biết chính mình trong hiện tiền, biết một niệm hiện tiền, như thế thì quý vị sẽ có thể đạt được duyên khởi thanh tịnh để giải trừ những cái nặng nề trong quá khứ, tức là tạo duyên khởi ngay trong hiện tiền, như thế thì sẽ có cơ hội tiến nhập thấu triệt, học tập Phật pháp.
Ở đây, “dục đắc thành tựu thử tam-muội giả, ư bỉ thuyết pháp sư sở, sanh chư Phật tưởng, khởi tôn trọng tâm” (người muốn được thành tựu tam-muội này thì đối với vị thầy thuyết pháp, hãy sanh tâm tưởng như chư Phật, dấy lòng tôn trọng), chẳng phải là có nghĩa khởi đầu thì có tâm tôn trọng; sau đó, chẳng còn tôn trọng nữa! Có nhiều vị Bồ Tát tu theo kiểu này: Lần đầu tiên gặp gỡ quý vị thì tâm bèn tôn trọng, lần thứ hai đã quen thuộc rồi, chẳng cần tôn trọng nữa. Lần thứ ba thì sao? Cảm thấy chẳng khác biệt lắm! Lần thứ tư là lên mặt dạy bảo người ta liền! Đấy là đã đánh mất cái tâm thanh tịnh và tâm điều nhu của chính mình trong hiện thời! Tôn trọng bèn nhất định lễ bái, cúng dường. Hoàn toàn chẳng phải là hình thức! Thật sự [tôn trọng] là tâm địa như thật quang minh và yêu thích, đích xác là khiến cho đối phương, khiến cho hiện duyên hữu tình đạt được tâm từ bi an lạc, tâm trí huệ. Đó là bổn tâm chẳng đắm nhiễm và vô cấu, chiếu rạng ngời hữu tình trong cõi đời hiện tại, khiến cho họ nhận biết bổn tâm, chẳng đánh mất tự tâm. Có thể làm như vậy thì mới là thật sự cung kính. Đương nhiên, các hình thức lễ bái, hình thức trao đổi, thứ tự chỗ ngồi thật sự chẳng vì người ấy mà xếp đặt, mà là do nghiệp tướng tụ tập. Trước kia, đã có Bồ Tát hỏi tôi như thế này: “Vì sao mọi người phải cúng dường, lễ kính người này, mà chẳng cúng dường, lễ kính người khác? Hoặc là chẳng tùy thuận người kia?” Tôi nói: Chỉ là do nghiệp lực khiến thành như thế, do hiện duyên khiến thành như thế. Hoàn toàn chẳng do con người cưỡng chế, an bài. Nếu cưỡng chế an bài, sẽ rất mệt mỏi. Nó chỉ là một thứ biểu đạt hiện duyên thuận lý thành chương của mọi người. Thật ra chẳng trọng yếu cho lắm! Nếu hiện thời, chúng ta đối với chỗ này, bất luận hàng Bồ Tát xuất gia hay tại gia, thật sự cho rằng tri kiến của chính mình có thể lợi ích rộng rãi hữu tình trong thế gian, quang minh thật sự sẽ khó thể ngăn che! Bậc thiện tri thức như vậy, nếu chư Phật, Bồ Tát chẳng đề cao, long thiên hộ pháp cũng sẽ đề cao quý vị. Nếu long thiên hộ pháp chẳng đề cao quý vị, thì hiện tiền đại chúng cũng sẽ nâng quý vị lên! Vì sao? Do nhu cầu của thế gian. Chúng ta có thể trông thấy điều cần thiết trong thế gian này: Người trong thế gian này mê muội, tâm trí chẳng có chỗ an lạc, chẳng có pháp tắc rõ ràng để nương cậy, chẳng có phương tiện lợi tha, chẳng chọn lựa phương tiện tự lợi, mọi người đều cần đến pháp tắc!
Vì thế, “vật sanh kiêu mạn, khởi tôn trọng tâm” (đừng sanh kiêu căng, ngạo mạn, hãy dấy lòng tôn trọng) ở đây quả thật là cái tâm đáng nên dấy khởi trong hiện duyên hiện tại. Tức là chúng ta hằng ngày đều phải thực hiện nghi quỹ lễ thỉnh để làm gì? Hằng ngày xướng bài kệ tán chi đó, niệm chư Phật, hải hội Phật, Bồ Tát chi đó để làm chi vậy? Mỗi lần chúng ta đều phải làm giống hệt như lần đầu tiên, cung kính đảnh lễ hiện duyên của chính mình, nhận biết tự tâm!
(Kinh) Nãi chí vô hữu tránh cạnh, vi nghịch, bất thuận tâm cố.
(經)乃至無有諍競,違逆不順心故。
(Kinh: Cho đến chẳng có tâm tranh đua, kèn cựa, trái nghịch, chẳng thuận tùng).
“Thừa sự sư trưởng” trong giáo ngôn của cả ba thừa đều rất trọng yếu. [Phải hiểu] “sư trưởng” chẳng phải là một người hay một vật chi đó, đó là một sự biểu trưng. Chẳng hạn như có người nói, tôi đối với bức tượng Phật này sanh khởi tâm tưởng cung kính và thừa sự, vậy thì hiện thời quý vị có thể dâng nước, dâng hoa và thức ăn, cho đến dùng âm thanh đẹp đẽ niệm tụng. Thật ra, đấy chẳng phải là hình thức. Rất nhiều chân ngôn đều là các bài kệ tán tụng rất hay đẹp, nội dung mười phần nồng hậu, hàm súc, nhưng đều là những lời lẽ rất xác đáng, hoặc là ca ngợi chư Phật Thế Tôn, là các ngôn từ cúng dường chư Phật Thế Tôn sâu xa nhất, toàn vẹn nhất, hoặc là các thệ nguyện, hoặc là các lời ca ngợi thệ nguyện, ca ngợi công đức hồi thí bởi các thệ nguyện. Nếu phiên dịch ra, đúng là mười phần tuyệt diệu, nội dung mười phần lạ lùng đặc biệt! Nhưng chân ngôn thuộc loại Ngũ Bất Phiên (五不翻, năm thứ không phiên dịch)[2].
Do [mỗi chữ trong chân ngôn] có nhiều nghĩa, nếu dịch ra, sẽ khiến cho chúng sanh nghi ngờ. Vì thế, chẳng dám phiên dịch. Nếu quý vị đối với một bức tượng, sanh khởi lòng tôn trọng, thừa sự, tưởng như thấy chư Phật, bức tượng ấy cũng sẽ mở miệng nói năng! Nếu lúc một người thật sự đạt đến trạng thái cực hạn, thứ gì cũng đều có thể nói năng. Người có lòng thành, đá còn gật đầu, huống hồ chúng ta đối trước tượng Phật, huống hồ chúng ta đối trước hình dung giả để cầu hình dung thật ư?
Do vậy, ở đây, tôn kính người khác, trong đó “người” bất quá là một thứ biểu đạt mà thôi. Bất quá, dùng “người” để biểu đạt thì có vài thứ phương tiện. Chẳng hạn như “đồng khí” (同氣), tức là mọi người hô hấp giống nhau, đều là loài người mà! Lại như cảm nhận tương đồng, trong sáu pháp tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý, mọi người có tốc độ tiến nhập giống nhau. Do đó, dễ cùng lúc thấu hiểu, dễ cảm giác tương ứng. Vì thế, nếu có nhận biết, sẽ có thể xa lìa yêu ghét, đúng pháp thủ hộ, chẳng tăng giảm đối với Phật pháp, chẳng tổn giảm lời dạy của đức Thế Tôn, có thể nương theo sức truyền thừa của pháp và kinh để hồi thí cho hữu tình trong hiện duyên, đáng nên tôn trọng, bất luận là ai, chẳng do danh tự như thế nào! Đất Hán khá khuyết thiếu một cơ chế giáo dục của sư trưởng. Trước kia, khi thầy tôi còn sống, tôi nương theo thầy học giới luật, rất cẩn trọng. Thầy thường xuyên quở trách quý vị, dù quý vị làm đúng hay sai, đều bị quở mắng như nhau, khiến cho trong tâm của kẻ khác [đều cảm thấy] vị sư trưởng ấy đối với ai cũng như thế, chỉ nên cúng dường, chỉ cung kính, chỉ bình đẳng một mực thủ hộ. Quý vị chẳng có cơ hội đánh giá đúng hay sai, chẳng có cơ hội biện bạch. Nếu có cơ hội biện bạch, tức là người ấy chẳng cung kính. Như vậy thì quý vị làm sao có thể cung kính cho được? Hiếu thuận từ đâu mà dấy lên? Hiếu thuận là gì? Chính là “sư trưởng nói như thế nào cũng đều đúng”, như thế thì sẽ có thể diệt trừ cái tâm đối đãi đúng sai của quý vị, ban cho quý vị ý nghĩa hoàn chỉnh của việc sư phụ trụ thế lâu dài. Quý vị nói: “Đấy chẳng phải là xâm đoạt tâm trí của người khác ư? Như thế thì sẽ khiến cho người khác chẳng khéo biện bạch”. Chẳng phải vậy! Nếu chúng ta thật sự sanh khởi cái tâm cung kính, tâm bình đẳng, tâm hiếu thuận, chính quý vị sẽ thể nghiệm, sẽ thấu hiểu, hay nói cách khác là thâm nhập, khế nhập một bầu trời đất rất rộng lớn, như thật, thanh tịnh. Quý vị sẽ khế nhập một thế giới trí huệ, mười phần mênh mông, mới mẻ! Chẳng cần tới thế giới ở phương khác, tâm linh của quý vị đã thật sự khế nhập, cảm nhận, hoặc nhận thức một thế giới khác. Có phải là như thế hay không? Các thiện tri thức cần phải phân định.
(Kinh) Nhiên hậu, ư thử thắng tam-muội trung, tinh cần tu học, phương năng khắc chứng.
(經)然後,於此勝三昧中,精勤修學,方能克證。
(Kinh: Sau đó, đối với tam-muội thù thắng này, siêng ròng tu học thì mới có thể quyết định chứng đắc).
Hiện thời người tu pháp quả thật đông đảo, vì người hướng về Phật pháp cũng đông, nhưng dường như chẳng có một ai tu chứng! Đối với người xuất gia chỉ có hình thức, lợi ích và thiện căn nơi Phật pháp đều chẳng chín muồi. Tới rất nhiều nơi, mọi người luôn thắc mắc vấn đề này, tuy chỉ có thể “tương tự” giải quyết một số vấn đề, nhưng mọi người rất cần thiết [giải trừ thắc mắc ấy], nhưng điều càng cần thiết hơn nữa là thật sự tu chứng! Đại bộ phận những người đang hiện diện, nhìn từ công đức và phước đức hiện thực để nói, so ra đều mạnh mẽ hơn tôi ngàn vạn lần! Chỉ là mọi người chẳng thật sự dẫn phát [công đức và phước đức ấy tỏ lộ], chẳng vận dụng thỏa đáng, chẳng thành thục [công đức và phước đức] thỏa đáng, cũng tức là vẫn mai một trong những cái gọi là “tâm trí đúng, sai, phàm, thánh, thiện, ác, được, mất” của chính mình. Một khi quý vị chẳng bị mai một, tôi cảm thấy rất nhiều vị thiện tri thức có thiện căn, phước đức và nhân duyên mạnh hơn tôi ngàn vạn lần. Vì sao chúng ta ở sai vị trí[3]? Chỉ là do nhân duyên!
Khi quý vị chẳng để cho “thiện, ác, đúng, sai” che lấp tự tâm, tâm trí quang minh của quý vị nhất định sẽ sanh ra, mà nó cũng hiện rõ trong thế gian, chói ngời thế gian, lợi ích hữu tình, chẳng bị sợ hãi! Ở đây, chẳng phải là do kiêu mạn và tà kiến mà có thể làm được đâu nhé! Vì kiêu mạn và tà kiến sẽ rất nhanh chóng làm khổ chính mình, sẽ làm cho chính mình mệt mỏi và thương tổn rất nhanh chóng. Đại khái trong vòng mười năm trước, chúng tôi cùng theo sư phụ xuất gia, đương nhiên là chẳng thể nói tốt hay xấu. Từng người một hoặc giảng pháp, hoặc chẳng giảng pháp, trụ trì tự viện hay chẳng trụ trì tự viện, học giới, chẳng học giới, niệm Phật, chẳng niệm Phật… Đủ loại nhân duyên! Nhìn lại, quả thật là mắt thấy tâm kinh hoảng, hễ pháp tắc và tri kiến sai kém một chút, khái niệm và hành vi sai sót một tí, rất nhiều vị thiện tri thức đã thật sự bị mông muội, rất nhiều người thành thục thiện xảo và pháp tắc bị chìm đắm. Đích xác là trong số đó, có khá nhiều người rất thiện xảo, kết quả là do đeo nặng trĩu chấp trước của chính mình, do cõng gánh nặng thiện ác thị phi của chính mình mà chẳng thành tựu!
Rất nhiều Bồ Tát học Phật, đích xác là mỗi ngày nhặt nhạnh một chút rác rưởi. Có rác rưởi của chính mình, có rác rưởi của kẻ khác. [Họ thấy] rác rưởi của chính mình là thứ tốt đẹp, bèn cất chứa; rác rưởi của người khác là những thứ xấu xa. Đeo một cái bao rác chứa “những thứ xấu xa của người khác”, lại đeo nặng bao rác chứa “các thứ tốt đẹp của chính mình”, tức là vừa thâu thập những thứ tốt đẹp của chính mình, vừa gom góp cái xấu của người khác. Hai cái bao rác khoác trên hai vai, bước đi mười phần lặc lè! Đó là một bức tranh biếm họa! Có kẻ đã bị đè đổ sụp, có kẻ về cơ bản đã bị đè sụp, có kẻ sắp bị đè sụp, có kẻ thâu thập “vốn liếng” để bị đè ép. Vì sao người ta lại chẳng tương ứng, ngu si như thế cơ chứ? Đó là vì “các thứ tốt đẹp của ta” càng chất chứa càng nhiều, coi đó là một cái đãy đựng trân bảo, [hay nói cách khác là] nhà tù bằng trân bảo, còn đeo theo cái ba lô đựng tội ác và lỗi lầm của người khác. Hằng ngày đều gom góp, cất chứa, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, đúng là hết sức cẩn trọng! Vì lẽ nào vậy? Do chẳng có hai pháp Bi và Trí. Nếu có trí huệ, chẳng đắm nhiễm cái gọi là đãy chứa đựng “đồ tốt của mình”, vì rốt ráo không có một pháp để có thể đạt được! Do vậy, siêng năng tu tập hết thảy các pháp chẳng đắm nhiễm, chỉ hồi thí cho chúng sanh. Tức là do muốn độ chúng sanh, muốn lợi ích hữu tình trong thế gian, cho nên tu tập hết thảy các pháp tắc. Như thế thì sẽ chẳng có gánh nặng nào phải mang vác, vì chẳng so đo với chúng sanh, đối với hết thảy hiện duyên và tội ác, lỗi lầm của chúng sanh, thảy đều chẳng bận lòng. Vì sao vậy? Chỉ sanh tâm thương xót, tâm tạo lợi ích, còn có gì để so đo nữa? Do vậy, gánh nặng rác rưởi trên vai bèn dỡ xuống. Nếu đã có thể trút bỏ hai gánh nặng ấy, thân thể quý vị bèn nhẹ nhàng, trọn đủ phương tiện. Vì thế, từ bi và trí huệ ắt đạt được phương tiện. Kẻ biết trút bỏ gánh nặng sẽ biết vận dụng phương tiện ấy, còn kẻ mang vác gánh nặng sẽ đánh mất phương tiện, sẽ lìa khỏi đại chúng ngày càng xa, ngày càng cô độc, ngày càng khó khăn! Nhất định phải khéo quan sát, chọn lựa hợp lý!
Do đó, “tinh cần tu học” (siêng ròng tu học) là để thấy Phật, nghe pháp, lợi ích thế gian, nhất định phải khéo quan sát điều này. Đối với các động tác được miêu tả trong bức tranh châm biếm vừa nói trên đây, đích xác là có rất nhiều Bồ Tát đang siêng khổ, chẳng tiếc sanh mạng để thực hiện “pháp tắc” ấy. Sanh mạng của chúng ta hằng ngày bị hao tổn, hằng ngày bị phủ lấp không chống đỡ được trong hao tổn. Quý vị đang làm gì? Quý vị có thật sự đặt sanh mạng của chính mình nơi trọng điểm trí huệ “chiếu rạng thế gian” hay không? Quý vị có đặt sanh mạng của chính mình nơi trọng điểm “thương xót chúng sanh, cứu vớt chúng sanh” hay không? Quý vị có thật sự vận dụng sanh mạng của chính mình vào phương tiện “chẳng bỏ lỡ thời cơ an ủi thế gian này” hay không? Nếu chẳng có, đúng là chúng ta vẫn phải nương theo chánh kiến để học tập Phật pháp. Đó gọi là “tinh cần tu học, phương năng khắc chứng” (siêng ròng tu học thì mới có thể quyết định chứng đắc).
(Kinh) Hiền Hộ! Nhược nhân ư bỉ thuyết pháp pháp sư sở, hoặc tỳ-kheo sở, khởi bất thiện tâm, cẩu vi dị tâm, tránh cạnh chi tâm, cố lăng nhục tâm, chư bất tịnh tâm, nãi chí bất sanh như chư Phật tưởng. Như thị Bồ Tát, giả linh tu hành, chung bất năng chứng như thị diệu định.
(經)賢護!若人於彼說法法師所,或比丘所,起不善心,苟違異心,諍競之心,故陵辱心,諸不淨心,乃至不生如諸佛想。如是菩薩,假令修行,終不能證如是妙定。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Nếu có ai đối với vị pháp sư thuyết pháp, hoặc đối với tỳ-kheo mà dấy lòng chẳng lành, nếu có tâm trái nghịch, khác lạ, tâm ganh đua, tâm cố ý lăng nhục, có các thứ tâm bất tịnh, cho đến chẳng sanh lòng tưởng như chư Phật. Hàng Bồ Tát như thế, dẫu có tu hành, sẽ trọn chẳng thể chứng đắc diệu định như thế).
Ở đây, [kinh văn] nói rất rõ ràng, nói hạng Bồ Tát như thế chẳng thể chứng Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội. Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta học Phật thì nhất định phải hiểu rõ mục đích, xử sự thì tâm địa duyên khởi nhất định phải trong sạch, nhất định phải chân thật, nhất định phải như thật tự biết!
(Kinh) Nhược đắc chứng giả, vô hữu thị xứ.
(經)若得證者,無有是處。
(Kinh: Nếu chứng đắc thì chẳng có lẽ ấy).
Đức Thế Tôn đã bít chặt đường lui của chúng ta, ngăn chặn toàn bộ mấy trăm ngõ rẽ, mở cho quý vị một xa lộ cao tốc, khiến cho quý vị đi theo con đường ấy. Nay chúng ta có quá nhiều đường, kết quả là lẩn quẩn nơi các pháp, chẳng thể quyết định. Đối với pháp bèn nửa tin, nửa ngờ, đối với pháp có trạng thái dường như đúng, dường như sai, [cứ phân vân] có thể hành hay chẳng nên hành!
(Kinh) Hiền Hộ! Thí như thanh tịnh hư không, vô chư vân ế, hữu minh mục nhân, ư tĩnh dạ thời, ngưỡng quán không trung, vô lượng tinh tú, khu biệt phương sở, hình sắc các dị, liễu liễu phân minh.
(經)賢護!譬如清淨虛空,無諸雲翳,有明目人,於靜夜時,仰觀空中,無量星宿,區別方所,形色各異,了了分明。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Ví như hư không thanh tịnh, chẳng bị mây che phủ, có người mắt sáng, trong đêm thanh tĩnh, ngửa mặt nhìn không trung, vô lượng tinh tú có phương vị khác biệt, hình sắc mỗi ngôi mỗi khác, [người ấy đều thấy] rành rẽ phân minh).
Đây là nêu một thí dụ, đối trước hư không thanh tịnh, tức là trên hư không chẳng có mây đen [che phủ], người có mắt rất thanh tịnh, trong đêm tối, một mình ngắm tinh tú, tất nhiên là rành rẽ phân minh.
(Kinh) Như thị Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát, tư duy quán bỉ pháp tánh hư không. Dĩ tưởng thành cố, kiến chư Như Lai, kỳ sự nhược thử.
(經)如是賢護!菩薩摩訶薩,思惟觀彼法性虛空。以想成故,見諸如來,其事若此。
(Kinh: Như thế đó Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát tư duy, quán pháp tánh hư không. Do tưởng đã thành, thấy các Như Lai cũng giống như thế).
Đây là một phương pháp quan sát tương tự. Có bầu trời thanh tịnh, cùng với mắt sáng, lúc ấy, xem xét các hiện tượng thiên văn, các loại tinh tòa (các chòm sao), các thứ tinh tướng, quý vị đều thấy rành rẽ, phân minh. Bồ Tát Ma Ha Tát cũng giống như thế. “Tư duy quán bỉ pháp tánh hư không” (tư duy, quán pháp tánh hư không): Tâm địa của chúng ta chính là pháp tánh hư không. Tâm địa sạch làu, chẳng có một vật, đó là hư không thanh tịnh. Lúc đó, quý vị quan sát cặn kẽ, các ngôi sao nhiều ngần ấy, các đốm sao chi chít đều sáng ngời, quý vị có thể nhận biết rõ ràng, tâm trí an lạc. Do vậy, “kiến chư Như Lai, kỳ sự nhược thử” (thấy các Như Lai, chuyện ấy cũng giống như thế). Đây là nói tương tự, trong tâm chúng ta có thật sự “chẳng nhiễm một vật” hay không, chẳng vướng mắc vật nào hay không? Các vị thiện tri thức ơi! Hãy khéo quan sát! Trong tâm của quý vị có phải là rác rưởi trân bảo, mây đen trân bảo hay không? Có phải là có mây đen, bụi nhơ “lỗi lầm của kẻ khác” hay không? Có phải là bị màng mộng “nhìn thấy trân bảo của chính mình” che phủ con mắt của chính mình hay không? Có phải là bị màng mộng “thấy lỗi lầm của người khác” phủ lấp con mắt của chính mình hay không? Quả thật, chúng ta phải nên nghiêm túc quan sát!
(Kinh) Nhiên bỉ Bồ Tát quán Đông phương thời, đa kiến chư Phật, đa kiến bách Phật, đa kiến thiên Phật, đa kiến bách thiên Phật, đa kiến ức Phật, đa kiến ức bách thiên Phật, đa kiến ức bách thiên na-do-tha Phật, bất giả tác ý, tự nhiên hiện tiền.
(經)然彼菩薩觀東方時,多見諸佛,多見百佛,多見千佛,多見百千佛,多見億佛,多見億百千佛,多見億百千那由他佛,不假作意,自然現前。
(Kinh: Nhưng vị Bồ Tát ấy khi quán phương Đông, thấy nhiều vị Phật, thấy cả trăm vị Phật, thấy cả ngàn vị Phật, thấy cả trăm ngàn vị Phật, thấy cả ức vị Phật, thấy cả ức trăm ngàn vị Phật, thấy cả ức trăm ngàn na-do-tha Phật, chẳng cần tác ý mà tự nhiên hiện tiền).
“Tự nhiên hiện tiền” ở đây giống như thí dụ do đức Thế Tôn đã nêu trong phần trên: Mắt sáng, hư không thanh tịnh, hai pháp tương ứng; khi đó, xem tinh tướng, quyết định là rành rẽ, phân minh. Cũng giống như thế, khi tâm trí pháp tánh của chúng ta chẳng vướng mắc vật gì, chẳng nhiễm đắm vật gì, lúc ấy, quý vị sẽ là “tâm tưởng sự thành”, muốn quán Như Lai, chắc chắn nhìn thấy!
Pháp tương tự này quả thật rất có ý nghĩa. Vì nếu đức Thế Tôn chẳng dùng hiện tượng mà chúng ta có thể nhìn thấy, hoặc hiện tượng mà ta cảm nhận được để tỷ dụ, chúng ta sẽ rất khó tùy thuận pháp tắc này, dung nhập pháp tắc này, thành tựu thực tiễn pháp tắc này. Đối với chuyện “tư duy quán bỉ pháp tánh hư không. Dĩ tưởng thành cố, kiến chư Như Lai” (tư duy quán pháp tánh hư không. Do tưởng đã thành, thấy các Như Lai), đức Thế Tôn dùng tỷ dụ để giải thích. Vậy thì thấy ngàn vị Phật, vạn vị Phật, ức vị Phật, cho đến trăm ngàn vạn ức vị Phật thì sao? Cũng giống như thế, [đều là] tự nhiên hiện tiền, chẳng cần nhờ vào tác ý (dấy lên ý niệm suy nghĩ). Như chúng ta từ trong hư không, thấy đủ loại tinh tòa, chẳng phải do chúng ta tưởng niệm mà có! Báo đức do chư Phật Như Lai đã tu là chân thật, chiếu rạng mười phương thế giới, cũng chẳng phải do sự tưởng tượng trong tâm chúng ta kiến lập. Do pháp tánh thanh tịnh, sự tưởng tượng ấy có thể kiến lập. Do pháp tánh tư duy bất tịnh, sự tưởng tượng ấy chẳng thể thành lập, giống như mây đen phủ kín không trung. Chúng ta ngửa mặt nhìn, bất luận mắt tốt đến mấy, muốn thấy các thứ tinh tòa, cũng chẳng thấy được. Chúng ta có thể tư duy quan sát như thế, cũng có thể thật sự quan sát thái dương. Vầng mặt trời sáng chói ngần ấy, khi bị mây đen che phủ, chúng ta cũng chẳng thấy ánh sáng mặt trời, huống hồ có thể thấy ánh sáng của từng ngôi sao chi chít hay ánh sáng mặt trăng ư?
Do vậy, khi chúng ta tư duy “bỉ pháp tánh hư không”, trong quá trình tư duy, quan sát, một khi tâm trí chẳng vướng mắc vật gì, chẳng có yêu, ghét, chẳng có thiện, ác, chẳng có đúng, sai, như thế thì sẽ có thể “tâm tưởng sự thành”. Thành gì vậy? Thấy tâm nguyện của chư Phật. Đích xác là gột sạch hết thảy tâm cấu, tỏa rạng sáng sạch, giác liễu pháp tánh, khi ấy, sẽ có thể “tâm làm Phật, tâm là Phật”. Khi cái “tâm làm Phật” thấy Phật, nhất định sẽ thấy Phật. Đó là sự an bài trong tâm địa của quý vị. “Tâm làm Phật” thấy chuyện gì, vật gì, nhất định sẽ sanh khởi. Vì sao hữu tình trong thế gian hiện thời chống trái lẫn nhau, khinh mạn lẫn nhau? Đều do trong tâm sanh khởi chủng tử “khinh mạn lẫn nhau, nghi hoặc lẫn nhau” đã chín muồi, do người khác [làm trợ duyên] mà tỏ lộ đó thôi! Chúng ta nhận biết hư không pháp tánh cũng giống như thế, cho nên thấy trăm vị Phật, ngàn vị Phật, trăm ngàn vạn vị Phật, cho tới ngàn vạn ức vị Phật, cũng giống như thế, chẳng nhờ vào tác ý, tức là quý vị chẳng cần tốn sức, tự nhiên hiện tiền.
(Kinh) Nhi bỉ Bồ Tát ký tác như thị quán Đông phương dĩ, thứ quán Nam phương, cập Tây, Bắc phương, tứ duy thượng hạ, thập phương thế giới, các đa kiến Phật. Sở vị đa kiến bách Phật, đa kiến thiên Phật, đa kiến bách thiên Phật, đa kiến ức Phật, đa kiến ức bách thiên Phật, đa kiến ức bách thiên na-do-tha Phật, bất giả công dụng, giai hiện tại tiền.
(經)而彼菩薩既作如是觀東方已,次觀南方,及西北方,四維上下,十方世界,各多見佛。所謂多見百佛,多見千佛,多見百千佛,多見億佛,多見億百千佛,多見億百千那由他佛,不假功用,皆現在前。
(Kinh: Vị Bồ Tát ấy đã quán phương Đông như thế xong; kế đó, quán phương Nam, và phương Tây, Bắc, bốn phương trên dưới, mười phương thế giới, nơi mỗi phương đều thấy nhiều vị Phật, tức là thấy cả trăm vị Phật, cả ngàn vị Phật, cả trăm ngàn vị Phật, thấy cả ức Phật, thấy cả ức trăm ngàn vị Phật, thấy cả ức trăm ngàn na-do-tha vị Phật, chẳng nhờ vào công dụng, đều hiện ra trước).
Đây là đối với sự quan sát mà nêu lên một thí dụ, nhằm bảo chúng ta có thể tư duy, quan sát như thế đó! Có nhiều người nói: “Trong khi hành Ban Châu, tôi thấy này, thấy nọ”, thật ra, cơ bản đều là chủng tử trong tâm địa. Tôi có gặp một vị Bồ Tát sau khi kinh hành đến ngày thứ ba, liền “tới” đất Tây Tạng! Ông ta nói: “Ối trời ơi! Nay tôi đến được đại thảo nguyên!” Tôi bảo ông ta: “Không cần nói! Ông cứ tự mình lẳng lặng kinh hành là được rồi! Chuyện ấy liên quan tới huyễn giác của ông”. Ông ta nói: “Thật sự đang ở trên thảo nguyên, mao ngưu (牦牛, bò yak) nhiều ngần ấy, có lều trại, còn có lạt-ma đắp y đỏ, quý vị xem họ đang mở pháp hội kìa!” Tôi nói: “Ông ngậm miệng là được rồi! Hãy cứ như thật mà giữ các thứ đó”. Còn có người nói chính mình trông thấy cải trắng, củ cải chi đó. Có người thấy bánh mì. Có người thấy việc làm ăn của chính mình càng ngày càng tốt đẹp. Có người thì thấy thứ chi đó thuộc về tâm linh của chính mình. Đủ mọi kiểu dáng đều có! Vì sao? Chủng tử trong tâm địa chín muồi, chẳng liên can gì đến người khác, giống như thí dụ đã nêu trong đoạn trước. “Tư duy quán bỉ pháp tánh hư không”. Quý vị đối với pháp tánh hư không chẳng nhập quán, vẫn chưa có thiện xảo; khi đó, chủng tử của chính mình bồng bột, chẳng thể chiếu kiến thế gian này rành rẽ, phân minh, chỉ có thể chiếu kiến các chủng tử trong tâm địa của chính mình.
Tôi thường gặp những kẻ thích thị phi, không có việc gì, bèn đến nói: “Trời ạ! Chẳng phải là nên đuổi cái gã Trương Tam đi hay sao? Cái thằng Lý Tứ phạm lỗi quá nhiều! Cái thằng Trần Nhị có vấn đề”. Vấn đề gì vậy? Rốt cuộc là gã ăn vụng vật chi đó. “Cái tên Vương Ngũ cũng có vấn đề. Thầy coi đó, nó đích xác là thứ không làm gì ra hồn, làm sao có thể xuất gia, làm sao có thể học Phật được chớ? Gã cư sĩ này sao có thể ở chỗ này cho được? Thầy thấy nó làm chuyện gì chưa? Nó làm chuyện chẳng ra người nữa…” Kẻ đó cứ đảo tới đảo lui các thứ đó, cũng là cõng gánh nặng khuyết điểm của kẻ khác, có nên hay chăng? Cứ việc cõng đi! Nhưng nếu quý vị dứt bỏ gánh nặng ấy, vác đến chỗ tôi, tôi thật sự mừng giùm quý vị. Chỉ sợ sau khi đã vác đến chỗ tôi, quý vị cảm thấy mất mát, lại cõng về! Cũng có nghĩa là cơ chế quán “pháp giới tánh Không” của chúng ta chẳng thành thục. Một khi đã đạt tới chỗ thành thục, đem đến chỗ tôi “đổ rác” là tốt nhất! Trước kia có người đến tố khổ, tôi nói: “Được! Tôi là một cái thùng rác lớn vô hạn. Quý vị cứ đổ vào đó là được rồi, cứ tùy tiện đổ. Quý vị có bao nhiêu rác cứ tận tình đổ, nhưng đừng nên mang đi. Nhất định là đổ xong chẳng còn lưu lại một tí nào hết! Khi quý vị trở về, rác đã sạch sành sanh thì được!” Nhưng rất nhiều người một túi rác đổ mấy chục lần, đổ rồi lại nhặt lên đem đi! Tôi cảm thấy mệt quá, tôi nói: “Bồ Tát ơi! Quý vị đúng là [rảnh rang quá], vứt đi sẽ tốt hơn! Rác rưởi lại chẳng phải là thứ tốt đẹp gì, nó làm lụy quý vị, cứ gồng gánh nó làm chi?”
Vì sao nói điều này? Là do hiện thời pháp tắc “khéo quán” của chúng ta chẳng đủ. Do vậy, các vị thiện tri thức học Phật, nhất định phải trút bỏ hai gánh nặng ấy. Sau khi tôi đọc bản dịch gốc[4] của kinh Vô Lượng Thọ, trong ấy, đã có một đoạn đức Thế Tôn nói với ngài A Dật Đa, tôi đã bị chấn động cực lớn! “Phật cáo A Dật Đa: – Như Lai sở tác, ưng tác, dĩ tác, nhữ đẳng an trụ vô nghi. Mạc trụ trân bảo thành tựu lao ngục” (Đức Phật bảo ngài A Dật Đa: – Đối với chuyện Như Lai làm, nên làm, đã làm, các ông hãy an trụ chẳng nghi trong ấy. Đừng ở trong tù ngục do các thứ quý báu hợp thành). Đấy là đức Thế Tôn nói với ngài Di Lặc là một vị Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát, nói điều gì? Đừng ở trong lao ngục do các thứ quý báu hợp thành. Chuyện Như Lai thực hiện, nên làm, đã làm chính là “buông tâm địa Bồ Tát của ông xuống, trở vào trong pháp tắc an lạc rốt ráo của Như Lai Thế Tôn”. Ông chẳng cần tạo tác chi hết, cứ tùy thuận là được rồi! Tôi mười phần chấn động, khiếp sợ, vì đức Phật đã tuyên nói với A Dật Đa là vị Thế Tôn trong tương lai như thế! Chẳng biết chúng ta có rất nhiều rác rưởi “quý báu” hay không? Có rất nhiều thiết trí trân bảo đó chăng? Quá nhiều! Hôm nay ở nơi đây học một sở trường, ngày mai học ở chỗ kia một sở trường khác! Trong chốc lát này, học kỹ thuật ở đây; nhoáng một lúc sau, lại đến học ưu thế ở chỗ nọ! Tôi đã thấy các vị Bồ Tát trong thế gian, có kẻ tự đại nhưng chẳng làm cao được, vì chẳng có ai cho phép kẻ đó làm cao. Thấp thì tuyệt đối chẳng muốn làm, vì cảm thấy “đại tài tiểu dụng” (tài lớn dùng vào việc vặt vãnh), cho nên trở thành kẻ vô tích sự, lãng phí cả đời! Người kiểu đó quá nhiều! Trong Tăng chúng, người người học đòi kiểu ăn nói “cao minh” càng nhiều hơn, càng chẳng thể làm nên trò trống gì. Gánh nước, làm chuyện nhỏ, sẽ cảm thấy chẳng thích hợp, vì cho rằng chính mình là “đại nhân vật”. Vì sao làm việc nhỏ liền cảm giác không thích hợp? Vì cho rằng chính mình là “đại nhân vật”. Vì sao như thế? Vì miệng toàn thốt lời đao to búa lớn, nhưng chẳng hề thật sự làm chuyện gì, chẳng thể như thật chất phác như hồi mới phát tâm, trầm tĩnh làm việc.
Tôi thường so sánh, trong quá khứ, tôi đã thưa với thầy tôi như thế, mà hiện thời vẫn nói như thế. Một khoảng thời gian trước khi sư phụ của tôi ngã bệnh, tuổi Ngài đã rất cao, thân thể rất yếu, nhưng đối với hai thời công khóa sáng tối, Ngài nhất quyết chẳng bỏ sót buổi nào. Tôi so sánh, thưa với thầy: “Sư phụ! Nghiệp chướng của con nặng nề như vậy. Hễ muốn lên tụng niệm công khóa cùng đại chúng, liền có vấn đề, có chuyện đưa tới [phải giải quyết] liền, làm như thế nào đây?” Đích xác là rất nhiều lần đều như vậy! Ngay tại chùa Phóng Quang, tôi đã thử rất nhiều lần. Tính lên chánh điện tụng kinh, liền có chuyện cần phải lo liệu, chẳng thể không làm. Sư phụ bảo: “Nghiệp chướng đấy! Đó là nghiệp quả do nhiều đời nhiều kiếp chẳng tu phước báo mang lại”. Trước kia, tôi theo sư phụ xuất gia, đối với công khóa, sư phụ yêu cầu mười phần nghiêm ngặt. Tôi nghe người khác nói: Lúc đó, Hiệp Hội Phật giáo [Trung Quốc] cho người thỉnh Ngài trở về[5], cũng là vì để Ngài hướng dẫn tăng sĩ toàn quốc cách đánh pháp khí và tụng niệm công khóa. Thuở đó, trong nước các vị xuất gia sư phụ đặc biệt ít. Lão hòa thượng đặc biệt tinh thông quy củ. Vì thế, các vị thuộc Hiệp Hội Phật giáo thuở ấy như cụ Triệu Phác Sơ v.v… mời Ngài về nước. Ngài đối với công khóa mười phần nghiêm túc. Thường là những người khác học công khóa với Ngài đều mười phần nghiêm túc, nhưng tôi khá buông lung. Trước nay, chưa hề nghiêm túc học, mà cũng chẳng thể thông thuộc. Thuở ấy, [có quy định] trong ba tháng mà chẳng thể thông thuộc công khóa, [học tăng] phải ký đơn [xin trở về thế tục], tức là người xuất gia sau khi đã xuất gia phải như thế này: Trong ba tháng, ắt phải học thuộc ngũ đường công khóa[6]. Nếu không, quý vị phải trở về nhà. Nếu chẳng như vậy, quý vị đến đây để làm gì? Hiện thời, tôi đối với Tăng chúng chẳng dám yêu cầu như thế, vì tôi cũng chẳng làm được! Trước kia, tôi cũng chẳng làm như thế! Nhưng chúng ta có cần đòi hỏi chính mình [phải làm được như thế] hay không? Vì nhân duyên ấy, trước kia, tôi lên tụng niệm công khóa vẫn được, ở trong các ngôi chùa nhỏ đơn giản hơn, hoặc làm chấp sự trong một ngôi tùng lâm đại chúng, vẫn rất đơn giản, nhưng hiện thời tạp duyên tíu tít, muốn lên chánh điện tụng kinh [đúng thời khóa] rất khó khăn. Tôi thường lẩn quẩn trong điện đường, vừa tính tham dự công khóa thì mới năm phút sau đã có điện thoại, chẳng thể tham dự được, cảm thấy rất đau khổ, trong tâm cũng có mâu thuẫn. Đó là nghiệp tướng, nghiệp báo sai khác vậy.
Mặt khác, nhìn vào cảm nhận đối với công khóa của một số vị sư phụ xuất gia khác, tôi cũng so sánh. Nhân duyên phước báo là gì? Tôi cảm thấy Tăng nhân làm chuyện của chính mình là phước báo lớn nhất. Tôi là một Tăng nhân, tôi niệm tụng, học tập pháp tắc của chính mình. Đấy là phước báo lớn nhất. Nếu là cư sĩ, cung kính Tam Bảo, yêu mến đạo tràng, cũng là phước báo lớn nhất. Làm chuyện thuộc về bổn phận của chính mình là đủ dùng rồi, cần gì phải vô cớ tạo tác thêm các chuyện khác nữa? Ngài A Dật Đa (Di Lặc Bồ Tát) có lao ngục bằng trân bảo, bọn chúng ta hiện thời có [lao ngục giống như thế] hay không? Trong tâm trí có phải là thật sự tư duy, quan sát “bỉ pháp tánh hư không” hay chăng? Hãy tư duy vấn đề này, so sánh vấn đề này. Vì thế, so sánh giữa thế hệ của chính mình và thế hệ của sư phụ tôi, chúng tôi thua kém mười vạn tám ngàn dặm! Xét theo đạo đức, tu trì, đều mười phần thua kém rất lớn. Tôi thường xuyên tư duy, quan sát chuyện này, có khi [tự cảm thấy chính mình] bị nghiệp báo bức bách, hổ thẹn vô dụng. Nói cách khác, rất hổ thẹn cũng vô dụng, làm thế nào đây? Chỉ có thể sám hối nghiệp báo của chính mình, tận lực thủ hộ các pháp tắc Phật giáo mà chính mình khá ưa thích, nhưng rất khó. Vì sao? Nghiệp báo đã chín muồi, nghiệp lực bức bách, thường là các tình huống tôi cảm thấy rất khó vượt qua. Vì sao? Vì nếu thật sự chứng đắc cái gọi là “tư duy bỉ pháp tánh hư không”, hiện duyên của chúng ta, duyên khởi ngay trong hiện tại sẽ chẳng khiếm khuyết, sẽ là chọn lựa thanh tịnh, chẳng có bất cứ tiếc nuối nào! Nói như vậy, tức là quý vị có thể chọn lựa trong hiện tại, chẳng cần bất cứ gánh nặng nào! Chẳng hạn như tôi vừa nhắc đến điện thoại, điện thoại gì nữa chẳng trả lời, thích lên chánh điện tụng kinh tôi liền lên chánh điện, chẳng có vấn đề gì, chẳng cần bận tâm, xa lìa hết thảy các chọn lựa đau khổ, đời người sẽ đơn giản hơn, đó là pháp tánh quang đãng! Chẳng lo được, lo mất, chẳng cõng Dị Thục Quả bởi nghiệp duyên của chính mình từ vô thỉ đến nay, chẳng đèo theo gánh nặng ấy, chẳng đèo theo lao ngục bằng trân bảo. Đó vẫn là sự cổ vũ, chống đỡ trong sanh mạng, quý vị có thể vượt qua nó, vượt qua như thế nào? Ngay trong một niệm hiện tiền này. Nếu chẳng thiếu sót, thanh tịnh trọn đủ, dùng duyên khởi ấy để làm việc, quan sát hiện duyên, đối với hành pháp quả địa sẽ là “tu ngay lập tức”, “hành ngay lập tức”, “lựa chọn ngay lập tức”.
(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Như bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, kỳ thế giới trung, chư Bồ Tát đẳng, sanh bỉ quốc giả, ư sơ nhất nhật, quán sát Đông phương, đa kiến chư Phật, đa kiến bách Phật, nãi chí đa kiến bách thiên ức na-do-tha Phật dĩ. Nhiên hậu, ư đệ nhị nhật, quán sát Nam phương, như thị nãi chí thập phương, sự giai nhược thử. Như thị Hiền Hộ! Nhược Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Bồ Tát Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội.
(經)復次賢護!如彼阿彌陀如來、應供、等正覺,其世界中,諸菩薩等,生彼國者,於初一日,觀察東方,多見諸佛,多見百佛,乃至多見百千億那由他佛已。然後,於第二日,觀察南方,如是乃至十方,事皆若此。如是賢護!若菩薩摩訶薩成就菩薩思惟諸佛現前三昧。
(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Như đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, các hàng Bồ Tát trong thế giới ấy, sanh vào cõi của Ngài, trong ngày đầu tiên, quan sát phương Đông thấy nhiều vị Phật, thấy cả trăm vị Phật, cho đến thấy cả trăm ngàn ức na-do-tha vị Phật. Sau đó, trong ngày thứ hai, quan sát phương Nam, như thế cho đến mười phương đều là như vậy. Như thế đó Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Bồ Tát Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội như thế ấy).
Trọng điểm của phẩm này là thấy Phật và phương pháp thấy Phật. Tỷ dụ xem tinh tú trong phẩm này có thể hướng dẫn chúng ta cách tư duy “quán bỉ pháp tánh hư không, dĩ tưởng thành cố” (quán pháp tánh hư không ấy, do tưởng đã thành). Đấy là duyên khởi thanh tịnh để thấy chư Phật Thế Tôn và pháp tắc “tâm làm Phật, tâm là Phật”. Vì sao người hiện thời nẩy sanh chướng ngại đối với chuyện thấy Phật? Hoặc nói hai loại rác rưởi, hoặc mây đen che lấp như thế nào? Đó gọi là mây đen “những điều tốt đẹp của bản thân” và mây đen “những điều xấu xa của kẻ khác”. Hai thứ mây đen ấy, một thứ là bạch chướng, thứ kia là hắc chướng. Ác nghiệp của kẻ khác là hắc chướng che lấp tự tâm. Thiện nghiệp và thiện duyên của chính mình, tức các thứ được gọi là “tốt đẹp”, chính là bạch chướng, cũng che lấp tự tâm, có thể khiến cho tâm trí con người ngu mê y hệt. Vì thế, do hai loại chướng duyên ấy mà chẳng thể thấy Phật. Nếu ai có công phu Thiền Định, sẽ thấy sự việc cặn kẽ hơn! Chẳng hạn như trong một số pháp tu Thiền Định, năm loại chướng tất nhiên sẽ hiện tiền, tức hắc chướng, hoàng chướng, bạch chướng… Đó là ngũ sắc chướng, theo thứ tự khởi lên, che lấp tâm trí, khiến cho chúng ta có mắt mà chẳng thể nhận biết, cũng chẳng thể quan sát cặn kẽ thế gian! Có người trong lúc Thiền Định trông thấy cảnh giới bỗng dưng xuất hiện hoàng chướng, bạch chướng, hắc chướng che lấp cảnh ấy. Trên thực tế, [các thứ chướng ấy] chính là nghiệp của chính mình từ vô thỉ đến nay, do chấp trước vào nghiệp mà tạo thành sự thật. Người thường hút thuốc nếu tu các môn Thiền Định, sẽ có chướng giống như một tấm vải đen rất dễ phủ xuống, giống như một bức màn rất dày! Nhưng nếu chúng ta quan sát pháp ích thanh tịnh, sẽ gọi là “thấy Phật mà chẳng cần phải dụng công, thảy đều hiện tiền”.
Ở đây, kinh văn đã nói mười phần rõ ràng, chủ yếu là tư duy, quan sát, tức là tư duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội. Chúng ta học kinh Ban Châu đến chỗ này, thấy điều chủ yếu trong văn tự là hướng dẫn chúng ta tư duy, quan sát sức mạnh của môn tam-muội này. Chúng ta thấy Quán được nói trong Quán Kinh chính là quán tướng (觀相, quán các tướng), như tướng hảo của Phật là như thế này, như thế nọ, đất trong thế giới Cực Lạc như thế nào, tràng báu như thế nào, Quán Âm, Thế Chí, A Di Đà Phật như thế nào, quán các tướng như thế. Còn ở đây thuần túy là quán tưởng cõi ấy. Tư duy quán tưởng, tức là quý vị dùng ngay tâm tưởng của phàm phu trong hiện tiền, dùng tâm tưởng tạp loạn để tưởng thế giới Cực Lạc, để quan sát thế giới Cực Lạc. Như trong chương Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm, đức Thế Tôn đã nói như thế này: “Nhược chúng sanh tâm, ức Phật, niệm Phật, hiện tiền, đương lai, tất định kiến Phật, khứ Phật bất viễn” (Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền, tương lai, nhất định thấy Phật, cách Phật chẳng xa), hoàn toàn chẳng phải là bảo chúng ta đừng dùng cái tâm chúng sanh để niệm Phật, nhớ Phật, vẫn là dùng cái tâm hiện tiền của chúng ta. “Tưởng” ở đây cũng giống như thế, dùng cái tâm chúng sanh để “tưởng” thế giới Cực Lạc, tư duy cõi ấy, tư duy A Di Đà Phật, tư duy Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội. Chúng ta chẳng cần kiếm một tư tưởng nào khác, cứ từ tư tưởng hiện tiền của chúng ta mà có thể tư duy, có thể quan sát!
(Kinh) Như thị Bồ Tát, ư tự độ trung, quán sát thập phương, đa kiến chư Phật, đa kiến bách Phật, nãi chí đa kiến bách thiên ức na-do-tha chư Phật dã.
(經)如是菩薩,於自土中,觀察十方,多見諸佛,多見百佛,乃至多見百千億那由他諸佛也。
(Kinh: Bồ Tát như thế, ở trong cõi của chính mình, quan sát mười phương, thấy nhiều vị Phật, thấy cả trăm vị Phật, cho đến thấy cả trăm ngàn ức na-do-tha chư Phật).
“Tự độ” của chúng ta trong hiện thời, nay chúng ta là hữu tình trong Diêm Phù Đề của thế giới Sa Bà, chẳng cần nhờ vào phương tiện, cũng chẳng đến cõi khác. Phật trong cõi khác cũng chẳng đến cõi này. Chỉ là mỗi vị Phật đều nương vào thần biến thiện xảo, tỏa quang minh lớn, khiến cho tâm trí [của hành nhân] thanh tịnh bèn thấy Phật, như thế mà thôi! Giống như gương soi vật, [hình ảnh hiện ra] trong gương chẳng đến, chẳng đi. Điều này rất dễ lý giải! Chúng ta lấy một tấm gương đem soi, thứ gì đến trước gương, gương bèn hiện bóng thứ ấy, nhưng trong cái gương ấy thật sự chẳng có gì đến đi, chỉ hiển hiện như thế mà thôi! Nếu chẳng có các thứ cảnh tướng (tướng cảnh giới), gương chỉ hiện hư không. Nếu đủ loại hình ảnh đối trước gương, đủ loại hình ảnh cùng hiện bóng. Gương ấy chẳng giảm, chẳng tăng, cũng chẳng tạo tác, mà dung nạp hết thảy. Tâm trí như gương, chiếu liễu, giác tri thế gian. Trong Phật giáo có nói Đại Viên Mãn Kính Trí, tức là một loại trí huệ như thế. Trí ấy hết thảy chúng sanh đều sẵn có, được gọi là Câu Sanh Trí (俱生智, trí bẩm sanh, sanh ra đã có), chẳng do tu thành, chẳng hủy hoại được, có người biết dùng, có kẻ chẳng biết dùng. “Biết dùng” là kéo toang cái màn chướng ngại ra, Đại Viên Kính Trí sẽ hiển lộ, sẽ thật sự quan sát “pháp tánh hư không” của pháp giới, sạch làu chẳng có tí mây đùn che đậy nào. Do vậy, chúng ta có thể quan sát thế gian.
(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Như chư Như Lai thành tựu Phật nhãn, như thị kiến dĩ, ư nhất thiết xứ, tất như thị tri, tất như thị kiến. Như thị Hiền Hộ! Nhược Bồ Tát Ma Ha Tát diệc ký thành tựu Bồ Tát Tư Duy Nhất Thiết Chư Phật Hiện Tiền tam-muội dĩ, tự nhiên mãn bỉ Đàn Ba La Mật, Thi Ba La Mật, Sạn Đề Ba La Mật, Tỳ Lê Da Ba La Mật, Thiền Ba La Mật, Bát Nhã Ba La Mật, nãi chí mãn bỉ nhất thiết Bồ Tát chư công đức đẳng.
(經)復次賢護!如諸如來成就佛眼,如是見已,於一切處,悉如是知,悉如是見。如是賢護!若菩薩摩訶薩亦既成就菩薩思惟一切諸佛現前三昧已,自然滿彼檀波羅蜜、屍波羅蜜、羼提波羅蜜、毗梨耶波羅蜜、禪波羅蜜、般若波羅蜜,乃至滿彼一切菩薩諸功德等」。
(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Như các Như Lai thành tựu Phật nhãn, đã thấy như thế, trong hết thảy mọi nơi, đều biết như thế, đều thấy như thế. Như thế đó Hiền Hộ! Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát cũng đã thành tựu Bồ Tát Tư Duy Nhất Thiết Chư Phật Hiện Tiền tam-muội, tự nhiên viên mãn Đàn Ba La Mật, Thi Ba La Mật, Sạn Đề Ba La Mật, Tỳ Lê Da Ba La Mật, Thiền Ba La Mật, Bát Nhã Ba La Mật, cho đến hết thảy các công đức của hàng Bồ Tát).
Ở đây nhắc tới sáu loại Ba La Mật, phiên dịch thành những [danh từ] mọi người quen thuộc thì là Bố Thí Ba La Mật (Dāna-Pāramitā, Đàn Na Ba La Mật), Trì Giới Ba La Mật (Śīla-Pāramitā, Thi La Ba La Mật), Nhẫn Nhục Ba La Mật (Kṣānti-Pāramitā, Sạn Đề Ba La Mật), Tinh Tấn Ba La Mật (Vīrya-Pāramitā, Tỳ Lê Da Ba La Mật), Thiền Định Ba La Mật (Dhyāna-Pāramitā, Thiền Na Ba La Mật), và Trí Huệ Ba La Mật (Prajñā-Pāramitā, Bát Nhã Ba La Mật). Ba La Mật (Pāramitā) dịch gượng là [Đáo] Bỉ Ngạn ([đến] bờ bên kia), đó là nơi an ổn, là chốn chân thật. Lục Ba La Mật có nghĩa là thông qua Thiền Định để đạt tới bờ bên kia, thông qua trí huệ để đạt tới bờ bên kia v.v… Có khi phiên dịch thật sự rất bất lực, vì từ ngữ chẳng thể thấu đạt ý ấy, chẳng thể biểu đạt viên mãn ý nghĩa ấy, thường là giới thiệu điều trước, đánh mất điều sau, giới thiệu điều sau, lại đánh mất điều trước, nói điều trên chẳng nhắc đến điều dưới, thường là luôn mất mát.
Sáu loại Ba La Mật, thật sự là một thứ tu trì hòng đạt tới chỗ an trụ, đạt tới chỗ phương tiện tự tại, là sự tu trì hòng thủ hộ “bờ bên kia” (bỉ ngạn). Tu trì như thế nào? Đạt lợi ích ngay trong hiện tiền. Chẳng hạn như bố thí thì sẽ đạt được lợi ích do bố thí. Như trong kệ tụng của đức Phật có nói: “Sở vị bố thí giả, tất hoạch kỳ lợi ích, nhược vi nhạo bố thí, hậu tất đắc an lạc” (Như nói tới bố thí, ắt đạt được lợi ích, nếu vui thích bố thí, về sau ắt an lạc). Đấy là như thật ngữ, là lời dạy của đức Thế Tôn dành cho kẻ chẳng thông thạo cách diễn đạt bằng ngôn ngữ, là bốn câu nói dành cho kẻ chẳng thông thạo kệ tán, khiến cho họ khi được người khác bố thí, có thể nói bốn câu kệ tán này để tán thán chuyện bố thí. Trì giới thì sao? Tinh tấn thì sao? Nhẫn nhục thì sao? Cũng sẽ đạt được an lạc, giống như đối với bố thí bèn nói “hậu tất đắc an lạc” (về sau ắt an lạc), trì giới cũng giống như thế, “hậu tất đắc an lạc”. Nhẫn nhục, tinh tấn cũng sẽ “hậu tất đắc an lạc” y hệt. Hành trì Lục Ba La Mật, tất nhiên sẽ được an lạc. Sự an lạc ấy chân thật, chẳng dối. Đối với các loại lợi ích của Lục Ba La Mật, hãy nên như thật tuyên nói. Trong kinh điển nhà Phật đã chuyên tuyên nói, dùng rất nhiều ngôn từ hay đẹp, công đức chân thật, giáo ngôn như thật, khiến cho người tu trì sẽ thủ hộ Lục Ba La Mật.
“Tự nhiên mãn bỉ” (Tự nhiên viên mãn) Lục Ba La Mật. Chúng ta có thể thấy chư Phật, tức là thiện căn [của chính mình đã] thành thục. Đối với công đức đạt được do chấp trì Lục Ba La Mật, chúng ta đều có thể thật sự ấn khế trong Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, sẽ tương ứng đạt được. “Đạt được” là không có gì để đạt, dùng vô sở đắc xứ (không thấy có gì để đạt được) mà thanh tịnh an trụ, cho nên đạt được. Cái “đắc” ấy lợi ích chúng sanh, [chẳng hạn như] thân thể khinh an, chẳng vướng mắc, chẳng phải là cái Đắc theo kiểu “có điều gì để đạt được” của thế gian, tức là cho rằng [ta làm như thế nào đó], ta sẽ đạt được như thế nào đó. Kiểu đó là cõng vác gánh nặng, là hữu tình chấp trước. Hữu tình chấp trước phần nhiều đọa trong tà kiến. Chúng ta đã biết, mà cũng đã thấy, giống như gánh nặng trân bảo và rác rưởi trong thí dụ trên đây, còng lưng cõng gánh nặng “những thứ tốt đẹp của ta”, chẳng hạn như nói “ta trì giới, ta tinh tấn, ta Thiền Định” v.v…
Trước kia, căn bệnh này của tôi đặc biệt nặng nề. Nếu tôi lên tham dự công khóa, mà thấy người khác không tham dự, không được rồi, sẽ tìm người đó cằn nhằn. Ngay như trong hiện thời, căn bệnh ấy vẫn còn rất lớn! Hễ thấy kẻ nào học Phật chẳng siêng gắng, [tôi liền bực bội, phiền trách] “vừa mới phát tâm giống như vừa mới nhập học, vì sao chẳng học tập?” [Kẻ sơ học mà chẳng siêng năng tu tập] là vì tỵ nạnh với thầy, nhưng thầy đã tốt nghiệp, đã dạy rất nhiều trò tốt nghiệp. [Thế mà] quý vị vẫn so đo: “Kẻ khác chẳng học, ta chẳng học”, vậy là đi sai đường mất rồi! Hiện thời, rất nhiều người vừa mới vào chùa, cạo tóc xong, đắp y xong, làm gì? Tỵ nạnh với sư phụ. Nay tôi lên chánh điện dòm thử, toàn là những người bắt chước tôi: “Ngươi không lên tụng niệm công khóa, ta cũng không lên tụng niệm công khóa!” Nhưng giống như chúng ta mới vào Tiểu Học, phải siêng năng học tập, phải làm bài tập cho lớp Một, lớp Hai, lớp Ba, lớp Bốn, lớp Năm. Quý vị chớ nên tỵ nạnh thầy giáo dạy Tiểu Học chẳng làm bài tập, có nên tỵ nạnh hay không? Nếu [tỵ nạnh rồi chẳng làm gì hết] như vậy, quý vị chẳng học được bất cứ môn văn hóa nào hết, thật sự là khiến cho chính mình lỡ làng! Các vị thiện tri thức ơi! Trong quá trình An Cư này, chúng ta thực hiện trọn hết bổn phận của chính mình như thế nào? Mỗi người chúng ta đều có chuyện thuộc về bổn phận của chính mình. Chẳng hạn như quý vị là người mới học, nhất định phải tuân theo nhân duyên sơ học của chính mình. Là một sa-di, hãy thật thà thực hiện công khóa của sa-di, thực hiện ngũ đường công khóa của chính mình, học tập giới luật của chính mình. Là tỳ-kheo thì hãy khéo học tập giới luật tỳ-kheo của chính mình, đấy là bổn phận! Nếu quý vị cứ muốn so đo, sẽ rất phiền não! Vừa mới xuất gia, chẳng học công khóa, chẳng học giới luật, chẳng học pháp khí, chẳng học quy củ trong tự viện. Theo lối xưa, toàn là người đã thành niên (trưởng thành) xuất gia. Trong Phật giáo Nam truyền, thì toàn là trẻ nhỏ xuất gia. Trưởng thành xuất gia vốn có rất nhiều khuyết điểm: Tri kiến đã định, nghiệp tập đã định, thói quen đã định, bản thân sẽ rất khó vượt qua. Chẳng dùng đại lực cường duyên, căn bản là chúng ta chẳng thể thay đổi chính mình. Kết quả là xuất gia uổng công chịu khổ, mà chẳng tương ứng. Thật sự là như thế đó! Vì đây là công khóa An Cư, tôi thừa dịp này mà nói trọng điểm, mong mọi người rộng dung, nhưng quý vị phải cảnh giác đôi chút.
Tôi thường suy nghĩ chuyện này, vì sao sa-di chẳng lên chánh điện tụng niệm công khóa? Vì sao vị sư phụ vừa mới xuất gia không học tập công khóa? Trong các vị sư phụ xuất gia, có [các vị nắm các chức vụ] đại liêu, có duy na, có tri khách, cũng có vị làm đương gia, nếu mọi người cứ lo so đo, toàn bộ sẽ đều rối loạn. Sa-di chẳng làm chuyện của sa-di, cứ tỵ nạnh với các tỳ-kheo: “Họ ngủ, ta cũng ngủ. Họ buông lung, ta cũng buông lung. Họ không học, ta cũng khỏi học”… Được rồi! Học tập Phật pháp kiểu đó tức là chúng ta chẳng giữ bổn phận, ai nấy đều cùng bại hoại! Cho nên nhìn vào những người xuất gia trong hiện thời, tôi thật sự mười phần đau lòng! Cư sĩ thì sao? Đương nhiên là có chuyện thuộc bổn phận của cư sĩ, chẳng hạn như tôn trọng Tam Bảo, thủ hộ pháp tắc của chính mình, tu tập pháp tắc của chính mình, bỏ phiền não tri kiến của chính mình, cũng đều là có nhân duyên riêng biệt của chính mình.
Cho nên tôi cảm thấy, mọi người đều phải nên chú ý chuyện thuộc bổn phận của chính mình. Nếu ta làm chẳng được, ta phải nên sám hối! Mọi người chẳng làm nổi chuyện thuộc bổn phận của chính mình, cũng nên sám hối, đừng xâm đoạt lẫn nhau! Nếu không, chúng ta vào chùa miếu để làm gì? Ưu thế của tự viện là gì? Ưu thế của tại gia là gì? Ưu thế của xuất gia là gì? Ưu thế của sa-di là gì? Nếu quý vị chỉ vì đeo cái danh hiệu ấy mà đến đây, quả thật đáng tiếc quá, mà cũng là có lỗi với chính mình, chỉ là khoác thêm một lớp áo bên ngoài[7] vô ích! Chẳng có một tí ý nghĩa nào! Tối đa là thêm hai cân phân lượng đó thôi! Khi tôi đắp y lần đầu, đại khái là sau khi đã thọ giới bảy tháng, khi niệm bài kệ Đắp Y[8], đúng là cảm thấy chính mình lún sâu xuống ba thước đất, chìm lỉm, khó thể chống đỡ, chẳng thể nhận lãnh trách nhiệm, không thể gánh vác áp lực do đắp y. Nhưng hiện thời, mọi người đều vội vã tiến cao hơn, muốn có cái danh thôi! Chúng ta có thể mở cuộc thi để khảo hạch, quý vị có thật sự trúng cách làm hình đồng sa-di[9], sa-di, tỳ-kheo hay không? Quý vị có nội hàm gì? Lại như cư sĩ đến chùa, sẽ coi chùa ấy có ưu thế gì, cư sĩ chúng ta sẽ tán trợ ưu thế ấy để vận dụng pháp tắc gì? Thành thục thiện căn như thế nào? Tôi cảm thấy những điều ấy đều cần phải tư duy quan sát. Ở đây, chẳng có mảy may chỉ trích nào; đấy là chuyện thuộc bổn phận của chính mỗi người mà!
Ngẫu Ích đại sư nói một câu khiến cho tôi một mực chấn động rất sâu. Trong Linh Phong Tông Luận, Ngẫu Ích đại sư nói: “Đa hữu nhân pháp tắc vị tập, mạn tràng tiên lập” (Lắm kẻ pháp tắc chưa tu tập, đã dựng tràng kiêu mạn trước). “Tràng kiêu mạn” là gì? Chẳng coi ai ra gì, chính mình muốn nổi bật lên, nói năng đã đổi giọng, vẻ mặt đã biến đổi. Quá khứ là kẻ thế tục, nay đã thành Phật rồi! Phật gì vậy? Do cái tâm kiêu mạn mà tự mình nhận định đó thôi! Đối với chuyện này, người xuất gia phải nên chú ý người xuất gia, cư sĩ nên chú ý cư sĩ, đấy là một hiện tượng đặc biệt phổ biến. Vì hiện thời là thời gian An Cư, mọi người hãy xét kỹ chuyện này. Nếu chẳng có chuyện như vậy, hãy nên tu trì nhẫn nhục, nhưng chúng ta có thể thật sự tư duy hay không? Làm một người xuất gia, quý vị là sa-di, hãy trọn hết nghĩa vụ sa-di, thật sự hành trì hạnh sa-di, lại tiến nhập tỳ-kheo. Quý vị đã là tỳ-kheo, thật sự làm tốt chuyện của tỳ-kheo, mọi người nhất định sẽ để cho quý vị làm chuyện khác, chẳng cần phải sốt ruột. Có một ngày, tôi đi trong chùa, đi một vòng trên lẫn dưới, tôi liền suy nghĩ: “Hiện thời, tạo lập ngôi chùa này có còn tất yếu hay không? Người khác nói dựng tòa nhà này, dựng tòa nhà kia, chiêu tập càng nhiều người thì sao? Nay chúng ta đang ở đây có đạt được pháp ích hay không? Nếu thật sự chẳng thể nắm được lợi ích thực chất, xây dựng chùa có ý nghĩa gì đâu?” Tôi tự vấn: “Chúng ta dựng tự viện này để làm gì?” Vì trước kia điều tôi không thể chịu đựng được nhất là chùa trống. Đến một ngôi chùa trống (chẳng có người tu hành), sẽ chẳng thể chịu được. Vì đó vốn là đạo tràng, nay dành cho quỷ ở, là nhà trống, người không ở thì quỷ ở! Nơi này của chúng ta có phải là đạo tràng hay không? Đạo nghiệp của mọi người ở chỗ nào vậy? Có phải là trong tâm trí mỗi người chúng ta đều thật sự sanh khởi lòng tôn trọng [đạo nghiệp] hay không? Hay là vẫn nóng lòng nơi hiệu quả và lợi ích của việc ngay lập tức thay đổi thân phận của chính mình hòng nhanh chóng thành tựu thứ gì vậy? Có phải là đúng thật thực hiện nơi thân tâm của chính mình hay không? Tôi cảm thấy mọi người đều cần phải như thật tự hỏi lòng mình, hỏi người khác vô ích! Tự viện hiện thời vẫn là rất nhiều. Nếu chúng ta thật sự chẳng học tập ở nơi đây, chỉ là biểu hiện hình thức, nhằm thay đổi thân phận tại đó. Điều ấy chẳng cần thiết, thân phận có thể thay đổi bất cứ lúc nào. Chúng ta phải rất nghiêm túc quan sát đạo nghiệp của chính mình như thế, đạo nghiệp thành thục, xét xem chính mình có chịu trách nhiệm đối với chính mình hay không? Trước hết, đừng quản người khác. Tín thí có đến cũng chẳng thay đổi, coi xem chúng ta có nghiêm túc sử dụng tòa điện đường này hay không? Đạo nghiệp của chúng ta có thật sự nghiêm túc hay không? Nay chúng ta ăn, dùng, còn có hoàn cảnh, đích xác đều chẳng thể nói là xấu xa, nhưng đạo nghiệp của chúng ta có tiến nhập như thật hay không? Đối với chuyện này, bất luận chúng ta quan sát theo phương diện nhẫn nhục, hay quan sát theo phương diện Bát Nhã cũng thế, quan sát theo giới luật cũng thế, chẳng quan sát là không được!
Vì nói đến Lục Ba La Mật, ở đây, tôi nhắc nhở đại chúng thường trụ, hy vọng chúng ta quý tiếc nhân duyên của chính mình. Có một sa-di từ nơi khác đến, tôi hỏi ngôi chùa ông ta đang ở như thế nào, ông ta đáp: “Hiện thời là An Cư, chờ an cư xong, chắc chắn kẻ nên đi thì sẽ đi, kẻ nên đến thì sẽ đến”. Tôi nói: “Như thế đó, chùa miếu là như thế đó. Duyên nhóm họp thì tụ tập, duyên tán thì tan đàn xẻ nghé”. An cư là do được chư Phật, Bồ Tát gia bị, khiến cho mọi người có thể cùng nhau học tập, tu tập một pháp tắc, có thể trật tự, hệ thống, theo từng tầng cấp mà học tập. Một khi an cư đã kết thúc, ai nấy tất bật với chuyện của riêng mình, có khi tất bật vì nghiệp lực, có khi tất bật vì pháp tắc, lập tức sức ngưng tụ chẳng còn nữa. Hiện thời, do được Tam Bảo, chư Phật, chư Bồ Tát gia bị, chúng ta có sức ngưng tụ này. Nếu chẳng phải như vậy, chẳng biết mọi người đã dời đến nơi nào đó ở trời Nam biển Bắc từ khuya rồi, lại càng chẳng cần phải nhắc tới chuyện học tập hay không! Do vậy, trong thời gian an cư học tập, tôi mười phần quý tiếc cơ hội này! Thực tế là ngay trong hiện tiền, trong mỗi cơ hội, chúng ta đều phải nên trân quý, chỉ là biểu hiện không giống nhau đó thôi!
Nhắc tới Lục Ba La Mật, tuy tôi nói nặng nề một chút, thô tháp một chút, chỉ hy vọng mọi người hãy dùng mắt trí huệ để quan sát chuyện này, dùng giáo ngôn trí huệ của chư Phật để gột sạch sự trúc trắc ấy. Đừng nên nẩy sanh trúc trắc, vì trúc trắc có thể là do nghiệp lực hiển hiện, chúng ta thật sự phải vượt qua sự trói buộc của nghiệp lực và nhân quả, tôn trọng nhân quả, tạo lợi ích cho nghiệp lực hữu tình! Quả thật đáng phải nên như vậy!
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa, dĩ kệ tụng viết: “Do như tĩnh dạ trừ vân vụ, hữu minh nhãn giả ngưỡng quán không”.
(經)爾時,世尊爲重明此義,以偈頌曰:「猶如靜夜除雲霧,有明眼者仰觀空。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vì để nói rõ lại nghĩa này, bèn dùng kệ tụng để nói: – Ví như đêm thanh, sạch mây mù. Người mắt sáng ngẩng nhìn hư không).
Nhất định phải hiểu đây là lời dạy về quán Phật, là một pháp tắc để thấy Phật.
(Kinh) Kiến bỉ chúng tinh quá bách thiên, trú niệm minh liễu diệc vô thất.
(經)見彼衆星過百千,晝念明了亦無失。
(Kinh: Thấy hơn trăm ngàn các tinh tú, ban ngày nhớ rõ, chẳng quên mất).
Buổi tối, chúng ta thấy trời đầy sao. Ban ngày tất nhiên cũng có thể nhớ lại, quý vị sẽ nói: “Đêm qua sao rất sáng! Ngày hôm qua trời rất quang đãng!” Vì sao vậy? Sự ức niệm và tư duy của quý vị có tánh chất tiếp nối.
(Kinh) Bồ Tát như thị đắc định dĩ, đa kiến vô lượng ức thiên Phật.
(經)菩薩如是得定已,多見無量億千佛。
(Kinh: Bồ Tát đắc định như thế rồi, thấy nhiều vô lượng ức ngàn Phật).
Bốn câu kệ trong phần trước là tỷ dụ về thấy Phật, ở đây nói: Nếu đã đắc định như thế, sẽ thấy chư Phật nhiều đến vô lượng ức ngàn vị. Nếu quý vị tương ứng, sẽ khởi lên tác dụng như thế.
(Kinh) Phục ư khởi tư tam-muội hậu, hoàn vị đại chúng diễn tối tôn. Như ngã Phật nhãn thanh tịnh cố, vô hữu chướng ngại kiến thế gian.
(經)復於起斯三昧後,還爲大衆演最尊。如我佛眼清淨故,無有障礙見世間。
(Kinh: Lại sau khi đã khởi tam-muội, còn vì đại chúng diễn tối tôn. Như mắt của Phật luôn thanh tịnh, trông thấy thế gian chẳng chướng ngại).
“Như ngã Phật nhãn thanh tịnh cố, vô hữu chướng ngại kiến thế gian” (Như do Phật nhãn của ta thanh tịnh, cho nên thấy thế gian chẳng có chướng ngại): Chúng ta đều biết công đức của hành pháp Ban Châu tam-muội, tức Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập khi đã thành tựu, người chưa đắc Thiên Nhãn mà trông thấy các thế gian. Chưa đắc Thần Túc, chẳng cần bay đến phương khác, chẳng lìa cõi này mà được thấy chư Phật, được thấy sự trang nghiêm trong cõi khác.
(Kinh) Thị chư Phật tử Bồ Tát môn, xuất thử tam-muội tối thắng quán. Dĩ vô tướng tưởng tư Như Lai, nhi kiến thập phương chư Đẳng Giác.
(經)是諸佛子菩薩們,出此三昧最勝觀。以無相想思如來,而見十方諸等覺。
(Kinh: Các hàng Phật tử, Bồ Tát ấy; ra khỏi tam-muội tối thắng quá. Dùng vô tướng tưởng nghĩ Như Lai, mà thấy mười phương các Đẳng Giác).
“Dĩ vô tướng tưởng tư Như Lai, nhi kiến thập phương chư Đẳng Giác” (Dùng vô tướng tưởng nghĩ Như Lai, mà thấy mười phương các Đẳng Giác): Vô tướng tư và vô tướng tưởng ở đây mười phần trọng yếu. Đó gọi là “pháp giới tận hư không”, hoặc “pháp tánh tận hư không”. Nếu chẳng tư duy như thế, cái tâm của quý vị sẽ chẳng phải là “tâm làm Phật, tâm là Phật”, chẳng thể thành lập “tâm làm Phật, tâm là Phật”. Do bị chấp trước hư vọng khuất lấp, những điều quý vị chấp trước lại che phủ quý vị.
(Kinh) Phá trừ não độc cập chư tưởng, nhữ thính Bồ Tát diệu công đức. Nhược thính bỉ pháp thanh lương tâm, năng nhập không tịch vô úy xứ.
(經)破除惱毒及諸想,汝聽菩薩妙功德。若聽彼法清涼心,能入空寂無畏處。
(Kinh: Phá độc phiền não và các tưởng, ông nghe Bồ Tát diệu công đức. Nếu nghe pháp ấy, tâm thanh lương, bèn nhập chỗ không tịch, chẳng sợ).
“Nhược thính bỉ pháp thanh lương tâm. Năng nhập không tịch, vô úy xứ” (Nếu nghe pháp ấy, tâm thanh lương, bèn nhập chỗ không tịch, chẳng sợ): Hết thảy phàm phu ở nơi trống vắng, hoặc nơi không biết, sẽ sanh sợ hãi to lớn. Cho nên hết thảy chư Phật Như Lai mỗi vị đều kiến lập quốc độ thanh tịnh và mầu nhiệm để chúng sanh tiến nhập, xa lìa sợ hãi. Nếu chúng ta không có quốc độ trang nghiêm, thanh tịnh, vô tận diệu dụng ấy, tiến thẳng vào chỗ trống vắng, sẽ nẩy sanh sợ hãi.
“Không tịch” là tột cùng của cái tâm tự tại. Quý vị chẳng có cơ sở ấy, hễ đến chỗ không tịch, chỗ không biết, sẽ sanh lòng sợ hãi. Sợ hãi như thế nào? Sợ hãi đoạn diệt, sợ hãi vì vô tri, sợ hãi vì chẳng có gì để đạt được, sợ hãi vì chẳng có đối đãi, sợ hãi vì không có chỗ chụp nắm. Nhất thời, [các nỗi sợ hãi ấy] đều dâng lên. Vì thế, chư Phật Như Lai kiến lập công đức thù thắng, cho tới các loại thọ dụng, là vì muốn khiến cho chúng sanh an lạc tiến nhập loại thiện xảo “không tịch vô úy” này. Hiện thời, chúng ta đừng nói là “chẳng sợ hãi chỗ không tịch”, mà ngay cả đối với cõi thật sự tồn tại, tức vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc là một quốc độ trang nghiêm, thù thắng, trọn đủ các thứ thọ dụng, rất nhiều người vẫn chưa hiển lộ rõ ràng nguyện vọng này. Đó là một pháp tắc chuyển biến liên tục[10]. Quý vị có thể quán kỹ càng tâm lý của chính mình. Nếu chẳng phải nắm giữ đồ vật chi đó, tâm quý vị có thật sự an lạc, sáng suốt, không sợ hãi hay chăng? Nếu thật sự ở chỗ không tịch mà có thể an lạc, chẳng sợ hãi, người ấy đắc pháp nhãn thiện xảo. Nếu có thể thấy thấu suốt pháp tánh, sẽ đạt được tự tại ngay trong hiện tiền. Sức tự tại ấy chỉ có Phật đích thân chứng đắc, chỉ có Bồ Tát khéo nhận biết, khéo vận dụng! Đoạn văn tự này mười phần đáng chú ý!
(Kinh) Như ngã đương kim thuyết tư pháp, vị linh chúng sanh chứng Bồ Đề. Như bỉ an lạc chư Bồ Tát, đa kiến vô lượng Phật Thế Tôn. Bồ Tát như thị nhập tư duy, diệc kiến bách thiên đa Điều Ngự. Như thử tỳ-kheo duy A Nan, nhất văn ngã thuyết tất năng thọ. Bồ Tát như thị đắc tam-muội, thính nhất thiết pháp năng tổng trì.
(經)如我當今說斯法,爲令衆生證菩提。如彼安樂諸菩薩,多見無量佛世尊。菩薩如是入思惟,亦見百千多調御。如此比丘唯阿難,一聞我說悉能受。菩薩如是得三昧,聽一切法能總持。
(Kinh: Như ta nay đang nói pháp này, vì khiến chúng sanh chứng Bồ Đề. Như các Bồ Tát an lạc ấy, thấy Phật Thế Tôn nhiều vô lượng. Bồ Tát nhập tư duy như thế, cũng thấy hơn trăm ngàn Điều Ngự. Như trong tỳ-kheo riêng A Nan, vừa nghe ta nói đều vâng nhận. Bồ Tát đắc tam-muội như thế, nghe hết thảy pháp đều tổng trì).
“Bồ Tát như thị đắc tam-muội, thính nhất thiết pháp năng tổng trì” (Bồ Tát đắc tam-muội như thế, nghe hết thảy pháp đều tổng trì): Tổng Trì là dịch nghĩa của Đà La Ni. Pháp môn tổng trì được phiên dịch thành hai chữ Tổng Trì, có phần nào quá sơ sài. Nói “Đà La Ni môn” mọi người liền cảm thấy trọn đủ rất nhiều nội dung. Do vậy, thường là Đà La Ni chẳng phiên dịch. Ở đây, vì sự đối ứng trong từ ngữ, bèn dịch thành Tổng Trì.
(Kinh) Thành tựu tín tàm, cụ tam-muội, tất xả nhất thiết thế ngôn ngữ.
(經)成就信慚具三昧,悉舍一切世語言。
(Kinh: Thành tựu tín, thẹn, đủ tam-muội, đều xả hết thảy tiếng thế gian).
“Thế gian ngữ” là ngôn ngữ gì vậy? Lời thị phi, lời thiện ác, lời phàm thánh v.v… Hết thảy các ngôn ngữ sanh từ chỗ đối đãi đều là “thế gian ngữ”. “Thế gian” là do đối đãi mà an lập. Nếu ai thốt lời trong lặng, lời từ bi, lời lợi ích rộng rãi, lời điều nhu, phần nhiều sẽ tiêu trừ đối đãi, khiến cho chúng sanh lìa khổ, được vui. Cho nên khi chúng ta há mồm thốt lời thị phi, nhất định phải nghĩ chính mình có phải là người thế tục, có cái tâm thế tục hay không? Người học Phật thốt lời thế gian, tức là phi ngữ, thốt lời nhân ngã thị phi là mong làm gì vậy? Cái tâm như thế chẳng phải là tâm của người tu hành. Nhưng nếu nói: “Ta cần xử trí vấn đề, ta có thể nói ra hay không?” Như vậy thì được, chẳng hạn như nói “vấn nạn sở trệ”, tức là có vấn đề vướng mắc tại chỗ đó thì phải nên nói. “Nói” ở đây là phương tiện để tiêu trừ thị phi, chẳng phải là nói thị phi, sẽ chẳng phải là lời lẽ thế gian, mà là thiện xảo ngữ, điều nhu ngữ, là lời lẽ khiến cho chúng sanh tiêu trừ đối đãi nghi hoặc.
Người học Phật hiện thời, dù xuất gia hay tại gia, phần nhiều nói lời thế tục, lời thế gian, lời điên đảo, lời đối đãi, lời đấu tranh, lời lẽ nhấn mạnh cái Ta… Vì sao? Vì chẳng tương ứng. Chúng ta đọc nguyện vọng của chư Phật Thế Tôn, như A Di Đà Phật phát ra bốn mươi tám nguyện, mỗi nguyện đều là điều nhu ngữ, chân thật ngữ, lợi ích ngữ, trí huệ ngữ, chẳng có lời lẽ thế tục! Chúng ta xem lời nguyện của Văn Thù Bồ Tát, xem lời nguyện của Quán Thế Âm Bồ Tát, xem năm trăm đại nguyện của Phật Thích Ca, lại đọc lời nguyện của Phật Dược Sư, như nguyện thứ nhất: “Nguyện ngã lai thế, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề thời, tự thân quang minh xí nhiên, chiếu diệu vô lượng, vô tận, vô biên thế giới, dĩ tam thập nhị đại trượng phu tướng, bát thập tùy hình trang nghiêm kỳ thân, linh nhất thiết hữu tình như ngã vô dị” (Nguyện ta trong đời sau, khi đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, bản thân quang minh chói lọi, chiếu rọi vô lượng, vô tận, vô biên thế giới, dùng ba mươi hai tướng đại trượng, tám mươi tùy hình hảo để trang nghiêm thân ấy, khiến cho hết thảy hữu tình giống như ta chẳng khác). Khiến cho chúng sanh đạt được thân đại quang minh, đó là chỗ đạt tới của nguyện vọng. Thành tựu Bồ Đề chính là nguyện vọng duy nhất, những điều khác đều là bổ trợ.
(Kinh) Thường dĩ từ tâm huệ tha thuyết, yếu đương đáo tư tịch tĩnh xứ.
(經)常以慈心慧他說,要當到斯寂靜地。
(Kinh: Thường dùng từ huệ bảo người khác, sẽ đạt đến chốn tịch tĩnh ấy).
Đối với chỗ được mất của bản thân, bèn tịch tĩnh, chẳng nhiễm, đối với người khác chỉ đạt được lợi ích hồi thí. Đó là chỗ khác biệt giữa Phật giáo và các pháp tắc khác. Chúng ta đều biết có rất nhiều lời dạy trong các tôn giáo khác cũng đều là lợi tha, cũng đều là bác ái, nhưng Phật giáo có gì? Tịch tĩnh nơi tự thân, không tịnh nơi tự thân, dùng làm phương tiện lợi ích người khác, chỉ có hồi thí. Đó là chỗ quy kết của oai đức rốt ráo, tự tại, giải thoát. Các vị thiện tri thức ơi! Nếu chúng ta tu tập pháp chẳng thuận theo kinh giáo, mà dựa theo thói quen tại gia của chính mình, vậy thì chỉ là tiếp nối tập quán đã tích lũy từ vô thỉ cho đến nay mà thôi! Bất luận mang cái danh tự Phật thế nào đi nữa, đeo danh xưng Phật, đeo danh hiệu Phật pháp, đeo khoác hình tượng xuất gia hay tại gia chi nữa, nội dung vẫn là thế tục, vẫn lấy cái Ta làm trung tâm, rơi vào Ngã Chấp và Pháp Chấp. Chúng ta chẳng thoát khỏi hai thứ chấp ấy, sẽ cách biệt Phật pháp rất xa, thật sự chẳng liên can.
Hiện thời, thế gian đánh giá người học Phật chúng ta, chẳng hạn như hiện thời cư sĩ đánh giá người xuất gia, người chẳng học Phật đánh giá người học Phật, tuy chẳng phải là mười phần công bằng, nhưng chúng ta cũng phải nên kiểm điểm tự thân. Nguồn gốc căn bản nhất để phát xuất “không công bằng” là do người học Phật, người xuất gia chúng ta chẳng đủ tâm lợi tha! Do vậy, chư vị thiện tri thức ơi! Quả thật hãy nên phản tỉnh tự tâm!
7. Phẩm thứ tư: Chánh Tín
(Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần Chánh Tín phẩm đệ tứ.
(經)大方等大集賢護分正信品第四。
(Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần. Phẩm thứ tư: Chánh Tín).
Văn tự trong phẩm này nhằm tuyên nói chánh tín. Để khích lệ chánh tín, đức Phật nói đủ loại tỷ dụ, như tỷ dụ về báu ma-ni, tỷ dụ hương Chiên Đàn, tỷ dụ chiếc thuyền báu, khiến cho chúng ta sanh khởi chánh tín, yêu thích, thủ hộ, tu tập, truyền bá pháp tắc này, muốn cho hữu duyên hữu tình đạt được công đức và lợi ích quý báu như thế đó.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: – Hiền Hộ! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát, vị cầu như thị tam-muội bảo cố, đương ưng dũng mãnh, phát cần tinh tấn, tự nhiên tốc năng nhập thử tam-muội dã.
(經)爾時,世尊復告賢護菩薩言:「賢護!若諸菩薩摩訶薩,爲求如是三昧寶故,當應勇猛,發勤精進,自然速能入此三昧也。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: – Này Hiền Hộ! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát vì cầu báu tam-muội như thế, hãy nên dũng mãnh, phát khởi siêng năng tinh tấn, sẽ tự nhiên có thể nhanh chóng nhập tam-muội này).
Đây là một câu nói về sự lựa chọn rất rõ ràng.
(Kinh) Hiền Hộ! Thí như hữu nhân thừa ngự đại thuyền, nhập ư đại hải, tứ ý tải mãn chúng diệu trân bảo, dĩ quá nhất thiết chư đại nạn xứ, thùy chí thử ngạn. Vị kỷ chi gian, thuyền hốt phá hoại, chúng bảo trầm một. Đương nhĩ chi thời, Diêm Phù Đề nhân, phát đại khiếu thanh, sanh đại bi khổ, dĩ thất như thị vô giá bảo cố.
(經)賢護!譬如有人乘御大船,入於大海,恣意載滿衆妙珍寶,已過一切諸大難處,垂至此岸。未幾之間,船忽破壞,衆寶沉沒。當爾之時,閻浮提人,發大叫聲,生大悲苦,以失如是無價寶故。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Ví như có người ngồi chiếc thuyền to, vào trong biển cả, mặc sức chở đầy các thứ trân bảo mầu nhiệm, đã vượt qua hết thảy các chỗ nạn lớn, sắp đến bờ này. Trong phút chốc, thuyền bỗng hư hoại, các thứ báu chìm đắm. Ngay trong lúc đó, người trong Diêm Phù Đề kêu gào ầm ĩ, sanh lòng buồn khổ to lớn, do bị mất các thứ báu vô giá như thế).
Thí dụ này nói thuyền chở các thứ trân bảo đã sắp đến bờ, lại bỗng dưng chìm lỉm, khiến cho mọi người sanh lòng đau khổ như thế.
(Kinh) Hiền Hộ! Hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân diệc phục như thị, nhĩ văn như tư thắng tam-muội bảo, bất năng thư tả, độc tụng, thọ trì. Phục bất năng tư duy như pháp nhi trụ. Hiền Hộ! Đương tri nhĩ thời, nhất thiết thế gian chư thiên thần đẳng, diệc ưng như thị phát đại khiếu hô, sanh đại bi não, tác như thị ngôn: “Thị chư chúng sanh thâm khả lân mẫn! Vân hà ư thử chư Phật Thế Tôn thắng tam-muội bảo, nhất thiết chư Phật chi sở xưng dương, nhất thiết chư Phật chi sở ấn khả, nhất thiết chư Phật chi sở giáo giới, nhất thiết chư Phật tối thượng công đức, cụ túc thành tựu, viên mãn vô khuyết, Bồ Tát văn dĩ, đương ưng cần cầu, phản cánh viễn ly, bất khẳng thư tả, bất nhạo độc tụng, bất năng thọ trì, giải thích nghĩa lý, bất năng tư duy, như pháp nhi trụ. Như thị phóng dật, giải đãi chúng sanh, vị lai tất đương thọ đại tổn giảm”. Hiền Hộ! Hà đẳng danh vi chúng sanh tổn giảm? Sở vị ư như thị tam-muội bảo trung, văn dĩ viễn ly, bất năng thư tả, độc tụng, thọ trì, bất năng giải thuyết, tư duy nghĩa lý, bất như pháp trụ, chuyên niệm tu hành, táng diệt công đức. Thị vi giảm tổn.
(經)賢護!有善男子善女人亦復如是,耳聞如斯勝三昧寶,不能書寫,讀誦受持。復不能思惟如法而住。賢護!當知爾時,一切世間諸天神等,亦應如是發大叫呼,生大悲惱,作如是言:「是諸衆生深可憐愍!云何於此諸佛世尊勝三昧寶,一切諸佛之所稱揚,一切諸佛之所印可,一切諸佛之所教誡,一切諸佛最上功德,具足成就,圓滿無缺,菩薩聞已,當應勤求,反更遠離,不肯書寫,不樂讀誦,不能受持,解釋義理,不能思惟,如法而住?如是放逸,懈怠衆生,未來必當受大損減」。賢護!何等名爲衆生損減?所謂於如是三昧寶中,聞已遠離,不能書寫,讀誦受持,不能解說,思惟義理,不如法住,專念修行,喪滅功德。是爲減損。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Có thiện nam tử, thiện nữ nhân cũng giống như thế, tai được nghe báu tam-muội thù thắng như thế mà chẳng thể biên chép, đọc tụng, thọ trì. Lại chẳng thể tư duy, đúng pháp mà trụ. Này Hiền Hộ! Hãy nên biết, lúc ấy hết thảy các hàng thiên thần trong thế gian cũng nên kêu gào to lớn như thế, sanh lòng buồn rầu, áo não to lớn, nói như thế này: “Các chúng sanh này đáng thương xót quá mức! Sao lại đối với báu tam-muội thù thắng như thế của chư Phật Thế Tôn, là pháp được hết thảy chư Phật ca ngợi, được hết thảy chư Phật ấn khả, được hết thảy chư Phật răn dạy, là công đức tối thượng của hết thảy chư Phật, thành tựu trọn đủ, viên mãn chẳng khuyết, Bồ Tát nghe xong, hãy nên siêng cầu, [thế mà các chúng sanh này] lại ngược ngạo xa lìa, chẳng chịu biên chép, chẳng thích đọc tụng, chẳng thể thọ trì, giải thích nghĩa lý, chẳng thể tư duy đúng như pháp mà trụ? Chúng sanh buông lung, giải đãi như thế, trong tương lai, ắt sẽ bị tổn giảm to lớn”. Này Hiền Hộ! Những gì gọi là “tổn giảm” của chúng sanh? Chính là đã nghe báu tam-muội như thế xong bèn xa lìa, chẳng thể biên chép, đọc tụng, thọ trì, chẳng thể giải nói, tư duy nghĩa lý, chẳng đúng như pháp mà trụ, chuyên niệm tu hành, chôn vùi, diệt mất công đức. Đó là “tổn giảm”).
Sự “tổn giảm” ấy được kinh văn diễn tả mười phần rõ ràng, nêu ra pháp tắc và tỷ dụ hết sức thẳng thừng, rõ rệt như thế đó.
(Kinh) Hiền Hộ! Thị giải đãi nhân, ác chúng sanh bối, ư tư pháp trung, đắc lợi ích giả, vô hữu thị xứ.
(經)賢護!是懈怠人,惡衆生輩,於斯法中,得利益者,無有是處。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Bọn người giải đãi, chúng sanh ác ấy mà đạt được lợi ích trong pháp này thì chẳng có lẽ ấy).
Đây là lời quở trách! Đối với những kẻ buông lung, chửi bới pháp này, đức Thế Tôn bèn quở trách. Sau khi tôi đã được tiếp xúc pháp Ban Châu, trước kia tôi chẳng kể với ai khác, cũng chẳng dám nói với ai. Về sau, do có nhiều người hành trì, dần dần hình thành một số lượng [hành nhân] nhất định, tôi mới nói [về pháp Ban Châu] trong thế gian, nhưng vẫn gặp vẫn rất nhiều kẻ hoài nghi, nói kiểu gì cũng đều có. “Ngươi làm cái trò gì vậy? Phô trương bản thân hả? Chẳng có chuyện bới chuyện ra à?”… Nhưng phần nhiều là vì người ta chẳng hiểu, chẳng biết, chưa gặp pháp này. Do vậy, đúng như lý tuyên nói, truyền bá, khiến cho người khác biết rõ pháp này, cũng là chức trách của chúng ta, mà cũng là hành vi thủ hộ đối với pháp của một Phật giáo đồ.
(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Thí như hữu nhân, trì xích chiên đàn, thị ngu si nhân. Nhi bỉ si nhân, dĩ ngu si cố, ư xích đàn hương, khởi xú uế tưởng.
(經)復次賢護!譬如有人,持赤栴檀,示愚癡人。而彼癡人,以愚癡故,於赤檀香,起臭穢想。
(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Ví như có người cầm chiên đàn đỏ đưa cho kẻ ngu thấy. Kẻ ngu si đó do ngu si, đối với đàn hương đỏ, lại dấy lên ý tưởng cho là hôi thối).
Nay chúng ta học Phật, do có nhân duyên phước đức mà được gặp gỡ pháp tắc như thế này, nhưng người thật sự sanh tín tâm cực hiếm hoi! Ngay như đã tiến nhập, hành trì pháp tắc này, có phải là người có tín tâm hay không? Người nếm thử, nhìn ngó thì nhiều, kẻ thật sự sanh khởi tín tâm để lựa chọn quả thật rất hy hữu! “Hy hữu” có nghĩa là: Một là ít ỏi, hai là rất khó phát khởi. Vì sao? Đối với pháp này, chúng ta vẫn phần nhiều sợ hãi. Nay mọi người do được cổ vũ, trong quá trình hành pháp một ngày một đêm, cái tâm sợ hãi sẽ dần dần, từ từ tiêu trừ. Khá nhiều người có thể dần dần tiếp nhận. Trước kia, hễ nói đến Ban Châu, phần đông chẳng thể tiếp nhận, đều nghi ngờ. Trải qua một khoảng thời gian học tập, nhận thức, trong xã hội hiện thời, rất nhiều nơi đang tu tập Ban Châu. Tuy trong hành trì, có đủ loại thời gian dài hay ngắn, có đủ loại trạng thái tương ứng hay không tương ứng, đúng pháp hay chẳng đúng pháp, nhưng đã tiếp xúc pháp tắc này, quả thật là phước đức nhân duyên chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta có thể thật sự dũng mãnh tu tập pháp tắc này, thành thục Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội hay không? Chuyện này vẫn thật sự đòi hỏi chúng ta phải lột bỏ từng tầng sợ hãi!
(Kinh) Thời, chủ trí nhân mại đàn hương giả, cáo ngu nhân viết: – Nhữ kim bất ưng ư diệu chiên đàn, sanh xú ác tưởng. Hà dĩ cố?
Thị đàn tối tinh, hương khí đệ nhất.
(經)時,主智人賣檀香者,告愚人曰:「汝今不應於妙栴檀,生臭惡想。何以故?是檀最精,香氣第一。
(Kinh: Khi ấy, người chủ có trí bán đàn hương bảo kẻ ngu rằng: – Nay ngươi chớ nên đối với chiên đàn mầu nhiệm mà sanh ý tưởng thối ác. Vì sao vậy? Đàn hương này tinh diệu nhất, mùi thơm bậc nhất).
Nay chúng ta dùng hương, thường là bạch đàn (santalum album), hoặc hoàng đàn (dalbergia hupeana), rất ít dùng các loại gỗ đàn khác. Chiên Đàn hương (candana, sirium myrtifolium) có màu đỏ. Trước kia, khi tôi ở Phước Kiến, có người chở đến một loại hương từ Phi Châu, giống như những cái tai nhỏ của động vật. Từng khối, từng khối, do cắt từ các vết sẹo trên thân một loại cây. Mỗi năm chỉ có thể cắt được rất ít, mười phần quý giá. Nhưng loại hương ấy chỉ cần đốt một tí trong lư hương, ngay lập tức mùi mồ hôi rất nồng của mấy trăm người đang đả thất sẽ bay sạch chẳng còn! Nay trong chùa miếu của chúng ta, mùi lạ cũng ít, tạp duyên cũng ít, tương đối rất thanh tịnh, vì mọi người một mực đốt đàn hương, hoặc trầm hương (agarwood), sức tịnh hóa chẳng thể nghĩ bàn. Một là hộ pháp thiện thần thích mùi vị ấy, hai là bản thân chúng ta cũng tịnh hóa không khí ở nơi đây. Cho nên mùi lạ chẳng xâm nhiễu. Nếu không, hơi hướng nơi thân thể mỗi người chúng ta đều khác nhau, do nghiệp lực bất đồng, hơi hướng sẽ phiền nhiễu lẫn nhau, mọi người chẳng thể an trụ. Người đời có rất nhiều kẻ do nghiệp lực bức bách khổ sở, bèn dùng thuốc lá, rượu, thịt để cân bằng chính mình. Chúng ta là người học Phật, dùng gì để cân bằng chính mình? Dùng hai pháp Bi và Trí, sẽ thuận tiện. Đối với mùi hôi thối hay thơm tho, ai nấy cảm nhận khác biệt. Người đời phần nhiều cho mùi hôi thối là thơm tho. Mọi người có thể tư duy tỷ dụ trong đoạn này nhiều hơn!
Hương trước kia, hễ chạm tay vào, mùi hương luôn nồng đậm, hiện thời rất khó nói. Đó là vì phước đức và nhân duyên của con người biến hóa, trăm vị đều thoái giảm. Ngay như trái cây trong hiện thời, dẫu thế nào đi nữa, cũng đều chẳng có hương vị như thuở [chúng ta] còn bé, dẫu ngọt cũng chẳng phải là hương vị như thuở đó. Thật ra, chẳng phải do hương vị, mà do tâm trí của con người giảm thấp, thiện duyên đang suy giảm! Có người nói phước báo của người hiện thời to lớn, người thuở trước chẳng có xe hơi, nay chúng ta có xe hơi. Người thuở trước sống trong những căn nhà bé tí tẹo, quý vị thấy nay chúng ta ở trong nhà như thế nào. Người thuở trước làm gì, nay chúng ta làm gì… Thật ra, đó là một kiểu ỷ lại vào vật chất ở bên ngoài. Khi tâm địa sâu nặng dần dần biến thành [coi trọng] vật chất, sự tự vui sướng, sự hàm dưỡng, và thọ dụng tự tại trong tâm trí của chúng ta sẽ dần dần mất đi, vì vật chất mà mất đi. Nếu vật chất cũng có, nội tâm sâu nặng cũng có, quá tốt đẹp! Nhưng rất nhiều người trong hiện thời cứ mù quáng so đo vật chất, đã mất hẳn sự sâu nặng [trong tâm trí], mà cũng đánh mất giá trị của vật chất. Khi đó, vật chất quả thật chẳng có giá trị gì, chỉ là một thứ ước định để so đo mù quáng mà thôi. Thật sự chẳng có quá trình hưởng thụ, mà cũng chẳng có nội hàm!
(Kinh) Nhữ kim hà cố phản vi xú ác? Nhược bất tín giả, ưng tiên khứu thường, vi xú, vi hương? Hựu nhữ nhãn minh, diệc ưng dĩ mục quán sát, thị đàn quang sắc, văn thái, vi sấu, vi phì, vi thiện, vi ác? Nhiên bỉ ngu giả, tuy văn trí nhân như thị ngữ ngôn, chủng chủng xưng tán, dĩ ngu si cố, chuyển sanh tăng ố, dĩ thủ niệp tỵ, bất dụng khứu văn, yểm bế kỳ mục, bất khẳng quán thị.
(經)汝今何故反爲臭惡?若不信者,應先齅嘗,爲臭爲香?又汝眼明,亦應以目觀察,是檀光色文彩,爲瘦爲肥,爲善爲惡?」然彼愚者,雖聞智人如是語言,種種稱讚,以愚癡故,轉生憎惡,以手捻鼻,不用齅聞,掩閉其目,不肯觀視。
(Kinh: Ông nay vì sao lại ngược ngạo cho là hôi thối? Nếu chẳng tin, trước hết hãy nên ngửi nếm xem là thối hay thơm? Lại do ông mắt sáng, cũng nên dùng mắt để xem xét màu sắc, vân gỗ của loại Chiên Đàn này là mỏng hay đậm, đẹp hay xấu? Nhưng kẻ ngu ấy, tuy nghe người trí dùng lời lẽ như thế để ca ngợi đủ mọi cách, nhưng do ngu si, đâm ra ghét bỏ, dùng tay bịt mũi, chẳng chịu ngửi thử, bịt chặt mắt chẳng chịu xem ngó).
Người học Phật thường xuyên gặp phải tình huống này, nhất là khi mới phát tâm, cảm thấy gặp gỡ Phật pháp rất hoan hỷ, cảm thấy chính mình thật sự được lợi ích, mong nói cho người nhà, người chung quanh, và đồng nghiệp hay biết, kết quả là rất nhiều kẻ nói: “Cút xéo đi! Chẳng cần phải nói với tao như thế!” Đối với chuyện này, mọi người rất có cảm xúc. “Dĩ thủ niệp tỵ, bất dụng khứu văn, yểm bế kỳ mục, bất khẳng quán thị” (Dùng tay bịt mũi chẳng chịu ngửi thử; bịt chặt con mắt chẳng chịu nhìn ngó). Khi chúng ta chấp trước tri kiến của chính mình, chẳng tiếp nhận Phật pháp, đích xác là có nghiệp tướng như thế đó!
(Kinh) Như thị Hiền Hộ! Đương lai chi thế, hữu ác tỳ-kheo, tăng ố thị kinh, kỳ sự diệc nhĩ! Bỉ ác nhân bối, bất tri tu tập thân giới, tâm huệ, ngu si, vô trí, do như bạch dương, ngoan ngãi, ngận tệ. Bỉ chư ác nhân, hựu bạc phước cố, tuy phục đắc văn như thị diệu điển, chánh niệm Chư Phật Hiện Tiền tam-muội, bất dụng thư tả, bất năng độc tụng, bất năng thọ trì, bất năng tư duy, bất năng vị nhân tuyên dương, quảng thuyết. Hựu diệc bất năng quảng sanh tùy hỷ. Vân hà năng đắc như thuyết tu hành? Nhược bỉ ác nhân, năng thuyết hành giả, vô hữu thị xứ.
(經)如是賢護!當來之世,有惡比丘,憎惡是經,其事亦爾!彼惡人輩,不知修習身戒心慧,愚癡無智,猶如白羊,頑騃佷弊。彼諸惡人,又薄福故,雖復得聞如是妙典,正念諸佛現前三昧,不用書寫,不能讀誦,不能受持,不能思惟,不能爲人宣揚廣說。又亦不能廣生隨喜。云何能得如說修行?若彼惡人,能說行者,無有是處。
(Kinh: Như thế đó Hiền Hộ! Trong đời tương lai, có ác tỳ-kheo ghét bỏ kinh này cũng giống như thế! Bọn người ác ấy chẳng biết tu tập giới nơi thân và trí huệ nơi tâm, ngu si, vô trí, giống như con dê trắng, ngu độn, hung tợn, tệ hại. Những kẻ ác đó lại do bạc phước, tuy lại được nghe kinh điển mầu nhiệm như thế, chánh niệm Chư Phật Hiện Tiền tam-muội, chẳng chịu biên chép, chẳng thể đọc tụng, chẳng thể thọ trì, chẳng thể tư duy, chẳng thể vì người khác tuyên dương, diễn nói rộng rãi. Lại cũng chẳng thể sanh lòng tùy hỷ to lớn. Làm sao có thể tu hành đúng như lời dạy cho được? Nếu kẻ ác ấy có thể nói và hành thì chẳng có lẽ ấy).
Chúng ta là Phật tử, phải nên đối đãi theo pháp tắc như thế nào? Mọi người phải nên xét kỹ chuyện này, nhất là đối với kinh điển, phải nên tôn trọng, yêu mến, bảo vệ như thế nào? Vì kinh Ban Châu này là kinh điển được lưu truyền rộng khắp, từ xưa đến nay đã sớm được các vị đại thiện tri thức tu tập. Như đức Thế Tôn đã nói: Trong các đệ tử của ta, Ma Ha Ca Diếp đã đích thân chứng đắc. Sau đó, nhất là các vị đại thiện tri thức nơi đất Hán và các vị thành tựu từ xưa đến nay, đối với pháp này, về cơ bản cũng đều đã từng tu tập.
(Kinh) Hựu phục văn dĩ, cánh hưng phỉ báng, đô vô tín tâm, vị vi chân thật. Tuy văn đa thuyết, chung vô khai giải. Phục tác thị ngôn: “Nhược tư pháp giả, đản vi hý luận cố, thần dị kỳ sự. Hựu vị xí thịnh ngôn giáo cố, quá sức kỳ từ, dụ cuống thế gian, tạo tư kinh điển. Khởi đắc phương tỷ thánh giả A Nan, chư tỳ-kheo bối, hiện tại thế thời tuyên thuyết như thị chư Tu Đa La dã”.
(經)又復聞已,更興誹謗,都無信心,謂爲真實。雖聞多說,終無開解。復作是言:「若斯法者,但爲戲論故,神異其事。又爲熾盛言教故,過飾其詞,誘誑世間,造斯經典。豈得方比聖者阿難,諸比丘輩,現在世時宣說如是諸修多羅也」。
(Kinh: Lại còn nghe xong, càng thêm dấy lòng phỉ báng, đều chẳng có tín tâm, chẳng cho là chân thật. Tuy nghe nói nhiều lượt, trọn chẳng khai giải. Lại nói như thế này: “Pháp như thế ấy chỉ là do hý luận mà thần dị chuyện ấy. Lại vì để cho ngôn giáo rạng rỡ mà dùng từ ngữ tô vẽ quá mức, dụ dỗ, dối gạt thế gian, tạo ra kinh điển này. Há có lẽ nào sánh bằng các Tu Đa La được các vị như thánh giả A Nan và các vị tỳ-kheo lúc đang trụ thế đã tuyên nói như thế ư?”)
Đấy là dựa theo kinh để báng kinh, dẫn dụng thánh giả A Nan [để báng bổ].
(Kinh) Hựu ư dị thời, phát như thị ngôn: “Thử Tu Đa La phi Phật sở thuyết, nãi thị ác nhân tự tạo văn chương, vọng ngôn kinh nhĩ”.
(經)又於異時,發如是言:「此修多羅非佛所說,乃是惡人自造文章,妄言經耳」。
(Kinh: Lại trong lúc khác, thốt lời như thế này: “Tu Đa La (khế kinh) này chẳng do đức Phật nói, mà là do kẻ ác tự tạo văn chương, nói dối là Kinh”).
Ở đây, nhất định phải chú ý, vì nếu quý vị chẳng đủ tín tâm, lời lẽ ấy sẽ có thể khống chế quý vị, vì pháp Tịnh Độ thường bị kẻ khác công kích, bị nhiều người hoài nghi. Pháp Ban Châu càng biểu hiện rõ rệt như thế đó!
(Kinh) Hiền Hộ đương tri! Như tư ác nhân trường dạ viễn ly như thị vi diệu vô thượng đại bảo. Như bỉ si nhân, kiến diệu hương dĩ, yểm nhãn, tắc tỵ, bất dụng kiến văn. Như thị Hiền Hộ! Bỉ ngu ác bối, văn thử diệu kinh tam-muội bảo dĩ, bất dục thư tả, bất nhạo độc tụng, bất niệm thọ trì, bất năng tuyên thuyết. Sở vị vô tâm thân cận, bất nguyện văn cố.
(經)賢護當知!如斯惡人,長夜遠離如是微妙無上大寶。如彼癡人,見妙香已,掩眼塞鼻,不用見聞。如是賢護!彼愚惡輩,聞此妙經三昧寶已,不欲書寫,不樂讀誦,不念受持,不能宣說。所謂無心親近,不願聞故。
(Kinh: Hiền Hộ nên biết! Kẻ ác như thế trong đêm dài xa lìa vô thượng đại bảo vi diệu như thế. Kẻ si như vậy đã thấy hương mầu nhiệm rồi, bịt mắt, bịt mũi, chẳng chịu nhìn, ngửi. Như thế đó, Hiền Hộ! Lũ ngu ác ấy đã nghe báu tam-muội trong bản kinh mầu nhiệm này, chẳng muốn biên chép, chẳng thích đọc tụng, chẳng nghĩ thọ trì, chẳng thể tuyên nói. Đó gọi là không có tâm thân cận vì chẳng muốn nghe).
Trong đoạn văn tự này, chúng ta thấy đức Thế Tôn quở trách loại hữu tình tạo tác ác nghiệp, hoặc tạo tác dị thuyết trong đời Mạt Pháp. Kẻ dùng tâm thức để hướng dẫn pháp tắc, phần nhiều sẽ phỉ báng như thế! Chư vị thiện tri thức ơi! Đối với chỗ này, chúng ta hãy khéo tư duy, khéo quan sát, yêu mến thủ hộ kinh này, đọc tụng kinh này, tu tập kinh này, tuyên nói kinh này.
(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Thí như hữu nhân mại ma-ni bảo. Hữu ngu si nhân, kiến bỉ bảo dĩ, tức tiện vấn ngôn: “Nhân giả tư bảo, kỳ giá vân hà?” Bảo chủ đáp ngôn: “Nhữ kim đương tri, thị bảo tinh thắng, thế gian sở vô. Phi khả tạo thứ dĩ thế giá luận dã. Ngô kim thả thuyết thử bảo công năng, oai đức, lực dụng, thô vi ước nhĩ. Khanh nhược dục tri thử ma-ni bảo, quang minh sở chiếu, cận viễn nhược can. Khanh kim nhược tu, đương dĩ chân kim bố mãn tư địa, nhĩ nãi tương dữ”. Bỉ ngu si nhân, văn thị ngữ dĩ, tiện đại sủy tiếu, chủng chủng tử hủy: “Thị ma-ni bảo, cánh bất thù giá”.
(經)復次賢護!譬如有人賣摩尼寶。有愚癡人,見彼寶已,即便問言:「仁者斯寶,其價云何?」寶主答言:「汝今當知,是寶精勝,世間所無。非可造次以世價論也。吾今且說此寶功能,威德力用,粗爲約耳。卿若欲知此摩尼寶,光明所照,近遠若干。卿今若須,當以真金佈滿斯地,爾乃相與」。彼愚癡人,聞是語已,便大嗤笑,種種呰毀:「是摩尼寶,竟不酬價」。
(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Ví như có người bán báu ma-ni. Có kẻ ngu si đã trông thấy báu ấy, liền hỏi rằng: “Vật báu này của nhân giả giá trị ra sao?” Chủ vật báu trả lời: “Ông nay nên biết, vật báu này tinh ròng, thù thắng, thế gian chẳng có. Chớ nên bộp chộp dùng giá trị trong thế gian để luận định. Nay tôi lại nói đại lược thô thiển về công năng, oai đức, và lực dụng của món báu này. Nếu ông muốn biết quang minh của báu ma-ni này chiếu xa hay gần cỡ nào, nếu nay ông cần đến, phải nên lấy vàng ròng trải khắp cuộc đất này thì tôi mới trao cho ông”. Kẻ ngu si đó nghe lời ấy rồi, liền hết sức cười nhạo, chê bai, hủy báng đủ mọi lẽ: “Báu ma-ni ấy trọn chẳng đáng giá”).
Trong phẩm Chánh Tín, đức Thế Tôn nêu lên rất nhiều để tỷ dụ sự trân quý của pháp Ban Châu tam-muội, khó được, khó gặp. Nếu chẳng nhận biết, chúng ta sẽ bỏ lỡ sát-na [gặp gỡ] món báu to lớn.
(Kinh) Như thị Hiền Hộ! Bỉ vị lai thế, chư ác tỳ-kheo, văn thử kinh trung thắng tam-muội bảo, vô hữu tín tâm, đa sanh sủy tiếu, cánh hưng phỉ báng. Kỳ sự diệc nhĩ. Hoặc hữu tỳ-kheo, tín căn thâm hậu, huệ căn minh lợi, dĩ ư quá khứ chư Như Lai sở, thân cận, thừa sự, thính văn chánh pháp, như giáo tu hành, chủng chư thiện căn. Bỉ đẳng văn thử Bồ Tát Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội, tức năng độc tụng, tư duy nghĩa lý, vị nhân quảng thuyết, năng đa lợi ích nhất thiết thế gian. Sở vị quảng tuyên lưu bố, sanh đại tín tâm, phát đại trí huệ, thành tựu thuần trực, cụ túc oai nghi, thường hành tàm quý, bố úy chúng tội, tu trì cấm giới, bất thọ chư dục, tín thậm thâm pháp, năng đa thọ văn, đắc thâm trí nhẫn, thường hành từ bi. Nhiên nhi tư đẳng tín căn thâm cố, hành thị tam-muội. Đắc tam-muội dĩ, du chư phương quốc, vị tha quảng thuyết, giải thích nghĩa lý, thường tác thị nguyện: ‘Linh thử Bồ Tát Niệm Phật tam-muội, thậm thâm kinh điển, quảng hành lưu bố, thường trụ ư thế’. Hoặc hữu chúng sanh, thiện căn vi bạc, phước đức tiển thiểu, quá khứ vị tằng thân cận chư Phật, cúng dường, thừa sự, thính văn chánh pháp, đản vị ngã mạn sở hàng, tật đố sở đạo, lợi dưỡng sở phú, danh văn sở khiên, quảng hành phóng dật, bất trì giới thiện, thường nhạo loạn tâm, bất tu Thiền Định, viễn ly kinh giáo, bất cầu đa văn, vị ngộ thiện sư, duy phùng ác hữu. Tư nhân như thị văn thử tam-muội, phỉ báng khinh hủy, vô nhất tín tâm, vị vi bất thật, chí tánh ngoan ngu, ý vô khai giải, phục tác thị ngôn: ‘Như tư kinh điển, phi Phật sở thuyết, nãi thị thế gian độn căn tỳ-kheo, ngu si, tà kiến, tự tác văn chương, nghiêm sức từ cú’. Nhược xử chúng trung, ưng như thị thuyết, diệc như thị giáo: ‘Nhữ chư chúng sanh đương tri kim thử Tu Đa La điển phi Phật sở thuyết’. Như thị si nhân, bất tri thân cận chư Phật Thế Tôn, bất chủng thiện căn, bất tu cúng dường, tập cận ác hữu, đa tác chúng ác. Đương tri thị nhân, viễn ly vô thượng thâm diệu pháp bảo, vĩnh thất vô thượng tối thắng pháp lợi dã!” Phật cáo Hiền Hộ: – Ngô phục ngữ nhữ, ngã kim hiện tại nhất thiết thế gian Phạm, ma, sa-môn, Bà La Môn, cập chư thiên, nhân, A Tu La đẳng, chư đại chúng tiền, tuyên thuyết như thị diệu tam-muội thời, nhược bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn dĩ tùy hỷ, độc tụng, thọ trì Niệm Phật tam-muội, tư duy, tín giải, tối dĩ vi chân, phát như thị ngôn: ‘Thị vi chân thật chư Phật thuyết giả’. Đương tri bỉ nhân sở hoạch phước tụ, bất khả tư nghị. Hiền Hộ! Nhược phục hữu chư thiện nam tử, thiện nữ nhân trì mãn tam thiên đại thiên thế giới chủng chủng trân bảo, dĩ dụng cúng dường nhất thiết chư Phật Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, sở đắc công đức, tuy vi quảng đại, nhiên vọng trì kinh sở hoạch phước tụ, bách thiên vạn phần, bất cập kỳ nhất, nãi chí cánh dĩ vô lượng vô biên A-tăng-kỳ chư phước đức tụ, diệc bất cập nhất dã.
(經)如是賢護!彼未來世,諸惡比丘,聞此經中勝三昧寶,無有信心,多生嗤笑,更興誹謗。其事亦爾。或有比丘,信根深厚,慧根明利,已於過去諸如來所,親近承事,聽聞正法,如教修行,種諸善根。彼等聞此菩薩唸佛現前三昧,即能讀誦,思惟義理,爲人廣說,能多利益一切世間。所謂廣宣流佈,生大信心,發大智慧,成就純直,具足威儀,常行慚愧,怖畏衆罪,修持禁戒,不受諸欲,信甚深法,能多受聞,得深智忍,常行慈悲。然而斯等信根深固,行是三昧。得三昧已,遊諸方國,爲他廣說,解釋義理,常作是願:「令此菩薩唸佛三昧,甚深經典,廣行流佈,常住於世」。或有衆生,善根微薄,福德尠少,過去未曾親近諸佛,供養承事,聽聞正法,但爲我慢所降,嫉妒所導,利養所覆,名聞所牽,廣行放逸,不持戒善,常樂亂心,不修禪定,遠離經教,不求多聞,未遇善師,唯逢惡友。斯人如是聞此三昧,誹謗輕毀,無一信心,謂爲不實,志性頑愚,意無開解,復作是言:「如斯經典,非佛所說,乃是世間鈍根比丘,愚癡邪見,自作文章,嚴飾詞句」。若處衆中,應如是說,亦如是教:「汝諸衆生當知今此修多羅典非佛所說」。如是癡人,不知親近諸佛世尊,不種善根,不修供養,習近惡友,多作衆惡。當知是人,遠離無上深妙法寶,永失無上最勝法利也」。佛告賢護:「吾復語汝,我今現在一切世間梵、魔、沙門、婆羅門,及諸天、人、阿修羅等,諸大衆前,宣說如是妙三昧時,若彼善男子善女人,聞已隨喜,讀誦受持唸佛三昧,思惟信解,最以爲真,發如是言:「是爲真實諸佛說者」。當知彼人所獲福聚,不可思議。賢護!若復有諸善男子善女人,持滿三千大千世界種種珍寶,以用供養一切諸佛如來應供等正覺,所得功德,雖爲廣大,然望持經所獲福聚,百千萬分,不及其一,乃至更以無量無邊阿僧祇諸福德聚,亦不及一也」。
(Kinh: “Như thế đó Hiền Hộ! Các ác tỳ-kheo ấy trong đời vị lai nghe báu tam-muội thù thắng trong kinh này, chẳng có tín tâm, phần nhiều sanh lòng cười nhạo, lại còn sanh phỉ báng cũng giống như thế đó. Hoặc có tỳ-kheo tín căn sâu dày, huệ căn sáng suốt, nhạy bén, do trong quá khứ đã ở nơi các đức Như Lai thân cận, thừa sự, lắng nghe chánh pháp, tu hành đúng như lời dạy, gieo các căn lành. Bọn họ nghe Bồ Tát Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội này, liền có thể đọc tụng, tư duy nghĩa lý, vì người khác rộng nói, có thể tạo nhiều lợi ích cho hết thảy thế gian, tức là tuyên nói, truyền bá rộng rãi, sanh tín tâm to lớn, phát khởi trí huệ lớn, thành tựu trực tâm tinh thuần, trọn đủ oai nghi, thường giữ lòng hổ thẹn, sợ hãi các tội, tu trì cấm giới, chẳng nhận lãnh các dục, tin pháp rất sâu, có thể tiếp nhận, nghe nhiều, đắc trí nhẫn sâu xa, thường hành từ bi. Nhưng họ do tín căn sâu chắc mà hành tam-muội này. Đã đắc tam-muội, dạo chơi trong quốc độ các phương, vì người khác nói rộng rãi, giải thích nghĩa lý, thường nguyện như thế này: ‘Khiến cho kinh điển Bồ Tát Niệm Phật tam-muội rất sâu này sẽ được lưu truyền rộng rãi, thường trụ trong cõi đời’. Hoặc có chúng sanh thiện căn mỏng ít, phước đức thưa thớt, trong quá khứ chưa từng thân cận chư Phật, cúng dường, thừa sự, lắng nghe chánh pháp, chỉ vì bị ngã mạn đè nén, ghen tỵ chỉ huy, lợi dưỡng che lấp, danh vọng trói buộc, làm đủ mọi chuyện buông lung, chẳng giữ giới thiện, thường thích loạn tâm, chẳng tu Thiền Định, xa lìa kinh giáo, chẳng cầu đa văn, chưa gặp thầy lành, chỉ gặp bạn ác. Kẻ đó nghe tam-muội như thế này bèn phỉ báng, khinh rẻ, hủy nhục, chẳng có chút tín tâm nào, bảo là [kinh này] chẳng thật. Kẻ đó chí tánh ương bướng, ngu độn, ý chẳng khai giải, lại nói như thế này: ‘Kinh điển như thế này chẳng do đức Phật nói, mà là do độn căn tỳ-kheo trong thế gian, ngu si, tà kiến, tự soạn văn chương, trau chuốt câu chữ’. Nếu ở trong đại chúng, cũng sẽ nói như thế, cũng dạy như thế này: ‘Chúng sanh các ngươi hãy nên biết kinh điển Tu Đa La này chẳng phải do đức Phật nói’. Kẻ si như thế chẳng biết thân cận chư Phật Thế Tôn, chẳng gieo thiện căn, chẳng tu cúng dường, thân cận bạn ác, làm nhiều điều ác. Hãy nên biết kẻ ấy xa lìa pháp bảo vô thượng sâu xa, mầu nhiệm, vĩnh viễn đánh mất lợi ích vô thượng tối thắng nơi pháp”. Đức Phật bảo ngài Hiền Hộ: – Ta lại bảo ông, nay trong lúc ta đối trước hết thảy Phạm vương, ma, sa-môn, Bà La Môn, và các trời, người, A Tu La v.v… các đại chúng trong thế gian hiện tại, tuyên nói tam-muội mầu nhiệm như thế, nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy nghe xong tùy hỷ, đọc tụng, thọ trì Niệm Phật tam-muội, tư duy, tin hiểu, cho là chân thật nhất, thốt lời như thế này: ‘Đây là kinh thật sự do chư Phật nói’. Hãy nên biết người ấy đạt được khối phước chẳng thể nghĩ bàn. Này Hiền Hộ! Nếu lại có các thiện nam tử, thiện nữ nhân dùng các thứ trân bảo đầy ắp tam thiên đại thiên thế giới để cúng dường hết thảy chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác thì người ấy đạt được công đức tuy rộng lớn, nhưng so với khối phước đạt được của người trì kinh thì chẳng bằng một phần trong trăm ngàn vạn phần, thậm chí cũng chẳng bằng một phần của vô lượng vô biên A-tăng-kỳ các khối phước đức).
Lành thay! Trong đoạn văn tự này, đức Thế Tôn đã nêu bày phương tiện chánh tín, dường như chỉ nói về tỳ-kheo, nhưng [thật ra] cũng bao gồm thiện nam tử, thiện nữ nhân. Tỳ-kheo đứng đầu trong chín chúng[11] nghe thuyết pháp, cho nên chỉ nói về tỳ-kheo là đã bao gồm hết thảy các đại chúng học Phật.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: – Tà khúc ngu hoặc nhân, phóng dật, căn bất thục.
(經)爾時,世尊爲重明此義,而說偈言:「邪曲愚惑人,放逸根不熟。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn để nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: – Kẻ tà khúc, ngu hoặc, buông lung, căn chẳng thuần).
Nhận biết một pháp tắc thì như trong kinh Đại Bát Niết Bàn, đức Thế Tôn đã dạy: Nếu gieo các thiện căn, thừa sự, cúng dường Phật, hoặc là một vị Phật, hai vị Phật, ba vị Phật, cho đến đối với một hằng hà sa số chư Phật đều cúng dường, nghe kinh điển Đại Thừa mà chẳng phỉ báng; thiện căn ấy như thật! Nghe pháp Ban Châu mà chẳng sanh nghi báng, đã là rất khó có trong tam giới. Nếu nghe pháp rồi mà có thể sanh lòng tin, nghe pháp rồi có thể tu tập, nghe pháp xong có thể thành tựu, truyền bá, người ấy rất chẳng thể nghĩ bàn! Người đó chẳng chỉ cúng dường một hằng sa, hai hằng sa, ba hằng sa chư Phật, thừa sự, mà là đều đã cúng dường chư Phật, phát Bồ Đề tâm. Vì lẽ nào? Do thiện căn của người ấy chín muồi, do công đức và lợi ích chẳng thể nghĩ bàn! Kẻ thiện căn chẳng thuần thục, từ vô thỉ tới nay chưa hề thân cận chư Phật để phát Bồ Đề tâm, hoặc siêng tu cúng dường, đối với pháp chẳng thể sanh lòng chánh tín, chẳng thể ưa thích, đối với loại hữu tình ấy, hãy nên thương xót, cổ vũ, khiến cho thiện căn của họ chín muồi. Đấy là bi tâm mà hết thảy người tu tập Phật pháp đều nên tu trì.
(Kinh) Ác hữu chi sở hoại, vô hữu chánh tín tâm. Phá giới tạo chúng tội, thâm trước ư ngã mạn.
(經)惡友之所壞,無有正信心。破戒造衆罪,深着於我慢。
(Kinh: Bị bạn ác phá hoại, chẳng có tâm chánh tín. Phá giới, tạo các tội, đắm sâu nơi ngã mạn).
Tu loại pháp này, nếu dùng cái tâm ngã mạn để tu trì, pháp này đã diệt! Nếu dùng cái tâm tà kiến, vì danh vọng, lợi dưỡng, sẽ như trong chánh kinh trên đây đã nói “tật đố sở đạo, lợi dưỡng sở phú, danh văn sở khiên, quảng hành phóng dật” (bị ghen tỵ hướng dẫn, lợi dưỡng che lấp, danh vọng trói buộc, làm đủ mọi chuyện buông lung). Dẫu trong lúc hành pháp, vẫn là đang phóng dật! Trong hành pháp Ban Châu, có các vị Bồ Tát tự mình cũng có thể cảm nhận chính mình đang tìm cầu phương tiện phóng dật ở khắp mọi chỗ! “Bất trì giới thiện, thường nhạo loạn tâm, bất tu Thiền Định, viễn ly kinh giáo, bất cầu đa văn, vị ngộ thiện sư, duy phùng ác hữu” (Chẳng trì giới thiện, thường thích loạn tâm, chẳng tu Thiền Định, xa lìa kinh giáo, chẳng cầu đa văn, chưa gặp thầy lành, chỉ gặp bạn ác). “Bạn ác” là gì? A dua, bợ đỡ, hư giả đối với pháp, chẳng có thực chất. Chẳng phải là thâm nhập tu tập pháp tắc, phần nhiều là dối trá, bợ đỡ, nắm níu lẫn nhau, phần nhiều chẳng thật. Nếu là như thế, sẽ xa lìa pháp tắc này, tuy niệm Phật mà đã đánh mất cam lộ vị, vì chẳng có thành tựu chân thật. Nay mọi người chúng ta khi tu tập pháp này, nhất định phải thâm nhập quan sát nghiệp duyên của chính mình trong hiện tại sanh khởi và thủ hộ như thế nào? Tu tập bằng cách nào? Vì sao phải dùng pháp này? Vì sao phải thủ hộ pháp này?
(Kinh) Bỉ các ngôn thử kinh, phi thị chư Phật thuyết. Thử chư Tu Đa La, phi thị pháp vương giáo. Bỉ bối tự ý ngôn, ngã hà năng thuyết thử?
(經)彼各言此經,非是諸佛說。此諸修多羅,非是法王教。彼輩自意言,我何能說此?
(Kinh: Họ đều nói kinh này, chẳng do chư Phật nói. Các Tu Đa La này, chẳng do pháp vương dạy. Bọn họ tự ý nói, ta làm sao nói được?)
“Tự ý ngôn” là hư vọng suy lường, dựa theo ý nghĩ của riêng mình, tức là dùng tâm thức hư vọng của chính mình để suy lường pháp tắc rồi phỉ báng.
(Kinh) Nhược kiến Đại Điều Ngự, Thế Tôn phóng quang minh. Ngã vị bỉ quảng tuyên, bỉ diệc năng truyền thuyết. Kỳ hoặc ư thử kinh, văn dĩ sanh hoan hỷ.
(經)若見大調御,世尊放光明 。我爲彼廣宣 ,彼亦能 傳說。其或於此經,聞已生歡喜。
(Kinh: Nếu thấy Đại Điều Ngự, Thế Tôn phóng quang minh. Ta vì họ rộng nói, họ cũng sẽ truyền nói. Hoặc đối với kinh này, nghe xong sanh hoan hỷ).
“Văn dĩ sanh hoan hỷ” (Nghe xong sanh hoan hỷ): Đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta có thể không ngừng xét kỹ và quan sát chỗ này: Nếu có hữu tình đối với kinh giáo, cho đến đối với hình tượng Tam Bảo, chẳng sanh hoan hỷ, phần nhiều là kẻ tự kiêu mạn, tự cao tự đại, tự phụ. Nếu là kẻ thiện căn thành thục, đối với một kinh, một sách, thậm chí một lời nói, sẽ đều kính vâng, thủ hộ.
(Kinh) Tư nhân vô nghi võng, bất ngôn phi Phật thuyết.
(經)斯人無疑網,不言非佛說。
(Kinh: Kẻ đó chẳng nghi hoặc, chẳng bảo “Phật không nói”).
Vì sao? Đức Thế Tôn nói hết thảy các pháp. Do hết thảy các pháp tắc thế gian và xuất thế gian, không pháp nào đức Thế Tôn chẳng nói, cho nên Ngài là Thế Tôn. Vì sao nói thế? Trong hết thảy các môn Đà-la-ni thiện xảo, không pháp gì chẳng nói, không pháp gì chẳng hiển lộ. Nhưng nếu đức Phật chẳng nói loại giáo ngôn này thì [giáo pháp ấy] làm sao tỏ lộ được? Làm sao biết rõ được?
(Kinh) Như hữu giới thanh tịnh, sở kiến năng liễu tri.
(經)如有戒清淨,所見能了知。
(Kinh: Nếu có giới thanh tịnh, trông thấy bèn biết rõ).
Trong cơ chế trì giới, nếu mọi người chẳng có tâm hiếu thuận, trì giới bằng cách nào đây? Vẫn là dùng cái tâm khinh mạn để trì giới! Hành pháp mà nếu dựa vào cái tâm khinh mạn, hành pháp để làm gì cơ chứ? Vẫn là cái nghiệp danh vọng, lợi dưỡng hư giả, vẫn sanh tử y hệt! Vì thế, trong quá trình chúng ta tu tập pháp tắc này, đối với hành vi trong một niệm hiện tiền của chính mình, nhất định phải tư duy và quan sát rõ ràng.
(Kinh) Kính pháp khởi trọng tâm, ngã vị thử trần thuyết. Nhược dĩ tam thiên bảo, trì phụng chư Như Lai. Vị cầu đại Bồ Đề, kỳ phước bất khả thuyết. Nhược hữu chư tỳ-kheo, thuyết Phật sở thán định.
(經)敬法起重心,我爲此陳說。若以三千寶,持奉諸如來。爲求大菩提,其福不可說。若有諸比丘,說佛所嘆定。
(Kinh: Kính pháp, tâm trân trọng. Ta vì kẻ đó nói: Dùng báu đầy tam thiên, dâng hiến các Như Lai, để cầu đại Bồ Đề, phước ấy chẳng thể nói. Nếu có các tỳ-kheo, nói môn Định Phật khen).
“Phật sở thán định” (Môn Định được đức Phật khen ngợi) chính là Ban Châu tam-muội, tức Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền, tu trì loại Định Ý tam-muội ấy.
(Kinh) Văn giả sanh tín tâm, thử phước quá ư bỉ.
(經)聞者生信心,此福過於彼」。
(Kinh: Nghe rồi sanh tín tâm, phước ấy vượt hơn hẳn).
Đức Thế Tôn tán thán phước đức ấy. Thật ra, chẳng có phước đức nào để có thể đạt được, chỉ vì chúng sanh tiến nhập, yêu thích pháp tắc Bồ Đề. Nói kiểu này thật sự là để gia trì chúng ta trọn đủ tâm nguyện hành pháp.
8. Phẩm thứ năm: Thọ Trì
(Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần Thọ Trì phẩm đệ ngũ.
(經)大方等大集賢護分受持品第五。
(Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần. Phẩm thứ năm: Thọ Trì).
Đối với bất cứ giáo pháp nào, nếu chẳng dựa theo kinh điển để tu trì, tu tập, quan sát, chúng ta sẽ không có chỗ để nương tựa. Nhất là sau khi đức Thế Tôn đã diệt độ, kinh điển là cội nguồn pháp bảo duy nhất để chúng ta nương tựa. Tuy có các vị thiện tri thức khác lập giáo, cũng chẳng lìa kinh điển. Nếu chẳng phải là như thế, sẽ chẳng được đức Thế Tôn ấn khả, chẳng do đức Thế Tôn trực tiếp tuyên nói, sẽ có nhiều chỗ chẳng đáng tin! Vì vậy, kinh điển là chỗ nương cậy, bảo vệ chúng ta, là chỗ nương cậy cho chúng ta tu tập, là chỗ nương cậy, bảo vệ chúng ta thành tựu, thoát khỏi trầm luân. Ở đây, chúng ta hãy xem phẩm Thọ Trì dùng điều gì để tuyên nói, giáo hóa.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: – Hiền Hộ! Thử chúng hữu nhân, kim tại ngã tiền, thân văn ngã thuyết như thị tam-muội, ư ngã diệt hậu, kỳ sở sanh xứ, hoàn phục đắc văn thị tam-muội bảo, tuy văn bất tín, phỉ báng, hủy tử, viễn ly thiện hữu, tùy trục ác nhân. Hiền Hộ! Phục hữu nhất nhân, ư thiện nhân sở, văn thị tam-muội, thâm diệu kinh điển, thượng bất sanh tín, bất dĩ vi thật, bất năng khai giải. Huống ác nhân xứ, văn thị kinh điển, ninh năng sanh tín, nhi phục khai giải? Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Chư Phật Như Lai sở ngôn nan tín. Chư Phật Thế Tôn trí huệ nan tri cố. Hiền Hộ! Nhược đương thành tựu như thị tam-muội, nhiên hậu nãi năng ư đương lai thế, dữ chư chúng sanh tăng trưởng Phật pháp.
(經)爾時,世尊復告賢護菩薩言:「賢護!此衆有人,今在我前,親聞我說如是三昧,於我滅後,其所生處,還復得聞是三昧寶,雖聞不信,誹謗毀呰,遠離善友,隨逐惡人。賢護!復有一人,於善人所,聞是三昧,深妙經典,尚不生信,不以爲實,不能開解。況惡人處,聞是經典,寧能生信,而復開解?何以故?賢護!諸佛如來所言難信。諸佛世尊智慧難知故。賢護!若當成就如是三昧,然後乃能於當來世,與諸衆生增長佛法。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: – Này Hiền Hộ! Trong đại chúng đây, nay đang ở trước ta, có kẻ đích thân nghe ta nói tam-muội như thế, sau khi ta diệt độ, người ấy sanh ra vẫn lại được nghe báu tam-muội như thế, [nhưng kẻ ấy] tuy nghe mà chẳng tin, phỉ báng, hủy nhục, chê bai, xa lìa bạn lành, thuận theo kẻ ác. Này Hiền Hộ! Lại có kẻ từ nơi người lành được nghe kinh điển tam-muội sâu xa, mầu nhiệm như thế mà còn chẳng sanh lòng tin, chẳng cho là thật, chẳng thể thông hiểu, huống hồ từ nơi kẻ ác được nghe kinh điển này, mà lại có thể sanh lòng tin, lại thông hiểu ư? Vì sao vậy? Này Hiền Hộ! Lời chư Phật Như Lai nói khó tin, trí huệ của chư Phật Thế Tôn khó biết. Này Hiền Hộ! Nếu có thể thành tựu tam-muội như thế, sau đó, sẽ có thể ở trong đời tương lai cùng với các chúng sanh tăng trưởng Phật pháp).
Ở đây, đức Thế Tôn nói lời thọ ký. Ba ngàn năm sau khi đức Phật diệt độ, chúng ta có thể ở nơi đây đọc tụng, học tập kinh Ban Châu Tam Muội, thậm chí tu tập pháp Ban Châu, quả thật là do oai đức của đức Thế Tôn gia trì, do thiện căn trong đời trước của chúng ta hiển hiện. Đừng nên hiểu hời hợt lời thọ ký này của đức Thế Tôn! Mà cũng đừng nên suy đoán hư vọng chi khác, chỉ nên xét xem thiện căn có thành thục hay không và lợi ích có hiện tiền hay không. Điều này rất trọng yếu! Đức Thế Tôn thọ ký như thế nhằm tạo phương tiện tăng thượng cho chúng ta, vì chỉ có sức tam-muội như thế thì mới có thể thật sự đắc lực trong thế gian, thật sự lợi ích rộng rãi các hữu tình thế tục trong thế gian. Trong thế gian này, có nhiều kẻ học Phật dù tại gia hay xuất gia, muốn lợi ích hữu tình mà chẳng đắc lực, vì lẽ nào vậy? Do chẳng có sức tam-muội, chẳng có sức trí huệ, chẳng có sức từ bi!
Sức tam-muội chính là công đức chân thật khiến cho Phật pháp đắc lực trong thế gian. Đó gọi là “nhân thiên chi trung, mạc quá ư định lực sở nhiếp” (trong trời, người, không gì hơn sự nhiếp thọ của định lực), tức là nói do sức của Chỉ nơi chính mình mà có thể khiến cho trời, người được an lạc. Hữu tình trong chín pháp giới khắp mười phương, ai nấy đều có chỗ để tiến nhập. [Xét ra], nhân loại chọn lựa pháp tắc này thuận tiện nhất, sẽ là loại sanh mạng có sự chọn lựa rộng lớn nhất. Vì loại sanh mạng này (nhân loại) có sức ký ức vượt hẳn lẽ thường, nhiều loại sanh mạng khác chẳng thể sánh bằng! Do vậy, sự chọn lựa này đặc biệt rộng lớn. Khi phát tâm “tu tập Bồ Đề tâm”, chọn lựa pháp tắc sẽ rất thuận tiện. Nếu dùng định lực để nhiếp thọ, nhân loại sẽ đạt được đại an lạc, xa lìa nỗi khổ phải băn khoăn lựa chọn. Nỗi khổ ấy chính là sự hao tổn tự ngã lớn nhất của nhân loại, thường là có lúc quyết định hoặc chẳng quyết định, làm hoặc chẳng làm, hoặc được, hoặc mất, hoặc đúng, hoặc sai, hoặc phàm, hoặc thánh… Nói chung là băn khoăn lựa chọn trong ấy, có người lãng phí cả đời vì chuyện này, nhưng chẳng có chuyện nào thật sự quyết định được, vì cứ lo được, lo mất. Chư thiên cũng giống như thế. Chư thiên phần nhiều say đắm niềm vui ngũ dục, mê đắm ngũ dục, thỏa thích ngũ dục, chẳng thể tự thoát ra được. Nếu là kẻ có định lực to lớn, hay có sức thần thông, có thể dùng thiện xảo để nhiếp hóa chư thiên, khiến cho họ hướng về [người ấy]. Vì sao vậy? Quang minh của định lực vượt xa quang minh của chư thiên.
Thân tướng của chư thiên đều sẵn có quang minh, chẳng nhờ vào ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, chẳng giống như hữu tình thuộc nhân loại cần phải nhờ vào ánh sáng của đèn, ánh sáng của mặt trời, mặt trăng giúp đỡ để đi lại, làm các sự nghiệp! Chư thiên chẳng cần. Nếu là người có Thiền Định thiện xảo, hoặc tam-muội thiện xảo, có thể dùng quang minh to lớn để chiếu thấu loài hữu tình ấy, khiến cho họ tiến nhập. Vì thế nói những người có Thiền Định, đại oai quang rạng rỡ, chiếu rọi tam thiên đại thiên thế giới, khiến cho chư thiên cũng đến quy thuận. Do vậy, người hành trì Ban Châu tam-muội có thể lợi ích thế gian, dù trời hay người, đều có thể lợi ích. Cho nên đối với các loài hữu tình thuộc các đường khác, chắc chắn sẽ có thể thiện xảo hồi thí công đức và lợi ích chân thật. Như Tu La đạo thích tranh đấu, sanh tâm ghen tỵ, chẳng được an ổn, nếu có các sức công đức tam-muội, sẽ có thể khiến cho họ đạt được niềm vui an ổn, xa lìa các nỗi khổ tranh đấu và ghen tỵ. Đấy đúng là rất khổ. Lại như đối với các hữu tình trong ba ác đạo, cũng giống như thế. Đối với điều này, chúng ta rất dễ quan sát thấy.
(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Hữu chư Bồ Tát Ma Ha Tát, nhược tại gia, nhược xuất gia, văn thử tam-muội, bất bố, bất kinh, bất hối, bất thoái, bất báng, bất hủy, văn dĩ tùy hỷ, sanh tín kính tâm, quyết định chân thật, vô phục nghi võng, độc tụng, thọ trì, tư duy nghĩa thú.
(經)復次賢護!有諸菩薩摩訶薩,若在家,若出家,聞此三昧,不怖,不驚,不悔,不退,不謗,不毀,聞已隨喜,生信敬心,決定真實,無復疑惘,讀誦受持,思惟義趣。
(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Có các Bồ Tát Ma Ha Tát dù tại gia, hay xuất gia, nghe tam-muội này, chẳng sợ, chẳng kinh hãi, chẳng hối hận, chẳng lui sụt, chẳng báng, chẳng hủy, nghe rồi tùy hỷ, sanh tâm kính tín, quyết định chân thật, chẳng còn ngờ vực, đọc tụng, thọ trì, tư duy nghĩa lý).
Chẳng hạn như chúng ta nay đang An Cư, có khá nhiều vị thiện tri thức thích đọc tụng, nhưng cũng có khá nhiều vị Bồ Tát chẳng thích đọc tụng. Đọc tụng mà còn chẳng muốn, làm sao có thể hành trì pháp tắc này? Đấy là do thiện căn của chúng ta còn bị nghi hoặc che lấp, do nghi hoặc sẽ sanh ra nhiều ác duyên, chẳng thể sanh tín tâm thủ hộ thiện pháp, chẳng thích pháp này, phần nhiều dùng cái tâm buông lung để làm các sự nghiệp, cho nên đánh mất món báu ma-ni này. Mọi người hãy nên khéo quan sát tự tâm, đừng lo phê phán kẻ khác. Như thế sẽ là thuận tiện nhất!
Trước kia, ở trong tự viện khác, tôi thường hỏi các vị xuất gia sư phụ: “Quý vị thích niệm tụng, hay thích niệm Phật, hay thích tu trì các thứ Thiền pháp, hay thích làm các sự nghiệp?” Chín mươi phần trăm là thích làm các sự nghiệp, nhưng sự nghiệp tản mạn, thuận theo lòng ham muốn, phần nhiều tỏ lộ tập khí, cũng tức là để an lạc trong tập khí của chính mình, có thể thỏa thích lòng ham muốn của chính mình, thỏa mãn nguyện vọng của chính mình, thuận theo sự ham muốn của chính mình mà làm các việc! Do đó, họ chẳng thích các tam-muội, chẳng thích niệm Phật, chẳng thích công khóa của thường trụ, phần nhiều chuộng phước đức, siêng năng làm đủ mọi chuyện xen tạp. Đó là một hiện tượng đặc biệt nổi bật trong hiện thời, thật sự là chín mươi phần trăm [người tu hành] chẳng thích tu tập pháp tắc, phần nhiều thích buông lung tự tâm! Chỉ cần có sự nghiệp bèn khinh thường chuyện đọc tụng hoặc hành trì pháp tắc, coi trọng sự nghiệp, coi đó là chánh yếu. Các sự nghiệp cũng đều cần có người thực hiện, vậy thì ai sẽ thủ hộ chuyện tụng niệm và hành pháp? Nếu chúng ta thật sự hộ trì Tam Bảo để làm các sự nghiệp, do cái tâm chẳng buông lung, cũng sẽ đạt được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Nhưng nếu vì buông lung tự tâm mà làm các sự nghiệp thì chúng ta cần phải khéo quan sát tự tâm, tức là tự tâm đã khởi tâm động niệm những gì? Phải tự biết, tự hiểu rõ!
[1] Loa ở đây là loại vỏ ốc dùng làm tù và để thổi.
[2] Gọi đầy đủ thì là Ngũ Chủng Bất Phiên do ngài Huyền Trang đề ra trong lý luận về phiên dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán, tức là năm trường hợp sẽ chỉ bảo lưu cách phiên âm, chứ không dịch nghĩa một từ ngữ tiếng Phạn:
1. Do bí mật chẳng dịch, như các chữ trong Đà La Ni. Do một chữ chân ngôn có thể bao hàm vô lượng nghĩa bí mật, nếu dịch nghĩa ra sẽ trở thành ngô nghê và đánh mất tác dụng của chú ngữ.
2. Do chứa đựng nhiều nghĩa nên không phiên dịch, như chữ Bạc Già Bà (Bhagavān) có sáu nghĩa là “tự tại, xí thịnh, đoan nghiêm, thiện danh xưng, cát tường, tôn quý”, nên nếu chỉ dịch là Thế Tôn thì đã đánh mất ý nghĩa.
3. Do trong cõi này (Trung Hoa) không có, cho nên không dịch. Chẳng hạn như cây Diêm Phù, Càn Thát Bà, Ca Lâu La, Ca Lăng Tần Già…
4. Do thuận theo cổ nhân nên không phiên dịch, như A Nậu Bồ Đề, A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
5. Do sanh điều thiện nên không phiên dịch, như Bát Nhã nếu dịch thành Trí Huệ thì người đời sẽ coi thường, không chú ý tới ý nghĩa “trí huệ chân thật, chẳng đối đãi, siêu việt tình kiến” của từ ngữ ấy.
[3] Ý nói phước đức, thiện căn, nhân duyên của những người đến nghe giảng mạnh
hơn pháp sư Từ Pháp ngàn vạn lần, đáng lẽ họ phải là người hướng dẫn, dìu dắt pháp sư tu học, thay vì pháp sư là người hướng dẫn họ tu học như trong hiện thời.
[4] Tức chẳng phải bản hội tập như các bản hội tập của Vương Long Thư, Ngụy Mặc Thâm, hay Hạ Liên Cư. Câu kinh Vô Lượng Thọ trên đây trích từ bản Ngụy dịch, tức bản dịch của ngài Khang Tăng Khải vào thời Tào Ngụy.
[5] Sư phụ của pháp sư Từ Pháp là Hoằng Xuyên Luật Sư, được mời từ Đài Loan trở về Hoa Lục vào năm 1984. Khi đó, Trung Cộng vừa cho phép tái lập các hoạt động tu trì sau một thời gian gần 30 năm nghiêm cấm, cho nên rất ít tăng sĩ, cũng như người thông thạo quy củ Thiền môn, phạm bái khá hiếm hoi. Bởi lẽ, Mao Trạch Đông đóng cửa các tự viện tại vùng quê, chỉ cho mở cửa các chùa như địa điểm du lịch, tăng sĩ người bị đuổi về hoàn tục, người bị đi cải tạo khổ sai. Các tăng sĩ già cả hoặc bị tù đày, hoặc bị giam lỏng tại chỗ, nghiêm cấm tụng niệm. Hầu như các tăng sĩ chỉ còn niệm thầm, hay tham Thiền sau các buổi học chính trị mà thôi.
[6] Ngũ đường công khóa là năm thời khóa thường nhật trong Thiền môn Trung Hoa: Công khóa sáng, công khóa tối, công khóa thọ trai buổi sáng, thọ trai buổi trưa (quá đường), và cúng Ngọ. Tuy nhiên, còn một cách hiểu khác, tức ngũ đường công khóa là hai đường khóa sáng, và ba đường khóa tối. Hai đường khóa sáng là chú Lăng Nghiêm và Thập Chú. Ba đường khóa tối là kinh Di Đà (và niệm Phật, kinh hành, tối thiểu là niệm 108 câu danh hiệu), Đại Sám Hối Văn (Hồng Danh Bảo Sám), và Mông Sơn Thí Thực. Riêng sau khóa sáng, có nghi thức cúng Phật và xuất sanh (thí thực cho quỷ thần và cô hồn). Khóa chiều thì thí thực trong khi tụng Mông Sơn. Sau khi tụng xong Mông Sơn, các tùng lâm luôn tụng chú Đại Bi một lượt và tán Già Lam Bồ Tát. Các tông phái khác có thể thay bằng các kinh chú khác, nhưng xuất sanh trong hai thời khóa và cúng Ngọ không được thiếu. Vật phẩm cúng Ngọ có thể đơn giản là một chén cơm trắng (hoặc cháo, hoặc mì sợi v.v…), xớt lấy bảy hạt cơm hoặc một miếng cơm để thí cho quỷ thần.
[7] Ý nói người xuất gia mà không tu tập, sửa đổi tâm trí, hành vi và thói quen của
chính mình cho tốt đẹp hơn thì chỉ là khoác thêm một lớp tăng bào, hoàn toàn chẳng phải là tăng sĩ.
[8] Tức là bài “善哉解脫服,缽吒禮懺衣,我今頂戴受,禮佛求懺悔” (thiện tai giải thoát phục, bát tra lễ sám y, ngã kim đảnh đới thọ, lễ Phật cầu sám hối, tạm dịch: Lành thay áo giải thoát, áo phước điền lễ sám, nay con kính cẩn thọ, lễ Phật cầu sám hối). Theo Phật Học Từ Điển, Bát Tra (Paṭṭa) là một loại tăng y, gồm nhiều miếng ghép lại, trông như các mảnh ruộng liên tiếp nhau, nên gọi là Điền Tướng Y. Lễ sám y trong bài kệ chính là mạn y, tức y không có điều, dành cho sa-di hay cư sĩ đã thọ Ngũ Giới. Bài kệ trên đây là bài kệ đắp y sử dụng theo truyền thống trong các tông phái Trung Hoa, nhưng khi dành cho cư sĩ học đắp y trong thời gian xuất gia đoản kỳ (xuất gia ngắn hạn, chẳng hạn như tại đạo tràng Phật Quang Sơn), sẽ sửa thành “thiện tai giải thoát phục, trân quý lễ sám y, ngã kim đảnh đới thọ, lễ Phật cầu sám hối”. Tuy vậy, theo Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu, bài kệ Đắp Y chia thành bốn loại:
1) Khi đắp y năm điều thì bài kệ sẽ là “thiện tai giải thoát phục, vô thượng phước điền y, ngã kim đảnh đới thọ, thế thế bất xả ly”.
2) Khi đắp y bảy điều sẽ là “thiện tai giải thoát phục, vô thượng phước điền y, ngã kim đảnh đới thọ, thế thế thường đắc phi”.
3) Khi đắp đại y (y tăng già lê), sẽ là “thiện tai giải thoát phục, vô thượng phước điền y, phụng trì Như Lai mạng, quảng độ chư chúng sanh”.
4) Đắp mạn y sẽ là “đại tai giải thoát phục, vô tướng phước điền y, phi phụng như giới hạnh, quảng độ chư chúng sanh” (lớn thay áo giải thoát, áo ruộng phước vô tướng, mặc đúng như giới hạnh, rộng độ các chúng sanh).
[9] Hình đồng sa-di (形同沙彌) có nghĩa là hình tướng giống như sa-di, nhưng chưa phải là sa-di thật sự. Tức là khi xuất gia, đã xuống tóc, nhưng chưa thọ giới sa-di.
[10] Tức là phải liên tục tu tập, chế ngự hoặc đào thải tập khí của chính mình, luôn có tâm niệm cầu sanh, luôn giữ vững niềm tin kiên cố nơi bổn nguyện tiếp độ của A Di Đà Phật, đồng thời hành trì không biếng trễ, gián đoạn.
[11] Chín chúng, tức là chúng sanh trong chín pháp giới.