Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh
giảng ký 1
大方等大集賢護經講記
慈法法師
Chủ giảng: Pháp sư Từ Pháp
Địa điểm: Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

(Kinh) Phục thứ, Hiền Hộ! Thí như thế gian, nhược nam, nhược nữ, ư thụy mộng trung, kiến chủng chủng sự. Sở vị kim, ngân chúng bảo, trân tài, thương khố, hoặc kiến bằng hữu, chư tri thức bối, hoặc kiến giác thời, tâm bất lạc giả. Thị nhân mộng trung, sở đối cảnh giới, hoặc vi, hoặc thuận, hoặc ưu, hoặc hỷ. Hữu thời ngữ ngôn, hoan hân Cực Lạc. Hữu thời thảm thích, tận ý bi ai. Thị nhân ngụ dĩ, tư duy ức niệm, như mộng sở kiến, vị tha quảng tuyên, truy niệm mộng trung, tiện sanh ưu hỷ. Như thị Hiền Hộ! Bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân, đoan tọa hệ niệm, chuyên tâm tưởng bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, như thị tướng hảo, như thị oai nghi, như thị đại chúng, như thị thuyết pháp.

()復次賢護譬如世間若男若女於睡夢中見種種事。所謂金銀衆寶珍財倉庫或見朋友諸知識輩或見覺時心不樂者。是人夢中所對境界或違或順或憂或喜。有時語言歡欣極樂。有時慘慼盡意悲哀。是人寤已思惟憶念如夢所見爲他廣宣追念夢中便生憂喜。如是賢護彼善男子善女人端坐繫念專心想彼阿彌陀如來應供等正覺如是相好如是威儀如是大衆如是說法。

(Kinh: Lại này, Hiền Hộ! Ví như trong thế gian, dù nam hay nữ, trong khi mơ ngủ, thấy đủ mọi chuyện, như là vàng, bạc, các thứ báu, của cải quý báu, kho lẫm, hoặc thấy bạn bè, những kẻ quen biết, hoặc khi gặp họ trong lúc tỉnh thức, tâm chẳng vui vẻ, thì người ấy trong mộng đối với cảnh giới, hoặc trái nghịch, hoặc thuận theo, hoặc lo, hoặc mừng. Có lúc nói năng, vui thích tột bậc. Có lúc buồn thảm, tột bậc bi ai. Người ấy thức giấc, suy nghĩ, nhớ lại những gì đã thấy trong mộng, nói cặn kẽ với người khác, tưởng nhớ chuyện trong mộng, bèn sanh buồn, vui. Này Hiền Hộ! Như thế đó, thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy ngồi ngay ngắn, chăm chú, chuyên tâm tưởng A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, tướng hảo như thế, oai nghi như thế, đại chúng như thế, thuyết pháp như thế).

Đoạn văn tự này mười phần rõ ràng, xác đáng, dùng giấc mộng làm tỷ dụ để nói. Trong mộng, dù vui hay buồn, dù thuận duyên hay nghịch duyên, sau khi tỉnh giấc, lúc kể nói, sẽ sanh lòng vui hay buồn. Lúc nói tới duyên gây buồn, bèn sanh lòng buồn. Lúc nói tới duyên gây vui vẻ, bèn sanh lòng hoan hỷ. Quán Phật cũng giống như thế.

(Kinh) Như văn hệ niệm, nhất tâm tương tục, thứ đệ bất loạn, hoặc kinh nhất nhật, hoặc phục nhất dạ. Như thị hoặc chí thất nhật, thất dạ, như tiên sở văn, cụ túc niệm cố. Thị nhân tất đổ A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác dã. Nhược ư trú thời, bất năng kiến giả, nhược ư dạ phần, hoặc thụy mộng trung, A Di Đà Phật tất đương hiện dã.

()如聞繫念一心相續次第不亂或經一日或復一夜。如是或至七日七夜如先所聞具足念故。是人必睹阿彌陀如來應供等正覺也。若於晝時不能見者若於夜分或睡夢中阿彌陀佛必當現也。

(Kinh: Hệ niệm đúng như những gì đã được nghe, nhất tâm tiếp nối, theo thứ tự chẳng loạn, hoặc trải qua một ngày, hoặc là một đêm. Như thế cho đến bảy ngày, bảy đêm, đúng như đã nghe từ trước, do niệm đầy đủ, người ấy ắt thấy A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Nếu vào lúc ban ngày chẳng thể thấy, thì hoặc là trong ban đêm, hoặc khi nằm mộng, A Di Đà Phật ắt sẽ hiện ra).

“Thứ đệ bất loạn” là liên tục chẳng loạn, tư duy theo thứ tự, hoặc là liên tục nhất tâm. Lời dạy “thứ đệ bất loạn” mười phần quan trọng. Trong pháp môn Tịnh Độ, như kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ do pháp sư Huyền Trang dịch. Đó là bản kinh “trực dịch” (dịch sát từng chữ một), nhất định có sai biệt với bản kinh A Di Đà do La Thập đại sư dịch ý. Tuy cùng một bản tiếng Phạn, nhưng lượng chữ sai khác cũng khá lớn. Vì là bản kinh trực dịch, cho nên bản tiếng Phạn có bao nhiêu câu, liền dịch ra tương ứng [bấy nhiêu câu], chẳng tăng, chẳng giảm, nhưng dịch ý thì chẳng phải vậy. Như La Thập đại sư do “Tần nhân háo giản” (người đất Tần chuộng đơn giản), có nghĩa là người Trung Hoa thích đơn giản. Ngài từ nước Quy Tư (Kutsi, Kucina, Kuche) vào đất Trung Hoa nhằm triều đại Diêu Tần, cho nên Ngài gọi người Trung Hoa là “Tần nhân”. Do người đất Tần chuộng đơn giản, cho nên Ngài phần nhiều dịch ý. Rõ rệt nhất là khi Ngài dịch bộ Đại Trí Độ Luận của Long Thọ Bồ Tát, đã tóm gọn [nguyên tác] bộ Đại Trí Độ Luận gồm một ngàn quyển thành một trăm quyển. Nay chúng ta thấy Đại Trí Độ Luận là năm bộ; nếu trực dịch cả một ngàn quyển của Đại Trí Độ Luận, sẽ thành năm mươi bộ. Cũng có nghĩa là đối với tác phẩm Đại Trí Độ Luận, La Thập đại sư đã giản lược chín phần mười, chừa lại một phần mười thí cho đại chúng chúng ta, nhưng Ngài có thể tuyên nói [ý chỉ chú giải kinh Đại Bát Nhã của Long Thọ Bồ Tát] rõ ràng, đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Tâm lực chẳng thể nghĩ bàn! Văn tự của La Thập đại sư rất ngắn gọn, thuận tiện, chẳng tăng giảm nội dung, nhưng đã rút gọn một lượng lớn văn tự. Vì thế, đa số người có trí khen ngợi, nhưng kẻ tâm trí tầm thường, hoặc tâm lực chẳng đủ, nhìn vào sẽ sanh ra lầm loạn, hoặc thốt ra các cách suy nghĩ chẳng tương ứng! Pháp sư Huyền Trang là một vị Tam Tạng pháp sư theo lối tân dịch lỗi lạc thời ấy, một lần nữa lại sang Ấn Độ thỉnh kinh bằng tiếng Phạn để dịch sát theo nguyên văn, nhằm tránh khuyết điểm trong lối dịch ý.

Trong bản kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ theo lối trực dịch của pháp sư Huyền Trang có nói: “Nhược nhất nhật dạ, hoặc nhị, hoặc tam, hoặc tứ, hoặc ngũ, hoặc lục, hoặc thất, hệ niệm bất loạn” (Nếu một ngày đêm, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm, hoặc sáu, hoặc bảy, hệ niệm bất loạn). Trong kinh A Di Đà được dịch theo lối dịch ý, La Thập đại sư viết: “Nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhật, nhược tứ nhật, nhược ngũ nhật, nhược lục nhật, nhược thất nhật, nhất tâm bất loạn” (Hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, nhất tâm bất loạn). Bốn chữ “nhất tâm bất loạn” ấy xưa nay đã khiến cho nhân duyên của bao nhiêu người bị ngắc ngứ. Bởi lẽ, nhất tâm bất loạn, bất luận là Lý nhất tâm, hay Sự nhất tâm bất loạn, quả thật bọn phàm phu tầm thường chẳng dễ gì léo hánh được! Do đó, đối với vấn đề pháp tắc ấy, pháp sư Huyền Trang đã thấy khuyết điểm ấy, bèn dịch lại một bản mới theo lối trực dịch, tức Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh. Vừa mở đầu, đã khiến cho mọi người có cảm giác mới mẻ. Trong ấy có nói: Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, hoặc là một ngày đêm, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày, hệ niệm chẳng loạn. Khi người ấy lâm chung, A Di Đà Phật và các thánh chúng sẽ hiện ra trước mặt. Sự sai biệt giữa “nhất tâm bất loạn”“hệ niệm bất loạn” là nhìn theo văn tự. Dùng tâm địa để ấn khế thì “hệ niệm bất loạn” thuộc vào phàm thánh, “nhất tâm bất loạn” là nói riêng biệt, đặc biệt. Nói theo kiểu riêng biệt, đặc biệt, thì kẻ tương ứng sẽ hoan hỷ, kẻ chẳng tương ứng sẽ vứt bỏ pháp ấy. Nếu là người siêng gắng nơi pháp này, một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày, hệ niệm bất loạn, sẽ thuận tiện lắm! Đối với phàm hay thánh, đối với kẻ tương ứng, hay chẳng tương ứng, cách nói ấy đều có pháp tắc để tư duy và hệ niệm, hoặc nói cách khác là có một cơ chế dung dị hơn.

Ở đây, lại càng nổi bật là đức Thế Tôn nêu ra cho chúng ta thấy sự tư duy và tu trì trong Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội. Toàn bộ phẩm này và phẩm sau đều nhằm làm cho chúng ta tư duy đúng như lý. Phẩm này có tên là Hiền Hộ Phần Tư Duy phẩm đệ nhất (phần Hiền Hộ [của kinh Đại Tập], phẩm thứ nhất Tư Duy). Cũng có nghĩa là đối với Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, chỗ thực hiện đầu tiên là hướng dẫn chúng ta về thứ tự của chánh tư duy. Trong Phật giáo, Tư Duy mười phần quan trọng. Đạt Ma tổ sư của nhà Thiền từ phương Tây sang, truyền bá phương tiện “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền” (chẳng lập văn tự, truyền riêng ngoài giáo) tại nước Chấn Đán (Trung Hoa) để ngăn trở, bảo vệ giới Phật giáo Trung Hoa phần nhiều mê mải trong văn tự, ngôn thuyết, chẳng thể trực tiếp thấu đạt lòng người, đối ứng với trạng huống như thế mà sư tử hống. Đấy là nhân duyên trong thuở đó.

Nếu chúng ta chấp vào một phương diện nào đó, chẳng khéo tư duy, hư vọng lập ra một cái gọi là Tâm, tâm địa, hoặc là pháp tắc thuộc về Không, sẽ chẳng thể thâm nhập, thọ dụng an lạc, hoặc nói tới các cảnh giới diệu dụng được. Trong sức tu trì của các thứ pháp tắc, như trong các pháp tắc do cổ nhân đề ra, thì có Tứ Lực Thuyết, hoặc Ngũ Lực Thuyết. Trong Tứ Lực Thuyết, có tâm lực, duyên lực, cảnh giới lực, và quán tập lực. Chúng ta phải vận dụng thỏa đáng quán tập lực, cảnh giới lực, và duyên lực. Nếu chẳng vận dụng thỏa đáng, tự tâm sẽ chẳng thể tương ứng, tức là chẳng thể lìa khổ, được vui, tiêu trừ Phiền Não Chướng, tiêu trừ Sở Tri Chướng, chẳng thể thúc đẩy xuất sanh công đức như thế. Do vậy, nhiều người hành pháp tắc “nước lạnh ngâm tảng đá”[1], thoạt nhìn dường như tu trì, nhưng chẳng thể tăng trưởng công đức. Thoạt nhìn dường như tu trì, nhưng chẳng có thực chất thọ dụng của việc theo thứ tự thâm nhập các pháp tắc, tức là [chẳng thâm nhập] công đức tạng, an lập trong sự xếp đặt hư giả của chính mình, hoặc có thể nói là sự xếp đặt ấy rỗng tuếch. Chính là như chúng ta từ các nơi tìm đến nơi đây, đối với phong cảnh trên đường, nếu quý vị lưu luyến chẳng dứt được một chỗ nào, sẽ chẳng thể thấy mục đích cuối cùng. Nếu chúng ta chẳng nhìn phong cảnh chung quanh, tức là cứ mờ mịt mà đi, có thể đạt tới mục đích hay không? Cũng có thể đạt tới mục đích. Nhưng nếu [có thể nhìn ngắm] phong cảnh trên đường, lại có thể đạt tới mục đích, người ấy [đi đường] rất thuận tiện, đã chẳng đánh mất phong cảnh trên đường đi, lại còn chẳng ngưng lại, vẫn đạt tới mục đích. Chúng ta thấy Phật, tức là đạt tới mục đích. “Quang cảnh trên đường” hàm ý: Chánh tư duy mười phần trọng yếu. Vì thế, “nhược kiến bất kiến, giai thị chánh kiến” (nếu thấy mà giống như chẳng thấy, sẽ đều là chánh kiến), “nhược nhiễm bất nhiễm, giai thị tấn thú” (nếu đối với nhiễm ô mà chẳng bị nhiễm ô, sẽ đều là tiến nhập). Nói tới “tấn thú” thì thấy Phật là mục đích, thấy Phật là thành thục. [Pháp tắc đang được nói] ở đây là một pháp tắc rất thuận tiện.

Chúng ta học tập phẩm Tư Duy, trong đoạn văn tự này, đức Thế Tôn không ngừng hướng dẫn, đốc thúc chúng ta “nhất tâm tương tục, thứ đệ bất loạn, hoặc kinh nhất nhật, hoặc phục nhất dạ. Như thị hoặc chí thất nhật, thất dạ, như tiên sở văn, cụ túc niệm cố, thị nhân tất đổ A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác dã” (nhất tâm liên tục, chẳng loạn thứ tự, hoặc trải qua một ngày, hoặc lại một đêm. Như thế cho đến bảy ngày, bảy đêm, đúng như những điều đã nghe trước đó. Do niệm trọn đủ, người ấy ắt thấy A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác). Ở đây, đức Thế Tôn đã dùng các kinh để ấn chứng lẫn nhau. Những điều được nói ở đây hoàn toàn phù hợp với Quán Kinh, kinh A Di Đà, và kinh Vô Lượng Thọ. Các giáo ngôn ấy đều tuyên nói đúng thật như thế!

Trong Tạng truyền Phật giáo, chúng ta thấy họ bố trí đàn tràng mười phần nghiêm cẩn. Vì sao? Họ lấy đàn tràng ấy làm mục tiêu, dùng làm chỗ để quan sát thuần thục tâm địa, làm chỗ để tư duy, cúng dường, thủ hộ, ngày đêm siêng gắng. Tôi đã đến một nơi gọi là Thiên Phật Động, trong ấy, có một đàn tràng của A Di Đà Phật. Một bức tượng A Di Đà Phật đứng rất cao, trọn đủ diệu tướng. Đàn tràng mười phần trang nghiêm, cụ thể. Hoa văn và màu sắc miêu tả các thứ trang nghiêm trong quốc độ của A Di Đà Phật rất đẹp đẽ. Vì sao phải bố trí một đàn tràng? Để khiến cho tâm trí của ta dần dần đạt đến an lạc, thâm nhập, đạt tới tinh tế, trang nghiêm, thành thục. Đó là một quá trình mười phần quan trọng. Quá trình ấy cũng là ngoại duyên để sanh khởi pháp ích. Nhiều lượt tập luyện trong ấy, ắt sẽ có thể khiến cho người tu tập có thể đạt được sự an lạc trong pháp tắc. Chư vị thiện tri thức ơi! Đừng khinh mạn tướng ấy, do tướng ấy vô tướng. Đừng coi rẻ tướng ấy, tướng ấy chính là cơ chế giáo ngôn trọng yếu hàng đầu trong bốn pháp độ chúng sanh của đức Thế Tôn. Tức là “nương theo thân tướng diệu sắc để cảm hóa thế gian, độ thoát chúng sanh, tiêu trừ nghiệp chướng cho chúng sanh, thuần thục thiện căn của chúng sanh”.

Do tại Trung Hoa, giáo ngôn của Thiền Tông được truyền bá rất mạnh, dần dần khiến cho mọi người hiểu lầm đối với tướng và tướng giáo, sanh ra rất nhiều điều chẳng tương ứng! Tướng ấy chứng minh sự thiện xảo của oai đức vô tướng. Do đó, dùng đủ loại tướng trang nghiêm và oai đức để lợi ích thế gian, thành thục thế giới, đừng nên sợ hãi! Các tướng vô tướng, nào ngại các tướng có tướng, hoặc tướng nào cũng là vô tướng ư? Đừng nên sợ hãi chỗ này! Đó gọi là hành pháp của Bồ Tát chẳng phá hoại Sắc, nhưng chẳng nhiễm Sắc, chẳng sợ Sắc, dùng các thứ sắc pháp để lợi ích thế gian. Do chẳng nhiễm cho nên đắc lực nơi pháp này. Nếu đắm nhiễm, sẽ mờ mịt, mê mất tự tâm.

Đoạn văn tự này mười phần rõ ràng, cùng một mạch truyền thừa với kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, và kinh Quán Vô Lượng Thọ, đều do Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đúng như lý tuyên nói, khiến cho hữu tình đang ở trong phiền não và vọng tưởng sẽ có chỗ nương cậy để chánh tư duy và chánh quan sát. Đoạn văn tự này cũng đề cập “như văn hệ niệm, nhất tâm tương tục, thứ đệ bất loạn, hoặc kinh nhất nhật, hoặc phục nhất dạ, như thị hoặc chí thất nhật, thất dạ” (hệ niệm đúng như đã được nghe, nhất tâm liên tục, chẳng rối loạn thứ tự, hoặc trải qua một ngày, hoặc lại qua một đêm. Như thế cho đến bảy ngày, bảy đêm). Kinh điển thường nói “một ngày một đêm, bảy ngày bảy đêm”, rốt cuộc là cách nói như thế nào? Đại chúng nhất định đừng dễ dãi đọc lướt qua nhé!

“Như tiên sở văn, cụ túc niệm cố, thị nhân tất đổ A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác dã. Nhược ư trú thời, bất năng kiến giả. Nhược ư dạ phần, hoặc thụy mộng trung, A Di Đà Phật tất đương hiện dã” (Do đúng như những điều đã được nghe trước đó mà niệm đầy đủ, người ấy ắt thấy A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Nếu lúc ban ngày, chẳng thể trông thấy, thì hoặc là vào ban đêm, hoặc trong giấc mộng, A Di Đà Phật ắt sẽ hiện ra). Đó là đối trước hữu tình tư duy, quán sát như thế, quán tưởng như thế mà thốt lời an ủi. Đấy cũng là lời như thật. Nếu là như thế mà ban ngày chẳng thấy, trong mộng nhất định sẽ thấy. Do Phật lực chẳng thể nghĩ bàn gia trì, sẽ như chúng ta ở trong đêm đen, bỗng trông thấy ngọn đèn chiếu sáng vậy, [khiến cho] chúng ta được thấy, sẽ có cảm nhận. Vì thế, tâm trí mê mất của chúng ta sẽ được hướng dẫn. Lúc đang đi trong đêm tối đen kịt, nếu bỗng dưng có vầng thái dương mọc lên, hoặc là có một thứ gì đó chiếu sáng tỏ, trong tâm chúng ta sẽ dấy lên niềm hy vọng và cảm kích. Trong đêm đen luân hồi mờ mịt, trong thế giới đen kịt vì bị Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng phủ lấp, bỗng dưng nhìn thấy vầng nhật luân quang minh vô ngại là A Di Đà Phật, tâm trí chúng ta nhất định sẽ dâng lên niềm vui sướng và hướng về. Chúng ta có thể xem xét kỹ càng đúng như thật hay không?

Tiếp đó, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn còn hướng dẫn chúng ta.

(Kinh) Phục thứ, Hiền Hộ! Thí như thế gian, nhược nam, nhược nữ, viễn hành tha quốc, ư thụy mộng trung, kiến bổn cư gia thất thời, thật bất tri vi trú, vi dạ, nhi diệc bất tri vi nội, vi ngoại. Thị nhân nhĩ thời, sở hữu nhãn căn tường, bích, thạch, sơn, chung bất năng chướng, nãi chí u minh, hắc ám, diệc bất vi ngại dã. Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát tâm vô chướng ngại, diệc phục như thị.

()復次賢護譬如世間若男若女遠行他國於睡夢中見本居家室時實不知爲晝爲夜而亦不知爲內爲外。是人爾時所有眼根牆壁石山終不能障乃至幽冥黑暗亦不爲礙也。賢護菩薩摩訶薩心無障礙亦復如是。

(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Ví như dù nam hay nữ trong thế gian, đi xa sang nước khác, trong khi mơ ngủ, thấy nhà cửa mà mình đang ở, quả thật chẳng biết là ngày hay đêm, cũng chẳng biết là trong hay ngoài. Khi đó, nhãn căn của người đó tất cả tường, vách, núi, đá trọn chẳng thể chướng ngại, cho đến u minh, tối tăm cũng chẳng trở ngại được. Này Hiền Hộ! Tâm Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chướng ngại cũng giống như thế).

Chúng ta tư duy, quan sát thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật như quê nhà, hoặc nhà cửa của chính mình, giống như vật quen dùng của chính mình, thuần thục như thế, quan sát như thế, tư duy như thế, vậy thì hết thảy cũng vô ngại. Đó gọi là “mười vạn ức Phật độ chẳng bị trở ngại”. Một niệm tín quyết định là được, sẽ liền vượt qua. Núi, sông, đại địa, hết thảy vật chướng ngại trọn chẳng thể ngăn trở. Vì sao? Tâm chẳng tồn tại chướng ngại. Giống như thí dụ do đức Thế Tôn nêu ra ở chỗ này: Hàng tại gia cư sĩ chúng ta, bất luận tới nơi nào, cũng đều có gia đình. Hễ quý vị nghĩ tới nhà của chính mình, hết thảy các chướng ngại đều chẳng tồn tại. Vì lẽ nào? Quý vị có cảm giác thân thuộc đối với nhà của mình. Nhà của quý vị ở Bắc Kinh cũng thế, ở Thượng Hải cũng thế, ở nơi nào cũng thế. Hễ quý vị nghĩ ngợi, tất cả nhân duyên trong gia đình đều rành rành trước mắt, núi, sông, đại địa chẳng thể chướng ngại. Chúng ta nghĩ tới thế giới Cực Lạc cũng giống như thế. Nếu thuần thục, sẽ nhìn thấy. Nếu quyết định, sẽ nhìn thấy. Chẳng vướng mắc, sẽ nhìn thấy! Hết thảy khoảng cách, hết thảy núi, sông, đại địa, hết thảy các loại chướng ngại đều cùng lúc vô ngại!

Quý vị tư duy như thế, nương theo các trường hợp thiện xảo về nhân duyên trong thế tục để tư duy. Đức Thế Tôn không chỉ nêu thí dụ như thế, trong phần trước là nói về mộng; ở đây, nói về nhà ở. Đối với tất cả các gia cụ (vật dụng trong nhà), dụng cụ, màu sắc của dụng cụ, người nhà, phương vị trong nhà mình ở, quý vị nhắm mắt, sẽ ngay lập tức nghĩ thấy, cảm giác thấy. Dẫu cách xa ngàn núi vạn sông, nhưng quý vị nhắm mắt liền thấy. Hết thảy núi, sông, đại địa, các thứ xa xôi chẳng hề cách ngăn. Vì sao? Do thuần thục, do trong tâm chẳng có ngăn ngại, chỉ tồn tại những thứ có trong nhà, chẳng thấy hết thảy ngăn ngại là ngăn ngại. Quốc độ Cực Lạc của A Di Đà Phật cũng giống như thế, công đức của mười phương chư Phật cũng giống như thế. Nếu tâm địa mạnh mẽ, gìn giữ ý niệm thuần thục, khiến cho chúng ta đối với các tướng cảnh giới quen thuộc, trong hết thảy chướng ngại sẽ quyết định chẳng ngăn ngại! Chư vị thiện tri thức ơi! Nhất định phải tư duy thuần thục, khéo quan sát chỗ này, chớ nên qua quít!

Phần nhiều kẻ chẳng đạt được lợi ích trong pháp môn Tịnh Độ là vì lảng tránh chỗ này! Rất nhiều người nói “thấy tướng chẳng có ý nghĩa gì hết”. Chẳng phải vậy! Nêu một thí dụ đơn giản nhất, thời xưa có cách nói “vọng mai chỉ khát” (望梅止渴, nhìn quả mơ đỡ khát)[2]. Vì sao nhìn quả mơ mà có thể đỡ khát? Trong thế gian này, không pháp tắc nào chẳng do nhân duyên xuất sanh. Khổ hay lạc không gì chẳng phải do ngoại duyên giúp thành. Loài phàm phu hữu tình chắc chắn là như thế! Chúng ta gặp gỡ giáo ngôn của kinh Ban Châu có công đức rất sâu chẳng thể nghĩ bàn như thế này, đúng là do phước đức hồi thí, khiến cho chúng ta có được phương tiện vận dụng thuần thục để thấy quê nhà thế giới Cực Lạc sẵn có. Vì vậy, đức Thế Tôn khổ tâm ban bố, hướng dẫn đi, hướng dẫn lại, dùng đủ mọi ngôn thuyết khuyến hóa chúng ta chánh tư duy, chánh quan sát, như lý tư duy, như lý quan sát, đừng nên dùng vọng tưởng của chính mình để quan sát. Nếu [quan sát bằng vọng tưởng của chính mình] như thế, sẽ chẳng ngừng mê mất tự tâm, lãng phí tinh lực của chúng ta!

(Kinh) Đương chánh niệm thời, ư bỉ sở hữu Phật sát trung gian, phàm thị nhất thiết Tu Di sơn vương, cập Thiết Vi sơn, Đại Thiết Vi sơn, nãi chí tự dư chư hắc sơn đẳng, bất năng dữ thử nhãn căn vi chướng, nhi diệc bất năng phú tế thử tâm. Nhiên thị nhân giả, kỳ thật vị đắc Thiên Nhãn, năng kiến bỉ Phật, diệc vô Thiên Nhĩ, văn bỉ pháp âm. Phục phi thần thông, vãng bỉ thế giới. Hựu diệc bất ư thử thế giới một, sanh bỉ Phật tiền, nhi thật đản tại thử thế giới trung.

()當正念時於彼所有佛剎中間凡是一切須彌山王及鐵圍山大鐵圍山乃至自餘諸黑山等不能與此眼根爲障而亦不能覆蔽此心。然是人者其實未得天眼能見彼佛亦無天耳聞彼法音。復非神通往彼世界。又亦不於此世界沒生彼佛前而實但在此世界中。

(Kinh: Ngay trong lúc chánh niệm, trong tất cả các cõi Phật ấy, phàm là hết thảy núi chúa Tu Di, và núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, cho đến các hắc sơn khác v.v… chẳng thể chướng ngại nhãn căn ấy, mà cũng chẳng thể che lấp tâm này. Nhưng người ấy thật sự chưa đắc Thiên Nhãn mà có thể thấy đức Phật ấy. Cũng chẳng có Thiên Nhĩ mà nghe pháp âm của Ngài. Lại chẳng có thần thông để tới thế giới ấy, lại cũng chẳng mất đi nơi thế giới này, sanh về trước đức Phật ấy, mà thật sự chỉ ở trong thế giới này).

Đoạn văn tự này có thể nói thật sự là sư tử hống trong pháp môn Tịnh Độ, tiêu trừ hết thảy chướng ngại nơi tâm trí và cảm giác của chúng ta! Có cảm giác chướng ngại là do chẳng thuần thục, do tạp duyên quấy nhiễu. Chẳng thuần thục là do tự đặt ra chướng ngại, chẳng phải là thật sự có chướng ngại hay không chướng ngại. Chướng ngại và không chướng ngại là sự lựa chọn của chúng ta, do lựa chọn mà hiển hiện. Chư vị thiện tri thức ơi! Hãy khéo quan sát, khéo thể nghiệm, khéo biến thành thực tiễn!

Ở đây, đức Thế Tôn đã trực tiếp kéo phàm phu vào trong pháp tắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập tam-muội. Cũng có nghĩa là quý vị chẳng đắc Thiên Nhãn, mà cũng chẳng có Thiên Nhĩ, nhưng có thể thấy đức Phật ấy, [mà cũng có thể nghe đức Phật ấy]. Như chúng ta đã quá quen thuộc với căn nhà mình cư ngụ, hễ nhắm mắt lại, nghĩ đến nhà của chính mình. Hễ nhắm mắt lại, nghĩ tới hoàn cảnh sống quen thuộc nhất của chính mình, chướng ngại gì cũng chẳng thể chướng ngại được. Do quý vị chẳng có chướng ngại gì, do quý vị tiến thẳng đến mục đích quen thuộc. Do vậy, hết thảy chướng ngại vốn chẳng có chướng ngại, chẳng bận tâm vướng mắc, chẳng thành lập, chẳng xếp đặt! Vậy mà có lúc chúng ta tự xếp đặt chướng ngại.

“Diệc bất ư thử thế giới một, sanh bỉ Phật tiền, nhi thật đản tại thử thế giới trung” (Cũng chẳng mất trong thế giới này, sanh trước đức Phật kia, nhưng thật sự ở trong thế giới này): Chúng ta có thể thân chẳng rời bổn vị (vị trí sẵn có) mà thấy chư Phật, đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Chẳng rời thế giới Sa Bà này mà thấy mười phương chư Phật. Chẳng tới mười phương cõi nước, mà trông thấy mười phương cõi nước. Đó chính là nội dung và lợi ích thù thắng nhất trong giáo ngôn bất cộng của pháp Niệm Phật [nói chung] và pháp Ban Châu [nói riêng].

Kế đó, đức Thế Tôn còn hướng dẫn chúng ta về pháp tắc để tiến nhập.

(Kinh) Tích niệm huân tu, cửu quán minh lợi cố, chung đắc đổ bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng Đẳng Chánh Giác, Tăng chúng vi nhiễu, Bồ Tát hội trung, hoặc kiến tự thân tại bỉ thính pháp, văn dĩ ức niệm, thọ trì, tu hành, hoặc thời phục đắc cung kính, lễ bái, tôn thừa, cúng dường bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng Đẳng Chánh Giác dĩ. Thị nhân nhiên hậu khởi thử tam-muội,

()積念薰修久觀明利故終得睹彼阿彌陀如來應等正覺僧衆圍繞菩薩會中或見自身在彼聽法聞已憶念受持修行或時復得恭敬禮拜尊承供養彼阿彌陀如來應等正覺已。是人然後起此三昧。

(Kinh: Đã tích lũy ý niệm huân tu, đã quán sáng suốt, nhạy bén lâu ngày, rốt cuộc được thấy A Di Đà Như Lai, Ứng Đẳng Chánh Giác, Tăng chúng vây quanh, ở trong hội của Bồ Tát, hoặc thấy thân mình ở đó nghe pháp. Nghe xong, nghĩ nhớ, thọ trì, tu hành, hoặc có lúc lại cung kính, lễ bái, tôn trọng, thừa sự, cúng dường đức A Di Đà Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác xong. Sau đấy người đó mới khởi tam-muội  này).

Trong đoạn văn tự này, thông qua phương thức chánh tư duy, từng bước hướng dẫn chúng ta thâm nhập cách quan sát thiện xảo như thế: Hoặc là lễ bái, hoặc cúng dường, hoặc thừa sự A Di Đà Thế Tôn. Nếu gặp Thanh Văn, Bồ Tát trước sau vây quanh A Di Đà Như Lai, thấy Phật, nghe pháp, thấy Phật, bèn cúng dường, thủ hộ, cũng đạt được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Vì lẽ nào? Do đúng như lời dạy: “Tích niệm huân tu, cửu quán minh lợi cố, chung đắc đổ bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng Đẳng Chánh Giác” (Đã tích lũy ý niệm huân tu, đã quán sáng suốt, nhạy bén lâu ngày, rốt cuộc được thấy A Di Đà Như Lai, Ứng Đẳng Chánh Giác).

Đoạn văn tự này nhằm khiến cho chúng ta thuần thục tư duy và quán sát. Chúng ta đều biết, Thiện Đạo đại sư là bậc đại thiện xảo thật sự lập tông, lập phái của pháp môn Tịnh Độ. Viễn công đại sư (sơ tổ Huệ Viễn) và một trăm hai mươi ba người nguyện vãng sanh cõi ấy, ảnh hưởng rất rộng. Đàm Loan đại sư hoằng truyền Tịnh Độ ở phương Bắc; thậm chí cảm vời quốc chúa thuận theo. Do có chim loan thần diệu chầu về chỗ Ngài lễ kính, cho nên có nhiều người ngả theo giáo pháp ấy, tu tập pháp môn Tịnh Độ. Tuy là như thế, giáo nghĩa chưa lập. Thiện Đạo đại sư xuất thế, đã thật sự triệt để hiển lộ cơ chế giáo ngôn của pháp môn Tịnh Độ. Xưa nay, chẳng ai không chọn lựa như thế, thừa nhận Thiện Đạo đại sư là vị thiện tri thức thật sự kiến lập tông nghĩa của pháp môn Tịnh Độ. Đương nhiên, Ngài chẳng lìa kinh giáo, chẳng lìa các giáo ngôn và giáo căn (căn bản để lập giáo) được chư tổ sư các đời dần dần hoàn thiện và kế tục các pháp tắc. Thiện Đạo đại sư mười phần coi trọng chuyện tư duy và quán tưởng. Suốt đời, Ngài đã vẽ khá nhiều bức Cực Lạc Thế Giới Thần Biến Đồ (tranh vẽ về sự trang nghiêm, mô tả Phật và thánh chúng trong thế giới Cực Lạc). Chẳng thể nói là [những bức vẽ ấy đúng] như thật biểu hiện thế giới Cực Lạc được, nhưng chúng ta có thể cảm nhận thế giới Cực Lạc qua sự miêu tả [trong các bức họa ấy]. Ngài dùng nhân duyên như vậy để khích lệ mọi người thâm nhập tu tập, quan sát như lý, tức là “đổ quán thành thục” (nhìn, quán thành thục), hoặc nói là “cửu quán minh lợi” (quan sát sáng suốt, nhạy bén đã lâu), hoặc nói là “cửu huân tập” (huân tập đã lâu), khiến cho chúng ta khế nhập pháp tắc này. Thiện Đạo đại sư cũng thường tự mình tạc tượng, vẽ tượng. Vì sao? Để thuần thục pháp tắc cho chính mình, chân thật duy trì pháp tắc này. Người nơi đất Hán phải nên chánh tư duy chỗ “tư duy, hệ niệm” ấy, thường phải nên đổ công dốc sức vào đó. Quý vị chẳng đổ công dốc sức nơi ấy, lại đổ công dốc sức nơi những chuyện rỗng tuếch, nhọc nhằn tạo vọng tưởng, hết sức đau khổ. Nếu chúng ta tư duy và quán sát Phật cho nhiều, thủ hộ Phật, ắt sẽ sanh lòng vui sướng, an lạc to lớn. Quý vị đừng nên chấp trước điều này, chỉ nên siêng gắng ở chỗ này. Quả thật là chẳng thể nghĩ bàn!

Đoạn văn tự này bảo chúng ta: “Thấy Phật thì phải nên nghe pháp. Thấy Phật thì phải nên cúng dường, thừa sự”. Như thế thì thiện căn sẽ nhanh chóng chín muồi! Do trong công án của Thiền Tông Trung Hoa thường có thuyết “Phật đến bèn chém Phật. Ma đến bèn chém ma”, cho nên người học Phật tại đất Hán cứ hở ra là “Phật đến bèn chém Phật. Ma đến bèn chém ma”. Ở đây, quý vị chẳng trảm Phật được, mà nhất định phải thấy Phật! Đó có phải là mâu thuẫn với giáo ngôn của đức Phật hay không? Chẳng phải. Trong giáo pháp của đức Thế Tôn, đích xác là có lời dạy dùng tướng hảo để hóa độ chúng sanh. Đức Phật dùng thân tướng kim sắc, thân tướng diệu sắc, thân tướng quang minh, thân tướng oai đức, thân tướng trọn đủ các đức, khiến cho chúng sanh trông thấy bèn đắc độ. Chẳng hạn như tôn giả A Nan vì sao xuất gia? Khi tôn giả A Nan thấy Thích Ca Mâu Ni Phật, đã hỏi: “Vị này do đâu mà được diệu tướng như thế? Vị này vì lẽ nào mà trọn đủ thân chẳng cấu uế? Ta phải nên theo Ngài, nên xuất gia, nên làm Sa-môn”. Tôn giả A Nan do thấy thân tướng diệu sắc của đức Thế Tôn mà xuất gia. Tôn giả La Hầu La cũng vì cảm xúc vi diệu từ cánh tay Đa La Miên của đức Thế Tôn mà xuất gia. Khi đó, La Hầu La được gặp đức Thế Tôn, đã thắc mắc vì sao cánh tay đức Thế Tôn thon dài, bèn dùng tay sờ. Vừa chạm vào, cảm thấy giống như nắm lấy một thứ tột bậc mềm mịn, chẳng nỡ buông! Đức Thế Tôn nói: “Sao không cho đứa bé này xuất gia?” Tăng thượng duyên như thế đó, chúng ta chẳng thể phủ nhận. Trước kia, đối với cách nói như thế, tôi nẩy sanh nhiều nỗi ngờ vực, nhưng mấy năm trước, tôi đã gặp hai vị lão nhân gia, chân tay mềm mại, khiến cho kẻ khác vĩnh viễn chẳng thể quên được! Chớ nên tham đắm những thứ ấy, nhưng nếu đã chạm vào, quý vị sẽ chẳng thể quên được! Nó sẽ tạo thành một phương cách kêu gọi tâm linh của quý vị yêu thích và ngưỡng vọng rất lâu. Vì sao vậy? Vì sao người ấy mềm mỏng đến thế? Vì sao khiến cho người khác vui sướng đến thế? Vì chạm vào một chút, quý vị sẽ cảm thấy mười phần hoan hỷ. Vì sao? Mềm mại như không xương! Thật đấy, chẳng phải là chuyện giả. Chúng ta đừng nên cố chấp vào chuyện này, nhưng chuyện này quả thật đã cảnh tỉnh tâm trí của chúng tôi về sức mạnh lôi cuốn chẳng thể nghĩ bàn [của thân tướng vi diệu].

Vì thế, đức Thế Tôn dùng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp để rộng lợi ích hữu tình trong thế gian. Chúng sanh do sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà trầm luân trong ấy, chẳng thể tự thoát ra được! Đức Thế Tôn dùng diệu tướng để lợi ích rộng khắp thế gian. Đó là pháp “dùng thân tướng diệu sắc để rộng độ hữu tình” trong bốn pháp độ chúng sanh, chớ nên mê mất. Vì đức Thế Tôn thuyết pháp, tám vạn bốn ngàn pháp, pháp nào cũng để độ chúng sanh, pháp nào cũng đều vô ngại. Chớ nên nương theo pháp mà chướng ngại pháp. Nương theo pháp mà báng pháp, nương theo pháp mà nghi pháp. Như thế thì quý vị sẽ phá pháp, phá hoại pháp, chẳng thể đạt được lợi ích nơi Phật pháp. Đối với chuyện này, trong phần sau, chúng ta sẽ thong thả xem kỹ. Đối với đoạn văn tự này, hy vọng mọi người thật sự có thể đọc nhiều lượt, tư duy cho nhiều!

(Kinh) Kỳ xuất quán dĩ, thứ đệ tư duy, như sở kiến văn, vị tha quảng thuyết. Phục thứ, Hiền Hộ! Như thử Ma Già Đà quốc, hữu tam trượng phu. Kỳ đệ nhất giả, văn Tỳ Da Ly thành, hữu nhất dâm nữ, danh Tu Ma Na. Bỉ đệ nhị nhân, văn hữu dâm nữ, danh Am La Ba Ly. Bỉ đệ tam nhân, văn hữu dâm nữ, danh Liên Hoa Sắc. Bỉ ký văn dĩ, các thiết phương tiện, hệ ý cần cầu, vô thời tạm phế. Nhiên bỉ tam nhân, thật vị tằng đổ như thị chư nữ. Trực dĩ dao văn, tức hưng dục tâm, chuyên niệm bất tức. Hậu nhân mộng dĩ tại Vương Xá thành, dữ bỉ nữ nhân, cộng hành dục sự. Dục sự ký thành, cầu tâm diệc tức, hy vọng ký mãn, toại tiện giác ngụ. Ngụ dĩ, truy niệm mộng trung sở hành, như sở văn kiến, như sở chứng tri, như thị ức niệm.

()其出觀已次第思惟如所見聞爲他廣說。複次賢護如此摩伽陀國有三丈夫。其第一者聞毗耶離城有一淫女名須摩那。彼第二人聞有淫女名庵羅波離。彼第三人聞有淫女名蓮華色。彼既聞已各設方便系意勤求無時暫廢。然彼三人實未曾睹如是諸女。直以遙聞即興欲心專念不息。後因夢已在王舍城與彼女人共行欲事。欲事既成求心亦息希望既滿遂便覺寤。寤已追念夢中所行如所聞見如所證知如是憶念。

(Kinh: Đã xuất quán (ra khỏi phép quán), bèn theo thứ tự tư duy, đúng như những gì thấy nghe mà kể rộng khắp với người khác. Lại này, Hiền Hộ! Như trong nước Ma Già Đà này có ba trượng phu. Người thứ nhất nghe thành Tỳ Da Ly có dâm nữ (gái làng chơi) tên là Tu Ma Na. Người thứ hai nghe có dâm nữ tên là Am La Ba Ly. Người thứ ba nghe có dâm nữ tên là Liên Hoa Sắc. Họ đã nghe xong, mỗi người lập phương tiện, chú tâm siêng cầu, không lúc nào tạm bỏ. Nhưng ba người ấy thật sự chưa từng gặp các cô gái như thế. Chỉ là nghe đồn, bèn dấy lòng dục, chuyên nghĩ đến chẳng ngơi. Về sau, do họ mộng thấy đã ở thành Vương Xá cùng với các nữ nhân đó cùng làm chuyện dâm dục. Dục sự đã thành, cái tâm mong cầu cũng dứt, niềm mong mỏi đã được thỏa, bèn tỉnh giấc. Tỉnh giấc, bèn nhớ lại chuyện đã làm trong mộng, đúng như thấy nghe, đúng như chứng biết, đúng như nghĩ nhớ).

Trong đoạn văn tự này, đức Thế Tôn đã nêu một thí dụ. Vì hữu tình trong Dục Giới, dục nhiễm nam nữ là một điểm đặc sắc nổi bật, chúng ta khá dễ cảm nhận được!

(Kinh) Lai nghệ nhữ sở, cụ vị nhữ thuyết giả.

()來詣汝所具爲汝說者。

(Kinh: Tới chỗ ông, kể cặn kẽ với ông).

“Lai nghệ nhữ sở” (Tới chỗ ông): “Nhữ sở” (Chỗ của ông) là tới chỗ của Hiền Hộ Bồ Tát để nêu bày. Ba người bọn họ tìm đến Hiền Hộ Bồ Tát, đến hỏi phương tiện như vậy, hỏi rốt cuộc là chuyện gì mà có nhân duyên như thế? Trên thực tế, [thí dụ này] nhằm hướng dẫn phàm phu hữu tình trong Dục Giới, dùng phương cách nói về chuyện rõ thấy nhất là dục tình nam nữ, khiến cho tâm trí chúng ta sẽ thuận theo kinh văn mà nhập quán.

(Kinh) Nhữ ưng vị bỉ phương tiện thuyết pháp, tùy thuận giáo hóa, linh kỳ trụ bất thoái chuyển địa, cứu cánh thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Bỉ ư đương lai, tất đắc thành Phật, hiệu viết Thiện Giác Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

()汝應爲彼方便說法隨順教化令其住不退轉地究竟成就阿耨多羅三藐三菩提。彼於當來必得成佛號曰善覺如來應供等正覺明行足善逝世間解無上士調御丈夫天人師世尊。

(Kinh: Ông hãy nên vì họ phương tiện thuyết pháp, tùy thuận giáo hóa, khiến cho họ trụ nơi địa vị bất thoái chuyển, rốt ráo thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Họ trong tương lai, ắt được thành Phật, hiệu là Thiện Giác Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn).

Ba người như thế, do hệ niệm, cho nên thành tựu điều ham muốn của chính mình. Còn người niệm Phật chúng ta thì sao? Do hệ niệm A Di Đà Phật, cũng có thể thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề! Cùng là thủ hộ ý niệm mong muốn và hướng tới. Dục niệm trong nhân gian mà còn có thể thành tựu, do niệm niệm tiếp nối. Vậy thì chúng ta vì liễu sanh tử, vì độ thoát các thứ nghiệp duyên và nghiệp chướng phiền não từ vô thỉ tới nay mà ức niệm Phật, chắc chắn có thể thành tựu. Tỷ dụ như thế, thiện xảo như thế đó!

(Kinh) Ký đắc nhẫn dĩ, hoàn phục ức niệm vãng tích chư sự, liễu liễu phân minh dã.

()既得忍已還復憶念往昔諸事了了分明也。

(Kinh: Đã đạt được môn Nhẫn ấy, lại nghĩ nhớ các chuyện xưa kia, rành rẽ, phân minh).

Nói cách khác, dẫu thành Phật, người ấy nghĩ nhớ chuyện cũ cũng sẽ rành rẽ, phân minh. Do vậy, chỗ vô nhiễm này chỉ do túc duyên hiển hiện, do tướng cảnh giới kiến lập, chẳng phải là thật sự có. Chẳng có một pháp để có thể thật sự đạt được, chẳng có một thực chất để có thể kiến lập, nhưng có chuyện cảnh tướng ấy! Chúng ta thấy Phật cũng như thế. Vì vậy, tu hành chân chánh, siêng năng thấy Phật, siêng năng tu pháp mười phần trọng yếu, mười phần có ý nghĩa!

(Kinh) Hiền Hộ! Bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân đẳng, nhược dục thành tựu Bồ Tát Ma Ha Tát Tư Duy Nhất Thiết Chư Phật Hiện Tiền tam-muội, diệc phục như thị.

()賢護彼善男子善女人等若欲成就菩薩摩訶薩思惟一切諸佛現前三昧亦復如是。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy nếu muốn thành tựu Bồ Tát Ma Ha Tát Tư Duy Nhất Thiết Chư Phật Hiện Tiền tam-muội thì cũng lại như thế).

Trong phần trước là thí dụ, phần sau là dẫn dắt, phát khởi hết thảy thiện nam tử, thiện nữ nhân hãy tư duy đúng như lý, tư duy như trong thí dụ, tức là cổ vũ, khích lệ sự tư duy ý nhạo của chính mình, đừng bỏ phí sức lạc dục mà chúng ta sẵn có ấy, tức là sức hướng tới [mong cầu đạt được mục đích]. Nếu dùng sức ấy vào sự nhiễm dục của thế tục, sẽ có thể đạt được mục đích. Còn nếu dùng [sức mạnh ấy] để thấy Phật, nghe pháp, cũng có thể đạt được mục đích giống hệt. Trong hai pháp [thế gian và xuất thế gian], quý vị chọn lựa pháp gì? Trong phần trước, đức Thế Tôn đã nêu một thí dụ; sau đó, Ngài hướng dẫn chúng ta thấy Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội. “Dục” như vậy mười phần quan trọng. Trong phần trước là “ham muốn gặp dâm nữ như thế” chính là [ham muốn] của kẻ thế tục, vận dụng cái tâm thế tục, dùng phương pháp thế tục. Chúng ta là người học Phật, muốn thấy chư Phật, muốn chứng Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội thì cũng như thế. Vì lẽ nào? Vận dụng pháp tắc Dục, giữ ý niệm tiếp nối, tư duy chẳng ngừng, thuần thục, ắt có thể trông thấy, mà cũng chẳng có chướng ngại!

(Kinh) Kỳ thân thường trụ thử thế giới trung, tạm đắc văn bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác danh hiệu, nhi năng hệ tâm.

()其身常住此世界中暫得聞彼阿彌陀如來應供等正覺名號而能繫心。

(Kinh: Thân ấy thường trụ trong thế giới này, tạm được nghe danh hiệu của A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác mà có thể chú tâm).

Tâm buộc chặt vào danh hiệu (chuyên chú nghĩ tưởng danh hiệu), do A Di Đà Phật dùng danh hiệu để nhiếp hóa mười phương chúng sanh, tức là như Quán Kinh đã nói: “A Di Đà Phật dùng quang minh vô ngại chiếu sáng mười phương cõi nước, nhiếp thọ chúng sanh niệm Phật chẳng bỏ”. Chúng sanh niệm Phật tức là người xưng danh hiệu, nhớ tưởng quang minh thanh tịnh trang nghiêm của đức Phật. Pháp tắc niệm Phật trong Quán Kinh là quan sát, trước hết là tư duy quán thuần thục. Nếu dùng một chỗ, một điểm [để tu tập quán tưởng niệm Phật], như quán tướng bạch hào: Chỉ quán tướng bạch hào uyển chuyển như năm quả núi Tu Di. Nương theo pháp Bạch Hào Quán mà khế nhập hết thảy các pháp tắc, trọn đủ hết thảy Đà-la-ni, hết thảy thiện xảo, hết thảy công đức, hết thảy thần biến, hết thảy trí huệ chẳng thể nghĩ bàn. Dùng một pháp khế nhập, chỉ cần buộc tâm thuần thục, ai nấy đều đạt được phương tiện.

Ở đây, buộc chặt cái tâm vào danh hiệu của A Di Đà Phật Như Lai, liên tục tư duy, tức là lúc tư duy do không ngừng niệm danh hiệu. Khi kinh hành Ban Châu, đi tới, đi lui, đi lui, đi tới, để làm gì? Lập một niệm, đoạn các tưởng, niệm một phương, tư duy quốc độ ấy, khiến cho các tư duy tạp loạn bị đoạn trừ. Đó gọi là “tinh thuần nhất niệm, chuyên tâm chú trọng một niệm, ắt thấy đức Phật đó”.

Trước kia, trong tự viện, do đại chúng niệm Phật từ năm này sang năm khác chẳng gián đoạn, cho nên niệm Phật trong đại điện đặc biệt thuận tiện. Kẻ bình phàm tiến vào đó ba ngày, bèn thấy quốc độ của Phật trang nghiêm, những thứ như đất báu lưu ly, hoa sen nở rộ, hình tướng Bồ Tát, Phật chi đó, đều là chuyện rất đơn giản. Nhưng trong xã hội hiện thời, mọi người cảm thấy đó là chuyện rất khó khăn, cách biệt quá lớn! Nếu được gặp gỡ, được sử dụng một ngôi chùa chuyên môn tu trì thì rất dễ dàng, chứ gặp một nơi tu trì tản mạn, sẽ mười phần khó khăn. Đích xác là như thế đó! Tôi có cảm xúc đối với chuyện này càng ngày càng lớn. Nhất là khi hoàn cảnh chung quanh rã rời, tâm trí của mọi người chẳng thể chuyên nhất. Do vậy, trong đường đi kinh hành Ban Châu mà đặt các thứ [biểu thị sự] trang nghiêm và các thứ công đức hy hữu của Cực Lạc, hoặc các tranh vẽ, đàn tràng, sẽ có thể là một phương pháp rất tốt. Hoàn cảnh như thế sẽ rất đơn thuần!

“Diệu tướng độ chúng sanh”, tức là dùng tướng để hướng dẫn mọi người, rất thuận tiện. Điều chủ yếu là đừng đắm nhiễm vào đó, nhất định phải tùy thuận nhân duyên như thế. Thấy Phật, nghe pháp, chớ nên cố chấp vào đó, cũng có nghĩa là quý vị chớ nên cưỡng chế tự tâm. Nếu làm như vậy (cưỡng chế tự tâm), sẽ rất đau khổ. Hãy nên tùy niệm phân tích, tỉ mỉ tư duy, tùy niệm quán sát. Đó là điều có thể làm được. Cưỡng chế quan sát sẽ rất khổ! Chúng ta đã tư duy thành thục, sẽ chẳng cưỡng chế tự tâm, giống như trong gia đình của quý vị có mấy người, cha mẹ quý vị có bộ dáng như thế nào? Con cái của quý vị có hình dạng ra sao? [Khi suy tưởng những điều đó], quý vị sẽ chẳng tốn tâm lực, rất thuần thục; nhưng nếu suy nghĩ nhà người khác, chuyện của người khác, gia đình của người khác, sẽ rất nhọc lòng, do chẳng liên quan cho mấy, rất khổ!

Nếu chúng ta coi chuyện “thấy Phật”, thấy thế giới Cực Lạc trang nghiêm [thân thiết] giống như thấy gia quyến của chính mình, chính là như chúng ta thường nói “vãng sanh quê nhà thế giới Cực Lạc”, tất nhiên là sẽ chẳng có chướng ngại! Vì sao vậy? Là quê nhà của chính mình. Thế giới Cực Lạc trang nghiêm được tạo lập ở ngay quê nhà! A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Hải Chúng, các vị Bồ Tát hải hội vây quanh, là sự trang nghiêm nơi nước mình, là anh em, đồng bạn! Như thế thì tâm trí của quý vị rất hoan hỷ. Đó là một pháp tắc rất trực tiếp, nhưng nếu quý vị coi đó là vật trong nhà kẻ khác, khởi tư duy sẽ rất mệt mỏi, quá khó khăn!

(Kinh) Tương tục tư duy, thứ đệ bất loạn, phân minh đổ bỉ A Di Đà Phật, thị vi Bồ Tát tư duy cụ túc, thành tựu Chư Phật Hiện Tiền tam-muội. Nhân thử tam-muội, đắc kiến Phật cố, toại thỉnh vấn bỉ A Di Đà Phật ngôn.

()相續思惟次第不亂分明睹彼阿彌陀佛是爲菩薩思惟具足成就諸佛現前三昧。因此三昧得見佛故遂請問彼阿彌陀佛言。

(Kinh: Tư duy liên tục theo thứ tự chẳng loạn, trông thấy A Di Đà Phật phân minh. Đó là Bồ Tát tư duy trọn đủ, thành tựu Chư Phật Hiện Tiền tam-muội. Do tam-muội ấy, được thấy Phật, bèn thưa hỏi A Di Đà Phật rằng).

Ở đây thiết lập cho chúng ta chuyện “thấy Phật, hỏi pháp”. Nếu chẳng dạy chúng ta thì ngay cả phương tiện “hỏi pháp”, chúng ta cũng chẳng đạt được. Ở đây, trước hết khiến cho chúng ta thuần thục: Tới khi thấy Phật, sẽ làm như thế nào? Phải thưa hỏi Thế Tôn!

(Kinh) Thế Tôn! Chư Bồ Tát đẳng, thành tựu hà pháp, nhi đắc sanh thử Phật sát trung da?

()世尊諸菩薩等成就何法而得生此佛剎中耶

(Kinh: Bạch Thế Tôn! Các vị Bồ Tát thành tựu pháp gì mà được sanh trong cõi Phật này?)

Khi gặp Phật, chẳng nhất định phải hỏi như thế. Ở đây chỉ là tạo thuận tiện cho quý vị.

(Kinh) Nhĩ thời, A Di Đà Phật ngữ thị Bồ Tát ngôn: – Nhược nhân phát tâm cầu sanh thử giả, thường đương hệ tâm, chánh niệm tương tục A Di Đà Phật, tiện đắc sanh dã. Ký đắc sanh dĩ, Thế Tôn ư thị tri bỉ tâm cố, diệc tức niệm bỉ. Bỉ phương đắc kiến Phật Thế Tôn nhĩ.

()爾時阿彌陀佛語是菩薩言若人發心求生此者常當繫心正念相續阿彌陀佛便得生也。既得生已世尊於是知彼心故亦即念彼。彼方得見佛世尊耳

(Kinh: Lúc bấy giờ, A Di Đà Phật bảo vị Bồ Tát ấy: – Nếu có ai phát tâm cầu sanh trong cõi này, hãy thường nên buộc tâm chánh niệm A Di Đà Phật liên tục, sẽ được sanh về. Đã được sanh rồi, khi ấy, do đức Thế Tôn biết tâm người đó, cũng nghĩ đến người đó. Người đó mới được thấy Phật Thế Tôn).

“Thế Tôn ư thị tri bỉ tâm cố” (Ngay khi ấy, do đức Thế Tôn biết tâm người đó): Quý vị thường niệm Phật, Phật ắt biết! Phật có Tha Tâm vô ngại, Thiên Nhãn vô ngại, sức thần thông vô ngại, thấy thấu suốt những vật vi tế. Hết thảy chúng sanh trong mười phương cõi nước cùng lúc dấy động ý niệm, chư Phật đều biết rõ, chẳng sót kẻ nào! Quý vị chớ nên nghĩ: “Ta niệm A Di Đà Phật, A Di Đà Phật có thể chẳng thấy ta hay không? Chẳng nghĩ đến ta hay không? Chẳng nhận biết ta hay không?” Chắc chắn là chẳng có chuyện như thế. Nếu hết thảy chúng sanh khởi tâm động niệm, chư Phật đều đích thân thấy biết. Đấy là quyết định như thật. Vậy thì quý vị nói: “Mười phương chư Phật biết tâm chúng ta, vì sao chúng ta niệm Phật chẳng tương ứng?” Quý vị hãy cẩn thận quan sát cái tâm của chính mình là đang niệm Phật, hay niệm chuyện khác? Chẳng tin, quý vị hãy xem xét cái tâm niệm Phật bình thường của chính mình, xem xét cẩn thận, chớ nên tự dối mình: Quý vị có thật sự niệm Phật hay không? Niệm Phật tương ứng ư? Niệm Phật liên tục ư? Niệm Phật thâm nhập ư? Niệm Phật chẳng gián đoạn ư? Thật sự như nhìn vào thứ chính mình sẵn có, nhìn vào nhà ở của chính mình, để xét xem chính mình có niệm vị Phật ấy hay không? Đối với đức Phật Thế Tôn mà niệm Phật trang nghiêm, thân thiết, như thật dường ấy, nếu quý vị niệm Phật thật sự như thế mà chẳng thấy Phật, vậy thì Phật toàn nói lời quái lạ, thốt lời hư vọng, mà tôi cũng là kẻ nói lời quái lạ, hư dối vậy!

“Diệc tức niệm bỉ, bỉ phương đắc kiến Phật Thế Tôn nhĩ” (Cũng liền nghĩ tới người đó, người đó mới được thấy Phật Thế Tôn): Vì lẽ nào vậy? Chúng ta niệm Phật, Phật biết chúng ta, phóng quang chiếu rọi chúng ta. Chúng ta do thấy quang minh mà có thể biết đến Phật. Nay chúng ta chẳng biết Phật Thế Tôn. Chúng ta ở trong thế giới Sa Bà, biết gì vậy? Tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng! Biết gì vậy? Tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. Biết gì vậy? Sở Tri Chướng và Phiền Não Chướng phủ lấp. Nếu nay chúng ta đã thật sự biết Phật Thế Tôn, cũng chẳng nhờ vào các phương tiện khác. Vì thế, Phật biết hết thảy chúng sanh, chúng sanh chẳng biết Phật. Chúng ta niệm Phật, Phật biết chúng ta, phóng quang chiếu rọi chúng ta. Đối với quang minh ấy, khi tri kiến của quý vị thuần thục, trông thấy và sử dụng thiện căn thuần thục thì quý vị mới có thể biết Phật. Nếu thiện căn biết Phật đã thuần thục, sẽ có thể lợi ích thế gian rộng khắp. Sự thuần thục ấy chính là khi đã tương ứng.

Hiện thời, lúc chúng ta trông thấy bức tượng A Di Đà Phật này, thân tâm quý vị có mềm dịu hay không? Tam cấu (tham, sân, si) có tiêu trừ hay không? Nếu đối trước bức tượng này, mà quý vị có thể tiêu trừ tam cấu, tâm chẳng vướng mắc, như thế thì đức Thế Tôn cũng là chẳng thể nghĩ bàn. Nếu khởi lên tác dụng ấy, đức Thế Tôn này và A Di Đà Phật Thế Tôn trong thế giới Cực Lạc trọn chẳng sai khác! Do vậy, trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Thế Tôn bảo: “Này A Nan! A Di Đà Phật quang minh vô lượng, vô biên. Quang minh ấy chiếu khắp mười phương. Nếu các chúng sanh thấy quang minh ấy, thân tâm nhu nhuyễn, tự nhiên hướng thiện, tam cấu tiêu trừ”. Nhưng chúng ta thấy tượng A Di Đà Phật Thế Tôn, thân tâm có nhu nhuyễn hay không? Có tự nhiên hướng thiện hay không? Tam cấu có tiêu trừ hay không? Nếu tiêu trừ, đức Thế Tôn ấy chẳng thể nghĩ bàn, quý vị sẽ có thể quay về nhà!

(Kinh) Hiền Hộ! Thời bỉ, A Di Đà Như Lai, Ứng Đẳng Chánh Giác, cáo bỉ nhân ngôn: “Chư thiện nam tử! Nhữ đương chánh niệm, tinh cần tu tập, phát quảng đại tâm, tất sanh thử dã”.

()賢護時彼阿彌陀如來應等正覺告彼人言諸善男子汝當正念精勤修習發廣大心必生此也

(Kinh: Này Hiền Hộ! Khi đó, A Di Đà Như Lai, Ứng Đẳng Chánh Giác, bảo người ấy rằng: “Các thiện nam tử! Các ông hãy nên chánh niệm, siêng ròng tu tập, phát tâm rộng lớn, ắt sanh về cõi này”).

Vì sao trong các kinh điển, có chỗ nói “thiện nam tử, thiện nữ nhân”, có chỗ chỉ nói một mình “thiện nam tử”? Điều này thật sự là một khích lệ, bảo cho chúng ta biết Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có nữ nhân. Thật sự chẳng phải là sắc thân như trong Dục Giới, làm sao có nữ nhân cho được? Nữ nhân chính là một thân trong hai loại thân phân biệt được hiển hiện bởi chúng sanh trong Dục Giới, tức là nam thân và nữ thân. Hữu tình trong Dục Giới cho rằng: “Ái chà! Nếu thế giới ấy không có nữ nhân, tuyệt quá!” [Thân của chúng sanh trong] thế giới ấy (thế giới Cực Lạc) là thân tướng báu, đầy đủ hết thảy công đức thiện xảo, chẳng cần hai loại thân phân biệt, tức là chẳng cần thân nam hay nữ. Quý vị chớ nên tiếc nuối, vì thân hiện tại của chúng ta là cái thân tàn khuyết, thân chẳng trọn vẹn!

Thông thường, thân của chư thiên được gọi là “thân tướng báu”. Đối với thân tướng báu, có một câu chuyện xưa cho biết: Hám Sơn đại sư từ trong cảnh giới [Thiền Định], gặp Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Văn Thù Bồ Tát muốn gột rửa tâm cấu cho Sư, liền dẫn Sư đến một chỗ ao tắm. Sư nhìn Văn Thù Bồ Tát, nghĩ: “Người này là nữ nhân, chẳng nên cùng tắm chung với người này”. Vì thế, tính bỏ đi. Lúc đó, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát chợt hiện toàn thân, dung nhập hư không. Hám Sơn đại sư trông thấy sắc thân quý báu. Sau đó, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát chụp lấy Sư, đem Sư tẩy gột. Vì chúng ta có cái tâm phàm phu, do đối đãi mà sanh ra tướng nam nữ, cho nên phần nhiều sanh các dục. Nhưng các vị đại trí viên thành, thật sự chẳng phân biệt, thân tự trọn đủ. Thân trọn đủ mà tâm cũng trọn đủ, trọn đủ oai đức thiện xảo, chẳng sợ hãi. Nhưng chúng ta hiện thời nói đến thân nam sẽ có điều sợ hãi, mà nói tới thân nữ cũng có chỗ sợ hãi. Do thân tâm chẳng trọn đủ, có nhiều thiếu sót, cho nên sanh vào Dục Giới. Các vị thiện tri thức đừng sanh sợ hãi! Đã là người học Phật, chẳng cần phải sợ hãi những điều ấy!

(Kinh) Hiền Hộ! Thời bỉ Bồ Tát phục bạch A Di Đà Phật ngôn: “Thế Tôn! Thị trung vân hà niệm Phật Thế Tôn, tinh cần tu tập, phát quảng đại tâm, đắc sanh thử sát da?” Hiền Hộ! Thời bỉ, A Di Đà Phật phục cáo bỉ ngôn: “Chư thiện nam tử! Nhược nhữ kim dục chánh niệm Phật giả, đương như thị niệm: Kim giả A Di Đà Như Lai, Ứng Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, cụ hữu như thị tam thập nhị tướng, bát thập tùy hình hảo, thân sắc quang minh như dung kim tụ, cụ túc thành tựu chúng bảo liễn dư, phóng đại quang minh, tọa sư tử tòa, sa-môn chúng trung, thuyết như tư pháp. Kỳ sở thuyết giả, vị nhất thiết pháp bổn lai bất hoại”.

()賢護時彼菩薩復白阿彌陀佛言世尊是中雲何唸佛世尊精勤修習發廣大心得生此剎耶賢護時彼阿彌陀佛復告彼言諸善男子若汝今欲正念佛者當如是念今者阿彌陀如來應等正覺明行足善逝世間解無上士調御丈夫天人師世尊具有如是三十二相八十隨形好身色光明如融金聚具足成就衆寶輦轝放大光明坐師子座沙門衆中說如斯法。其所說者謂一切法本來不壞。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Khi đó, vị Bồ Tát ấy lại bạch cùng A Di Đà Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Trong ấy thì niệm Phật Thế Tôn, siêng ròng tu tập, phát tâm rộng lớn như thế nào để được sanh về cõi ấy?” Này Hiền Hộ! Lúc bấy giờ, A Di Đà Phật lại bảo người ấy rằng: “Chư thiện nam tử! Nếu nay các ông muốn niệm Phật chánh đáng, hãy niệm như thế này: Nay A Di Đà Như Lai, Ứng Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn có đủ ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hình hảo như thế, thân sắc quang minh như khối vàng nung chảy, thành tựu trọn đủ các xe cộ báu, tỏa quang minh lớn, ngồi trên tòa sư tử, trong các sa-môn, thuyết pháp như thế. Những điều Ngài nói đều là hết thảy các pháp vốn chẳng hoại”).

Chỉ nói đến căn bản của pháp tánh.

(Kinh) Diệc vô hoại giả, như bất hoại Sắc, nãi chí bất hoại Thức đẳng chư Ấm cố.

()亦無壞者如不壞色乃至不壞識等諸陰故。

(Kinh: “Cũng bất hoại” là như chẳng hoại các Ấm từ chẳng hoại Sắc cho đến chẳng hoại Thức v.v…)

Vì lẽ nào? Bản chất của chúng là “các pháp bất hoại”. Chư pháp trụ pháp vị, tướng thế gian thường trụ! Thấu suốt thẳng vào cội nguồn, chẳng cần phải phá hoại các pháp. Vì hết thảy các pháp vốn bất hoại, nay chúng ta thấy chúng nó sanh sanh diệt diệt, huyễn hóa, đều là trong cái tâm sanh diệt của chính mình, tức là trong thế giới nhị nguyên thuộc vào cái tâm “lấy, bỏ, đối đãi” của chính mình. Người trọn đủ thiện xảo quán hết thảy các pháp an trụ chẳng nghi, chẳng tăng, chẳng giảm, thủ hộ pháp giới thanh tịnh, an trụ trong hiện duyên.

(Kinh) Hựu như bất hoại Địa, nãi chí bất hoại Phong đẳng chư Đại cố.

()又如不壞地乃至不壞風等諸大故。

(Kinh: Lại như chẳng hoại các Đại, từ chẳng hoại Địa cho đến chẳng hoại Phong v.v…)

Nói về Tứ Đại: Địa, Thủy, Hỏa, Phong.

(Kinh) Hựu bất hoại Sắc, nãi chí bất hoại Xúc đẳng chư Nhập cố.

()又不壞色乃至不壞觸等諸入故。

(Kinh: Lại chẳng hoại các Nhập, từ chẳng hoại Sắc cho đến chẳng hoại Xúc v.v…)

Chỉ Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp lục nhập!

(Kinh) Hựu bất hoại Phạm, nãi chí bất hoại nhất thiết thế chủ đẳng.

()又不壞梵乃至不壞一切世主等。

(Kinh: Lại chẳng hoại Phạm Thiên cho đến chẳng hoại hết thảy các vị chủ của thế gian).

Tức là chẳng hoại hết thảy chư thiên.

(Kinh) Như thị nãi chí bất niệm bỉ Như Lai, diệc bất đắc bỉ Như Lai. Bỉ tác như thị niệm Như Lai dĩ, như thị thứ đệ đắc Không tam-muội.

()如是乃至不念彼如來亦不得彼如來。彼作如是念如來已如是次第得空三昧。

(Kinh: Như thế cho đến chẳng niệm đức Như Lai ấy, cũng chẳng thấy có đức Như Lai đó. Người ấy niệm Như Lai như thế xong, theo thứ tự như thế mà đắc Không tam-muội).

Tướng pháp giới là nhất như, chẳng động, chẳng lay, chẳng tăng, chẳng giảm, pháp giới vốn tịnh, đều cùng sáng suốt. Không tam-muội có thể chiếu tỏ, nhận biết, trông thấy chư Phật. Vì cớ sao? Tâm trí tự tại nơi Không tam-muội; khi đó, chỉ do thức sanh, tâm sanh thấy Phật liền thấy Phật. Tâm sanh thấy pháp liền thấy pháp. Chẳng có Không tam-muội, chẳng thấy quang minh tạng, chẳng thấy cảnh giới quang minh, mà trực tiếp thấy Phật thì rất hiếm hoi, có nhiều điều chướng ngại! Chúng ta đặt ra rất nhiều chướng ngại cho tâm trí, muốn vãng sanh cõi đó mà chẳng vãng sanh cõi ấy. Vì sao có thể vãng sanh? Vì sao chẳng thể vãng sanh? Rất nhiều tạp niệm chất chứa nghẹt cứng trong tâm của chính mình, cho nên chẳng thể thấy các diệu tướng, chẳng thể thấy cảnh giới Không quang minh rộng lớn, muốn thấy Phật rất khó!

(Kinh) Thiện nam  tử! Thị  danh  chánh  niệm  Chư  Phật  Hiện Tiền tam-muội dã.

()善男子是名正念諸佛現前三昧也

(Kinh: Này thiện nam tử! Đó gọi là chánh niệm Chư Phật Hiện Tiền tam-muội).

Do đó, Không tam-muội là thiện xảo bậc nhất. Đó gọi là “thanh tịnh niệm Phật chẳng đắm nhiễm”, rành rẽ, phân minh, trọn chẳng có gì để có thể đạt được, trực tiếp tiến nhập Phật địa, thấy chư Phật công đức rất sâu, chẳng thể nghĩ bàn, và cũng thấy Phật, nghe pháp.

(Kinh) Hiền Hộ! Nhĩ thời, bỉ Bồ Tát tùng tam-muội khởi dĩ, lai nghệ nhữ sở, thuyết thử tam-muội tướng giả.

()賢護爾時彼菩薩從三昧起已來詣汝所說此三昧相者。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Lúc bấy giờ, vị Bồ Tát ấy từ tam-muội khởi rồi, đến chỗ của ông, nói tướng tam-muội ấy).

Vì sao từ tam-muội khởi? Trước đó là tư duy như thế, đã đắc tam-muội; sau đấy, tới hỏi tam-muội, chứng thực tam-muội.

(Kinh) Nhữ thời tức ưng vị bỉ thuyết pháp, tùy thuận giáo hóa, linh ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đắc bất thoái chuyển.

()汝時即應爲彼說法隨順教化令於阿耨多羅三藐三菩提得不退轉。

(Kinh: Lúc ấy ông hãy nên vì người ấy thuyết pháp, tùy thuận giáo hóa, khiến cho người ấy đắc bất thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề).

Chúng ta biết: Sau khi thấy Phật, nhất định có một sự liên tục. Đối với sự liên tục theo thứ tự ấy, người ấy nên tư duy như thế này: “Phật chẳng đến, mà ta cũng chẳng đi, dùng gì để thấy Phật?” Người ấy chẳng thể nào không thắc mắc như vậy. Khi thắc mắc, sẽ từ trong tự tánh mà thấy, bèn nói: “Tâm tịnh thì sẽ thấy Phật. Niệm Phật sẽ thấy Phật. Duyên Phật sẽ thấy Phật. Pháp thật sự chẳng đến đi, chẳng sanh diệt”. Tuy là Vô, nhưng do tâm tạo tác, do tâm ý thuần tịnh, cho nên trông thấy chư Phật, liễu đạt tự tánh, cùng lúc rốt ráo an trụ, cùng lúc chọn lựa chẳng nghi. Cho nên sẽ thật sự đạt được lợi ích do an trụ trong sự lựa chọn rốt ráo nơi Phật pháp, tức là vĩnh viễn chẳng bị mê loạn bởi hai pháp Kiến Hoặc và Tư Hoặc. Sau đó, đối với các thứ khống chế, lôi kéo do tập khí vi tế trong Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc sẽ đặc biệt dễ thay đổi, dễ chuyển hóa, dễ nhận thức! Kiến Hoặc và Tư Hoặc thô nặng khiến cho hữu tình mê muội.

Trong giáo pháp của đức Phật thì Bồ Tát thuộc địa vị Tam Hiền (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng) có thể chế phục phiền não. Nếu đạt được sức tự tại trong địa vị Bồ Tát, dự vào Hoan Hỷ Địa, sẽ đoạn trừ hết thảy phiền não Kiến Tư Hoặc, tâm sanh hoan hỷ. Lúc nào, chỗ nào, cũng đều đạt được hoan hỷ đối với hai pháp Kiến và Tư, trừ khử hết thảy gánh nặng và băn khoăn. Trong cái tâm ấy, hết thảy đối đãi đều tiêu mất. Vì thế nói là “nhập Hoan Hỷ Địa”. Do đoạn trừ hết thảy phiền não thuộc Kiến Hoặc và Tư Hoặc, cho nên tâm hoan hỷ. Quý vị nói chính mình tu pháp đạt được lợi ích, vậy thì có thể đoạn trừ Hoặc hay chăng? Trong thực tế, môn tam-muội Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập này có thể khiến cho chúng ta trực tiếp nhận biết chỗ tồn tại của Kiến Hoặc và Tư Hoặc, có thể trực tiếp thấy tự tánh chẳng đến đi, chẳng sanh diệt.

Hành pháp Ban Châu rất sâu chẳng thể nghĩ bàn, nhiếp thâu các chuyện thuộc Bát Địa, trong một đời liền đắc bất thoái chuyển! Chẳng phải là khoa trương pháp môn này đâu nhé! Pháp môn này thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Vì thế, trong Hán truyền Phật giáo, các vị thiện tri thức trải khắp các đời sau khi đã có thành tựu công đức tam-muội nhất định, đều siêng năng hành trì pháp này, như Trí Giả đại sư, Viễn công đại sư (sơ tổ Huệ Viễn), Thiện Đạo đại sư, Thừa Viễn đại sư, pháp sư Đàm Loan, Đạo Tuyên luật sư v.v… Có thể tùy ý mà nêu ra [rất nhiều trường hợp như thế]. Trong một số tự viện khá lớn, chung quanh trượng thất (thất của vị Phương Trượng), phần nhiều có Ban Châu Đường. Như ngôi chùa mọi người khá quen thuộc là chùa Đại Linh Nham tỉnh Sơn Đông, sau Thiên Phật Điện, trong khoảng giữa bên phải của Phương Trượng Viện và Bích Chi Phật Tháp, ở chỗ lõm vào trong, có lập Ban Châu Đường, giống như bộ vị của trái tim. Từ đời Đường đến nay, trải qua các triều đại, đều dựng Ban Châu Điện tại đó. Hành pháp như thế quả thật đáng nên tu tập, đáng nên quan sát, vì nó thâu nhiếp cả phàm lẫn thánh!

Qua một thời gian học tập, chúng ta có thể quan sát thấy bộ kinh này chủ yếu lấy Quán và Niệm làm chánh, tư duy công đức thù thắng của A Di Đà Phật để ngưng lặng cái tâm một chỗ, khiến cho tâm trí thông thuận, sáng suốt, thấy Phật, nghe pháp, hòng chứng Vô Sanh.

(Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh, quyển đệ nhị.

Hiền Hộ Phần Tư Duy Phẩm chi dư.

()大方等大集賢護經卷第二。

賢護分思惟品之餘。

(Kinh: Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh, quyển thứ hai.

Hiền Hộ Phần, phẩm Tư Duy tiếp theo).

Quán Tưởng Niệm Phật là một loại trong pháp môn Niệm Phật. Còn có Thật Tướng Niệm Phật, Xưng Danh Niệm Phật v.v… Đối với Quán Tưởng Niệm Phật, bộ kinh này lại càng nói cặn kẽ. Còn như Quán Tướng Niệm Phật (觀相念佛, niệm Phật bằng cách quán các tướng nơi y báo và chánh báo) thì kinh Quán Vô Lượng Thọ miêu tả đặc biệt tường tận. Kinh A Di Đà đề xướng Trì Danh Niệm Phật. Kinh Vô Lượng Thọ đề xướng thuận theo nguyện lực của Phật để niệm Phật. Tuy có các loại niệm Phật, đều chẳng lìa niệm danh hiệu của Phật. Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ đề xướng Quán Tưởng Niệm Phật cũng là vì để giữ mãi danh hiệu trong tâm. Do đó, trong một pháp Tịnh Độ, Trì Danh Niệm Phật là phương tiện chính để thực hiện. Dù là Quán Tướng, Quán Tưởng, Thật Tướng, hay Trì Danh Niệm Phật thì cũng đều là phương tiện, cho đến thuận theo nguyện lực của Phật để nhập Niệm Phật tam-muội. Các cách thức tu trì đều dùng niệm Phật để hướng dẫn hòng đạt đến thanh tịnh.

(Kinh) Hiền Hộ! Ngã thời tắc diệc thọ bỉ Phật ký: “Thị nhân đương lai tất đắc thành Phật, hiệu viết Đức Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, nãi chí Phật Thế Tôn”.

()賢護我時則亦授彼佛記是人當來必得成佛號曰德光明如來應供等正覺乃至佛世尊

(Kinh: Này Hiền Hộ! Lúc đó, ta cũng thọ ký Phật quả cho người ấy: “Người này trong tương lai, ắt được thành Phật, hiệu là Đức Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, cho đến Phật Thế Tôn”).

Thọ ký (Vyākaraṇa, 授記) chính là một chỉ dạy an ổn mười phần trọng yếu trong giáo ngôn của đức Thế Tôn, đích xác là một lời dạy như thật: “Có cái nhân như thế, sẽ có cái quả như thế”. Chỉ nhằm hiển hiện pháp tắc nhân quả, hiển hiện Tu Đức. Chúng ta “niệm Phật thành Phật”, cũng tất nhiên là như vậy. Đó là hàm nghĩa trong lời thọ ký.

(Kinh) Hiền Hộ! Thị trung tam-muội thùy đương chứng tri?

()賢護是中三昧誰當證知

(Kinh: Này Hiền Hộ! Trong đây, ai sẽ chứng biết môn tam-muội ấy?)

Trong hàng đệ tử của đức Phật, có ai chứng biết môn Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội hay không?

(Kinh) Kim ngã đệ tử Ma Ha Ca Diếp, Đế Thích Đức Bồ Tát, Thiện Đức thiên tử, cập dư vô lượng chư Bồ Tát bối, hàm dĩ tu đắc thử tam-muội giả, thị vi chứng. Vân hà chứng? Sở vị Không tam-muội dã!

()今我弟子摩訶迦葉帝釋德菩薩善德天子及餘無量諸菩薩輩鹹已修得此三昧者是爲證。云何證所謂空三昧也

(Kinh: Nay đệ tử ta là Ma Ha Ca Diếp, Đế Thích Đức Bồ Tát, Thiện Đức thiên tử, và vô lượng các vị Bồ Tát khác, đều đã tu được môn tam-muội này, đều đã chứng. Chứng gì vậy? Chính là Không tam-muội!)

“Kim ngã đệ tử Ma Ha Ca Diếp” (Nay đệ tử của ta là Ma Ha Ca Diếp), chúng ta hằng ngày bầu bạn với ngài Ma Ha Ca Diếp tại đây. Vì sao có nhân duyên học tập, tu tập Ban Châu tam-muội, tức Thập Phương Chư Phật Hiện Tiền tam-muội tại đây? Không gì chẳng do Tam Bảo gia trì, mà cũng là do tôn giả đã đích thân chứng đắc. “Thị vi chứng” (Là người đã chứng): Nói Chứng tức là nói pháp tam-muội này chẳng lập ra hư dối trong thế gian, do được Bồ Tát, Thanh Văn thủ hộ, mà cũng là do được bậc thiện xảo trong đời sau yêu thích, hướng tới. Nếu không có bậc tiên hiền chứng nhập, không được hàng Bồ Tát tại gia lẫn xuất gia thủ hộ, chúng ta sẽ không có cách nào để chứng!

(Kinh) Hiền Hộ! Ngã niệm vãng tích hữu Phật Thế Tôn, hiệu Tu Ba Nhật. Thời hữu nhất nhân, hành trị khoáng dã, cơ khát nhân khổ, toại tức thụy miên. Mộng trung cụ đắc chư chủng thượng diệu mỹ thực. Thực chi ký bão, vô phục cơ hư.

()賢護我念往昔有佛世尊號須波日。時有一人行值曠野飢渴因苦 遂即睡眠 。夢中具得諸種上妙美

食。食之既飽無復飢虛。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Ta nhớ xưa kia có Phật Thế Tôn, hiệu là Tu Ba Nhật. Lúc đó, có một người, đi đường gặp phải đồng hoang, khổ sở vì đói khát, liền ngủ thiếp đi. Trong mộng thấy có đầy đủ các thức ăn ngon lành nhất. Đã ăn no rồi, chẳng còn đói lòng nữa).

Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, tất cả các nghiệp tạo tác trong từng sát-na liền qua đi, cũng đều như trong mộng. Hãy xem kinh văn ở nơi đây là [nói về] giấc mộng gì vậy? “Mộng trung cụ đắc chư chủng thượng diệu mỹ thực. Thực chi ký bão, vô phục cơ hư” (Trong mộng, thấy có được đầy đủ các thức ăn ngon lành nhất. Đã ăn no rồi, chẳng còn đói lòng nữa).

(Kinh) Tùng thị ngụ dĩ, hoàn phục cơ khát. Thị nhân nhân thử, tức tự tư duy.

()從是寤已還復飢渴。是人因此即自思惟。

(Kinh: Tới khi tỉnh giấc, lại đói khát như cũ. Người ấy do đó liền tự tư duy).

Các vị thiện tri thức! Trong hai phẩm này, đức Thế Tôn không ngừng chỉ dạy chúng ta thông qua tư duy, quán niệm, quan sát để thực tập pháp tắc này.

(Kinh) Như thị chư pháp, giai không, vô thật, do mộng sở kiến, bổn tự phi chân.

()如是諸法皆空無實猶夢所見本自非真。

(Kinh: Các pháp như thế đều là không, chẳng thật, ví như thấy trong mộng, vốn tự chẳng chân thật).

Hết thảy các pháp cũng giống như thế.

(Kinh) Như thị quán thời, ngộ Vô Sanh Nhẫn, đắc bất thoái chuyển ư A Mậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

()如是觀時悟無生忍得不退轉於阿耨多羅三藐三菩提。

(Kinh: Khi quán như thế, ngộ Vô Sanh Nhẫn, đắc bất thoái chuyển nơi A Mậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề).

“Như thị quán thời, ngộ Vô Sanh Nhẫn” (Khi quán như thế, ngộ Vô Sanh Nhẫn): Trong Tín Nhẫn, Thuận Nhẫn, và Vô Sanh Pháp Nhẫn, tức trong “Như Lai tam nghiệp”, nếu chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, sẽ liễu thoát hết thảy sanh tử, trừ hết thảy phiền não, tiêu hết thảy chướng ngại, sẽ đạt được phương tiện tự tại, trọn đủ hết thảy các pháp thiện xảo.

(Kinh) Như thị Hiền Hộ! Hữu chư Bồ Tát, nhược tại gia, nhược xuất gia, văn hữu chư Phật, tùy hà phương sở, tức hướng bỉ phương, chí tâm đảnh lễ.

()如是賢護有諸菩薩若在家若出家聞有諸佛隨何方所即向彼方至心頂禮。

(Kinh: Như thế đó Hiền Hộ! Có các Bồ Tát tại gia hay xuất gia, nghe có chư Phật, sẽ tùy theo phương vị, nơi chốn của vị ấy, bèn hướng về phương đó, chí tâm đảnh lễ).

Pháp tu cung kính là duyên khởi của hết thảy các pháp tắc, là chỗ tồn tại công đức chân thật của hết thảy các pháp. Nếu lìa khỏi cái tâm chí thành và tâm cung kính, hết thảy các pháp đều trở thành chẳng có cơ sở, vì hết thảy các pháp nhờ vào Tu Đức hiển lộ, nhờ vào hiển dụng mà hiển hiện, nhờ vào Sự mà hiển hiện, thuận lý thành chương!

(Kinh) Tâm trung khát ngưỡng, dục kiến bỉ Phật.

()心中渴仰欲見彼佛。

(Kinh: Trong tâm khát ngưỡng, muốn thấy đức Phật ấy).

Chúng ta niệm Nam-mô A Di Đà Phật cũng giống như thế. Một phần kiền thành, đạt được một phần lợi ích. Một phần kiền thành, đạt được một phần công đức hiện tiền. Phần ấy do ai vận dụng? Chính là pháp tắc thực tiễn trong hiện tiền, do kiền thành mà được hiện tiền. Chúng ta là người thuộc thời Mạt Pháp, chẳng đủ kiền thành, tự phụ có thừa.

Trong sanh mạng của chúng ta, điều đáng nên quan sát là phải nên làm như thế nào? Hãy siêng tu cái tâm chí thành, cung kính ấy!

(Kinh) Cố tác như thị chuyên tinh tư duy.

()故作如是專精思惟。

(Kinh: Cho nên chuyên ròng tư duy như thế).

Như đã nói trong phần trước, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày, nhất tâm tư duy, siêng ròng tư duy, chuyên ròng tư duy. Các thứ tư duy như thế chẳng lìa Phật, chẳng lìa quốc độ ấy, chẳng lìa thanh tịnh hải chúng ấy. Tư duy như thế, ắt sẽ được chư Phật thanh tịnh gia trì. Chúng ta chẳng ngại trong pháp tu bình thường, hoặc trong khi tu pháp Ban Châu, có thể biến đổi một chút, khiến cho nó trang nghiêm, giống như Biến Tướng Đồ[3] của thế giới Cực Lạc: Hãy xếp đặt các hình tượng, đồ họa trang nghiêm, khiến cho kẻ khác yêu thích, vui sướng. Như thế thì sẽ có sức gia trì bất cộng đối với sự cảm ứng và sức chuyên chú của chúng ta trong khi tu trì niệm Phật.

“Thủ tướng tư duy” (取相思維, dùng hình tướng để tư duy) là phương tiện để tư duy và khế nhập. Chớ nên có suy nghĩ [hình tướng và các vật trang nghiêm là] rỗng tuếch [chẳng cần phải dùng đến chúng], như thế thì sẽ dễ dàng tiến nhập lợi ích chẳng thể nghĩ bàn!

(Kinh) Phục ưng đương quán như thị sắc tướng, diệc tức tác bỉ hư không chi tưởng.

()復應當觀如是色相亦即作彼虛空之想。

(Kinh: Lại hãy nên quán sắc tướng như thế, cũng tưởng nó như hư không).

“Như thị sắc tướng” (Sắc tướng như thế) tức là sắc tướng của đức Phật ấy. “Hư không chi tưởng” (Tưởng như hư không): Tuy có đủ loại diệu tướng, bản chất của diệu tướng ấy cũng là hư giả, rốt cuộc chẳng thật. Tuy chẳng thật, các thứ diệu tướng an lập thế gian, lợi ích chúng sanh, an ủi chúng sanh, khiến cho chúng sanh xa lìa sự rỗng tuếch, là lợi ích chân thật! Giống như thức ăn của chúng ta vốn là Không, nhưng quý vị ăn một bữa, sẽ có tinh thần và thể lực. Tuy nó chẳng thật, nhưng do các duyên hòa hợp, do phước đức tụ tập, cho tới sức của một bữa cơm cũng giống như thế. Trong khi chúng ta tu Ban Châu tam-muội, hay còn gọi là Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền, tuy chẳng có pháp thật sự để có thể đạt được, nhưng ắt có báo đức của đức Phật ấy thành tựu, nhiếp hóa mười phương, khiến cho kẻ cung kính tiến nhập sẽ được thọ dụng. Đó là phương tiện thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn.

(Kinh) Nhi bỉ thành tựu hư không tưởng dĩ, đắc trụ như thị chánh tư duy trung. Trụ tư duy dĩ, đắc kiến bỉ Phật, quang minh thanh triệt, như tịnh lưu ly. Kỳ hình đoan chánh, như chân kim trụ. Như thị niệm giả, bỉ kiến Như Lai, diệc phục như thị.

()而彼成就虛空想已得住如是正思惟中。住思惟已得見彼佛光明清徹如淨琉璃。其形端正如真金柱。如是念者彼見如來亦復如是。

(Kinh: Người đã thành tựu hư không tưởng, sẽ trụ trong chánh tư duy như thế. Đã trụ trong chánh tư duy, sẽ được thấy đức Phật ấy, quang minh trong sáng, thấu suốt, như lưu ly thanh tịnh. Thân hình Ngài đoan chánh như trụ bằng vàng ròng. Người niệm như thế, sẽ thấy Như Lai cũng giống như thế).

“Nhi bỉ thành tựu hư không tưởng dĩ, đắc trụ như thị chánh tư duy trung” (Người đã thành tựu hư không tưởng, sẽ trụ trong chánh tư duy như thế): Nếu chấp là thật, người ấy sẽ dễ nẩy sanh mê hoặc và ma nạn. Nếu chấp vào ngoan không, người ấy sẽ đọa trong nghiệp hư giả. Trong tạo tác nghiệp, giống như “cục đá ngâm trong nước lạnh”, chẳng thể tăng trưởng các thiện công đức, tâm chẳng sanh khởi, phần nhiều trụ trong tâm trí u ám, đối với mình thì chẳng thể sanh lòng vui mừng đối với pháp, đối với người khác thì chẳng thể sanh hai pháp Bi và Trí, chẳng đắc lực trong thế gian thì chẳng thể tạo lợi ích rộng rãi cho hữu tình.

(Kinh) Phục thứ, Hiền Hộ! Thí như hữu nhân, hốt tùng bổn quốc, chí ư tha phương. Tuy tại tha phương, nhi thường truy ức bổn sở sanh xứ, tằng như thị kiến, diệc như thị văn, như thị ức niệm, như thị liễu tri. Cửu truy ức cố, ư thụy mộng trung, minh kiến tự thân, tại bổn sanh xứ, du tùng kiến văn, như tiền sở cánh. Thị nhân hậu thời, hướng chư quyến thuộc, cụ luận mộng trung sở kiến chi sự: “Ngã như thị kiến, ngã như thị văn, ngã như thị doanh vi, như thị hoạch đắc”. Như thị Hiền Hộ! Hữu chư Bồ Tát, nhược tại gia, nhược xuất gia, nhược tùng tha văn, hữu Phật Thế Tôn tùy hà phương sở, tức hướng bỉ phương, chí tâm đảnh lễ, dục kiến bỉ Phật, chánh niệm bất loạn. Ứng niệm tức kiến bỉ Phật hình tượng, hoặc như lưu ly, hoặc thuần kim sắc, diệc phục như thị.

()復次賢護譬如有人忽從本國至於他方。雖在他方而常追憶本所生處曾如是見亦如是聞如是憶念如是了知。久追憶故於睡夢中明見自身在本生處遊從見聞如前所更。是人後時向諸眷屬具論夢中所見之事我如是見我如是聞我如是營爲如是獲得。如是賢護有諸菩薩若在家若出家若從他聞有佛世尊隨何方所即向彼方至心頂禮欲見彼佛正念不亂。應念即見彼佛形像或如琉璃或純金色亦復如是。

(Kinh: Lại này, Hiền Hộ! Ví như có người bỗng từ nước mình đến phương khác. Tuy ở phương khác, nhưng thường nhớ lại nơi chỗ mình vốn sống, từng thấy như thế, cũng từng nghe như thế, nghĩ nhớ như thế, biết rõ như thế. Do hồi tưởng lâu ngày, trong giấc mộng, thấy rõ tự thân ở nơi mình vốn sống, dạo qua những chỗ từng thấy nghe, hệt như trước kia. Người ấy sau đó, hướng về các quyến thuộc, bàn luận cặn kẽ chuyện được thấy trong mộng: “Ta thấy như thế, ta nghe như thế, ta lo liệu, thực hiện như thế, đạt được như thế”. Như thế đó Hiền Hộ! Có các Bồ Tát dù tại gia, hay xuất gia, nếu từ người khác nghe nói có đức Phật Thế Tôn ở phương vị, nơi chốn nào đó, liền hướng về phương ấy, chí tâm đảnh lễ, muốn thấy đức Phật ấy, chánh niệm chẳng loạn. Ứng theo tâm niệm, liền thấy hình tượng đức Phật ấy hoặc như lưu ly, hoặc màu vàng ròng, cũng giống như thế).

Đức Thế Tôn nêu ra nhiều tỷ dụ, khiến cho chúng ta là những kẻ hữu duyên trong hiện tiền sẽ nương theo các hiện tượng mà chính mình có thể suy nghĩ, có thể quán trong hiện tiền, để thấy thấu suốt lợi ích chẳng thể nghĩ bàn trong Phật pháp. Chẳng hạn như chúng ta tới núi Kê Túc, giả sử trước nay quý vị chưa từng đến, người khác bèn dựa trên các nhân duyên quý vị đã biết để lập ra đủ loại tỷ dụ, khiến cho quý vị liễu giải núi Kê Túc. Đấy là phương pháp bị động, mục đích thật sự là hướng dẫn quý vị tới núi Kê Túc, đúng là vừa nhìn bèn hiểu ngay, biết rốt ráo. Lời lẽ thí dụ rốt cuộc chẳng thật. Nếu chúng ta chẳng đích thân chứng Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội thì các thứ ngôn thuyết và tỷ dụ của Như Lai đều là một loại hướng dẫn khéo léo, khéo gia trì, khéo dìu dắt, như thế mà thôi!

“Dục kiến bỉ Phật, chánh niệm bất loạn, ứng niệm tức kiến bỉ Phật hình tượng, hoặc như lưu ly, hoặc thuần kim sắc, diệc phục như thị” (Muốn thấy đức Phật ấy, chánh niệm bất loạn, ứng theo ý niệm liền thấy hình tượng của đức Phật ấy, hoặc như lưu ly, hoặc màu vàng ròng, cũng giống như thế): Nay chúng ta nương theo các giáo ngôn được ghi chép bằng văn tự trong kinh điển, nghe đức Thế Tôn tường thuật cặn kẽ Tây Phương Cực Lạc thế giới, cho đến tướng công đức thù thắng nhiệm mầu của mười phương chư Phật, khiến cho chúng ta hoan hỷ, hướng về, dùng tịnh tâm tiến hướng, được thấy, được nghe chân thật tương ứng các loại tướng khác biệt. Nếu chuyên niệm một đức Phật, sẽ được thấy đức Phật ấy. Vì thế, chuyên niệm Phật, sẽ được thấy chư Phật. Thấy hết thảy Phật, không gì hơn phương tiện nghe pháp, khiến cho tâm trí khai giải, chứng Vô Sanh Nhẫn, thật sự liễu đạt tự tánh. Đó là mục đích thấy Phật, là công đức pháp ích thuần chánh vậy!

(Kinh) Phục thứ, Hiền Hộ! Thí như tỳ-kheo tu Bất Tịnh Quán, kiến tân tử thi, hình sắc thỉ biến, hoặc thanh, hoặc hoàng, hoặc hắc, hoặc xích, hoặc thời bàng trướng, hoặc dĩ lạn hoại, nùng huyết câu lưu, trùng thú thực đạm, nhục tận cốt bạch, kỳ sắc như kha. Như thị nãi chí quán cốt ly tán, nhi bỉ cốt tán vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ, duy tâm sở tác, hoàn kiến tự tâm.

()復次賢護譬如比丘修不淨觀見新死屍形色始變或青或黃或黑或赤或時膖脹或已爛壞膿血俱流蟲獸食啖肉盡骨白其色如珂。如是乃至觀骨離散而彼骨散無所從來亦無所去唯心所作還見自心。

(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Ví như tỳ-kheo tu Bất Tịnh Quán, thấy tử thi mới chết, hình sắc bắt đầu biến đổi, hoặc xanh, hoặc vàng, hoặc đen, hoặc đỏ, hoặc có lúc trương phềnh, hoặc là hư nát, máu mủ cùng tuôn chảy, trùng, thú ăn nuốt, hết thịt, lộ xương trắng, màu như ngọc trắng. Như thế cho tới quán xương ly tán, nhưng xương ấy ly tán chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu, chỉ do tâm tạo, lại thấy tự tâm).

Bất Tịnh Quán là pháp tắc thực tế mà mọi người chúng ta có thể tiếp xúc. Trong Hán truyền Phật giáo, người tu Bất Tịnh Quán rất ít ỏi. Trước kia, chúng tôi ở trong núi, giáo dục tối sơ là phải tu Bất Tịnh Quán, cho đến hai pháp xả thân và xả Thức. Bất Tịnh Quán là một pháp thiện xảo để xả thân và xả Thức. Nếu chẳng khởi Bất Tịnh Quán, sẽ chẳng thể xả thân được! Nếu chẳng biết Thức là vô thường, Thức là đổi khác, sẽ chẳng thể xả Thức được! Do nó đổi khác, vô thường, vô ngã, cho nên sẽ xả thân được, sẽ xả Thức được! Một người ở nơi hung hiểm, như khe nước trong núi, rừng sâu, hoặc nhằm chỗ cư trụ của La Sát quỷ mẫu, hành các pháp tắc ấy, muốn cho chính mình vượt thoát các vướng mắc nơi thân tâm, thấy sự chân thật của tự tánh, tùy thuận Vô Sanh. Sự tu trì ấy chẳng thể dùng lý luận hay ngôn từ để hình dung, các ngôn từ chẳng ngoài phương tiện nhằm hướng dẫn, khích lệ quý vị thành thục tâm trí Bồ Đề tâm đó thôi! Thật sự hành pháp rất trọng yếu!

Bất Tịnh Quán là một pháp tắc thao tác rất thực tế, tương ứng với chín loại biến hóa [của tử thi] cho tới khi tan rữa, cho đến khi xương xẩu chia lìa, hư nát. Các thứ nghiệp đã tạo tác chỉ do tâm quán, chỉ do tâm tạo, thật sự chẳng biến đổi, mà cũng chẳng đến đi. Thông qua quán tưởng như thế, chúng ta có thể lựa chọn vô thường, vô ngã, bất tịnh, cho đến tâm trí tịch tĩnh, ngay lập tức trụ trong an lạc, thật sự đạt được niềm vui Thắng Nghĩa trong Phật pháp, tức là niềm vui chẳng tạo tác, xa lìa ngoại đạo tự nhiên, thủ hộ thanh tịnh. Cách tu ấy xa lìa sự tiến nhập chủ động của ngoại đạo. Chúng ta biết tự tánh là Không, thường dùng tự tánh Không để quan sát hết thảy các pháp tắc và hết thảy sự tướng trong thế gian, chẳng xả, chẳng lìa, chẳng lấy, chẳng dùng, chỉ chân thật nhìn thấu suốt bản chất, tự nhiên vô ngại. Nếu chẳng phải là như thế, phần nhiều sẽ mê mờ trong sự tướng, Lý và Sự chẳng trở ngại lẫn nhau. Đó là phương tiện.

(Kinh) Như thị Hiền Hộ! Nhược chư Bồ Tát dục đắc thành tựu bỉ Niệm Chư Phật Hiện Tiền tam-muội, tùy hà phương sở, tiên niệm dục kiến bỉ Phật Thế Tôn. Tùy sở niệm xứ, tức kiến Như Lai. Hà dĩ cố? Nhân duyên tam-muội, đắc kiến Như Lai.

()如是賢護若諸菩薩欲得成就彼念諸佛現前三昧隨何方所先念欲見彼佛世尊。隨所念處即見如來。何以故因緣三昧得見如來。

(Kinh: Như thế đó Hiền Hộ! Nếu các Bồ Tát muốn được thành tựu

Niệm Chư Phật Hiện Tiền tam-muội, sẽ tùy theo phương vị, nơi chốn để trước hết niệm đức Phật Thế Tôn mà người ấy muốn thấy. Tùy theo chỗ niệm, liền thấy Như Lai. Vì cớ sao? Do duyên theo tam-muội mà được thấy Như Lai).

“Hà dĩ cố? Nhân duyên tam-muội, đắc kiến Như Lai” (Vì sao vậy? Do duyên theo tam-muội, được thấy Như Lai): Do duyên theo sức tam-muội. Những điều được nói trên đây đều là Quán Tưởng Niệm Phật, là tam-muội nơi nhân địa. Quán tưởng là cơ sở của tam-muội nơi nhân địa. Có cái nhân thì mới có cái quả. Chúng ta muốn đạt được cái quả ấy, ắt phải hành cái nhân; đó là phương tiện. Dù thấy hay chẳng thấy, đều được oai đức gia trì, nhân quả dần dần chín muồi, tam-muội tự nhiên có thể an lập. Thường là chúng ta coi nhẹ cái nhân, phần nhiều chú trọng nơi cái quả. Nói như thế, cao thì quý vị chẳng làm được, mà thấp thì quý vị lại chẳng màng! Như thế thì sẽ rơi vào cái đáng gọi là “rỗng tuếch!” Hiện thời, rất nhiều vị Bồ Tát đang tu tập hành pháp Ban Châu, có người đạt được các lợi ích tương tự, chỉ được đôi chút, tức là tánh chất liên tục[4] chẳng phải là mười phần đơn giản và rõ ràng. Nếu tánh chất liên tục là tốt đẹp, chẳng lo ngại các tạp duyên. Chẳng hạn như trong ăn uống, tuy chúng ta ăn trăm vị, nhưng chẳng biết trăm vị (chẳng chấp trước các vị ngon); mặc y phục, tuy biết nóng lạnh, nhưng chẳng trụ trong ấy. Tuy biết kẻ khác là đúng, hay là sai, nhưng biết rõ chẳng có “đúng, sai”, hay “có thể huân tập, có thể nhiễm, có thể biết”, chuyên chú nhất tâm. Đó gọi là “trệ tâm nhất xứ, vô sự bất biện” (chú tâm vào một chỗ, không gì chẳng thực hiện được), muốn đạt được tam-muội chẳng khó! Nhưng chúng ta sử dụng tâm trí tạp loạn, sử dụng sự tiến hướng tạp loạn, do mê mờ nơi sự việc, đối với mọi chuyện, tâm đều mê mờ, đối với mọi chuyện đều đánh mất cái tâm, chuyện gì cũng đắm nhiễm, [cho nên] chẳng đạt được tam-muội!

Trong cuộc sống hằng ngày, hoàn toàn có thể lìa sự tướng mà vận dụng sự tướng, nhất tâm gắn bó với Phật, gắn bó với pháp tắc thiện xảo, như vậy là có thể chứng tam-muội. Do đó, thật sự hành Ban Châu tam-muội, thật sự là trong cuộc sống hằng ngày đối với “đúng, sai” bèn chẳng nhiễm, chẳng đắm. Như thế thì dẫu chẳng phải là tam-muội, quý vị vẫn có công phu tam-muội; dẫu chẳng đắc tam-muội, nhưng đã có sức tam-muội. Nếu chúng ta tuy thường hành pháp Ban Châu, nhưng thường đắm nhiễm “đúng, sai” và đảo kiến (tri kiến điên đảo), tâm cũng mê muội, cũng bị mất chánh niệm, bị các khổ nạn vùi dập. Như thế thì đạo nghiệp của quý vị sẽ bị phá hoại, oan uổng hứng chịu thị phi xâm hại. Vì thế nói: “Thiên hạ ô nha nhất ban hắc” (Quạ trong thiên hạ thường đen thui). “Đen” là đen ở chỗ nào? Trong thế giới Sa Bà này, không có chỗ nào chẳng phải là chỗ thị phi. Chỉ cần trong tâm quý vị có chủng tử và tướng trạng thị phi, chắc chắn là thị phi sẽ thành thục! Nếu chẳng có chủng tử và hình tướng thị phi, sẽ chẳng có gì để đạt được thị phi, trọn chẳng liên can. Cho nên chẳng thấy [thị phi, thị phi đối với ta] vô dụng, nhất tâm chuyên chú nơi pháp tắc tu trì của chính mình, mà chẳng chứng tam-muội; đó mới thật sự là “kỳ đàm quái luận” (奇談怪論, lời lẽ bàn luận kỳ quái). Nếu tâm trí của chúng ta tán loạn, tạp nhiễm, đắm nhiễm sự tướng, mà mong đắc tam-muội; đấy mới thật sự là vọng tưởng!

Nhìn vào trạng thái của những người hành Ban Châu từ đầu năm nay tới giờ, người dụng tâm tạp loạn thì nhiều, người có tâm đắm nhiễm thì nhiều, người đánh mất đi bổn vị (vị thế vốn có) của pháp tắc thì nhiều, tức là đánh mất sự phát tâm của chính mình! Quý vị tới đây để làm gì? Quý vị muốn làm gì? Người xuất gia, người tại gia, chúng ta bỏ nhà, lìa dục, rời lìa thân nhân, rời lìa hoàn cảnh quen thuộc của chính mình, rời lìa sự hưởng thụ ngũ dục đáng có trong cuộc đời của chính mình, tới đây để làm gì? Đến để thành thục thiện căn Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập chẳng thể nghĩ bàn như thế, đến để thấy Phật, nghe pháp, để trừ bỏ sanh tử luân hồi, để lợi ích rộng khắp hữu tình trong thế gian, thật sự khiến cho hữu tình trong thế gian đạt được sự vui sướng chân chánh. Đó gọi là “niềm vui Thắng Nghĩa, niềm vui thần thông, các thứ vui sướng khinh an phát xuất từ nội tâm, niềm vui do từ bi giáo hóa rộng lớn”, cho đến vô tận lạc thú đều chân thật, chẳng dối. Niềm vui thế tục rốt cuộc là vô thường, có thể tan hoại bất cứ lúc nào, phần nhiều dựa theo những điều khác mà sanh khởi, chẳng được tự tại. Niềm vui Phật pháp chỉ nương theo Như Lai tạng tánh trong tự tâm mà lưu xuất, từ chỗ trang nghiêm trong tự tâm mà lưu xuất, từ chẳng đắm nhiễm mà lưu xuất. Do đó, thật sự là “lấy chẳng hết, dùng chẳng cạn”, lợi ích thế gian rộng khắp, bố thí rộng lớn chẳng sợ hãi! Trong thế tục, chúng ta hứng chịu nhọc nhằn, vất vả, tuy đạt được những thứ tương tự như vui sướng, nhưng chúng sẽ tan hoại bất cứ lúc nào, Vô Thường, Khổ, Không luôn theo kè kè. Quý vị có chấp nhận hay không, nó vẫn luôn là như thế! Do vậy, các vị thiện tri thức ơi! Nếu chúng ta tiến vào đạo tràng này, hãy lấy đạo nghiệp làm trọng! Thường tu tập pháp tắc, tu tập thâm nhập, đó là phước đức và nhân duyên của tự thân, mà cũng là thành thục thiện căn của chính mình.

(Kinh) Đắc kiến bỉ Phật, hữu tam nhân duyên. Hà giả vi tam? Nhất giả, duyên thử tam-muội. Nhị giả, bỉ Phật gia trì. Tam giả, tự thiện căn thục. Cụ túc như thị tam nhân duyên cố, tức đắc minh kiến bỉ chư Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, diệc phục như thị.

()得見彼佛有三因緣。何者爲三一者緣此三昧。二者彼佛加持。三者自善根熟。具足如是三因緣故即得明見彼諸如來應供等正覺亦復如是。

(Kinh: Có ba nhân duyên để được thấy đức Phật ấy. Những gì là ba? Một là nhờ vào tam-muội này. Hai là được đức Phật ấy gia trì. Ba là thiện căn của chính mình chín muồi. Đầy đủ ba nhân duyên như thế, sẽ được thấy rõ rệt các đức Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác cũng giống như thế).

“Nhất giả, duyên thử tam-muội” (Một là nhờ vào tam-muội này), duyên theo tam-muội này như thế nào? Tư duy đúng như lý, đúng như pháp. Xưng niệm đúng như lý, đúng như pháp. Cung kính, tu trì, lễ kính, tán thán, cúng dường, thủ hộ đúng lý, đúng pháp. “Nhị giả, bỉ Phật gia trì” (Hai là do đức Phật ấy gia trì): A Di Đà Phật có thệ nguyện rộng lớn, nhiếp hóa hết thảy chúng sanh niệm Phật, nhiếp thủ chẳng bỏ, vì sức thệ nguyện chẳng thể nghĩ bàn, chẳng bị chướng ngại. “Tam giả, tự thiện căn thục” (Ba là do thiện căn của chính mình chín muồi): Thiện căn của chính mình chín muồi là điều trọng yếu nhất trong ba loại thiện căn. Phật lực gia trì là căn bản, nhưng điều quan trọng nhất là thao tác, tức là tu tập pháp tắc, tức là chính chúng ta thực hiện, chẳng ỷ lại Phật. Chúng ta có thể thường học theo Phật, nhưng chớ ỷ lại Phật, chớ đùn đẩy cho Phật. Nếu ỷ lại, đùn đẩy cho Phật, quý vị sẽ chẳng thể đạt được lợi ích!

(Kinh) “Phục thứ, Hiền Hộ! Như nhân thịnh tráng, dung mạo đoan nghiêm, dục quán kỷ hình, mỹ, ác, hảo, xú, tức tiện thủ khí, thịnh bỉ thanh du, hoặc trì tịnh thủy, hoặc thủ thủy tinh, hoặc chấp minh kính, dụng thị tứ vật, quán kỷ diện tượng, thiện, ác, hảo, xú, hiển hiện phân minh. Hiền Hộ! Ư ý vân hà? Bỉ sở kiến tượng, ư thử du, thủy, thủy tinh, minh kính, tứ xứ hiện thời, thị vi tiên hữu da?” Hiền Hộ đáp ngôn: “Bất dã!” Viết: “Thị khởi bổn vô da?” Đáp ngôn: “Bất dã!” Viết: “Thị vi tại nội da?” Đáp ngôn: “Bất dã!” Viết: “Thị khởi tại ngoại da?” Đáp ngôn: “Bất dã!

()復次賢護如人盛壯容貌端嚴欲觀己形美惡好醜即便取器盛彼清油或持淨水或取水精或執明鏡用是四物觀己面像善惡好醜顯現分明。賢護於意云何彼所見像於此油水水精明鏡四處現時是爲先有耶?」賢護答言不也是豈本無耶?」答言不也是爲在內耶?」答言不也是豈在外耶?」答言不也

(Kinh: “Lại này Hiền Hộ! Như người tuổi trẻ, khỏe mạnh, dung mạo đoan nghiêm, muốn thấy hình dạng của mình đẹp đẽ hay xấu xí, liền lấy đồ đựng chứa đầy dầu trong, hoặc đựng nước sạch, hoặc lấy thủy tinh, hoặc cầm gương sáng, dùng bốn vật ấy để xem vẻ mặt của chính mình, thiện, ác, đẹp, xấu hiển hiện phân minh. Này Hiền Hộ! Ý ông nghĩ sao? Khi thấy hình tượng hiện ra trong bốn chỗ là dầu, nước, thủy tinh, gương sáng, có phải là đã có từ trước hay chăng?” Hiền Hộ thưa: “Chẳng phải vậy”. Hỏi: “Có phải vốn là không hay chăng?” Thưa: “Chẳng phải”. Hỏi: “Là bên trong ư?” Thưa: “Chẳng phải!” Hỏi: “Há ở bên ngoài ư?” Thưa: “Chẳng phải”).

Hỏi “trong, ngoài” như thế, hay nói “vốn có, vốn không”, thật sự là hý luận! Nhưng nếu chẳng đặt câu hỏi như thế, tâm trí của chúng ta chẳng có nơi nương tựa, sẽ chẳng thể thật sự quy kết về sự chọn lựa “vạn pháp duy tâm”.

Nếu là vốn có, sẽ chẳng thể là duy tâm. Nếu là vốn không, cũng chẳng thể là duy tâm. Nếu ở trong hay ngoài, thì cũng chẳng phải là pháp duy tâm, vẫn là các duyên hòa hợp, thành thục hiển hiện. Lìa pháp nhân duyên, sẽ chẳng thể thông suốt rạng ngời được!

(Kinh) Thế Tôn! Duy bỉ du, thủy, tinh, kính, chư vật thanh minh, vô trược, vô chỉ, kỳ hình tại tiền, bỉ tượng tùy hiện.

()世尊惟彼油水精鏡諸物清明無濁無滓其形在前彼像隨現。

(Kinh: Bạch Thế Tôn! Chỉ là trong các vật trong sáng như dầu, nước, thủy tinh, gương, chẳng nhơ bẩn, chẳng cáu cặn, hễ vật đối trước chúng, sẽ liền hiện bóng).

“Kỳ hình tại tiền” (Vật đối diện trước chúng): Chính là pháp tắc sanh bởi nhân duyên. [Thấu hiểu] “các pháp sanh bởi nhân duyên”, sẽ phá trừ các biên kiến như hữu biên, vô biên, đoạn kiến, thường kiến cho chúng sanh. Chẳng phá các kiến chấp ấy, sẽ khó thể thoát lìa cái tâm phàm phu, khó thể an lập chánh kiến. Nhưng tâm trí của hết thảy phàm phu hữu tình đều quẩn quanh trong Biên Kiến đối đãi nhị nguyên ấy, tức là nói có, nói không, nói vốn có, nói vốn không, nói đến, nói đi, nói trong, nói ngoài, như thế đều là cái tâm chấp “thật sự có, hoặc là thật sự không”, tâm [chấp trước là] trong hay ngoài, oan uổng bị tà kiến bức bách. Chúng ta quan sát lời ăn tiếng nói của chính mình, và các sự vật được tiếp xúc, [sẽ thấy rõ]: Cơ bản đều là vận dụng lối tư duy này, vẫn là hoặc trong, hoặc ngoài. Chẳng hạn như [do chấp trước đối đãi, bèn thấy có] chuyện của chính mình, chuyện của kẻ khác, hoặc là có, hoặc là không. Nếu có, bèn chấp thứ đó thật sự có. Nếu là không, sẽ là tướng đoạn diệt. Do vậy, Thường Kiến, Hữu Kiến, Đoạn Kiến luôn bầu bạn với chúng ta. Đó gọi là “biên kiến bạn tùy” (biên kiến luôn theo sát), như thế thì chánh kiến sẽ chẳng thể kiến lập! Chúng ta đều biết cảnh giới Nhất Thật và cảnh giới Duy Thức trong giáo ngôn Phật pháp, ai nấy đều nói như thế; nhưng trong cuộc sống hằng ngày, có thể vận dụng tri kiến ấy hay không? Nếu vận dụng được, sẽ vô ngại đối với hết thảy sự tướng hiện tiền, vì đối với hết thảy sự tướng, quý vị trọn chẳng đắm nhiễm. Vì sao? Chỉ có tâm sanh, chỉ có tâm là Phật, chẳng phải sanh bên trong, chẳng sanh bên ngoài, chẳng phải tự sanh, chẳng phải tha sanh!

(Kinh) Nhi bỉ hiện tượng, bất tùng tứ vật xuất, diệc phi dư xứ lai.

()而彼現像不從四物出亦非餘處來。

(Kinh: Nhưng các hình tượng được hiện ấy, chẳng từ bốn vật mà ra, cũng chẳng phải từ nơi khác đến).

Chúng ta phải quan sát tinh tế. Nếu chẳng quan sát như thế, sẽ khó trừ Biên Kiến. Tôi thường nghe mọi người bàn luận về người nào đó, chuyện nào đó, đạo tràng nào đó, nhân duyên nào đó. Nói tới, nói lui, trôi tuột theo sự tướng luôn, sẽ ngỡ [những điều bàn tán ấy] là có thật, chẳng thể tự thoát ra được! Nếu có thể tự kiềm chế, sẽ có thể giải quyết ngay lập tức, chẳng bị vướng mắc; đối với mình lẫn người, chắc chắn có lợi! Vì quý vị đã giải quyết sự tướng ngay trong hiện tại, chẳng phải là nhờ duyên khác để giải quyết. Vì sao? Chỉ do tâm hiển hiện. Chỉ do tự duyên hiển hiện, chẳng phải do duyên nào khác. Bọn chúng ta phần nhiều chìm đắm trong chấp trước. Hiện thời, người hành pháp nhiều, tu pháp đông đảo, người có chánh kiến hiếm hoi. Người hành pháp nhiều, người chấp Sự nhiều, người thật sự truyền bá chánh kiến càng hiếm hoi hơn! Người chọn lựa chánh kiến tột bậc khó có, do [những người như vậy sẽ] làm con mắt cho thế gian. Chúng ta đều biết tu trì Lục Độ: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền Định, các thứ pháp tắc, ai nấy đều đang hành, nhưng người có con mắt trí huệ hiếm hoi! Nếu có mắt, tuy chẳng có tay chân, vẫn có thể hướng dẫn chúng sanh đạt được thiện xảo. Nhưng nếu tự tu hành tăng tấn mà chẳng có mắt [trí huệ], người ấy sẽ hành theo pháp ngu si, phần nhiều là tạo phước đức, do thiếu mắt trí huệ, khiến cho người ấy đọa lạc, chìm đắm trong thế gian. Các vị thiện tri thức ơi! Đoạn văn tự này lột bỏ hai thứ Biên Kiến, mười phần trọng  yếu!

(Kinh) “Phi tự nhiên hữu, phi nhân tạo tác, đương tri bỉ tượng, vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ, vô sanh, vô diệt, vô hữu trụ sở”. Thời bỉ Hiền Hộ, như thị đáp dĩ. Phật ngôn: “Hiền Hộ! Như thị, như thị! Như nhữ sở thuyết, chư vật thanh tịnh, bỉ sắc minh lãng, ảnh tượng tự hiện”.

()非自然有非人造作當知彼像無所從來亦無所去。無生無滅無有住所。時彼賢護如是答已。佛言賢護如是如是如汝所說諸物清淨彼色明朗影像自現。

(Kinh: “Chẳng phải là tự nhiên có, chẳng do người nào tạo tác. Hãy nên biết các hình tượng ấy chẳng từ đâu đến, mà cũng chẳng đi về đâu, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng có chỗ trụ”. Lúc đó, Hiền Hộ đáp như thế rồi, đức Phật nói: “Này Hiền Hộ! Đúng như thế, đúng như vậy. Đúng như lời ông nói, các vật thanh tịnh, sắc nó trong sáng, hình ảnh tự hiện”).

Do vậy, nay tất cả các vật, các nghiệp, các duyên thuộc y báo trong hiện tại, không gì chẳng hiện bóng trong tự tâm. Ai nấy đều chẳng tránh khỏi hành động như thế! Có lúc chúng ta sỉ nhục kẻ khác, coi ác nghiệp duyên và ác nghiệp của kẻ khác là sự sỉ nhục của chính mình. Từ chỗ đó, hãy nên tự mình sám hối để chuyển hóa, chớ nên đùn đẩy nhân duyên ấy cho người khác. Vì sao? Bản chất của Thức chính là giải quyết nạn duyên này, trừ bỏ các đau khổ ấy. Nếu chẳng phải vậy, chúng ta sẽ ở chỗ này nói có, nói không, nói dài, nói ngắn, thân tâm đau khổ, đắm nhiễm không ngừng.

Hôm nay, có một vị cư sĩ từ bên ngoài đến, nói trong nhà người ấy có duyên gây tai nạn ngang trái, tâm trí bị ngăn chướng, đau khổ không chịu nổi, hỏi tôi có một phương pháp nào để có thể chuyển đổi hay không? Tôi nói: Thật sự không có chuyện này, nhưng do trong tâm bị vướng mắc, vướng mắc vào chuyện ấy, nó sẽ tiếp tục kéo dài, càng duyên theo, càng lâu, chẳng thể tự thoát ra được. Cũng có nghĩa là: Nếu quý vị cho rằng thật sự có chuyện ấy, sẽ chẳng thể tự thoát ra được! Chúng ta học tập Phật pháp, quyết định phải nhận biết nên xử trí hiện duyên như thế nào?

(Kinh) Bất dụng đa công, Bồ Tát diệc nhĩ, nhất tâm thiện tư, kiến chư Như Lai. Kiến dĩ tức trụ, trụ dĩ vấn nghĩa.

()不用多功菩薩亦爾一心善思見諸如來。見已即住住已問義。

(Kinh: Chẳng dùng nhiều công sức, Bồ Tát cũng thế. Nhất tâm khéo tư duy, thấy chư Như Lai. Đã thấy bèn trụ, trụ rồi hỏi nghĩa).

Đây là tu công phu định lực, và cũng là sự thành tựu do tâm trí chuyên chú.

(Kinh) Giải thích hoan hỷ, tức phục tư duy.

()解釋歡喜即復思惟。

(Kinh: Đã được giải thích hoan hỷ, bèn lại tư duy).

Nếu có thể gặp Phật, tất nhiên là tư duy, vì chuyện này có ảnh hưởng và có sức lôi cuốn to lớn đối với quý vị. Chúng ta thường niệm Phật, thường niệm chúng sanh, như chúng ta thấy tranh vẽ, thấy các nhân vật chung quanh qua lại, nhưng chúng ta không biết, chẳng có cảm nhận và sức nhìn thấu suốt, sẽ [có cảm giác] như Phật ở phương khác, phương này làm sao thấy được?

(Kinh) Kim thử Phật giả, tùng hà sở lai, nhi ngã thị thân, phục tùng hà xuất? Quán bỉ Như Lai, cánh vô lai xứ, cập dĩ khứ xứ, ngã thân diệc nhĩ!

()今此佛者從何所來而我是身復從何出觀彼如來竟無來處及以去處我身亦爾

(Kinh: Nay đức Phật ấy từ đâu mà đến, còn thân ta đây lại từ đâu mà ra? Quán đức Như Lai ấy trọn chẳng từ đâu đến, và cũng chẳng đi về đâu, thân ta cũng thế!)

“Ngã thân diệc nhĩ” (Thân ta cũng thế), vì một pháp tắc, sự sự vô ngại. Một pháp tắc có thể dùng ở mọi nơi, nhưng chẳng phải là nói: Một pháp tắc thật sự có thể vận dụng vào chỗ này, nếu dùng ở chỗ khác thì nó sẽ đổi khác. Trọn chẳng phải là như vậy!

(Kinh) Bổn vô xuất thú, khởi hữu chuyển hoàn? Bỉ phục ưng tác như thị tư duy. Kim thử tam giới, duy thị tâm hữu.

()本無出趣豈有轉還彼復應作如是思惟。今此三界唯是心有。

(Kinh: Vốn chẳng có thoát ra hay tiến nhập, há có trở lại? Lại nên tư duy như thế. Nay tam giới này chỉ do tâm mà có).

Các vị thiện tri thức ơi! Có thể nói đoạn văn tự này là phẩm Tâm Kinh, đã như thật dạy cho chúng ta biết tự tâm, biết công dụng của cái tâm. Hết thảy các chuyện hiện tiền, dùng gì để dụng tâm? Văn tự trong đoạn này mười phần trọng yếu, tổng kết các giáo pháp trong tất cả các phần văn tự trước đó. Câu nào cũng đều có thể dùng làm khẩu quyết để hướng dẫn tự tâm. Chúng ta có thể đọc thuộc đoạn văn tự này, coi giống như Tâm Kinh. Lúc có chuyện hiện tiền, một tư duy hiện tiền, một tri kiến hiện tiền, dùng ngay mấy câu nói ấy để xét kỹ nó, gột rửa nó, quán chiếu nó, chánh tri kiến của chúng ta sẽ an lập.

(Kinh) Hà dĩ cố? Tùy bỉ tâm niệm, hoàn tự kiến tâm.

()何以故隨彼心念還自見心。

(Kinh: Vì cớ sao? Thuận theo tâm niệm ấy, vẫn tự thấy tâm).

Chúng ta nghĩ một người là tốt đẹp, liền thấy thân thiết, cảm thấy mười phần hoan hỷ. Đối với những kẻ mà ta chẳng muốn thấy, trong tâm trí đã có chủng tử như vậy, hễ trông thấy người ấy, sẽ mười phần đau khổ. Đó chỉ là tự tâm chiêu cảm, chẳng phải là người khác khiến cho quý vị chán lìa, chẳng phải là kẻ khác làm cho quý vị đau khổ. Kẻ đó sao có thể khiến cho quý vị đau khổ cho nổi? Thật ra là trong tâm có chủng tử đó thôi! Giống như trong một câu chuyện cổ: Một gã tiều phu bị mất búa, hoài nghi đứa nhỏ nhà hàng xóm lấy trộm. Hắn thấy đứa nhỏ ấy kiểu nào cũng đều giống như thằng ăn cắp búa. Đi lại cũng giống, âm thanh nói năng cũng giống, hành vi xử sự cũng giống, làm cách nào cũng đều chẳng lìa khỏi [ấn tượng] “thằng ăn cắp búa”. Sau đó, chính gã dùng hết đống củi, cái búa tự nhiên ló ra. Khi đó, nhìn lại đứa nhỏ hàng xóm, bộ dạng đi đứng chẳng giống đứa trộm búa, âm thanh nói chuyện chẳng giống thằng trộm búa, hết thảy hành vi cũng đều chẳng giống đứa trộm búa! Vì thế nói “tâm niệm hễ an lập, hành vi của đối phương sẽ tương ứng”. Tâm niệm vừa chuyển hóa, cũng sẽ tương ứng.

Các vị thiện tri thức ơi! Hãy khéo tư duy, khéo quan sát! Nhất định đừng dùng sai cái tâm. Đối với tự duyên, đối với tha duyên, đối với Phật duyên, thông thường khi chúng ta có ý kiến đối với người khác, cũng tức là một khi chủng tử ấy đã sanh khởi, nhìn kiểu nào cũng đều ngứa mắt. Dẫu cho âm thanh niệm Phật của người ấy rất hay đẹp, chúng ta sẽ nghe thấy kẻ đó màu mè, kiểu cọ, tô son trát phấn, âm điệu quái dị. Nhưng nếu sanh tâm hoan hỷ, dẫu đối phương làm chuyện sai lầm, chúng ta vẫn cảm thấy kẻ đó mười phần đáng yêu, vụng về, chất phác đáng mến!

Các vị thiện tri thức ơi! Hãy khéo biết tự tâm. Đừng đánh mất cái tâm để quán sự. Đừng vì sự mà mê muội cái tâm. [Khéo biết tự tâm] như thế, chúng ta là kẻ thật sự phát tâm, biết tâm, hiểu rõ cái tâm, biết dụng tâm. Quý vị có thể liễu giải tự tâm, đó gọi là “như thật tri tự tâm, hành pháp vô ngại” (biết tự tâm đúng như thật, hành pháp vô ngại), đạt được sức tự tại. Tâm ấy chỉ có tự dụng, chỉ có tự hiển hiện. Như thế thì chính quý vị sẽ đạt được phương tiện trong Phật pháp. Nếu không, giả như chúng ta cậy vào ngoại duyên, mê muội tâm trí, phần nhiều sẽ chẳng tự tại! Hiện thời, chúng ta đến tu tập Phật pháp, tới tu tập trong đạo tràng, dù là xuất gia hay tại gia, quả thật là do nhân duyên chẳng thể nghĩ bàn trong đời trước và nhân duyên trong đời này thành thục, thôi thúc chúng ta đến chỗ này, chúng ta sẽ vận dụng như thế nào? Tôi đề nghị các thiện tri thức sao chép đoạn văn tự này, cung phụng nó, in sâu vào tâm mình, đối đãi như thật, thủ hộ như thật, giữ tiếp nối như thật trong cuộc sống, quý vị sẽ có thể đạt được sự gia trì bất cộng!

(Kinh) Kim ngã tùng tâm kiến Phật, ngã tâm tác Phật, ngã tâm thị Phật.

()今我從心見佛我心作佛我心是佛。

(Kinh: Nay ta từ cái tâm mà thấy Phật, tâm ta làm Phật, tâm ta là Phật).

Lành thay! Các vị thiện tri thức ơi! Đức Thế Tôn nói lời như thật, lời thành thật, lời liễu nghĩa, lời lựa chọn, lời Đà-la-ni, lời khẩu quyết thiện xảo. Nếu quý vị sử dụng được, sẽ rất thuận tiện! Đừng bỏ qua sự gia trì của kinh điển rất sâu như thế!

(Kinh) Ngã tâm thị Như Lai, ngã tâm thị ngã thân, ngã tâm kiến Phật, tâm bất tri tâm, tâm bất kiến tâm.

()我心是如來我心是我身我心見佛心不知心心不見心。

(Kinh: Tâm ta là Như Lai, tâm ta là thân ta, tâm ta thấy Phật, tâm chẳng biết tâm, tâm chẳng thấy tâm).

“Tâm bất tri tâm, tâm bất kiến tâm” (Tâm chẳng biết tâm, tâm chẳng thấy tâm): Nếu tâm có thể thấy tâm, dùng gì để thấy? Đó gọi là do đắm nhiễm đối đãi mà có xuất sanh. Nếu chẳng đắm nhiễm đối đãi thì ở ngay trong tâm trí đối đãi, vẫn an lập trong biển đại tịch diệt quang, dùng gì để thấy? Vì thế, tâm chẳng thấy tâm, nhưng cái tâm tạo tác thì chỗ nào cũng thấy. Do đối đãi, nên có cái được thấy!

(Kinh) Tâm hữu tưởng niệm, tắc thành sanh tử.

()心有想念則成生死。

(Kinh: Tâm có ý niệm suy tưởng, sẽ thành sanh tử).

Kiến giải của chúng ta đã lập, suy tưởng đã lập, nhưng Thật Tế Lý Địa chẳng nhiễm mảy trần. Thật Tế Lý Địa chính là cái tâm. Tâm trí vừa động, đại thiên sẽ bị chấn động, sẽ thôi thúc sanh ra vạn pháp. Quý vị chớ nên coi thường tự tâm, đừng coi trọng sự tướng. [Hễ coi trọng sự tướng], vậy thì quý vị đã thật sự đánh mất cái gốc. Từ trong tâm trí ấy, chúng ta hãy nên quan sát vi tế, sâu sắc, khăng khăng chẳng mệt, đừng nên buông lung. Từ trong sự tướng, có thể buông xuống rất lớn. Đối với chuyện gì đều có thể thong dong, nhưng đối với tâm trí, chớ nên lơ là!

(Kinh) Tâm vô tưởng niệm, tức thị Niết Bàn. Chư pháp bất chân, tư tưởng duyên khởi.

()心無想念即是涅槃。諸法不真思想緣起。

(Kinh: Tâm chẳng suy nghĩ hay khởi niệm, thì chính là Niết Bàn. Các pháp chẳng thật, tư tưởng duyên khởi).

Chư vị thiện tri thức ơi! Khi chúng ta cưỡng chấp các thứ đã thấy, khổ lắm! Sử dụng tri kiến đoạn diệt, khổ lắm! Hãy nên biết các pháp sanh khởi chính là phương tiện vận dụng từ bi và trí huệ hiện tiền, quả thật đã ban cho chúng ta cơ hội. Người có trí sẽ chẳng nhiễm, người có lòng bi sẽ tạo lợi ích cho hiện duyên, há có đắm nhiễm? Há có chuyện bị nỗi khổ của chính mình và người khác bức bách? Nếu chúng ta là người thật sự học Phật, bất cứ chuyện gì hiện tiền, cũng sẽ đều là chỗ cho quý vị vận dụng ân đức bi trí, là cơ hội cho quý vị. Cơ hội gì vậy? Cơ hội thành tựu của quý vị.

(Kinh) Sở tư ký diệt, năng tưởng diệc không. Hiền Hộ đương tri! Chư Bồ Tát đẳng nhân thử tam-muội, chứng đại Bồ Đề.

()所思既滅能想亦空。賢護當知諸菩薩等因此三昧證大菩提

(Kinh: Những điều được suy nghĩ đã diệt, cái tâm suy tưởng cũng là không. Hiền Hộ hãy nên biết! Các vị Bồ Tát ấy do tam-muội này mà chứng đại Bồ Đề).

Đây là lựa chọn cho chúng ta, khiến cho chúng ta triệt để quy hoàn cái tâm, chẳng tạo, chẳng tác, tất nhiên là không tịch, an lập trong thế gian, rộng lợi ích thế gian. Trong thế giới “Không, tịnh, vô nhiễm”, bi và trí của quý vị đều đạt được phương tiện. Khi đó, Phật pháp có thiện xảo để trụ thế, có cơ sở để trụ thế.

Các vị thiện tri thức ơi! Đoạn văn tự này rất trọng yếu, đã điểm nhãn cho chúng ta, khai trí huệ cho chúng ta, đừng nghĩ là kinh nói, mà thật ra là tâm nói. Đừng cho là lời người khác, đây thật sự là lời lẽ ấn tâm. Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Nếu có thể nghe thiện tri thức nói một câu, khiến cho người khác tâm khai ý giải, sẽ cảm thấy hoan hỷ”. Ở đây, chẳng phải là Phật đã sớm nói trọn hết thảy lời lẽ ấn khế tâm trí trong kinh điển ư? Đúng là chỗ nào cũng tuyên nói. Đừng coi thường, chớ báng pháp. Trong những người tu trì ở Trung Hoa, người coi trọng túc duyên thì nhiều, mà kẻ coi rẻ pháp cũng lắm. Đấy quả thật là điều đáng tiếc, quá sức đáng tiếc. Do vậy, đối trước giáo ngôn rất sâu, hãy nên sanh tâm cung kính lãnh thọ, sanh tâm thủ hộ. Vun bồi Pháp Thân huệ mạng cũng do đây mà có, cũng do đây thúc đẩy mà xuất sanh.

  1. Phẩm thứ hai: Tam Muội Hạnh

(Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần Tam Muội Hạnh phẩm đệ nhị.

()大方等大集賢護分三昧行品第二

(Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần. Phẩm thứ hai: Tam Muội Hạnh).

Phẩm này thuyết minh cơ sở của hành pháp tam-muội.

(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn.

()爾時世尊復告賢護菩薩摩訶薩言。

 (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát rằng).

Sau danh tự Bồ Tát, thêm từ ngữ Ma Ha Tát vì để phát khởi lợi ích rộng lớn, giác ngộ rộng lớn kẻ hữu duyên.

(Kinh) Hiền Hộ! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát, cụ hành tứ pháp, tắc năng đắc thị hiện tiền tam-muội.

()賢護若諸菩薩摩訶薩具行四法則能得是現前三昧。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát hành trọn bốn pháp, sẽ có thể đắc hiện tiền tam-muội này).

Tức là hành trọn đủ bốn pháp, sẽ có thể đắc môn hiện tiền tam-muội này.

(Kinh) Hà đẳng vi tứ? Nhất giả, bất hoại tín tâm.

()何等爲四一者不壞信心。

(Kinh: Những gì là bốn? Một là chẳng hoại tín tâm).

Tín tâm quyết định bất hoại, đó gọi là Tín Nhẫn thành tựu, đối với pháp chẳng nghi ngờ, lựa chọn thuận theo. Điều này quả thật là chuyện chẳng thể nghĩ bàn! Bất hoại tín tâm dẫn đường cho hết thảy các pháp. Bởi lẽ, “Tín vi công đức mẫu” (Tín là mẹ công đức). Trong giáo ngôn của Thanh Văn Thừa, người đạt quyết định tín là quả Tu Đà Hoàn; vì lẽ nào? Đạt được tấm gương pháp nhãn, soi rõ, nhận biết tướng chân thật trong thế gian, cho nên sanh lòng tin chân thật. Ở đây, chúng ta tùy thuận tín tâm bất hoại, lập thệ chọn lựa, ắt thấy chư Phật, chẳng lùi sụt, chẳng đọa!

(Kinh) Nhị giả, bất phá tinh tấn.

()二者不破精進。

(Kinh: Hai là chẳng phá tinh tấn).

Đối với pháp tắc, siêng khổ gìn giữ, đạt tới địa vị rốt ráo, xa lìa giải đãi và buông lung. Trong những người hành pháp hiện thời, người giải đãi thì nhiều, kẻ buông lung đông đảo, cơ hội phá hoại tinh tấn quá nhiều! Chúng ta có thật sự vận dụng sao cho mỗi thời, mỗi khắc đều siêng khổ, thâm nhập tu tập pháp tắc hay chăng? Cái được gọi là “buông lung” chính là cái khiến cho tâm trí bị tán hoại trong tạp duyên, chẳng có sức thâm nhập pháp tắc. Vì đối với mỗi hữu tình, hai loại tạp duyên nơi chính mình và người khác đều rất lừng lẫy. Nếu chưa lắng đọng cái tâm, trong tu pháp mà hơi buông lung, sẽ phá hoại tinh tấn. Nếu chẳng hổ, chẳng thẹn, tất nhiên sẽ buông lung!

(Kinh) Tam giả, trí huệ thù thắng.

()三者智慧殊勝。

(Kinh: Ba là trí huệ thù thắng).

Chẳng nương cậy, chẳng đắm nhiễm, chẳng tạo tác. Dùng cái tâm như thế để hành các pháp.

(Kinh) Tứ giả, cận thiện tri thức. Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát cụ túc tứ pháp, tắc đắc thành tựu hiện tiền tam-muội dã.

()四者近善知識。賢護是爲菩薩具足四法則得成就現前三昧也。

(Kinh: Bốn là thân cận thiện tri thức. Này Hiền Hộ! Đó là Bồ  Tát  trọn đủ bốn pháp, sẽ được thành tựu hiện tiền tam-muội).

“Thân cận thiện tri thức” để trừ nghi hoặc cho mình lẫn người, là pháp tắc để trừ nghi hoặc!

(Kinh) Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát, phục hữu tứ pháp, năng cụ túc hành, tắc năng thành tựu hiện tiền tam-muội. Hà đẳng vi tứ? Nhất giả, nãi chí ư sát-na thời, vô chúng sanh tưởng.

()賢護菩薩摩訶薩復有四法能具足行則能成就現前三昧。何等爲四一者乃至於剎那時無衆生想。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát lại có bốn pháp, có thể hành trọn đủ, thì sẽ có thể thành tựu hiện tiền tam-muội. Những gì là bốn? Một là thậm chí trong một sát-na, chẳng có chúng sanh tưởng).

Chẳng hạn như chúng ta đi vào đạo tràng, hoặc xuất gia, trợn mắt nhìn, ôi chao! [Thấy các chuyện] đúng nhiều ngần ấy, sai nhiều ngần ấy! Đó là chúng sanh tưởng! Đó gọi là “tạp nhiễm chúng sanh”, khi dùng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp để tiếp xúc, sẽ đều là chúng sanh huyễn hiện. Vì thế, chúng sanh là do tâm đắm nhiễm, chuyện gì cũng đắm nhiễm, chỗ nào cũng đắm nhiễm. Do vậy, tướng chúng sanh sanh khởi, tâm trí phiền não, lắm nỗi chán chường, mệt mỏi, vì bị các phiền não tạp duyên che lấp, người ta sẽ sanh khởi tướng trần lao. Nếu có chúng sanh tưởng, hãy nên tu trì như thế nào? Nam-mô A Di Đà Phật [có công năng] hồi thí rộng khắp, [khiến cho mỗi chúng sanh] đều nhập bổn vị, tức là đều được vãng sanh. Quang minh thanh tịnh viên mãn của A Di Đà Phật chiếu trọn khắp, không đâu chẳng chiếu thấu. Do vậy, hết thảy sự sai biệt của chúng sanh đã bị ngăn che. Nói “ngăn che” tức là chẳng thấy chúng sanh tướng, chỉ có sức niệm Phật vô ngại!

(Kinh) Nhị giả, ư tam nguyệt nội, bất tạm thụy miên.

()二者於三月內不暫睡眠。

(Kinh: Hai là trong ba tháng, chẳng tạm ngủ nghê).

Hiện thời, rất nhiều vị Bồ Tát trong một ngày một đêm, một ngày hai đêm, hoặc bảy ngày bảy đêm hành pháp. Tri kiến và tâm trí “bất tạm thụy miên” (chẳng tạm ngủ nghê) biến thành mười phần trọng yếu. Hoàn toàn chẳng phải là nói quý vị ngủ hay không ngủ, mà là quý vị chớ nên tạo tác tâm niệm như thế. Nhân duyên ngủ nghê trong quá khứ đã thành thục, quý vị chẳng thể không ngủ, không thể chẳng mệt, nhưng hiện tại thì sao? Đừng nên tiếp tục tạo tác nghiệp và nghiệp tướng như thế nữa! Ở đây là sự tu trì chẳng thể nghĩ bàn, là tu tập Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn. Vì quý vị chẳng thể thay thế nghiệp quá khứ, chẳng thể ngăn trở nó. Như hoàn cảnh y báo, sắc thân trong hiện tại của chúng ta, cho đến phước đức và nhân duyên sai biệt, đều là do Dị Thục Quả chín muồi. Hãy ở trong nhân duyên ấy, đừng nên tạo tác ngủ và mê ngủ, chớ nên tăng mạnh nhân duyên ngủ nghê. Phải thấy thấu suốt bản chất của nó. Trước kia, thầy Đại Hùng đã nói trong khi hành Ban Châu như sau: “Hôn trầm ở trong chỗ tối”, thật sự cũng là một sự quan sát thuận duyên, ai nấy đều trở về bổn vị (vị trí, địa vị vốn có của chính mình)[5], chẳng còn tạo tác nữa! Hễ hôn trầm xảy đến thì vẫn là hôn trầm, nhưng người ấy chẳng còn chấp trước mạnh mẽ nữa, cũng chẳng còn bài xích nó, nhưng cũng chẳng còn thuận theo nó. Quan sát kỹ càng đúng lý như thế, lâu dần, người ấy sẽ có thể thật sự vượt thoát hôn trầm. Nhưng nếu quý vị nói “ta vun bồi hôn trầm”, đó chẳng phải là điều tốt đẹp! “Vun bồi” là gì? Tức là hễ hôn trầm xảy đến, bèn dung túng nó. Nếu hôn trầm thật sự xảy đến, chẳng dùng sức, chẳng thuận theo sức ấy, chẳng ra sức tác động, tức là chẳng cự tuyệt, chẳng nghênh tiếp. Đó là chỗ dụng công vừa khéo!

(Kinh) Tam giả, tam nguyệt kinh hành, duy trừ tiện lợi.

()三者三月經行唯除便利。

(Kinh: Ba là suốt ba tháng kinh hành, chỉ trừ lúc bài tiết).

Hành pháp Ban Châu yêu cầu thời gian khá dài là ba tháng. Trong ba tháng, chỉ đi kinh hành, bỏ sạch các pháp khác, chỉ trừ lúc bài tiết là làm chuyện khác.

(Kinh) Tứ giả, nhược ư thực thời, bố thí dĩ pháp, bất cầu danh lợi, vô vọng báo tâm. Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát cụ túc tứ pháp, tắc đắc thành tựu hiện tiền tam-muội dã.

()四者若於食時佈施以法不求名利無望報心。賢護是爲菩薩具足四法則得成就現前三昧也。

(Kinh: Bốn là nếu lúc ăn, bèn bố thí đúng pháp. Chẳng cầu danh lợi, chẳng có tâm mong được báo đáp. Này Hiền Hộ! Đó gọi là Bồ Tát trọn đủ bốn pháp, sẽ được thành tựu hiện tiền tam-muội).

Nếu có thức ăn, nếu tạo tác nghiệp, đều tương ứng với pháp tắc, cho nên đừng tham đắm các mùi vị. Tôi thường nghe người kinh hành Ban Châu nói: “Ối trời! Còn đói quá đi! Lần sau ăn một bữa thật no”. Tu hành theo kiểu đó, sẽ có chướng ngại ngay trong hiện đời, tự mình xếp đặt chướng ngại.

“Bất cầu danh lợi, vô vọng báo tâm” (Chẳng cầu danh lợi, chẳng có tâm mong được báo đáp): Có người kinh hành Ban Châu vì để đạt được tướng mạo tốt đẹp, hay khí sắc tốt đẹp. Trong hành pháp này, mỗi bữa cơm bèn ăn nhiều hơn, ăn các thứ có chất dinh dưỡng, thứ này bổ, thứ kia bổ. Bổ tới, bổ lui để làm gì cơ chứ? [Có kẻ] kinh hành Ban Châu để người khác thấy mình dễ coi, có tinh thần, trang nghiêm, [đó là tu hành vì] ham cầu danh lợi hư giả, đánh mất sự thanh tịnh nơi tự tâm, chẳng thể tương ứng với pháp. Hiện thời, kẻ như thế này nhiều lắm: Trước khi đi kinh hành Ban Châu, chuẩn bị rất nhiều thứ bổ dưỡng, mong trong khi hành Ban Châu sẽ phấn chấn, tỏa sáng một phen. Đấy là chẳng tương ứng!

(Kinh) Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát, phục hữu tứ pháp, năng cụ túc hành, tắc đắc thành tựu hiện tiền tam-muội. Hà đẳng vi tứ? Nhất giả, khuyến tha kiến Phật.

()賢護菩薩摩訶薩復有四法能具足行則得成就現前三昧。何等爲四一者勸他見佛。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát lại có bốn pháp, nếu có thể hành trọn đủ, liền được thành tựu hiện tiền tam-muội. Những gì là bốn? Một là khuyên người khác thấy Phật).

Đừng xem nhẹ điều này! Khuyên người khác, sẽ chuốc lấy phiền não. Thường sẽ có nghĩa là: Quý vị thấy người này là đúng, kẻ kia là sai; đó là do khuyên người khác mà chuốc lấy phiền não. [Khuyên người khác trong pháp môn Tịnh Độ] là khiến cho người khác biết hết thảy các pháp rốt ráo chẳng có gì để đạt được, do nhân duyên mà sanh, chẳng có thực chất. Khiến cho kẻ khác thấy Phật, dù là trí huệ Pháp Thân Phật, hay Báo Thân Phật, đều có phương tiện. Đừng ô nhiễm tâm kẻ khác, đừng hủy diệt tự tâm, đối với chuyện kẻ khác thấy Phật, chẳng đắm nhiễm!

(Kinh) Nhị giả, giáo nhân thính pháp.

()二者教人聽法。

(Kinh: Hai là dạy người khác nghe pháp).

Khuyên người khác nghe pháp, quả thật là công đức chẳng thể nghĩ bàn và quả báo thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn. Phá hoại pháp duyên của người khác, diệt pháp nhãn của kẻ khác, chướng ngại cơ hội xuất ly của người khác, thật sự là đáng thương! Có lúc, chúng tôi khá đau lòng vì chuyện này: Đối với cơ hội học Phật của người tại gia hay xuất gia, người khi chưa thành thục vẫn khát vọng, mà kẻ gặp lúc cơ hội thành thục lại thường khinh mạn. Khinh mạn như thế chính là khinh mạn nhân duyên trong hiện tiền của chính mình! Hiện tiền trân quý nhất! Muốn cầu pháp thù thắng nơi khác, muốn cầu duyên thù thắng nơi khác, đúng là tâm trí thiếu sót, kém cỏi, chẳng biết phát tâm. Các vị thiện tri thức ơi! Hãy nên khéo quan sát!

(Kinh) Tam giả, tâm vô tật đố.

()三者心無嫉妒。

(Kinh: Ba là tâm chẳng ghen tỵ).

Ghen tỵ là gì? Đối với chuyện này, mọi người đều liễu giải khá dễ dàng! Tức là chẳng thích thấy người khác nổi bật, chẳng thích người khác tôn quý, chẳng thích người khác được vui sướng hơn mình, chẳng thích người khác có công đức. Đấy là tội ác trong thời Mạt Pháp. Tội ác phổ biến nhất của chúng ta trong thời đại này là thường chẳng có tâm tùy hỷ, thường bầu bạn với cái tâm đố kỵ. Tâm trí hẹp hòi, kém cỏi, chẳng có tâm vui mừng khi người khác được lợi. Do vậy, người như thế phải nên thường tu tâm tùy hỷ, tâm tán thán, tâm cúng dường, tâm cung kính, hòng có thể miễn trừ cái tâm ghen tỵ ấy. Ghen tỵ thì không gì chẳng ngoài hẹp hòi, không muốn người khác hơn mình, không gì chẳng ngoài xa lìa cung kính, tâm trí chẳng có lễ kính, tâm sanh kiêu mạn, chẳng ngoài [lý do] ít có lòng tùy hỷ, thường hay thấy lỗi của kẻ khác! Hễ kẻ nào dấy lòng ghen tỵ, sẽ nói chuyện rất khó nghe, rất dấm dẳng, rất hẹp hòi, giống như mây đen che phủ mặt trời, che phủ quang minh của cái tâm!

(Kinh) Tứ giả, khuyến tha phát Bồ Đề tâm. Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát cụ túc tứ pháp, tắc đắc thành tựu hiện tiền tam-muội dã.

()四者勸他發菩提心。賢護是爲菩薩具足四法則得成就現前三昧也。

(Kinh: Bốn là khuyên người khác phát Bồ Đề tâm. Này Hiền Hộ! Đấy là bốn pháp nếu Bồ Tát trọn đủ, sẽ được thành tựu hiện tiền tam-muội).

Càng trọng yếu hơn nữa! Nếu chính mình chẳng yêu thích Bồ Đề tâm, khi khuyên người khác phát Bồ Đề tâm, cũng sẽ được Bồ Đề tâm huân nhiễm, huân tập, bèn hướng tới và thủ hộ Bồ Đề tâm, thậm chí thành tựu [Bồ Đề tâm]. Do vậy, khuyên phát Bồ Đề tâm trọng yếu nhất. Dù khuyên chính mình phát, hay khuyên người khác phát, chuyện khuyên phát Bồ Đề tâm rất quan trọng!

(Kinh) Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát, phục hữu tứ pháp thành tựu tam-muội. Hà đẳng vi tứ? Nhất giả, tạo Phật hình tượng, khuyến hành cúng dường.

()賢護菩薩摩訶薩復有四法成就三昧。何等爲四一者造佛形像勸行供養。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát lại có bốn pháp thành tựu tam-muội. Những gì là bốn? Một là tạo Phật hình tượng, khuyên hành cúng dường).

Chẳng hạn như chúng ta trong mấy ngày ngắn ngủi học tập kinh Hiền Hộ này, mọi người đã không ngừng chăm bẵm trang nghiêm tượng Phật. Tuy chẳng phải là chuyện to lớn gì, nhưng nó thật sự có tác dụng. Quý vị chẳng tin, có thể vẽ một bức tượng vẽ, hoặc tưởng nhớ một bức tượng Phật, tạo nhân duyên nơi tượng Phật ấy, hãy có tâm tùy hỷ, cúng dường, tán thán cho nhiều, đương nhiên tốt nhất là dùng bức tượng nào khiến cho quý vị ưa thích nhất. Tượng nào có thể khiến cho người ta vui thích? Có người thì tượng vẽ trên vải thô đã có thể khiến cho người ấy hoan hỷ. Có người tượng rất tinh xảo mới có thể khiến cho người ấy hoan hỷ. Có người thì tượng phải rất oai đức trang nghiêm. Có người tượng rất trân quý mới có thể khiến cho người ấy hoan hỷ. Bất luận loại tượng nào, không gì chẳng nhằm đánh thức niềm hoan hỷ và trí huệ trong tâm linh của chúng ta. Vì thế, công đức tạo tượng chẳng thể nghĩ bàn, như trong kinh Địa Tạng đã nói tạo tượng Địa Tạng Vương có công đức như thế nào, có thể diệt tội Ngũ Vô Gián v.v… Tạo hết thảy các tượng Phật khác cũng giống như thế. Vì tạo tượng, ắt phải dụng tâm, từ cái tâm mà tạo tượng. Đó gọi là “duyên Phật thành Phật”, chúng ta tạo tượng Phật thì trong tâm có Phật. Chẳng có Phật thì tạo tượng để làm gì? Do vậy, công đức tạo tượng chẳng thể nghĩ bàn!

“Khuyến hành cúng dường”, tạo tượng để làm gì? Khiến cho hữu tình trong thế gian cúng dường các pho tượng, khiến cho chúng sanh vun trồng phước đức, hoặc sẽ như thật biết tự tâm, thành tựu lợi ích trong Phật pháp.

(Kinh) Nhị giả, thư tả thị kinh, linh tha độc tụng.

()二者書寫是經令他讀誦。

(Kinh: Hai là biên chép kinh này, khiến cho người khác đọc tụng).

Nay chúng ta in bản kinh này ra, lúc vừa mới từ Trầm Dương đưa tới chùa Bảo An, sau đó, đem hai ba bản đến đây, mọi người trông thấy rất hoan hỷ. Nhưng hiện thời đã có nhiều, tôi thấy kinh sách đặt khắp nơi, nhưng cũng chẳng có ai xem! Hễ có nhiều, tuy kinh sách là pháp bảo vô thượng, cũng chẳng cho là quý báu nữa! Vì trong quá trình chúng ta học tập lần này, đều là tùy ý mà ngồi, một là khá tự nhiên, hai là cũng khá thoải mái, nhưng khi mọi người bước ra, tốt nhất là đừng nên bước qua kinh điển, hãy đi nhiễu quanh sẽ tốt hơn! Đó là chuyện có ý nghĩa, nhất định phải chú ý một chút. Nếu không, bản thân chúng ta sẽ phạm lỗi khinh pháp!

(Kinh) Tam giả, mạn pháp chúng sanh, giáo linh phát tâm.

()三者慢法衆生教令發心。

 (Kinh: Ba là dạy kẻ khinh mạn pháp hãy phát tâm).

“Mạn pháp” là đối với pháp, chẳng sanh hoan hỷ. Ngày hôm qua, có mấy người công nhân quy y, tôi bảo họ: “Các vị kiếm được món tiền này có thể tiêu hết, nhưng nếu có thể đến quy y, học Phật, kết nhân duyên với Phật pháp, đúng là có ý nghĩa hơn kiếm tiền nhiều lắm. Lao động dựng nhà cửa cho đạo tràng, làm chút chuyện cho Tam Bảo, quý vị có phước đức và nhân duyên, nhưng trọng yếu nhất vẫn là Tam Quy Y. Vì có nhân duyên Tam Quy Y, sẽ có thể thật sự vào nhà Như Lai, thật sự có thể học Phật”. Chẳng biết bản thân nữ chúng trong Hằng Dương Am có sức chiêu cảm to cỡ nào mà ảnh hưởng khá nhiều công nhân đến học Phật. Chúng ta chẳng cần biết công nhân tốt hay xấu, tánh cách như thế nào, ăn gì, dùng gì, chẳng cần bận tâm, nhưng họ có thể đến quy y, điều ấy thật sự chẳng thể nghĩ bàn, đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Cảm động rất nhiều công nhân như thế đến học Phật, chuyện này có lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Lợi ích chẳng thể nghĩ bàn gì vậy? Khuyên kẻ chưa tin sanh lòng tin, chẳng thể nghĩ bàn! Khiến cho kẻ mạn pháp, kẻ chẳng biết pháp sanh lòng tin. Các vị thiện tri thức ơi! Chuyện này còn hơn dựng đạo tràng. Nếu một đạo tràng mà chẳng có ai đến tu tập pháp, đạo tràng ấy có ý nghĩa gì hay không? Dựng một vạn gian nhà mà chẳng có pháp tắc, chẳng có Phật pháp, chẳng tu tập Phật pháp, há có ý nghĩa gì chăng? Chúng ta chẳng tu tập, lại có ý nghĩa gì hay không? Nhưng có một người tới quy y, tùy thuận đạo tràng của ta, đó là cơ chế tu pháp thành thục. Vì thế, “mạn pháp chúng sanh, giáo linh phát tâm” (dạy cho chúng sanh khinh mạn pháp phát tâm) chính là pháp tắc huân tu cụ thể phải nên tu tập đối với chúng ta là những kẻ đang mong tu tập Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội trong lúc bình thời. Bốn pháp trong phần sau này khá dễ thực hiện, tạo tượng, cúng dường, biên chép, đọc tụng, khuyên người khinh mạn pháp phát Bồ Đề tâm, cho đến điều thứ tư kế tiếp là “hộ trì chánh pháp, linh đắc cửu trụ” (hộ trì chánh pháp, khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài).

(Kinh) Tứ giả, hộ trì chánh pháp, linh đắc cửu trụ.

()四者護持正法令得久住。

(Kinh: Bốn là hộ trì chánh pháp khiến cho tồn tại lâu dài).

Ai tới hộ trì? Chỗ nào có chánh pháp? Do một niệm thủ hộ tâm trí Bồ Đề của quý vị, duy trì đạo tràng, đạo tràng ấy sẽ có chánh pháp, quý vị đang thủ hộ chánh pháp. Chúng ta mê mất Bồ Đề tâm, lo gìn giữ mấy căn nhà, chăm bẵm mấy câu [xã giao] “chào ông, chào bà!” Đó là chẳng có chánh pháp, chẳng có chánh pháp để có thể đạt được! Chúng ta có thể thật sự thủ hộ tâm trí Bồ Đề của chính mình, duy trì đạo tràng, duy trì các hữu tình bên cạnh mình hay không? Có như thế thì quý vị mới thật sự là người thủ hộ chánh pháp, khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài [trong thế gian]. Ai đến trụ lâu dài? Vì sao Phật pháp có thể trụ lâu dài? Trụ ở nơi đâu? Dùng vào nơi đâu? Một niệm trong hiện tiền chọn lựa Bồ Đề tâm, chẳng sợ, chẳng hãi!

(Kinh) Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát cụ túc tứ pháp tắc, đắc thành tựu hiện tiền tam-muội dã.

()賢護是爲菩薩具足四法則得成就現前三昧也

(Kinh: Này Hiền Hộ! Đó là Bồ Tát trọn đủ bốn pháp tắc, sẽ được thành tựu hiện tiền tam-muội).

Đấy là các thứ pháp tắc bổ trợ Ban Châu tam-muội hiện tiền. Từ bốn pháp ấy, đức Thế Tôn tuyên nói các điều kiện trọn đủ. Các điều kiện ấy [thật ra] chẳng phải là điều kiện, chỉ là thọ dụng ở chỗ nào! Rất nhiều người nói: “Vì sao niệm Phật chẳng chứng tam-muội?” Đầu óc quý vị đầy ắp vọng tưởng, hành vi hư giả, làm sao có thể chứng tam-muội cho được? Tâm trí đắm nhiễm, hễ gặp chuyện liền nhiễm vào đúng, nhiễm vào sai, nhiễm vào thiện, nhiễm vào ác, làm sao có thể thấy chư Phật cho được? Chư Phật là đức tướng nơi tự tâm thanh tịnh, làm sao quý vị có thể thấy được? Do đó, tâm chẳng tự thấy Phật Lập Hiện Tiền. Hễ hiểu rõ tự tâm, do biết tự tâm thanh tịnh, sẽ được thấy chư Phật.

(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa, nhi thuyết kệ viết:

()爾時世尊爲重明此義而說偈曰

(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vì nêu tỏ nghĩa này lần nữa, bèn nói kệ rằng).

Sau phần Trường Hàng là Kệ Tụng; đây là cách thức thông thường trong kinh điển, nhất là kinh điển Đại Thừa. Kệ Tụng dùng các lời lẽ đơn giản, rõ ràng hơn để nhắc lại nghĩa ấy, khiến cho tâm trí của chúng ta sáng suốt.

(Kinh) Nhữ đẳng đương trụ Phật pháp trung, vật tàng chánh ngôn cập ngã pháp. Niệm cần, tinh tấn, trừ thụy cái, tam nguyệt bất tọa, duy kinh hành.

()汝等當住佛法中勿藏正言及我法。念勤精進除睡蓋三月不坐唯經行。

(Kinh: Các ông nên trụ trong Phật pháp, đừng giấu chánh ngôn và Phật pháp. Niệm siêng, tinh tấn, trừ ngủ nghỉ, ba tháng chẳng ngồi, chỉ kinh hành).

Hiện thời, trong nước có rất nhiều người hành pháp Ban Châu, nhưng có khi là có lạy, có ngồi, tuy mang tên là Ban Châu, nhưng là một thứ biến tướng của hành pháp Ban Châu. Nếu dựa theo kinh giáo để nói, phải nên là Thường Lập tam-muội (tam-muội thường đứng), tức là kinh hành chẳng lười nhác, chẳng ngồi, chẳng nằm. Đó chính là một yêu cầu cụ thể trong hành pháp Ban Châu tam-muội.

Có người nói “không cho ngồi xuống” thì quá tàn khốc, có thể cho người ấy nghỉ ngơi! Trong quá khứ, người hành pháp Ban Châu có đai treo, có thể treo mình vào đó để nghỉ ngơi dăm ba phút, đó gọi là “nghỉ ngơi mà chẳng nghỉ ngơi”, vì chẳng thể ám thị chính mình nghỉ ngơi, có thể tạm dừng [kinh hành] một lát. Có khi, hễ cái tâm được ám thị, sẽ nẩy sanh kết quả nghỉ ngơi, sẽ kéo dài thời gian hôn trầm và mê mất. Do vậy, khi thân thể đã đạt đến cực hạn, có thể chuyển mình đến chỗ treo thân thể một chốc, thư giãn một chút cho thân thể khỏi hư nhược, nhưng chớ nên ám thị chính mình nghỉ ngơi!

Hành pháp này lấy “không nghỉ ngơi” làm chuẩn tắc, vừa khéo là nhân loại chúng ta vẫn chưa dám vượt qua vấn đề nghỉ ngơi này. Nghỉ ngơi là sự điều chỉnh nẩy sanh trong tâm trí đối đãi, có thể nghĩ bàn của chúng ta đối với sự mệt nhọc, mà cũng là quá trình điều chỉnh đối đãi. Chẳng nghỉ ngơi chính là trạng thái chẳng tạo tác, an phận, thuộc về bổn phận. Do vậy, trong khi trao đổi về hành pháp Ban Châu, chuyện được bàn luận nhiều nhất là những thứ được tạo thành bởi nghỉ ngơi và phiền não. Cái được gọi là “phiền não” tức là vì đói bụng, mệt nhọc, nhọc nhằn chẳng thể khống chế được mà tạo thành khổ não. Một điều khác là “ám thị nghỉ ngơi”, chẳng hạn như tự nhủ: “Ôi trời ơi! Người khác chẳng ở đây, ta nghỉ một chút thôi!” Thật sự là lừa mình, dối người. “Dối” tức là ảnh hưởng tới lợi ích chân thật nơi hành pháp Ban Châu của chính mình, tức lợi ích của Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập [tam-muội]. Quý vị lãng phí thời gian của chính mình. Nhưng trong tâm trí của bọn phàm phu chúng ta, thường là khó thể lựa chọn. Hễ nhắc đến vấn đề “không nghỉ ngơi”, sẽ sanh tâm sợ hãi, vì từ lâu đã có sự so sánh đối đãi giữa siêng khổ tạo tác và nghỉ ngơi, cho nên muốn cho một người không nghỉ ngơi rất khó! Thật ra, thường là khi chúng ta thật sự lựa chọn một chuyện, rất có thể là chẳng có ý niệm “không nghỉ ngơi”. “Nghỉ ngơi” là một loại tri kiến, tức là một loại tri kiến đối đãi khiến cho chính mình mù quáng, mà cũng là phương pháp cân bằng tâm lý của chính mình nẩy sanh trong tâm trí tư duy của thường nhân đó thôi. Nó chẳng thật, vì hết thảy các pháp chẳng có tự tánh. Trong pháp nghỉ ngơi ấy, há có gì là tự tánh?

(Kinh) Thực thời quảng thuyết nhi thí tha, tuyên dương chư Phật vô tỷ pháp.

()食時廣說而施他宣揚諸佛無比法。

(Kinh: Khi ăn, rộng nói thí kẻ khác, tuyên dương pháp chư Phật khôn sánh).

Khi chúng ta hành trì như pháp, nói “như pháp” chính là khởi tâm động niệm của chính mình trong mỗi thời khắc, ngay cả trong lúc ăn uống, cũng đều chẳng lãng quên pháp tắc. Hiện thời, trong thời khóa, dẫu chỉ cho nghỉ mười phút, rất nhiều người sẽ đều buông lung trong chốc lát. “Buông lung” là như thế nào? Tán hoại sự duy trì học Phật và học pháp của chính mình, ngay lập tức tán gẫu, nói những chuyện chẳng liên can. Thứ này hay, thứ kia dở ngay lập tức xuất hiện! Trong thời gian mười phút, luôn tận lực lợi dụng mọi cơ hội để gieo mình vào thế tục, dấn thân vào tạp duyên, huống hồ còn sa đà vào đó! Trước kia, tôi gặp một số vị sư phụ xuất gia, hoặc cư sĩ, trong lúc tu tập, hễ có thời gian liền ngủ. Tôi hỏi vì sao phải ngủ như thế? Họ nói chẳng được nghỉ ngơi! Dùng toàn bộ thời gian rảnh rỗi để ngủ, nhưng có thể nghỉ ngơi hay không? Bất quá là một thứ ám thị và cân bằng tâm lý đó thôi! Nếu như vậy mà có thể nghỉ ngơi thật sự, chúng ta sẽ ngủ cả vạn năm! Như thế thì thật sự có ý nghĩa hay không? Các vị thiện tri thức ơi! Chớ nên tự dối gạt mình!

(Kinh) Bất cầu danh văn cập lợi dưỡng, vô sở trước cố đắc thử Thiền.

()不求名聞及利養無所著故得此禪。

(Kinh: Chẳng cầu tiếng tăm và lợi dưỡng, do chẳng chấp trước đắc Thiền này).

“Bất cầu danh văn cập lợi dưỡng” (Chẳng cầu tiếng tăm và lợi dưỡng): Trong hành pháp Ban Châu, tiếng tăm và lợi dưỡng là mối nguy hại to lớn tột bậc cho cái tâm. Đọa lạc trong ấy, bị tổn hại trong tình huống ấy, khá dễ nẩy sanh. Vì sao vậy? Pháp ấy mạnh mẽ, có sức nối kết mạnh mẽ! Hễ chẳng chú ý đôi chút, tâm mạn, tâm kiêu sẽ sanh khởi, gây chướng ngại cho mình lẫn người. Nhưng nếu là cái tâm lợi tha, tâm chẳng vì lợi dưỡng, ắt sẽ được thân tâm điều phục, mềm mỏng, trọn đủ bi và trí.

“Vô sở trước cố, đắc thử Thiền” (Do chẳng chấp trước nên đạt được môn Thiền này): Lợi ích thật sự của pháp này chính là lưu xuất quang minh và thiện xảo từ tâm trí tịch diệt.

(Kinh) Mạc sanh tật đố cập sân khuể, đương tư giải thoát chư dục tâm. Nhạo thử tam-muội cầu trụ giả, cần niệm vô giải nhĩ nãi đắc. Kim sắc bách phước trang nghiêm tướng, đoan chánh viên mãn nhược hoa vinh.

()莫生嫉妒及瞋恚當思解脫諸欲心。樂此三昧求住者勤念無懈爾乃得。金色百福莊嚴相端正圓滿若華榮。

(Kinh: Đừng sanh ghen tỵ và nóng giận, hãy nghĩ giải thoát các dục tâm. Ưa thích, cầu trụ tam-muội này, siêng niệm, chẳng lười, bèn đạt được. Tướng sắc vàng trăm phước trang nghiêm, đoan chánh, viên mãn, đẹp rạng rỡ).

Đấy là tỷ dụ tướng của đức Thế Tôn.

(Kinh) Thế gian nhạo kiến quang minh thể, thường đổ chư Phật tại hiện tiền.

()世間樂見光明體常睹諸佛在現前。

(Kinh: Thế gian ưa thấy thể quang minh, thường thấy chư Phật đang hiện tiền).

Niệm tướng hảo của Phật chính là phương tiện tu trì để quán sắc tướng. Trước kia, tôi đã theo một vài vị thiện tri thức học phương pháp như vậy, rất dễ thấy Phật tướng, rất dễ dàng, tột bậc dễ dàng! Nhưng rất nhiều người tu theo pháp ấy lại cho là rất khó, chẳng biết vì sao? Do vấn đề trong khái niệm, hay là có vấn đề về tri kiến? Hay là vấn đề về nhân duyên? Chẳng hạn như muốn quán tướng của Như Lai, quý vị đảnh lễ một trăm lẻ tám lần, tướng ấy sẽ hiện tiền. Chỉ cần quý vị cung kính, từ đầu đến cuối đều như nhau, liên tục lễ bái. Không tin thì chúng ta có thể thí nghiệm. Đối trước một bức tượng khá đúng pháp, trang nghiêm, quý vị hãy như thật lễ bái, ca ngợi. Cũng có nghĩa là trong khi lễ bái, trong tâm thốt lên lời ca ngợi, cho đến nói ra miệng cũng được. Khi lễ A Di Đà Phật, niệm Nam-mô A Di Đà Phật cũng được, hoặc lạy Dược Sư Phật, niệm Dược Sư Phật. Lạy vị Phật nào, niệm vị Phật đó, chỉ cần quý vị nhất quán từ đầu đến cuối, hoặc bốn mươi chín lần, hoặc hai mươi mốt lần, thậm chí bảy lần. Nếu là người siêng ròng, người thủ hộ thì cũng được thấy. “Được thấy” chính là thấy mà như chẳng thấy; đó chính là “được thấy”.

Thấy Phật chẳng khó, giống như chúng ta thấy các vật khác. Sự vật đều do tâm mà hiện. Các thứ khác dễ thấy, vì sao chẳng dễ thấy Phật? Trong tâm chúng ta có sợ hãi, trong tâm có khoảng cách, trong tâm chẳng có sự liên tục. Mọi người có thể thí nghiệm nhé! Hãy tìm một bức tượng Phật mà quý vị ưa thích nhất. Trong hoàn cảnh đơn giản nhất (tức là chỉ xếp đặt một nơi chỉ thờ bức tượng ấy), liên tục lễ một trăm lẻ tám lạy. Quý vị nghiêm túc lễ bái, ca ngợi, cúng dường vị Phật ấy, có thể làm như thế đó. Tôi đã gặp rất nhiều người nói: “Ôi chao! Tôi niệm Phật đã nhiều năm ngần ấy, chẳng thấy Phật lần nào cả!” Quý vị chẳng có tí xíu tâm cổ vũ nào, một tí tâm tiếp nối (tâm liên tục nghĩ tưởng Phật) cũng chẳng có, một tí tâm ca ngợi cũng chẳng có luôn! Như thế thì làm sao có thể hữu dụng cho được? Nêu một thí dụ đơn giản nhất, tôi chẳng khen ngợi mình, mà cũng chẳng phỉ báng mình. Nếu tôi thấy diệu tướng của Phật, chỗ gia trì trong công đức do thấy Phật là tuyệt đối chẳng tiếc nuối bất cứ vật gì để cúng dường. Lúc tôi nghèo túng nhất, thật sự là áo đang mặc cũng cởi ra để cúng dường Phật. Ở đây chẳng phải là nói hư giả, tuyệt đối chẳng có bất cứ do dự nào! Đó chẳng phải là vấn đề có thiện căn hay không, mà là quý vị có tâm trí vui thích, ngưỡng mộ, thủ hộ, cúng dường như thế hay không? Nếu chẳng có tâm trí ấy, làm sao quý vị thấy Phật cho được? Nếu quý vị gặp Phật mà còn suy nghĩ tính trù trừ: “Con cúng dường Ngài có thích đáng hay không? Con lễ Ngài có hợp lẽ hay không?” [Nếu cứ băn khoăn, so đo như thế], làm sao có thể thấy Phật cho nổi?

Thấy Phật chẳng khó, chỉ do tâm hiện. Cái tâm thành kính, liên tục, nhất định sẽ trông thấy. Đó chẳng phải là nói cao minh đâu nhé! Như trong phần văn tự thuộc phần trước đã nói, tâm chẳng thể tự thấy, cho nên Như Lai chính là tâm ta! Vì cớ sao vậy? Tâm làm Phật, tâm là Phật. Vì sao chúng ta có thể thấy chúng sanh tướng, mà chẳng thể thấy Phật tướng? Trên thực tế, có bất cứ chúng sanh tướng nào chẳng phải là Phật tướng ư? Tất cả các tướng mà ta được thấy và Phật tướng lại có gì khác biệt? Chỉ do tâm hiện, chẳng có chút nào khác biệt! Nhưng chúng ta có thể thấy chúng sanh tướng, vì sao chẳng thể thấy Phật tướng? Có thể thấy các thứ tướng tạp uế, tướng đắm nhiễm, tướng điên đảo, vì sao chẳng thể thấy Phật tướng? Chư vị thiện tri thức ơi! Nhất định phải cổ vũ, khích lệ chính mình, hãy tu tập pháp tắc ở đây! Nếu quý vị chẳng tu tập, cứ lo nghe kẻ khác nói cho lắm vào, nói chung là chẳng thể tương ứng!

Trước kia, có một lần tôi nói: “Tối hôm nay tôi niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Nếu chẳng được trông thấy, tôi sẽ nhảy lầu”. Bức bách chính mình một phen! Vì sao? Nay ác báo của tôi đã chín muồi. Chẳng thấy Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ chẳng thể tiêu trừ nghiệp duyên ấy, hoặc là chết phứt đi, hoặc thấy Quán Âm. Niệm Quán Thế Âm Bồ Tát một hơi hai tiếng đồng hồ như thế, Quán Thế Âm liền thuận theo cơ nghi mà hiện tướng. Chẳng phải là nói tôi hay ho gì, mà là cách vận dụng mạnh mẽ! Nếu tâm trí của quý vị chẳng có khát vọng như thế, làm sao có thể thấy cho được? Tôi nêu ra thí dụ này, chẳng nhằm nêu ra pháp tắc ấy [để xúi giục quý vị làm theo cách cực đoan ấy], mà có ý nói: Quý vị nhất định phải khích lệ chính mình, [đặt mình vào hoàn cảnh] chẳng còn có đường lui! Nếu quý vị còn có đường lui, làm sao có thể thấy Phật cho được? Quý vị có đường lui, sẽ thấy tạp duyên và tạp nghiệp trong hiện tiền của chính mình.

Người học Phật hiện thời có quá nhiều đường lui, không chỉ là một con đường lui, mà chắc là có cả tám trăm con đường lui! Vậy thì sẽ chẳng thể thấy Phật được! Chẳng sanh quyết định đối với pháp mà! Tôi kể với mọi người chuyện này, chẳng phải là cổ vũ mọi người làm giống như tôi, mà là nêu một thí dụ cho quý vị. Thật ra, chuyện tôi làm chẳng có ý nghĩa thực chất, cũng chẳng phải là tôi khoe khoang nguyện vọng của chính mình. Chuyện đó cũng chẳng có ý nghĩa chi hết, bởi lẽ ai cũng đều có thể làm được! Ai nấy đều làm như vậy, pháp tắc bình đẳng, chân thật mà!

[1] “Lãnh thủy phao thạch đầu” (冷水泡石頭, nước lạnh ngâm tảng đá) là thuật ngữ của Thiền Tông nhằm đả phá cách tu hành sai lầm, chấp trước. Thiền sư Thánh Nghiêm đã giải thích như sau: “Thiền Tông có một thuật ngữ gọi là ‘nước lạnh ngâm tảng đá’. Nếu dùng nước lạnh ngâm đậu, đậu sẽ có thể dấy lên biến hóa, nhưng dùng nước lạnh ngâm tảng đá cả trăm năm, cả ngàn năm, cả vạn năm, nước lạnh vẫn là nước lạnh, đá vẫn là đá. Do vậy, dùng Thiền pháp Khán Thoại Đầu để tu hành, chẳng phải là giữ cho tâm không có gì, mà là trong tâm chỉ có một câu thoại đầu” (trích từ ngữ tắc 123 trong bộ Thánh Nghiêm Pháp Sư Giáo Thoại Đầu Thiền).

[2] Thành ngữ này phát xuất từ một câu chuyện trong sách Thế Thuyết Tân Ngữ, chương Giả Duật: “Ngụy Vũ hành dịch, thất cấp đạo, quân giai khát, nãi lệnh viết: Tiền hữu đại mai lâm, nhiêu tử, cam toan, khả dĩ giải khát. Sĩ tốt văn chi, khẩu giai xuất thủy, thừa thử đắc cập tiền nguyên” (Ngụy Vũ Đế (Tào Tháo) hành quân gấp rút, quân sĩ đều khát nước, liền truyền lệnh: ‘Phía trước có rừng mai to, lắm trái, vừa chua vừa ngọt có thể giải khát’. Quân lính nghe nói đều chảy nước miếng, nhờ đó [đỡ khát] mà đến được chỗ có nguồn nước). Về sau, từ ngữ lại có một ý nghĩa mở rộng mang dụng ý phê phán những kẻ mơ tưởng dùng giải pháp viễn vông để giải quyết vấn đề cấp bách trước mắt.

[3] Biến Tướng Đồ (變相圖, Vikurvaṇa-ṛddhi) còn gọi là Biến Hội, hoặc đơn giản là Biến, hàm nghĩa mô tả sự biến hóa do thần thông của Phật, Bồ Tát. Biến Tướng Đồ tức là dùng hội họa, hoặc tranh thêu, tranh khắc để mô tả các sự kiện (như Cát Nhục Thí Ưng Đồ mô tả sự kiện Phật Thích Ca lúc còn tu nhân đã cắt thịt thí cho chim ưng để cứu con bồ câu), hoặc mô tả hình tướng, sự trang nghiêm của Phật, Bồ Tát (như A Di Đà Phật Trang Nghiêm Đồ), hoặc các cảnh giới đáng sợ hoặc đẹp đẽ hòng răn nhắc tín đồ tu tập như Địa Ngục Biến Tướng Đồ, Tịnh Độ Biến Tướng Đồ (chẳng hạn như Tây Phương Tam Thánh Lai Nghênh Đồ, Cửu Phẩm Vãng Sanh Đồ), hoặc thể hiện vũ trụ quan như Hoa Nghiêm Pháp Giới An Lập Đồ…

[4] Ý nói đạt được lợi ích nhưng chẳng thể giữ cho lợi ích ấy tồn tại liên tục, toàn là “lúc có, lúc không”.

[5] Nói “bổn vị” ở đây có thể hiểu theo nhiều hàm nghĩa: Tận hết trách nhiệm thuộc bổn phận của mình như tổ Ấn Quang thường dạy “đôn luân, tận phận”. Đó là hiểu theo nghĩa lý thế gian. Còn nói rộng hơn theo pháp xuất thế gian thì phải nhận biết mỗi người chúng ta đều có Phật tánh, ai nấy đều là Phật trong vị lai, hãy tu tập sao cho chẳng cô phụ vị Phật sẵn có trong tâm tánh của chính mình.