Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh
giảng ký 1
大方等大集賢護經講記
慈法法師
Chủ giảng: Pháp sư Từ Pháp
Địa điểm: Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang
(Kinh) Vân hà đương đắc vô biên tán thán công đức, vi nhất thiết chúng sanh phước điền cố?
(經)云何當得無邊讚歎功德,爲一切衆生福田故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ được tán thán công đức vô biên, là ruộng phước của hết thảy chúng sanh?)
Ở đây, trực tiếp chọn lựa cho chúng ta ngay lập tức tu hành hạnh Ban Châu, Giáo ngôn của Phật Di Đà xưa lẫn nay đều là an lập thanh tịnh. “Vô biên tán thán công đức” (Tán thán công đức vô biên), chúng ta biết: Trong tu nhân thuộc về Ngũ Niệm Môn của Tịnh Độ [được nêu ra trong Vãng Sanh Luận], môn tu trì thứ hai là Tán Thán Môn, [tức là] tán dương quang minh và danh hiệu A Di Đà Phật, tán thán đúng như thật. Vì cớ sao? Khi chúng ta xưng niệm Nam-mô A Di Đà Phật, tức là quang minh chiếu rạng thế gian, chiếu rạng pháp giới, chiếu rạng hết thảy phàm thánh hữu tình, tức hữu tình trong chín pháp giới, chân thật chẳng dối. Do đại quang minh chiếu trọn khắp, cho nên đấy thật sự là tán thán công đức của Phật. Một mực xưng niệm, đạt được thiện xảo do công đức tán thán Phật. Vì danh hiệu ấy có lợi ích, có thể nhiếp trọn khắp chín pháp giới trong mười phương đều tiến nhập Vô Thượng Bồ Đề. Đấy là chỗ công đức chân thật, mà cũng có nghĩa là quang minh và danh hiệu của A Di Đà Phật trọn đủ vô lượng quang minh, vô lượng thiện xảo, vô lượng công đức và trí huệ. Phàm phu chẳng thể tán thán như thế, phải cậy vào Phật lực và Phật nguyện để thuận theo mà tán thán. Chư Phật Như Lai, Phật và Phật cùng tán thán, phàm phu thuận theo công đức của Phật, nương theo danh tướng để tán thán.
Khi chúng ta xưng tán bảo hiệu công đức thù thắng của A Di Đà Phật, sẽ có thể làm phước điền xuất thế và nhập thế thật sự cho hết thảy chúng sanh. Thường có kẻ nói: “Ôi chao! Phước điền nhập thế tôi không tin! Xuất thế phước điền chắc cũng có cơ hội gặp gỡ”. Chẳng hạn như tôi gặp một vị lão nhân gia, vì người khác nói “niệm Phật có thể phát tài”, khẳng định đấy là phước điền nhập thế, ông ta rất tin tưởng. Do vậy, bèn mua một quyển vở, rất nghiêm túc, cứ niệm một câu bèn ghi một vạch. Niệm đến mười vạn tiếng, vạch được mười vạn dấu. Sau khi đã đánh dấu xong, chờ phát tài sẽ xảy ra. Kết quả, chẳng thấy phát tài đưa tới, tìm tôi, hung hăng nói: “Phật pháp gạt người! Ông X… nói niệm Phật có đại phước báo. Tôi niệm mười vạn tiếng, một xu cũng chẳng thấy!” Người ấy có đại phước báo, vì sao? Nói thành thật, quả báo trong đời vị lai sẽ chẳng thể nghĩ bàn! Do nhân duyên vô minh, ông ta niệm mười vạn câu danh hiệu A Di Đà Phật, có công đức thù thắng. Tuy là cầu phước; trong vị lai, phước báo chắc chắn chín muồi. Cho nên nói phước đức và nhân duyên của người ấy trong vị lai sẽ là chẳng thể nghĩ bàn, nhưng hiện thời, Dị Thục Quả chưa thể chín muồi. Tôi rất tán thán ông ta, nói: “Ông tuyệt lắm. Ông đã tích cóp mười vạn đồng khéo lắm, kẻ khác chẳng lấy được! Bỏ trong ngân hàng, có khi còn có thể xảy ra chuyện! Bỏ trong ấy (trong tạng thức), sẽ chẳng lấy ra được. Món của cải ấy đời đời kiếp kiếp đều theo sát ông”.
Các vị thiện tri thức ơi! Quý vị nhất định phải thực hiện. Lời ấy chính là lời nói thành thật về nhân quả, nhân quả chẳng lừa dối. Nhân quả sanh khởi từ trong cái tâm của chính mình. Kẻ nào chỉ hướng tới phát tài, tuy hiện tại chẳng có nhân quả như vậy, nhưng Phật là đấng Nhất Thiết Trí, là đấng có đại bi thiện xảo, là đấng thỏa mãn nhu cầu của hết thảy chúng sanh, đều là Dị Thục Quả sẽ chín muồi đó thôi! Đời này chưa đạt được. Nếu đời này mà đạt được, kẻ đó sẽ trở thành cường đạo. A Di Đà Phật trở thành lưỡi đao của kẻ cường đạo! Đó là chẳng tương ứng với Phật pháp, lầm lạc nhân quả. Do đó, trong nhập thế, nhập thế thiện xảo có nhân quả tuần hoàn, có quá trình chín muồi, chẳng phải là nhân quả đồng thời. Thiện xảo xuất thế gian là nhân quả đồng thời, chẳng hạn như nói: “Chúng ta niệm một câu A Di Đà Phật có thể tiêu trừ phiền não”. Quý vị lập tức nhận biết, có thể tiêu trừ phiền não, chân thật chẳng dối! Nói “lập tức trọn đủ”, quý vị có thể lập tức trọn đủ, chân thật chẳng dối! Nói “ta niệm một câu A Di Đà Phật, trong tương lai, nhất định thành Bồ Đề”, liền niệm một câu; quý vị hãy an tâm, có bảo đảm, đừng nên sợ hãi. Sợ hãi chỉ là vì quý vị có lo ngại. Nhân quả ấy nhất định chín muồi, như chủng tử kim cang Bồ Đề, vĩnh viễn chẳng bị tan hoại!
“Vi nhất thiết chúng sanh phước điền cố” (Làm ruộng phước cho hết thảy chúng sanh): “Hết thảy chúng sanh” bao gồm thánh đạo chúng sanh, thiện đạo chúng sanh, và ác đạo chúng sanh. Một câu Phật hiệu đối với họ đều là phước điền. Trong hành trì Ban Châu, chúng ta trọn đủ thiện xảo như vậy. Tôi còn chưa từng nghe nói có ai hành Ban Châu mà bị tổn hại, kẻ hối hận [bỏ cuộc] thì có, nhưng kẻ chịu thua thiệt [do hành trì Ban Châu] thì chẳng có; vì đó là phước điền của xuất thế và nhập thế. Vì sao có kẻ sau đó hối hận? Có kẻ đâm ra hối hận vì đi riết đau chân, đau lưng, [bèn nghĩ ngợi] “hãy nên nghỉ sớm hơn một chút cho rồi!” Người như thế trong vạn người chẳng có một. Phần lớn mọi người đều sanh khởi ý tưởng phước điền, sanh ý lạc tưởng, có ý tưởng mong tiếp tục hành trì. Tôi đã gặp rất nhiều người chưa học Phật sau khi hành Ban Châu, quả thật đã rất nhanh chóng học Phật, thật sự thâm nhập Phật pháp! Đã tu hành hay không, rốt ráo đều thành tựu, nhưng điều then chốt là phải dấn mình tu tập. Có kẻ vận dụng tri kiến chẳng tốt đẹp, như lão nhân gia [niệm Phật cầu phát tài] tôi vừa mới nêu. Ông ta chẳng đạt được lợi ích trong hiện tại, sanh khởi các phiền não. Nếu ông ta biết đạo lý này, thiện xảo và lợi ích tất nhiên sẽ hiện tiền.
(Kinh) Vân hà đương đắc đại hoan hỷ, dũng dược vô lượng, thường tại chư Như Lai sư tử tòa hạ cố?
(經)云何當得大歡喜,踊躍無量,常在諸如來獅子座下故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ được vô lượng hoan hỷ, hớn hở to lớn, do thường ở dưới tòa sư tử của Như Lai?)
“Hoan hỷ dũng dược” (Vui mừng, hớn hở): Mừng rỡ tràn ngập trong tâm. Chắc là các Bồ Tát có thể hành pháp Ban Châu đều nhận biết loại cảm thọ này. Tuy cảm thọ là vô thường, thay đổi, nhưng dẫu sao nó mang đến cho người ta sự hoan hỷ, mang lại niềm vui sướng chẳng thể nghĩ bàn, mang lại niềm vui sướng chẳng thể thay thế được, mang đến niềm vui sướng tăng thượng. “Dũng dược vô lượng” (Hớn hở vô lượng): Hành Ban Châu đích xác là có thể khiến cho chúng ta buông xuống gánh nặng từ vô thỉ tới nay, đích xác là có lợi ích như thế đó.
“Thường tại chư Như Lai sư tử tòa hạ” (Thường ở dưới tòa sư tử của các đức Như Lai): Nếu là chứng đắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập tam-muội, đó sẽ là nói như thật. Nếu chưa chứng đắc, đấy cũng là nói như thật. Thực tế là hết thảy chư Phật chưa hề lìa bỏ bọn chúng ta, thường chiếu rạng chúng ta, nhiếp thọ chúng ta trọn khắp. Vì sao chúng ta chẳng thể thấy nghe? Chính là vì tham, sân, si, mạn, nghi che lấp tự tâm, che lấp nhục nhãn của chính mình, che lấp thiên nhãn của chính mình, che lấp pháp nhãn của chính mình, che lấp Phật nhãn của chính mình, cho nên chỉ thấy tham, sân, si, mạn, nghi trước mắt, bị chiếc lá che mắt.
Nói theo pháp ích, “chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai” (các tướng chẳng phải là tướng, liền thấy Như Lai), trông thấy Pháp Thân Như Lai chẳng thể nghĩ bàn! Quý vị nói xem, ta muốn thấy Báo Thân của Như Lai, Ứng Hóa Thân của Như Lai, thấy tướng quang minh, thấy sắc thân trọn đủ của Như Lai, có được hay không? Pháp Ban Châu giải quyết vấn đề ấy. Công đức rất sâu của kinh Ban Châu Tam Muội là ở ngay chỗ này, khác biệt với các kinh điển khác cũng ở ngay chỗ này. Rất ít kinh điển đề ra pháp tắc như thế, khiến cho hữu tình thấy trong hiện tiền, thấy trong Định, thấy trong mộng, thấy rốt ráo trong vị lai, đủ loại trông thấy, nhất định thấy Phật. Công đức ấy rộng lớn trọn khắp, chân thật chẳng dối.
Trong Thiện Đạo Đại Sư Toàn Tập, có một câu chuyện như thế này: Thuở đức Phật tại thế, có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni nghiệp duyên sâu nặng, có ưu-bà-tắc, ưu-bà-di nghiệp duyên sâu nặng, có những kẻ phá giới, phạm giới nghiệp duyên sâu nặng, khi họ thấy đức Thế Tôn, có người thấy Ngài là một vị tỳ-kheo cao năm thước, mặt vàng, có người thấy hình dạng Ngài như than đen, nhưng A La Hán thấy đức Thế Tôn là kim thân cao trượng sáu, chư đại Bồ Tát thấy Phật là thân vi tế diệu sắc cao ngàn trượng, Pháp Thân đại sĩ có thể thấy thân Phật thù thắng trang nghiêm vô biên quang. Chúng ta thấy thân gì?
(Kinh) Vân hà đương đắc thắng thượng biện tài, năng vấn nhất thiết Phật pháp cố?
(經)云何當得勝上辯才,能問一切佛法故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ đạt được biện tài thù thắng bậc thượng, có thể hỏi hết thảy Phật pháp?)
“Thắng thượng biện tài”: Nếu hành pháp có thể thâm nhập, thì sẽ có ý nghĩa. Nếu hành pháp chẳng thể thâm nhập, chỉ là nói suông, cũng dẫn đến phiền toái. Chúng ta vốn là người đất Hán, có thể nói là “hiểu đạo”. Cho nên biện tài rất khéo, có thể phá trừ nghi hoặc cho người khác, thì là thiện xảo. Nếu tăng thêm tri kiến [chấp trước] cho người khác, sẽ là lầm lỗi. Nếu có thể tăng thêm chánh tri kiến cho người khác, thì là thiện xảo. Nếu tăng thêm vốn liếng cho người ta tranh cãi thì sẽ là lầm lỗi. Nếu chúng ta khéo biện định, nhận biết, sẽ “năng vấn nhất thiết Phật pháp” (có thể hỏi hết thảy Phật pháp). Trong hành trì Ban Châu, người tâm căn nhạy bén, thân căn nhạy bén, nhận biết nhạy bén, cho nên có thể hỏi rất nhiều câu nhạy bén. Đương nhiên hành Ban Châu thì vẫn thật sự mong mỏi mọi người hành nhiều, nói ít!
(Kinh) Vân hà đương đắc ý bất khiếp nọa biện tài, ư nhất thiết đại chúng trung vô bố úy cố?
(經)云何當得意不怯懦辯才,於一切大衆中無怖畏故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ đạt được biện tài, ý chẳng hèn nhát, ở trong hết thảy đại chúng chẳng sợ hãi?)
Chẳng hạn như giảng pháp ở đây, sợ hãi là không được, hèn nhát cũng chẳng được, vì có người sẽ chất vấn [những điều pháp sư hay giảng sư vừa nói]. Nếu đối với pháp mà có chướng ngại, chẳng thể tiếp tục duy trì, điều họ chất vấn sẽ trở thành sự thật, quý vị sẽ sợ hãi. Như thế nào thì chúng ta mới có thể ở trong đại chúng biện tài chẳng sợ hãi, khiến cho chúng sanh trừ nghi hoặc, chẳng sợ hãi, trao đổi Phật pháp chẳng sợ hãi? Hành Ban Châu là phương pháp tốt nhất, trực tiếp nhất.
(Kinh) Vân hà đương đắc nhất thiết luận nghị biện, như sư tử vương, hàng phục nhất thiết ngoại đạo, nhiếp thọ chư dị luận sư cố?
(經)云何當得一切論議辯,如獅子王,降伏一切外道,攝受諸異論師故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ được hết thảy luận nghị biện tài như sư tử chúa, hàng phục hết thảy ngoại đạo, nhiếp thọ các dị luận sư?)
Đấy là đề cao hành pháp Ban Châu đến tột cùng trong pháp môn Tịnh Độ. Sau khi đã kinh hành Ban Châu một khoảng thời gian, khi tâm trí thanh lương, cùng người khác biện luận, sẽ chẳng có chướng ngại. Trừ phi nêu ra tri kiến của chính mình, chứ nếu bàn về tri kiến của chư Phật, sẽ chẳng chướng ngại tí nào! “Đắc nhất thiết luận nghị biện, như sư tử vương, hàng phục nhất thiết ngoại đạo, nhiếp thọ chư dị luận sư cố” (Đạt được hết thảy luận nghị biện tài như sư tử chúa hàng phục hết thảy ngoại đạo, nhiếp thọ các dị luận sư): “Dị luận sư” có thể rất nhiều, đối với sự nhận thức về nội giáo và ngoại giáo, chúng ta đều có thể biết. “Biện” ở đây chẳng phải là phỉ báng pháp ấy, mà là nhiếp thọ loài hữu tình ấy, khiến cho họ tin phục pháp tắc.
Trước kia, Thiện Đạo đại sư thường đến tự viện của Tam Giai Giáo[1] để biện luận, vì giáo lý của Tam Giai Giáo phản đối niệm Phật. Tam Giai Giáo rất hưng thịnh vào đời Tùy – Đường, nó yêu cầu chịu khổ, có những yêu cầu riêng biệt như mặc xiêm không dài quá đầu gối, không ăn hơn một bữa v.v… Về sau, bị quốc gia ngăn cấm, nhưng giáo nghĩa của họ rất kiên cố, ảnh hưởng kéo dài cho đến hiện thời. Chẳng thể nói Tam Giai Giáo là tốt hay xấu, chỉ có thể nói là một thứ giáo nghĩa. Giáo nghĩa ấy được truyền bá sớm nhất tại chùa Bạch Tháp ở Tây An (Trường An), cực thịnh một thời, cũng có oai đức rất lớn, nhưng họ phản đối niệm Phật, Thiện Đạo đại sư phải đến biện luận. Khi Thiện Đạo đại sư biện luận cùng kẻ khác, miệng phóng quang minh, chúng ta nhả ra thứ gì? Chẳng phun ra lời thô ác là được rồi! Chẳng phun lời trái pháp, chẳng tổn thương người khác là đã rất tốt rồi! Vì sao Thiện Đạo đại sư có vô ngại biện tài như vậy? Do Ngài niệm Phật! Sách sử đã ghi chép rất nhiều về Thiện Đạo đại sư. Ngài không chỉ hành Ban Châu, mà còn trong lúc bình thường, hễ đến chánh điện, bèn quỳ trước Phật, chắp tay, niệm đến tâm kiệt lực suy mới chịu nghỉ ngơi. Bọn hậu nhân chúng ta làm sao sánh bằng Ngài cho được? Ngài là bậc đã chứng tam-muội, mà còn hành xử như thế, còn chúng ta lìa tam-muội quá xa. Nếu chẳng có cái tâm hướng vọng, tôn trọng, lại còn có cái tâm chẳng tinh tấn, cái tâm khen ngợi điều tốt lành, lại còn nói thị phi, lãng phí thời gian, sẽ lìa Phật pháp quá xa!
Hiện thời, các dị luận sư đang phá diệt Tịnh Độ. Người thủ hộ giáo ngôn Tịnh Độ lại phá diệt các pháp tắc khác. Phá diệt lẫn nhau càng nhiều hơn, lợi ích lẫn nhau thật sự ít ỏi! Trên thực tế, chúng ta hãy nên làm cho đối phương tin phục chân thật, ban cho lợi ích chân thật rốt ráo, đừng khiến cho kẻ khác nghi hoặc, điên đảo, đó là chẳng tương ứng. Thật sự khiến cho người khác đạt được sự chọn lựa chân thật trong Phật pháp, thành tựu Vô Thượng Bồ Đề ngay trong một đời, không nghi ngờ, chẳng lo lắng. Đó là thật sự có ý nghĩa!
(Kinh) Vân hà đương đắc bất hoại bổn thệ trang nghiêm, dục thôi nhất thiết tà dị bằng đảng cố?
(經)云何當得不壞本誓莊嚴,欲催一切邪異朋黨故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ được bổn thệ trang nghiêm bất hoại, muốn dẹp tan bè lũ tà dị?)
“Bất hoại bổn thệ trang nghiêm”: Lành thay! Điều này quá trọng yếu! Các cư sĩ và pháp sư xuất gia đàm luận về pháp tắc, nhiều người có ý muốn thay đổi, tôi rất đau lòng. Đau gì vậy? Vì chẳng có thệ nguyện, chẳng có tín ngưỡng, chẳng có trang nghiêm, thường xuyên là trạng thái “sanh non”, cũng có nghĩa là chuyện vừa sắp hình thành, nó đã bị phá hoại!
Ngày hôm qua, từ rất sớm, một vị cư sĩ gọi điện thoại tới, nói ông ta chẳng tu Tịnh Độ nữa, muốn tu Mật Tông. Tôi nói: “Được chứ! Chỉ là ông không có tín ngưỡng. Tu Mật cũng chẳng có gì là không đúng! Nhưng trong quá khứ, ông đã siêng khổ tu tập pháp tắc này, vì sao lại phản bội thệ nguyện của chính mình?” Ông ta nói: “Con chẳng phản bội thệ nguyện, chỉ là do Tịnh Độ chẳng có lợi ích!” Tôi nói: “Ông chớ nên phủ định pháp tắc! Chỉ vì ông chẳng tu tập thâm nhập, cho nên Tịnh Độ như ông đã nhận định chẳng phải là Tịnh Độ!”
Thệ nguyện mười phần trọng yếu! Nó có thể khiến cho tín ngưỡng kiên cố, hành pháp kiên cố, đạo đức và thiện xảo được nhanh chóng chín muồi. Hiện thời, người học pháp lung lay quá mức! Cứ dựa theo tình tự, cảm giác, [so đo] được mất, dựa theo sự đánh giá của người khác đối với chính mình, nương theo “gió thổi, cỏ động” để tu tập pháp, kết quả là chẳng thể thâm nhập một môn, chẳng thể thật sự “dẫu trăm điều thử thách, vẫn hành trì chẳng bị nhiễu loạn”, chẳng thể thủ hộ một pháp tắc từ đầu đến cuối, trước sau vẹn toàn hoàn thành thủ hộ và truyền bá một giáo nghĩa. Do vậy, chẳng thể trang nghiêm công đức, mà cũng chẳng đạt được lợi ích chân thật.
Vừa nghe nói người khác tán thán, hay hủy báng ta, nói tốt, nói xấu, nói hành pháp này đúng hay sai, bèn dao động. Phần lớn các vị Bồ Tát ấy chẳng thủ hộ thệ nguyện, tâm trí chẳng có tín ngưỡng, phần nhiều dựa theo tình tự của chính mình, cảm nhận hư vọng tự nẩy sanh, tự hư vọng phan duyên, nỗi khổ ấy cũng chẳng có bờ bến! Vì luôn có đôi chút tương tự thành tựu bèn phá hoại, không ngừng nắm níu những thứ cao, lớn, mạnh mẽ, chẳng biết chọn lựa tâm trí thanh tịnh, chân thật, bình đẳng. Hiện thời, rất nhiều vị ác tri thức thuộc Tạng truyền Phật giáo có ác ý truyền bá những thứ kỳ quái tại đất Hán để mê hoặc hữu tình. Tôi đã nói chuyện với rất nhiều vị lạt-ma, cái được gọi là “ác ý” chính là dùng các thứ quái dị để mê hoặc, rối loạn thế gian, hòng chuốc danh lợi, chẳng phải là cái tâm lợi ích thế gian, rất có tội ác. Bọn họ đã phá hoại toàn thể cơ chế của Tạng truyền Phật giáo để đổi lấy một chút lợi ích hư giả trong hiện tiền cho chính mình. Chuyện này khiến cho người khác đau lòng. Những kẻ đó, miệng toàn rêu rao “pháp của ta vĩ đại cỡ nào, lạt-ma của ta vĩ đại cỡ nào”. Thật ra là cần người khác cúng dường, cần quyến thuộc, cần danh lợi, chẳng phải là tạo lợi ích chân thật cho người khác, tịnh hóa lòng người, cho nên làm nhiều chuyện lừa dối, sỉ nhục! Đó là một mặt đen tối của Tạng truyền Phật giáo, là một phương diện chẳng đúng pháp, chẳng phải là nội dung chân thật của Tạng truyền Phật giáo, lại giống như nước lũ nhấn chìm thiện căn của rất nhiều người, rất tồi tệ!
Do vậy, chúng ta học tập Phật pháp, nếu đi theo con đường chẳng chuẩn xác, nhận thức chẳng rõ ràng, sẽ không ngừng quẩn quanh trên đường. Tôi quen biết một vị Bồ Tát sống ở đất Tây Tạng mười một năm, cuối cùng chẳng ở đó nữa. Tôi hỏi lý do, ông ta nói: “Các vị lạt-ma ở đất Tạng tôi đã đều từng bái kiến, tôi mười phần kính ngưỡng, nhưng chẳng có pháp nào để có thể thật sự tu được!” Vì sao? Càng ngày càng cảm thấy chính mình có tâm so đo, tâm phân biệt, vọng tâm nặng nề. Ông ta thật sự đã lừa mình, hoàn toàn chẳng phải là khuyết điểm của Tạng truyền Phật giáo! Nếu là người thật sự hoằng pháp, họ đều nói pháp ấy (pháp họ đang hoằng truyền) là “to lớn” để cổ vũ, khích lệ, ban cho quý vị một con đường để rốt cuộc đạt đến thiện xảo; nhưng nếu vì cướp đoạt cách tu theo pháp hệ của người khác mà nói như thế, sẽ là phá pháp, chẳng tương ứng. Bọn họ cũng có giới luật không cho phép làm như vậy, cũng có nghĩa cơ chế của mỗi pháp hệ đều có sự thủ hộ, yêu thương và trang trọng của chính mình.
“Bổn thệ trang nghiêm” rất quan trọng. Cả một đời này, chúng ta học Phật, niệm Phật, hành Ban Châu, nếu chẳng có thệ nguyện, kể cả thệ nguyện tùy thuận Phật, hoặc kiến lập thệ nguyện của chính mình, chắc chắn là quý vị khó thể thành tựu. Chẳng hạn như nói “nguyện vãng sanh” cũng là một thệ nguyện. “Nguyện hết thảy chúng sanh đều vãng sanh” là nguyện giống như nguyện của Phật. Nói chung, quý vị phải có thệ nguyện. Nếu chẳng có thệ nguyện, quý vị mong dẹp tan, chế phục bè đảng tà dị, sẽ tuyệt đối chẳng thể được! Đối phương tùy tiện lôi kéo, sẽ lôi quý vị theo. Tôi cũng thường gặp những kẻ tới lôi kéo đoàn đội của tôi: “Hãy đến chỗ chúng tôi, thượng sư của tôi tuyệt vời lắm, là vị Phật lớn nhất sẽ quán đảnh cho quý vị”. Tôi nói: “Vị Phật lớn nhất tôi chưa từng thấy. Tôi học tập vị Phật bình đẳng nhất. Quý vị tu theo vị Phật lớn nhất của quý vị là được rồi, vì sao còn bàn đến chuyện này?” Do ảnh hưởng của Tạng truyền Phật giáo, tại đất Hán cũng xuất hiện rất nhiều nhân duyên chẳng tương ứng. Chúng ta không thể nói sự truyền giáo ấy là nguy hiểm. Tạng truyền Phật giáo có rất nhiều điểm tốt lành, rất nhiều cơ chế rất thuận tiện, Hán truyền Phật giáo cũng như thế. Nam truyền Phật giáo cũng như thế, nhưng đồng thời [trong mỗi truyền thống] cũng có bùn nhơ, nước đục [xen tạp vào]!
Chúng ta biện định, nhận biết như thế nào? Quý vị nhất định phải lập một thệ nguyện. Trong hành trì Ban Châu, thệ nguyện mười phần trọng yếu, hành pháp như vậy thì mới có thể thành thục. Chẳng có thệ nguyện, sẽ chẳng thể thực hiện được! Làm gì cũng đều cần có thệ nguyện. Bài văn phát nguyện chính là muốn cho chúng ta hiểu rõ thệ nguyện của chính mình, thủ hộ sự trang nghiêm của chính mình. Sự trang nghiêm ấy chẳng phải là so đo thành hay bại, chẳng phải là so đo được hay mất, chẳng phải là so đo thánh hay phàm, chẳng phải là so đo thời gian dài hay ngắn, mà là gì? Quý vị có thệ nguyện hay không? Quý vị có nương theo thệ nguyện mà hành hay không? Điều này mười phần trọng yếu! Nếu chẳng chuyển được chỗ này, chúng ta sẽ so đo cao, thấp, nói lớn, nhỏ, nắm níu ưu, khuyết, so đo phàm, thánh, như thế là chẳng khéo hành trì pháp môn Tịnh Độ, sẽ chẳng thể thành tựu, chỉ biết có tướng quái dị! Do đó, nay chúng ta hành Ban Châu, chẳng phải vì kết bè kéo đảng, mà vì thành tựu Bồ Đề, vì tiêu trừ ngờ lo!
Rất nhiều người đã hành Ban Châu, lại đi học Tạng truyền Phật giáo. Tôi cũng cổ vũ họ học, nhưng có một điều: Bất luận Tạng truyền Phật giáo cũng thế, hay học bất luận truyền thống Phật giáo nào cũng thế, quý vị phát nguyện gì? Quý vị đừng nên dùng cái tâm ngạo nghễ để học là được rồi, đừng nên dùng cái tâm so đo lớn nhỏ để học, càng chớ nên dùng cái tâm thích chuyện quái lạ để học, [nếu dùng những cái tâm như thế để học] sẽ nẩy sanh chuyện lớn! Rất nhiều kẻ dùng chuyện quái lạ để kéo bè kết đảng, đó là lỗi lầm rất lớn. Hiện thời, rất nhiều vị Kham Bố[2] tại các nơi như Ngũ Minh Phật Học Viện[3] v.v… quan sát các nhân duyên ấy, bèn thực hiện rất nhiều công tác chủ động tích cực. Chẳng hạn như học tập [Bồ Đề Đạo Thứ Đệ] Quảng Luận, mọi người tự chủ động học tập, thảo luận, học tập chánh kiến, chẳng nương theo chuyện thần quái. Cho nên tôi cảm thấy dần dần sẽ có những thứ tốt đẹp du nhập đất Hán, nhưng rất nhiều nơi vẫn rất hỗn loạn, rất nhiều kẻ gây tổn hại cái tâm. Không ít kẻ truyền pháp ở đất Tạng, hễ thấy người khác bèn nói: “Ngươi hãy làm đồ đệ của ta”. Trong ấy, tồn tại một vấn đề: Nếu thật sự là bậc thành tựu, người ấy đúng là một vị đại từ bi lỗi lạc. Nhưng nếu vì tiếng tăm, lợi dưỡng, chỉ có thể nói quý vị có nhiều bầu bạn luân hồi mà thôi! Giáo ngôn của Hán truyền Phật giáo là “y pháp, bất y nhân”, còn Tạng truyền Phật giáo là “y pháp, y nhân”. Họ dạy trước hết là y nhân, sau đó y pháp, cho nên còn có các điểm mù mờ, đối lập ở chỗ này!
(Kinh) Vân hà đương đắc thiện xảo thuyết pháp, thường xử sư tử tòa, nhất thiết chư Phật ấn khả cố?
(經)云何當得善巧說法,常處獅子座,一切諸佛印可故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ được thiện xảo thuyết pháp, thường ở trên tòa sư tử, được hết thảy chư Phật ấn khả?)
Như thế nào để thuyết pháp thiện xảo, như thế nào sẽ khiến cho hữu tình trong thế gian tâm khai ý giải, thường ngự trên tòa sư tử, dùng Phật ngữ để truyền bá Phật ngữ, dùng Phật tâm để truyền bá Phật tâm, dùng Phật giáo để truyền bá Phật giáo, dùng công đức của Phật để truyền bá công đức của Phật, chẳng tăng giảm Phật pháp, thủ hộ như thế nào? Đấy thật sự là nguyện vọng của chúng ta. Hết thảy kẻ giảng pháp, nghe pháp chúng ta đều phải nên thủ hộ, đều phải nên xem xét kỹ càng nguyện vọng ấy!
(Kinh) Vân hà đương đắc viễn ly nhất thiết thế gian vô nghĩa ngữ ngôn, dĩ thông đạt nhất thiết chánh giáo cố?
(經)云何當得遠離一切世間無義語言,以通達一切正教故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ được xa lìa hết thảy ngôn ngữ vô nghĩa của thế gian, do thông đạt hết thảy chánh giáo?)
Nói theo phía phàm phu hữu tình tu hành Phật pháp, xa lìa ngôn ngữ vô nghĩa của thế gian mười phần quan trọng! Nay chúng ta không nghe lời ác rất khó, chẳng nghe lời điên đảo, lời hắc ám, lời nặng nề, lời phiền não càng khó hơn nữa! “Vô nghĩa ngữ” là gì vậy? Chẳng hạn như là hý luận chẳng tương ứng, khi pháp sư giảng kinh trao đổi Phật pháp sợ nhất là như thế. Tuy nói lời tương tự, nhưng là thuyết pháp vô ích, chẳng thể lợi ích hữu tình.
Trong niệm Phật, khi lập một niệm, đoạn các tưởng, “Nam-mô A Di Đà Phật”, tự nhiên sẽ phá tan lời lẽ vô nghĩa. Trong khi kinh hành, chúng ta chẳng có lời lẽ vô nghĩa gì, có lẽ là trong tâm điên đảo, nhưng khi niệm A Di Đà Phật, tự nhiên sẽ xa lìa khẩu nghiệp. Do vậy, câu hỏi đặt ra ở đây đã thật sự tương ứng. “Viễn ly nhất thiết thế gian vô nghĩa ngữ ngôn, dĩ thông đạt nhất thiết chánh giáo cố” (Xa lìa hết thảy ngôn ngữ vô nghĩa của thế gian, do thông đạt hết thảy chánh giáo): Chúng ta thường muốn nói lời có nghĩa lý, lời như pháp, lời từ ái, lời thiện xảo, lời tăng thượng, đối với hết thảy chúng sanh nói lời chọn lựa, lời tiêu trừ nghi hoặc cho chúng sanh, như thế thì là “có ý nghĩa”. Đừng nên nói lời chẳng chứa đựng thiện ý, lời hướng dẫn con người tiến nhập khổ nạn. Đó là tạo ác. Hành pháp Ban Châu, trực tiếp tránh né vấn đề này! Trong một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, chúng ta không được phép nói năng, nhiều nhất cũng chỉ là trao đổi bằng văn tự. Như vậy thì trong vị lai, khẩu nghiệp tự nhiên được thuần thiện, mà người thật sự niệm Phật một thời gian, ác khẩu tự nhiên sẽ ít đi.
(Kinh) Vân hà đương đắc thâm ái nhất thiết chư Phật pháp, ư chư Như Lai sanh xứ hành cố?
(經)云何當得深愛一切諸佛法,於諸如來生處行故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ được yêu mến sâu xa hết thảy các Phật pháp, sẽ đi nơi chỗ sanh của các Như Lai?)
“Thâm ái nhất thiết chư Phật pháp” (Yêu mến sâu xa hết thảy các Phật pháp): Trong kinh điển có ghi chép, một vị Bồ Tát nói thế gian này có đủ loại thuốc, một vị Bồ Tát khác nói: “Ông hãy đến thế gian tìm một thứ gì đó chẳng phải là thuốc”. Vị Bồ Tát ấy bèn tìm tới, tìm lui, tìm trọn khắp, kết quả chẳng tìm được vật nào không phải là thuốc. Ở trong thế gian này, nếu chúng ta dùng tâm trí giác ngộ, tâm trí thanh tịnh để quan sát, [sẽ thấy] vạn sự, vạn vật, không gì chẳng phải là Phật. Quý vị sẽ yêu thích sâu xa hết thảy Phật pháp, yêu thương, bảo vệ hết thảy hữu tình trong thế gian, lợi ích hữu tình trong thế gian.
“Ư chư Như Lai sanh xứ hành cố” (Đi nơi chỗ sanh của các đức Như Lai): Sanh vào nhà Như Lai, làm bè bạn của các đức Như Lai. Người niệm Phật là hoa Phân Đà Lợi (Puṇḍarīka, hoa sen trắng) trong loài người, sanh trong nhà Như Lai, chuyển diệu pháp luân, làm bạn lữ với Quán Âm, Thế Chí. Đây là một quả báo riêng biệt của người niệm Phật, những người hành trì các pháp môn đơn giản khác sẽ rất khó có tổng trì thiện xảo như vậy.
(Kinh) Vân hà đương đắc nhạo dục chân pháp, tri chư Như Lai bất sanh cố?
(經)云何當得樂欲真法,知諸如來不生故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ được ưa muốn chân pháp, biết các đức Như Lai bất sanh?)
Chư Phật Như Lai quả thật chẳng có thành hay chẳng thành. Vì thế, các Ngài chuyển tịnh diệu pháp luân, rộng độ hữu tình. Hữu tình do căn cơ khác biệt, mà có sanh, có diệt, có kiến lập. “Đương đắc nhạo dục chân pháp” (Sẽ đạt được ưa muốn chân pháp): Chữ Chân này [hàm nghĩa] “có lợi ích thực tế”, ban cho chúng sanh công đức chân thật. Nếu chúng ta dùng cái tâm siểm khúc, tâm hư giả để trao đổi, sẽ khó thể ban công đức chân thật cho người khác, sẽ chẳng thể thật sự vui thích Phật pháp.
(Kinh) Vân hà đương đắc bất giải mạn, thiện thừa sự tri thức cố?
(經)云何當得不懈慢,善承事知識故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ chẳng giải đãi, khinh mạn, khéo thừa sự tri thức?)
“Bất giải mạn” (Chẳng giải đãi, kiêu mạn) là một lời dạy rất quan trọng. Hiện thời, người học Phật chúng ta cực dễ sanh khởi tâm kiêu mạn. Hễ đạt được một chút lợi ích, liền coi thường thiên hạ, coi thường sư trưởng, coi thường hữu tình; đấy là một lỗi lầm lớn nhất. Phật pháp tu trong cung kính, hành trong cung kính, thành tựu trong cung kính. Sự cung kính ấy thật sự là thiện xảo để xa lìa giải đãi, kiêu mạn. “Cung kính” là coi hết thảy chúng sanh đều là thiện tri thức, xa lìa kiêu căng, ngạo mạn, nhưng kiêu căng là vì tự cho mình là thiện tri thức, người khác đều nên hướng theo ta học tập. Người như vậy rất khổ, khổ chẳng có bờ bến, rất dễ dàng chán chường, mệt ngán, rất dễ nẩy sanh trần lao, rất dễ chịu khổ báo!
“Bất giải mạn” (Chẳng giải đãi, kiêu mạn), điều chủ yếu nhất là “thiện thừa sự tri thức” (khéo thừa sự thiện tri thức). Tôi gặp gỡ không chỉ một hai vị được mọi người công nhận là có thành tựu, trong khi cùng nhau trao đổi, qua lại, họ sốt sắng phục vụ tôi một số việc, hoặc nói là “thừa sự”. Chẳng hạn như khi các lạt-ma thừa sự tôi, tôi rất cảm động. Chẳng phải là cảm động vì họ làm gì, mà do nhìn từ pháp tắc, họ đã tiêu trừ sự kiêu mạn của chính mình. Tôi cũng gặp các vị sư phụ xuất gia thuộc Nam truyền, chẳng hạn như nói “tôi y chỉ sư trưởng”, họ thừa sự ngược lại, dùng Tăng pháp, hoặc đối đãi với quý vị giống hệt như họ là thị giả của quý vị. Khi đó chỉ khiến cho người ta có một loại cảm nhận, cảm nhận gì vậy? Chúng ta được tiếp nhận giáo huấn thanh tịnh. Giáo huấn gì vậy? Xa lìa kiêu mạn và giải đãi!
Những người ở đất Hán chúng ta, hễ tu được đôi chút pháp, tâm ngạo mạn nẩy sanh tràn trề, coi thường người khác, coi rẻ sư trưởng, coi rẻ pháp tắc, nẩy sanh nhiều sự siểm khúc. Tôi đã gặp chuyện như thế này: Một vị cư sĩ tiếp xúc tôi vài ngày. Ngày đầu tiên bèn đảnh lễ trịnh trọng, dập đầu xuống đất côm cốp. Tôi nói: “Bồ Tát! Xin hãy khoan đã, có gì hãy thong thả nói!” Ông ta thưa: “Sư phụ ơi! Con ở nơi rất xa được nghe đại danh của thầy”. Tới ngày thứ hai, chẳng còn dập đầu lễ nữa, nói: “Sư phụ! Tôi ngồi được chứ?” Tôi nói: “Cứ ngồi!” Tới ngày thứ ba, nói: “Pháp sư! Kể như tôi quen biết thầy”. Tôi đáp: “Chắc chắn là quen biết! Vì tai nghe chẳng bằng mắt thấy mà!” Chuyện như vậy đâm ra rất có phổ biến! Chung quanh tôi thường có pháp sư như vậy, theo quý vị học tập đôi chút, thoạt đầu, rất tôn trọng, do vì có pháp để có thể học, nhưng dần dần cảm thấy quý vị có đáng kể chi đâu? Vừa yếu đuối, vừa lắm bệnh, phiền não lại to ngần ấy: Hôm nay nổi nóng, ngày mai chửi người khác. Dẫu đảnh lễ, vẫn chẳng có cách nào, cái tâm siểm khúc, chẳng phải là cung kính!
Cung kính là gì? Sư trưởng thì vĩnh viễn là sư trưởng. Gì là sư trưởng? Kiền thành. Hoàn toàn chẳng phải là nói “người ấy là sư trưởng của quý vị”. Các vị thiện tri thức ơi! Kiền thành là chỗ công đức chân thật tồn tại. Thừa sự thiện tri thức, chẳng phải người nào đó là thiện tri thức, mà cái tâm cung kính là thiện tri thức. Y báo nghiệp duyên bên ngoài chỉ là sự tô đậm thêm mà thôi! Tạng truyền Phật giáo nói Tứ Quy Y[4], mãi cho đến khi thành Phật, đều là Tứ Quy Y, nơi đất Hán chẳng phải là như vậy. Tôi cũng đã từng gặp người vừa học nửa ngày, đã đến dạy tôi: “Thầy phải nên làm như thế này, như thế nọ”. Tôi nói: “Quý vị chẳng đủ tư cách! Vì sao? Cái tâm kiền thành chẳng đủ! Những thứ khác đều đủ. Tôi có thể hướng theo hết thảy mọi người để học tập, nhưng khi quý vị chẳng đủ tâm kiền thành, tôi sẽ không hướng theo quý vị học tập, vì quý vị là nguồn ô nhiễm”. Hy vọng mọi người có thể tư duy. Hành pháp Ban Châu có thể miễn trừ các lỗi lầm như thế đó.
(Kinh) Vân hà đương đắc bất nhiễm trước, du hành nhất thiết thế gian cố?
(經)云何當得不染著,遊行一切世間故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ được chẳng đắm nhiễm, du hành trong hết thảy các thế gian?)
Trong Phật pháp, chẳng đắm nhiễm là một pháp tắc thanh tịnh duyên khởi, cũng là chỗ y chỉ cho khởi tâm động niệm, cũng là một pháp tắc để thủ hộ đức tướng. Phật pháp vốn chẳng rườm rà, nó ở ngay trong khởi tâm động niệm của chúng ta trong hiện tại. Trong giáo ngôn Đại Thừa, điều này được vận dụng mười phần thuần thục, mà hành pháp Ban Châu lại càng trực tiếp hơn, nêu rõ ràng cái gọi là “tu ngay trong hiện tiền”. Thường hành đạo, tu ngay trong hiện tiền, cũng là nội hàm phiên dịch của danh từ Ban Châu. Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội là nội dung thực chất và tướng công đức chín muồi của nó. Do vậy, “bất nhiễm trước, du hành nhất thiết thế gian” (chẳng đắm nhiễm, du hành trong hết thảy các thế gian), thật sự là duyên khởi trong mỗi thời khắc của hành pháp Ban Châu, nhưng trong mỗi thế gian, không gì chẳng nương theo vô tự tánh chẳng nhiễm đắm! Thế gian được kiến lập từ tánh Không, cũng có nghĩa là thuận theo duyên mà được thấy vô lượng sát-độ, thuận theo cơ nghi mà du hóa trong mười phương cõi Phật. Trong hết thảy hiện duyên, nếu nhận biết bản chất ấy, sẽ đều chẳng lìa cõi nước trang nghiêm mầu nhiệm thù thắng của chư Phật. Vì bị tham, sân, si, mạn, nghi che lấp mà các thứ cõi đời ô trược và xấu ác được liên tục tồn tại. Do vậy nói “vạn pháp chẳng rời nhất tâm”. Đừng coi đó là một kiểu thuyết giáo, hãy nên coi nó như một pháp tắc thực tiễn để tham chiếu, y chỉ, cũng như là giáo ngôn thật sự để ấn khế tự tâm nơi khởi tâm động niệm. Chuyện như thế sẽ biến thành đơn giản hơn!
(Kinh) Vân hà đương đắc nguyện hạnh cụ túc, vị giáo hóa nhất thiết chúng sanh cố?
(經)云何當得願行具足,爲教化一切衆生故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ được nguyện hạnh trọn đủ vì giáo hóa hết thảy chúng sanh?)
Truyền bá hành pháp Ban Châu tại đất Hán có cội nguồn rất sâu xa. Bất luận Giáo Hạ, Luật Tông, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, cho đến các vị thiện tri thức các phương, sau khi đã chứng lượng nhất định, ắt sẽ hành trì pháp Ban Châu. Chuyện này đã có một số lớn tài liệu văn hiến ghi lại, chúng ta có thể thâm nhập khảo cứu. Đương nhiên, pháp này cũng là một pháp tắc mà hết thảy hữu tình bình phàm, ngu muội, dù thiện hay ác đều có thể hành trì, vì chúng ta học tập bản kinh Ban Châu Tam Muội này, ngay từ đầu đã biểu lộ: Chẳng phải là hành pháp của riêng một loại hữu tình nào!
Hạnh nguyện trọn đủ là tiền đề để giáo hóa chúng sanh. Chúng ta hành Ban Châu, nếu hạnh nguyện chẳng trọn đủ, chắc chắn là lợi ích thế gian cũng chẳng có sức, chẳng có ý nghĩa! Hành pháp Ban Châu này “lập một niệm, đoạn các tưởng”, bản thân trọn đủ hết thảy các hạnh nguyện, vì “nguyện hạnh trọn đủ” là nội hàm thực chất nơi quả đức của A Di Đà Phật, mà cũng là nội hàm hồi thí nơi nguyện lực của A Di Đà Phật, cũng như là nội hàm thực chất của pháp tắc để thành tựu pháp môn này. Thường là chúng ta đối với một pháp môn, vì chẳng thể chọn lựa hoàn chỉnh, chân thật, rốt ráo, cho nên chẳng thể bình đẳng quan sát đối với pháp ấy, chẳng thể thâm nhập một pháp. Đấy là một khó khăn khá lớn trong sự tu tập của người hiện thời. Do mê mờ trong đủ loại pháp tắc, bèn tạo đủ loại xem xét, mong ngóng băn khoăn, thường là chẳng thể tu tập thâm nhập một pháp, phần nhiều là lo được, lo mất. Cái tâm lo ngờ ấy đã tiêu hao một lượng lớn sanh mạng, thời gian và trí huệ của chúng ta!
Trọn đủ nguyện hạnh lợi ích thế gian, cũng là vì khiến cho chúng sanh đạt được an lạc, tức gọi là “đản vị chúng sanh đắc an lạc, bất vị tự cầu” (chỉ vì chúng sanh đạt được an lạc, chẳng vì cầu cho chính mình). Chẳng vì cầu cho chính mình chính là một yêu cầu rõ ràng trong Phật pháp. Nói theo tâm trí của phàm phu trong thế gian, cầu cho chính mình chính là trạng thái thông thường, cũng tức là chuyện thường tình của con người, khiến cho vô lượng chúng sanh sanh tử luân hồi, chẳng ngừng, chẳng tận! Do vậy, vì giáo hóa hữu tình, hạnh nguyện trọn đủ. Như vậy thì mới có thể thật sự dính kết với pháp Ban Châu, tu tập pháp Ban Châu. Người thiện căn chín muồi như thế mới có thể thâm nhập pháp Ban Châu. Nếu thiện căn chẳng chín muồi, đối với pháp này, rất khó thể thật sự thiết thực sanh khởi nguyện vọng tu tập, nguyện vọng học tập, cho đến cơ hội được nghe còn chưa thể đạt được! Hoàn toàn chẳng phải là pháp này hữu duyên với chúng ta, chúng ta liền nói nó rất tôn quý. Thật ra, nương theo trí huệ của Phật pháp, nương theo lợi ích trong Phật pháp, nương vào hiện duyên để xem xét, cơ hội của chúng ta đích xác là rất trân quý, rất khó có, rất hy hữu, nhất là cơ hội gặp gỡ Phật pháp. Vì trong đồng hoang sanh tử luân hồi, gặp được các thứ nhân duyên chẳng phải là việc khó, nhưng trên con đường sanh tử, được gặp gỡ Phật pháp, gặp cơ hội tu trì, học tập Phật pháp, đúng là chẳng dễ, đúng là do đại thiện căn, đại nhân duyên xui khiến!
Hành trì pháp Ban Châu nếu vô nguyện, sẽ không có sức để khích lệ, thành tựu, hạnh và nguyện mười phần thiết thực cùng hành. Nếu chẳng phối hợp kiểu ấy, nguyện chẳng hướng dẫn hạnh, hạnh chẳng có nguyện dẫn đường, rất khó thâm nhập tu tập! Hiện thời, trong hành pháp Ban Châu, mọi người dần dần có nhận thức: Chúng ta phải thật sự vì hóa độ hết thảy chúng sanh mà lập thệ nguyện rộng lớn. Đó gọi là “chẳng chứng tam-muội, chẳng đích thân thấy Phật” thì chẳng thể buông tay! Đó là một thệ nguyện. Nếu có thiện căn chín muồi như thế, sẽ thấy Phật, nghe pháp. Thật ra, chúng ta vãng sanh thế giới Cực Lạc, vãng sanh cõi Phật ở phương khác, mục đích cũng chẳng ngoài “thấy Phật, nghe pháp, đích thân chứng Bồ Đề, dùng các thứ thiện xảo chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, rộng lợi ích thế gian, chẳng bị thoái đọa”.
Vì chúng ta thuộc địa vị phàm tình, cho nên rất khó thật sự lợi ích hữu tình. Do vậy, từ địa vị này tiến lên địa vị khác, người thật sự lợi ích hữu tình chỉ có Phật và Phật có thể gọi là “bậc lợi tha”. Hạnh của hết thảy các vị Bồ Tát, hết thảy Thanh Văn, Duyên Giác, cũng như những gì hết thảy hữu tình dù phàm hay thánh đã làm, đều là tự lợi tăng thượng. Chẳng cần phải hoài nghi điều này! Chỉ có Phật Thế Tôn là giác rốt ráo viên mãn, có thể lợi tha, sanh ra công đức chân thật. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát tiến nhập viên mãn. Cho nên nói là “tu trì tự lợi”. Trong cơ chế tu trì lợi tha, kiến lập tự lợi dần dần hoàn thiện, thật sự hoàn thiện, mãi cho đến khi thành tựu Bồ Đề. Nhưng các loại phàm phu tự hại mình thì có thừa, tự lợi lẫn lợi tha vẫn chưa thể nghe, vẫn chưa thể đạt được. Nếu không phải là như thế, sẽ chẳng thể gọi là Phàm. Phàm thánh khác biệt ở chỗ “tự lợi và lợi tha có đắc lực hay là không”, chẳng phải là ăn nói hư giả! Ở đây, thật sự có lợi, thật sự có hại. Do vậy, nơi phàm phu hữu tình, có nhiều thứ khổ não, điên đảo, nhiều thứ Kiến Tư Hoặc. Nơi các bậc thánh, bậc trí, phần nhiều là bị Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc mê hoặc. Tuy là như thế, các vị ấy đã thoát ly các loại phiền não bức bách, chỉ là giác ngộ viên mãn thuần tịnh, thuần thục, hướng đến hoàn thiện, thậm chí rốt ráo. Chúng ta chớ nên không biết sự khác biệt giữa phàm và thánh, chớ nên không suy nghĩ, chớ nên không quan sát. Nếu chẳng phải là như thế, cứ dùng tâm trí bình phàm, kiêu mạn, tự phụ, tự cho là đúng, sẽ chẳng thể thành tựu thiện xảo chân thật rộng lớn. Có lúc, chúng ta sẽ nẩy sanh những thứ tương tự thiện xảo, tương tự cảm nhận, nhưng thật sự giáo hóa và lợi ích chúng sanh thì vẫn chẳng đắc lực.
Trong pháp môn Tịnh Độ, khi hành trì và truyền bá một câu bảo hiệu Nam-mô A Di Đà Phật, có thể hữu ý hay vô ý tự lợi và lợi tha, hai điều lợi đầy đủ. Có những kẻ nói suông, chẳng thật tâm có thể lợi ích mười phương hữu tình, cho nên chẳng đạt được tự lợi. Khi các hữu tình truyền bá bảo hiệu thù thắng Nam-mô A Di Đà Phật, thủ hộ nguyện tự lợi và lợi tha, sẽ có thể trong khi lợi tha mà đạt được tự lợi chân thật, đích thân chứng được tự lợi và lợi tha. Chư Phật Như Lai viên mãn chân thật tự lợi và lợi tha, cho nên chỉ có thiện xảo lợi tha, chẳng cầu tự lợi, vì vốn đã trọn đủ. Đã đích thân chứng như thế, chẳng có bất cứ lo ngờ nào, chẳng có bất cứ cái Ngã nào, Ngã Chấp, Pháp Chấp, hết thảy các thứ gây mê loạn đã gột trừ hết sạch. Khi chúng ta niệm Nam-mô A Di Đà Phật, có thể vô tình hay hữu ý đạt được tự lợi và lợi tha, lợi ích hữu tình. Nếu trong tác ý, nếu dùng Phật nguyện làm bổn mạng của chính mình, như pháp sư Đàm Loan đã tuyên nói, thì trong hết thảy các hành pháp, sẽ hết sức đắc lực, có thể nhanh chóng đạt được lợi ích và thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn. Trong pháp môn Niệm Phật, xác thực là rất dễ dàng thấu hiểu pháp ích hiện tiền vượt xa lẽ thường, chẳng thể nghĩ bàn! Cái gọi là “vượt xa lẽ thường” là vượt qua các sở hành thông thường, tức là hành công đức của ngài Phổ Hiền, nương vào công đức lợi tha chân thật để an trụ trong tự lợi chân thật. Người niệm Phật chắc chắn sẽ có thể lợi tha, vì lẽ nào? Làm sứ giả của Phật, hồi thí Phật đức, rộng lợi ích nhân thiên. Chúng ta có thể cảm nhận và quan sát điều này.
Tại Trung Quốc, Phật giáo thật sự được [nhà nước] nới lỏng quản chế hơn hai mươi năm qua. Do vì Phật giáo [chân chánh] có một khoảng thời gian bị gián đoạn, trong thế gian đã xuất hiện rất nhiều hữu tình ngoại đạo ăn bám Phật giáo, nhiễu loạn hữu tình. Vì sao như thế? Chẳng huân tập mảy may Bồ Đề tâm, chỉ dựa vào các kỹ xảo thế gian để thực hành Phật pháp. Chẳng hạn trị bệnh[5] cho người khác, xem Phong Thủy, tiên đoán chuyện chi đó, hoành hành trong thế gian, khiến cho hữu tình mông muội, mê hoặc hữu tình, áp chế hữu tình, thậm chí khiến cho họ điên cuồng. Nhiều năm qua, trong Phật giáo Trung Hoa [hiện tượng đáng buồn ấy] đã mười phần rộng khắp. Là một người học Phật, chúng ta chớ nên mê mất Bồ Đề tâm của chính mình, hãy nên duy trì Pháp Thân huệ mạng của chính mình. Nếu không, rất dễ bị các mánh khóe mê hoặc, bị các thứ ngôn từ, bị những thứ quý vị tưởng là hay khéo trói buộc, đến nỗi mê mất nguyện vọng của chính mình, mê mất chánh hạnh Phật pháp. Lúc tôi mới đến vùng Đông Bắc, đã gặp các vị sư phụ xuất gia phần nhiều dọa dẫm các hữu tình, cứ mở miệng ra là “quá khứ của quý vị như thế nào, hiện tại như thế nào, vị lai sẽ là như thế nào?” Do họ có thủ đoạn ấy, quý vị chẳng có mánh khóe ấy, Bồ Đề tâm của quý vị chẳng kiên cố, sẽ bị dao động. Dao động như thế nào? Sanh khởi tâm sợ hãi, đánh mất sự tiến nhập của chính mình đối với Phật pháp.
Hành trì pháp Ban Châu cũng rất dễ bị những thứ như ấm cảnh lôi kéo, chế ngự, bị các thứ thô, tế, lớn, nhỏ, nóng, lạnh v.v… cho đến thấy hư huyễn, nghe hư huyễn, cảm nhận hư huyễn, và các thứ tướng cảnh giới lừa gạt. Hành Ban Châu là để “thấy Phật, nghe pháp”. Nếu gặp loại hữu tình như thế, chúng ta hãy dùng công đức của Phật để hồi thí, độ thoát hết thảy chúng sanh, giáo hóa hết thảy chúng sanh đừng sợ hãi! Nếu chẳng như vậy, đối với đạo nghiệp Bồ Đề chúng ta sẽ chẳng có cách nào thật sự tiến nhập, sẽ bị tạp duyên xâm đoạt rất nhanh chóng. Bao nhiêu năm qua, cách đây mười ngày hay nửa tháng vẫn còn có người, nhất là thầy lang, nói với tôi: “Ối chà! Thầy có vấn đề này nọ?” Tôi nói: “Tôi không biết! Sắc thân này chẳng thuộc về thầy thuốc như ông, mà cũng chẳng thuộc về tôi. Nó chiếu theo một pháp tắc, một nhân duyên, chẳng liên quan gì đến lời ông nói!” Vì nếu dễ dãi khư khư noi theo nó, tâm trí của quý vị sẽ mê mất trong cảnh giới hiện duyên, trong hiện duyên lượng, vô ích đối với sự tiến nhập Phật pháp. Vì thường xuyên nghe người khác nói này, nói nọ, tôi cũng quen rồi! Nhưng đối với người học Phật trong hiện thời, nếu như tâm trí Bồ Đề, tâm trí hành pháp chẳng rõ ràng, chỉ qua đôi ba câu nói, họ sẽ trói buộc quý vị. Tôi gặp không ít vị sư phụ xuất gia bị người khác nói mấy câu liền rơi vào tròng, suốt đời cũng chẳng thoát ra được!
Thật sự là một người học Phật, chúng ta nhận thức con đường của chính mình như thế nào? Phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, chẳng sợ hãi điều này. Nếu chẳng như vậy, sẽ rơi vào tình cảnh đáng thương, mà cũng bị ấm cảnh hiện tiền, ngôn từ, sự tướng, khó khăn, thậm chí bị một nghiệp tướng bức bách, che lấp. Như thế thì quý vị chẳng có phần với Vô Thượng Bồ Đề, rơi vào đầm lầy hiện duyên. Trong ấy, chỗ nào cũng đều là hầm hố lớn, hầm hố ấy sâu cỡ nào? Chỉ cần tùy thuận nó, quý vị sẽ vĩnh viễn chẳng có thuở thoát khỏi! Chúng ta là người học Phật, hãy nên đối diện chuyện này như thế nào? Tôi cảm thấy phát tâm là quan trọng nhất, phát tâm quan trọng hàng đầu. Nhận biết cái gọi là “tâm xuất ly” quan trọng nhất. Tâm xuất ly là trong hết thảy ngôn từ, cảnh sắc, trong đối đãi, đều một đường thoát ra, quyết định chẳng nhiễm. Cho nên nói “đương đắc bất nhiễm trước, du hành nhất thiết thế gian” (sẽ được chẳng đắm nhiễm, du hành hết thảy thế gian). Nếu chẳng phải vậy, nó sẽ xếp đặt quý vị trong một thế giới, chẳng để quý vị thoát ra, sẽ xếp đặt quý vị trong một pháp giới, khiến cho quý vị hoang mang. Như thế thì quý vị dạo chơi trong mười phương cõi nước sẽ chẳng được tự tại.
Năm trước, cũng có một thầy lang có sức thần thông đến bảo tôi: “Ối trời! Thân thể thầy thế này, thế nọ. Thầy sẽ như thế này, sẽ như thế nọ…” Tốt lẫn xấu đều có! Tôi nói: “Như thế nào” là trong mắt của ông, là chuyện trong tâm lượng của ông! Sự tướng trong mắt của ông xét theo lời dạy “vạn pháp duy thức”, sẽ như cá thấy nước sông là nhà cửa, người thấy nước sông là thứ để giặt giũ, nước uống, hoặc để sử dụng, Tu La thấy nước có thể dùng làm vũ khí, chư thiên thấy nước là đất báu lưu ly, ngạ quỷ thấy nước là lửa cháy rực. Do vậy, đó là Từ Pháp trong mắt ông. Nếu tôi duyên theo điều đó, sẽ là duyên theo nghiệp lực của ông, sẽ chẳng gọi là Từ Pháp, mà là Từ Pháp nói theo dòng nghiệp! Như thế mà thôi!
Bởi lẽ, chúng ta là người học Phật, chớ nên mê muội bởi ngôn thuyết, chớ nên mê muội nơi hiện lượng, đừng mê muội bởi nhân duyên, chớ nên mê muội bởi tướng cảnh giới, chớ nên mê muội bởi các thứ nhiễm duyên hiện tiền, mà hãy nên như thế nào? Phát Vô Thượng Bồ Đề tâm. Tối thiểu là phải có tâm xuất ly, tức là trong hết thảy đối đãi, tâm trí đều chẳng đắm nhiễm, bình đẳng quan sát, đừng nên chấp giữ nó, mà cũng đừng nên xả nó. Nó chẳng liên quan gì đến quý vị. Đó chỉ là Kiến Phần của chúng sanh đấy thôi! Những kẻ có tiếng tăm sẽ nói: “Ngươi thấy đó! Nói với ngươi mà ngươi vẫn chẳng chịu nghe theo”. Tôi nói: “Trước nay, tôi chẳng tùng phục thứ đó. Nếu thuận theo những thứ đó, tôi đã chẳng xuất gia! Tôi chẳng nghe theo khuôn sáo của quý vị. Nghe theo khuôn sáo đó, tôi sẽ là thứ bỏ đi! Vì tôi là người học Phật, tôi là kẻ tự biết mình, tôi là người vâng theo lời dạy của đức Phật mà hành trì”. Đối với điều này, chư vị thiện tri thức nhất định phải có sự liễu giải và nhận biết rõ ràng.
(Kinh) Vân hà đương đắc san hô chi tướng, đắc chư tướng cố?
(經)云何當得珊瑚之相,得諸相故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ đạt được tướng san hô, do đạt được các tướng?)
“San hô chi tướng” (Tướng san hô): San hô là một món báu trong bảy báu. Có bạch san hô, hoàng san hô, hồng san hô, tử san hô (san hô màu tím)… Tướng mạo của san hô thật sự là so le, không đồng đều, nhưng phần lớn là bạch san hô. Vì san hô ở dưới đáy biển sâu, thời cổ rất khó thu thập [cho nên được coi là quý]. Hiện thời có tàu ngầm, có thể thu hoạch một lượng lớn san hô, nhưng san hô có màu sắc rực rỡ như hồng san hô thì vẫn rất ít.
Nói “đắc chư tướng” (đạt được các tướng) là nói về của báu tâm trí. Ở đây là nói tỷ dụ. Vì nó vốn là pháp bảo, vốn là thiện xảo, vốn vô sở đắc, vốn có thể lấy dùng trong các thứ tướng. Tuy lấy mà chẳng đắm nhiễm, tự đạt được phương tiện. Kẻ đắm nhiễm tất nhiên có gánh nặng; “gánh nặng” là sẽ tạo thành dòng nghiệp mới. Cái gọi là “dòng nghiệp” tức là dòng nghiệp đắm nhiễm. Dùng mà chẳng nhiễm, đạt được phương tiện; giống như chúng ta cầm đèn pin soi đường, buổi tối mang theo thì được. Nếu có đèn điện thì có thể chẳng cần tới nó. Nếu mặt trời mọc thì cũng không cần mang theo đèn pin, nhưng kẻ đắm nhiễm cho rằng “ta cần mang theo đèn pin”. Vì thế, thời thời khắc khắc đều cầm theo món vật ấy. Nếu thứ gì cũng đều mang theo, đồ vật này, đồ vật kia đều giắt trên người, mang theo lâu ngày, kẻ đó sẽ bị đồ vật này nọ trì kéo, nghiệp lực cũng lại như thế.
(Kinh) Vân hà đương đắc như hư không, nhất thiết pháp vô đắc tướng cố?
(經)云何當得如虛空,一切法無得相故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ được như hư không, đối với hết thảy các pháp đều chẳng có tướng?)
Trong phần trước đã nói “đắc chư tướng” (đạt được các tướng), dùng báu san hô để tỷ dụ, khiến cho các hữu tình hành pháp Ban Châu có thể tiếp tục an trụ trong sự ổn định liên tục và nghiệp tiếp nối. Ở đây, nói “vô đắc tướng”, “như hư không” là đối với các loại ổn định liên tục, chẳng bị vướng mắc, chẳng có gì để đạt được, vì dẫn phát sự khinh an liên tục, cho đến đủ loại pháp ích hiện tiền. Nếu đắm nhiễm khinh an, người ấy ắt đọa lạc. Do đó, chẳng đắm nhiễm trong việc tiến thú đại lợi vô thượng, tức là chẳng đắm nhiễm các pháp.
Khi chúng ta hành Ban Châu, nếu đắm nhiễm tướng khinh an, người ấy sẽ đọa lạc. Nếu đắm nhiễm tướng quang minh, tướng trang nghiêm, sẽ xuất hiện vấn đề. Cho đến đắm nhiễm Phật tướng, cũng sẽ xuất hiện vấn đề. Quý vị nói: “Niệm Nam-mô A Di Đà Phật, đi tới, đi lui (kinh hành) để cầu thấy Phật, đó chẳng phải là đắm nhiễm tướng ư?” Chẳng phải vậy! Vì chẳng thấy tướng thì sẽ chẳng có gì để đắm nhiễm! Quý vị chẳng có tướng để thấy, lấy gì để đắm nhiễm? Đừng nên tự dối mình! Giống như người đối trước hư không nói: “Ta chẳng mê tiền tài!” Tài sản chất đống trước mặt quý vị, thuộc về quý vị, nhưng quý vị chẳng đắm nhiễm, thì mới thật sự là chẳng mê tiền tài. Hành pháp cũng giống như thế. Thật sự đạt được lợi ích nơi pháp mà quý vị chẳng đắm nhiễm, thì mới là thật sự chẳng đắm nhiễm. Sự tình hiện tiền mà chẳng đắm nhiễm thì mới là công đức chân thật. Khi chúng ta nghèo rớt mồng tơi, khi chẳng có vật gì hết, quý vị nói “ta chẳng yêu mến thứ này, chẳng tham đắm thứ kia”. Đó là lời lẽ tự dối gạt mình!
Do vậy, kinh văn ở đây là câu sau tiếp nối ý nghĩa của câu trước. Trong phần trước là “đắc như san hô, đắc chư tướng cố” (được như san hô, vì đắc các tướng), tức là trong các pháp trân bảo, hưởng thụ các thứ thọ dụng rõ ràng, thọ dụng khinh an, thọ dụng trang nghiêm, cho đến thọ dụng đoạn trừ phiền não. Sự thọ dụng ấy thật sự chẳng thể nhiễm, thật sự chẳng thể đạt được, tức là nói “đương đắc như hư không, nhất thiết pháp vô đắc tướng cố” (sẽ được như hư không, do chẳng đạt được tướng của hết thảy các pháp) trong phần sau. Các pháp sanh bởi nhân duyên, pháp tánh vốn là Không; hết thảy chúng sanh đều phải nên hiểu rõ chỗ này. Nếu chẳng biết pháp không, tánh không, các nhân duyên tất nhiên bị ngăn trở. Do vậy, “tánh Không duyên khởi” là quan sát thiện xảo. Biết các pháp, nhất định biết tánh Không. Người biết tánh Không, nhất định được thọ dụng nơi tướng bản chất của các pháp. Do vậy, pháp là không có gì để có thể đạt được, pháp tánh vốn Không, sanh ra các pháp, pháp thật sự vô sanh. Nếu chẳng thiện xảo quan sát pháp tắc thế gian và xuất thế gian như thế, chúng ta sẽ mê mất trong cái được gọi là vô pháp và hữu pháp. “Vô pháp” là không có gì để nương theo. “Hữu pháp” là cho rằng thật sự có cái để đạt được, [chấp trước vào hai điều ấy], sẽ đều chôn vùi công đức lợi ích rộng lớn.
(Kinh) Vân hà đương đắc như Bồ Tát, bất đoạn Phật chủng cố?
(經)云何當得如菩薩,不斷佛種故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ được như Bồ Tát, chẳng đoạn Phật chủng?)
“Bất đoạn Phật chủng” (Chẳng đoạn Phật chủng) tức là nhập chủng tánh Phật, tín thuận lời dạy của Phật. Khi đạt được hay hiển lộ Tín Nhẫn và Thuận Nhẫn, thành tựu chủng tánh Như Lai. Trong khi chúng ta học tập Phật pháp, nếu chẳng thuộc vào chủng tánh Như Lai, thì sẽ là ngoại đạo, gọi là “danh tự học Phật”.
Trong giáo ngôn thù thắng của A Di Đà Phật, hữu tình độn căn nghe danh hiệu Nam-mô A Di Đà Phật có công đức thù thắng, đều đắc hai loại Nhẫn, tức là Pháp Nhẫn của Bồ Tát, cũng thuộc vào chủng tánh Như Lai. Điều này quả thật chẳng thể nghĩ bàn! Tại đất Hán, bất luận nội hay ngoại đạo, người học Phật rất nhiều, khá nhiều hữu tình chẳng tự giác mà học Phật, chẳng cần phải đeo danh xưng là “Phật giáo đồ”! Vì sao? Do chủng tánh Như Lai gia trì. Nay chúng ta niệm Nam-mô A Di Đà Phật, tức là không ngừng thúc giục tâm trí của chúng sanh, khiến cho họ có thể thành tựu hai môn Nhẫn ấy. Thông thường, nghe một hai lần, chủng tử đã gieo xuống, nhưng chưa thành thục, cho nên hành trì Ban Châu có thể khiến cho Phật chủng chẳng đoạn.
Tu hành trong Phật giáo, tiếp nối huệ mạng của Phật mười phần quan trọng. Chúng ta niệm Nam-mô A Di Đà Phật, hành Ban Châu, có thể khiến cho Phật chủng chẳng đoạn, vì công đức của danh hiệu là ở đấy, nội hàm thực chất ở đấy, quý vị chẳng cần phải lo lắng! Rất nhiều người bận tâm vì sao vị Bồ Tát này chẳng khéo học Phật? Vì sao người kia chẳng khéo học Phật? Quý vị cứ chăm chú niệm Nam-mô A Di Đà Phật, thanh tịnh, bình đẳng hồi hướng, chẳng cần phải băn khoăn! Hãy yên lòng về chúng sanh, yên lòng đối với Phật, hãy yên lòng đối với nguyện lực của Phật, hồi thí pháp mà quý vị đã hành trì, hãy yên tâm triệt để hồi thí, chẳng lưu giữ gì!
(Kinh) Vân hà đương đắc bất hưu tức, hành chư Bồ Tát đạo, vị tằng viễn ly Đại Thừa cố?
(經)云何當得不休息,行諸菩薩道,未曾遠離大乘故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ được chẳng ngưng nghỉ, hành các đạo Bồ Tát, chưa từng xa lìa Đại Thừa?)
Pháp Ban Châu đích xác là chuyên chở rộng lớn, chuyên chở bình đẳng, chuyên chở không ngăn ngại! Chuyện khá khó thực hiện trong học tập Tịnh Độ là gì? Chẳng có oán đối. Điều khá khó thực hiện hơn nữa là gì? Chẳng có lấy hay bỏ. Điều khó thực hiện hơn nữa là gì? Chẳng bỏ hết thảy hữu tình khổ não, tội ác. Điều khá khó thực hiện hơn nữa là gì? Bình đẳng gánh vác hết thảy. Điều khó thực hiện hơn nữa là gì? Nói như thế nào, cũng làm đúng như thế ấy. Điều này khó khăn hơn. Vì sao? Cái tâm của chúng sanh lấy hay bỏ, yêu ghét, phân biệt mười phần rõ ràng, mười phần mạnh mẽ, mười phần thuần thục, mà tâm bình đẳng, tâm chẳng lấy bỏ, tâm lợi ích người khác rộng lớn, tâm yêu thích tạo lợi lạc cho hữu tình khổ nạn, ngược lại khá lợt lạt, xa cách, thậm chí chẳng đắc lực. Dẫu siêng khổ vun bồi, chẳng thể sanh lòng tin! Thường là đã vun bồi được một khoảng thời gian, hễ gặp cái duyên trái nghịch, liền muốn bỏ pháp ấy, cảm thấy chẳng thể chịu đựng nổi. Nhất là đối với chuyện “chẳng xả hết thảy hữu tình khổ nạn, bình đẳng bố thí, an trụ vô nghi”. Đó là chỗ khó nhận biết nhất của pháp này.
Giống như khi chúng ta hành trì Ban Châu, khốn đốn đưa đến, khổ sở đưa đến, duyên gây khó khăn đưa đến, duyên trái nghịch đưa đến, tức là tướng cảnh giới ác đưa đến, đều là các thứ huyễn hiện của hết thảy hữu tình khổ não, đều là các tướng cảnh giới hư huyễn diễn ra, nhân duyên duy nhất của quý vị là thật sự hồi thí lợi ích cho họ, khiến cho họ an lạc. Làm như thế nào? Tức là chẳng bài xích, mà cũng chẳng thuận theo, cứ thanh tịnh niệm Phật, cứ một đường mà đi. Hành trì như vậy, chưa từng xa lìa Đại Thừa. Nói “bất hưu tức” (chẳng ngưng nghỉ) tức là trong khi đối diện các thứ nhân duyên và khó khăn, đều chẳng sợ hãi. Khi tôi xuất gia, tiếp xúc pháp môn Tịnh Độ trong vòng mười năm qua, [đã nhận thấy] đây là chỗ khiến cho người ta bị thoái đọa nhiều nhất. Đối với kẻ thương tổn quý vị, kẻ không ngừng thương tổn quý vị, kẻ ô nhục quý vị, kẻ chửi bới nhân cách của quý vị, quý vị cảm thấy phải lợi lạc kẻ đó, phải có tâm chẳng xả niệm Phật hồi thí cho người ấy. Thoạt đầu, sẽ rất khó sanh khởi [cái tâm ấy]. Thường là sẽ tránh né chuyện tạo lợi lạc cho kẻ đó, tâm mong cho đối phương chẳng bị ác báo là được rồi, đã cảm thấy mình chúc phước cho đối phương. Còn như mong mỏi đối phương thiện xảo, thành tựu, thậm chí thành tựu còn sớm hơn ta, có lợi ích công đức còn to hơn ta, thù thắng, chân thật, nhanh chóng đều hơn ta, các nguyện vọng như vậy rất khó vun bồi! Vì chủng tánh trong cái tâm của phàm phu là như thế đó! Tức là yêu ghét phân minh, đúng sai phân minh, lấy bỏ phân minh, nhưng sự phân minh ấy chỉ mang lại các thứ khốn khó, khốn khó gì vậy? Hẹp hòi, tự lợi, cái tâm Tiểu Thừa, hoặc nói là cái tâm tịch diệt, hoặc là một thứ tâm chán lìa.
Đoạn văn tự này đã cho chúng ta biết: Giống như Bồ Tát chẳng nghỉ ngơi, tâm phàm phu luôn cần nghỉ ngơi. Nhất là khi có tâm trí đối đãi sanh khởi, nghiệp tướng đối đãi sanh khởi, bèn mong lảng tránh, chẳng mong tiếp xúc nữa; cảm thấy quá mệt mỏi, quá khổ sở, quá vô ý nghĩa! Thật ra, chẳng phải vậy! Chư Phật Như Lai siêng gắng chẳng bỏ ở chỗ này, thường hành chẳng bỏ. Từ bao kiếp lâu xa đến nay, các Ngài chẳng bỏ chúng ta. Chúng ta đích xác đều là hữu tình báng pháp, hữu tình nghi pháp. Hoặc có thể nói là các hữu tình sợ hãi Phật pháp, hoặc có thể nói là hữu tình phá diệt, chôn vùi Phật pháp. Nếu không, chúng ta đã không sanh trước Phật, hay sau Phật, lọt vào tám nạn. Ở đây, quý vị chớ nên quá mức tự tôn. Nhưng trong pháp môn Niệm Phật, nhất là hành pháp Ban Châu, chẳng có ngưng nghỉ, chẳng lìa Đại Thừa. Nói đến “Bồ Tát đạo”, chẳng thể lìa đạo ấy trong phút chốc, mà cũng không có gì để lìa. Do không có gì để lìa, tức là hành Bồ Tát đạo. Do chẳng ngưng nghỉ thì chính là hành Bồ Tát đạo. Do thường hành đạo, cho nên “chẳng bỏ hết thảy chúng sanh, chẳng xả hết thảy các hạnh nguyện”. Những lời này mười phần dễ nói, nhưng thực hiện nếu tùy thuận Phật nguyện, tùy thuận Phật trí, tùy thuận Phật hạnh, sẽ rất hoan hỷ, rất vui sướng, sẽ là lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Nếu tùy thuận nghiệp lực của chính mình, tùy thuận tâm trí phân biệt, chấp trước của chính mình, sẽ mười phần đau khổ, mười phần khó chịu đựng, mười phần chẳng tương ứng! Chúng ta nói: “Chẳng xả hết thảy chúng sanh khổ não, hồi hướng công đức rất sâu của chư Phật, khiến cho chúng sanh nhanh chóng thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, đạt được bất thoái chuyển”. Quý vị đem lợi ích do pháp tắc của chính mình hồi thí cho hết thảy những kẻ hữu duyên trong hiện tiền, dù là thuận duyên, hay ác duyên, đều bình đẳng hồi thí như thế, sẽ thật sự là bậc thường hành đạo, chẳng xả đạo nghiệp, hành Bồ Tát đạo. Lời này hết sức dễ nói, nhưng tâm trí phàm phu cần phải có một lượng chịu đựng nhất định, cần phải có sự nỗ lực nhất định của chính mình, kiên trì và cổ vũ, hoặc có thể nói là “tùy thuận”.
Chúng ta đều biết, giáo ngôn Đại Thừa muốn độ hết thảy chúng sanh thành tựu Bồ Đề. Nếu nguyện “hết thảy chúng sanh sẽ thành Phật trước tôi”, đó là một thệ nguyện mạnh mẽ trong Đại Thừa. Nếu nguyện “cùng với hết thảy chúng sanh cùng thành Phật”, đó là một tâm nguyện tùy thuận. Nếu nguyện “ta thành Phật trước rồi mới độ chúng sanh”, đó là tâm nguyện của bậc Đại Thừa Bồ Tát nhuyễn tâm. Trong ba loại tâm nguyện ấy, [tâm nguyện] “khiến cho hết thảy chúng sanh thành Phật trước ta” là do cái tâm mạnh mẽ tạo thành. Như vậy thì quý vị sẽ yêu thích, tôn trọng hết thảy thân duyên, sơ duyên, và các thứ nhân duyên trong phần trước. Quý vị sẽ thật sự tôn trọng, bảo vệ nó. Vì lẽ nào? Do hết thảy chúng sanh đều thành Phật trước quý vị, cũng có nghĩa là hết thảy chúng sanh đều là Phật, Bồ Tát, chỉ có ta là phàm phu. Ngày hôm qua, có một đứa bé, khi gặp mặt chúng tôi, nó đã khóc ầm lên, trào nước mắt. Nó nói: “Hôm nay con thật sự biết hết thảy chúng sanh là Phật, Bồ Tát. Thật sự là một cơ hội đáng nên tôn trọng hết thảy”. Ngay khi ấy, quả thật mọi người đều rất cảm động, rất nhiều người ứa nước mắt, vì đứa bé ấy chưa hề học Phật, vừa mới tiếp xúc Phật giáo, đã nẩy sanh trạng thái tâm lý ấy, khiến cho mọi người rất cảm động. Lời nó nói là lời lẽ thành khẩn, cảm kích. Khi nó cảm nhận được điều ấy, tâm linh thoải mái và an lạc. Niềm xúc động rộng lớn, bình hòa và chân thật ấy đã cảm động chính mình, mà cũng cảm động người khác. Đó thật sự là tâm Đại Thừa mạnh mẽ, nhạy bén, mọi người đều thị hiện cho ta các thứ ác tướng, thiện tướng, tướng thù thắng, tướng yếu ớt, để làm gì? Mong cho ta sẽ xuất ly!
Chúng ta niệm “nguyện cộng chư chúng sanh, vãng sanh An Lạc quốc” (nguyện cùng các chúng sanh, vãng sanh cõi An Lạc). Đó là giáo ngôn về Đại Thừa Ba La Mật Môn, quán thấu triệt hết thảy chúng sanh như huyễn, hết thảy chúng sanh thiện ác như huyễn, hết thảy phàm thánh như huyễn, hết thảy các pháp là rốt ráo không, không có gì để được hay mất, rốt ráo vãng sanh quốc độ của A Di Đà Phật, ngay lập tức thành tựu! Đấy gọi là “đồng sanh đồng Tây” (cùng sanh về Tây Phương), dùng trí Văn Thù để nhìn thấu triệt, quan sát hết thảy huyễn duyên là rốt ráo chẳng thể được. Ở đây là “độ tận chúng sanh, phương thành Phật đạo” (độ hết chúng sanh rồi mới thành Phật đạo), tức là “tâm Đại Thừa độ trọn hết chúng sanh chẳng ngưng nghỉ”. Trong khi hành pháp Ban Châu, cũng giống như thế. “Chẳng ngưng nghỉ” là một pháp tắc hành pháp, tự mình nhắc nhở “chẳng thể nghỉ ngơi”. Thông thường, tâm người hành Ban Châu sợ hãi chỗ này, nói [tu pháp Ban Châu] vốn mệt nhọc lắm. Nếu chẳng nghỉ ngơi, còn tu tập nổi ư? Thật ra, hành pháp chính là thật sự nghỉ ngơi! Trong chẳng nghỉ ngơi mà thật sự nghỉ ngơi. Vì sao vậy? Đạt được tự tại nơi pháp, đạt được tự chủ chẳng đắm nhiễm sự nghỉ ngơi chân thật, cùng lúc vứt bỏ sự đắm nhiễm nghỉ ngơi và [ý niệm] đối đãi [cần phải] nghỉ ngơi của chúng sanh, thường luôn hành đạo nghiệp!
(Kinh) Vân hà đương đắc trước đại khải giáp, chư Phật quảng đại giới trung quyết định trụ cố?
(經)云何當得著大鎧甲,諸佛廣大戒中決定住故?
(Kinh: Như thế nào sẽ được mặc giáp trụ lớn, quyết định trụ trong giới rộng lớn của chư Phật?)
“Quảng đại giới” (Giới rộng lớn): Vì trong hành pháp Ban Châu, thệ nguyện thuộc địa vị bậc nhất. Niệm Phật trong một kỳ hạn mong thấy Phật, hoặc lợi ích hữu tình v.v… đều do nương vào đại thệ nguyện mà kiến lập. Đại thệ nguyện là đại giới, là đại hiếu thuận. “Đại hiếu thuận” là chí đạo hiếu thuận, là giới. Do vậy, tùy thuận là giới. Đại tùy thuận là giới! Giới ấy là giới rộng lớn, giới thanh tịnh, giới chân thật. Tuy là vô ngôn thuyết, nhưng là “lược giới”. “Lược” là nhờ vào ngôn thuyết đơn giản, bao gồm hết thảy thiện xảo lợi tha, tâm trí lợi tha, chọn lựa lợi tha, quyết định trụ trong giới, tức là dùng chuyện lợi lạc chúng sanh để quyết định trụ, dùng tùy thuận công đức thù thắng trong các pháp để quyết định trụ, dùng tán thuận (tán thán và tùy thuận), dùng hiếu thuận chư Phật, Bồ Tát, thánh nhân, và hết thảy hữu tình để quyết định trụ. Đó cũng gọi là “thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ” (trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ tam đồ). Mọi người rất quen thuộc kiểu nói này, nhưng trong pháp tắc thực tiễn, chúng ta hãy nên quan sát cặn kẽ chính mình có tương ứng với cách nói ấy hay không? Trên thực tế, thủ hộ thệ nguyện sẽ có thể bảo vệ chúng ta chẳng hứng chịu những tổn thương do biến đổi trong khi hành pháp, chẳng bị các nhân duyên đổi khác xâm đoạt. Nếu chúng ta học tập, tu tập pháp Ban Châu, sẽ có thể chân thật sanh khởi cái tâm “chẳng bị thoái đọa”, rốt ráo an trụ, chẳng bị tổn thương, tùy thuận lợi ích thế gian, tùy thuận công đức rất sâu của chư Phật, thuận theo thệ nguyện rộng lớn của A Di Đà Phật, tùy thuận chọn lựa an trụ trong thệ nguyện lợi ích chúng sanh rộng lớn. Đó là một động lực lớn nhất để hành pháp, cũng là bi trí song tu, mà cũng là nơi công đức chân thật hiện diện.
Cơ chế tâm lý của người hành pháp muôn ngàn sai khác. Tôi đã thấy mấy trăm bài văn phát nguyện, khác biệt hết sức to lớn. Có người viết ngắn gọn, có người phức tạp, có người tự lợi, có người nói về lợi tha, có người nghi pháp, có người là pháp thù thắng, cho đến có người cầu cảm ứng, có người cầu xuất ly, người thì cầu của cải, có người cầu oai đức to lớn, có người cầu thiện xảo, có người cầu chế ngự, ước thúc kẻ khác, có người cầu lợi ích người khác, có người cầu tăng thêm phước báo cho xã hội. Hạng người nào cũng đều có, lời nguyện gì cũng đều có; nhưng có một điều: Một trăm hai mươi hai điều “vân hà” thật sự là công đức và lợi ích chân thật của Ban Châu!
Pháp Ban Châu là do Thích Ca Mâu Ni Phật tuyên nói ở Trúc Lâm Tinh Xá tại thành Vương Xá trong thế giới Sa Bà. Sau khi kinh điển được kết tập, bản kinh này được phiên dịch, truyền bá sang Trung Hoa trong thời Tùy – Đường, một mực truyền bá đến tận bây giờ. Đương nhiên là có rất nhiều kẻ nghi ngờ, phỉ báng pháp này. Đức Thế Tôn vì che chở hạng người ấy, trước tiên đã nói: “Đừng báng pháp này, kẻo phải hứng chịu khổ báo to lớn, hứng chịu luân hồi xấu ác”. Trong đoàn thể này của chúng ta, cũng có kẻ phỉ báng pháp này, nói pháp này là giả, là pháp bất chánh, là tà pháp: “Ngồi ở chỗ này nghe giảng thì là chuyện chẳng tương ứng. Tôi cảm thấy chẳng thích hợp, là chẳng công bằng, là chẳng có ý nghĩa chi hết!” Nói theo phía quý vị, sở dĩ [quý vị chê trách] pháp này chẳng công bằng là vì chúng ta thuộc vào tình huống ngờ vực pháp tắc này, phỉ báng pháp tắc này. Cho nên [nhận thấy pháp tắc này] chẳng công bằng đối với chính mình. [Hãy nên có tâm thái] “thà nguyện chính mình bị vứt bỏ, cũng chẳng bằng lòng nghi ngờ, phỉ báng”. Nghi ngờ, phỉ báng sẽ khiến cho chính mình bị rất nhiều thương tổn, giống như dùng trứng gà phang đá cuội, kết quả cứ nghĩ liền biết. Đối với chuyện này, trong kinh điển, đức Thế Tôn đã có thọ ký, trong phần sau sẽ nói tới.
Nhưng trong xã hội, kẻ trực tiếp quở mắng, chửi bới kinh điển này, chửi bới hành pháp này rất hung hăng thì giống như trong kinh điển đã ghi chép. Trong chúng thường trụ hiện tiền, tôi cảm thấy làm như thế đối với bản thân quý vị, sẽ là bất công, chẳng thích hợp. Nếu có kẻ như thế, hãy nên lập tức sám hối. Nếu không, hãy nên lìa bỏ nơi này, có thể hành trì pháp tắc khác, sẽ chẳng đến nỗi báng pháp, mà cũng chẳng đến nỗi bị thương tổn. Vì đây là một đạo tràng Ban Châu, nếu quý vị ngờ vực, hủy báng pháp tắc này, thì hãy nhanh chóng sám hối, hoặc mau chóng rời đi. Cả hai cách ấy đều được, sẽ có lợi, công bằng, tương ứng. Pháp tắc mà chúng ta hành trì trong đạo tràng này có ý nghĩa. Tán thán một pháp tắc là có ý nghĩa, còn ngờ vực, hủy báng pháp tắc là do tâm ngờ vực, tâm hủy báng của quý vị sanh khởi! Không chỉ chẳng đạt được lợi ích trong Phật pháp, mà còn có thể tổn thương chính mình. Nhất là vẫn ở lỳ trong đạo tràng này thì sẽ là chẳng thích hợp, phạm lỗi gây rối loạn đại chúng và hủy diệt đạo tràng. Đừng nói là ai có thể cứu độ, chính mình cũng chẳng thể tha thứ cho chính mình! Vì sao nói như vậy? Đó cũng là chẳng xả hết thảy hữu tình, chẳng tổn hại hết thảy hữu tình, vì quý vị có thể nói là chính mình vô duyên đối với pháp này. Như thế thì cơ bản là chẳng báng pháp, chẳng ngờ vực, hủy hoại pháp, cho nên chẳng sanh ra lầm lỗi, mà cũng chẳng khiến cho hữu tình bị tổn thương. Ở đây, thừa dịp học Phật, học pháp này, tôi trịnh trọng nêu ra [những điều cảnh tỉnh ấy], hy vọng mọi người hãy khéo tư duy nhân duyên của chính mình để chẳng đến nỗi bị tổn thương không cần thiết!
“Quảng đại giới trung quyết định trụ” (Trụ quyết định trong giới rộng lớn): Trong thực tế, hiếu thuận là chí đạo. Nếu kiến lập thệ nguyện, nếu tùy thuận thệ nguyện, chúng ta đều nên tùy thuận pháp. Trong tùy thuận, sẽ có giới, giới đức, hộ trì pháp tắc mà chúng ta đã hành. Trong kinh điển, đức Thế Tôn đã nói giới ở chỗ nào? Ở nơi hiếu. Hiếu là chí đạo. Hiếu là gì? Hiếu là giới. Hiếu thuận là giới. Đấy chẳng phải là nô dịch chúng ta. Bản thân của giới có thể bảo vệ chúng ta, mang lại lợi ích không chi lớn bằng cho chúng ta. Nhưng trong thời đại này, lòng người dễ phản nghịch, thường nói là hay rối loạn “tánh giới”, dĩ hạ phạm thượng. “Thượng” ở đây chẳng phải là thượng trong “thượng hạ” (trên dưới), mà [thượng] là chỗ đáng nên cung kính, chỗ đáng nên thủ hộ, chỗ đáng nên yêu thích. Nếu như chửi bới, lay động, va chạm những nơi ấy, sẽ sanh ra thương tổn. Vì thế, hiếu thuận là chí đạo (đạo cùng tột). Người Hoa đặc biệt nói tới hiếu, nhưng hữu tình trong thế gian hiện thời phần nhiều chẳng chuộng hiếu đạo, phần nhiều thích làm các hạnh ngang ngược, trái nghịch, nói lời chẳng dễ nghe, làm các chuyện chẳng thuận thảo, thỏa đáng, kết quả là khổ sở. Vì vậy, do niềm vui tùy thuận, từ niềm vui do giữ giới, có thể đạt được niềm an lạc nơi pháp, niềm vui hiếu kính, có thể đạt được niềm vui được che chở.
Hành Ban Châu cũng giống như thế. Nếu dùng cái tâm đối kháng, tâm chẳng tùy thuận để hành pháp Ban Châu, sẽ rất khó hành. Thông thường, người thật sự hành pháp Ban Châu sẽ rất điều phục, mềm mỏng. Phàm là kẻ chẳng điều phục, mềm mỏng, đều là do tập khí chẳng điều phục, mềm mỏng. Tất cả các thứ chẳng điều phục, mềm mỏng nơi thân người hành Ban Châu đều là do sau khi đã hành Ban Châu, sức mạnh của việc hành trì Ban Châu chèn ép tập khí, cho nên sự chẳng điều phục, chẳng nhu thuận mới nẩy sanh sức mạnh to lớn như thế. Trong thực tế, luôn có những trường hợp như vậy. Nhưng nếu là người một mực tùy thuận hành pháp Ban Châu, sẽ rất điều phục, nhu hòa, sẽ đạt được an lạc nơi “quảng đại giới” như đang nói ở đây. Tức là lợi lạc trọn khắp thế gian, tùy thuận Phật nguyện, tùy thuận bi trí, tùy thuận phương tiện, tùy thuận hữu tình, ban bố an lạc. Tâm trí ấy tất nhiên được kiến lập, vì được nguyện lực của Phật gia bị, được sức công đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật gia bị, được sức thần thông chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật Như Lai gia bị, dưỡng dục tâm linh và đạo đức của chúng ta. Khi chúng ta niệm Nam-mô A Di Đà Phật, âm thanh công đức ấy và thệ nguyện của đức Phật sẽ dưỡng dục cảm giác của chúng ta, gia bị quá trình tự tánh biểu hiện chín muồi của chúng ta. Những kẻ tự đại kiêu mạn cũng sẽ dần dần được mài giũa trong ấy, khiến cho sự kiêu mạn và tự đại của chính họ bị tiêu trừ. Vì lẽ nào? Hành Ban Châu một thời gian, sẽ biết sự tự đại của chính mình là vô ích, chẳng có ý nghĩa gì hết! Kẻ càng tự đại, trong khi kinh hành Ban Châu, sẽ rất nhanh chóng điều chỉnh. Nhưng chủ yếu là kẻ tự đại sẽ chẳng bằng lòng kinh hành Ban Châu, vì lẽ nào? Do khinh thường! Một là ta chẳng chịu khổ, hai là ta chẳng thể chịu khổ. Chẳng chịu khổ là mạn tâm, chẳng thể chịu khổ là cái tâm sợ hãi. Kẻ như vậy tất nhiên là tự đại, cho nên trong phần sau, đức Thế Tôn có nói về những kẻ tuy nghe mà chẳng thể hành pháp này!
(Kinh) Vân hà đương đắc nhất thiết chư Phật sở tán quán đảnh, trụ ư chư Như Lai Thập Lực địa trung cố?
(經)云何當得一切諸佛所贊灌頂,住於諸如來十力地中故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ đạt được chư Phật khen ngợi, quán đảnh, trụ trong địa vị Thập Lực của chư Như Lai?)
Chư Phật Như Lai có Thập Lực, mười tám pháp Bất Cộng, Tứ Vô Úy, chính là các pháp mà chư Phật Như Lai chẳng có chung với chúng sanh. “Quán đảnh vị” (Địa vị quán đảnh): [Quán đảnh] là một pháp tắc riêng ở Ấn Độ. Trong quá khứ, khi ban vương vị, dùng nước của bốn đại dương để làm nghi thức rưới nước lên đỉnh đầu (quán đảnh), nhằm tượng trưng cho sự tôn quý. Hiện thời, tại một số quốc gia ở Đông Nam Á, trong quá trình tiếp nhận vương vị, vẫn dùng cách quán đảnh này. Như khi Tây Cáp Nỗ Khắc (Sihanouk) truyền ngôi vua cho vương tử [Tây Cáp Mạc Ni (Sihamoni)], cũng cầm một vò nước rưới lên đầu vương tử. Quán đảnh là trụ trong pháp vị. “Vị” nghĩa là có thành tựu, có sức nhiếp hóa.
Trong hành pháp Ban Châu, đích xác là có thể khiến cho chúng sanh tiến nhập tâm trí chẳng sợ hãi, an ủi thế gian, chẳng vướng mắc, đạt được các loại sức thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải là do tự lực trong các hành pháp thông thường mà có thể thành thục được! Pháp Ban Châu có giáo ngôn mười phần bất cộng, tức là Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập. “Lập” có nghĩa là thuyết pháp, người nghe bèn nghe pháp. Sau khi nghe pháp, sẽ tiến nhập, đích thân chứng tự tánh, chẳng có gì sợ hãi, chọn lựa Vô Sanh Pháp Nhẫn. Đây thật sự là một pháp tắc rất khó có trong các hành pháp hiện thời. Pháp tắc như vậy vẫn là nói với các phàm phu chưa đoạn dục, cũng có nghĩa là phàm phu có phần trong pháp tu tam-muội này. Nói theo quy củ thông thường, người trong hiện thời tuy có thể thấy mười phương chư Phật, nhưng phàm phu chẳng thể thấy. Vì lẽ nào? Chưa thanh tịnh lòng dục! Chúng ta có thể tra duyệt rất nhiều kinh điển, [sẽ thấy] trong rất nhiều pháp, nếu muốn thấy Bổn Tôn, sẽ rất khó, phải cần rất nhiều gia hạnh tu trì thì mới có thể thành thục. Nhưng trong pháp Tịnh Độ, chẳng phải là như vậy. Tiến nhập thẳng thừng ngay trong hiện tại, thiện xảo đích thân chứng tam-muội đều là ngay trong hiện tiền. Cái “hiện tiền” này dù thấy hay không thấy, đều thanh tịnh thủ hộ. Do vậy, người thấy sẽ hỏi, hỏi thì sẽ được đáp ngay. Đáp rồi liền biết, biết gì vậy? Giống như được quán đảnh, tức là Phật đích thân tự quán đảnh, [hành nhân] đích thân tới trước chư Phật nhận quán đảnh. Đó là “đắc nhất thiết chư Phật sở tán quán đảnh” (Được hết thảy chư Phật khen ngợi, quán đảnh). Nói “sở tán quán đảnh” là đích thân ban cho pháp chân thật, khiến cho quý vị trụ trong bất thoái chuyển. Sự gia trì của pháp này đúng là chẳng thể nghĩ bàn!
Nay trong đại chúng hiện tiền, có ai được chư Phật quán đảnh như thế hay chăng? Thật ra, chuyện này chẳng phải là chuyện khó, tùy thuộc chúng ta có siêng năng hành trì pháp tắc này hay không? Có thật sự tin tưởng quyết định hay chăng? Có thật sự yêu thích, chẳng ngờ vực mà tu tập hay không? Khó hay dễ chẳng ở nơi pháp tắc! Khó hay dễ căn bản ở nơi [hành nhân] phát tâm. Nếu phát tâm khó khăn, hành pháp sẽ khó khăn. Nếu phát tâm dễ dàng, hành pháp bèn dễ dàng. Quý vị nói xem, có phải chính mình cảm thấy dễ dàng là được rồi hay không? Chẳng phải! Quý vị phát tâm càng rốt ráo, càng triệt để, càng thuần tịnh, càng đơn nhất, sẽ đạt được dễ dàng. “Dễ” là càng trực tiếp, càng liễu đạt, càng triệt để, càng chân thật. Do đó, pháp chẳng có khó hay dễ. Phán định phàm hay thánh cũng chẳng nói gì đến khó hay dễ, chỉ là chúng ta tự xếp đặt quá nhiều chướng ngại cho chính mình.
“Trụ ư chư Như Lai Thập Lực địa trung cố” (Do trụ trong địa vị Thập Lực của các đức Như Lai): Pháp Ban Châu này là cha của mười phương chư Phật, sanh ra tướng công đức oai lực to lớn, hàm nhiếp các chuyện thuộc địa vị Bát Địa Bồ Tát, tức là quyết định đạt được bất thoái chuyển ngay trong một đời. Do đó, pháp như vậy chẳng cho phép ai phỉ báng. Thật ra, chẳng phải là không cho phép, mà là sợ quý vị bị thương tổn. [Bởi lẽ], trên thực tế cũng chẳng có gì để sợ, quý vị cũng chẳng có gì để có thể phỉ báng. Chỉ là chính mình [hễ phỉ báng], sẽ tự mình bị thương tổn đó thôi! Nhất định phải chú ý điều này! Đối với loại pháp tắc này, thường là những kẻ chẳng hành trì thành tựu, chẳng có tiến nhập, bèn dựa vào nghiệp lực của chính mình, dùng tâm lượng của chính mình để đánh giá rồi phỉ báng. “Báng” thì sẽ mê mờ, che lấp thiện căn của chính mình, tán hoại thiện nghiệp của chính mình, thậm chí mê loạn người hành pháp thanh tịnh hoặc người phát tâm. Lỗi lầm này rất khó thấy thấu suốt! Người ở đất Hán hiện thời báng pháp, hủy pháp chẳng hề sợ hãi; chứ trong Tạng truyền Phật giáo, rất nhiều người chẳng dám. Ngay cả tội xả pháp cũng đều chẳng dám phạm. Họ nhận biết pháp, trao đổi rất cẩn thận, nhất là đối với pháp tắc tu hành được truyền bá rõ ràng. Chúng ta phải nên chú ý sâu xa điều này. Có những kẻ nhiệt não, phiền não, thốt ra những lời chính mình chẳng chịu trách nhiệm. Đối với người khác thật sự là chẳng có gì, quý vị cũng chẳng tổn hại người khác, nhưng rất dễ tạo thành nghi hoặc nhất thời cho kẻ khác, lung lạc nhân duyên hành pháp của người khác trong một lúc. Tức là nói theo căn bản thì chẳng thể thương tổn người khác, nhưng trong hiện duyên, quý vị có thể làm khổ chính mình, nhất định sẽ rất khổ. Tôi nêu ra ở đây, vẫn mong mọi người hãy tự yêu thương, bảo vệ chính mình.
(Kinh) Vân hà đương nhất thiết sở tưởng, thông đạt nhất thiết chư pháp hạnh cố?
(經)云何當一切所想,通達一切諸法行故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ trong hết thảy suy tưởng, thông đạt hết thảy các pháp hạnh?)
Chư vị thiện tri thức! Khi hành pháp, chúng ta sẽ thấy cách nghĩ của chính mình rất rõ ràng. Trước kia, khi tôi ở một nơi, trong cơ chế “hết thảy suy tưởng tương ứng với pháp”, đã nói ra bốn chuyện. Tôi nói đó là chuyện trong tưởng tượng của tôi, kết quả là tôi chẳng nói, mọi người đều thấy là đúng! Thật ra, các chuyện ấy đều đã sớm có kết quả, vì lẽ nào? Trước khi làm, đã suy nghĩ một phen. Sau khi suy tưởng, bèn xếp đặt, vẫn lệch về một bên. Kết quả là sau khi đã đi đường vòng, bốn chuyện ấy mỗi chuyện đều thành thục. Vì sao cách suy tưởng và sự thật có thể tương ứng? Điều quan trọng nhất ở đây chính là chữ Tưởng trong “nhất thiết sở tưởng”, nó là gì vậy? Nếu đúng như thật thấu đạt trước sau chẳng khác biệt, sẽ có thể hình thành sức mạnh “hết thảy các pháp hạnh” và tưởng ngang hàng!
Như vậy thì quý vị có thể làm cho tưởng và pháp hành tương ứng hay không? Chẳng cần phải sợ hãi. Nếu muốn tương ứng, quý vị nhất định phải có sức nhìn thấu suốt, tức là thấy thấu suốt tiền tế và hậu tế chẳng tách rời. Đó gọi là “một niệm làm ba đời”, “ba đời làm một niệm”, “một niệm là tam tế” (quá khứ, hiện tại, vị lai). “Tế” (際, bờ mé, giai đoạn) thật sự chẳng có ngằn mé. Thường là chúng ta do nẩy sanh sự chọn lựa chẳng chân thật ở nơi đây, bèn nói “đó là chuyện thuộc về vị lai”. Chuyện vị lai là như thế nào? Quý vị nói: “Nay quý vị có thể tưởng chỗ này thành thứ gì đó hay không?” Chẳng phải vậy, tôi chẳng cần tưởng. Tám năm trước, nếu tôi nói với mọi người về năm chỗ đang xây dựng[6] trong hiện thời tại chùa Phóng Quang, chẳng có ai không cười nhạo, quở tôi bị bệnh thần kinh ư? Vì trước kia Phóng Quang Tự chừng bằng bàn tay, khắp nơi đều là gai góc. Năm chỗ trong hiện thời chẳng phải do tôi xây dựng. Đấy chẳng phải là một thứ cố ý khoa trương, những người thường trụ sớm nhất tại chùa Phóng Quang đều biết: Đã bàn đến chuyện này, nhưng mọi người chẳng sanh lòng tin, cho rằng chẳng tương ứng: “Đó là cách suy nghĩ chẳng có ý nghĩa”. Nếu muốn cách suy nghĩ và pháp hành tương ứng, phải tưởng như thế nào? Đây là một cơ chế tu pháp của phàm phu rất có ý nghĩa. Đầu óc của phàm phu đều là ái tưởng (suy tưởng về những điều yêu thích), suy tưởng không ngừng, nhưng phần lớn là vọng tưởng, chẳng tương ứng với pháp, chẳng tương ứng với pháp hành. Có người suy tưởng đen tối, suy tưởng điên đảo, suy tưởng ngu si, suy tưởng tự đại, suy tưởng lừa dối người khác, suy tưởng kiêu mạn, cuối cùng khẳng định là chẳng có ý nghĩa. Có Bồ Tát còn đoán cho tôi một quẻ, bảo: “Ái chà! Sáu tháng cuối năm thầy sẽ bị thế này, thế nọ?” Tôi nói: “Nếu quý vị đoán chuẩn xác, chiều hôm nay tôi sẽ quẩy ba lô về nhà, Phật pháp chẳng liên quan gì đến tôi! Vì sao? Nếu quý vị có thể đoán chuẩn xác cho tôi, tính ra lúc nào tôi sẽ chết. Quý vị có thể tính xem chính mình lúc nào sẽ chết hay không?” Lời ấy trên thực tế là lời tương ứng, tương ứng với gì vậy? Hy vọng mọi người đối với pháp và tưởng, phải có cơ chế tương ứng. Sau đó, nửa năm sau, tôi gặp lại vị Bồ Tát ấy, liền hỏi: “Quẻ bói của quý vị có chuẩn hay không?” Ông ta nói: “Ối giời ơi! Phật pháp có thể thay đổi vận mạng của con người”. Tôi nói: “Phật pháp chẳng thể thay đổi vận mạng của con người. Con người đích xác là có vận mạng, nhưng nếu có thể hành trì đúng pháp, sẽ thật sự là không có pháp nào để có thể đắc, không mảy trần nào để có thể nhiễm!” Các vị thiện tri thức ơi! Phật pháp cách chúng ta chẳng xa, ở ngay trong mỗi niệm hiện tiền, đích xác là trong mỗi nhân duyên hiện tiền thật sự trọn đủ hết thảy công đức, lợi ích, mà cũng là trọn đủ tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến bất chánh, quý vị có thể vận dụng hay không?
“Vân hà đương đắc chư pháp sở tưởng, thông đạt nhất thiết chư pháp hạnh cố” (Như thế nào để trong suy tưởng các pháp, thông đạt hết thảy các pháp hạnh): Đối với chuyện này, tôi có kinh nghiệm thực tiễn. Trước kia, tôi gặp một vị Bồ Tát bảo tôi: “Sư phụ! Vào năm nào đó, thầy sẽ như thế này, như thế nọ. Thầy cứ xem đi!” Tôi suy nghĩ, cân nhắc đôi chút, sau đó nói: “Rất xin lỗi Bồ Tát! Trong tâm tôi chẳng có chủng tử ấy!” Nếu có chủng tử ấy, tôi nhất định giống như lời người ấy nói. Nhưng do chẳng có chủng tử ấy, nó chẳng chín muồi. Cũng có nghĩa là chúng ta có thể quan sát kỹ chủng tử nhân duyên nơi chỗ sâu thẳm trong tâm của chính mình, tức là đối với chỗ ấy, quý vị có sợ hay không? Có hoảng hốt hay không? Là nhiễm hay chẳng nhiễm? Là đạt được hay không? Nếu quý vị có thể cảm nhận, biết rõ; sau đó, hành pháp sẽ rất rõ ràng. Do vậy, hiện thời rất nhiều người sợ thầy tướng số, sợ những người có sức thần thông nói cho họ biết những thứ này nọ. Vì sao sợ hãi? Do có chủng tử. Hễ có chủng tử, khi người khác xếp đặt cho quý vị các chủng tử ấy, chúng sẽ tương ứng, sẽ chín muồi, như thế thì sẽ bị trói chặt. Đó là trong hành pháp Ban Châu, hoàn toàn có thể thuần thục cơ chế “tưởng và pháp hạnh tương ứng”.
(Kinh) Vân hà đương đắc nhất thiết toán số, xảo phương tiện tri cố?
(經)云何當得一切算數,巧方便知故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ biết hết thảy toán số, phương tiện hay khéo?)
“Toán số” phải nhận biết như thế nào? Chính là [các pháp] có tánh chất trật tự, chân thật, liên tục theo thứ tự. Nếu trong năm môn theo thứ tự của hành pháp Ban Châu, chúng ta có thể phá trừ ấm cảnh, có thể thấy tướng quang minh, có xuất hiện tướng trang nghiêm của các cõi Phật, có thể đích thân thấy tướng chư Phật thuyết diệu pháp, có thể đích thân chứng pháp tánh chân thật chẳng nhiễm, chẳng chấp trước tướng “chẳng đến, chẳng đi”. Trong các thứ tướng ấy, chúng có thứ tự rõ ràng, tự do xuất nhập trong thứ tự sai, thứ tự đúng, thứ tự thuận, thứ tự đảo. Đó là thật sự thành tựu nơi pháp ấy. Như có người hành Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, xuất nhập tự tại, nhập mỗi pháp Thiền bèn đạt được phương tiện tự tại, nhập mỗi môn Định bèn đạt được phương tiện tự tại, có nghĩa là người ấy đã thuần thục pháp tắc như thế. Trong hành pháp Ban Châu, nếu có thể thiết lập như thế, sẽ có thể đạt được phương tiện tự tại giống như thế, đạt được sức tự tại Xảo Tri Nhất Thiết Pháp (khéo biết hết thảy các pháp). Đối với loại bói toán này, tức là lại xét kỹ các tướng thế gian, tức các tướng quá khứ, hiện tại, vị lai, tướng “ta, người, kẻ khác”, tướng Phật giáo, tướng tự viện, mỗi tướng đều vận dụng thuận tiện.
Tôi đặc biệt tán thán những người có sức thần thông, đặc biệt phản đối những kẻ giả vờ có sức thần thông. Tôi cũng đã từng gặp các vị Bồ Tát có sức thần thông khá tốt, “tốt” hiểu theo nghĩa nào vậy? Họ thuần túy thiện lương, cái tâm trong sáng, có thể thấy một pháp mười phần rõ ràng, bảo cho quý vị biết trình tự, nhân duyên để tiếp tục duy trì pháp ấy mười phần thiện xảo. “Toán” (Bói toán, dự đoán) của họ là “toán” gì vậy? Dùng sức thần thông để thấy. Có người dùng thuật số để tính toán, dùng bấm đốt ngón tay, [đếm] Giáp, Ất, Bính, Đinh, Tý, Sửu, Dần, Mão… Có người dùng bốc phệ[7] [để tính quẻ bói]. Các thứ bói toán kiểu đó cũng là phương tiện thế gian, có thể thấy phương tiện xuất thế gian hay không? [Những thứ đó] cũng có thể làm trợ duyên; nhưng nếu đắm nhiễm vào đó, kiêu mạn nơi đó, tà kiến nơi đó, chú trọng kiếm lợi nơi đó, sẽ bị đọa lạc! Cho nên nói phương tiện để “bói toán” thì có khi dựa vào sức thần thông, cũng có thể dựa vào đồ hình, quẻ tượng, có khi bói bằng âm thanh, tức là do dựa vào âm thanh nghe được mà bói, cũng có khi dùng bốc phệ để bói, cũng có thể là điều động quỷ thần để bói. Các phép bói toán đó thật sự đều nhằm vào một mục đích: Phương tiện nhằm lợi ích hữu tình. Nếu dùng nó vì kiêu mạn, tà kiến, tự đại, sẽ có nguy hại, tuy là cùng một sức mạnh. “Vân hà đương đắc nhất thiết toán số, xảo phương tiện tri cố” (Như thế nào thì sẽ được trong hết thảy toán số, biết phương tiện khéo): Trong khi hành Ban Châu, sẽ có cảm giác rõ ràng và sự thiện xảo. Hành trì pháp Ban Châu tất nhiên sẽ trọn đủ thiện xảo như vậy. Thật ra, đối với người thật sự hành pháp [Ban Châu] này, đâm ra những kỹ xảo ấy chẳng phải là chuyện khó.
(Kinh) Vân hà đương đắc thiện tri nhất thiết thành hoại, viễn ly nhất thiết chướng ngại cố?
(經)云何當得善知一切成壞,遠離一切障礙故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ được khéo biết hết thảy thành hoại, xa lìa hết thảy chướng ngại?)
Nếu người nào khi đã đạt được phương tiện do sức thần thông, phương tiện tính toán, cho đến phương tiện quan sát, phương tiện trí huệ, có thể dùng toán số, và sức hay khéo để biết chuyện quá khứ, hiện tại, và vị lai. “Quá khứ, hiện tại, vị lai” thật ra là một thứ xếp đặt hư giả, trong một niệm có thể biết thấu triệt. Chỉ là chúng ta đối với một niệm nhận biết ấy, thường câu nệ nơi nhân duyên hiện tại, chẳng dám triển khai, chẳng dám tiếp nối, chẳng dám suy diễn đến quá khứ và vị lai. Vì sao vậy? Do chẳng có sức thiện xảo và thấy thấu suốt như thế! Trong khi chúng ta hành Ban Châu, nhất định sẽ có thể dẫn phát loại sức mạnh chẳng thể nghĩ bàn này. “Thiện tri nhất thiết thành hoại” (Khéo biết hết thảy các thành hoại), tức là có thể quan sát duyên khởi, quá trình và kết quả của hết thảy mọi chuyện, thấy thấu triệt hết thảy nhân duyên quá khứ, hết thảy nhân duyên hiện tại, hết thảy nhân duyên vị lai, cũng như quá trình và kết quả của chúng.
Thật ra, nói “quá, hiện, vị lai” đúng là rất miễn cưỡng; nhưng đối với tâm trí phàm phu, nếu chẳng nói “quá khứ, hiện tại, vị lai”, họ sẽ bị mê mất, sẽ mê ngay trong hiện tiền, chẳng biết an trụ trong một niệm hiện tiền như thế nào. Do vậy nói “vị đắc Lậu Tận Minh, bất tri đương hạ trụ” (chưa đắc Lậu Tận Minh, chẳng biết an trụ trong một niệm hiện tiền), quý vị sẽ lập tức một mực mê muội, thảng thốt, chẳng biết làm gì, quan sát gì, vận dụng gì, hướng đến gì, thủ hộ điều gì! Nếu chúng ta có thể khéo vận dụng “nhất thiết tưởng, thông đạt nhất thiết pháp hành” (hết thảy các tưởng, thông đạt hết thảy các pháp hành), vậy thì sẽ đối với những cái gọi là mộng thiện xảo, hiện duyên thiện xảo, ác thiện xảo, thiện thiện xảo, cảnh tướng thiện xảo, pháp tắc thiện xảo, đều có thể dần dần thuần thục, vận dụng rõ ràng. Vận dụng điều gì? Biết hết thảy các pháp, hết thảy thành hoại, xa lìa hết thảy các hạnh chướng ngại.
Trong chướng ngại mà vô ngại, thật sự là vô ngại hạnh, thật sự là giải thoát hạnh, thật sự là thành tựu hạnh, thật sự là chọn lựa hạnh. Hạnh của phàm phu hễ hành trì sẽ có chướng ngại, gây trở ngại cho sự hành trì. Trong chướng ngại, chúng ta có thể tiến nhập vô ngại hạnh hay không? Trong Tịnh Độ Thập Yếu, có nêu ra mười loại vô ngại hạnh[8], nhập cảnh vô ngại. Phàm phu trong chướng ngại mà hành vô ngại, đúng là rất hy hữu! Hành pháp Ban Châu cũng giống như thế, vì “lập một niệm, đoạn các tưởng”, trong các thứ tưởng ấy đều là ngăn ngại: Chướng ngại vì mệt mỏi, chướng ngại vì khốn khó, chướng ngại vì buồn ngủ, chướng ngại vì đói, chướng ngại vì lạnh, chướng ngại vì nóng, chướng ngại vì đau, chướng ngại vì phiền bực, chướng ngại vì nhàm chán… Trong đủ loại chướng ngại, sẽ đều hành vô ngại, cứ thẳng thừng mà tiến! Cho nên trong chướng ngại mà hành vô ngại, sẽ tự đạt được phương tiện, tự được giải thoát, tự đạt được thành tựu!
Các vị thiện tri thức ơi! Hành pháp này đích xác là rất có ý nghĩa. Khéo quán các chướng ngại, chẳng chấp trước nơi hạnh, tức là đạt được vô ngại hạnh. Hết thảy các chướng ngại vốn vô ngại, cho nên xa lìa chướng ngại. Chúng ta thường coi chướng ngại như một thứ đáng nên tránh né, coi khó khăn như một thứ có thể tránh né. [Nếu có thái độ như vậy], quả thật chẳng phải là hành giả Ban Châu, chẳng phải là hành nhân niệm Phật. Như thế thì trong khi chúng ta hành pháp, pháp tắc để thấy thấu suốt “trong chướng ngại mà hành vô ngại” là như thế nào? Thật ra, câu này rất thuận tiện, vì trong mười loại vô ngại hạnh, đề ra cho bọn phàm phu hữu tình chúng ta sự chọn lựa “trong chướng ngại mà hành vô ngại”. Nếu từ trong chướng ngại mà quý vị nẩy sanh trở ngại, trốn tránh chướng ngại, chướng ngại ấy sẽ trở thành sự thật, thật sự là chướng ngại, hoặc chướng ngại trong hiện tại, hoặc chướng ngại trong vị lai, ắt đều là chướng ngại, sẽ thật sự ngăn ngại quý vị! Phàm phu hữu tình phần nhiều sanh tâm chướng ngại, cũng như đối diện chướng ngại, sẽ lui sụt, sẽ tránh né. Hành pháp Ban Châu khiến cho chúng ta trong chướng ngại mà hành vô ngại, trong chướng ngại mà hành giải thoát, trong chướng ngại mà hành thành tựu, trong chướng ngại mà hành chân thật, hành gì vậy? Hành niệm Phật.
Chư vị thiện tri thức ơi! Đừng bỏ lỡ duyên thù thắng của chính mình khi chướng ngại hiện tiền. Chư vị thiện tri thức ơi! Đừng bỏ qua trân bảo của mình khi chướng ngại hiện tiền. [Hễ có quyết tâm như thế], chướng ngại ấy thật sự vô ngại. Ngay trong lúc đang hành pháp, ngay nơi chỗ đắc lực, chính là chỗ “biết hết thảy thành hoại”. Thành và hoại đều là tướng sai biệt, thật sự chẳng có tự tánh, hãy chọn lựa để sử dụng. Do vậy, ngại và vô ngại là do người hành pháp chọn lựa. Nếu chẳng thoái, nếu chẳng đọa, thẳng thừng tiến lên, “ngại” sẽ thật sự là vô ngại! Hành pháp Ban Châu có biểu hiện đặc biệt đột xuất do pháp tắc này, công đức này, lợi ích này, sự thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn này. Tức là trân quý một niệm hiện tiền của chính mình, dù là thuận duyên, hay nghịch duyên, ác duyên, duyên chống trái, duyên đau đớn, duyên ngứa ngáy, duyên tổn thương, duyên lợi ích, thậm chí lúc tám gió gột rửa, đều là duyên thù thắng. Duyên thù thắng là gì? Cái duyên vô ngại! Trong “thành hoại”, “thành” là thành tựu Bồ Đề; còn “hoại” là phá tan các chướng ngại ngăn chướng, như vậy thì sẽ có thể tự nhiên đạt được giải thoát.
Hành pháp Ban Châu được chúng ta tu tập khá nhiều, nhưng đối với chỉ đạo nơi lý luận cơ sở và kỹ thuật vận dụng vào thực tế, qua một trăm hai mươi hai câu hỏi này, đích xác là chúng ta quen thuộc với nó, đáng nên liễu giải rõ ràng nó, đáng nên thận trọng thực hiện nó, nhận thức nó. Như thế thì sẽ có thể thật sự nhanh chóng thành tựu sức tam-muội, hoặc thành tựu các thiện xảo để tiến nhập hành pháp này.
(Kinh) Vân hà đương đắc nhất thiết, bất trụ hành, bất thủ, bất xả cố.
(經)云何當得一切,不住行不取不捨故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ đối với hết thảy, đạt được các hạnh chẳng trụ, chẳng lấy, chẳng bỏ?)
“Ngại trung vô ngại hành” (Trong chướng ngại mà hành vô ngại) như trong phần trước cũng chẳng thể đạt được, cũng chẳng thể lấy, mà cũng chẳng thể bỏ! Ở đây, nếu lấy hay bỏ, sẽ đều là chướng ngại. Do vậy, trong “chướng ngại mà hành vô ngại”, [nếu chấp trước chính mình “ở trong chướng ngại mà hành vô ngại”] sẽ dễ nẩy sanh kiêu mạn và đắm nhiễm, cho là có cái để đạt được. Như thế thì sẽ chẳng thể tiến nhập thiện xảo rộng lớn, đích thân chứng tam-muội, đích thân thấy chư Phật. Nhất định phải thấy thấu suốt rõ ràng ở chỗ này! Thông thường, chúng ta vượt qua tầng chướng ngại thứ nhất là Ngã Chấp. Sau đó, sẽ nẩy sanh Pháp Chấp. Nếu chúng ta có thể trừ bỏ Ngã Chấp, trừ bỏ Pháp Chấp, thẳng thừng tiến lên, quang minh chiếu rọi, sẽ thấy chư Phật, không vướng mắc gì, chẳng có được hay mất gì! Đó gọi là “nhất thiết bất trụ hạnh” (hạnh chẳng trụ trong hết thảy), là thiện xảo để tu trì hòng thâm nhập Nhất Tướng tam-muội, là sự thủ hộ có công đức rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn để tiến nhập Nhất Hạnh. Trong hành trì Ban Châu, cũng giống như thế, sự thiện xảo này trọn đủ; đó gọi là “bất thủ, bất xả” (chẳng lấy, chẳng bỏ). Chẳng lấy, chẳng bỏ rất trọng yếu. Đại thủ, đại xả rất trọng yếu. Chẳng lấy, chẳng bỏ chính là đại thủ, đại xả! Xả là xả triệt để, thủ (取, giữ lấy) là thủ triệt để. Xa lìa đối đãi, nhập thiện xảo “chẳng lấy, chẳng bỏ” chẳng thể nghĩ bàn!
(Kinh) Vân hà đương đắc nhất thiết đại thí chủ, năng thí vô hối cố?
(經)云何當得一切大施主,能施無悔故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ được hết thảy đại thí chủ bố thí chẳng hối tiếc?)
Hành pháp Ban Châu chẳng có hối hận. Đây là pháp tắc được mười phương chư Phật trân quý, là pháp tắc trân quý, là pháp tắc được hết thảy Bồ Tát tột bậc cung kính lãnh thọ, là pháp tắc đáng được hết thảy trời, người cúng dường. Trước kia, có một vị sư phụ xuất gia từ bên ngoài đến quải đơn[9] tại đây, đã chất vấn tôi: “Cả đống cư sĩ và người xuất gia kinh hành Ban Châu như thế, cần phải có chúng thường trụ phục vụ họ. Họ có công đức gì, dựa vào đâu mà phải phục vụ họ chớ?” Tôi hỏi thầy ấy: “Đây là thầy chất vấn, hay là thảo luận?” Thầy ấy nói thầy ấy nhìn như thế có chút không quen! Trong quá khứ, bế quan đều là có yêu cầu. Chẳng hạn như người bế quan muốn chúng thường trụ phục vụ trong bao lâu, vì tín thí của mười phương khó thể tiêu hóa. Cớ sao ai đến đây cũng có thể hành Ban Châu, lại còn được mọi người chăm sóc? Tôi nói: “Nếu thầy xem kinh Ban Châu, nhất định sẽ chẳng nói như vậy!” Chủ yếu là rất nhiều người chẳng tiếp xúc lời dạy của đức Phật, cứ dựa theo ý nghĩ của chính mình để phán đoán, dựa vào cách suy nghĩ của chính mình để lượng định, dựa vào pháp mình đã biết để đánh giá. Trước kia, cũng có sư phụ xuất gia tại chùa Phóng Quang đã hỏi về chuyện này, nói “những thứ cúng dường dành cho người xuất gia và Tăng chúng, làm sao cư sĩ có thể sử dụng được?” Tôi nói: “Người xuất gia hay cư sĩ, không cần biết họ là gì, họ làm gì mới là quan trọng nhất!” Trong cơ chế hành pháp này, gì là Tăng, gì là cư sĩ, ai đáng nhận cúng dường, ai chẳng đáng nhận công đức, chúng ta dùng góc độ nào để cân nhắc? Đối với chuyện này, hãy khéo quan sát, khéo nhìn thấu suốt. Đây thật sự là một vấn đề lớn. Nếu chúng ta chẳng khéo chọn lựa ở chỗ này, cũng chẳng dám dễ dãi tạo ra nhân quả chẳng tương ứng cho mọi người. Sau khi đã học xong bản kinh này, mọi người nhất định có thể nhận biết: Người hành pháp Ban Châu quả thật được hết thảy chư Phật cúng dường, là người quyết định được hết thảy các vị Bồ Tát cúng dường, là người được hết thảy trời, người nhất định cúng dường.
“Vân hà đương đắc đại thí chủ” (Như thế nào thì sẽ được đại thí chủ): Đại thí chủ là nói theo kiểu nào? [Kinh Vô Lượng Thọ đã chép] “ngã ư vô lượng kiếp, bất vi đại thí chủ, phổ tế chư quần khổ, thệ bất thành Chánh Giác” (ta trong vô lượng kiếp, nếu chẳng làm đại thí chủ, giúp khắp chúng sanh khổ, thề chẳng thành Chánh Giác). A Di Đà Phật là đại thí chủ, đại thí chủ theo kiểu nào? Bố thí pháp, bố thí vô úy, tài bố thí, hết thảy đều bố thí, muốn gì bố thí nấy. Trong hành pháp Ban Châu, thực tế là thân, tâm, thế giới đều cúng dường đức Thế Tôn, cúng dường Tam Bảo, cúng dường pháp giới hữu tình, thì mới có thể tiếp tục hành trì được. Do đó, hành pháp này quả thật là hạnh của bậc đại thí chủ, là hạnh không vướng mắc, hạnh triệt để hồi thí, hạnh không giữ lại bất cứ gì. Hành Ban Châu đã lâu, đích xác là có thể cảm “khéo thí vô úy, khéo thí pháp tắc vô úy”, cùng lúc chọn lấy tài bố thí, pháp bố thí, vô úy bố thí. Người thật sự hành pháp này, tâm sẽ chẳng vướng mắc, tâm không đắm nhiễm. Người thật sự tùy thuận, an trụ trong pháp tắc này, sẽ khéo bố thí, sẽ biết chọn lựa. Đó là một công đức thực tế của hành pháp Ban Châu, giống đại thệ nguyện “phổ vi đại thí chủ, phổ tế chư quần khổ” của A Di Đà, tạo sự thủ hộ rộng lớn như thế. Do đó, khi hành Ban Châu cũng là tài bố thí, vô úy bố thí, mà cũng là pháp bố thí, tam đàn (ba sự bố thí) đều trọn đủ, lợi lạc trọn khắp hữu tình, không có gì sợ hãi!
(Kinh) Vân hà đương đắc nhập chư pháp hải, năng thí thắng thượng pháp bảo tạng cố?
(經)云何當得入諸法海,能施勝上法寶藏故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ được vào trong các biển pháp, có thể bố thí kho báu pháp thù thắng, thượng diệu?)
“Vị chúng khai pháp tạng, quảng thí công đức bảo” (Vì đại chúng mà mở kho pháp, rộng thí báu công đức): Đấy là tâm trí xuất thế của hết thảy chư Phật, là tâm nguyện thủ hộ hết thảy giáo ngôn thù thắng. Ở đây, “nhập chư pháp hải, năng thí thắng thượng pháp bảo tạng” (vào trong các biển pháp, có thể thí tạng pháp bảo thù thắng, bậc thượng). Hồi thí một câu Nam-mô A Di Đà Phật quả thật chẳng thể nghĩ bàn, vì có thể làm cho hết thảy chúng sanh đích thân thấy chư Phật, nghe pháp, mở kho pháp cho đại chúng. Nghe pháp nhập pháp tạng, nghe pháp nhập pháp hải. Phật là đấng tự tại thủ hộ hết thảy các pháp, là đấng tự tại thành tựu hết thảy các pháp, là đấng tự tại hồi thí hết thảy các pháp, là đấng giáo ngôn tự tại nơi hết thảy các pháp, có thể khiến cho hết thảy chúng sanh được tự tại nơi pháp. Nếu chúng ta có thể thấy Phật, nghe pháp, sẽ quyết định có thể vào trong các biển pháp, rộng tu tập hết thảy các pháp, vào hết thảy các pháp tạng, tự tánh tạng, công đức tạng, cho đến hết thảy hạnh nguyện tạng, cùng lúc nhìn thấy hết thảy các pháp tạng. Tức là khi hành Ban Châu, sẽ thấy nhân duyên thành thục hiện tiền của Thập Phương Chư Phật Hiện Tiền Lập.
“Năng thí thắng thượng pháp bảo tạng cố” (Có thể thí kho pháp bảo thù thắng bậc thượng): Hành trì pháp môn Tịnh Độ, kể cả hành trì hành pháp Ban Châu, đều là chẳng thể nghĩ bàn. Hiện thời, hành pháp Ban Châu bị quy kết thành một pháp thuộc vào Đường Mật Tịnh Độ, [cho rằng] hành pháp Ban Châu chẳng thể là hành pháp đại biểu cho Tịnh Độ, mà là một pháp môn kèm theo của hành pháp Tịnh Độ, tức chỉ là một pháp tu nhánh rẽ, chẳng phải là toàn thể của hành pháp Tịnh Độ, nhưng nó có công đức thiện xảo to lớn chẳng thể nghĩ bàn, có sức gia trì to lớn chẳng thể nghĩ bàn, có sức và pháp thành thục thiện căn chẳng thể nghĩ bàn! Phàm phu hữu tình thật sự khó thể suy lường được, vẫn chỉ có hành giả [Ban Châu] thấu hiểu [công đức ấy] mà thôi, chứ người nói suông sẽ chẳng biết. Vẫn hy vọng mọi người hành pháp, thâm nhập một pháp, chân thật thực hiện, thì mới có thể thật sự đạt được an lạc. A Di Đà Phật nói: “Vị chúng khai pháp tạng, quảng thí công đức bảo” (Vì đại chúng mở kho pháp, rộng thí báu công đức). Người niệm Phật chúng ta nương cậy nguyện lực của A Di Đà Phật gia trì, lúc thấy chư Phật, thấy A Di Đà Phật cũng là thiện xảo thật sự thực hiện “vị chúng khai pháp tạng, quảng thí công đức bảo”. Đó là lợi ích chân thật chẳng dối sẽ hiện tiền.
(Kinh) Vân hà năng đắc nhất thiết thế gian hành, năng xả thế gian chư tướng cố?
(經)云何能得一切世間行,能捨世間諸相故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ được đi trong hết thảy thế gian mà có thể bỏ các tướng thế gian?)
“Đắc nhất thiết thế gian hành” (Đi trong hết thảy thế gian) và “xả thế gian chư tướng” (bỏ các tướng thế gian), hai câu này có phải là mâu thuẫn hay không? Thật ra, chúng là lời tiếp nối. Đi trong hết thảy thế gian, mà có thể bỏ hết thảy các tướng thế gian. Đấy thật sự là công đức lợi ích thế gian to lớn, là thiện xảo tịnh hóa thế gian. Người thường hành đạo tất nhiên là như thế. Người thường hành đạo tất nhiên chọn lựa như thế. Người thường hành đạo tất nhiên thủ hộ như thế. Người thường hành đạo tất nhiên giáo hóa như thế. Như vậy thì sẽ có thể đi trong hết thảy thế gian, có thể xả hết thảy các tướng thế gian, vì chẳng đắm nhiễm hết thảy thế gian. Chẳng nhiễm như thế nào? Vì hóa độ các hữu tình trong thế gian mà xếp đặt đủ loại phương tiện, thực hiện đủ loại pháp, chẳng bị đắm nhiễm thế gian mà độ thoát hữu tình trong thế gian, cho nên sẽ sanh ra sự hóa độ thiện xảo. Nếu chúng ta biết hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều nương theo nhân duyên huyễn hóa mà sanh, chẳng có thực chất. Như thế thì chúng ta quyết định lợi ích thế gian, chẳng đắm nhiễm, chẳng chấp trước, cho nên nói “năng xả thế gian chư tướng” (có thể xả các tướng thế gian) vì hóa độ thế gian, chẳng yêu đắm thế gian. Người thật sự chẳng yêu đắm thế gian sẽ thật sự chẳng có gì để có thể yêu đắm. Dẫu quý vị truy cầu một món gì, ắt nó sẽ chẳng có tự tánh, đó chỉ là chuyện do vọng tưởng, chấp trước nẩy sanh kích phát đó thôi. Chuyện ấy thật sự là khổ và hư vọng! Trong bộ kinh đầu tiên, tức kinh Sơ Chuyển Pháp Luân của đức Thế Tôn, tôi vẫn đề xướng mọi người có cơ hội hãy đọc, [đã dạy] hết thảy hữu tình đều nên biết “nhãn, thức, trí, ngộ, quang đều là khổ”. Lời giáo huấn ấy của đức Thế Tôn rất sâu chẳng thể nghĩ bàn. Nếu chẳng biết điều ấy, luôn cho rằng có một thứ tốt đẹp đang chờ đợi quý vị, quý vị sẽ không ngừng dấy lên vọng tưởng. Vọng tưởng ấy sẽ chẳng ngừng kiềm chế quý vị, đúng là lãng phí, hao tổn sanh mạng trí huệ của quý vị. Đó cũng là sanh mạng vô nhiễm!
(Kinh) Vân hà đương đắc quảng đại thần thông, tùy thuận chư Phật thần thông mãn túc hoan hỷ cố?
(經)云何當得廣大神通,隨順諸佛神通滿足歡喜故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ được thần thông rộng lớn, tùy thuận thần thông của chư Phật, trọn đủ hoan hỷ?)
Đối với “thần thông”, chúng tôi chẳng dám tùy tiện nói, vì chẳng có sức thần thông, chẳng dám nói tới thần thông, nhưng chúng tôi giải thích đôi chút về danh từ, danh tướng “Thông”. Phật giáo thường nói tới Lục Thông, người thế gian nói Ngũ Thông. Lục Thông tức là Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông, Thân Như Ý Thông (Thần Túc Thông), và Lậu Tận Thông. Đó là chỗ căn bản để xét đoán giữa Phật giáo và hết thảy các pháp khác. Có kẻ nói: “Lậu Tận Thông trong Phật giáo của bọn ngươi tức là chẳng có năng lực sanh dục!”, chẳng phải là nực cười ư? Thậm chí có khá nhiều Phật giáo đồ cũng cho là như thế: Nam nhân lậu tận là như thế này, như thế nọ, nữ nhân lậu tận là như thế này, như thế nọ. Nhưng thật ra [những kiểu hiểu lầm ấy] chẳng liên quan gì đến Phật giáo. Đó là hiện tượng sanh lý, chẳng liên quan gì với Phật giáo! Trong Luật Tạng, đã ghi chép về phương diện ấy rất nhiều. [Dựa theo lời dạy trong Luật Tạng], những kiểu nói ấy (những kiểu hiểu lầm vừa nói trên đây) quyết định chẳng thể thành lập được, vì chẳng có mảy may quan hệ nào với Phật pháp. Đó là dùng tri kiến thế tục để nhận thức Phật pháp, sanh ra rất nhiều truy cầu và chấp trước nực cười, cách nghĩ và vọng tưởng nực cười, sanh ra sự cảm giác và mê mất đáng cười. Lậu Tận Minh, Lậu Tận Trí, và Lậu Tận Thông đều chẳng phải là như thế. Nói như thế chỉ là một thứ thăng hoa về mặt sanh lý, đổi khác về mặt sanh lý, chư thiên chẳng có các thứ nhơ bẩn [nơi thân tâm] như nhân loại chúng ta. Lên trời Đao Lợi, nghe tiếng, sắc, thanh, hương, vị, xúc, bèn trọn đủ cái tâm ái nhiễm. Quý vị nói xem, họ có phải là Lậu Tận hay không? Quý vị nói xem, họ đã thoát luân hồi hay chưa? Họ vẫn thuộc trong Dục Giới Thiên.
Rất nhiều người đối với Lục Thông của Phật giáo, hoặc đối với Lậu Tận, nẩy sanh hiểu lầm cực lớn. Loại hiểu lầm này thậm chí khiến cho rất nhiều hữu tình lầm lạc. Nếu chính mình đã hiểu lầm thì đã sai mất rồi, lại còn hướng dẫn người khác sai lầm, rất đáng thương, vì không thoát khỏi nỗi khổ trong tam giới, chẳng có mảy may quan hệ với Phật pháp. Đó là hiện tượng tăng thượng về thiện duyên sanh lý mà thôi. Nếu coi đó là Phật pháp, quả thật là sai lầm to lớn. Trong Lục Thông, Lậu Tận Thông quan trọng nhất, năm món thần thông trước đó là phương tiện. Lậu Tận Thông là Thể, là chỗ căn bản, là chỗ tu chứng cần thiết căn bản xác định sự khác biệt giữa Phật pháp và các ngoại đạo.
Người thế gian nói “thông lực” là như thế nào? Ai có thể đạt được thông lực (sức thần thông). Ai có thể đạt được phương tiện đại thông lực? Thực hiện thông lực như thế nào? Đây là nêu ra một vấn đề cho mọi người đó thôi! “Vân hà đương đắc quảng đại thần thông, tùy thuận chư Phật thần thông mãn túc hoan hỷ” (Như thế nào thì sẽ đạt được thần thông rộng lớn, tùy thuận thần thông của chư Phật, trọn đủ hoan hỷ). Hành Ban Châu có thể đạt được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn như thế hay không? Môn tam-muội Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập này thỏa mãn hữu tình phàm phu, mà cũng thỏa mãn hữu tình thánh nhân, thật sự là trọn đủ hạnh. Cho nên “tùy thuận chư Phật thần thông, mãn túc hoan hỷ”, quả thật là lợi ích chẳng thể nghĩ bàn! Phàm phu hành pháp này, dẫu dục chưa thanh tịnh, vẫn có thể biết Thập Phương Chư Phật Hiện Tiền Lập, do được ba lực cùng gia trì, tương ứng với công đức nơi bổn hạnh, bèn sanh ra sự thật. Do đó, mỗi hữu tình hiện tiền đều có cơ hội như thế!
(Kinh) Vân hà đương đắc nhất sát-na thời gian hành, tức năng biến chí nhất thiết chư Phật tiền cố?
(經)云何當得一剎那時間行,即能遍至一切諸佛前故?
(Kinh: Như thế nào thì sẽ được đi trong khoảng thời gian một sát-na mà có thể đến trước khắp hết thảy chư Phật?)
Trong hơn một trăm hai mươi câu hỏi ở đây, dần dần thâm nhập đến các cõi Phật. “Biến chí nhất thiết chư Phật tiền” (Đến trước khắp hết thảy chư Phật): Những gì chúng ta thấy trong Nam Diêm Phù Đề là tướng trược ác trong ngũ trược ác thế. Nhất là trong lúc kiếp giảm, ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu hừng hực trong thế gian, hữu tình khổ não suy hoại trong thế gian. Chúng ta thấy di ảnh của đức Phật Thích Ca và đức tướng của A Di Đà Phật, cho đến các thứ đức tướng của quá khứ, hiện tại, vị lai chư Phật đều là hình vẽ, hoặc tượng đúc bằng kim loại, tượng gỗ, tượng thêu. Các loại tướng ấy tuy cũng “ứng giáo thí hóa” (thuận theo giáo pháp thích hợp mà ban bố sự hóa độ) trong thế gian, nhưng chẳng có ngôn từ thuyết pháp, chỉ có hình tượng lặng thinh. Im lặng thí giáo, khiến cho chúng sanh đắc ngộ. Nay chúng ta đối với các vị Phật bằng đồng, bằng gỗ, hoặc các bức “đường kha” (thangka)[10] vẽ tượng Phật để thưa hỏi pháp, các Ngài cũng đích xác nói các thứ pháp cho chúng ta, nhưng sự thuyết pháp ấy thật sự là vô ngôn thuyết. Tuy triệt để hiển lộ giáo huấn của chư Phật, nhưng phàm ngu hữu tình chẳng đạt được phương tiện thiện xảo, sẽ khó thể triệt để liễu giải. Cho nên vẫn phải nhờ vào [các thân Phật] báo thân, thân ứng hóa của đức Thế Tôn, thuận theo căn tánh và nhu cầu của chúng sanh, diễn nói đủ loại pháp tắc, khiến cho họ tâm khai ý giải. Do vậy, chúng ta cần tới công đức và lợi ích “trong khoảng một sát-na, có thể đi đến trước chư Phật” này. Hành pháp Ban Châu cũng giống như thế, khiến cho chúng sanh có cơ hội nghe pháp, liền trông thấy chư Phật. Được thấy chư Phật, nhất định phải tiến đến trước Phật. Rất nhiều vị Bồ Tát đã hành trì Ban Châu có thể trông thấy diệu tướng vi tế, diệu tướng trang nghiêm, diệu tướng quang minh, thân trọn đủ diệu tướng, cho đến diệu tướng vi tế của chư Phật, có nghe pháp hay không? Đó là nói tới vấn đề tiến nhập.
(Kinh) Phục vân hà đương đắc trụ thử Phật sát, biến kiến nhất thiết thập phương chư Phật, thính văn chánh pháp, cúng dường chúng Tăng. Phi đản vị đắc xuất thế Lục Thông, nhi thật vị đắc thế gian Ngũ Thông, nhi diệc vị xả thử thế gian thân, diệc vô sanh bỉ chư Phật quốc độ, duy trụ thử độ, kiến dư thế giới chư Phật Thế Tôn, tất văn chư Phật sở tuyên chánh pháp, nhất thiết thính thọ, như thuyết tu hành?
(經)復云何當得住此佛剎,遍見一切十方諸佛,聽聞正法,供養衆僧。非但未得出世六通,而實未得世間五通,而亦未舍此世間身,亦無生彼諸佛國土,惟住此土,見餘世界諸佛世尊,悉聞諸佛所宣正法,一切聽受,如說修行?
(Kinh: Lại như thế nào thì sẽ được trụ trong cõi Phật này, thấy khắp hết thảy mười phương chư Phật, lắng nghe chánh pháp, cúng dường chúng Tăng. Không chỉ là chưa đắc Lục Thông xuất thế gian, mà thật sự chưa đắc Ngũ Thông của thế gian, cũng chưa xả thân trong thế gian này, mà cũng chẳng sanh trong quốc độ kia của chư Phật, chỉ trụ trong quốc độ này mà thấy chư Phật Thế Tôn trong các thế giới ở phương khác, đều nghe chư Phật tuyên nói chánh pháp, hết thảy đều nghe nhận, tu hành đúng như lời dạy?)
Do phần trên là “vân hà biến chí nhất thiết chư Phật tiền cố” (như thế nào thì sẽ đến trước khắp hết thảy chư Phật), cho nên câu hỏi cuối cùng là xếp đặt “phục vân hà đương đắc trụ thử Phật sát, biến kiến nhất thiết thập phương chư Phật, thính văn chánh pháp, cúng dường chúng Tăng, phi đản vị đắc xuất thế Lục Thông, nhi thật vị đắc thế gian Ngũ Thông, nhi diệc vị xả thử thế gian thân, diệc vô sanh bỉ chư Phật quốc độ, duy trụ thử độ, kiến dư thế giới chư Phật Thế Tôn, tất văn chư Phật sở tuyên chánh pháp, nhất thiết thính thọ, như thuyết tu hành” (Lại như thế nào thì sẽ được trụ trong cõi Phật này, thấy khắp hết thảy mười phương chư Phật, lắng nghe chánh pháp, cúng dường chúng Tăng. Không chỉ là chưa đắc Lục Thông xuất thế gian, mà thật sự chưa đắc Ngũ Thông của thế gian, cũng chưa xả thân trong thế gian này mà cũng chẳng sanh trong quốc độ kia của chư Phật, chỉ trụ trong quốc độ này mà thấy chư Phật Thế Tôn trong các thế giới ở phương khác, đều nghe chư Phật tuyên nói chánh pháp, hết thảy đều nghe nhận, tu hành đúng như lời dạy). Điều “vân hà” này chính là quy kết lợi ích thực tế của một trăm hai mươi mốt câu hỏi trước đó, cũng nhằm mục đích cuối cùng là tổng kết công đức của một trăm hai mươi mốt tướng công đức trước đó, tức là “thấy Phật, nghe pháp, như thật tu hành, thấy hết thảy chư Phật, nghe hết thảy chư Phật tuyên dương chánh pháp nhãn tàng, khiến cho tâm khai ý giải”. Đó gọi là “như thuyết tu hành”.
Do một trăm hai mươi hai câu hỏi về Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập tam-muội cho tới chỗ này đã biểu hiện triệt để lợi ích thực tế của hành pháp Ban Châu. Từ một trăm hai mươi hai góc độ mà xiển thuật, khiến cho chúng sanh nghe nói sẽ sanh ra yêu mến, hướng tới, chọn lựa chân thật, chọn lựa lợi ích, chọn lựa niềm hoan hỷ do nghe pháp, thật sự là nội dung rộng lớn của sự chọn lựa sự nhiếp hóa, cho đến nói lợi ích rốt ráo nhằm lay tỉnh tự tâm. Nếu đối với lợi ích rộng lớn, rốt ráo, chân thật của một pháp mà chẳng thể dính líu chút nào thì phàm phu hữu tình rất khó có cơ hội và nguyện vọng nghiêm túc tiến nhập.
“Xuất thế Lục Thông” tức Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông, Thân Như Ý Thông (Thần Túc Thông), và Lậu Tận Thông, đều có hai loại pháp tắc biểu hiện là xuất thế và nhập thế. Trong Phật pháp, chỉ có A La Hán hiện chứng Lậu Tận Thông, mà cũng chỉ Phật pháp mới có món thần thông này. Xuất thế Lục Thông thì là thập quả thánh nhân, thuộc địa vị Ứng Cúng, đã phá Kiến Tư Hoặc, đã hết sạch Phần Đoạn Sanh Tử mới có. Trong nghiệp sanh tử, có hai loại Tử lớn:
1) Nương vào Kiến Tư Hoặc, sanh ra cái gọi là Phần Đoạn Sanh Tử.
2) Nương vào Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc, thúc đẩy sanh khởi Biến Dịch Sanh Tử.
Trong hai thứ Tử ấy, một thứ thì hữu tình luân hồi trong sanh tử bèn có. Thứ kia thì các vị Bồ Tát, hiền thánh có. Nếu hết sạch hai món Tử ấy, sẽ thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, thật sự trông thấy. Trong Thanh Văn Giáo, A La Hán đích thân chứng Lậu Tận Thông; đó chính là cực quả trong xuất thế thánh nhân. Trước hết, chúng ta chẳng bàn đến giáo ngôn về Bồ Tát, chỉ nói tới cực quả của Thanh Văn. Loại thánh nhân này vĩnh biệt sanh tử luân hồi, vĩnh viễn đoạn dứt Phần Đoạn Sanh Tử. Phần Đoạn sanh tử là biểu hiện của lục đạo luân hồi, chứa đủ Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới hữu tình. “Thế gian Ngũ Thông” chính là Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông, và Thân Như Ý Thông, hết thảy người hành đạo trong thế gian đều có thể thành tựu. Không phải là chỉ riêng Phật pháp mới có, cho nên gọi là Thế Gian Ngũ Thông Nhân, Ngũ Thông Tiên Nhân, Ngũ Thông Tự Tại Giả. Loại hữu tình này vẫn còn Phần Đoạn Sanh Tử.
Chúng ta niệm A Di Đà Phật, hành theo pháp Ban Châu, đối với xuất thế Lục Thông và thế gian Ngũ Thông đều chưa đắc, như thế nào thì sẽ có thể thấy A Di Đà Phật và mười phương chư Phật? Đấy là điều được khải vấn trong đoạn kinh văn này. Lời khải vấn ở đây mười phần rõ rệt, tức là loại hữu tình này chưa lìa khỏi cõi này, cũng chẳng sanh về cõi kia, nhưng ở ngay trong thế gian này mà thấy chư Phật Thế Tôn, nghe pháp, như pháp tu hành. Điều này đúng là tướng công đức to lớn chẳng thể nghĩ bàn! Lợi ích của hành pháp Ban Châu tam-muội rộng nhất. Nội dung chẳng thể nghĩ bàn là: Đối với người đã tịnh dục hay chẳng tịnh dục, có sức thần thông hay không, đều do được oai đức và nguyện vọng của đức Thế Tôn gia trì, cùng với sức công đức vốn có tương ứng, sẽ được thấy mười phương chư Phật, nghe chư Phật tuyên nói chánh pháp, khiến cho họ như thật tu hành. Đấy là một pháp tắc đặc biệt chẳng thể nghĩ bàn!
Trong các kinh điển khác, ít tuyên nói pháp tắc này. Do đó, trong Hán truyền Phật giáo, bộ kinh này rất hy hữu, trân quý, khó có! Trước khi Quán Kinh được truyền vào Trung Hoa, pháp kinh hành Ban Châu đúng là mười phần trọng yếu. Nó chỉ dẫn, thành tựu rất nhiều vị đại thiện tri thức chọn lựa lợi ích và công đức chân thật trong Phật pháp, không chỉ về phương tiện ngôn thuyết, mà còn là phương tiện tâm trí huệ. Cũng có nghĩa là trong sự thành tựu do hành trì pháp Ban Châu, không chỉ ban cho chúng sanh phương tiện văn tự, phương tiện ngôn ngữ tâm trí, mà còn ban cho chúng sanh sức thiện xảo thần thông to lớn, và đại phương tiện vượt xa sự thiện xảo của sức thần thông, liền được thấy chư Phật, đích thân nghe lời dạy, tu hành như thế đó. Thật ra, thực chất của lợi ích siêu thắng là ở chỗ “phàm và thánh đều có thể cùng tu, cùng chứng”. Chỉ có trong pháp Tịnh Độ mới tuyên nói pháp “phàm thánh đồng tu” như thế. Nếu chẳng có kinh Ban Châu Tam Muội chứng thực, và do oai thần của chư Phật Như Lai gia bị khiến cho hết thảy chúng sanh đều có thể thấy Phật, thì cái thuyết “phàm thánh đồng tu” sẽ trở thành lập bày rỗng tuếch, chẳng lợi ích gì cho cõi đời, hữu tình trong thế gian sẽ phần nhiều sanh ra mê muội nơi ngôn ngữ, chẳng thể sanh khởi niềm tin quyết
định đối với pháp, nhất là bọn hữu tình phàm ngu!
Văn tự trong đoạn “vân hà” cuối cùng này quả thật là chỗ lợi ích căn bản của hành pháp Ban Châu tam-muội, là chỗ thù thắng riêng biệt chẳng giống các hành pháp khác, là chỗ tròng mắt chân thật, là khích lệ chân thật đối với hữu tình, là chỗ gia trì hữu tình sanh khởi tín tâm quyết định đối với hành pháp. Nếu chẳng có điều lợi ích hồi thí và tuyên nói này, bản thân chúng ta sẽ chẳng có sức mạnh và tín tâm để chọn lựa tu tập pháp Ban Châu tam-muội. Vì sao? Phàm phu há có tín tâm để có thể bàn bạc ư? Nếu có tín tâm để có thể bàn, sẽ là Bồ Tát, sẽ là bậc trí, sẽ là bậc thật sự đại thành tựu. Nếu phàm phu do nương vào công đức lợi ích như thật để hồi thí, khiến cho họ được thấy, được nghe, sẽ có tâm trí chọn lựa, chọn lựa thệ nguyện thì mới có thể thâm nhập, tu tập pháp tắc, cảm nhận pháp tắc, chứng thực pháp tắc. Vì thế, một trăm hai mươi hai câu hỏi này thật sự là vị đạo sư dẫn đường cho chúng sanh, là pháp ích thực chất của bậc đại thiện xảo dẫn dắt [chúng sanh] quy nhập hành pháp Ban Châu tam-muội. Nếu chẳng có một trăm hai mươi hai điều “vân hà” hỏi về công đức và lợi ích, tất cả tín tâm của chúng ta trong hiện tiền đều thành sự lập bày hư giả! Nếu chẳng thật sự liễu giải hoàn thiện, quý vị làm sao có thể xác định, chẳng ngờ vực mà tu tập pháp tắc này? Nhất là đối với các hữu tình trọn đủ tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, làm thế nào để thúc đẩy họ bỏ tham, sân, si, mạn, nghi, kiến giải bất chánh để tiến nhập pháp tắc này, đạt tới thấy Phật, nghe pháp? Do vậy, một trăm hai mươi hai câu hỏi “vân hà”, nhờ Hiền Hộ Bồ Tát thưa hỏi để khải giáo, khiến cho bọn hữu tình chúng ta tâm khai ý giải, liễu giải đúng như thật tạng công đức chân thật của hành pháp Ban Châu tam-muội, nhập công đức tạng này, mở ra công đức tạng, khiến cho mọi người nhìn vào, sẽ được nhận biết, sẽ có ý nguyện và lòng ưa thích tiến nhập.
Hiền Hộ Bồ Tát nương vào sức oai thần của đức Thế Tôn gia bị, khải vấn nội hàm công đức chân thật của Ban Châu tam-muội, khiến cho các hữu tình chưa chứng tam-muội được thấy, được nghe, khiến cho người chẳng biết Ban Châu tam-muội được thấy, được nghe, khiến cho kẻ chẳng liễu giải mà muốn liễu giải Ban Châu tam-muội được thấy, được nghe, thật sự có phước đức thù thắng chẳng thể nghĩ bàn để hồi thí. Vì lẽ nào? Nếu chẳng có Hiền Hộ Bồ Tát thay cho các hữu tình thời Mạt Pháp phát khởi các câu hỏi đúng lý ấy, sẽ chẳng có lời giải đáp súc tích của đức Thế Tôn về một trăm hai mươi hai lợi ích của hành pháp Ban Châu, hữu tình trong thời Mạt sẽ rất khó dính dáng đến Ban Châu tam-muội, sẽ rất khó liễu giải toàn bộ, cụ thể pháp này. Dẫu đạt được lợi ích tương tự, cũng rất khó từ văn tự và ngôn giáo mà tiến nhập hoàn chỉnh và rõ ràng thực chất của lợi ích chân thật. Vì thế, Hiền Hộ Bồ Tát thật sự là một vị đại Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn, do muốn lợi ích chúng ta mà phát khởi cơ hội nêu ra thắc mắc thù thắng, khó có như thế cho pháp hội. Chúng ta là bọn phàm phu lè tè sát đất, muốn liễu giải hành pháp Ban Châu, cho đến đích thân chứng nội dung thực chất của Ban Châu tam-muội, khoảng cách ấy rất xa! Nếu chẳng có giáo ngôn hướng dẫn, pháp tắc để hướng dẫn, thật sự chẳng dễ gì bén mảng liễu giải nổi! Thông qua việc học tập, nhận thức một trăm hai mươi hai câu hỏi này, chúng ta sẽ có cơ hội dần dần tiến nhập, liễu giải, tu tập pháp này, quả thật là thiện xảo hồi thí công đức rất sâu chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật! Nói theo phía bọn phàm phu sát đất chúng ta, nếu chẳng có sự hồi thí thiện xảo rộng lớn của chư Phật Như Lai, danh tự Ban Châu còn chẳng được nghe, huống hồ đích thân chứng nhập ư? Do vậy, chư Phật Như Lai lập giáo truyền dạy trong cõi đời, rộng lợi ích trời, người, khiến cho kẻ chẳng có duyên sẽ dần dần đạt được nhân duyên chín muồi; kẻ hữu duyên sẽ có thể thành tựu trong pháp này, [các Ngài đã] kết duyên thù thắng chẳng thể nghĩ bàn với hết thảy kẻ hữu duyên.
(Kinh) Thế Tôn! Thí như kim thời thánh giả A Nan.
(經)世尊!譬如今時聖者阿難。
(Kinh: Bạch Thế Tôn! Ví như thánh giả A Nan trong hiện thời).
“Thánh giả A Nan” là thánh nhân Sơ Quả. Trong giáo ngôn Thanh Văn, Tứ Quả và Tứ Hướng là tám bậc thánh nhân. Địa vị Sơ Quả là bậc thiện xảo chứng đắc thánh quả đầu tiên.
(Kinh) Ư Thế Tôn tiền, thân văn pháp dĩ, giai tất thọ trì, như thuyết phụng hành.
(經)於世尊前,親聞法已,皆悉受持,如說奉行。
(Kinh: Đối trước đức Thế Tôn, đích thân nghe pháp xong, thảy đều thọ trì, phụng hành đúng như lời dạy).
Ở đây, nêu thí dụ ngài A Nan là bậc đa văn bậc nhất. Khi chúng ta hành pháp Ban Châu, nếu đạt được tam-muội Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập như thế, sẽ có thể đạt được lợi ích như thế nào? Có thể là nghe điều này, quên mất điều kia hay không? Ở đây, [ngài Hiền Hộ] nêu ra một điều lợi ích để an ủi, khiến cho chúng ta sanh lòng tin quyết định, tức là [người chứng đắc Ban Châu] sẽ giống như ngài A Nan, nghe rồi chẳng quên, nghe xong bèn hành trì chánh đáng, nghe rồi bèn thọ trì.
(Kinh) Bỉ chư Bồ Tát, thân cư thử độ, bất chí bỉ giới, nhi năng biến đổ chư Phật Thế Tôn, thính văn pháp dĩ, tất năng thọ trì, như thuyết tu hành, diệc phục như thị. Nãi chí mộng trung, hàm nhược tư dã.
(經)彼諸菩薩,身居此土,不至彼界,而能遍睹諸佛世尊,聽聞法已,悉能受持,如說修行,亦復如是。乃至夢中,咸若斯也」。
(Kinh: Các vị Bồ Tát ấy thân ở trong cõi này, chẳng đến cõi kia, mà có thể thấy trọn khắp chư Phật Thế Tôn, được nghe pháp xong, đều có thể thọ trì, tu hành đúng như lời dạy, cũng giống như vậy. Thậm chí trong mộng, cũng đều như thế).
Đây là nêu câu hỏi về lợi ích cũng giống như thế. Pháp như thế nào thì sẽ có thể đạt được lợi ích như thế nào? Trong phần sau, đức Thế Tôn sẽ bố thí quyết định, thật sự ban bố sự an ủi không chi lớn bằng cho hết thảy hữu tình dù thánh hay phàm. Nhất là đối với phàm phu hữu tình chưa chứng công đức Lục Thông xuất thế, chưa chứng Ngũ Thông thế gian thiện xảo, cho đến những kẻ thuộc địa vị phàm ngu muốn hành pháp, Phật đều ban sự an ủi tột bậc to lớn, khiến cho họ tiến nhập pháp này. Đối với lợi ích và công đức của pháp tắc này, dù là liễu nghĩa hay bất liễu nghĩa, dù là chân thật hay chẳng chân thật, dù là rộng lớn hay chẳng rộng lớn, cho đến thù thắng hay không thù thắng, tâm trí phàm phu chẳng thể liễu giải. Tối đa là suy đoán, [tức là] nhờ vào sự tri kiến mà chính mình có thể thấy biết để suy đoán pháp tắc này, rất khó liễu giải hoàn thiện, hoàn chỉnh được, khó thể thấy toàn thể. Trong lời giải đáp của đức Thế Tôn đối với một trăm hai mươi hai điều “vân hà” (như thế nào) ấy, hoặc có thể nói là một trăm hai mươi hai câu hỏi của Hiền Hộ Bồ Tát đã hoàn toàn tỏ lộ lợi ích và công đức chân thật của pháp tắc này, tỏ rõ pháp này được phàm thánh đồng tu. Dẫu là kẻ hữu tình còn chưa đạt được công đức xuất thế, hay công đức nhập thế, hễ tiến nhập pháp này, cũng đều có thể thấy Phật, cũng đều có thể nghe pháp, cũng đều có thể tu hành đúng như thật. Đấy chính là mở cho chúng ta một con đường rộng rãi để tiến thẳng vào Niết Bàn. Nếu một trăm hai mươi hai câu hỏi này chẳng được tuyên nói, chúng ta làm sao có thể hiểu biết thực chất của công đức Ban Châu tam-muội cho được? Do vậy, Hiền Hộ Bồ Tát đúng là đại sư của chúng ta, đúng là bậc ban ân huệ cho chúng ta, có ơn dưỡng dục chúng ta, ban cho chúng ta tư lương hành pháp Ban Châu, ban cho oai đức, ban cho cơ duyên!
Dưới đây, đức Thế Tôn sẽ trả lời một trăm hai mươi hai điều “vân hà” của Hiền Hộ Bồ Tát về công đức, lợi ích, thiện xảo, tức là đối với pháp tắc như thế nào, thì sẽ có thể đạt được công đức và lợi ích thù thắng, khó thể diễn nói như thế ấy? Đức Thế Tôn đều giải đáp.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Hiền Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: – Thiện tai! Thiện tai! Hiền Hộ! Nhữ kim nãi năng thỉnh vấn Như Lai như thị diệu nghĩa. Nhữ vị lợi ích nhất thiết thế gian chư chúng sanh cố, diệc vị an lạc chư chúng sanh cố. Phục vị lân mẫn chư thiên nhân cố. Phục vị nhiếp thọ vị lai thế trung chư Bồ Tát cố. Hiền Hộ! Nhi nhữ vãng tích dĩ tằng cúng dường vô lượng chư Phật, chủng chư thiện căn, thính văn chánh pháp, thọ trì chánh pháp, ái nhạo chánh pháp, kính trọng chánh pháp. Nhữ kim đản dĩ Ma Ha Ca Diếp giáo hóa hạnh cố, thiểu dục, tri túc, hằng nhạo nhàn tĩnh A Lan Nhã xứ, hoặc cư trủng gian, hoặc tại thụ hạ, diệc lộ địa tọa, thường tọa bất ngọa. Nhất phu bất di, thọ khất thực pháp, nhất thực bất tái, hoặc nhất tọa thực, hoặc duy nhất đoàn, duy súc tam y, cập phấn tảo y, tán thán Đầu Đà, khuyến thỉnh chư Bồ Tát, giáo Bồ Tát hành pháp, linh chư Bồ Tát hỷ, ha trách chư Bồ Tát, giáo thị chư Bồ Tát, thành tựu chư Bồ Tát, năng vi lợi ích hành đại từ bi. Ư chư chúng sanh, sanh bình đẳng tâm, hàm đắc tự tại đáo ư bỉ ngạn, tùy ý đắc kiến nhất thiết chư Phật, phát quảng đại nguyện, hành thâm diệu hạnh, nhạo Nhất Thiết Trí Bồ Đề lương trụ, thiện năng tùy thuận Như Lai chủng tánh. Phát Bồ Đề tâm, do như kim cang. Thông đạt thế gian chúng sanh sở niệm. Quảng đại diệu hạnh bất khả giảo toán, bất khả xưng lượng, thường tại nhất thiết chư Phật mục tiền. Hiền Hộ! Ư nhữ công đức trung, vị thuyết thiểu phần dã!
(經)爾時,世尊告賢護菩薩摩訶薩言:「善哉!善哉!賢護!汝今乃能請問如來如是妙義。汝爲利益一切世間諸衆生故,亦爲安樂諸衆生故。復爲憐愍諸天人故。復爲攝受未來世中諸菩薩故。賢護!而汝往昔已曾供養無量諸佛,種諸善根,聽聞正法,受持正法,愛樂正法,敬重正法。汝今但以摩訶迦葉教化行故,少欲知足。恆樂閒靜阿蘭若處,或居冢間,或在樹下,亦露地坐,常坐不臥。一敷不移,受乞食法,一食不再,或一坐食,或唯一摶,唯畜三衣,及糞掃衣,讚歎頭陀,勸請諸菩薩,教菩薩行法,令諸菩薩喜,訶責諸菩薩,教示諸菩薩,成就諸菩薩,能爲利益行大慈悲。於諸衆生,生平等心,咸得自在到於彼岸,隨意得見一切諸佛,發廣大願,行深妙行,樂一切智菩提樑柱,善能隨順如來種性。發菩提心,猶如金剛。通達世間衆生所念。廣大妙行不可校算,不可稱量,常在一切諸佛目前。賢護!於汝功德中,未說少分也!
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Hiền Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: – Lành thay! Lành thay! Này Hiền Hộ! Ông nay có thể thưa hỏi Như Lai diệu nghĩa như thế. Ông vì lợi ích hết thảy các chúng sanh trong thế gian, cũng vì khiến cho các chúng sanh yên vui. Lại vì thương xót các vị trời. Lại vì nhiếp thọ các vị Bồ Tát trong đời vị lai. Này Hiền Hộ! Trong quá khứ, ông đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, gieo các thiện căn, lắng nghe chánh pháp, thọ trì chánh pháp, yêu thích chánh pháp, kính trọng chánh pháp. Ông nay chỉ hành theo sự giáo hóa của Ma Ha Ca Diếp, ít ham muốn, biết đủ, thường thích chốn A Lan Nhã thanh vắng, hoặc ở nơi mồ mả, hoặc ở dưới gốc cây, cũng ngồi nơi đất trống, thường ngồi chẳng nằm. Hễ trải tọa cụ ra, sẽ chẳng dời chỗ, lãnh nhận pháp khất thực chỉ xin một bữa, hoặc chỉ ăn một bữa, ăn duy nhất một nắm cơm, chỉ chứa ba y và y phấn tảo, tán thán hạnh Đầu Đà, khuyến thỉnh các Bồ Tát, dạy Bồ Tát hành pháp, khiến cho các Bồ Tát vui mừng, quở trách các Bồ Tát, chỉ dạy các Bồ Tát, thành tựu các Bồ Tát, có thể vì lợi ích mà hành đại từ bi. Đối với các chúng sanh, sanh tâm bình đẳng, [khiến cho họ] đều được tự tại, đạt tới bờ kia, tùy ý được thấy hết thảy chư Phật, phát nguyện rộng lớn, hành hạnh sâu mầu, vui thích nơi rường cột của Nhất Thiết Trí Bồ Đề, khéo có thể tùy thuận chủng tánh của Như Lai. Phát Bồ Đề tâm ví như kim cang. Thông đạt ý niệm của chúng sanh trong thế gian. Diệu hạnh rộng lớn chẳng thể so lường, chẳng thể đếm kể, thường ở trước mắt hết thảy chư Phật. Này Hiền Hộ! Trong công đức của ông, chưa thể nói chút phần được!)
Vì sao gọi là Hiền Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát? Hiền Hộ Bồ Tát thật sự là bậc đại Bồ Tát. Vì lẽ nào? Ngài lợi ích thế gian rộng khắp, nhiếp thọ thế gian rộng khắp, nhuần thấm chúng sanh hữu duyên trong thế gian rộng khắp, khiến cho họ đạt được lợi ích chân thật. Đức Thế Tôn tán thán rằng: “Thiện tai! Thiện tai! Hiền Hộ! Nhữ kim nãi năng thỉnh vấn Như Lai như thị diệu nghĩa. Nhữ vị lợi ích nhất thiết thế gian chư chúng sanh cố, diệc vị an lạc chư chúng sanh cố. Phục vị lân mẫn chư thiên nhân cố. Phục vị nhiếp thọ vị lai thế trung chư Bồ Tát cố” (Lành thay! Lành thay! Này Hiền Hộ! Ông nay có thể thưa hỏi Như Lai diệu nghĩa như thế. Ông vì lợi ích hết thảy các chúng sanh trong thế gian, cũng vì khiến cho các chúng sanh được yên vui. Lại vì thương xót các vị trời. Lại vì nhiếp thọ các vị Bồ Tát trong đời vị lai). Lời dạy này mười phần trọng yếu. Hết thảy các lời khải thỉnh về giáo pháp của Hiền Hộ Bồ Tát cũng như hết thảy các vị Bồ Tát Ma Ha Tát, đều là nương vào oai thần của chư Phật gia bị, khiến cho các Ngài từ chỗ ngồi đứng lên, vì phát khởi lợi ích cho hết thảy chúng sanh mà khải vấn. Nếu chẳng như thế, ngài Hiền Hộ cũng khó thể khải vấn. Vì sao? Công đức và lợi ích do chư Phật đã chứng, tạng công đức của chư Phật, chỉ có Phật và Phật có thể biết, hết thảy các Bồ Tát chẳng thể hiểu biết!
“Vị lợi ích nhất thiết thế gian chư chúng sanh cố” (Vì lợi ích hết thảy các chúng sanh trong thế gian): [“Chúng sanh” ở đây] là hết thảy phàm thánh hữu tình. Pháp Tịnh Độ rất sâu chẳng thể nghĩ bàn, hoàn toàn là ở chỗ này: “Phàm thánh đồng tu” là một giáo ngôn đặc biệt của pháp Tịnh Độ. Tuy hành pháp Ban Châu là một pháp tắc phụ thuộc của pháp Tịnh Độ, nhưng nó có thể hiển lộ rõ rệt chỗ quy kết của tâm tủy và tâm trí trong pháp tắc Tịnh Độ, tức là [phô bày] chỗ then chốt và trọng yếu ở nơi nào! Dựa theo sự chỉ dạy của kinh Vô Lượng Thọ đối với chúng sanh, chúng ta học tập giáo ngôn của A Di Đà Phật, nương theo nguyện lực của Phật mà được độ thoát. Ở đây, do nương theo hành pháp Ban Châu tam-muội mà được thành tựu, tuy sở hành và sở nhiếp[11] vẫn có khác biệt, nhưng thật ra, tướng công đức và lợi ích [của pháp Ban Châu so với pháp Trì Danh trong hai kinh Vô Lượng Thọ và kinh Di Đà] vẫn là chân thật y hệt. Hiền Hộ Bồ Tát nêu ra một trăm hai mươi hai câu hỏi, [nội dung của] mỗi câu hỏi đều là lợi ích thực chất của hành pháp [Ban Châu], đều là nội hàm chân thật mà mỗi hành giả thật sự tu tập sẽ có thể đạt được. Vì thương xót hữu tình dù phàm hay thánh, kể cả trời, người chưa được tiếp xúc công đức và lợi ích chân thật của Ban Châu tam-muội mà chân thật bố thí, khiến cho họ sanh khởi sự lựa chọn lợi ích. Do đó, Ngài tuyên thuyết như thế. Hễ tuyên thuyết thì không chỉ nhiếp hóa (nhiếp thọ, hóa độ) các hữu tình phàm phu ngu muội, mà còn nhiếp hóa các vị Bồ Tát trong đời vị lai. “Phàm thánh đều cùng tu” được hiển hiện toàn vẹn ở nơi đây. Trong các hành pháp, có pháp chỉ thâu nhiếp phàm phu, có pháp nhiếp thọ thánh nhân, nhưng hành pháp Tịnh Độ, thậm chí hành pháp Ban Châu, nhiếp trọn phàm và thánh, đúng là đại công đức tạng! Pháp này là pháp tạng, là công đức tạng của Như Lai. Trong đoạn kinh văn này, đã biểu đạt mười phần rõ rệt cái được gọi là “lợi ích nhất thiết thế gian chư chúng sanh” (lợi ích các chúng sanh trong hết thảy các thế gian), bất luận là phàm phu hay thánh nhân, bất luận là nhân loại hay thiên chúng.
“Đản y Ma Ha Ca Diếp tôn giả giáo hóa hạnh cố” (Chỉ nương theo hạnh giáo hóa của tôn giả Ma Ha Ca Diếp): Mọi người hãy quan sát. [Đức Phật] căn dặn Hiền Hộ Bồ Tát ở đây, thật sự là căn dặn hết thảy đại chúng hiện tiền. Hiền Hộ Bồ Tát là tại gia Bồ Tát. Dù tại gia, hay xuất gia, đều dùng thân Bồ Tát để biểu đạt. Cũng có nghĩa là phàm thánh cùng tu, xuất gia hay tại gia, xuất thế hay nhập thế, nội dung thiện xảo chân thật chẳng thể nghĩ bàn, nhiếp thọ trọn khắp, bình đẳng trọn khắp. Vì sao chúng ta có thể học tập kinh điển này ở dưới cửa Hoa Thủ[12] của núi Kê Túc, là nơi tôn giả Ma Ha Ca Diếp gìn giữ y [ca-sa của đức Phật], nhập Định [chờ Phật Di Lặc xuất thế]? Nhất định là có cơ chế phước đức và nhân duyên thù thắng chẳng thể nghĩ bàn gia bị. Cũng có người hỏi chúng tôi vì sao hành Ban Châu ở đây? Tôi đáp: “Tôi cũng không hiểu cho lắm! Phải nên hỏi tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Phải nên thỉnh Ngài xuất Định [để thưa hỏi] do cái duyên mạnh mẽ nào mà nhiếp hóa chúng ta hành trì Ban Châu? Vì sao mọi người tới nơi này để hành Ban Châu?” Vì trong các đệ tử của đức Thế Tôn, tôn giả Ma Ha Ca Diếp đã thành tựu pháp này. Trong đời Mạt Pháp này, Ngài dùng công đức Thiền Định chẳng thể nghĩ bàn để gìn giữ áo ca-sa kim sắc của đức Thế Tôn, giữ gìn y bát để truyền lại cho Di Lặc Phật là vị sẽ chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề vào năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm trong vị lai, hòng lợi ích rộng khắp nhân thiên trong ba hội Long Hoa. Cơ chế truyền bá như thế do tôn giả Ma Ha Ca Diếp thủ hộ.
Nay chúng ta đến dưới chân tôn giả Ca Diếp, đến tu hành pháp này, dường như là lẽ đương nhiên, dường như là nhân duyên chín muồi, dường như là dấu hiệu trọng yếu chứng tỏ thiện căn và thiện duyên đã chín muồi. Có phải là như thế hay không? Các vị thiện tri thức hãy khéo quan sát, khéo suy nghĩ. Vì một pháp tắc chẳng thể một mình tự dấy lên được, phải đều là do các duyên hòa hợp mà triển hiện trong hiện duyên của chúng ta, hoặc chẳng chín muồi! Chúng ta tới dưới cửa Hoa Thủ là nơi tôn giả Ca Diếp giữ y, nhập Định. Phóng Quang Tự và Hằng Dương Am đều được oai đức của tôn giả Ca Diếp che chở, nhiếp thọ. Ngài gia bị chúng ta, thúc giục chúng ta tu hành để thiện căn chín muồi. Nếu không như vậy, tôi cảm thấy sẽ rất khó được nghe danh tự “hành pháp Ban Châu”, nội hàm công đức và lợi ích của pháp ấy càng khó được nghe hơn. Đối với công đức và lợi ích hoàn thiện, trọn đủ, sâu đậm, rộng lớn, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể diễn tả như thế, đúng là chẳng dám léo hánh, mà cũng chẳng dám tưởng tượng. Nhưng chúng ta có phước đức và nhân duyên thù thắng như thế, đến cuộc đất thù thắng của Phật giáo là núi Kê Túc này, ở ngay dưới ánh mắt từ ái của tôn giả Ca Diếp để hành Ban Châu, chẳng phải là có đại nhân duyên ư? Chư vị thiện tri thức ơi! Hãy tự khéo suy nghĩ tinh tế, quan sát tinh tế, đừng để luống qua!
“Thiểu dục tri túc” (Ít ham muốn, biết đủ): Dưới đây là tham chiếu hành pháp của tôn giả Ma Ha Ca Diếp để phô bày nội hàm của pháp Ban Châu. “Hằng nhạo nhàn tĩnh A Lan Nhã xứ” (Luôn ưa thích chỗ A Lan Nhã thanh vắng): Xa lìa các ồn náo đối với thân tâm, xa lìa ồn náo đối với chính mình và kẻ khác, đến A Lan Nhã (Araṇya), tức là chỗ tịch tĩnh để giữ gìn sự an lạc. Người học Phật hiện thời chuộng ồn ào, náo nhiệt, đúng là đáng thương! Quý vị nói xem, [ham chuộng ồn ào, náo nhiệt như thế], ta ở trong pháp tắc Đại Thừa, hoặc trong các công đức thù thắng, dùng ý nhạo để tu pháp có được hay không? Như thế thì sẽ có chỗ chẳng tương ứng hành pháp Ban Châu tam-muội. Đối với hành pháp này, trụ nơi tịch tĩnh nhất định là phương tiện tăng thượng. Chúng ta vào rừng rậm nguyên thủy, hoặc đến các cuộc đất khá rộng rãi, thông thoáng, nguyên sơ, mộc mạc, có hoàn cảnh tương đối tịch tĩnh, tức là hoàn cảnh y báo [thanh vắng] như thế. Sau đó, quý vị điều chỉnh tâm trí của chính mình, khiến cho nó tịch tĩnh, xa lìa các ồn náo do tham, sân, si, mạn, nghi, và tri kiến chẳng chánh đáng từ vô thỉ đến nay đem lại. Các thứ ấy quấy nhiễu chúng ta, khiến cho tâm trí ta phiền bực. Đó là một loại thiện xảo để tiến nhập tịch tĩnh và an lạc, được thấy chư Phật.
“Hoặc cư trủng gian, hoặc tại thụ hạ, diệc lộ địa tọa, thường tọa bất ngọa. Nhất phu bất di, thọ khất thực pháp nhất thực bất tái, hoặc nhất tọa thực, hoặc duy nhất đoàn. Duy súc tam y, cập phấn tảo y, tán thán Đầu Đà” (Hoặc ở trong nơi mồ mả, hoặc dưới gốc cây, cũng ngồi nơi đất trống, thường ngồi chẳng nằm. Hễ trải ngọa cụ ra, bèn chẳng dời chỗ. Nhận lãnh pháp khất thực chỉ đi khất thực một bữa, hoặc chỉ ăn một bữa, hoặc chỉ ăn một vắt cơm. Chỉ chứa ba y và y phấn tảo. Tán thán hạnh Đầu Đà): Ở đây, nêu ra mười hai pháp tắc thuộc về hạnh Đầu Đà. Chúng ta biết tôn giả Ca Diếp là vị hành giả Đầu Đà bậc nhất. Trong giáo hóa của đức Thế Tôn về pháp Đầu Đà, chữ Đầu Đà (Dhūta) có thể phiên dịch thành rất nhiều danh từ. Đẩu Tẩu (抖擻) là một danh từ [phiên âm của Dhūta] được biết đến khá nhiều. Chẳng hạn như khi chúng ta giữa trưa hôn trầm, bèn vực dậy tinh thần, phấn chấn thể xác, mở to mắt, chà xát tai, cũng là để tỉnh táo, chẳng ngủ gục. Nếu chúng ta thêm vào một ý niệm như: “Ôi chao! Sao lại chóng mặt thế này?” Vừa cúi đầu xuống, sẽ ngủ ngay. Hai chữ Đẩu Tẩu hàm nghĩa trên thân chúng ta có tro bụi thì phải giũ, lắc đôi chút, [hàm nghĩa] phải phấn chấn lên. Từ ngữ Đầu Đà còn được phiên âm là Đỗ Đa, thường là rất ít dịch nghĩa trực tiếp, cơ bản đều là phiên âm thành hai chữ Đầu Đà, dùng như một danh từ chuyên biệt trong Phật giáo. Có mười hai hạnh Đầu Đà, chúng tôi nêu ra đôi chút, hy vọng mọi người sẽ có tri kiến lý giải:
1) Trụ A Lan Nhã: [A Lan Nhã (Araṇya)] dịch là Nhàn Tĩnh Xứ (閒靜處), hàm nghĩa “thân lìa ồn náo, tâm lìa Dục Cái”. Chúng ta đều biết: Dục gồm có năm món Dục, tức là đắm nhiễm đối với Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, được gọi là “niềm vui ngũ dục”. “Cái” có năm món Cái, tức là tài, sắc, danh vọng, ăn uống, và ngủ nghê.
2) Thường khất thực: Nghĩa là lìa các tham cầu. Chẳng nhận lời thỉnh [tới nhà thọ trai, hay cúng dường riêng] của người khác. Chẳng phân biệt thức ăn ngon dở, chẳng ngại đói khát, thiếu thốn. Ôm bát khất thực là một phương pháp thù thắng để xa lìa tham cầu. Người học Phật nếu lãng phí quá nhiều thời gian đối với chuyện ăn uống thì chẳng thích đáng. Nhưng nếu chẳng ăn uống theo lẽ thường thì cũng chẳng thích đáng. Khất thực, dẫu xin được hay không, được bố thí đầy đủ hay không, do nhân duyên mà có sai biệt rất lớn. Tức là do túc duyên chín muồi, dị duyên chín muồi, [mà có] các thứ sai khác như trong kinh điển nhà Phật đã ghi chép: Có vị A La Hán đi khất thực thường được cúng dường phong phú. Có vị A La Hán chẳng xin được, thường xuyên là bụng rỗng, bát không! Ở đây, [đối với người trì hạnh Đầu Đà], dù đủ hay chẳng đủ, đều chẳng sao hết, đều dùng đó để tăng thượng đạo nghiệp!
3) Khất thực theo thứ tự: Tức là chẳng đắm chấp mùi vị, chẳng chọn lựa nhà giàu hay nghèo, bình đẳng theo thứ tự mà khất thực. Khất thực thì chớ nên chọn lựa [nhà thí chủ] giàu hay nghèo. Nếu nói “người vùng này giàu có, ta đến chỗ này khất thực. Vùng kia nghèo mạt rệp, ta tránh xa”; đó là chẳng tương ứng.
4) Ăn một bữa: Tỳ-kheo vì tu đạo, dứt hẳn thói quen ăn nhiều lần, tuân theo quy định ăn một bữa. Trước kia, đã có người hỏi tôi vì sao chẳng thể ăn hai bữa? Tôi đáp: “Ăn hai bữa rất cực nhọc!” Do vậy, trước đó đã phát nguyện: Ăn một bữa để báo ân dưỡng dục của cha mẹ, học theo cách làm của các vị lão hòa thượng thuở trước, mà cũng học đòi các vị tỳ-kheo trong bốn mươi chín năm giáo hóa của đức Thế Tôn đều dùng cách “ăn một bữa” để tăng thượng, xa lìa cách ăn nhiều lần. Vì ăn nhiều bữa sẽ lãng phí tinh lực của con người rất lớn.
5) Ăn có chừng mực: Tỳ-kheo có được thức ăn, chia thành ba phần: Một phần thí cho người đói kém, lại giảm một phần thí cho chim thú, còn một phần để tự ăn. Dẫu không thấy người đói thiếu thì chỉ ăn hai phần ba thức ăn trong bát. Trong quá khứ, nếu xin được ba vắt cơm, trước hết sẽ thí một vắt cho “đại bàng kim xí điểu, khoáng dã quỷ thần, chúng La Sát, Quỷ Tử Mẫu, cam lộ hỷ sung mãn” (chim đại bàng cánh vàng, quỷ thần trong chốn đồng trống, các La Sát, Quỷ Tử Mẫu đều được hưởng cam lộ, ngập tràn niềm vui). Đương nhiên là chuyện này có xuất xứ. Như Đại Bằng Kim Xí Điểu (大鵬金翅鳥, Garuḍa, Ca Lâu La) thân thể rất lớn. Nó sải cánh ra, có thể tách nước biển làm đôi để bắt rồng ăn thịt, giống như gà nuốt giun đất vậy. Long vương phải đến chỗ đức Thế Tôn, thưa: “Con cháu ngày càng giảm ít, khẩn thỉnh đức Thế Tôn bảo vệ sanh mạng chúng nó, kéo dài sanh mạng chúng nó”. Đức Thế Tôn liền bảo các vị tỳ-kheo: “Các thầy từ nay về sau, khất thực xong, hãy dùng một vắt cơm thí cho Kim Xí Điểu v.v… để chúng nó xa lìa sát nghiệp”. Và [đức Phật] cũng truyền trao giới “chẳng sát sanh” cho Đại Bằng Kim Xí Điểu. Vì thế, người xuất gia trước khi ăn, nhất định phải thí một miếng cơm, dẫu chỉ là một miếng thức ăn to bằng cái móng tay cũng phải bố thí, để Đại Bằng Kim Xí Điểu có thức ăn, xa lìa cái duyên sát nghiệp[13]. Lại vì thân thể của chúng nó to lớn, phải niệm chân ngôn để chúng nó được ăn uống no đủ.
Lại như mẹ của quỷ La Sát, Quỷ Tử Mẫu (Hārītī) đều ăn máu thịt của loài có sanh mạng. Trong Phật giáo, có câu chuyện về bà mẹ của các quỷ. Bà ta hằng ngày ăn thịt con nít của các hữu tình trong thế gian. Mỗi ngày ăn một đứa. Đức Thế Tôn bèn dùng sức thần thông, đem giấu đứa con bà ta yêu thích nhất ở một nơi. Bà ta liền giống như điên cuồng, tìm kiếm con mình khắp nơi. Tìm cách nào cũng chẳng thấy, liền quỳ tại đó, khẩn cầu: “Ai có thể tìm được con ta, bảo ta làm gì cũng đều được!” Lúc đó, đức Thế Tôn hiện ra, bảo: “Từ nay về sau, ngươi phải giữ giới chẳng sát sanh, bảo vệ sanh mạng của hữu tình trong thế gian”. Bà ta thưa: “Con sống sót bằng cách nào đây? Chẳng sát sanh thì con ăn gì? Những đứa con này chẳng phải sẽ chết sạch ư?” Đức Thế Tôn lại bảo các tỳ-kheo: “Các thầy từ nay về sau, khi khất thực, phải nên chia một vắt cơm cho La Sát quỷ tử mẫu, khiến họ xa lìa sát nghiệp”. Do vậy, Tăng chúng xuất gia ở đâu cũng thường hành nghiệp từ bi, lợi ích trời, người rộng khắp, nhất định đừng khinh rẻ thân phận của chúng. Thông thường, khi niệm bài kệ cúng dường, rất nhiều người chẳng để tâm, không được rồi!
6) Sau giữa trưa, không được “uống các chất tương”: “Tương” (漿) chính các thứ nước ép trái cây, mật ong v.v… Trong giáo pháp tỳ-kheo có yêu cầu như thế. Như trong tự viện Thiền Tông Trung Hoa cho phép ăn dược thực[14], thật sự là vì có bối cảnh lịch sử đặc biệt!
7) Mặc “tệ nạp y”: (弊納衣, áo ca-sa chằm các mảnh vải rách nát): Chẳng tham phục sức, chính là y phấn tảo. Người đời rất ít ai biết y phấn tảo (糞掃) là gì? Đó chính là những thứ y phục bằng chất vải bị người đời vứt đi, như vải bọc thi thể, là những thứ vải mười phần dơ bẩn. Sau khi nhặt lấy, bèn giặt sạch, đập thẳng ra, chằm kết thành y.
8) Chỉ có ba y: Tỳ-kheo thiểu dục tri túc, ngoài ba y ca-sa ra, chẳng chứa y dư.
9) Ngồi nơi mồ mả: Thường quán các phép Vô Thường, Khổ, Không v.v… vì cầu xuất ly.
10) Ngồi dưới cội cây: Như đức Phật đắc đạo cũng ngồi dưới cội cây.
11) Ngồi nơi đất trống: Ngồi dưới cội cây gần giống như có nhà, sợ sanh lòng tham ái, cho nên ngồi nơi đất trống.
12) Thường ngồi chẳng nằm: Sợ tham ngủ nghỉ. Vì thế, hông chẳng chạm chiếu (chẳng nằm xuống).
Trên đây là mười hai hạnh Đầu Đà. Người thiểu dục tri túc sẽ hành Đầu Đà. Trong quá khứ, những người có trí, thánh nhân, người có oai đức, và người trọn đủ phương tiện thiện xảo sẽ gìn giữ hạnh Đầu Đà. Hiện thời, người hành như vậy rất ít. Mười hai pháp Đầu Đà thành tựu lẫn nhau, chẳng thể bại hoại, cũng có nghĩa là chẳng thể chăm chú điều này mà đánh mất điều khác. Hãy nên thủ hộ thanh tịnh.
“Khuyến thỉnh chư Bồ Tát, giáo Bồ Tát hành pháp, linh chư Bồ Tát hỷ, ha trách chư Bồ Tát, giáo thị chư Bồ Tát, thành tựu chư Bồ Tát” (Khuyến thỉnh các Bồ Tát, dạy Bồ Tát hành pháp, khiến cho các Bồ Tát vui mừng, quở trách các Bồ Tát, chỉ dạy các Bồ Tát, thành tựu các Bồ Tát): “Ha trách chư Bồ Tát” (Quở trách các Bồ Tát), vì sao lại nói đến chuyện quở trách? Nhằm cổ vũ, thúc giục. “Giáo thị chư Bồ Tát” (Chỉ dạy các Bồ Tát): Như hiện thời, chúng ta được nghe nội dung của một trăm hai mươi hai món lợi ích của Ban Châu, đó gọi là “giáo thị phàm thánh hữu tình”, [tức là] chỉ dạy chúng ta, khiến cho chúng ta được thấy, được nghe. Nếu chúng ta chẳng đích thân nghe nội hàm chân thật của giáo ngôn này, làm sao có thể suy nghĩ, quan sát công đức và lợi ích chân thật rộng lớn của hành pháp Ban Châu cho được? Đấy là “giáo thị” (教示, chỉ dạy). “Thành tựu chư Bồ Tát” tức là nương theo pháp, khiến cho các Bồ Tát có thể thành tựu.
“Năng vị lợi ích, hành đại từ bi. Ư chư chúng sanh, sanh bình đẳng tâm” (Có thể vì lợi ích mà hành đại từ bi. Đối với các chúng sanh, sanh tâm bình đẳng): Trong tu trì Phật pháp, tâm từ bi và tâm bình đẳng rất quan trọng, là chỗ tột bậc của Phật pháp.
“Hàm đắc tự tại, đáo ư bỉ ngạn. Tùy ý đắc kiến nhất thiết chư Phật” (Đều được tự tại đạt tới bờ kia. Tùy ý được thấy hết thảy chư Phật): Tùy ý được thấy, hoặc là thấy trong mộng, thấy trong hiện tại, hoặc thấy trong cảnh giới, hoặc thấy khi xả báo, lúc nào, chỗ nào cũng đều được thấy. Bốn loại thấy Phật thật sự là thấy trọn khắp, tùy ý được thấy. Nếu chúng ta có thể tập luyện thuần thục, thường hành pháp tắc như thế, sẽ chẳng có tâm trí buông lung, giải đãi, nẩy sanh hối hận sau khi đã hành trì, và lãng phí thời gian oan uổng, sẽ tôn trọng sanh mạng và pháp tắc của chính mình
“Phát quảng đại nguyện, hành thâm diệu hạnh, nhạo Nhất Thiết Trí Bồ Đề lương trụ” (Phát nguyện rộng lớn, hành hạnh sâu mầu, ưa thích rường cột Nhất Thiết Trí Bồ Đề): “Bồ Đề lương trụ” (Rường cột Bồ Đề) [là nói tỷ dụ], giống như một căn nhà phải có kèo cột.
“Thiện năng tùy thuận Như Lai chủng tánh. Phát Bồ Đề tâm do như kim cang” (Khéo có thể tùy thuận chủng tánh của Như Lai. Phát Bồ Đề tâm ví như kim cang): Bồ Đề tâm giống như kim cang. Bồ Đề tâm đã phát, chẳng ngại phát lần nữa, chân thật nhận biết. Độ chúng sanh, thành Bồ Đề, hễ phát tâm, sẽ thật sự thủ hộ cho đến hết đời vị lai, chẳng nhờ vào tăng giảm. Trong tâm nguyện như thế, hành hết thảy các pháp, tiêu hết thảy các nghiệp, hành hết thảy các duyên, lợi lạc hết thảy chúng sanh, như thế thì ắt sẽ đạt tới Bồ Đề, chẳng bị thoái chuyển. Thành tựu tâm trí như thế, sẽ là tâm trí kim cang, tâm nguyện như thế sẽ là tâm nguyện Bồ Đề.
“Thông đạt thế gian chúng sanh sở niệm. Quảng đại diệu hạnh bất khả giảo toán, bất khả xưng lượng, thường tại nhất thiết chư Phật mục tiền. Hiền Hộ! Ư nhữ công đức trung, vị thuyết thiểu phần dã” (Thông đạt tâm niệm của chúng sanh trong thế gian. Diệu hạnh rộng lớn chẳng thể so lường, chẳng thể đếm kể, thường ở trước mắt của hết thảy chư Phật. Này Hiền Hộ! Trong công đức của ông, chưa thể nói chút phần được): Một trăm hai mươi hai câu hỏi ấy, tuy Hiền Hộ Bồ Tát đã mở mắt cho chúng ta, khiến cho chúng ta đều biết, đều nghe lợi ích rộng lớn rất sâu chẳng thể nghĩ bàn của hành pháp Ban Châu. Nhưng đức Thế Tôn nói: Trong biển hạnh nguyện rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn ấy, những điều lợi ích như ông đã hỏi chỉ là chút phần, thậm chí còn chưa nói được chút phần, chỉ là nói được một phần bé như giọt nước vậy!
[1] Tam Giai Giáo (三階教) còn gọi là Tam Giai Tông, Đệ Tam Giai Tông, hay Tam Giai Phật Pháp, do nhà sư Pháp Tạng Tín Hạnh sáng lập từ đời Bắc Tề. Tới thời Tùy – Đường, do triều đình coi chủ thuyết này là dị đoan, nên cấm chỉ hoạt động. Sư Tín Hạnh cho rằng Phật pháp có ba thời (Chánh, Tượng, Mạt), cho nên căn cơ của chúng sanh bất đồng. Từ đó, đề ra ba khái niệm thời, xứ, nhân. Thời tức là ba thời của Phật pháp (Chánh, Tượng, Mạt), Xứ thì thế gian được chia làm ba giới, tức tịnh giới là nơi thánh nhân cư ngụ, hai giới còn lại là uế giới, gồm chỗ Tăng nhân cư ngụ và tục nhân cư ngụ. Nhân thì chia thành ba bậc: Trì giới trì kiến (giữ đúng chánh kiến), trì giới phá kiến, phá giới phá kiến. Sư chủ trương tu nhẫn nhục khổ hạnh, mỗi ngày chỉ ăn một bữa. Lại phỏng theo hạnh của Thường Bất Khinh Bồ Tát, gặp ai cũng lễ bái, tán thán, gọi đó là Phổ Kính (kính trọng trọn khắp). Sư kiệt lực đề xướng bố thí, chết rồi cứ quăng xác vào rừng hoang, chẳng cần phải ma chay làm chi. Sư lại chủ trương ai nấy đều có Như Lai Tạng Tánh, cực lực phản đối Niệm Phật tam-muội, chủ trương chỉ niệm Địa Tạng Bồ Tát. Điều bị công kích nhất là những người theo thuyết của sư Tín Hạnh chẳng tôn trọng hình tượng Phật, coi đó là gỗ, đá, bùn, đất mà thôi.
[2] Kham Bố (Khenpo) có nghĩa là tiến sĩ Phật học. Đây là danh xưng để dịch từ ngữ Upādhyāya (hòa thượng). Nhưng để đạt được danh hiệu này, vị tăng sĩ xuất gia ấy phải hoàn tất một chương trình giáo dục đặc biệt (tối thiểu là mười ba năm) tại các học viện nổi tiếng của Tây Tạng. Danh hiệu này chỉ được công nhận khi vị Tăng ấy đã được các vị giáo thọ nổi tiếng chứng nhận đã thông đạt năm môn Bát Nhã, Trung Quán, Hiện Lượng, A Tỳ Đạt Ma, và Luật Tạng.
[3] Ngũ Minh Phật Học Viện (Serta Larung Ngarik Nangten Lopling) là một Phật học viện của phái Nyingmapa (Cổ Mật) tại huyện Serta (Sắc Đạt) thuộc khu tự trị Garze (Cam Tư), tỉnh Tứ Xuyên, do Kham Bố Tấn Mỹ Bành Thố (Khenpo Jigme Phuntsok) sáng lập vào năm 1980 với mục đích đào tạo Tăng tài để phục hồi Phật giáo Tây Tạng đã bị tổn thương nguyên khí nặng nề bởi cách mạng văn hóa và những cuộc thanh trừng, đàn áp của chính quyền Hoa Lục.
[4] Tức là ngoài Quy Y Tam Bảo, còn quy y Thượng Sư (tức là vị thầy dạy Mật Pháp cho mình, hay nói chung là các vị tổ sư, thánh nhân hoằng truyền Mật giáo). Thậm chí, trong một số công khóa của họ, thường đảnh lễ Thượng Sư trước khi đảnh lễ Tam Bảo. Họ đề cao vai trò thượng sư đến nỗi trong chánh điện thường để tòa ngồi và ảnh của sư trưởng chính giữa đại điện, trước tượng Phật chính. Chẳng hạn như trong các tự viện của phái Gelugpa, luôn bày một tòa ngồi rất to để ảnh của Đại Lai Lạt Ma trước bàn Phật. Có nơi còn để luôn ảnh của Đại Lai Lạt Ma chính giữa, tượng Phật và Bồ Tát xếp hai bên. Trong một số tự viện của dòng Kargyupa, thậm chí ảnh của Karmapa còn treo phía trên tượng Phật.
[5] “Trị bệnh” ở đây là dùng bùa chú của ngoại đạo, thậm chí các kỹ xảo ảo thuật để lường gạt, thường mượn mỹ danh là “pháp Mật Tông” để bắt ma, đuổi quỷ, trục vong, giải thần trùng, độ người âm, cắt kết giải oan, trả nợ âm tào v.v…
[6] Năm chỗ ấy là Phóng Quang Tự, Bàn Đà Thạch, tháp viện, Hằng Dương Am, Liên Hoa Tự (chú thích của người ghi lại lời giảng).
[7] Bốc phệ (卜筮) là từ ngữ dùng để chỉ các cách bói toán để dự đoán cát hung. Trong nghĩa gốc, Bốc là các cách bói toán dựa vào mu rùa, vết nứt trên xương thú khi hơ qua lửa, xem chân gà, xem bộ đồ lòng của gà đã luộc v.v… Hoặc như Đông Phương Sóc dùng các con cờ để tiên đoán, viết ra bộ Linh Kỳ Kinh, cũng như các cách gieo quẻ bằng đồng tiền hay rút quân bài v.v… đều có thể gọi là Bốc. Còn Phệ là cách bói bằng cỏ Thi. Thi là một loại cỏ, có tên khoa học là Achillea Wilsoniana, thuộc họ Cúc Vạn Diệp. Từ Bốc Phệ mà hình thành những học thuyết bói toán như Hồng Phạm Cửu Trù, Châu Dịch v.v…
[8] 1) Nghĩ đến thân, chẳng cầu không bệnh. 2) Ở trong cõi đời, chẳng cầu không có hoạn nạn. 3) Xét cái tâm, chẳng cầu vô chướng. 4) Lập hạnh, chẳng cầu không bị ma chướng. 5) Mưu sự, chẳng cầu thành công dễ dàng. 6) Giao thiệp với người khác, chẳng cầu họ lợi ích mình. 7) Chẳng cầu người khác thuận thảo, tốt đẹp với mình. 8) Thi ân, chẳng cầu báo đáp. 9) Thấy lợi, chẳng cầu có phần. 10) Bị chèn ép, chẳng cầu được giãi bày nỗi oan. Đó là mười hạnh vô ngại trong tác phẩm Bảo Vương Tam Muội Niệm Phật Trực Chỉ của Diệu Hiệp đại sư. Tác phẩm này được ngài Ngẫu Ích xếp vào Tịnh Độ Thập Yếu (mười tác phẩm trọng yếu của Tịnh Độ).
[9] Đơn tức là một tấm ván dài sáu thước, rộng ba thước, vừa đúng một người nằm, kê trong Tăng phòng tập thể cho chúng Tăng trong một tùng lâm. Đó là chỗ ngủ hoặc ngồi thiền cho các vị Tăng. Khi một vị vân thủy Tăng (Tăng đi hành cước tham học) xin ngủ nhờ, hoặc nhập chúng tu học. Nếu được chấp thuận, vị Tăng ấy sẽ đem y bát treo vào chỗ đơn nào chưa có người để đồ, nên gọi là Quải Đơn. Khi số người đã đủ, không thể tiếp nhận hành cước Tăng ở lại thì gọi là Chỉ Đơn. Khi từ biệt ra đi thì gọi là Khởi Đơn hoặc Trừu Đơn (rút đơn). Nếu một vị Tăng xin quải đơn lâu ngày, mà tư cách, oai nghi, giới hạnh, phẩm đức không có vấn đề gì, có thể xin nhập chúng thường trụ thì gọi là An Đơn. Nếu vi phạm quy củ hay giới đức có vấn đề, bị trục xuất thì gọi là Thiên Đơn (dời đơn).
[10] Thangka (còn viết là tangka, thanka, hoặc tanka) là các hình vẽ tôn giáo trên vải, miêu tả các vị Phật, Bồ Tát, hộ pháp, các vị bổn tôn, các vị thánh giả, tổ sư các tông phái, hoặc hệ thống truyền thừa trong một tông phái (loại này thường gọi là Refuge Tree). Thậm chí thangka dùng như hình minh họa các huyệt vị hoặc dược thảo để dạy học trong y học cổ truyền Tây Tạng. Thông thường, thangka được vẽ trên vải bố. Màu vẽ thường là năm màu, đôi khi có pha bột vàng. Sau khi hoàn tất, các bức vẽ ấy sẽ được khâu viền bằng các loại lụa hay gấm nhiều màu, gắn trục, và có một lớp lụa hay vải mỏng che trước mặt để bảo vệ. Thangka được sử dụng phổ biến tại các nước theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng như Tây Tạng, Mông Cổ, Nepal, Bhutan, Tuva, Buryatia, Kalmykia… Trong các truyền thống vẽ Thangka, truyền thống vẽ tranh của Newari tại Nepal được đánh giá là sắc sảo, đẹp đẽ, và hoàn thiện nhất.
[11] Có thể tạm hiểu là cách hành trì và đối tượng thích hợp cho một pháp tu.
[12] Hoa Thủ (華首) là một vách đá hiểm trở ở phía Tây Nam ngọn Thiên Trụ trong rặng Kê Túc. Vách đá thẳng đứng như dao cắt, chính giữa vách đá ấy, các gờ đá lõm vào có hình dáng như một khung cửa lớn. “Khung cửa” ấy có chiều cao 40 mét, rộng 20 mét, chính giữa “khung cửa” lại có vết cắt thẳng đứng trông như hai cánh cửa đá khép chặt. Núi Kê Túc thuộc huyện Tân Xuyên, thành phố Đại Lý tỉnh Vân Nam. Do rặng núi này gồm bốn quả núi, ba ngọn núi phía trước chĩa ra thành ba nhánh, một nhánh núi kéo dài về phía sau, khiến cho toàn thể rặng núi có hình dáng giống như chân gà, cho nên người Hán thời cổ cho rằng đây chính là núi Kê Túc (Kukkatapadagiri) trong kinh Phật. Núi Kê Túc ở Vân Nam được coi là thánh địa của Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Bắc Tông, và Phật giáo Nam Truyền.
[13] Đấy là nói về nghi thức Quá Đường (tức nghi thức cúng dường thập phương Tam Bảo trước khi dùng cơm trưa). Trong khi thọ trai, thường là vị trụ trì, hoặc vị đương gia, hoặc vị đứng đầu trường hạ, sẽ sớt cơm trong chén, thầm chú nguyện: “Pháp lực bất tư nghị, từ bi vô chướng ngại. Thất lạp biến thập phương, phổ thí châu sa giới. Quỷ tử mẫu khoáng dã, thần kim xí điểu vương, tất giai linh bảo mãn, Án độ lợi ích tóa ha” (Pháp lực không nghĩ bàn, từ bi chẳng chướng ngại. Bảy hạt khắp mười phương, cho khắp vô lượng cõi. Mẹ con quỷ đồng nội, cánh vàng vua thần điểu, hết thảy đều no đủ) rồi trao cho vị thí giả. Vị thí giả bưng chén cơm ấy ra nơi đất trống (có nơi bày một cái bàn riêng để cúng, gọi là bàn Xuất Sanh), đọc bài kệ: “Đại bằng kim xí điểu….” để thí thực. Trong các đạo tràng Trung Hoa, dù thọ trai hay không, dù có pháp sư hay không, mỗi ngày đều phải xuất thực ba lần: Công khóa sáng, giữa trưa, và trước công khóa tối. Thời sáng khóa và trưa dùng cơm hay thực phẩm cúng Phật để thí xuất sanh (thường gọi là nghi thức xuất thực), sử dụng bài kệ giống nhau. Buổi tối thì dùng một bài kệ khác, chỉ dùng bảy hạt gạo và nước để cúng thí.
[14] Dược thực (藥食, thức ăn như thuốc để chữa cơn đói). Từ ngữ này bắt nguồn từ chữ Dược Thạch, tức là theo truyền thống, các tỳ-kheo thường dùng một viên đá hấp nóng, đặt lên bụng cho khỏi sôi bụng vì đói. Về sau, do khí hậu lạnh, tại Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, bữa chiều là những thứ còn sót lại của buổi trưa, hay cháo loãng, một món mì trộn đơn giản, hay súp loãng cho khỏi đói dành cho người chưa quen chỉ ăn ngọ.