ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỨC KÝ
Pháp sư Huyền Trang
Thích Như Điển dịch
Quyển thứ mười một
(23 nước)
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu Vua dịch
Chùa Đại Tổng Trì, Sa Môn Biện Cơ soạn
- Nước Tăng Già La (Tích Lan)
- Nước Trà Kiến Na Bổ La
- Nước Ma Ha Sách Trạch
- Nước Phạt Lục Yết Chiêm Ba
- Nước Ma Lạp Ba
- Nước A Thác Lý
- Nước Khiết Thác
- Nước Phạt Lạp Tỳ
- Nước A NanĐà Bổ La
- Nước Tô Sắc Đà
- Nước Cù Chiết La
- Nước Ô Phiệt Diễn Na
- Nước Trinh Chỉ Đà
- Nước Ma Ê Thấp Phạt La Bổ Đa
- Nước Tín Độ
- Nước Mậu La Tam Bộ Lô
- Nước Bát Phạt Đa
- Nước A Điểm Ba Sí La
- Nước Lang Yết La
- Nước Ba Sắc Tư (Ba Tư)
- Nước Kiên Đa Thế La
- Nước A Quân Trà
- Nước Phạt Sắc Noa
1) Nước Tăng Già La (Tích Lan) có chu vi 7000 dặm. Đô Thành có chu vi 40 dặm. Đất đai màu mỡ khí hậu ôn hòa. Cày cấy trồng trọt hoa quả tốt tươi. Cửa nhà to lớn, gia sản giàu có. Người nước da ngăm đen, tánh tình hung bạo, ham học hỏi, ưa phước đức, thích làm thiện. Nước nầy là một hòn đảo nhỏ có nhiều trân bảo đồ quý giá, là nơi dừng chân của chư Thần, nằm phía nam của xứ Ấn Độ, có một Quốc Vương, nguyên là một nữ tỳ bị tống đi giữa đường gặp Sư Tử kẻ thị vệ bỏ chạy. Vì không chạy được, nên người nữ ấy phải ở lại cam chịu số phận. Không ngờ chúa Sư Tử đến giúp người nữ mang về hang động trên núi cao. Những con nai mang rau quả đến. Thời gian sau có thai sinh ra một trai một gái, hình mạo giống con người nhưng bản tánh còn súc sanh. Con trai dùng thương giáo đâm chết mãnh thú. Thời gian sau biết được, người mẹ than rằng không biết nói sao. Cha là dã thú mẹ là người, không cùng chủng loại làm sao trở nên chồng vợ được. Bà mẹ thuật lại chuyện xưa mà bảo với đứa con rằng:
– Người Vật xa xôi chẳng có thệ nguyền.
Rồi người mẹ nói tiếp:
– Ngày ấy ta cố chạy nhưng không chạy nổi. Con là đứa con sau khi Sư Tử cha bắt mẹ vào núi mà mẹ không thể thoát khỏi để mà đi, cho nên phải chịu cảnh mẹ con ở nơi đó.
Người mẹ tiếp:
– Những chuyện sâu kín như thế rất ân hận nhưng chẳng biết nói nguồn gốc như thế nào. Bởi vì khi mọi người biết được chúng ta sẽ bị khinh bỉ.
Rồi đến nước của cha mình. Nước nầy không có gia tộc, tông môn đã diệt hết. Gặp người thôn trưởng, được bảo rằng:
– Quý vị là người nước nào?
Đáp:
– Tôi là người lưu lạc đến xứ nầy, mẹ con muốn trở lại cố hương.
Được mọi người thương chu cấp. Vua Sư Tử lại chẳng thấy nữa. Do chỗ quấn quýt nam nữ mà vô minh sanh khởi, bây giờ ra khỏi hang đá đến tại thôn nầy. Hét lên chấn động tàn độc con người. Người trong làng trục xuất ra và giết chết. Rồi đánh trống, thổi tù và, gương nỏ, cầm xà mâu chạy từng đoàn, nhưng thú không bị hại. Vua nước đó sợ không thích hợp với lòng người cho nên muốn đuổi kẻ mọi rợ ấy đi. Vua thân chinh suất binh lính kéo vào rừng, khóa cửa hang động lại. Sư Tử rống lên làm chấn động núi rừng. Người Vật đều bỏ chạy. Đã bắt không được con thú nào, mà còn tổn thất nữa. Nếu bắt được con Sư Tử nầy thì trừ được hậu hoạn cho đất nước, sẽ đền đáp trọng thưởng cho những ai tìmđược.
Đứa nhỏ nghe Vua ra lệnh như thế liền thưa với mẹ rằng:
– Đã đến lúc vô cùng đói khổ rồi, làm sao có thể ứng phó được. Hoặc có thể phủ dụ được?
Bà mẹ nói:
– Nói vậy không được. Sư Tử tuy là loài súc sanh nhưng là cha của con, làm sao con có thể làm điều nghịch hại như vậy.
Người con nói:
– Người và súc vật là hai loại khác nhau, lễ nghi đã có sự sai khác thì sao phải giữ lòng như thế.
Cậu bé mang dao nhỏ ra nhận lời triệu tập. Lúc ấy có ngàn vạn loài cỡi mây bay đến chỗ Sư Tử ở trong rừng. Người chưa đến gần, đứa con đến trước mặt cha nó quỳ xuống, làm ra vẻ thân ái để cho Sư Tử không nỗi sân hận. Rồi lấy dao đâm xuyên qua bụng Sư Tử. Vì lòng thương yêu cậu bé, Sư Tử không có chút sân hận nào hết. Bụng vở ra rồi chết. Vua nói rằng:
– Người ở đâu mà kỳ tài thế! Vì phước lợi mà dụ được Sư Tử, hơn cả sức mạnh kia. Từ đó về sau chẳng còn lo lắng nữa. Cậu bé thuật lại sự tình của mình cho Vua nghe. Vua nói:
– Đồ phản nghịch! Cha mầy mà còn bị mầy hại huống gì là những người không phải thân thuộc.
Loài súc sanh khó dạy. Tánh tình hung bạo dễ náo động. Dù tạo được công lớn trừ hại cho dân nhưng giết cha là đồ nghịch tặc. Cho đồ trọng thưởng rồi bảo lui. Vua phóng thích vào tận nơi xa xôi để đề phòng sự mưu nghịch. Vua sắm sửa hai chiếc thuyền lớn có nhiều lương thực cho người mẹ ở lại, chu cấp thưởng công. Người con gái đi một chiếc thuyền khác bị sóng gió thổi đi xa biệt tích. Thuyền người con trai ra biển rồi trôi dạt vào bờ, gặp đảo nhiều ngọc ngà châu báu. Sau đó có một người thương nhân tìm trân bảo nên đến bờ biển nầy. Bèn giết người thương chủ để lại người con gái. Như thế sinh ra con cái rất nhiều sau đó lên làm Vua và có triều thần trên dưới cho xây lại thành quách biên cương mà tổ tiên của họ là giống Sư Tử. Nhân đây, lấy tên đó đặt quốc hiệu, còn thuyền của người con gái bị trôi đến nước Ba Sắc Tu Tây, bị quỷ thần hiếp sanh ra một bầy con gái.Ở phía tây nước nầy là nước chỉ có toàn đàn bà. Cho nên người nước Sư Tử hình dáng đen đúa, có vầng trán và gò má rộng. Tánh tình mạnh bạo, an nhẫn, độc ngầm. Vì họ thuộc dòng dõi mãnh thú cho nên người ở đây rất mạnh khoẻ.
Lại một thuyết khác, trong Phật Pháp có nêu ra như sau:
Ngày xưa nơi nầy là một nơi có nhiều của quý. Nơi đó có năm trăm La Sát Nữ cu ngụ. Trên thành có hai cây phan cao báo hiệu việc tốt xấu. Khi có việc tốt cây phan dao dộng bày phía chữ tốt, ngược lại khi xấu bày chữ xấu. Có một người thương nhân đến đảo quý nầy, La sát nữ biến thành mỹ nữ, mang hương hoa và tấu âm nhạc nghinh đón và dụ cho đi vào trong thành bằng sắt nầy hoan lạc trong ngục bằng sắt kia. Dần dần lấy làm thức ăn. Lúc đó ở Thiệm Bộ Châu có một thương chủ tên là Tăng Già, cũng còn gọi là Tăng Già La. Cha đã già cho nên thay cha làm việc cùng với năm trăm thương nhân đi vào trong biển tìm vật quý. Sóng gió làm thuyền trôi dạt vào đảo nầy. Lúc ấy cây phướn của La Sát Nữ hiện lên chữ Tốt. La Sát Nữ dùng hương hoa tấu âm nhạc để nghinh tiếp dụ dỗ họ vào thành sắt. Thương chủ đã cùng với La Sát Nữ Vương vui chơi thỏa thích. Còn những thương nhân khác vui đưa với những La Sát Nữ khác. Thời gian trôi qua sanh được một người con, kết quả của mối tình thâm giao nầy. Rồi muốn giam những người lái buôn vào trong ngục sắt. Lúc ấy ông Tăng Già La ngủ thấy ác mộng biết là không phải việc tốt, liền muốn trở về đất liền, nhưng gặp phải ngục sắt và nghe tiếng khóc bi thương, leo lên cây cao hỏi rằng:
– Ai thốt ra lời bi thương oán hờn như thế?
Đáp rằng:
– Ông không biết à. Những người nữ trong thành nầy đều là La Sát cả. Ngày xưa họ dụ tôi vào trong thành nầy hoan lạc vui chơi. Anh cũng sẽ đến nơi ngục tối đó và cũng sẽ bị chúng ăn thịt như tôi đã bị. Bây giờ ở trong đó đã có nhiều người rồi, không bao lâu nữa các anh sẽ chịu họa nầy.
Tăng Già La đáp:
– Có kế gì thoát ra không?
Tôi nghe rằng ở bờ biển có một con ngựa trời. Nếu đến đó cầu thỉnh, sẽ được cứu giúp. Nghe như vậy, Tăng Già La liền cáo từ người thương nhân ấy, chạy ra bờ biển nhất tâm cầu cứu. Lúc bấy giờ Thiên Mã (Ngựa Trời) đến bảo với ông ấy rằng:
-Các anh mỗi người bám vào cái lông của tôi, nhớ đừng nhìn xuống. Tôi sẽ mang các anh bay qua biển thoát nạn. Khi nào đến Thiệm Bộ Châu, sẽ báo cho biết đã đến cố hương.
Các thương nhân y theo lời dặn, hết sức bám chặt vào lông ngựa. Thiên Mã bay lên mây qua biển đến bờ.
Các La Sát Nữ biết mọi người ấy đã đào thoát liền nói rằng:
– Kỳ lạ thay họ đi hết rồi. Họ đã mang đứa bé bay lên hư không mà đi rồi.
Biết rằng những người thương nhân kia đáp xuống bờ biển; cho nên ra lệnh bay theo để tìm, đang bay gặp các vị thương nhân trên hư không, La Sát Nữ khóc lóc nước mắt đầm đìa. Những người thương nhân không cho khóc nữa. La Sát Nữ nói rằng:
– Tôi thật cảm động khi gặp người tốt đã cùng tôi ân ái vui vầy lâu rồi mà bây giờ lại bỏ đi, bỏ vợ bơ vơ lo lắng. Ai có thể nhẫn tâm như thế! Hãy vì hạnh phúc mà lưu lại nơi thành.
Những người thương nhân nhứt quyết không muốn quay lại. Các La Sát Nữ cố gắng nài nỉ nhưng không thành, bèn dùng yêu mị để chiêu dụ. Các vị thương nhân yêu đắm thật khó nhẫn chịu. Tâm muốn bỏ đi, nhưng thân muốn trở lại. Lúc ấy các La Sát Nữ liền bái tạ rồi mang những thương nhân về trở lại. Còn Tăng Già La trí huệ sâu thẳm, tâm lực kiên cố cho nên không mõi mệt, được vượt qua biển lớn, khỏi bị hiểm nguy. Lúc ấy, La Sát Nữ Vương trở về thành sắt một mình. Các La Sát Nữ khác nói:
– Cô chẳng có mưu lược nên mới bị mất. Phải dùng những chước thuật đừng để mất cơ hội nầy.
La Sát Nữ Vương mang đứa con bay đến trước Tăng Già La dùng những lời cực kỳ ủy mị phỉnh mời trở lại. Tăng Già La miệng tụng thần chú tay cầm kiếm bén đoạn hô lên:
– Ngươi là La Sát. Ta là Người. Người và Quỷ hai loài khác nhau không thể sống chung được. Nếu mà làm khổ nữa ta sẽ giết ngươi ngay.
La Sát Nữ biết dùng tình cảm để dụ dỗ không được, cho nên bay lên hư không đến tận nhà của Tăng Già La lừa gạt cha của Tăng Già rằng:
– Con là Nữ Vương của một nước. Tăng Già La đã sống với con theo nghĩa vợ chồng và đã sanh hạ một đứa con. Chúng con mang đồ vật quý về lại cố hương nhưng thuyền qua biển gặp gió lớn chỉ còn lại mẹ con của con và Tăng Già La may mắn thoát được. Dầu núi sông cách trở, hạnh ngộ khó được nhưng một lời một ý nầy khi gặp được cũng đã toại nguyện rồi.
Tăng Già La chửi mắng La Sát Nữ thậm tệ không chút vị nể. La Sát nói:
– Đường về lại quê hương thì xa xôi, mang tấm thân cô độc tới lui không nơi nương tựa, chẳng biết trần tình cùng ai. Tăng Già nói:
– Nếu thật như vậy thì hãy vào phòng.
Ở chưa được bao lâu thì Tăng Già La về, Người cha nói rằng:
– Sao con coi trọng tiền tài mà xem nhẹ tình nghĩa vợ chồng thế?
Tăng Già La đáp:
– Đây là con quỷ La Sát Nữ. Nó đã đến đây trước thưa cùng cha mẹ, thân tộc không biết việc gì mà xua đuổi.
Lúc ấy La Sát đến tố cáo với Vua. Vua muốn xử tội Tăng Già La
Tăng Già La nói:
– La Sát Nữ vốn đa tình mỵ cảm, Vua làm sao tin được với cái tình huống nói lời tốt đẹp kia, rồi nói với Tăng Già La rằng:
– Vậy đem người con gái nầy để vào hậu cung.
Tăng Già La thưa:
– Sợ rằng sẽ có tai họa. Bởi vì La Sát chỉ ăn máu thịt.
Vua không nhận lời nói của Tăng Già La, mà sung La Sát vào hậu cung. Đêm sau phân thân bay về lại chỗ cũ triệu tập hơn 500 quỷ La Sát Nữ cùng đến Vương cung dùng chú thuật độc hại để tàn hại trong cung, để ăn thịt và uống máu người và vật. Sau đó mang những tử thi nầy về lại chỗ của mình. Ngày hôm sau quần thần triều đinh tụ tập trước Ngọ Môn, nhưng cửa không mở. Ngay cả bên trong không có một tiếng người. Cho nên đập cửa xông vào. Mọi người tiến vào nơi cung đình, chẳng có người nào cả, chỉ còn hài cốt. Các quan xem xét trước sau thấy mất mác bi thảm khóc lên và biết đây là nguyên nhân của hoạn sự. Điều mà Tăng Già La đã nói trước, nhưng Vua không tin cho nên tự rước họa vào thân.
Những vị lão Thần trong nước nầy cùng các quan lại, đồng hiểu rằng đức sáng và tài cao mà ngưỡng vọng Tăng Già La là bậc nhiều phước trí cho nên mới bảo với nhau rằng:
-Phàm là Vua sao lại cẩu thả vậy! Phải nghĩ đến phước trí sau mới thể hiện minh triết. Nếu chẳng có phước trí, thì không có đức để bảo vệ ngôi Vua. Nếu không có minh triết không thể thông hiểu chơn lý cũng như thời cơ. Tăng Già La là bậc hiểu biết như vậy.
Nhờ giấc mộng mà đã cảm ứng được Thiên Mã. Sự trình bày chân thật đó đúng là một bậc mưu trí có thừa, cho nên mang đến nơi đây một sự thành công mới, nên chúng dân xin tôn lên ngôi vị làm Vua. Tăng Già La không từ chối, hoan hỷ chấp nhận lời cung thỉnh của quần thần và các quan, sau đó lên ngôi Vua. Với gương trước mà liền tiêu biểu cho kẻ hiền lương cho nên ra lệnh rằng:
– Ta trước đây là thương nhân đến nước La Sát. Sự sống chết khó lường và việc tốt xấu khó phân. Nay được cứu ra khỏi nạn dữ nên hãy chỉnh đốn binh giáp để cứu nguy và giúp kẻ hoạn nạn làm phước cho quốc gia và lấy những của quý nầy làm lợi cho quốc gia, cho nên cử binh đi qua đảo kia. Lúc đó trên thành sắt lá cờ hiện lên chữ Hung, các La Sát Nữ thấy vậy bàng hoàng lo sợ liền ủy mị ra nghinh dụ dỗ. Vương đã biết điều dối trá ấy, nên ra lệnh các binh sĩ miệng tụng thần chú, thân hiện uy vũ. Các La Sát Nữ trấn giữ không được nên thối lui và bại trận. Khi chạy khỏi rồi, đảo nầy trở nên an ổn. Nước chảy thành màu hồng là do phá thành sắt, đập bể ngục sắt để cứu những thương nhân nhặt được nhiều của quý. Vua chiêu mộ lê dân đến ở đảo nầy, kiến lập thành ấp tạo nên quốc gia. Lấy tên của Vua làm tên của quốc gia, mà trong Bổn Sanh truyện của đức Thích Ca có ghi.
Nước Tăng Già La có nguồn gốc xuất phát từ sự dâm loạn, nhưng sau khi Phật nhập diệt 100 năm, thì có em (con) của Vua A Dục Ma Hê Nhơn Đa La (Mahindha) xả ly ái dục, chí cầu Thánh Quả, chứng được lục thông và đầy đủ tám giải thoát. Ngài dùng thần túc bay qua hư không, để đến nước nầy, hoằng truyền Chánh Pháp lưu giữ lời dạy của đức Phật. Từ đó về sau phong tục thuần tín. Có hơn 100 ngôi Già Lam, và hơn hai vạn Tăng Sĩ tu theo Đại Thừa và Thượng Tọa bộ. Sau khi Phật Giáo truyền vào hơn 200 năm, ở đây chia ra làm hai bộ phái rõ ràng. Một là Ma Ha Tỳ Ha La Trụ Bộ, bài bác Đại Thừa tu tập Tiểu thừa. Phái khác, theo A Phạt Già Đệ Lý Trụ Bộ. Họ học cả hai thừa và hoằng truyền Tam Tạng. Tăng đồ giới hạnh thanh tịnh, định huệ sáng trong là những bậc mô phạm tuyệt vời, nơi Vương cung là một tinh xá thờ răng Phật, cao hơn 100 thước, lại trang sức bằng trân châu và những đồ trân quý. Bên trên tịnh xá có xây một cây trụ cao. Trên đó có để một cái bát báu gọi là Đàm Ma La Ca. Từ cái bát báu nầy phát ra ánh sáng rất vi diệu. Ngày đêm xa gần đều thấy sáng như ngôi sao. Nhà Vua cứ ba ngày lại đến nơi thờ răng Phật, để dâng nước, dâng hương cúng dường. Hoặc đốt nến, hoặc dùng những đồ trân bảo để tu phước cúng dường. Phía bên tịnh xá răng Phật có một tịnh xá nhỏ, nơi đây cũng được trang sức gồm nhiều kim loại quý, trong đó có một tượng Phật bằng vàng, mà tiên vương đã tự thân hiến cúng. Trên nhục kế của tượng được trang sức bằng đồ quý. Nhưng sau đó, có kẻ muốn lấy trộm, nhưng nhờ nhiều lớp cửa bao bọc mà trấn giữ được. Ăn trộm đào hầm thông dưới tinh xá để đi vào bằng hang, muốn trộm tượng quý, nhưng không được. Bọn trộm rút lui và than rằng:
– Như Lai ngày xưa tu hành khổ hạnh, khởi lòng đại bi phát hoằng thệ nguyện. Trên từ thân mệnh dưới đến quốc thành, vì lòng thương bốn loài mà chu cấp tất cả, mà bây giờ thì tượng quý như thế. Lời nói rất là hay nhưng bây giờ không phải là việc làm ngày xưa nữa, nên cúi đầu trước tượng quý và nếu lấy được sẽ đem đi bán. Có người thấy vậy mới nói rằng:
– Đồ quý như thế là của tiên vương đã để trên đầu tượng Phật bằng vàng, mà nay từ đâu có mà bán?
Sau đó, họ đến thưa với Vua và Vua hỏi xuất xứ từ đâu, kẻ trộm đáp rằng:
– Phật tự cho con, con đâu có lấy.
Vua biết là không thành thật cho nên ra lệnh kiểm tra trên đầu tượng Phật. Vua thấy linh thiêng tín tâm thuần chất cho nên không bắt tội người nầy mà lại chưộc gấp đôi đồ quý đó rồi cho an trí lên trên tượng trở lại, và tượng ấy gục đầu xuống cho đến ngày hôm nay. Bên cạnh nhà Vua cũng kiến thiết một nhà ăn lớn, mỗi ngày có cả một vạn tám ngàn tăng ăn uống. Lúc ăn thì chư tăng mang bình bát đến để dùng. Ăn xong rồi thì trở về chỗ ở của mình. Từ khi Phật giáo được truyền sang, họ đều kiến thiết nơi thừa tự và sự cúng dường như thế. Con cháu nối tiếp truyền thống ấy cho đến ngày nay. Cả mười mấy năm, nước nầy chính sự bị rối loạn và chưa biết rõ ràng hưng phế ra sao (thời ngài Huyền Trang).
Hải sản của nước nầy thâu thập được nhiều sản vật trân quý. Hoàng tộc của Vua đem cúng thần hoặc là bán đi. Cho nênđô nhân si tử đến đây rất nhiều, để mua bán để cầu phước báo. Nhiều loại như thế không giống nhau. Tùy theo từng loại vật quý mà được đóng thuế lên đó.
Phía đông nam của nước có núi Lăng Già, có nhiều hang động u tịch thần bí nên chư thần hay tới lui. Tại nơi đây ngày xưa đức Phật nói kinh Lăng Già. Phía nam của nước nầy có bờ biển dài cả ngàn dặm, thuộc về châu Na La Khể La. Người ở Châu nầy nhỏ thó, cao khoảng ba thước ta, không dùng lúa gạo mà chỉ ăn dừa thôi.
Phía tây của châu Na Lê Khể La, cũng có bờ biển dài hơn 1000 dặm. Dọc theo đảo nầy phía đông có tượng Phật bằng đá cao hơn 100 thước, mặt ngồi xây về hướng đông, để trái cầu Nguyệt Ái trên nhục kế, mỗi khi ánh trăng chiếu thì nước từ trái cầu chảy ra thấm vào đá, chảy ra suối. Lúc ấy có một thương nhân gặp gió to bão lớn thuyền tấp vào đảo nầy. Ở đây không có gì để uống, vì quá khát nước, người ấy gặp đúng hôm rằm, nên trên đỉnh đầu của tượng nước chảy ra tràn trề, người ấy chí thành nên có sự linh ứng ấy, cho nên có thể ở lại đây thêm nhiều ngày. Mỗi tháng sau đó, nước không chảy nữa. Lúc ấy thương nhân nghĩ rằng:
– Chắc chắn nhờ sự gia hộ mà mình đã gặp được nước chảy ra. Nghe đến trái cầu Nguyệt Ái dưới ánh trăng chiếu, nước liền tuôn ra, chứ không phải trên đỉnh đầu có đồ vật quý sao?
Liền leo lên để xem thì nhục kế trên tượng, thấy có một trái cầu tròn bằng đá và kể lại như vậy.
Phía tây của đất nước, một bờ biển dài hơn 1000 dặm, đến Châu Đại Bảo. Nơi đây chẳng có người ở mà nơi của chư Thần, đem thanh vắng thấy ánh sáng phát ra từ núi và nước. Có nhiều thương nhân tới lui ở đây cảm nhận được những điều khó nói. Họ đến từ nước Đạt La Tỳ Trà, từ phía bắc xâm nhập vào rừng rậm rồi băng qua những thành ấp. cũng có những kẻ hung bạo kết bè với nhau để sát hại người lữ hành. Đi xa hơn 2000 dặm đến nước Trà Kiến Na Bố La.
2) Nước Trà Kiến Na Bổ La chu vi hơn 5000 dặm, Đô Thành có chu vi hơn 30 dặm. Đất đai màu mỡ cày cấy được mùa. Khí hậu nóng, phong tục mạnh bạo. Hình dáng đen đúa. Tánh tình dũng mãnh. Ưa học nghề nghiệp. Có hơn 100 ngôi Già Lam, và hơn vạn Tăng Sĩ, tu theo Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa. Có hơn 100 ngôi đền thờ. Ngoại Đạo sống tạp nhạp.
Gần Vương cung, có một ngôi chùa lớn. Tăng đồ hơn 300 vị là những người có thật đức trong Già Lam này, có một Đại Tinh Xá cao hơn 100 thước. Bên trong có thờ một cái mũ báu của thái tử cao gần hai thước trang hoàng bằng đồ báu. Đến giờ Ngọ, người ta đem hương hoa cúng dường thì nơi thờ tự ấy phóng ra ánh sáng.
Bên thành của Đại Già Lam có một tịnh xá cao hơn 50 thước. Trong đó có chạm tượng đức Từ Thị Bồ Tát bằng gỗ Bạch Đàn cao hơn 10 thước; đến giờ Ngọ phóng ra hào quang. Được biết rằng tượng nầy do hai trăm ức A La Hán tạo nên. Thành phía bắc chẳng xa có một rừng cây Đa La chu vi hơn 30 dặm. Lá của nó dài và rộng có màu sắc tươi nhuận. Thư từ của các nước đều dùng lá cây nầy. Trong rừng có một Bảo Tháp, đây là di tích của bốn vị Phật trong quá khứ đãđi kinh hành ngồi thiền. Ở đây được nghe rằng có cả hàng hai trăm ức Bảo Tháp như thế để thờ di thân xá lợi của những vị A La Hán.
Thành phía đông chẳng xa có một Bảo Tháp. Nơi đây hư hoại hơn 3 thước cao. Nghe người xưa nói lại rằng trong có thờ Xá Lợi của Đức Phật, đến giờ Ngọ phát ra ánh sáng diệu kỳ. Tại đây ngày xưa đức Như Lai đã thuyết pháp, hiện thần thông lực để hóa độ chúng sanh.
Phía tây nam của thành không xa có một Bảo Tháp cao hơn 100 thước do Vua A Dục kiến tạo. Được nghe rằng nơi đây đã có hai trăm ức vị A La Hán đã hiện thần thông để hóa độ chúng sanh. Bên cạnh đó có một Già Lam, bây giờ chỉ còn nền móng. Chùa nầy do các A La Hán kiến tạo nên. Từ đây đi về hướng Tây Bắc, vào trong rừng sâu, có rất nhiều mãnh thú nguy hiểm, mạnh bạo hung tàn. Đi hơn 2450 dặm nữa đến nước Ma Ha Sách Trạch.
3) Nước Ma Ha Sách Trạch có chu vi hơn 6000 dặm. Đô Thành ở phía tây giáp với sông lớn có chu vi hơn 30 dặm.Đất đai màu mỡ cày cấy trồng trọt tốt tươi. Khí hậu ôn hòa, phong tục thuần chất. Hình thù to lớn, tánh tình buông lung. Có ân thì đền, có oán thì trả. Người bị lăng nhục có thể chết cũng báo thù. Lúc cùng quẫn dù bị chặt đầu chặt chân cũng báo thù. Cả hai bên đều kiên cường nhưng sau đó thì lắng dịu. Lâm trận mà thối lui, nếu không bị giết cũng bị giáng chức. Lính mà thất trận sẽ bị hình phạt cho mặc đồ đàn bà xấu hổ mà chết. Nhà nước nuôi những kẻ lực sĩ và dũng sĩ hơn cả trăm người, mỗi mỗi vì sự quyết chiến mà cho uống rượu say, mang hàng vạn mũi tên nhọn đâm tới. Gặp người phản quốc, hình phạt chẳng kém. Khi ra đi đánh trống đánh chuông làm tiền đạo, lại phục rượu cho hàng trăm con voi say để chiến đấu và chúng dày xéo lên người khác không tha. Vua nước nầy mang người và voi đến nước bên cạnh. Vua thuộc dòng dõi Sát Đế Lợi, tên gọi là Bổ La Khể Xá, mưu kế sâu xa, nhân từ rộng rãi. Thiên hạ đã vì chữ trung mà hy sinh hết mình. Lúc ấy Vua Giới Nhựt đông chinh, tây phạt từ xa đến đây duy chỉ có người nước nầy là không thần phục, kêu gọi năm nước Ấn Độ, và chiêu mộ các nước lân bang, thân chinh thảo phạt, tức sẽ thắng. Đúng ra binh lính ở đây như vậy và tục lệ ở đây cũng như thế. Người ở đây thích học tập nhưng tin theo cả tà lẫn chánh. Có hơn 100 ngôi Già Lam và hơn 5000 Tăng Sĩ tu theo Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa. Có hơn 100 ngôi đền thờ, có nhiều ngoại đạo sinh sống ở đó.
Trong và ngoài thành lớn có 5 Bảo Tháp thờ bốn vị Phật quá khứ đi kinh hành và ngồi thiền do Vua A Dục dựng nên. Trừ những Bảo tháp bằng gạch và đá, đa phần đều bị hư họai không dùng được.
Phía Nam thành không xa, có một Già Lam cũ. Trong đó có một tượng Bồ Tát Quán Tự Tại bằng đá rất linh thiêng khi nguyện cầu có nhiều kết quả.
Biên giới phía đông nam của nước có dãy núi lớn làm cương lĩnh trọng yếu. Tại đây có nhiều Chùa Viện trong hang cốc, cũng có nhiều chùa xây trên núi, có nhiều tầng và lưng chùa là vách núi. Do ngài A La Hán A Chiết La xây dựng, vị A La Hán nầy là người miền tây Ấn Độ, mẹ của ngài sau khi mạng chung, Ngài muốn quán sát xem sanh về xứ nào thì thấy sanh vào nước nầy và thọ thân người nữ. Vị A La Hán ấy lại đi đến nơi đây, muốn hóa độ phải tùy cơ nhiếp thọ vào làng khất thực, rồi đến nhà của mẹ ngài sanh ra. Người mẹ mang đồ ăn cúng thí, rồi sữa trong mình tự nhiên chảy ra, bà cảm nhận vị tu sĩ nầy là kẻ thân thuộc nhưng chưa có rõ. Vị A La Hán thuyết pháp Nhân Duyên, bà nghe mà chứng thánh quả. Vị A La Hán ấy nhớ ơn sanh thành duỡng dục và mong được đền đáp được nghiệp duyên đó là sự trả hiếu tạo đức một cách sâu dày nên xây dựng Già Lam nầy.
Trong Già Lam đó có một tịnh xá lớn, cao hơn 100 thước, trong đó có một tượng Phật bằng đá, cao hơn 70 thước. Bên trên tượng đá có Bảo Cái bảy lớp, dệt thêu đẹp đẽ. Bảo cái ấy cao cả ba thước. Nghe người xưa nói rằng đây là do nguyện lực của A La Hán mà có được, hoặc cũng có nơi nói đây là nhờ vào thần thông lực, hoặc cũng có nơi nói do công lao của nghề làm thuốc….. mà những khảo sát thực tế chưa có rõ ràng.
Bốn bên tịnh xá tường đá được điêu khắc chạm trỗ, những hình ảnh của đức Như Lai ngày xưa khi tu hạnh Bồ Tát và những nguyên nhân trước. Sau khi chứng Thánh Quả vào nơi nhập diệt rồi có nhiều linh ứng. Những điều nhỏ nhặt không có di tích cũng đều cho khắc vào. Bên ngoài cửa của Già Lam mỗi bên đều có một con voi đá. Nghe người xưa nói lại rằng: Con voi nầy có lúc nó rống lên tiếng lớn đất đai chấn động và ngày xưa đây cũng là chùa mà Bồ Tát Trần Na dừng chân. Từ đây đi về phía tây hơn 1000 dặm, qua sông Nại Chư đã đến nước Phạt Lục Yết Chiêm Ba.
4) Nước Phạt Lục Yết Chiêm Ba có chu vi 2450 dặm. Đô Thành có chu vi hơn 20 dặm. Đất đai khô cằn, cây cỏ mọc hoang. Biển nóng nên nghề nghiệp hướng về biển cả. Khí hậu rất nóng. Gió mùa thổi đột ngột, phong tục đơn sơ. Tánh người ngụy trá. Chẳng biết học tập nghề nghiệp. Tà chánh đều tin. Có được 10 ngôi Già Lam, và hơn 300 Tăng Sĩ tu tập theo Đại Thừa và Thượng Tọa bộ. Có 10 đền thờ, ngoại đạo sống chen chúc với nhau. Từ đây qua phía tây bắc đi hơn 2000 dặm, đến nước Ma Lạp Bà.
5) Nước Ma Lạp Bà có chu vi hơn 6000 dặm. Đô thành có chu vi hơn 30 dặm, giáp với sông Mạc Ê ở phía đông nam. Đất đai màu mỡ, Cày cấy trồng trọt tốt tươi. Cây cỏ hoa trái sum sê. Đặc biệt họ dùng nhiều lúa mạch và bánh trái cũng bằng lúa mì. Tâm tánh thuần hậu, thật là thông minh. Ngôn ngữ hoành tráng. Nghề nghiệp ưu tú thâm sâu. Nơi biên giới của 5 nước Ấn Độ có 2 nước ham học hỏi. Ở phía tây nam có nước Ma Lạp Ba, ở phía đông bắc có nước Ma Yết Đà. Tại hai nước nầy có những bậc thạc đức cao minh, mẫn tiệp thông thái, nhưng mà những nước nầy cũng đều tin tà chánh không phân biệt. Có hơn 100 ngôi Già Lam, và có hơn hai vạn Tăng Sĩ, tu theo Tiểu thừa Chánh Lượng Bộ. Có hơn 100 ngôi đền ngoại đạo, họ sống tạp cư rất ư lộn xộn, đa phần tu theo đạo lõa thể. Theo sử của nước cho biết rằng:
Sáu mươi năm trước đây, Vua Thi La A Dật Đa (Giới Nhựt) có trí huệ cao minh, tài cao học rộng, biết trước, yêu mến bốn loài, kính sùng Tam Bảo. Vốn sanh ra từ một vị thần, từ khi chưa mọc răng, mặt chưa hề sân hận và tay không hại một vật. Khi cho voi ngựa uống nước, sợ tánh của nước bị tổn. Lòng nhân từ như vậy đó, cho nên ở ngôi Vua đến 50 năm. Loài dã thú cũng như người ở trong nước nầy lê dân chẳng sát hại. Trong cung Điện có kiến lập tinh xá, trang trí rất tinh xảo, thật là trang nghiêm. Bên trong có tạc bảy tượng Thế Tôn. Mỗi nơi đều thiết lễ cúng trai đàn Thủy Lục, triệu tập bốn phương tăng đồ tu phước bố thí, tứ sự cúng dường, hoặc ba y bình bát, hoặc thất bảo trân kỳ. Trên đời thật hiếm có khó thấy. Phía tây bắc thành lớn đi hơn 20 dặm, đến làng của Bà La Môn. Bên cạnh đó có một cái hố cạn. Mùa thu mùa hạ thì đọng lại, rồi ngấm sâu từng ngày. Tuy có nước chảy vô nhưng chưa bao giờ đầy. Bên cạnh đó lại xây dựng một Bảo Tháp nhỏ và nghe người xưa kể lại, đây là nơi ngày xưa Đại Ngã Mạn Bà La Môn bị đọa vào địa ngục. Ở ấp nầy, có một vị Bà La Môn khi sanh ra biết rộng hiểu nhiều thâm cứu hết thảy nội và ngoại điển đến chỗ thâm huyền. Ngày tháng văn tự cái gì cũng thông suốt. Phong cách mô phạm thanh cao, ai nghe cũng đều kính nể. Cho đến Vua cũng trân quý cung kính và quốc dân đều tôn trọng. Học trò có hơn 1000 người đều là những bậc nổi danh. Một hôm nói rằng:
– Ta vốn vì đời mà xuất thế, thuật lại các việc Thánh để hướng dẫn cho người Phàm. Trước là những kẻ hiền nhân, sau là những nhà triết học, chẳng có ai có thể so sánh với ta. Sánh với Đại Tự Tại Thiên, Bà Sổ Thiên, Na La Diên Thiên, cùng với Phật. Người nào cũng có những kỹ thuật để dạy đạo, nhưng mà chưa thể cạnh tranh, được tôn kính triệt để. Ta nay đức độ đã đầy đủ, đã có tên trên danh đàn một thời với họ, chẳng khác gì những sự vinh hiển. Bèn dùng gỗ chiên đàn màu đỏ, khắc tượng Đại Tự Tại Thiên, Bà Sổ Thiên, Na La Diên Thiên, Phật Thế Tôn v.v…đoạn làm tòa ngồi có bốn chân. Khi nào có ai đến, ông ta tự phụ leo lên ngồi, với tâm đầy ngã mạn như thế. Lúc ấy ở phía tây Ấn Độ có một vị Tỳ Kheo, tên là Bạt Đà La Sổ Chi (Hiền Ái). Hiểu rất rõ ràng về Nhân Minh và nghiên cứu thâm sâu các Luận khác.Đạo phong thuần hậu, hương giới lan xa, thiểu dục tri túc, chẳng mong muốn một việc gì. Nghe như thế than rằng :
– Tiếc thay! trên đời chẳng ai có! Ông ta dại quá, làm việc thất đức.
Từ xa, chống tích trượng mang đãy đến nước nầy với tâm tha thiết tâu lên Vua. Vua thấy cách ăn mặc xềnh xoàng nên không có cảm tình, nhưng nghe ý chí cao cả mạnh hơn hình thức lễ nghi, vì thế bèn sửa soạn nơi đàm luận và mời Bà La Môn đến.
Bà La Môn nghe cười bảo:
– Ông ấy là ai? Ý muốn gì mà đến đây? Thuộc trường phái nào mà đến luận bàn?
Liền kêu cả trăm ngàn người đến đứng trước sau chờ nghe.
Ngài Hiền Ái vận y đơn sơ, trải cỏ làm tòa ngồi, trong khi Bà La Môn ngồi nguyên như trước phỉ báng Chánh Pháp, nêu cao ý tà. Thầy Tỳ Kheo biện luận thanh cao, lưu loát trước sau, cho nên Bà La Môn cảm tạ khuất phục. Vua mới bảo rằng:
– Đã lâu ông là kẻ hư danh, lạm dụng lòng của mọi người, theo luật lệ xưa ghi lại, kẻ nào luận thua thì phải chết, bị bánh xe sắt nghiền thây ngay chỗ ngồi.
Bà La Môn cùng quẫn bức bách vâng mệnh cầu cứu. Ngài Hiền Ái xót thương xin Vua rằng:
– Tâu Đại Vương, xin ngài lấy lòng nhân từ cho kẻ xa đến, để đời đời được nghe tiếng tốt truyền tụng. Hãy ban bố lượng từ bi giáo hóa, đừng làm cái việc kia nữa. Nếu Vua không thi hành thì Bần tăng sẽ bỏ đi.
Vua ra lệnh cỡi lừa đi khắp nơi trong thành để loan báo. Bà La Môn xấu hổ nhục nhã sinh phẩn hận thổ huyết. Vị Tỳ Kheo kia nghe xong liền đến an ủi mà nói rằng:
– Nhà ngươi học hết nội ngoại điển, nghe hiểu mọi điều mà sự vinh nhục chỉ là sự tới lui thường tình. Phàm cái danh ấy đâu có phải là thật. Bà La Môn lại còn phẩn nộ vô cùng, mắng vị Tỳ Kheo thê thảm và phỉ báng Đại Thừa, khinh chê các bậc tiên Thánh.
Lời nói chưa xong, đất liền nứt ra, thân sống nầy rơi xuống sâu. Di tích vẫn còn đây. Từ đây qua phía tây nam ra đến biển gặp phía tây bắc đi hơn 2450 dặm lại đến nước A Thác Lý.
6) Nước A Thác Lý có chu vi hơn 6000 dặm. Đô Thành hơn 20 dặm, Cư dân đông đúc, của quý tích tụ, cày cấy tuyđược mùa, nhưng hưng bại lại khó biết. Đất đai nhiều cát, hoa quả rất ít, sản xuất hồ tiêu và lá tiêu non. Sản xuất gỗ trầm hương và những cây lê. Khí hậu nhiệt đới, có nhiều gió mùa. Người tánh tình thô thiển, trọng tài chê đức. Ngôn ngữ, văn tự, nghi lễ các việc giống như nước Ma Lạp Ba. Đa phần không tin phước đức. Những tín đồ đều tin theo Thiên Thần, có hơn 10 ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống lẫn lộn. Từ nước Ma Lạp Ba đi về phía tây bắc hơn 3 ngày, đến nước Khiết Thác.
7) Nước Khiết Thác có chu vi hơn 300 dặm. Đô Thành có chu vi hơn 200 dặm. Dân cư sống đông đúc, nhà cửa giàu có, không người cai trị nên trực thuộc nước Ma Lạp Ba. Vì phong tục tập quán, thổ sản cũng giống với nước nầy. Có hơn 10 ngôi Già Lam, và hơn 10 ngàn Tăng Sĩ, tu theo cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa. Có hơn 10 ngôi đền thờ, đa phần là ngoại đạo. Từ đây đi về hướng bắc hơn 1000 dặm, đến nước Phạt Lạp Tỳ.
8) Nước Phạt Lạp Tỳ có chu vi hơn 6000 dặm. Đô Thành có chu vi hơn 30 dặm. Đất đai thổ sản khí hậu điều hòa, phong tục tánh tình giống như người nước Ma Lạp Ba. Cư dân ở trong những nhà cửa sang trọng giàu có. Có người giàu có trở thành tỷ phú, số đó hơn 100 người. Xa gần đồ quý đều đem đến nước nầy. Có hơn 100 ngôi Già Lam, và hơn 6000 Tăng Sĩ tu theo Tiểu Thừa Chánh Lượng Bộ. Có 100 ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống tạp cư. Khi đức Như Lai còn tại thế đã nhiều lần đi đến nước nầy, cho nên Vua A Dục đã cho kiến thiết những Bảo Tháp và trồng cây nơi Phật dừng chân. Đây cũng còn là di tích của ba vị Phật trong quá khứ đã kinh hành ngồi thiền và thuyết pháp. Vua bây giờ thuộc dòng Sát Đế Lợi là cháu của Vua nước Ma Lạt Ba, là con của Vua Thi La A Dật Đa thuộc nước Yết Nhược Cúc Phiệt bây giờ, hiệu là Đỗ Ngư Ba Phạt Thác. Tánh tình thô tháo, trí mưu đều thiển cận. Tuy nhiên thuần tín nơi Tam Bảo. Mỗi năm đều thiết lễ Đại Hội bảy ngày, dùng món ngon vật lạ để cúng dường chư Tăng cùng với ba y và thuốc men các thứ, gồm đủ bảy loại quý báu, rồi thêm bố thí làm phước để đức lại cho đời. Tôn trọng đạo lý học thuật, xa gần cao tăng đều được kính lễ. Đi ra khỏi thành chẳng xa, có một đại Già Lam, do vị A La Hán A Chiết La kiến lập. Nơiđây cũng là nơi dừng chân của ngài Bồ Tát Đức Huệ, Kiên Huệ. Tại đây ngài đã chế Luận và truyền đi một cách rộng rãi. Từ phía tây bắc, đi hơn 700 dặm đến núi A Nan Đà Bổ La nằm phía tây Ấn Độ.
9) Nước A Nan Đà Bổ La có chu vi hơn 2000 dặm. Đô thành chu vi hơn 20 dặm. Dân cư đông đúc, nhà cửa giàu có, vì không có người đứng đầu nên lệ thuộc nước Ma Lạp Ba. Đất đai, khí hậu, văn tự, pháp luật đều giống như nhau. Có hơn 10 ngôi Già Lam, gần 1000 tu sĩ tu tập theo Tiểu thừa Chánh Lượng Bộ. Có 10 ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống tạp nhạp. Từ nước Phạt Lạp Tỳ đi qua phía tây hơn 500 dặm, đến nước Tô Sắc Đà nằm phía tây của biên giới Ấn Độ.
10) Nước Tô Sắc Đà chu vi hơn 4000 dặm. Đô Thành chu vi hơn 30 dặm. Phía tây giáp với sông Mạc Ê. Cư dân sống đông đúc, nhà cửa tài sản phong phú, lệ thuộc nước Phạt Lạp Tỳ. Đất đai khô cằn, hoa quả rất ít. Mùa đông có gió thổi mạnh, phong tục thô sơ. Tánh tình nhẹ dạ. Chẳng ham học tập nghề nghiệp. Dân chúng tà chánh đều tin. Có hơn 50 ngôi Già Lam và hơn 3000 Tăng Sĩ tu theo Đại Thừa và Thượng Tọa Bộ. Có hơn 100 ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống chen chúc với nhau. Đất nước nầy có bờ biển nằm về phía tây. Ai sống gần biển rất thuận lợi, để mua bán trao đổi. Đi khỏi thành không xa mấy, có núi Hữu Thiện Đà. Trên đỉnh có một ngôi Già Lam, phòng ốc hành lang đã hư hoại, cây cối suối chảy giao nhau. Đây cũng là nơi thánh hiền lui tới dừng chân, cũng như các tiên thánh qua lại tập hợp. Từ nước Phạt Lạp Tỳ đi về phía bắc hơn 1800 dặm, đến nước Cù Chiết La nằm phía tây biên giới Ấn Độ.
11) Nước Cù Chiết La có chu vi hơn 5000 dặm. Đô Thành hiệu là Tỳ La Ma La có chu vi hơn 30 dặm. Đất đai phong tục giống như nước Tô Sắc Đà. Cư dân sống phồn thịnh, nhà cửa giàu sang, vì có nhiều ngoại đạo nên ít tin Phật Pháp. Chỉ có một ngôi Già Lam, và hơn 100 Tăng Sĩ tu theo Tiểu Thừa Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Có 10 ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống hỗn tạp. Vua thuộc dòng Sát Đế Lợi. Khi tuổi còn nhỏ trí dũng lại cao mưu, thâm tín Phật Pháp, nhưngđến khi cao tuổi luôn thay đổi khác thường. Từ đây qua phía đông nam đi hơn 2800 dặm đến nước Ô Phiệt Diễn Na thuộc miền nam Ấn Độ.
12) Nước Ô Phiệt Diễn Na có chu vi hơn 6000 dặm. Đô thành có chu vi hơn 30 dặm. Đất đai phong tục giống như nước Tô Sắc Đà. Cư dân phồn thịnh, nhà cửa giàu có. Có hơn 10 ngôi Già Lam, đa phần đã hư hoại, chỉ còn lại năm ba ngôi và có hơn 300 Tăng Sĩ tu theo cả Đại Thừa và Tiểu Thừa. Có hơn 10 ngôi đền thờ. Ngoại đạo hầu hết sống tạp nhạp. Vua thuộc giai cấp Bà La Môn, thông suốt kinh điển ngoại đạo, không tin Phật Pháp. Đi khỏi thành chẳng bao xa, có một Bảo Tháp là nơi mà Vua A Dục làm nên một cái địa ngục. Từ đây đi về hướng đông bắc hơn 1000 dặm, đến nước Trịnh Chỉ Đà.
13) Nước Trịnh Chỉ Đà có chu vi hơn 4000 dặm. Đô Thành có chu vi 15 hay 16 dặm. Đất thấp nên cày cấy lúa thóc được mùa. Cũng có trồng được lúa mạch và hoa quả. Khí hậu điều hòa, tánh tình người ở đây thuần lương. Đa phần tin theo ngoại đạo, ít kính tín Phật Pháp. Có 10 ngôi Già Lam, rất ít chư tăng. Có khoảng 10 ngôi đền thờ, mà ngoại đạo lên đến số ngàn.
Vua thuộc dòng dõi Bà La Môn, bài bác Tam Bảo, nhưng tôn trọng đức cho nên các bậc học rộng hiểu nhiều đều vân tập nơi đây. Từ đây đi về hướng bắc hơn 900 dặm, đến nước Ma Ê Thấp Phạt La Bổ Đa, nằm ở miền trung Ấn Độ.
14) Nước Ma Ê Thấp Phạt La Bổ Đa có chu vi hơn 3000 dặm. Đô Thành chu vi hơn 30 dặm. Đất đai, phong tục giống như núi Ô Phạt Diễn Na, tôn kính ngoại đạo chẳng tin Phật Pháp. Đền Thờ có 10 ngôi, đa phần tu theo đạo lõa thể. Nhà Vua thuộc dòng dõi Bà La Môn, cũng chẳng tin sâu Phật Pháp. Từ đây đi trở lại thì đến nước Cù Chiết La. Lại hướng về phương bắc đi qua những nơi hoang dã nguy hiểm hơn 1900 dặm, qua sông Tín Độ (Sông Sin Đu), đến nước Tín Độ ở phía tây Ấn Độ.
15) Nước Tín Độ chu vi hơn 7000 dặm. Đô Thành hiệu là Tỳ Thiêm Bà Bổ La (Vichavapura) có chu vi hơn 30 dặm. Cày cấy lúa thóc được mùa. Đây là nơi sản xuất vàng bạc, ngọc ngà, đá quý. Lại có thêm trâu, dê, lạc đà, lừa và những loại gia súc khác. Tuy chỉ có một ngọn núi sản xuất muối đỏ, có màu sắc giống như đá đỏ, trắng, đen v.v…như người ở nơi khác đến đây lấy để làm thuốc. Con người tánh tình cương nghị, chất trực, hay đấu tranh, ưa phỉ báng, học hành, không đến đâu, nhưng lại thâm tín Phật Pháp. Có 100 ngôi Già Lam, hơn vạn tăng đồ, tất cả đều học theo Tiểu Thừa phái Chánh Lượng Bộ. Lại thêm tánh tình biếng nhác, tệ hại, nhưng cũng có người siêng năng. Họ thường thích ở riêng một mình nơi núi rừng yên tĩnh. Có người trước kia là ăn trộm nhưng lại chứng thánh quả. Có hơn 30 ngôi đền. Ngoại đạo sống tạp cư. Vua thuộc dòng Thủ Đà La (Sùdra – Giai cấp nông dân), tánh tình thuần hậu, tôn kính Phật Pháp. Ngày xưa đức Như Lai có lần đi đến xứ nầy, nên với tâm nguyện xây dựng Thánh tích, Vua A Dục kiến tạo hơn 10 Bảo Tháp ở đây. Ngài A La Hán Ô Ba Cúc Đa cũng đã từng đi đến đây, thuyết pháp khai đạo. Ngày nay vẫn còn di tích lối kiến tạo Già Lam, hoặc kiến tạo Bảo Tháp còn nhiều việc khác nữa nhưng đại lược là như vậy.
Bên sông Tín Độ, đi hơn 1000 dặm, có hơn 100 ngàn nhà ở nơi bờ sông. Người dân tánh tình cương nghị, nhưng việc chánh là sát sanh nhưng không giết bò trâu. Nam nữ sống lẫn lộn nhau không biết xấu hổ. Tóc cắt ngắn, y phục xùng xình, mặc giống như tu sĩ nhưng làm việc thế tục. Chấp Tiểu thừa, phỉ báng Đại Thừa. Tương truyền rằng:
– Xưa kia tại đất nầy, cư dân rất đau khổ trong sự bạo tàn nầy. Có một vị A La Hán thương cảm sự điên đảo ấy, muốn hóa độ họ nên từ hư không mà đến. Hiện đại thần thông tạo nên những việc hy hữu, làm cho họ tin theo, rồi từ từ nghe lời dạy. Những kẻ ấy vui vẻ cung kính, nguyện y theo lời dạy mà sám hối. Vị A La Hán ấy biết họ tâm đã quy thuận, liền cho họ thọ tam quy, rồi việc hung bạo sát hại sanh mạng tất nhiên đoạn diệt. Cạo tóc mặc áo hoại sắc để thừa hành Phật sự. Thời gian trôi qua tuy càng thâm nhập, nhưng thói đời càng xa càng dễ thay đổi. Dù có giữ việc thiện nhưng không còn hoàn hảo. Tuy mặc pháp y nhưng thường hay phạm giới. Con cái đời nầy qua đời kia theo thói quen mà thành tục lệ. Từ phía đông, đi hơn 900 dặm qua sông Tín Độ đến bờ sông phía đông gặp nước Mậu La Tam Bộ Lô, thuộc biên giới phía tây Ấn Độ.
16) Nước Mậu La Tam Bộ Lô có chu vi hơn 4000 dặm. Đô Thành chu vi hơn 30 dặm. Cư dân phồn thịnh, nhà cửa giàu có. Họ lệ thuộc nước Trách Già. Đất đai màu mỡ. Khí hậu ôn hòa, phong tục chất trực ham học và ưa cái Đức, tin nhiều về Thiên Thần và ít tin tưởng Phật Pháp. Có hơn 10 ngôi Già Lam, đa phần đã bị hoang phế và có rất ít Tăng Sĩ, có học nhưng không chịu thực hành. Có 8 ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống tạp cư. Có một đền thờ rất trang nghiêm tráng lệ. Một ngày nọ tượng thiên thần phát ra ánh sáng màu vàng rực rỡ, linh dị u hiển thần thông kỳ diệu. Đàn bà tấu nhạc suốt đêm đến sáng. Rồi hương hoa cúng dường chẳng dứt. Chính các Vua của nước Ấn Độ giàu có nên đã bỏ của thí ấy dùng những của trân bảo để kiến lập nhà Từ Thiện để chu cấp thuốc men, đồ ăn uống cho những người bệnh nghèo. Những người của nước khác đến đây nguyện cầu số thường trên ngàn người. Chung quanh bốn bên đền thờ đều có ao hồ hoa trái, tạo nên chỗ thưởng ngoạn tuyệt mỹ. Từ phía đông nầy đi qua phía bắc hơn 700 dặm đến nước Bát Phạt Đa thuộc miền bắc Ấn Độ.
17) Nước Bát Phạt Đa có chu vi hơn 5000 dặm. Đô Thành có chu vi hơn 20 dặm. Cư dân phồn thịnh, thuộc nước Trách Già, có nhiều lúa mì và lúa mạch. Khí hậu điều hòa, phong tục chất trực. Người dân tánh tình nóng nảy, hay nói những lời thô bỉ. Nghề nghiệp chuyên tinh, tin cả tà lẫn chánh. Có mười ngôi Già Lam, và hơn 1000 Tăng Sĩ tu theo cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa. Có bốn Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên. Có 20 ngôi đền và ngoại đạo sống lộn xộn. Phía bên thành có một ngôi Già Lam rất lớn có hơn 100 Tăng Sĩ, tu học theo Đại Thừa Giáo. Ở đây ngày xưa, ngài Sân Na Phất Đản La (Tối Thắng Tử) soạn Du Già Sư Địa thích luận ở đây. Ngài Hiền Ái luận sư và Ngài Đức Quang luận sư cũng xuất gia nơi đây. Chùa nầy đã bị hỏa thiêu cho nên bây giờ rất hoang tàn. Từ nước Tín Độ phía tây nam đi hơn 1560 dặm, đến nước A Điểm Bà Sí La nằm phía tây biên giới Ấn Độ.
18) Nước A Điểm Bà Sí La có chu vi hơn 5000 dặm. Đô Thành hiệu là Yết Tế Thấp Phạt La có chu vi hơn 30 dặm nằm ở biên giới phía tây gần sông Tín Độ và bên cạnh bờ biển. Nhà cửa giàu có và có nhiều của quý. Gần đây không có người kế tục cho nên trực thuộc nước Tín Độ, đất đai ẩm thấp lồi lõm, cỏ lúa mọc đầy. Lúa thóc tuy có, nhưng đa phần lúa mạch là đặc sản. Khí hậu lạnh. Gió rét cắt da. Nơi đây có nhiều bò, dê, lạc đà, lừa. Tánh tình con người nóng nảy, chẳng thích học tập. Ngôn ngữ sổ sàng khác với miền trung Ấn Độ. Tập tục thuần hậu kính sùng Tam Bảo. Có 80 ngôi Già Lam, và hơn 5000 Tăng Sĩ đa phần học theo Tiểu Thừa Chánh Lượng Bộ. Có mười ngôi đền thờ. Họ theo đạo lõa thể. Trong thành có một đền thờ Đại Tự Tại Thiên. Đền thờ và tượng được điêu khắc rất đẹp và linh thiêng. Những người ngoại đạo dời nhà cửa vào ở bên trong. Ngày xưa đức Như Lai cũng đến đó để độ người, chỉ dẫn cho những kẻ phàm tục được lợi lạc. Cho nên Vua A Dục xây dựng những Thánh Tích đến 6 Bảo Tháp tất cả. Từ đây đi về phía tây hơn 2000 dặm đến nước Lang Yết La, ở phía tây biên giới Ấn Độ.
19) Nước Lang Yết La từ phía đông sang phía tây và từ phía bắc xuống phía nam hơn 1000 dặm. Đô Thành hơn 30 dặm. Đô Thành tên là Tốt Thố Lê Thấp Phạt La. Đất đai màu mỡ. Lúa thóc được mùa. Khí hậu phong tục giống như nước A Điểm Bà Sí La. Cư dân giàu có, chứa nhiều của quý. Nước nằm gần biển lớn. Đi về phía tây gặp nước toàn phụ nữ. Vì không có người lãnh đạo, cho nên có nhiều kẻ tự phát không vâng lệnh ai cả. Bây giờ thuộc nước Ba Sắc Tư. Chữ viết giống như Ấn Độ nhưng tiếng nói thì khác. Tin theo cả tà lẫn chánh. Có hơn 100 ngôi Già Lam và hơn 6000 Tăng Sĩ tu theo cả Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa. Có hơn 100 đền thờ. Ngoại đạo đa phần tu theo phái lõa thể. Trong thành có đền thờ Tự Tại Thiên rất trang nghiêm tráng lệ. Đây là nơi tập họp của những người tu lõa thể. Từ phía tây bắc đến nước Ba Sắc Tư (không phải bên trong nước Ấn Độ – Nước Ba Tư).
20) Nước Ba Sắc Tư có chu vi hơn vạn dặm. Đô Thành hiệu là Tô Sách Tát Quân Na có chu vi hơn 40 dặm. Đất đai sông núi có nhiều. Khí hậu lại thay đổi thuộc miền nhiệt đới nên phải dẫn nước vào ruộng. Người người giàu có. Nơiđây sản xuất vàng, kim loại quý, đá quý, những loại thủy tinh trân kỳ. Ở đây có dệt vải và làm những loại lông thú. Giỏi cỡi ngựa và lạc đà, trao đổi bằng tiền kẽm, bằng bạc. Tánh người thô bạo. Tục lệ chẳng có lễ nghi. Văn tự ngôn ngữ khác với các nước. Chẳng có nghề nghiệp nhưng có nhiều sản phẩm công nghệ. Sản phẩm đều do người ở nước bên cạnh mang qua là chính yếu. Hôn nhân lộn xộn. Thây chết vứt bừa bãi. Hình dáng người to lớn, đầu hói trán rộng. Mặc y phục bằng da và bằng bông. thuế nhà bốn đồng tiền kẽm. Có rất nhiều đền thờ, thuộc học trò của phái Ngoại đạo Đề Na Phạt. Chỉ có hai ba ngôi Già Lam và hơn 100 Tăng Sĩ. Họ học tập theo Tiểu Thừa, thuộc Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Bình bát của đức Phật Thích Ca nằm trong vương cung. Biên giới phía đông có thành Hạt Chu. Bên trong thành không rộng, nhưng mà thành ngoài chu vi hơn 60 dặm. Người ở đây sinh sống giàu có. Phía tây bắc giáp với nước Phất Lẫm, vì ở gần cho nên phong tục cũng giống như nước Ba Tư. Hình mạo và ngôn ngữ cũng khác, có nhiều tài nguyên thiên nhiên giàu có phong phú. Phía tây nam của nước Phất Lẫm là biển và đảo. Phía tây là nước Nữ Quốc, tất cả dân chúng đều là đàn bà chẳng có đàn ông. Những đồ trân bảo được bán vào nước Phất Lẫm cho nên kho Vua của Phất Lẫmđược đem phân phát cho mọi người. Phong tục của nước nầy, nếu sinh ra con trai, không được chọn. Từ nước A Điểm Bà Sí La đi qua phía bắc hơn 700 dặm, đến nước Kiên Đa Thế La nằm ở biên giới phía tây của Ấn Độ.
21) Nước Kiên Đa Thế La chu vi hơn 3000 dặm. Đô thành chu vi hơn 30 dặm. Nhân dân giàu có nhưng không người lãnh đạo, nên phải lệ thuộc nước Tín Độ. Đất đai có nhiều cát. Gió lạnh thổi mạnh. Đa phần trồng được lúa mạch nhưng ít hoa quả, phong tục bạo ác. Ngôn ngữ khác với miền trung Ấn Độ, họ chẳng muốn học nghề nghiệp, nhưng biết tin tưởng. Có hơn 50 ngôi Già Lam và hơn 3000 Tăng Sĩ tu theo Tiểu Thừa Chánh Lượng Bộ. Có hơn 20 đền thờ đa phần theo đạo lõa thể. Về phía bắc cách thành 15 hay 16 dặm là một khu rừng lớn, trong đó có một Bảo Tháp cao hơn 100 thước do Vua A Dục dựng nên. Trong đó có thờ Xá Lợi và thường phóng ra ánh sáng rực rỡ. Đây là nơi mà ngày xưa đức Như Lai đã làm một vị tiên nhơn bị Vua nước ấy sát hại. Từ phía đông đi không xa có một ngôi Già Lam đã cũ, do ngài Đại A La Hán Đại Ca Na Đa Diên Na kiến lập ngày xưa. Bây giờ bên cạnh đó còn di tích của bốn vị Phật trong quá khứ ngồi thiền và đi kinh hành. Cho nên Bảo Tháp được xây dựng để làm chỗ tiêu biểu. Từ đây đi về hướng đông bắc hơn 300 dặm, đến nước A Quân Trà nằm phía tây biên giới Ấn Độ.
22) Nước A Quân Trà chu vi hơn 2450 dặm. Đô Thành chu vi hơn 20 dặm. Không người lãnh đạo cho nên lệ thuộc nước Tín Độ. Đất đai trồng được lúa mì và lúa mạch rất tốt. Hoa quả ít, cây cối thưa. Khí hậu gió lạnh. Tánh tình con người hung bạo, ngôn ngữ phong phú, chẳng thích học nghề. Tuy nhiên đối với Tam Bảo giữ tâm thuần tín. Có hơn 20 ngôi Già Lam, và hơn 2000 Tăng Sĩ. Đa phần tu theo Tiểu Thừa Chánh Lượng Bộ. Có 5 ngôi đền thờ, tu theo phái ngoại đạo lõa thể. Phía đông bắc của thành chẳng xa có một rừng trúc lớn, trong đó có dấu tích của một ngôi chùa. Nơi ấy ngày xưa Như Lai nghe các vị Tỳ Kheo về việc mặc y và mang tất. Bên cạnh đó có Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên, bây giờ đã nghiêng đổ, cao hơn 100 thước. Gần đó cũng có một Tịnh Xá, có tượng Phật đứng bằng đá xanh. Cứ mỗi ngày đến giờ Ngọ thì phóng ra ánh sáng.
Đi về phía nam hơn 800 bước vào trong rừng có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên. Nơi đây đức Như Lai đã dừng lại nhiều ngày. Đêm về lạnh lẽo cho nên Ngài đã đắp ba y cùng một lúc cho nên sáng ngày hôm sau, khai mở cho các Tỳ Kheo được mặc nhiều lớp y. Ở giữa rừng, có nơi Phật đi kinh hành, có những Bảo Tháp chiếu lên ánh sáng. Cũng là nơi tọa thiền của bốn vị Phật trong quá khứ. Trong Bảo Tháp nầy có tóc và móng tay của Như Lai, mỗi ngày đến giờ Ngọ, ánh sáng phóng ra rất đẹp. Đi về phía đông bắc hơn 900 dặm đến nước Phạt Sắc Noa thuộc miền tây Ấn Độ.
23) Nước Phạt Sắc Noa chu vi hơn 4000 dặm. Đô Thành chu vi hơn 20 dặm. Người người giàu có, nhưng lệ thuộc nước Ca Tất Thí. Đất đai có nhiều núi rừng, nên lúa gạo tương đối ít. Khí hậu tương đối lạnh, phong tục thô bạo. Tánh tình nóng nảy. Ý chí thậm tệ. Ngôn ngữ ít giống với miền trung Ấn Độ, tin theo cả tà lẫn chánh. Không thích học hỏi nghề nghiệp. Có hơn 10 ngôi Già Lam, đa phần đều hoang tàn. Có hơn 300 Tăng Sĩ tu theo giáo lý Đại Thừa. Có hơn 5 ngôi đền thờ, hầu hết ngoại đạo ở đây tu theo đạo lõa thể.
Không xa thành về phía nam có một ngôi Già Lam cũ, ngày xưa Như Lai thường thuyết pháp ở đây, đã chỉ dạy sự lợi lạc của niềm vui và khai mở cho mọi người hiểu được sự sống của mọi loài. Bên cạnh đó là nơi di tích của bốn vị Phật trong quá khứ đi kinh hành và ngồi thiền.
Tương truyền rằng xứ nầy, phía tây tiếp giáp với nước Khể Lượng Na, người ở đó cách trở núi sông không có người cầm đầu, có nhiều dê ngựa và nhiều ngựa quý. Hình dáng con người cao lớn. Các nước khác mang nhiều loại bảo vật quý giá đến nước nầy trao đổi.
Từ đây đi về phía tây bắc vào trong núi sâu rồi băng qua sông rộng, qua một thành ấp nhỏ rồi đi hơn 2000 dặm nữa mới ra khỏi biên giới nước Ấn Độ, đến nước Tào Cự Thác.
Đại Đường Tây Vức Ký hết quyển thứ mười một
Ghi chú:
Đoạn sau đây gồm có 516 chữ Hán giải thích rõ ràng về nước Tăng Già La (Tích Lan):
Nước Tăng Già La (Tích Lan) ngày xưa gọi là nước Sư Tử, cũng gọi là nước Vô Ưu nằm phía nam xứ Ấn Độ, đất đai có nhiều của quý, cũng có tên là Bảo Chữ (Bãi Cát Quý). Ngày xưa, đức Phật Thích Ca Mâu Ni hóa thân với tên là Tăng Già La. Ngài là bậc đạo đức, quốc dân suy tôn làm Vua, cho nên nước nầy lấy quốc hiệu là Tăng Già La, dùng đại thần thông lực phá thành bằng thiếc, diệt trừ La Sát Nữ, vì thương xót cứu giúp sự nguy nàn. Sau đó xây dựng kinh đô, kiến thiết làng ấp đã giáo hóa mọi người. Ngài hoằng dương Chánh Pháp và sau khi viên tịch để lại răng xá lợi. Đất tại đây cứng như kim cương trải qua bao nhiêu kiếp vẫn không bị hoại, ánh sáng chiếu rọi giống như ngôi sao trên hư không, như mặt trăng sáng tỏa, như mặt trời tỏ rõ ban ngày. Nếu có cúng kiến thì kết quả như thần. Trong nước có nhiều chỗ hoang sơ, nguy hiểm tai nạn khác nhau, nếu tinh cần cầu nguyện sẽ được linh ứng rõ ràng. Bây giờ là núi Dương Lan, ngày xưa thuộc nước Tăng Già La. Tại vương cung có răng Phật thờ trong tịnh xá, trang trí nhiều đồ quý giá phát ra ánh sáng. Đời đời tương thừa kính lễ không dứt. Quốc Vương bấy giờ tên là A Lạt Khổ Nại Nhi trấn thủ tại đây. Hay tôn sùng ngoạiđạo chẳng tôn kính Phật Pháp, tàn bạo hung hăng, chẳng giúp đỡ quốc dân, ngạo mạn với răng Phật.
Ghi chú:
Đại Minh Vinh Lạc năm thứ ba, Hoàng Đế sai Thái Giám Trịnh Hòa mang hương hoa đến đây để cúng dường. Trịnh Hòa muốn gặp Quốc Vương A Liệt Khổ Nại Nhi để khuyên Quốc Vương nên sùng kính Phật Pháp xa lìa ngoại đạo. Vua giận dữ liền muốn gia hình sát hại. Trịnh Hòa biết được mưu nầy nên thoát khỏi. Sau đó, Trịnh Hòa sang các nước lân bang để báo tin và bái yết Vua nước Dương Lan Sơn, Vua cũng kiêu mạn chẳng cung kính lại có ý đồ hại sứ giả. Dùng năm vạn binh và dùng gỗ để lấp đường, chia quân lính ra để cướp thuyền. Mưu chờ thời cơ. Trịnh Hòa biết được nên lui thuyền lại. Đường trở lại rất hiểm nguy. Cho người ra khỏi thuyền, ông ta cùng ba ngàn binh lính ban đêm xâm nhập vào Vương Thành cố thủ. Những lính cướp thuyền cùng với những lính nội công bốn mặt xáp lại, hợp lực bao vây nhiều vòng, công phá chiến đấu trong sáu ngày. Trịnh Hòa bắt được Vua, bắt buộc phải mở cửa và dẹp gỗ chắn đường ngăn chận lối đi. Cả hơn hai mươi dặm như thế thì mới đến thuyền. Rồi thỉnh răng Phật xuống thuyền, linh dị phi thường. Hào quang chiếu diệu như trước đã nói, làm chấn động kinh ngạc những người xa gần. Rồi trải qua biển cả hơn 10 vạn dặm. Gió mưa trôi dạt nhưng chẳng sợ lại như bình địa. Rồng dữ, cá ác chia nhau xuất hiện phía trước, rồi lặng lẽ ra đi chẳng làm hại. Mọi người trong thuyền vẫn yên ổn vui tươi. Đến ngày mồng 9 tháng 7 năm Vinh Lạc thứ 9 triều nhà Minh, về đến kinh sư. Hoàng Đế ra lệnh trong hoàng thành dùng gỗ Bạch Đàn thật trang nghiêm để làm Kim Cương Bảo Tọa lưu giữ răng Phật, rồi dùng nghi thức tế lễ cúng dường, lợi ích cho loài hữu tình, cầu phước cho thứ dân làm lợi lạc vô lượng công đức.
Đại Đường Tây Vức Ký hết quyển mười một