ĐẠI BI CHÚ GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Tuyên Hóa
Nhà xuất bản Tôn Giáo
PL: 2550 – DL: 2006

TÁM QUY LUẬT
CỦA NGƯỜI PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN PHẬT HỌC

1. Người dịch phải tự thoát mình ra khỏi động cơ truy tìm danh lợi.

2. Người dịch phải tu dưỡng thân tâm, dứt bỏ thói cao ngạo.

3. Người dịch phải tự chế, không được tự khen ngợi mình, chê bai người khác.

4. Người dịch không được tự cho mình là tiêu chuẩn, là thước đo, rồi hạ thấp người khác bằng cách tìm lỗi nơi tác phẩm của họ.

5. Người dịch phải lấy tâm Phật làm tâm mình.

6. Người dịch phải dùng Trạch Pháp Nhãn để phán xét đâu là chân lý.

7. Người dịch phải cung kính cầu thỉnh Cao Tăng Đại Đức mười phương chứng minh cho bản dịch.

8. Người dịch phải hoan hỷ truyền bá giáo nghĩa Phật học bằng cách in Kinh, Luật, Luận khi việc phiên dịch của mình được công nhận là chính xác.

Hòa Thượng Tuyên Hóa

Kệ Khai Kinh

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ.
Ngã kim kiếu văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa

*

Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu.
Con nay nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện rõ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

 

HÀNH TRẠNG CỦA HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA

SHI HENG TUNG

* THỜI THƠ ẤU:

Vào ngày 17 tháng 03 năm Mậu Ngọ (1918), Hòa Thượng Tuyên Hóa sinh ra trong một gia đình họ Bạch, tại một ngôi làng nhỏ thuộc huyện Song Thành, tỉnh Cát Lâm, Đông Bắc Trung Hoa.

Ngay khi vừa sinh ra, Ngài khó suốt ba ngày, thương cho chúng sinh trong cõi Ta bà quá nhiều khổ lụy. Năm 11 tuổi, nhân thấy một em bé chết giữa vùng sa mạc hoang vu, Ngài có phần thức tỉnh, muốn rời bỏ cuộc sống gia đình, tu đạo để giải quyết vấn đề sinh tử lớn lao.

Năm lên 12 tuổi, Ngài bắt đầu sám hối tất cả mọi lỗi lầm của mình với hai đấng sinh thành, dự tính một lòng báo đáp hiếu đạo. Ngài lạy cha mẹ mình hằng ngày. Sau đó, Ngài cảm thấy lạy cha mẹ mình chưa đủ, Ngài lạy Trời Đất, Quốc vương, Sư trưởng. Ngài vẫn thấy chưa đủ. Vì thế, dần dần Ngài lạy đến cả mọi loài chúng sanh. Ngài lạy sáng và chiều, lỗi lần hơn 380 lạy, 5 thời mỗi ngày. Ngài lạy đến cả gió, mưa, tuyết, mong rằng qua cái lạy sẽ chuyển hóa được người xấu thành người tốt; hy vọng cái lạy sẽ đem bình an đến cho thế giới tao loạn này.

Năm 15 tuổi, Ngài quy y với Lão Hòa Thượng Thường Trí ở chùa Tam Duyên. Chính thức là Phật tử đã quy y Tam Bảo.. Ngài thân cận Hòa Thượng Thường Nhân. Đến năm 17 tuổi, Ngài chỉ đến trường học hai năm rưỡi. Do Ngài đạt được tâm chuyên nhất nên đọc qua một lần liền thuộc. Nhờ vậy, Ngài thông thạo Tứ Thư, Ngũ Kinh, Bách gia Chư Tử, Y học, Bốc phệ, Chiêm tinh, Vật lý, và các lĩnh vực học thuật khác của thế gian.

Vào năm 16 tuổi, Ngài đã bắt đầu giảng Kinh Pháp Bảo Đàn, Kinh Kim Cang, Kinh A Di Đà, và giảng giải Phật Pháp cho những người không biết chữ nghe.

Năm 18 tuổi, mẹ Ngài lâm bệnh. Ngài bỏ học ở nhà chăm sóc. Vì Ngài đã biết rõ khó khăn do không được học hành chu đáo, nên Ngài thành lập một lớp học miễn phí, dạy cho hơn 30 trẻ em nghèo, từ sáng đến tối không nghỉ.

Trong những năm đi học, Ngài còn tham gia nhiều hội đoàn từ thiện, như Hội Phật Học, Hội Đạo Đức, Hội Từ Thiện, Hội khuyến khích bỏ uống rượu, bỏ hút thuốc; khuyến khích từ bỏ những thói xấu, làm việc thiện. Ngài tu tập hạnh Bồ tát, nguyện cứu độ tất cả mọi loài.

* XUẤT GIA:

Năm 19 tuổi, mẹ Ngài, Hồ Thái qua đời. Ngày 08 tháng 04 ngày Đức Phật Đản sanh, Ngài đảnh lễ Lão Hòa thượng Trí Nhân ở chùa Tam Duyên, xin thế phát xuất gia. Được Lão Hòa thượng truyền giới Sa di, pháp danh là An Từ, pháp tự là Độ Luận. Ngài xin được y chỉ với Lão Hòa thượng Thường Nhân, trụ trì chùa Tam Duyên. Khi được Lão Hòa thượng Hư Vân truyền pháp, Ngài được ban pháp hiệu là Tuyên Hóa.

Trong suốt ba năm xuất gia, Ngài sống trong một túp ều đơn giản bên cạnh mộ mẹ Ngài. Người đời gọi Ngài là Bạch Hiếu Tử (người con hiếu họ Bạch).

Vào ngày 19 tháng 06, kỷ niệm khánh đản Bồ tát Quán Thế Âm, Ngài phát 18 lời nguyện lớn trước Chư Phật. Cuộc đời của Ngài là sự thực hành sống động 18 lời nguyện lớn này.

“Cúi đầu đảnh lễ Chư Phật mười phương cùng Tam Tạng Pháp quá khứ, hiện tại, vị lai cùng các Hiền Thánh Tăng, duy nguyện rủ lòng chứng minh cho đệ tử pháp danh Thích An Từ, tự Độ Luận, con nay phát tâm không vì tự mình cầu phước báo cõi Trời, Người, Thanh văn, Duyên giác cho đến các quả vị Bồ tát quyền thừa, chỉ y theo tối thượng thừa phát tâm Bồ đề. Con nguyện cùng chúng sinh trong cả pháp giới cùng lúc đều đạt được quả vị Vô Thượng Chánh đẳng Chánh giác.

1. Con nguyện vì hết thảy chư vị Bồ tát trong cùng tận hư không, khắp pháp giới, trong cả ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.

2. Con nguyện vì hết thảy các vị Duyên giác trong cùng tận hư không, khắp pháp giới, trong cả ba đời, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.

3. Con nguyện vì hết thảy các vị Thanh văn trong cùng tận hư không, khắp pháp giới, trong cả ba đời, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.

4. Con nguyện vì hết thảy các loài ở cõi Trời trong tam giới, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.

5. Con nguyện cho hết thảy loài người, trong mười phương thế giới, nếu như còn một người nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.

6. Con nguyện cho loài người, loài Trời, hết thảy loài A tu la, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.

7. Con nguyện cho hết thảy các loài súc sanh, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.

8. Con nguyện cho hết thảy các loài Ngạ quỷ, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.

9. Con nguyện cho hết thảy chúng sanh trong địa ngục, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.

10. Con nguyện cho tất cả các loài Trời, Người, A tu la, các loài côn trùng, cho đến các linh giới như Rồng, Quỷ thần … đã từng quy y với con, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.

11. Con nguyện đem hết tất cả những phước lạc mà con đáng được hưởng, xin hồi hướng, bố thí, cúng dường cho hết thảy chúng sanh.

12. Con nguyện chọu thay hoàn toàn mọi khổ nạn chu chúng sanh trong pháp giới này.

13. Con nguyện phân thân vô số lượng để chuyển hóa hết thảy chúng sanh chưa có lòng tin với Phật Pháp, khiến họ bỏ việc ác làm việc lành, sám hối mọi tội chướng, quy y Tam Bảo, rốt ráo thành Phật.

14. Con nguyện cho hết thảy chúng sanh, khi được thấy mặt con, được nghe đến tên con, đều phát tâm Bồ đề, chóng thành Phật đạo.

15. Con nguyện hết lòng tôn kính giới luật đức Thế Tôn đã chế. Nguyện thực hành ăn một ngày một bữa vào lúc giữa trưa.

16. Con nguyện giác ngộ cho hết thảy chúng sanh hữu tình, nhiếp độ hết thảy mọi căn cơ.

17. Con nguyện tu tập để ngay đời này được ngũ nhãn ,lục thông, đến đi tự tại.

18. Con nguyện cho hết thảy những điều đã phát nguyện đều được viên mãn.

Cuối cùng:

Chúng sanh không ngằn mé, thệ nguyện độ hết thảy.
Phiền não không cùng tận, thệ nguyện đều dứt sạch.
Pháp môn không số lượng, thệ nguyện đều tu học.
Phật đạo không gì sánh bằng, thệ nguyện được viên thành.

* TRỊ TÂM BỆNH:

Hòa thượng Tuyên Hóa ngay từ thơ ấu đã có lòng nghĩa hiệp và lòng trắc ẩn. Ngài không chịu nỗi khi thấy người khác bị khổ. Vì vậy, Ngài nguyện chịu thay mọi khổ nạn cho chúng sanh. Ngài đã cứu chữa cho vô số người bị những chứng bệnh ngặt nghèo và quái dị. Những bệnh không còn phương cứu chữa, như bệnh ôn dịch, bệnh ma ám, bệnh do nghiệp chướng …

Hòa thượng nói: “Đây chẳng phải là do tôi có một năng lực gì đặc biệt hay thần thông diệu dụng gì cả. Đây là sức gia bị của Chư Phật và Chư Bồ tát. Khi tâm nguyện chí thành, sẽ nhận được sự cảm ứng của Chư Phật, Chư Bồ tát”.

Trong khi dùng lực gia trì để chữa bệnh cho mọi người, Ngài đều giải thích cho họ hiểu ý nghĩa chủ yếu của lực gia trì:“Các con không nên chỉ biết tìm kiếm sự gia bị ở bên ngoài, mà trước hết hãy tự mình gia bị cho chính mình, rồi mới có thể gia bị cho hết thảy mọi người. Đó là ý nghĩa chân chính của việc gia bị”.

Tại sao ta không có được sự cảm ứng khi tụng kinh, trì chú, niệm Phật? Vì chúng ta không thành thực, chúng ta đã nói dối. Chú là chân ngôn. Nếu mọi người không vọng ngữ thì mọi lời nói của họ đều có công hiệu. Nếu họ gọi Trời, Trời liền cảm ứng, gọi đất, đất liền linh hiển. Hòa thượng nói:

“Tôi là một người không có khiếu nói năng, vì tôi chỉ biết nói những điều chân thực và nói những điều mà mọi người muốn nghe, đặc biệt là trong việc phá trừ mê tín. Tôi chẳng ngại bị đắc tội với người. Nếu có điều gì cần phải nói, tôi sẽ nói ở bất cứ nơi đâu mà tôi đến. Nếu có điều gì không cần phải nói, tôi sẽ không nói. Đơn giản chỉ vì khi ta không vọng ngữ thì mọi chữ, mọi lời ta nói lên đều có một năng lực vô biên, có thể chữa lành những căn bệnh hiểm nghèo cho chúng sanh hữu tình cũng như vô tình. Như cơn bão lẽ ra sẽ đến, nó có thể chuyển sang hướng khác. Một trận động đất lớn giả sử sẽ xảy ra, nó sẽ được ngăn chặn. Nơi bị hạn hán, nước sẽ xuất hiện. Nơi không có mưa, sẽ có mưa. Chiến tranh và tai ương sẽ được dập tắt. Những điều xấu đang hiện hữu sẽ được làm cho biến mất, và những điều lành chưa hiện hữu sẽ được làm cho phát hiện. Bởi vì khi tâm ta chân thành đến cực điểm, sự cảm ứng tự nhiên sẽ dung thông, đáp ứng ngay tâm nguyện của mọi người. Chân lý ở nơi đâu thì nơi đó sẽ có hết thảy các loài Rồng, Chư Thiên và các thiên thần đến để hộ trì. Chân lý ở nơi đâu thì tất cả Chư Phật, Chư Bồ tát sẽ đến nơi đó để hộ trì”.

* HOẰNG TRUYỀN CHÁNH PHÁP

Vào năm 1948, Hòa thượng sang Hồng Kông để truyền bá chánh pháp. Vào năm 1962, Ngài nhận lời cầu thỉnh sang Hoa Kỳ, nơi Ngài phát nguyện lớn hoằng truyền Phật pháp, dịch Kinh và giáo dục. Ngài còn dựng lập đạo tràng, nhận đệ tử, lập tông chỉ, đặt nền móng cơ bản cho việc truyền bá Phật pháp ở Tây phương. Hòa thượng thường nói:

“Tôi có thể không ăn một ngày, nhưng không thể bỏ phí một ngày mà không giảng giải Phật pháp”. – “Chỉ cần còn một chút hơi thở, là tôi còn giảng pháp”. – “Tôi sẽ giảng pháp, dù cho nhiều người, hoặc chỉ có ít người nghe. Dù chỉ có một người đến, tôi vẫn giảng. Dù chẳng có người nào đến, tôi cũng giảng cho quỷ thần nghe”.

Công hạnh một đời của Hòa thượng là nói và làm, tương ứng nhau khắp mọi nơi, vào mọi lúc. Đó là biểu hiện chân thật nhất của giáo pháp mà Ngài đã truyền bá.

* THÂN THUYẾT PHÁP

Ngài đã sống bên cạnh mộ của mẹ Ngài suốt ba năm. Đối với cha mẹ, Ngài là người con chí hiếu. Suốt đời, Ngài luôn kính trọng những người lớn tuổi, yêu mến trẻ thơ, và hết lòng thương xót các loài chúng sanh. Thấy nước Trung Hoa gặp nhiều tai ương trong chiến tranh, Ngài không từ bỏ nghĩa vụ công dân của một người Trung Hoa. Suốt trong thời gian hơn 30 năm ở nước Mỹ, Ngài tự nguyện làm việc vì lợi ích của nước Mỹ, trong khi Ngài vẫn kiên quyết giữ quốc tịch Trung hoa. Ngài hoàn toàn trung thành với cả hai quốc gia.

Ngài rất đơn giản trong việc sử dụng áo quần, thực phẩm, mọi đồ dùng riêng … để tiết kiệm nguồn năng lượng cho toàn thế giới. Ngài dùng một đôi giày suốt hơn 30 năm. Ngày chẳng có nhiều quần áo. Khi ăn cơm, nếu có một hạt cơm rơi xuống nền nhà, Ngài liền nhặt lên ăn. Khi uống nước, Ngài uống cạn sạch ly. Ngài dùng những thực phẩm đơn giản nhất, chỉ luộc chín, chẳng cần dầu và muối. Những của phước lạc riêng Ngài, Ngài đều xin hồi hướng bố thí cho tất cả chúng sanh. Ngài chẳng có riêng tài sản gì, vì Ngài đã cúng dường cho những quỹ từ thiện.

Không bao giờ theo hình thức bên ngoài. Ngài luôn hạ mình thấp nhất và sau hết mọi người. Ngài đã bắt đầu tu tập pháp lễ lạy khi Ngài còn 12 tuổi. Ngài lạy hết thảy mọi người suốt ngày không mệt. Sau khi đến Mỹ, Ngài còn lạy các đệ tử của Ngài. Ngài lạy cho đến khi các vị đệ tử chịu giảng dạy Phật pháp. Ngài lạy cho đến khi một số đệ tử phát nguyện thực hiện một cuộc hành hương với ba bước một lạy. Ngài lạy cho đến khi đệ tử Ngài chịu lạy những kẻ đã phỉ báng chính Ngài. Bất cứ khi đi đâu, Ngài đều nhường đệ tử mình đi trước. Ngài muốn đi sau rốt mọi người. Khi giảng pháp, Ngài để cho đệ tử giảng trước và Ngài là người giảng sau cùng. Ngài còn là người nguyện cho các đệ tử thành tựu Phật đạo trước mình. Ngài nguyện mình là người cuối cùng trong pháp giới thành tựu Chánh giác.

Dung mạo, oai nghi của Ngài rất hoàn chỉnh. Trong vẻ trang nghiêm đượm tính từ hòa. Đôi mắt luôn nhìn xuống, hai tay luôn luôn chấp lại ngang ngực. Nụ cười thường tỏa rạng trên môi. Trông dáng dấp Ngài rất oai nghiêm. Khi có người tiếp xúc với Ngài, Ngài luôn nhã nhặn và từ ái.

Ngài không bao giờ muốn làm phiền đến người khác. Ngài tự giặt giũ quần áo, tự mang hành lý. Ngài không muốn ai phục vụ cho Ngài, ngay cả khi bệnh nặng phải chống gậy mà đi. Ngay cả vào những năm cuối đời, khi Ngài phải dùng xe lăn, Ngài vẫn nài nỉ được tự mình mang túi xách trên vai hoặc ôm trong lòng khi Ngài di chuyển bằng máy bay từ Đạo tràng này sang Đạo tràng khác để giảng pháp trong tình trạng sức khỏe rất yếu. Ngài bảo: “Tôi muốn được đứng bằng đôi chân của tôi và sử dụng chính sức lực của mình. Tôi không muốn phụ thuộc vào ai cả”.

Ngài ở trong thiền định suốt cả ngày đêm. Công việc đến, Ngài liền ứng xử, giải quyết kịp thời và nhanh chóng. Xong việc, trở lại sự thanh thản thường xuyên. Ngài xử lý vô số việc trong ngày một cách tự nhiên, thoải mái. Ngài nói: “Tôi chẳng tụng Kinhm chẳng trì chú. Điều đơn giản là tôi không khởi vọng tưởng”. Ngài làm việc trong trạng thái nhất tâm. Ngài tức khắc nhận ra và nhắc nhở sửa lại những lầm lẫn của thông dịch viên khi chuyển lời Ngài sang tiếng Anh. Ngài không bao giờ bỏ quên vật gì, Ngài nhớ hết thảy tên, hoàn cảnh gia đình, tính tình, tập khí của mọi đệ tử mà không ba giờ lẫn lộn. Thậm chí Ngài còn nhớ chính xác Ngài đã đi bao nhiêu bước chân quy định trong ngày.

Trong suốt bao nhiêu năm Ngài truyền bá Chánh pháp ở Mỹ, người ta gọi Ngài là Đệ nhất Cao tăng trên thế giới, là Thượng nhân. Trường Cao Đẳng Tế Minh ở Sơn Đông, Trung Hoa muốn đổi tên trường thành Trường Cao Đẳng Tuyên Hóa. Có vị giáo thọ đề xướng thành lập “Pháp Giới Diệu Giác Sơn Nguyên Cứu Hội” để học tập công hạnh Ngài. Ngài bảo: “Đừng học theo tôi. Tôi chẳng có gì xứng đáng để học theo cả. Các bạn nên nghiên cứu học hỏi ở mọi người dân, đàn ông, phụ nữ, người xuất gia, giới cư sĩ, người già lão, trẻ em, người hiền lương, kẻ tai ác … hãy ghi nhận toàn bộ đời sống của họ, vì trong tương lai, nhờ những sự kiện này mà các bạn có thể giáo hóa, giúp đỡ cho mọi người. Đạo hạnh của tôi chưa đủ để cảm động đến Trời. Đức độ của tôi chưa dủ để chuyển hóa người. Người đời thích gán cho tôi những cái tên mà tôi không muốn. Tôi chẳng phải là cao Tăng cũng chẳng phải là Thượng Nhân. Tôi chỉ là một người bình thường, thích đặt mình dưới những người khác. Tôi tự gọi mình là “Xác chết biết đi”, “Thầy tu ở gò mả”, “Con kiến bé”, “Con muỗi nhỏ”, … Tôi thích đi sau tất cả mọi người. Mọi danh xưng đều chỉ là hư giả, không thật. Danh xưng chỉ tồn tại khi nó xứng hợp với mọi người, với mọi thời gian, mọi nơi chốn. Cái tên chẳng đáng tí nào cả, thế mà nhiều người chấp trước vào danh xưng mà nhọc thân, nhọc xác. Khi tôi còn sống cũng như sau khi chết, tôi không muốn mọi người chú ý đến tên tôi hay xây tháp kỷ niệm tôi. Tôi chẳng muốn lưu lại dấu vết gì cả. Tôi đến từ hư không, tôi trở về lại với hư không”.

* GIẢNG PHÁP BẰNG LỜI

Tại các đạo tràng chi nhánh của Hội Phật Giáo Pháp Giới, đều có những khóa giảng Kinh để giúp mọi người nhận ra chân lý. Do vậy, mỗi Đạo tràng đều có chương trình giảng Kinh hàng ngày. “Nước sông hằng luân lưu mỗi ngày thì dòng pháp ở vạn Phật Thành cũng sẽ được giảng nói suốt ngày đêm”. Có một thời gian Hòa thượng dùng phương pháp gọi là“Pháp Quán Chiếu để phát khởi trí tuệ vốn có”. Để hướng dẫn cho tứ chúng đồng tu. Phật tử có thể đến đây để thăm hỏi Phật pháp, để tập diễn giảng và thi diễn giảng. Hòa thượng thường xuyên mở lớp “Vấn đáp song đối” để giúp cho đệ tử tự khai mở trí tuệ bản hữu.

Tuỳ theo nhân duyên, Hòa thượng thường chọn các đề tài thích hợp để giảng nói cho người đang muốn nghe. Đối với tầng lớp bình dân, Ngài giảng về việc làm tròn bổn phận, nghĩa vụ cơ bản của mình. Đối với sinh viên, học sinh Ngài giảng về hiếu hạnh, trung tín, lễ nghĩa, liêm sỉ, ý thức về bản thân, yêu mến gia đình và nghĩa vụ đối với Tổ quốc. Đối với các vị giáo thọ, các vị hiệu trưởng, Ngài giảng về pháp môn giáo dục và thiên chức của giáo dục. Đối với giới chính trị gia, Ngài nói về đạo đức, liêm khiết và lòng thương yêu dân như con đẻ của chính mình.

Khi nhận lời mời giảng pháp, hòa thượng không bao giờ ước mong được mọi người biết tiếng. Bởi vì Hòa thượng chỉ muốn hoằng pháp giáo huấn để đào tạo con người. Ngài không bao giờ chỉ đi xa để giảng pháp. Hơn thế nữa, Ngài luôn luôn đưa các đệ tử theo để học hỏi những điều hay lạ ở xứ người. Chương trình hàng ngày của đoàn tham quan này rất nhiều chi tiết. Ngoài hai thời công phu sáng tối như thường lệ và lễ quá đường vào buổi trưa, còn có các thời lễ sám, tụng Kinh, nghe khai thị, dự lễ truyền Tam Quy, Ngũ giới cho Phật tử, dự các Pháp Hội Đại Bi, Pháp Hội Thủ Lăng Nghiêm … hoặc tiếp xúc với Phật tử. Không để một phút giây nào lãng phí. Hòa thượng nói: “Chúng tôi chẳng phải là đoàn tham quan du lịch, cũng chẳng phải là đoàn hoằng pháp. Chúng tôi đơn giản chỉ là đoàn người đi học hỏi. Chúng tôi chưa thông thạo nhiều vấn đề, và chúng tôi chưa đủ khả năng để làm việc hoằng pháp. Chúng tôi rất hoan hỉ được theo sau mọi người, mong được học hỏi các vị Đại đức, Trưởng lão ở khắp mọi nơi”

KIẾN LẬP ĐẠO TRÀNG

Hòa thượng từ Trung hoa đến Hồng Kông rồi từ Hồng Kông sang Hoa Kỳ. Ngài phát nguyện: “Đào tạo người, không dựng chùa”. Ngài chủ yếu là đào tạo những vị Tổ sống, những vị A la hán sống, những Bồ tát sống và những đức Phật sống. Do vậy, trải qua rất nhiều điều kiện khó khăn, Ngài sửa chữa, trùng tu lại những cơ sở có sẵn làm Đạo tràng để giảng dạy giáo pháp kịp thời cho Phật tử. Ngài chủ trương hạ thủ công phu ngay tại những Đạo tràng vô hình tướng. Các Đạo tràng chi nhánh thuộc Hội Phật Giáo Pháp Giới ở khắp nơi bên ngoài có vẻ không giống với các tự viện truyền thống của Trung Hoa, nhưng người ta có thể nhận ra bên trong là cõi Tịnh độ, một khi họ đã đến đó và thực sự phát tâm tu hành.

Ngài còn có ước nguyện: “Từ chùa nhỏ, xây dựng nên chùa lớn”, và kiến lập những Đại đạo tràng công cộng. Mỗi khi dựng lập xong một Đạo tràng, Ngài lại cúng dường cho người khác. Ngài đã từng cúng dười hai Đại đạo tràng là Vạn Phật Thánh Thành và Pháp Giới Thánh Thành, cũng như những tự viện chi nhánh thuộc Hội Phật Giáo Pháp Giới. Ngài cúng dường cho tất cả mọi chúng sanh trên thế giới. Ngài đón nhận tất cả mọi người đến để tu học, không phân biệt quốc tịch, nòi giống, tuổi tác, địa phương … không kể thân sơ, bất luận họ thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền hay Nam truyền, Ngài đều có ước nguyện hộ trì, cũng như bất cứ người nào đến Đạo tràng chân thật tu hành. Hòa thượng nói:“Chúng ta không phải là những người biến chùa thành nhà riêng. Mọi người từ mười phương đều có thể đến Đạo tràng này. Ở đây luôn chờ đợi một vị đạo cao đức trọng để làm Trụ trì. Tôi chỉ là người trông coi tạm thời. Chẳng có một Đạo tràng nào riêng thuộc về tôi cả”.

Ngài còn nói: “Phật Giáo là giáo lý về con người, giáo lý về tâm, giáo lý về chúng sanh và giáo lý về toàn thể pháp giới. Phật Giáo không phải là một pháp môn riêng biệt nào cả. Tôi cũng chẳng thuộc về một giáo phái nào cả. Thiên chúa giáo, Do thái giáo, Hồi giáo và tất cả tôn giáo khác đều có trong Phật giáo cả. Chúng ta luôn luôn chào đón mọi giáo phái khác đến Vạn Phật Thánh Thành để cử hành những nghi lễ của họ. Mọi tín đồ của mọi tôn giáo khác đều nên thực tập hạnh nguyện từ bi. Đó là nền tảng của mọi tôn giáo để cứu độ toàn thế giới. Mọi người nên giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau bắt tay làm việc để thiết lập nền tảng ban đầu cho sự thống nhất tôn giáo trên toàn cầu. Chúng sanh sẽ có một nơi để quy ngưỡng và chiến tranh sẽ kết thúc nhanh chóng”.

* THÂU NHẬN ĐỆ TỬ

Hòa thượng nói: “Vạn Phật Thánh Thành là nơi rồng rắn lẫn lộn, đủ mọi thành phần. Có người tu hành chí thiết, có người chẳng tu. Chúng ta nên tâm niệm sống trong Tứ vô lượng tâm: Từ bi hỷ xả. Đặc biệt, nên chú tâm đến những người chưa được hoàn thiện và hết sức chuyển hóa họ thành người tốt”.

* TIẾP NHẬN ĐỆ TỬ XUẤT GIA – NHƯNG KHÔNG TỪ CHỐI MỘT CHÚNG SANH NÀO

Chánh pháp lưu hành nhờ chư Tăng, chánh đạo phải được truyền đến cho mọi người. Để cho Chánh pháp có được nền móng vững chắc ở Phương tây, ắt cần phải có những vị đã thực hành chánh đạo. Do vậy, Hòa thượng đặt ra một yêu cầu rất nghiêm khắc cho mọi người muốn theo Ngài xuất gia tu học, là phải tốt nghiệp Cao Đẳng và tụng thuộc lòng Chú Lăng Nghiêm. Sau khi được xuất gia, phải học Kinh Thủ Lăng Nghiêm, học cách giảng kinh, thuyết pháp, học phương pháp ngồi thiền và học cách nhẫn nại, chịu đựng cực khổ. Qua thời gian sau, Hòa thượng bắt đầu nhận mọi người xuất gia đủ mọi trình độ. Miễn là người đó có một chút thiện căn, Hòa thượng đều tiếp nhận khi họ có tâm nguệyn xuất gia. Người già đến 90 tuổi Ngài cũng tiếp nhận, miễn là họ có sự thiết tha tu niệm. Ngài cũng tiếp nhận trẻ em 6-7 tuổi, giúp cho thiện căn các em ngày càng tăng trưởng. Những người tàn tật, sáu căn không đủ, Ngài cũng tiếp nhận, cũng đều tạo nhân duyên lành giúp họ vượt thoát hệ lụy cõi trần.

* ĐỘ HẾT HÀNG CƯ SĨ – NHƯNG KHÔNG TRANH ĐỆ TỬ

Khuynh hướng Phật tử thời nay là thích quy y với nhiều thầy, nên Hòa thượng dạy: “Chỉ cần quy y với một thầy là đủ rồi. Đừng quy y với thầy này rồi bỏ thầy kia. Bạn quy y với quá nhiều thầy mà không nghe lời họ dạy, thế là vô ích. Không những việc này gây nên sự bất hòa trong hàng Pháp Sư khi họ tranh đệ tử, mà còn gây hậu quả cho những nơi có hàng Phật tử kỳ cựu sinh tâm rối loạn và nhầm lẫn. Việc này không tạo nên sinh khí mới cho Phật pháp mà ngược lại, sẽ làm cho Phật pháp trở nên hư hoại”.

Miễn là lòng người chân thành, Hòa thượng sa74n sàng truyền Tam quy, Ngũ giới ngay cả khi Ngài đang bệnh, Ngài chẳng bận tâm đến sự phiền lụy. Dù chỉ một người đến xin thọ giới, Ngài cũng sẵn sàng làm lễ truyền giới.

Có một số vị Đại đức. Cao Tăng xưa nay phát nguyện không tiếp nhận đồ chúng, ngại rằng vì bận rộn trách nhiệm dạy dỗ mà trở ngại công phu của riêng mình. Hòa thượng không như vậy, Ngài nhận hết thảy những người có tính khí ương ngạnh, mông muội và những kẻ có căn tính rất khó điều phục. Ngài nguyện rằng, thà xả bỏ đầu, mắt, tủy, não của mình, hơn là từ chối không độ thoat những người này.

* LẬP TÔNG CHỈ

“Mọi người đến Vạn Phật Thánh Thành đều phải tuân theo một số quy định. Rồng cũng phải cuộn mình mới có thể bay lên phun mưa tùy ý. Cọp cũng phải thu mình mới có thể đón hướng gió mà vồ mồi chính xác”. Tại Đạo Tràng Hội Phật Giáo Pháp Giới, mọi người đều phải phấn đấu thực hành ba tông chỉ và sáu nguyên tắc do Hòa thượng đề ra như một tiêu chuẩn để tu tập. Vạn Phật Thánh Thành là trung tâm của các Hội Phật Học này.

* BA TÔNG CHỈ VÀ SÁU NGUYÊN TẮC

Ba tông chỉ:

Ngay lúc vừa bắt đầu hai thời khóa tụng vào buổi sáng sớm, mỗi chiều tứ chúng đệ tử đều phải tự mình quán sát lại chính mình:

1. Dù lạnh đến chết, cũng không phận duyên; dù đói chết, không van nài; dù nghèo chết, không cầu cạnh.

2. Tùy duyên mà không biến đổi; không biến đổi nhưng tuỳ duyên.

3. Kiên quyết thực hành đúng theo ba tông chỉ. Nguyện xả bỏ thân mạng để làm tròn Phật sự. Chính mình có trách nhiệm chuyển hóa nghiệp riêng của mình. Xem công phu tu hành là sự nghiệp chính của Tăng sĩ.

Sáu nguyên tắc:

1. Ngay nơi Sự để sáng tỏ Lý. Lý sáng tỏ tức là Sự. Tu tập, xiển dương, lưu hành mạch phái Tổ sư đã truyền.

2. Tự hỏi mình thật sự đã là người không tranh chưa? Tự hỏi mình thật sự đã là người không tham chưa?

3. Tự hỏi mình thật sự đã là người không mong cầu chưa? Tự hỏi mình thật sự đã là người không vị kỷ chưa?

4. Tự hỏi mình thật sự đã là người không tư lợi chưa? Tự hỏi mình thật sự đã là người không nói dối chưa?

5. Tự hỏi mình thật sự đã là người ăn một bữa chưa?

6. Tự hỏi mình có luôn luôn đắp y không rời thân không?

Những điều này là gia phong của Vạn Phật Thánh Thành, không một người nào có thể thay đổi được.

* LUÔN LUÔN MẶC Y GIỚI

Để tuân thủ giới luật đức Phật đã chế và để hộ trì tăng tướng, Hòa thượng dạy chư Tăng luôn luôn đắp y và mang theo tọa cụ, không được để những vật này rời thân. Ngài dạy phải dẹp trừ ham muốn sử dụng y phục quý và đẹp.

* ĂN MỘT NGÀY MỘT BỮA TRƯA

Dùng nhiều thức ăn vào nhiều bữa trong ngày sẽ làm lớn mạnh tâm tham, khiến trở ngại công phu tu tập. Theo luật đức Phật đã chế, chư Tăng thực hành ăn một bữa vào buổi trưa và sử dụng bình lục bát ngọ trai. Rau luộc và “canh A la hán” là vị thuốc hay để hữa bệnh đói và khát. Mọi người đừng nên ăn quá no, nên ăn vừa đủ. Đừng tham ăn nhiều, đừng muốn ăn ngon, ta sẽ được tự tại thoát khỏi tham dục.

* ĐÊM KHÔNG NGỦ NẰM

Ngủ nhiều và hôn trầm khiến tâm ngu si tăng trưởng. Hòa thượng đã từng thực hành không bao giờ nằm ngủ vào ban đêm từ hồi còn trẻ, nên Ngài khuyến khích đệ tử ngủ ngồi, khiến tinh thần thanh thản, nhẹ nhàng, tỉnh táo. Nhờ đó có thể thoát khỏi sự cám dỗ của ma quỷ.

* KHÔNG GIỮ TIỀN BẠC

Tiền bạc là gốc tội lỗi. Người có tiền dễ sanh khởi vọng tưởng. Để đảo bảo cho công phu tu tập có hiệu quả, Hòa thượng dạy đệ tử tuân thủ luật đức Phật đã chế, không giữ tiền bạc làm của riêng mình. Tăng sĩ không được phép nhận của cúng dường riêng cho mình. Chư Tăng làm việc đều mang tính chất phục vụ. Khi bị bệnh hoặc có việc tăng sai thì có thể sử dụng quỹ của Tăng chúng để chi dùng. Hòa thượng bảo: “Người nào giữ được giới không cất giữ tiền của riêng tư, thì vị ấy chính là tăng sĩ xứng đáng với nghĩa ruộng phước thanh tịnh”.

* KHÔNG CÓ Ý NIỆM THỨ BẬC

Trong mọi Đạo tràng, tứ chúng đệ tử đều sinh hoạt và cùng nhau công phu tu tập. Mọi người đều hoàn chỉnh bổn phận của chính mình trong niềm vui của Chánh pháp. Không có danh lợi, không có quyền lực, không có lương bổng nên chẳng có những nỗ lực riêng tư để tranh đoạt quyền lợi cá nhân. Không có chức vụ Trị sự hay Trụ trì. Mọi người đều bình đẳng trong vai trò chính mình là chủ tự viện.

* NGHIÊM TÚC TRONG GIỚI HẠN NAM NỮ

Bất cứ lúc nào hai người cần tiếp xúc nhau, dù qua điện thoại, trao đổi thư từ … cũng nên có ít nhất hai người khác ở bên cạnh. Nguyên tắc này áp dụng cho cả bốn chúng để đảm bảo cho mọi nhân duyên giữ gìn giới hạnh thanh tịnh, thoát khỏi mọi ham muốn. Công việc hàng ngày chẳng rời công phu tu niệm: công phu tu niệm không tách rời công việc hàng ngày.

* TU TẬP TÙY CHÚNG

Thời khóa tu niệm hàng ngày gồm: công phu sáng, Lễ Phật, tụng Kinh hoa Nghiêm, trước thời qúa đường buổi trưa, lạy sám Đại Bi. Công phu chiều: nghe giảng Kinh, tụng Tâm Kinh. Còn có những nghi lễ, pháp hội riêng vào những ngày kỷ niệm, húy nhật chư Phật, chư vị Bồ tát, Đại pháp hội Thủy Lục Không … Mọi lúc, mọi người tùy khả năng của mình để đóng góp công quả vào các lĩnh vực giáo dục, phiên dịch kinh điển, xử lý công việc tự viện hàng ngày … Như thế, không để thời gian trôi qua vô ích.

* MỖI ĐẠO TRÀNG LÀ MỘT TRƯỜNG HỌC

Giáo dục là nền tảng của tất cả các pháp thế gian cùng pháp xuấ thế gian. Pháp môn vô số lượng, thệ nguyện đều tu học. Chúng ta đồng thời là thầy và trò, học tập lẫn nhau. Ở Vạn Phật Thánh Thành có trường Tiểu học Dục Lương, trường Trung học Bồi Đức, trường Đại học Phật Giáo Pháp Giới, cùng chương trình giáo dục cho Tăng sũ và Cư sĩ. Nhiều chi nhánh Đạo tràng đều có lớp học Phật pháp cuối tuần hay vào ngày Chủ nhật.

*TÌNH NGUYỆN GIẢNG DẠY LÀ QUY LUẬT

Giáo thọ sư tự nguyện giảng dạy không hưởng lương và không đình công. Mục đích việc giáo dục là làm sáng tỏ đạo lý, chứ không phải vì danh  lợi. Dùng chương trình Nho giáo cho lớp cơ bản và Phật học cho lớp đệ tử đã quy y. Qua giáo dục sẽ phát hiện vào đào tạo nhân tài để phục vụ cho lợi ích toàn thế giới. Hòa thượng nói: “Người không cần tiền bạc là người chân chính”.

* NAM NỮ HỌC TẬP RIÊNG

Nam nữ được tổ chức học tập riêng biệt, để họ có thể tập trung vào việc học mà không bị phân tâm. Nhờ vậy nên có thể ngăn ngừa được những căn bệnh xã hội như: nam nữ giao thiệp nhau quá sớm, pháp thai, ly dị, đồng tính luyến ái … Những hiện tượng đó đều bị cấm tuyệt ở đây. Hòa thượng nói: “Giáo dụclà nền tảng tối yếu của quốc phòng, có thể cứu vãn cả xã hội và có thể giải quyết tận gốc mọi vấn đề của thế giới”.

* GIÁO DỤC TRONG TĂNG GIÀ LÀ CHỦ YẾU

Tăng sĩ có trách nhiệm làm mô phạm cho hết thảy mọi chúng sanh, nên họ phải tự rèn luyện, học tập Phật pháp hoàn hảo trước khi họ đảm nhiệm công việc dạy dỗ cho người khác. Do vậy, Hòa thượng đặc biệt giáo dục hàng đệ tử xuất gia rất nghiêm cẩn và yêu cầu rất cao ở họ.

Tùy thuộc vào năng lực của từng người, các đệ tử đều được phân công đảm nhiệm những công việc trong chúng để học hỏi thêm. Mọi người đều có được những cơ hội như nhau. Các giáo thọ thường cho học tăng những lời giáo huấn trực tiếp và gián tiếp cũng như những sự hỗ trợ cần thiết.

Các giáo thọ thường cho học tăng những bài khảo thí bất ngờ, như mời mọi người từ mọi giai tầng trong xã hội, ở khắp mọi quốc gia đến để giảng kinh, mở những khóa học tại Vạn Phật Thánh Thành hay những Đạo tràng chi nhánh khác. Hòa thượng bảo: “Mọi người cần phải có cái nhìn thấu suốt chân lý trạch pháp nhãn. Nếu nhận ra Đạo, hãy nên tiến tới, nếu chẳng phải Đạo thì nên thối lui. Hãy chọn những pháp thiện để hành trì theo, lọai trừ những tính bất thiện ở trong mình. Mọi việc đều là một sự khảo nghiệm cho chính mình, nếu ta chưa nhận ra được mặt mũi trước khi sinh ra là gì, thì phải cố gắng làm lại từ đầu”.

Các pháp vốn bất định. Pháp cố định là pháp chết. Con người là pháp sống động, bạn không nên mắc kẹt vào một lối đi cho đến khi nó dẫn bạn vào bóng tối.

Hòa thượng bảo: “Bạn phải tự làm sáng tỏ trí tuệ và tự tin nơi chính mình. Đừng tin vào tôi”.

Phong cách của Hòa thượng rất thoải máivà dân chủ. Ngài tôn trọng chúng đệ tử và không bao giờ tự ý chế định những iới điều. Khi có đệ tử làm điều gì sai trái. Ngài mới đưa ra quy định kịp thời để hộ trì cho công phu học tập.

Hòa thượng có một tấm lòng bao dung khoan thứ vô hạn. Bất luận người nào phạm lỗi lầm, miễn là họ khởi lên ý muốn sám hối, thì Hòa thượng sẵn lòng tha thứ.

Trực nhận tự kỷ thác: Nhận ngay lỗi của mình.

Mạc luận tha chi nhân: Không bàn luận đến sai trái của người khác.

Tha phi tức ngã phi: Xem lỗi lầm của người khác chính là lỗi của mình.

Đồng thể danh đại bi: Được gọi là đồng tâm thể đại bi của chư Phật.

Hòa thượng tự trách chính mình thay vì trách cứ người khác. Ngài nhận về phần mình hết thảy mọi lỗi lầm mê muội, nghiệp chướng, tập khí xấu của đệ tử. Ngài phát nguyện gánh vác hết nghiệp chướng.

Xem việc giáo dục chúng Sa di là nền tảng của việc giáo dục tăng chúng.

Vào những năm cuối cùng của cuộc đời, Ngài hết lòng chăm sóc giáo dục chúng Sa di và Sa di trẻ mới xuất gia. Ngài đích thân sắp xếp giáo thọ và thời khóa học. Ngài tự thân truyền thọ pháp môn Tứ thập nhị thủ nhãn ấn pháp cho chúng Sa di tu tập. Ngài đem hết tâm huyết để truyền thọ cho hai giới này, hy vọng sự đồng tu của tứ chúng, của lớp tăng trẻ từ 6 –17 tuổi này, chẳng bao lâu sẽ trở lên những mặt trời sáng rỡ của Phật pháp, sẽ truyền bá lòng từ bi vô hạn, niềm an nhiênhạnh phúc, hướng dẫn chúng sanh tu tập đạo Bồ tát, chuyển hóa tận cùng khổ đau sinh tử.

* ƯỚC NGUYỆN PHIÊN DỊCH TAM TẠNG KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO

Từ hồi còn trẻ, Hòa thượng đã có ước nguyện truyền bá Phật pháp rộng khắp thế giới. Muốn vậy, Ngài phát nguyện tổ chức phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật giáo sang các thứ tiếng trên thế giới. Đây là công trình sự nghiệp ngàn năm. Ngài nói: “Phiên dịch Tam Tạng còn quan trọng hơn vãng sanh Tịnh độ”.

Hòa thượng là người đầu tiên trên thế giới dùng Trung văn để giảng Kinh, trước hết, Ngài dọc một đoạn Kinh từ trí nhớ, rồi liên tiếp giảng câu này sang câu khác mà không cần nhìn vào Kinh văn. Ngài chẳng cần ghi chép điều gì, Ngài giảng hoàn toàn lưu xuất tự tự tánh khiến ai ai cũng hiểu được. Ngài sử dụng tiếng bạch thoại thông dụng để giảng giải những ý nghĩa sâu rộng nhất của Kinh văn, bằng những ví dụ rất thực tế khiến mọi tầng lớp đều hiểu được. Hòa thượng nói: “Tôi chỉ biết cách đưa ra những ví dụ rất đơn sơ để chuyển ý Kinh do tôi giảng, gọi là “Bản dịch đơn giản”. Cũng như rau cải được luộc chín bằng nước sôi, trông có vẻ thanh đạm nhưng rất tốt cho sức khỏe”.

DỊCH SANG NHỮNG NGÔN NGỮ KHÁC:

Có hàng trăm bộ Kinh dịch xong đã được ấn hành. Nhiều nhất là tiếng Anh. Sau này sẽ in Kinh song ngữ Hoa Pháp, Hoa Việt …

Bên cạnh việc xuất bản Kinh sách, băng từ và băng video cũng được phát hành song ngữ. Hiện nay băng từ song ngữ cũng rất thông dụng để ghi và truyền các dữ liệu bằng tiếng Hoa và tiếng Anh.

THÀNH LẬP VIỆN PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN QUỐC TẾ:

Năm 1973, Viện Phiên dịch Tam Tạng Kinh Phật giáo Quốc tế đã được thành lập.

Năm 1992, thành lập Ban quản trị Hội Phật giáo Pháp giới. Chư Tăng cùng Cư sĩ từ khắp nơi đều tình nguyện đến đây để cộng tác dịch và ấn hành Tam Tạng Kinh mà không nhận bất cứ khoản thù lao nào.

TÁM QUY LUẬT CỦA NGƯỜI PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN PHẬT HỌC

1. Người dịch phải tự thoát mình ra khỏi động cơ tự truy cầu danh lợi.

2. Người dịch phải tu dưỡng thân tâm, dứt bỏ thói cao ngạo.

3. Người dịch phải tự chế, không được tự khen ngợi mình nhưng lại chê bai người khác.

4. Người dịch không được tự cho mình là tiêu chuẩn, là thước đo, rồi hạ thấp người khác bằng cách tìm lỗi nơi tác phẩm của họ.

5. Người dịch phải lấy tâm Phật làm tâm mình.

6. Người dịch phải dùng Trạch Pháp Nhãn để phân xét đâu là chân lý.

7. Người dịch phải cung kính cầu thỉnh Cao Tăng Đại Đức mười phương chứng minh cho bản dịch.

8. Người dịch phải hoan hỷ truyền bá giáo nghĩa Phật học bằng cách in Kinh, Luật, Luận khi việc phiên dịch của mình được công nhận là chính xác.

* THỊ HIỆN TƯỚNG BỆNH

Hàng phàm phu bị bệnh do nghiệp. Họ thọ nhận lấy những gì họ đã làm trong quá khứ. Tất cả các bệnh của họ đều do tham, sân, si. Còn bệnh của Thánh nhân là do nguyện lực. Các Ngài phát nguyện chịu thay nghiệp chẳng lành mà chúng sanh đã tạo lập. Vì chúng sanh bệnh nên Bồ tát bệnh, các bậc Thánh đã chuyển hóa xong toàn bộ ba món độc này rồi.

Ngài vốn không bệnh, nhưng lại muốn chịu thế mọi khổ đau cho chúng sanh, nhận hết bệnh của chúng sanh về phần mình, nên thânn Ngài có biểu hiện các triệu chứng của bệnh, với hy vọng chúng sanh khi thấy tướng bệnh, biết được nguyên nhân của bệnh, mới chịu quyết tâm tu hành.

Để hộ trì cho đệ tử bốn chúng tu hành. Ngài đã đi từ Đạo tràng này đến Đạo tràng khác. Những cuộc hành trình bằng xe hơi, giữa thời tiết nóng lạnh bất thường, xử lý vô số những công việc phức tạp, giúp cho người khác lực gia trì để tu tập. Điều ấy đã làm cho Ngài kiệt sức.

Mười năm trước đây Ngài đã phát bệnh nặng vì làm việc quá sức. Năm nay bệnh Ngài quá nặng đến nỗi Ngài không thể bước lên một bậc thềm. Ngay cả khi các bác sĩ chẩn đoán Ngài chỉ còn sống một tuần lễ nữa. Hòa thượng vẫn từ chối sự nghỉ ngơi để tìm phương cách trị liệu. Ngài vẫn chống tích trượng để đi hoặc ngồi xe lăn, tiếp tục đi đến khắp nơi để giảng pháp. Hai năm nay, bệnh đến liệt giường mà Ngài vẫn chỉ dạy các đệ tử khắp nơi bằng điện thoại, hay xuất hiện trong những giấc mơ của họ để giáo hóa.

Hòa thượng đã chữa trị bệnh cho vô số người, sao Ngài lại không chữa trị cho chính mình? Đó chẳng phải là Ngài không thể chữa, mà vì Ngài không muốn chữa. Một đời Ngài xưa nay chưa từng làm hoặc suy nghĩ một điều gì cho riêng mình. Ngay cả khi Ngài đau đớn cùng cực, Ngài cũng chẳng cần đến sự giúp đỡ cho riêng mình chút nào. Ngay cả khi Ngài an tường thị tịch vào ngày 06 tháng 07 năm ấy (1995)., bệnh Ngài và cơn đau cũng không giảm chút nào.

Ngài không thị hiện những điềm lạ, cũng chẳng lưu lại những kỳ tích. Ngài chỉ nói cho mọi người những bài học lớn lao về thành, trụ, hoại, không – sanh, lão, bệnh, tử.

Đây thật là bài học lớn lao mà Hòa thượng đã trao cho hàng đệ tử trên đường thực hành đạo Bồ tát. Từ vô lượng kiếp xa xưa, chư Bồ tát đã xả bỏ vô số thân để cứu độ chúng sanh. Chư vị hoàn toàn nghĩ đến mọi người chứ không nghĩ đến mình. Đối diện với những nỗi khổ khó chịu đựng này, người ta mới có thể tiếp tục can đảm tiến bước với niềm tin kiên định, không khuất phục khi tu hạnh Bồ tát, dũng mãnh tiếp nối công hạnh của người xưa. Đó chính là chất vàng không chảy của Hòa thượng trong lò lửa hừng hực.

Toàn bộ cuộc đời của Ngài là biểu hiện từ bộ Kinh Hoa Nghiêm. Phẩm “Pháp giới bất khả tư nghì của chư Phật”, trong Kinh Hoa Nghiêm có nói rằng chư Phật Thế Tôn có mười Phật sự rộng lớn:

… “Các Phật tử, khi chư Phật nhập Niết bàn, vô lượng chúng sanh đau đớn khóc lóc, sanh tâm ưu bi khổ não. Chư Phật thấy vậy nên nói: Như Lai Thế Tôn có tâm đại từ bi, vì lòng thương xót và làm lợi lạc cho cả thế gian, là nơi nương tựa và cứu hộ cho muôn loài. Thật khó mà tính kể sự thị hiện của Như Lai trên thế gian này.

Ruộng phước vô lượng từ nay mất hẳn. Do vậy, vì khiến cho chúng sanh kính mến, ngưỡng mộ mà các Ngài làm Phật sự.

Chư Phật Thế Tôn tuy nhập Niết bàn nhưng vì chúng sanh mà tiếp tục làm ruộng phước bất khả tư nghì; làm ruộng phước tối thượng, vô tận phước đức; khiến cho chúng sanh có được đầy đủ thiện căn và ruộng phước tròn đầy”.

XEM KINH VỚI LÒNG THÀNH

Kẻ hậu học khi xem kinh, nên có tâm thái như sau: ba nghiệp tâm, khẩu, ý phải được thanh tịnh. Ba nghiệp trên được lắng trong thì phước huệ tròn đầy.

1. Nên thẳng mình ngồi ngay như ngồi trước đức Phật. Đó là thân nghiệp được thanh tịnh.

2. Miệng không nói lời sai trái, không cười đùa. Đó là khẩu nghiệp được thanh tịnh.

3. Ý không tán loạn, dứt sạch tâm phan duyên. Đó là thanh tịnh ý nghiệp.

Khi tâm an tịnh thì ngoại cảnh lắng trong, đó là khế ngộ nguồn tâm, diệu nhập pháp lý. Khi nước lắng trong thì vẻ sáng của ngọc tự chiếu soi, mây tan trăng tự hiển bày, đại nguyện thành tựu cũng như nhập vào biển diệu nghĩa. Thấu đạt ý kinh cũng chính là đến được đỉnh núi cao trí tuệ. Nếu hành giả muốn dễ thành tựu, phải gieo trồng Đại nguyện. Khi tâm, pháp đều quên, thì mình cùng pháp giới chúng sinh đều chung lợi lạc. Có được như thế mới mong báo đáp ân sâu của Chư Phật.

CHÚ ĐẠI BI
(Phần kinh văn)

  1. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
  2. Nam mô a rị da
  3. Bà lô yết đế thước bát ra da
  4. Bồ đề tát đỏa bà da
  5. Ma ha tát đỏa bà da
  6. Ma ha ca lô ni ca da
  7.  Án
  8. Tát bàn ra phạt duệ
  9. Số đát na đát tả
  10. Nam mô tất kiến lật đỏa y mông a lị da
  11. Bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà
  12. Nam mô na ra cẩn trì
  13. Hê rị ma ha bàn đà sa mế
  14. Tát bà a tha đậu du bằng
  15. A thệ dựng
  16. Tát bà tát đá, na ma bà tát đa 1 na ma bà già
  17. Ma phạt thị đậu
  18. Đát điệt tha, án
  19. A bà lô hê
  20. Lô ca đế
  21. Ca ra đế
  22. Di hê rị
  23. Ma ha bồ đế tát đỏa
  24. Tát bà tát bà
  25. Ma ra ma ra
  26. Ha hê ma hê, rị đà dựng
  27.  Cu lô cu lô yết mông
  28. Độ lô độ lô phạt già ra đế
  29. Ma ha phạt già ra đế
  30. Đà la đà la
  31. Địa lỵ ni
  32. Thất phật ra da
  33. Giá ra giá ra
  34. Ma ma phạt ma ma
  35. Mục đế lệ
  36. Y hê di hê
  37. Thất na thất na
  38. A ra sam phật ra xá lợi
  39. Phạt sa phạt sam
  40. Phật ra xá da
  41. Hô lô hô lô ma ra
  42. Hô lô hô lô hê rị
  43. Ta ra ta ra
  44. Tất lỵ tất lỵ
  45. Tô rô tô rô
  46. Bồ đề dạ – bồ đề dạ
  47. Bồ đà dạ – bồ đà dạ
  48. Di đế rị dạ
  49. Na ra cẩn tri
  50. Địa lỵ sắt ni na
  51. Ba dạ ma na
  52. Ta bà ha
  53. Tất đà da
  54. Ta bà ha
  55. Ma ha tất đà dạ
  56. Ta bà ha
  57. Tất đà du nghệ
  58. Thất bàn ra dạ
  59. Ta bà ha
  60. Na ra cẩn trì
  61. Ta bà ha
  62. Ma ra na ra
  63. Ta bà ha
  64. Tất ra tăng a mục khư da
  65. Ta bà ha
  66. Ta bà ma ha a tất đà dạ
  67. Ta bà ha
  68. Giả cát ra a tất đà dạ
  69. Ta bà ha
  70. Ba đà ma yết tất đà dạ
  71. Ta bà ha
  72. Na ra cẩn trì bàn đà ra da
  73. Ta bà ha
  74. Ma bà lợi thắng yết ra dạ
  75. Ta bà ha
  76. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da
  77. Nam mô a lị da
  78. Bà lô kiết đế
  79. Thước bàn ra dạ
  80. Ta bà ha
  81. Án tất điện đô
  82. Mạn đà ra
  83. Bạt đà dạ
  84. Ta bà ha

 

KỆ TỤNG CỦA HÒA THƯỢNG
THÍCH TUYÊN HÓA

Thủ nhãn thông thiên đại tổng trì
Chấn động tam thiên thế giới thì
Hữu duyên vô duyên hàm nhiếp hóa
Từ bi phổ độ Diêm phù đề

PHẦN GIẢNG

(CÚ GIẢI)

Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi. Vì kinh văn thần chú này thuộc vào hệ mật ngôn chân ngữ. Nay để giảng giải về thần chú này, trước tiên tôi xin đưa ra một bài kệ để thuyết minh cho ý nghĩa của thần chú:

Đại bi đại chú thông thiên địa 
Nhất bách nhất thiên thập vương hoan
Đại từ đại bi năng khử bệnh
Nghiệt kính nhất chiếu biến cao huyền.

Nghĩa là:

Thần chú Đại bi có công năng thông cả thiên đường, thấu cả địa phủ. Người nào thường trì niệm chú này mỗi ngày 108 biến, niệm ngàn ngày như thế thì có thể khiến Thập điện Minh vương hoan hỷ.

Năng lực Từ và Bi của thần chú có thể chữa lành tất cả mọi tật bệnh và làm cho đài gương chiếu tội sáng ngời ngời.

*Đại bi đại chú thông thiên địa

Khi quí vị niệm thần chú này thì trời đất đều chấn động, cả pháp giới chuyển rung. Trên thông cả cõi trời, dưới thấu khắp cả các cõi giới địa ngục. Khắp cả mọi pháp giới trời người đều cảm thông và tán dương công đức.

*Nhất bách nhất thiên thập vương hoan

Nếu quí vị niệm thần chú này mỗi ngày 108 biến, niệm ngàn ngày như vậy, tức là vào khoảng 3 năm. Niệm thần chú này liên tục trong 3 năm không gián đoạn, không bỏ sót một ngày, bất luận quí vị có bận rộn như thế nào cũng không quên niệm, thì có thể khiến cho mười vị vua điều hành công việc ở chốn địa phủ cũng phải hoan hỷ. Có nghĩa là từ vua Diêm La cai quản điện thứ 10, cùng tất cả các chung sinh đang bị tội báo ở trong 10 địa ngục ấy đều được vui mừng.

*Đại từ đại bi năng khử bệnh

Năng lực Từ và Bi của thần chú này có thể chữa lành tất cả mọi bệnh tật. Vì sao gọi là chú Đại Bi? Là vì: “Bi năng bạt khổ”. Nghĩa là Bi có công năng làm cho mọi khổ nạn của chúng sinh được tiêu trừ. Còn “Từ năng dữ lạc”. Lòng Từ thường đem lại niềm vui cho chúng sinh. Vì thần chú này khả năng bớt khổ ban vui cho mọi chúng sinh nên gọi là Chú Đại Bi. Chủ yếu nhất là công năng chữa lành mọi bệnh tật. Bất luận quí vị bị bệnh gì, nếu quí vị trì niệm Chú Đại Bi, thì mọi bệnh khổ đều được tiêu trừ.

Có người sẽ thắc mắc: “Tôi đã niệm Chú Đại Bi rồi, tại sao không lành bệnh?”

Quí vị chưa lành bệnh là vì quí vị chưa vận hết lòng thành trong lúc trì niệm. Với lòng chí thành, chắc chắn quí vị sẽ có được sự cảm ứng khi niệm chú.

*Nghiệt kính nhất chiếu biến cao huyền

Khi quí vị trì niệm mỗi ngày 108 biến chú Đại Bi, niệm trong 1000 ngày như thế thì Thập điện Minh Vương vui mừng và tất cả mọi bệnh tật đều được tiêu trừ. Trong suốt 1000 ngày, tức 3 năm này, quí vị đ• thành tựu được khá nhiều công đức rồi. Bởi vì trong 3 năm này, mỗi ngày quí vị đều gia tâm trì tụng thần chú nên không có điều kiện để tạo tác nghiệp nhân. Quí vị không uống rượu, không ăn thịt, không ăn ngũ vị tân.

Trong địa ngục có một đài gương báo tội gọi là “nghiệt kính đài”, nếu quí vị gây một nghiệp ác nào thì nghiệp ấy sẽ hiện rõ trong đài gương kia. Cũng giống như hình ảnh đang hiện ra trên màn ảnh xi nê vậy. Ví như một người, đời này gây tội sát nhân, thì trong gương báo tội sẽ hiện ra cảnh người ấy đang giết người. Nếu người ấy gây nghiệp trộm cắp thì trong gương sẽ hiện hình người ấy đang đi ăn trộm. Nếu người ấy gây nghiệp đốt phá nhà cửa người khác thì trong gương sẽ hiện ra rõ ràng hành động đốt nhà ấy.

Còn nếu quí vị không gây tạo ác nghiệp gì cả thì sao? Thì chẳng có gì hiện ra trong kính đó cả. Vậy nên, nếu quí vị trì tụng thần Chú Đại Bi trong 3 năm thì khi gương nghiệp soi chiếu đến, tội báo của quí vị sẽ được tẩy sạch. Nơi địa ngục ấy sẽ treo lên một tấm bảng ghi rằng: “Người này đã từng trì tụng Chú Đại Bi, tội báo của người này đều đã được hóa giải toàn bộ.”

Tất cả các vị quỷ thần trong địa ngục đều cúi đầu lễ bái sùng kính người trì chú này như lễ bái cung kính chư Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai vậy. Đồng thời các vị quỷ thần ấy sẽ hộ trì người trì chú cũng như họ thường hầu cận chư Phật vậy, và các vị quỷ thần đều thông báo cho nhau biết là không nên quấy nhiễu người trì chú này. Thần lực của chú Đại Bi thật là không thể nghĩ bàn.

mid

Trang: 1 2