Chương 8

    TRÌ TRỌNG  

    8.1. Sau khi được truyền pháp ẩn cư rất lâu

    Triều nhà Đường, Lục Tổ Huệ Năng, ở chùa Nam Hoa, tỉnh Thiều Châu.

    Tổ nhân nghe kinh Kim Cang mà có tỏ ngộ, liền đến yết kiến Ngũ Tổ Hoàng Mai, sau được minh tâm kiến tánh. Ngũ tổ nói: “Ông căn tánh đại lợi, hãy vào sau viện giã gạo”! Thế là sư lui sau viện giã gạo, làm mọi việc tăng gia sản xuất, nhưng vì sư gầy quá, phải cột thêm đá vào người mới đạp chày giã gạo nổi, làm việc cực khổ như vậy cúng dường đại chúng. Sau đó được Ngũ Tổ truyền y bát, sợ có người xấu tranh đoạt y bát làm hại đến sư, nửa đêm Ngũ Tổ tiễn sư đi. Sư ẩn cư với bọn thợ săn suốt 16 năm. Sau đó long thần hộ pháp bảo sư ra hoằng pháp độ sanh. Thế là sư đến chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu. Lúc ấy pháp sư Ấn Tôn đang giảng kinh Niết Bàn. Bấy giờ, gió thổi cây phướng lay động, một vị Tăng nói: “Gió động”. Một vị tăng khác nói: “Phướng động”. Hai người tranh cãi mãi không thôi. Huệ Năng bèn nói: “Không phải gió động, không phải phướng động, là tâm các ngài động”. Đại chúng kinh ngạc bội phục! Pháp sư Ấn Tôn mời sư thượng đường, thỉnh sư khai thị, rồi xuống tóc cho sư, lạy sư làm thầy. Biết sư là người được y bát từ Ngũ Tổ, liền hỗ trợ cho sư hoằng pháp, thành lập dòng thiền đốn ngộ ở niềm Nam.

    8.2. 10 năm bí mật

    Triều nhà Đường, tại Chương Châu, tại tu viện La Hán, có sư hiệu Quốc Sâm.

    Sư người Thường Sơn. Lúc đầu sư học Giới luật, sau tham học thiền Nam đốn với chư vị Đại đức, thiện tri thức khắp nơi. Cuối cùng sư được đại sư Huyền Sa Sư Bị (Sư Bị Tông Nhất), ở Phước Châu khai thị, liễu ngộ tâm địa. Sau đó sư bí mật hành trì không cho ai biết.

    Nhưng sau đó, sư bị Châu mục Chương Châu, Vương Công Thái Nguyên, phát hiện khả năng trác việt của sư, mời sư về Liên Cung, ở Thạch Sơn, thành Tây, tỉnh Phúc Kiến trú trì hơn 10 năm. Sư tu trì mật hạnh nhưng không xem thường khai thị diệu pháp cho người. Tuy nhiên, có người khẩn thiết hỏi pháp sư mới vì họ khai thị. Không lâu sau sư chuyển đến viện La Hán. Tuy viện La Hán tường vách mục nát, mọi thứ đều hư hơn một nửa, nhưng sư vẫn ở điềm đạm, vui vẻ. Thái bảo Cần Châu, Lang Nhị Công, tha thiết thỉnh sư hoằng dương Phật pháp, sư không thể từ chối, nhận lời mời, khai diễn pháp môn thâm diệu, mỗi lần thuyết giảng người đến tham học không biết bao nhiêu mà kể. Sư hoằng dương mạnh mẽ tông Pháp Nhãn.

    8.3. Không nói những điều linh dị

    Triều nhà Đường, tại Vĩnh Hưng, tu viện Vĩnh An, có sư hiệu Thiện Tĩnh.

    Sư họ Vương, người xứ Toàn Thành (nay là huyện Hưng Bình tỉnh Thiểm Tây). Thuở bé sư theo Nho học, thông suốt nhiều sách vở. Năm 27 tuổi, sư đến chùa Phong Đức trong núi Chung Nam lễ Thiền sư Quảng Độ làm thầy. Khoảng niên hiệu Thiên Phục (901-903), sư về Nam yết kiến Thiền sư Lạc Phố Nguyên Tĩnh, được cử làm Tri viên. Cuối cùng sư được khai thông, liễu ngộ được bổn tánh. Sau đó sư trở lại quê hương. Lưu thú Trường An Vương Công xây dựng Thiền viện Vĩnh An mời sư trú trì hoằng pháp. Một đời sư, lúc tắm rửa, trên thân thể đã từng rơi ra nhiều xá lợi, sư vội vàng nhặt lấy dấu đi, không cho đồ chúng đem xá lợi cho người khác xem hoặc nói cho người khác biết. Lại nữa, lúc ngồi thiền nhập định, bỗng nhiên trong sân Thiền viện có hạc trắng bay đến, ngoan ngoãn đứng ở đó giống như đang nghe pháp vậy, sư sai người ra đuổi chúng đi. Có rất nhiều việc thần kỳ, linh dị như vậy, sư đều bí mật không nói cho ai biết.

    Lời bình:

    Người xưa có việc thần kì, linh dị bí mật không nói cho người khác biết, để phòng người sau tham cầu thần thông linh dị mà bỏ việc tu tập chánh giác. Ngày nay, không có thần thông linh dị cũng nói dối rằng có, mê hoặc người khác để trục danh lợi. Hai loại tâm thuật này thật khác nhau một trời một vực! Thánh hiền càng tu hành càng đến cảnh giới hoàn thiện; người ngu si càng tu càng đi đến chỗ trầm luân đọa lạc, giống như thế này lại còn cho là kỳ quái sao?

    8.4. Dấu vết trong đám tiều phu – mục đồng

    Triều nhà Đường, ở Trì Châu, Thiền viện Nam Tuyền, có sư hiệu Phổ Nguyện.

    Sư họ Vương, người Tân Trịnh (Hà Nam). Niên hiệu Chí Đức thứ 2 (757) sư đến núi Đại Ôi, huyện Mật (Hà Nam) thọ nghiệp với Thiền sư Đại Huệ, siêng năng khổ hạnh. Niên hiệu Đại Lịch thứ 7 (772) sư đến chùa Hội Thiện ở Tung Sơn thụ giới cụ túc với Luật sư Hạo. Theo Luật sư Pháp Lệ nghiên cứu Tứ bộ luật tông. Sư còn đi các nơi nghe giảng Lăng-già, Hoa Nghiêm v.v… Còn thông đạt huyền nghĩa các luận: Trung luận, Bách luận, Thập Nhị Môn luận. Sau đến Giang Tây yết kiến Mã Tổ Đạo Nhất có chỗ tỉnh ngộ, được Du hí Tam muội. Niên hiệu Trinh Nguyên thứ 11 (795) sư ẩn cư núi Nam Tuyền, Trì Dương, tự cất thiền thất, hơn 30 năm không xuống núi, tự trồng trọt để sống, không để lộ tài năng và đạo hạnh, xem giống như câm điếc. Sư thường mặc áo tơi, đội nón cỏ đi chăn trâu, dấu tích để lại trong đám tiều phu, mục đồng.

    Đến đời Đường Văn Tông, khoảng niên hiệu Thái Hoà (827-836), Thái thú Trì Dương và Tuyên phủ sứ Lục Công, hộ quân ở Bành Thành, thỉnh sư xuống núi khai diễn Phật pháp, rộng độ người sau, một thời đạo phong vang khắp, mọi người tôn xưng sư là Nam Tuyền Cổ Phật.

    Lời bình:

    Tổ sư Huệ Viễn 40 năm không rời chân khỏi núi Lô Sơn. Vương Lão Sư (tức Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện) 30 năm không xuống núi Nam Tuyền. Tiết tháo cao thượng của người xưa là vậy. Nhưng đây đều là những sự việc xảy ra sau khi đã hiểu rõ tâm địa, không thích hợp với người mới tu học. Người xuất gia nếu việc lớn sanh tử chưa rõ, tâm địa chưa khai ngộ, phải nên không sợ đường xa, tìm thiện tri thức để cầu được khai thị dẫn dắt, đâu có thời gian ngu dại ngồi nhìn, giậm chân một chỗ, tự chận đứng cơ hội tiến lên của mình! Triều nhà Đường, ở Triệu Châu, Đông Viện, Thiền sư Tùng Thẩm đến 80 tuổi rồi vẫn còn ra ngoài hành cước tham phương học đạo; tại Phước Châu, núi Tuyết Phong, thiền viện Quảng Phước, Thiền sư Nghĩa Tồn, đời nhà Đường, cũng hơn ba lần lên đến Thư Châu, núi Đầu Tử tham bái Thiền sư Đại Đồng, 9 lần đến Sơn Động, Quận Châu, tham yết cầu pháp với Thiền sư Lương Giới. Tôi bạo gan viết mấy lời này, là khuyên bảo một cách thành thật những người xuất gia ngu si mà cứ đi ẩn cư, không chịu lo tham phương học đạo.

    8.4. Mọi việc đều do duyên khởi

    Triều nhà Đường, ở Đàm Châu, núi Thần Đỉnh, có Thiền sư Hồng Đàm, người Dự Châu, danh tiếng ngang hàng với Thiền sư Thiện Châu, ở thiền viện Thái Tử, Phần Dương. Sư đắc đạo lúc tuổi còn nhỏ, chưa đến 30 tuổi, ẩn cư ở Nam Nhạc Hành Sơn 20 năm. Sau mới ra trụ trì, lại 20 năm sau mới khai đường thuyết pháp. Đây đều do thời cơ nhân duyên chưa đến, không phải ý của sư, hoặc phải ẩn cư nhiều năm mới trụ trì, hoặc thuyết pháp đều chờ nhân duyên chín muồi. (Những bậc cao Tăng đại đức sau khi ngộ đạo đều có đủ thần thông tuệ nhãn, hiểu rõ căn tánh chúng sanh, thời cơ và nhân duyên, giống như đi giữa đêm trăng sáng tỏ, nhậm vận mà đi).

    8.5. Đóng cửa nhiều năm

    Triều nhà Tống, ở Đàm Châu, núi Vân Cái, có Thiền sư Thủ Trí. Vào niên hiệu Nguyên Hữu thứ 6 (1091), đời vua Tống Triết Tông, từ bỏ trụ trì, rút lui tây đường ẩn cư một mình 30 năm.

    8.6. Ở lâu trong rừng sâu

    Triều nhà Minh (1368-1644), ở Tuỳ Châu, Long Tuyền, có Thiền sư Vô Văn Tuyệt Học Chính Thông.

    Sư họ Hề, tự Vô Văn, hiệu Tuyệt Học, người xứ Quang Trạch (nay thuộc tỉnh Phúc Kiến). Năm 17 tuổi cạo tóc xuất gia, 20 tuổi thụ giới cụ túc. Tinh thông Giới luật kiêm tu Chỉ Quán, nghiên cứu sâu Duy Thức. Về sau sư chuyên mộ thiền pháp, thưa hỏi khắp nơi. Tham cứu 4 câu kệ của Phật Đại Thông Trí Thắng được vài năm. Một hôm, sư chợt nghe tiếng ngựa kêu liền tỉnh ngộ, nối pháp Thiền sư Thiên Kỳ Bản Thụy, thuộc tông Lâm Tế.

    Sau khi đại triệt ngộ, sư một mình vào trong núi Quang Châu ẩn tu 6 năm. Rồi vào sâu trong núi Lục An Châu ở thêm 6 năm. Sau đó lại trở về núi Quang Châu thêm 3 năm nữa, đều ở một mình một bóng trong rừng sâu núi thẳm như vậy tu hành trước sau tổng cộng 17 năm, rồi sau mới vào đời hoằng pháp.

    Lời bình:

    Sau khi giác ngộ lớn mới độc hành độc tọa, giống như Thiền sư Phổ Nguyện sau khi ngộ ẩn cư ở núi Nam Tuyền. còn những người mới học, tâm tánh chưa khai ngộ, đã từ bỏ Tùng lâm, không ưa ở trong Tăng chúng, xa lìa thiện tri thức ở ẩn một mình, kiến thức nông cạn, không phải là sai lầm sao?

    8.7. Tám lần mời không đi

    Triều nhà Tống, ở Phần Dương, thiền viện Thái Tử, có Thiền sư Vô Đức.

    Sư họ Du, người Thái Nguyên (Sơn Tây). Thuở nhỏ, sư thông minh trí huệ hơn người. 14 tuổi cha mẹ lần lượt qua đời, sư bèn cắt tóc thụ giới cụ túc. Du phương khắp nơi, từng tham phỏng 71 vị tôn túc thạc đức. Sư đến Thủ Sơn, Nhữ Châu (Lâm Nhĩ, Hà Nam) tham kiến Thiền sư Tỉnh Niệm được đại ngộ, nối pháp làm truyền nhân tông Lâm Tế.

    Sau khi đại ngộ, trước sau đạo tục 8 lần mời sư xuống núi thuyết pháp, sư đều từ chối. Sau đó sư sống thảnh thơi ở Chùa Bạch Mã, tại Dương Châu. Những người xuất gia, tại gia ở các vùng Tinh Châu, Phần Châu hơn 1000 người đồng loạt kéo lên núi cung thỉnh sư hạ sơn thuyết pháp độ sanh, cuối cùng, vì thạnh tình khó từ chối, sư thuận theo ý mọi người xuống núi. Đại sư một lần khai giảng thì tông phong được chấn hưng lớn, xa gần đều đến, nhưng sư vốn là người từ trước tới nay không ra khỏi cửa. Sư tự làm một bài ca ‘không ra tự viện’ để biểu hiện rõ chí hướng của mình.

    Lời bình:

    Nhất nhất quán sát các bậc cao Tăng đại đức, sau khi được pháp, đều không để lộ tài năng, mai danh ẩn tích. Đến lúc thời cơ chín muồi rồi mới hiển lộ. Nhưng, như Thiền sư Vô Đức đây, người ta mời thỉnh đến lần thứ 8 vẫn không đi thì giấu kín, cẩn thận thái quá! Sau đó Tông phong được đại chấn, lẽ nào không phải là uyên nguyên sâu xa mà lưu truyền trường cửu? Không phải một sớm một chiều có thể bồi dưỡng tạo thành như thế! Ngày nay, người xuất gia trẻ mới chút ít tài năng đã vội vàng muốn biểu hiện, sợ người sau không biết đến, sợ làm người lạc hậu, thật không bình thường! Giống như quả chưa thật sự chín muồi mà hái xuống thì không thơm ngọt, không ăn được. Hỡi những người xuất gia trẻ! Phải luôn phản tỉnh xem lại mình, phải chăng xuất thế quá sớm?

    8.8. Trọng pháp ẩn cư trong núi

    Triều nhà Nguyên (1206-1368), tại Yên Đô (miền bắc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc), chùa Phổ Khánh, có sư Pháp Văn, 7 tuổi xuất gia. Sau theo đại sư Quảng Ôn học kinh Pháp Hoa, Duy Thức, Nhân Minh luận và Tứ Phần Luật. Đại sư Quảng Ôn bảo sư phải tự trọng, tương lai còn dài, tiền đồ rất khó khăn, tất cả hy vọng đều đặt lên người sư. Sư đứng trước tượng Phật đốt một ngón tay, lấy máu viết kinh v.v… cúng dường Phật, để biểu hiện sự tôn sùng Phật pháp. Tiếp đó sư ẩn cư ở Ngũ Đài Sơn, 6 năm không ra khỏi cửa, Đại tạng kinh năm ngàn quyển, tụng được ba lần. Quốc sư của Hoàng đế tán thán, khen rằng: “Người Hán cũng có những Hòa thượng cao minh như vậy”!

    Không lâu sau, Tây An Vương Đình mời sư đến chùa Nghĩa Thiện ở Thành Nam, Tây An, khai giảng đạo tràng. Hoàng đế nghe đến danh đức của sư, triệu kiến vào hoàng cung, lệnh cho sư trú trì chùa Đại Nguyên Giáo, phong hàm Ngân Chương nhất phẩm. Rất nhiều người cầu giới và đắc giới nơi sư. Năm 1317, ngày 14 tháng 3, đời vua Nguyên Nhân Tông, sư ngồi ngay thẳng mà tịch.

    8.9. Ẩn cư trong chùa cũ

    Triều nhà Nguyên, ở Cù Châu, núi Ô Thạch, có sư Kiệt Phong Thế Ngu.

    Sư họ Dư, tự Kiệt Phong, người Tây An (Cù Châu, Chiết Giang). Xuất gia thuở nhỏ, lớn lên theo Cổ Nhai, Thạch Môn Học học đạo. Lại tham kiến nhiều bậc tôn túc Bố Nạp, Đoạn Nhai, Trung Phong nhưng không khế hợp, bèn ẩn cư trong núi Nam Bình khổ tham công án “không phải tâm, không phải Phật, không phải vật”, ba năm không ra khỏi cửa, một đêm nghe vị tăng bên cạnh tụng Chứng Đạo Ca, sư có tỉnh, yết kiến Thiền sư Chỉ Nham Thành được ấn chứng rồi nối pháp. Niên hiệu Chí Thuận thứ 2 (1331) sư trở về trụ núi Ô Thạch, Tây An suốt 16 năm không ra khỏi núi.

    Sau danh tiếng của sư truyền đến triều đình, Hoàng đế sai người tâm phúc mang danh hương và Cà-sa Kim lan ban tặng cho sư, phong hiệu Hoằng Biện pháp sư. Đời vua Nguyên Thuận Đế, niên hiệu Chí Chính (1341-1368), các Chùa viện mới như Long Viên, Cổ Vọng, Bảo Cái, Phổ Nhuận v.v… đều thành khẩn cầu sư làm tổ khai sơn, bất đắc dĩ sư phải đáp ứng nguyện vọng mọi người.

    8.10. Việc mình mình tự lo mới có thể vì mọi người

    Người xưa đại triệt đại ngộ, việc học đã hoàn thành rồi còn phải vào bên suối, dưới rừng, nuôi lớn thánh thai, không sợ đầu lưỡi nhân vì lâu ngày không nói mà phát mốc! Long thiên Hộ pháp cực lực thúc giục các Ngài mới vào đời độ người. Cho nên, một vị Đại đức từ chối không vào đời thuyết pháp đều nói nguyên ý đời đời kiếp kiếp đang ở vào địa vị tham học, để rèn luyện, tu hành. Tôi lúc mới xuất gia, thành kính phụng trì điều này, ghi nhớ trong lòng, sau đó vì bị bệnh cho nên vào núi tịnh dưỡng, Tăng tục nối tiếp nhau đến cùng tu, lâu dần bất giác hình thành Tòng lâm đạo tràng. Nhưng cho đến hôm nay vẫn không dám tự cho mình là Phương trượng Tòng lâm; không dám mở miệng vọng luận đạo lý Thiền tông. Chỉ bất quá cùng chúng tu học, không phải lãnh đạo mọi người tu hành! Tôi rất xấu hỗ, tuổi đã cao, làm bậc trưởng bối, chỉ hy vọng cùng quý ngài hỗ tương khích lệ nhau mà thôi. Kỳ vọng quý vị Đại đức xem tôi là bằng hữu, có gì không phải, xin quý ngài chỉ giáo và sửa chỗ lỗi lầm cho tôi, đây là điều vinh hạnh cho tôi vậy!

    8.11. Làm việc chắc chắn, lớn tuổi rồi mới vào đời

    Người xưa sau khi đắc ngộ tâm địa, ở trong hang sâu núi thẳm, dùng nồi bể nấu thức ăn, ẩn náu nuôi dưỡng, cho đến khi Long Thiên Hộ pháp cực lực thôi thúc vào đời, vạn bất đắc dĩ mới nhập thế độ chúng. Người đời sau dần dần không như người xưa, chỉ học đòi làm Pháp sư giảng kinh, luận, hoặc học làm thầy cúng (làm pháp sư du-già thí thực). Học thành rồi mà tuổi còn nhỏ còn không dám ra đi, đợi đến tuổi lớn rồi mới dám ra làm Phật sự. Ngày nay, trước mắt thấy rất nhiều vị thiếu niên lên toà giảng sư. Thảo nào Phật pháp suy vi!

    8.12. Trước thuật nên ở cuối đời

    Trước tác của người tu đạo không phải như văn chương, truyện ký… trong thế gian, văn từ có thể dùng ví von, so sánh. Tác phẩm của người xuất gia nhất định phải, trên thì làm sáng tỏ tâm pháp của Phật, dưới thì phải khai mở phương pháp ngộ đạo cho người sau. Trách nhiệm này không phải nhỏ. Nếu như sở học chưa tinh thông, chỗ thấy biết chưa chính xác, ổn định, chỉ có một chút sai lầm, không phải là làm trái ý chỉ của Phật và để lại sai lầm cho người hậu học sao? Khổng Tử ba lần ‘đoạn tuyệt vi sách’ mới đem ‘10 cách dịch văn’ ra khen là hoàn thành (Vi là da, ngày xưa không có giấy, viết chữ lên thẻ tre, dùng da kết lại cho nên gọi là vi sách. Thập dịch là Khổng Phu tử khen dịch văn, tức là Thượng thoán, Hạ thoán, Thượng tượng, Hạ tượng, Thượng hệ Hạ hệ, Văn ngôn, Thuyết quái, Tự quái và Tạp quái). Ông Châu Hy lúc lâm chung còn đem yếu chỉ trong chương ‘Thành ý’ của sách Đại học ra cải định. Người xưa đối với việc trước thuật cẩn thận đến như vậy. Học vấn thế gian mà còn thận trọng như vậy huống gì câu cú, ngôn luận xuất thế, nói là dễ sao? Triều nhà Đường, ở Lãng Châu, có Thiền sư Đức Sơn Tuyên Giám (họ Châu, người Quảng Châu), sau khi xuất gia chuyên tâm nghiên cứu Luật tạng, đối với tánh tướng các kinh đều quán thông yếu chỉ, thường hay giảng kinh Kim Cương, cho nên người bấy giờ gọi sư là Châu Kim Cương. Sau nghe ở phương Nam giường Thiền hưng thạnh, Sư căm giận, bất bình, bèn nói: “Người xuất gia ngàn kiếp học oai nghi của Phật, vạn kiếp học tế hạnh của Phật còn chưa thành Phật, nay kẻ ma ở phương Nam dám nói: “trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”, ta phải đập tan cái sào huyệt này, trừ hết những nghiệt chủng ấy để báo ân Phật”. Sư bèn gánh Thanh Long sớ sao lên đường đến đất Thục, huyện Lễ Dương. Trên đường đi gặp một bà già bán bánh, nhân đó sư dừng lại mua bánh ăn điểm tâm. Bà già chỉ vào gánh hỏi: “Đây là gánh gì?”, sư trả lời: “Thanh Long sớ sao”. Bà già hỏi: “Giảng kinh gì?”. “Kinh Kim Cang”. Bà già lại nói: “Tôi có một câu hỏi, nếu như trả lời được, cho bánh ăn điểm tâm, nếu như trả lời không được, hãy xéo đi chỗ khác. Trong kinh Kim Cang có nói, ‘tâm quá khứ bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc’, xin hỏi sư muốn điểm tâm nào?”. Sư trả lời không được, bèn tìm đến Long Đàm. Đến pháp đường sư nói: “Đã lâu nghe danh Long Đàm, đến đây thì đàm không thấy mà long cũng chẳng hiện”.

    Long Đàm Sùng Tín Thiền sư nói: “Người đã đến gần được Long Đàm”. Sư không biết nói gì, bèn ở lại. Sau sư đại ngộ, đem Thanh Long sớ sao đến trước pháp đường châm lửa, nói: “Tột cùng các biện luận siêu huyền như một sợi lông ném trong hư không; hết sạch các trọng yếu ở đời giống như một giọt nước trong hồ lớn”, nói xong sư châm lửa đốt sạch. Nếu như sư Đức Sơn không đến Long Đàm thì cho rằng Thanh Long sớ sao của mình sáng tác là hiếm có trong đời.

    Lại có Thiền sư Tùng Duyệt ở Đâu Suất, phủ Long Hưng, theo học với Thiền sư Đạo Ngô, rồi đến Hòa thượng Trí ở Vân Cái, sau nghe lời Hòa thượng Trí đến tham học với Hòa thượng Văn ở Động Sơn, rồi trở về yết kiến sư các đại Hoà thượng Chơn Tịnh Văn v.v… thâm lãnh được yếu chỉ sâu xa, được ấn chứng. Sau đó Sư đến Đàm Châu, Thạch Sương, Sở Viên, gặp thị giả của Thiền sư Từ Minh là sư Thanh Tố.

    Thiền sư Thanh Tố có đầy đủ sở kiến, Sư thành khẩn xin chỉ giáo, sư Thanh Tố nói rằng, những điều Động Sơn dạy cho ông đều là chánh tri chánh kiến, tiếc rằng ông lìa xa thầy Văn quá sớm, nhưng chỗ người đạt được chỉ có thể vào Phật mà không thể vào ma, há chẳng thấy cổ nhơn nói một câu rốt sau mới đến lao quan? Nay vì ông điểm phá. Mấy tháng sau sư mới được Thanh Tố ấn khả. Như vậy, lúc đầu được Thiền sư Duyệt (Diệu Hỷ), ở Đâu Suất làm cho đầy đủ đại tài rồi, sau mới được sự ấn chứng tâm pháp của Thiền sư Thanh Tố. Người tuổi trẻ lo trước tác còn không vội tu tập?

    TỔNG LUẬN

    Hoặc giả có người sẽ hỏi: “Đức Thế Tôn sau khi ngộ đạo thành chánh đẳng chánh giác liền thuyết giảng kinh Hoa Nghiêm, cũng có Sa-di, mới 7 tuổi dự hội thuyết pháp. Nếu như phải ẩn cư nhiều năm, lâu ngày mới xuất thế, thì ai tiếp độ chúng sanh”? Thật không biết rằng, người xưa làm việc thận trọng không phải là tự lợi cho riêng mình mà quên đi sứ mạng vào đời độ sanh! Đạo hạnh càng cao, chí hướng càng kiên định, nguyện lực càng sâu rộng, tâm địa càng sáng tỏ, làm việc càng cẩn thận, càng không sai nhân quả. Sau khi ngộ đạo, ở trong rừng, bên suối, nuôi lớn và gìn giữ tâm linh, đợi cho đến lúc hạnh giải hợp nhất, đạo lớn đã thành, như trái đã chín, hương vị tự nhiên bay khắp, thơm tho, Long thần Hộ pháp tự nhiên đến mời xuất thế, công phu lúc này, tùy ý tự nhiên tự tại, đều là việc làm tốt đẹp, dùng đức độ chúng giàu có dư dật. Bạn chỉ biết đức Phật một đời cứu độ chúng sanh làm lợi ích cho chúng sanh, mà không biết rằng Ngài đã trải qua ba đại kiếp A-Tăng-kỳ tu tập! Và không biết rằng Sadi 7 tuổi có thể giảng kinh ấy là đã nhiều đời nhiều kiếp tu luyện huân tập mà thành tựu hay sao? “Phật pháp không phải là cá tươi, sợ để lâu nó thối sao?”, câu nói này tuy đơn giản mà nghĩa lý rất sâu xa!