Dân Quốc năm thứ 43, 115 tuổi. (1954/55)

Mùa xuân, Vân Công ở tại Vân Cư. Đầu tiên, Ngài trù liệu sửa sang đại điện để đặt tượng Phật Tỳ Lô Giá Na, do hoàng thái hậu đời Minh, niên hiệu Vạn Lịch ban chiếu đúc. Vì mái chùa lợp bằng thiếc, nên không thể chịu đựng được những cơn gió lốc trên đỉnh núi. Thế nên, Ngài họp đại chúng lại, cùng nhau làm ngói thiếc, đúc hai quả chuông đồng, xây bốn lò nấu cơm cho ngàn tăng chúng. Bấy giờ, chư tăng và người tục trên núi có vài trăm vị, mà trong đó lại có rất nhiều thợ nề, thợ gốm, thợ đúc v.v… Tăng tục, bạn đạo trong và ngoài nước liên tiếp gởi thơ viếng thăm, cùng cúng dường tịnh phẩm rất nhiều. Có người, có đất, có tiền, việc trùng tu tự viện tiến triển thuận lợi, dễ dàng. Vân Công phân chia tăng chúng ra làm hai nhóm. Một nhóm lo về công trình thổ mộc, kiến tạo chùa viện. Một nhóm lo về công việc khai khẩn đất hoang, trồng trọt. Đại chúng đều hăng say thi hành làm việc. Mùa hè, khoảng tháng năm, tháng sáu, pháp đường được kiến lập, trên có xây lầu chứa tạng kinh, hai bộ Thích Sa và Tần Già. Nhóm khai khẩn đất hoang, mở rộng khoảng sáu mươi mẫu đất, trồng lúa, trồng rau, nuôi tăng chúng, thể theo quy củ của tổ Bá Trượng dạy. Mùa thu, vào tháng bảy, kiến lập được phòng ốc chư tăng. Trên lầu, dưới lầu, hơn hai mươi phòng, khiến tăng chúng an ổn tu hành. Lại xây cất nhà bếp, nhà cầu, nhà chà gạo v.v… Vân Công vẫn ở tại am tranh xưa.

Phương trượng chùa Nam Hoa là Bổn Hoán cùng sáu tỳ kheo ny ở Thái Bình Liên Xã, đồng lên núi lễ bái Ngài. Họ thấy có một quả chuông đồng bể, nằm trong bụi cỏ, nên hỏi han. Ngài trả lời: “Đây là vật cổ của núi, tên là ‘Chuông tự ngân vang’. Trải qua bao đời, mỗi lần có chư tổ sư đến núi thì chuông tự nhiên ngân vang tiếng. Lúc quân Nhật chiếm đóng, đốt rụi núi, thì lầu chuông bị cháy, chuông rớt xuống đất bị nứt bể, nay tự nhiên nối ráp lại.”

Chúng tăng kiểm xem, thấy những lằn nứt chạy dài từ dưới lên, tự nhiên lần hồi đắp vá lại. Ngài nói thêm: “Đợi chuông tự vá đắp xong thì treo lên lầu các như xưa.”

Ngài dẫn họ đi xem khu vườn tre trúc rậm rạp. Đại chúng trồng lúa, trà rau quả, các cây sam lớn, cùng cây ngân hạnh. Ngài chỉ tay bảo họ: “Đây là loại trái bách quả, ruột trống không.”

Pháp sư Bổn Hoán ở lại mười ngày. Vân Công chặt vài cây trúc làm thiền bản, và tự thân khắc kệ trên đó, để tặng cho chư đệ tử ở Hồng Kông và Quảng Đông. Tháng mười một, am tranh của Ngài bị cháy. Đại chúng thấy thế, thỉnh Ngài vào trú trong phòng xá mới xây. Ngài đáp: “Thầy thích ở chỗ tao nhã cổ kính này.”

Ngài lại lấy rơm rạ lợp thành am thất trú ẩn.

Trong năm, có điện tín từ Bắc Kinh gởi đến, thỉnh Ngài ra bắc. Ngài cáo bệnh, không đi được. Cuối năm, Ngài khai mở thiền thất.

Dân Quốc năm thứ 44, 116 tuổi. (1955/56)

Mùa xuân, việc kiến tạo điện đường, ngày một tăng gia. Nhà bếp, nhà ăn, phòng xá, liêu đường, thiền đường v.v…, từ từ xây xong. Mùa hạ, liên hội Phật Giáo tại Bắc Kinh khai mở đại hội khoáng đại. Ngài vì bận công việc xây cất chùa chiền nên không thể ra bắc được. Mùa thu, vài mươi người đệ tử của Ngài từ khắp nơi đến núi, trong đó có những vị chưa thọ giới cụ túc. Vì vậy, họ thỉnh cầu Ngài truyền giới. Lúc bấy giờ, Ngài nhận thấy chưa đủ phương tiện để truyền giới, nhưng muốn khiến người phát tâm tu hành được thành tựu, nên Ngài chỉ truyền giới cho những vị hiện đang trú trên núi, mà không thông báo đàn truyền giới ra bên ngoài. Việc đầu tiên là Ngài xin giấy phép của liên hội Phật Giáo tại Bắc Kinh, định trong khoảng rằm tháng mười sẽ làm lễ truyền giới. Tăng chúng tại các danh sơn, tự viện, tịnh thất, am tranh ở các tỉnh, nghe tin liền kéo nhau đến cầu giới. Mới đầu có khoảng hơn một trăm vị, rồi từ từ tăng lên hơn ba trăm vị. Cộng chung với chư tăng trên núi, cả thảy hơn năm trăm vị. Lo việc ăn uống cho tất cả tăng chúng trong hoàn cảnh đó, thật rất khó khăn.

Vài tháng gần đây, tại Thượng Hải, hội Thiên Chúa Giáo cùng hội Thanh Niên Phật Giáo, bị nhiều chuyện rắc rối. Để cản trở việc phát tâm tu hành của những người cầu thọ giới, chánh quyền tỉnh Cam Túc đánh điện cho chánh quyền tỉnh Giang Tây (đang quản lý núi Vân Cư), phao vu rằng có những kẻ đầu sỏ, ngoại đạo, giả mặc áo tăng bào, đã đến Vân Cư, cầu xin thọ giới v.v…

Vân Công nghe thế, phòng ngừa rất thận trọng. Cơ quan trị an địa phương cho quân vây quanh chùa mãi. Bấy giờ, những người cầu giới đã vào núi hết, nếu từ chối không cho thọ giới thì trái với lời Phật dạy, còn nếu truyền giới cho tất cả tăng chúng thì không thể sống an ổn trong tình thế hiện tại. Thế nên, Ngài y theo kinh Phạm Võng phẩm ‘Phương Tiện Tự Tạm Thọ Giới’, để dạy người cầu giới, rồi thuyết rõ mười giới, cụ túc giới, ba loại giới pháp, trải qua mười ngày liên tiếp, mệt nhọc vô cùng. Sau đó, Ngài khuyên tăng chúng, nên trở về quê quán, y chiếu giới kỳ, tạm tự thọ giới. Truyền giới xong, Ngài ban phát giới điệp, rồi giữ lại hơn một trăm vị, y theo pháp mà nhập đàn truyền giới. Sau đó tuyên bố chấm dứt. Vì duyên pháp bị chướng ngại, nên thời thời không được yên. Kỳ truyền giới hoàn mãn, Ngài liền kết một tuần thiền thất.

Năm đó, khai khẩn đất hoang, trồng lúa, trồng rau, được hơn một trăm bốn mươi mẫu. Trong vùng đó, có rất nhiều loại cây ăn trái, hoa quả, trà ướp v.v… Mảnh đất hoang vu được biến thành nơi trồng trọt trù phú, khiến những kẻ bên ngoài dòm ngó.

Cơ quan địa phương thiết lập trạm Nông Lâm Nghiệp trên núi, bắt chư tăng ghi khai hộ tịch, hầu chiếm lấy mảnh đất trù phú mà chùa mới vừa khai khẩn, tức cắt đi nguồn lợi tức sanh sống của tự viện. Chúng tịch thâu hết rau quả, trái cây. Chúng cũng đo lường tính toán phạm vi đất chùa.

Lúc đầu, Vân Công cố ẩn nhẫn. Kế tiếp, chúng lại chiếm luôn am tranh, đuổi Ngài vào núi. Ngài liền đánh điện lên Bắc Kinh, thuật lại những sự việc đã và đang xảy ra. Ngay sau đó, chính quyền địa phương được lịnh từ Bắc Kinh là phải hoàn trả ngay lại tất cả đất đai chùa khai khẩn, quản lý. Chúng không dám không tuân lệnh thượng cấp, nên phải thi hành mệnh lệnh trên. Vì bảo rằng Ngài chèn ép áp bức, nên chúng sanh sự, tạo bao chướng ngại, làm mọi ma sự.

Khi ấy, đệ tử của Ngài ở khắp nơi, đổ dồn về núi ngày một thêm đông, gần cả một ngàn năm trăm vị. Các phòng xá vừa xây cất đều không đủ chỗ cho chư tăng ở nên phải dựng chòi lá xung quanh núi mà trú ngụ. Chư tăng khắp nơi, ngàn dặm tìm đến, học đạo với Ngài. Vì quá đông, nên đại chúng thỉnh Ngài phương tiện, quy định thời gian thuyết pháp mỗi ngày. Ngài đều hứa khả. Bắt đầu ngày mười một tháng ba, nơi giảng đường, Ngài phương tiện thuyết pháp. Trong những lần đó, Ngài thường viện dẫn gương tu hành của các bậc tiền bối, cùng mọi sự việc liên quan đến hoàn cảnh hiện tại, và khai thị pháp yếu, cách thức tu hành cho những vị tại gia. Ngài lại nói đến những biến cố vừa xảy ra cho mọi người hiểu rõ, công việc đồng áng v.v… Không việc chi Ngài không bàn đến. Chư đệ tử ghi chép lại lời Ngài đầy đủ.

Dân Quốc năm thứ 45, 117 tuổi. (1956/57)

Mùa xuân, Ngài kiến lập đại điện, điện Thiên Vương, lầu Hư Hoài, lầu Vân Hải, lầu chuông trống, cùng các điện đường, phòng xá. Mỗi mỗi tuần tự hoàn thành. Trong việc trùng tu Vân Cư, Ngài chiếu theo khuôn phép mô hình chùa Cổ Sơn, Nam Hoa, Vân Lâu. Tùy theo đất đai, phương hướng mà xoay sở biến hóa. Trước chùa có hồ Minh Nguyệt, hình tròn giống như mặt trăng, đường kính khoảng một trăm thước. Mỗi khi mặt trời lên, ánh sáng vàng tỏa khắp, phản chiếu điện đài. Phía bắc của hồ, Ngài kiến lập cổng tam quan. Đi thẳng vào là chánh điện Tứ Thiên Vương. Đi vào nữa thì gặp Đại Hùng Bảo Điện. Đằng sau là pháp đường cùng lầu các chứa tạng kinh. Đi qua vườn cây thì thấy đảnh Long Châu, khí thế hùng vĩ. Phía đông chùa có trai liêu Á Bộ, điện đường Báo Ấn, nhà khách, nhà bếp, trai đường, Diên Thọ đường, Tổ đường. Phía tây có liêu phòng Như Ý, Tây Quy đường, Công Đức đường, Vãng Sanh đường, Thượng Khách đường, phòng Duy Na, Thiền đường, phòng giám trực. Đằng sau là phòng phương trượng. Phòng xá lớn nhỏ có khoảng bảy tám mươi căn. Chung quanh chùa có những tượng đá A La Hán, rất trang nghiêm đẹp đẽ.

Xưa kia, lúc trú tại Vân Cư, Tô Đông Pha có nói: “Vân Cư là cảnh đẹp nhất trần gian.”

Từ lúc Vân Công trở về núi, đã qua ba năm, lâu đài Phật quốc được xây cất liên tục, bảo tồn di tích đời Đường, Tống. Đây do đạo hạnh sâu dày của Ngài, cảm động đến Long Thần Hộ Pháp, gia hộ cho bao duyên pháp đều được thành tựu. Thật không thể nghĩ bàn. Trong mùa xuân và hạ năm đó, đại chúng trú trên núi khoảng hai ngàn người. Có rất nhiều nhân tài về kiến tạo, xây cất, cùng học giả nông lâm nghiệp. Thế nên, tất cả công trình xây cất, trồng trọt, đều hoàn thành mau chóng.

Việc kiến lập trùng hưng tổ đình xưa nay, Ngài chưa từng phan duyên, cầu cạnh người, mà duyên pháp tự đến. Thật không thể nghĩ bàn. Việc xây cất trùng tu lại chùa Vân Cư, thiện tín mười phương đồng tùy hỷ cúng dường. Đại chúng cùng nhau dõng mãnh thi công kiến thiết.

Đệ tử Khoan Huệ ở Hồng Kông, nghe Ngài đang xây lại chùa chiền, liền mở pháp hội Dược Sư, quyên được cả mười ngàn đồng. Thương kiều ở Bắc Mỹ, bà Chiêm Lệ Ngô, chưa từng gặp mặt Ngài, cũng cúng dường cả mười ngàn đồng. Cư sĩ Ngô Tánh Thí ở Thượng Hải, lên núi lễ bái Ngài. Lúc lên núi, thấy đường lộ cheo leo ngoằn ngèo, nên ông phát nguyện cúng dường một trăm ngàn đồng để sửa chữa đường xá.

Ngài đã trùng tu, kiến lập lại vài mươi ngôi tự viện phạm sát lớn nhỏ trong toàn quốc. Lúc nào cũng thế, một mình Ngài chống tích trượng lên núi hoang. Khi công trình xây cất sửa sang hoàn thành thì Ngài lại giao cho chư tăng, rồi một mình chống gậy xuống núi. Việc xây cất các tự viện trên núi Vân Cư, dường như luôn có Long Thần Hộ Pháp gia hộ. Kể từ lúc khởi đầu công việc xây cất, đến nay đã trải qua hai ba mùa thu rồi, mà muôn việc lành đều đến, chùa chiền luôn được tín thí bốn sự cúng dường. Người người đều mong Ngài ‘An Cư’ nơi Vân Cư.

Tháng chín, mùa thu, khi sửa sang hồ Minh Nguyệt cùng đào suối Thanh Khê, tìm được một tảng đá lớn, ghi khắc lại vài câu kệ của thiền sư Phật Ần. Ngài Phật Ần, lúc còn làm trụ trì tại Vân Cư, có thi sĩ Tô Đông Pha thường lui tới, vào núi hầu chuyện. Ông Tô Đông Pha thường ngồi trên tảng đá đó, bên cạnh con suối. Sau này, Vân công cho xây cây cầu để kỷ niệm, tên là Đàm Tâm Thạch (tức tảng đá đàm đạo về tâm), và cây cầu Phật Ần.

Lúc đó, bốn chúng hơn hai trăm người, khai khẩn trồng trọt hơn một trăm tám mươi mẫu, dọn được khoảng bảy mươi mẫu đất để trồng thêm hoa màu cây trái. Vì vậy, thu hoạch đầy đủ thực phẩm cho đại chúng dùng. Năm đó thu hoạch được khoảng hơn bốn mươi ngàn năm trăm ký lúa, hơn sáu mươi ngàn ký lương thực, cùng cây trái, rau quả, trà ướp v.v… Từ đó, đại chúng luôn tích cực khai khẩn thêm đất hoang, trồng vườn, mới có thể nuôi được cả năm trăm tăng chúng thường trú.

Tháng chạp, Ngài khởi thiền thất trong hai tuần liên tiếp. Chùa Nam Hoa ở Triết Giang, chùa Đại Dong ở Quảng Châu, chùa Định Quang ở Trưong Đinh, chùa pháp Luân ở Ninh Hóa, đều lần lượt cung thỉnh Ngài đến truyền giới pháp.

Dân Quốc năm thứ 46, 118 tuổi. (1957/58)

Thể theo lời thỉnh cầu của cư sĩ họ Ngô, việc sửa chữa đường đi lên núi từ bến đò Trương Công, đã bắt đầu khởi công từ mùa đông năm ngoái. Con lộ rộng khoảng sáu thước, dài mười tám dặm, vòng quanh sườn núi, chót vót cheo leo. Dưới chân núi có giòng suối lớn. Lại trùng tu cầu cây, giúp người qua bến. Nơi đó có cầu Long Vương, cầu Thu Vân, cầu Vân Ầm, trạm Quy Thủy v.v… Trong mùa thu, sau khi công trình xây dựng hoàn tất, Vân Công khắc ghi lại sự tích của cầu Phi Hồng ở ải Triệu Châu.

Tháng sáu, cơ quan Nông Lâm Nghiệp địa phương thấy tăng chúng ở núi Vân Cư khai khẩn đất hoang, trồng trọt, thu hoạch được mùa, nên rất thích vùng đất này. Chúng hủy bỏ chuẩn ước năm 1953, cho phép thành lập nông trường Tăng Già, mà tự thiết lập riêng nông trường khai khẩn đất hoang trên núi. Chúng sai hơn hai mươi tên lên núi, chiếm lấy tất cả đất đai khai khẩn của chùa và tịch thâu trà cây hoa quả. Sau đó, chúng lại chiếm luôn am tranh của Vân Công, ra lịnh cho Ngài phải lập tức rời núi. Ngài không thể cứu vãn được tình thế, bèn đánh điện trình báo lên Bắc Kinh. Vài ngày sau, chính quyền địa phương được lịnh trả lại tất cả tài sản đất đai khai khẩn, trồng trọt cho tăng chúng. Tuy phải theo lịnh thượng cấp, nhưng chúng rất oán ghét Vân Công vì cho rằng Ngài ỷ lại thế lục quen biết thượng cấp, câu thông trong ngoài, mà chèn ép chúng. Thật ra, chúng muốn gieo họa cho Ngài lúc nào mà chẳng được!

Trong tháng, thầy trụ trì chùa Vân Cư là Hải Đăng, khai giảng kinh Pháp Hoa, cùng tuyển chọn ba mươi thanh niên tăng, thành lập viện nghiên cứu Phật học, để đào tạo tăng tài.

Dân Quốc năm 47, 119 tuổi. (1958/59)

Mùa xuân, toàn quốc bị ảnh hưởng ‘Phái Hữu’. Chính quyền đương thời phát động ‘Đại hội học tập cho các đoàn thể Phật giáo tại Hán Khẩu’.

Họ chỉ định chư tăng trụ trì các chùa chiền tụ viện, cùng vị tăng tri sự, phải đến tham dự. Vân Công viện lý do già bịnh nên khước từ không đến. Thầy Bổn Khoán, trụ trì chùa Nam Hoa, thầy Truyền Sĩ, tri sự chùa Vân Cư, thầy Phật Nguyên, trụ trì chùa Vân Môn, cùng các thầy Kiến Tánh, Ần Khai v.v…, bị chính quyền kết tội là theo phái hữu, và bị ép bức phải đấu tranh, tố cáo Ngài, nhưng tất cả đều bất khuất, không làm theo uy quyền. May mắn cho họ, chính quyền chưa định giáng họa gì. Kể từ đó, một nhóm có thành kiến với Ngài xưa kia, nay gặp dịp thuận tiện, nên tìm cách hãm hại. Chúng viết ra mười tội trạng của Ngài, nào là tham ô, phản động, tụ chúng, giả bộ đạo đức, truyền giới pháp sai lầm v.v…Những lời vu khống đó, đau đớn thay, lại phát xuất từ cửa miệng của một nhóm người tự xưng là tăng sĩ.

Từ lúc Vân Công về trụ trì tại chùa Vân Cư, chính phủ Bắc Kinh có phát tiền trợ cấp mỗi tháng là một trăm đồng, mà Ngài đều từ chối và trả lại tất cả, nhưng vẫn nhận sự cúng dường của tín chúng. Bên ngoài chùa Nam Hoa, Vân Môn, Vân Cư, đều dán bích chương bảo Ngài: ‘Ông già ngoan cố, bóc lột, phải được đấu tranh, tẩy nảo, cải tạo’, cùng các bích chương vu khống tội lỗi.

Bốn chúng đệ tử muốn đính chính những sự việc vu khống này, nhưng Ngài không cho phép. Việc này kéo dài cả hai tháng, không kết quả gì. Đại hội học tập ở Hán Khẩu cũng giải tán. Những vị đệ tử thủ cựu, đắc lực, đều bị chính quyền bắt hay đi phân tán hết, còn Ngài thì bị chính quyền địa phương bắt ở riêng rẽ tại một nơi cố định. Qua một hai tháng sau, cũng không có tin tức chi. Sau này, nhận được tin từ Bắc Kinh, cho biết rằng trong kỳ đại hội học tập ở Hán Khẩu, những điều vu khống Ngài đều vô căn cứ. Khi bản văn tố cáo tội trạng của Ngài đưa lên tới các nhân vật cao cấp ở Bắc Kinh xét xử thì họ lại ra lịnh cho chính quyền địa phương không nên bài trừ Ngài.

Vì vậy, Ngài thoát khỏi họa, chuyển nghịch cảnh thành thuận cảnh. Ngày mười lăm tháng chín, trưởng ty công an Trương Kiến Dân, dẫn hơn một chục tên công an, đến am tranh của Ngài lục soát, chẳng tìm được gì, trừ những công văn từ Bắc Kinh gởi đến. Chúng tịch thu hết những văn kiện, giấy tờ, kinh điển v.v…, mà không thèm hoàn trả lại. Thỉnh cầu vài lần mà chúng vẫn không đưa lại.

Ngày mười sáu tháng chín, Ngài tập họp bốn chúng nơi chánh điện để kể rõ mọi sự tình vừa xảy ra.

Trải qua bao tháng trường bị nhiều điều ưu phiền hoạn nạn, bịnh trạng của Ngài, ngày một tăng thêm. Năm trước, khi lễ Phật, Ngài không cần người giúp. Năm nay, mỗi lần lễ Phật là phải nhờ thị giả trợ giúp. Việc này dự báo rằng huyễn duyên của Ngài sắp hết!

Ngày nọ, Ngài gọi hai vị thị giả đến, dặn dò di chúc. Ngày mười chín tháng mười, Ngài ra chánh điện thuyết bài pháp cuối cùng cho đại chúng.

Dân Quốc năm thứ 48, 120 tuổi. (1959/60)

Mùa xuân, Vân Công thọ đến một trăm hai mươi tuổi, đồng với tuổi thọ của tổ Triệu Châu thuở xưa. Thế nên, chư đệ tử trong và ngoài nước, các đoàn thể dự định sẽ lần lượt tổ chức lễ chúc thọ cho Ngài. Sau khi nhận được điện tín của họ, Ngài liền viết thư trả lời, đại ý là không muốn họ làm lễ chúc thọ cho Ngài. Đại khái như sau:

“Việc sống chết, tôi chưa biết ra sao. Ngày sinh nhật vẫn còn xa lắm. Nay biết được hậu ý của lão cư sĩ họ Ngô, định làm lễ chúc thọ cho tôi. Tôi đã viết thơ cảm ơn ông có lòng thương tưởng nghĩ đến. Trộm nghĩ, nghiệp xưa đốc thúc, chìm nổi như sóng ba đào. Một làn gió nhẹ thổi đến, thân này tan thành bụi. Chưa liễu ngộ được gì. Niệm niệm thẹn thùng xấu hổ vì hư danh. Trăm năm khổ nhọc nếm bụi trần trong cơn mộng huyễn, thì cớ gì phải lưu luyến! Lại nữa, có sanh tức phải có tử. Người trí sớm tỉnh ngộ, nhất tâm tu hành, tinh tiến trên đường đạo, như cứu lửa cháy trên đầu, thì có thời giờ đâu mà bày biện như người thế tục!

Hư Vân tôi cảm ơn chư vị đến tận đáy lòng đã có tâm đoái hoài đến, nhưng thành tâm hối tiếc là không thể thọ nhận lễ chúc thọ được. Lại biết cuộc sống hiện tại ngày một khó khăn. Ai ai cũng chật vật lo miếng cơm manh áo, không rảnh rỗi, nên không thể làm lễ chúc thọ cho mình, hay làm rộn người đến chúc thọ, chuyển tặng quà cáp, lễ vật. Thật là việc tổn phước vô ích, chỉ tăng thêm tội trạng!”

Tháng ba, thấy việc sửa chữa hồ Minh Nguyệt và công trình xây tháp Hải Hội kéo dài nửa năm mà vẫn chưa xong, dầu bịnh hoạn sức yếu, Ngài vẫn cố ra ngoài thúc đẩy công việc. Vài tháng sau thì hoàn thành.

Vào những năm trước, sau khi đã thọ giới quy y, bà Chiêm Lệ Ngô, một thương gia ở Bắc Mỹ, cùng chồng là Uông Chân Thâm, phát tâm cúng dường tiền để xây cất điện đường. Các điện đường lớn nhỏ trong chùa, lần lượt được xây xong. Bà Chiêm định cúng dường thêm tiền để xây tháp thờ xá lợi của Phật. Bên cạnh tháp, cũng định xây thiền viện Lưu Vân, ý muốn cầu chúc Vân Công sống trụ lại thế gian lâu dài. Ngài bảo bà Chiêm rằng chùa Nam Hoa đã có tháp Hải Hội, còn chùa Vân Cư thì chưa. Sao không dùng công sức để kiến lập tháp Hải Hội ở Vân Cư? Lại thêm, trên núi Vân Cư, xá lợi của chư tổ sư bao đời, nay đang để khắp nơi, muốn bảo tồn thật là việc khó. Nếu xây tháp Hải Hội thì các xá lợi kia sẽ có chỗ được thờ phụng an lành. Lại nữa, nếu có tháp thì sẽ dễ dàng cho bốn chúng và những người đến Vân Cư tu hành sau này. Về việc xây thiền viện Lưu Vân, ý thật cảm kích. Cả đời Ngài chưa từng dùng một miếng ngói, cây đèn của chùa để dùng cho việc riêng tư. Vì thế, Ngài nhã nhặn từ chối. Bà Chiêm lại viết thơ cho Ngài và thưa rằng bên cạnh việc cúng dường mười ngàn đồng cho chùa, bà cũng sẽ cúng thêm năm mươi ngàn đồng để Ngài lo vào việc xây cất tháp Hải Hội. Ngài hứa khả, chấp nhận. Vì vậy, trong mùa đông năm trước, Ngài bắt tay ngay vào công trình kiến tạo tháp, mô hình giống như kiểu ở chùa Nam Hoa. Cạnh tháp, cũng xây thêm vài phòng đọc kinh sách, để chư tăng cư trú, và sáu thời lễ bái, đọc tụng kinh kệ. Đến tháng bảy trong năm thì hoàn thành. Đây là nhân duyên cuối cùng của Ngài trong việc kiến lập chùa chiền tháp viện lớn nhỏ trải qua bao thập niên.

Tháng bảy, cư sĩ Uông Chân Thâm ở Bắc Mỹ cùng Tăng Khoan Bích ở Hồng Kông cúng dường tịnh tài, cầu Ngài đắp tôn tượng Bồ Tát Địa Tạng để chúc mừng Ngài thọ được một trăm hai mươi tuổi. Ngài liền bảo chúng tăng khởi công đắp tượng Bồ Tát Địa Tạng. Trong hai tháng thì hoàn tất. Cộng với việc xây lầu chuông trống và tháp Hải Hội, đây là nhân duyên đắp tượng cuối cùng của Ngài.

Trong tháng ba, bịnh của Ngài, ngày một trầm trọng. Mới đầu, Ngài cố gắng đích thân lo liệu, trông coi hết tất cả công trình đang xây dựng dang dở trong chùa. Dần dần, Ngài bị đau vì đường tiêu hóa không thông, nên phải ngưng ăn cơm và các thức ăn cứng khác. Sáng trưa, Ngài chỉ ăn một bát cháo. Chính quyền ở tỉnh phủ, theo lịnh từ trung ương, gởi bác sĩ đến chữa trị cho Ngài. Ngài từ chối và bảo rằng duyên đời đã sắp hết. Lại bảo chư đệ tử, cùng các vị hộ pháp khắp nơi rằng việc xây chùa Chân Như đã hoàn tất, nên từ đây về sau, xin đừng gởi tịnh tài cúng dường Ngài nữa. Ngài cũng ân cần nhắc nhở tất cả chư đệ tử phải nỗ lực tu trì, tự giữ gìn huệ mạng Phật pháp.

Tháng tư, Ngài gọi thợ nhiếp ảnh đến chụp toàn bộ cảnh chùa chiền như Đại điện, tượng Phật, lầu chứa kinh tạng, Pháp đường, tháp hòa thượng Hối Sơn, Giới Hiển, hồ Minh Nguyệt, ải Triệu Châu, cầu Hồng Phong, tháp Hải Hội, am Vân Cư, và am thất của Ngài. Cả thảy hơn ba mươi chỗ. Ngài cũng chụp ảnh riêng để gởi tặng cho chư thân hữu thiện tín.

Bệnh của Ngài, ngày một tăng thêm. Ngày nọ, hòa thượng trụ trì cùng ba vị tri sự đến thăm bệnh. Ngài bảo họ: “Chúng ta có duyên lành, đồng trú một nơi. Nhờ chư vị phát đại tâm, trong vài năm qua, phục hưng đạo tràng Vân Cư, khổ nhọc vô vàn, thật rất đáng mến. Nay, khổ vì duyên trần sắp hết, không thể nối tiếp chư Tổ Sư phụng sự đạo tràng, nên phải làm lụy đến chư vị. Khi tôi mất, hãy quấn y màu vàng toàn thân, rồi ngày hôm sau nhập quan, để nơi phía tây trong am tranh này, rồi bỏ vào lò thiêu. Đốt xong, lấy tro của tôi tán nhuyễn thành bột, hòa cùng đường, muối, dầu. Nắn thành chín cục, rồi quăng xuống sông, để kết duyên với loài thủy tộc. Đây là ước nguyện của tôi, cảm ơn chư vị vô cùng…”

Chư hòa thượng đều an ủi Ngài. Ngài nói kệ:

“Đỉa cấp mạng cho tôm mà không nhảy xuống nước,

Tôi an ủi nước, phóng thân xuống sông

Nguyện cho ai thọ sự cúng dường

Đồng đăng bồ đề, độ chúng sanh.”

Lại nói thêm kệ:

“Thỉnh các pháp lữ,

Thâm ân tràn đầy

Hoặc nghiệp sanh tử

Như tằm tự quấn

Niệm tham không ngừng

Phiền não thêm khổ

Muốn trừ hoạn này

Bố thí trên hết

Tịnh xem ba học

Kiên trì bốn niệm

Thoạt nhiên hiểu được

Liền biết sương điện

Ngộ chứng chân không

Muôn pháp một thể

Không sanh có sanh

Là sóng là nước.”

 

Kệ thứ ba:

 

“Hỡi ôi, lão già bịnh

Chưa báo ân đầy đủ

Trí cạn nghiệp thức dầy

Thẹn chưa xong sự nghiệp

Vụng về trú Vân Cư

Kẻ tụng kinh chấp kệ

Xấu hỗ gặp Thế Tôn

Hội Linh Sơn chưa tan

Nầy hỡi chư hộ pháp

Thần Vi Đà tái thế

Trấn Tỳ Na chân phong

Thấy rõ thể mình người

Ngưỡng xem đấng Túc Tôn

Đá trụ trong dòng nước

Trẻ tuổi ỷ lời hay

Mạt pháp chúng sanh khổ

Có người làm hướng đạo

Tủi thân lụy hư danh

Hãy nhận rõ bến mê

Luôn hâm mộ Phật quốc

Hương quang cùng nhịp bước

Đây lưu bài kệ cuối

Tỏ rõ tận thâm tâm.”

Tháng tám, ngày sinh nhật của Ngài kề cận. Chư sơn trưởng lão trong và ngoài nước cùng chư đệ tử thiện tín, vào núi chúc thọ, thăm bệnh Ngài. Khi ấy, sức khoẻ và tinh thần Ngài phấn chấn đôi chút. Đệ tử Khoan Huệ từ Hồng Kông qua, cùng vài người, hầu chuyện với Ngài rất lâu.

Tháng mười, bịnh tình ngày một nguy kịch. Ngài bảo đồ chúng sửa sang lại tháp Hải Hội vừa mới xây cất. Mỗi mỗi đều như pháp mà sắp đặt. Đầu tiên đặt tượng Phật trong tháp để thờ cúng. Kế đến, tẩy tịnh phòng xá chư tăng. Chọn ra vài vị thay phiên sớm tối tụng kinh niệm Phật. Ngày mười, Ngài nhận được điện tín từ Bắc Kinh báo cho hay là đệ tử thâm tín, Lý Tể Thâm, đã tạ thế. Ngài than: “Lý Tể Thâm! Sao con đi sớm vậy. Thầy chắc cũng phải đi thôi!”

Thị giả nghe rõ, rất kinh hãi. Vài ngày, Ngài chưa bước xuống giường, hơi thở hổn hển khó nhọc, hầu như trong trạng thái hôn mê. Thị giả luôn túc trực kề cạnh. Mỗi lần mở mắt ra, Ngài bảo thị giả hãy ra ngoài.

Ngài nói: “Thầy tự lo liệu được rồi.”

Trưa ngày mười hai, Ngài bảo thị giả đem tượng Phật để trên quan tài, trong phòng bên cạnh. Thị giả biết có điều gì kỳ lạ, liền vội báo tin cho hòa thượng phương trượng cùng ba vị tăng tri sự. Tối đến, tất cả cùng vân tập vào vấn an, thỉnh Ngài vì pháp mà sống lâu dài. Ngài nói: “Sự việc xảy đến như thế này rồi. Chớ nên buồn khổ như người thế tục! Xin hãy cho người lên đại điện niệm Phật.”

Đại chúng thỉnh Ngài khai thị, dạy lời cuối cùng, và ban di chúc. Ngài đáp: “Vài ngày trước, tôi đã nói rõ cho đại chúng nghe những gì nên làm sau khi tôi mất. Nay, không cần nhắc lại, chỉ dư thừa thôi. Lại hỏi lời cuối cùng, tôi xin nhắc nhở chư vị lần cuối: “Cần tu giới định huệ. Tiêu diệt tham sân si.”

Lại nói thêm kệ:

“Chánh tâm chánh niệm

Tịnh dưỡng, xuất sanh tinh thần đại vô úy

Độ nhân độ thế!

Chư vị đã mệt nhọc. Hãy trở về phòng nghỉ ngơi.”

Đại chúng cáo từ đi ra. Khi đó, đêm đã khuya.

Địa thế Vân Cư rất cao. Mùa thu, gió lạnh buốt xương. Tiếng lá rơi lào xào khắp núi non. Cổ thụ cao vút chọc trời. Bóng cây hiện hình loạn xạ. Trong thất của Ngài chỉ có một ngọn đèn nhỏ như hạt đậu. Ngoài cửa, sương đọng như hạt châu. Trở vào am tranh, chỉ có một lão tăng đang nằm yên tĩnh trên giường. Nhìn xa xa qua đại điện, nghe tiếng chuông mõ hòa cùng lời kinh, tương tục vang lên, như để tiển Ngài đi vậy!

Ngày mười ba, hai vị thị giả vào thất, thấy Ngài đang ngồi tọa thiền như thường lệ. Hai gò má ửng hồng như hôm trước. Họ không dám khinh động và bước ra ngoài thất mà hầu. Đến mười hai giờ trưa, từ bên ngoài cửa sổ, nhìn thấy Ngài tự mình bước xuống giường, lấy nước uống, rồi cuối xuống như trạng lễ Phật. Thị giả sợ Ngài sẽ té quỵ xuống đất vì mang bịnh đã lâu, liền chạy vào thất. Ngài bèn ngồi xuống, bảo thị giả: “Thầy vừa mơ thấy một con trâu đạp gãy cầu Phật Ần, lại thấy dòng suối ngưng chảy!”, rồi nhắm mắt lại không nói lời chi. Chốt lát, Ngài mở mắt ra, nhìn xung quanh, bảo tiếp: “Các con theo hầu Thầy đã nhiều năm, khổ nhọc thật đáng thương. Những việc xưa không cần phải nhắc lại. Nhưng mười năm gần đây, ngày ngày Thầy phải chịu biết bao phong ba bão táp, hàm oan khổ lụy, cùng những lời hủy báng mắng nhiếc. Tất cả, Thầy đều cam tâm nhẫn nhịn, chỉ vì muốn bảo tồn đạo tràng Phật Tổ trong nước, vì mạch pháp mà giữ gìn Tổ Đức Thanh Quy, vì Tam Bảo mà giữ chặt chiếc đại y. Các con có biết không! Thầy đã thí mạng để tranh lại, bảo tồn chiếc đại y này. Các con đều là đệ tử nhập thất của Thầy, phải nên biết rõ những sự việc đã xảy ra. Sau này, nếu có lên núi cất am tu đạo, hay ra nước ngoài, phải nên kiên trì bảo vệ chiếc đại y này. Nhưng làm thế nào để giữ gìn được mãi mãi? Phải nên nhớ rõ một chữ ‘Giới’.”

Nói xong, Ngài nghiêm chỉnh chấp tay. Chư thị giả đều rơi lệ, lui ra ngoài cửa đứng hầu.

Đến một giờ bốn mươi lăm phút, hai người thị giả lại bước vào xem, thấy Ngài nằm thế kiết già mà thị tịch, nên họ vội báo cho hòa thượng trụ trì cùng đại chúng. Tất cả tăng chúng đều tề tựu nơi chánh điện, ngày đêm thay phiên nhau tụng kinh niệm Phật để cầu siêu Ngài.

Ngày mười tám, làm lễ nhập quan. Ngày mười chín, làm lễ trà tỳ. Khi ấy, đại chúng đều nghe mùi hương lạ bay khắp. Hỏa táng xong, một lằn khói trắng bay thẳng lên trời. Trong tro cốt, thâu lượm được hơn một trăm hột xá lợi, tinh khiết sạch trong, màu năm sắc, lớn nhỏ không đồng. Ngày hai mươi mốt, đại chúng thỉnh tro cốt của Ngài nhập vào tháp Hải Hội ở núi Vân Cư.

Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng Lạp được một trăm lẻ một tuổi.

Hết

Trang: 1 2 3 4