Biên Niên Tự Thuật Của Thiền Sư Hư Vân
Tên tục của tôi là Trai. Dòng họ xuất thân từ Lan Lăng là hậu duệ của vua Lương Võ Đế. Gia tộc cư ngụ tại tỉnh Hồ Nam, huyện Tương Lương. Cha tên Ngọc Đường, mẹ tên Nhan Thị. Năm đầu đời nhà Thanh, cha làm quan tại tỉnh Phú Kiến. Năm mậu tuất và kỷ hợi làm quan tại châu Vĩnh Xuân.
Cha mẹ đã ngoài bốn mươi mà chưa có mụn con. Mẹ ra ngoài thành nơi chùa Quán Ấm mà cầu tự. Bà thấy nóc chùa bị tàn phá hư hoại, lại thấy cầu Đông Quan nơi thành không ai sửa chữa nên phát nguyện trùng hưng kiến lập lại. Đêm nọ, cả cha lẫn mẹ đều nằm mơ thấy một vị mặc áo xanh, tóc dài, trên đỉnh đầu có tượng Bồ Tát Quán Thế Ấm, cưỡi hổ mà đến, nhảy lên trên giường. Mẹ kinh sợ, giật mình thức dậy, liền thọ thai. Cuối năm đó cha đi nhậm chức tại phủ Nguyên Châu.
Đời nhà Thanh, niên hiệu Đạo Quang năm thứ 20, 1 tuổi. (1840/41)
Tháng bảy ngày hai mươi, giờ dần, tôi ra đời tại phủ Tuyền Châu. Lúc ấy thân được bao bọc bởi một bọc thịt. Mẹ thấy vậy, kinh hãi vô cùng, nghĩ từ đây về sau chắc sẽ không còn hy vọng sanh con được nữa, nên buồn uất khí mà chết. Hôm sau, có ông lão bán thuốc đến cắt bọc thịt, bồng tôi ra. Kể từ đó được bà kế mẫu, Vương Thị, chăm sóc nuôi nấng.
(Đại sự trong năm: Chiến tranh nha phiến bùng nổ. Đề Đốc Tùng Đáo Từ cấm nha phiến. Đốt cháy kho nha phiến của người Anh. Nước Anh đem quân vào Quảng Đông)
Đời nhà Thanh, niên hiệu Đạo Quang năm thứ hai 22, 3 tuổi. (1842/43)
(Đại sự trong năm: Hòa ước Giang Kinh, mở năm cửa khẩu để thông thương cùng nước ngoài. Cắt Hồng Kông cho nước Anh.)
Đời nhà Thanh, niên hiệu Đạo Quang năm thứ 30, 11 tuổi. (1850/51)
Cha trở về Tuyền Châu. Được chú nhận làm con nuôi, nên bà nội, Châu Thị, định cưới hai cô vợ cho tôi, tức Điền Thị, và Đàm Thị. Cả hai đều là người tỉnh Hồ Nam, dòng dõi quan liêu tại Phúc Kiến, đời đời đã từng làm bạn thông giao với dòng họ tôi.
Đông năm ấy bà nội tôi qua đời. Cha thọ tang.
(Đại sự trong năm: Hồng Tú Toàn khởi nghĩa tại Kim Điền)
Hàm Phong nguyên niên, 12 tuổi. (1851/52)
Tháng hai, tôi cùng cha đi Đài Loan. Lên thuyền nhỏ ra biển, từ cửa Hạ Môn xuất phát. Lúc đang lênh đênh trên biển cả, bỗng đâu hiện ra một quái vật, lớn như núi, cao hơn mặt biển cả vài chục thước. Tất cả người trên thuyền thảy đều niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Ấm. Thuyền chạy khoảng nửa giờ sau thì thấy đuôi cá khổng lồ, dài không biết cả mấy trăm thước.
(Đại sự trong năm: Hồng Tú Toàn vây hãm Vĩnh An, xưng Thái Bình Thiên Quốc Thiên Vương)
Hàm Phong năm thứ 2, 13 tuổi. (1852/53)
Tôi theo cha đưa linh cữu bà nội trở về huyện Tương Lương an táng. Thỉnh chư tăng đến nhà làm Phật sự. Được thấy pháp khí Tam Bảo, tâm sanh vui mừng. Tạng sách trong nhà có kinh Phật. Lúc đầu xem truyện Hương Sơn, sự tích thành đạo của Bồ Tát Quán Thế Ấm, liền thâm nhiễm vào tâm. Tháng tám, theo chú đi Bồ Đường, hành hương ở Nam Ngạc. Đi lễ khắp các chùa, dường như có duyên xưa nên không muốn trở về nhà. Nhưng vì chú quá nghiêm nghị, nên không dám nói.
Hàm Phong năm thứ 3, 14 tuổi. (1853/54)
Cha biết tôi có chí xuất trần nên muốn dùng lợi lạc thế gian mà lưu giữ ở lại, bằng cách mời một vị tiên thiên đại đạo, Vương tiên sinh, đến dạy cách tu hành tại nhà. Vị này dạy đọc các sách đạo lão cùng luyện nội ngoại khí công. Tuy tâm tôi không muốn học, nhưng lại không dám nói. Mùa đông, cha giải tang bà nội xong, giao tôi cho chú dạy dỗ, coi sóc, rồi một mình đi Phúc Kiến để nhận chức tại Hạ Môn.
(Đại sự trong năm: Hồng Tú Toàn đóng đô tại Nam Kinh. Tăng Quốc Phiên làm tướng quân.)
Hàm Phong năm thứ 6, 17 tuổi. (1856/57)
Tôi học sách đạo giáo tại nhà trong ba năm, chịu nhẫn hết sức, như ngồi trên bàn đinh. Lại giả vờ làm cho chú vui, nên giúp việc nấu nướng trong nhà, nhưng rất biếng nhác. Ngày nọ, thừa lúc chú đi ra ngoài, tôi nghĩ thời điểm rời nhà đã đến nên xách bị trốn đi Nam Ngạc. Có rất nhiều đường lớn nhỏ, khó đi. Giữa đường, bị người nhà bắt đưa trở về Tuyền Châu. Cùng đi có người em họ tên là Phú Quốc. Chẳng bao lâu, cha cho tiếp rước hai cô họ Điền và Đàm để cử hành hôn lễ. Thế là tôi bị cấm cố tại nhà. Tuy cùng hai cô vợ ở chung nhà nhưng không nhiễm tình dục. Tôi giảng Phật Pháp cho hai cô vợ nghe. Họ cũng hiểu rõ. Thấy người em họ Phú Quốc cũng có chí xuất tục nên đồng học Phật pháp. Nơi phòng riêng hay nhà khách, chúng tôi đều là bạn đạo thanh tịnh.
Hàm Phong năm thứ 8, 19 tuổi. (1858/59)
Tôi quyết chí ly tục. Phú Quốc cũng đồng chung chí hướng. Chúng tôi bí mật xem lộ trình đến Cổ Sơn ở Phước Châu. Tôi làm bài ca Túi Da để lưu biệt hai cô họ Điền và họ Đàm. Sau đó cùng Phú Quốc trốn đi đến chùa Dõng Tuyền, Cổ Sơn, Phước Châu. Lễ lão hòa thượng Thường Khai làm thầy xuống tóc.
(Đại sự trong năm: Liên quân Anh Pháp vây hãm Đại Cô. Ký kết hòa ước Thiên Tân.)
Hàm Phong năm thứ 9, 20 tuổi. (1859/60)
Tôi theo hòa thượng Diệu Liên ở Cổ Sơn thọ giới cụ túc, pháp danh là Cổ Nham, cùng Diễn Triệt tự Đức Thanh. Lúc ấy, cha tại Tuyền Châu sai người đi khắp nơi để tìm tôi. Sau khi thọ giới cụ túc xong, Phú Quốc hành cước tham phương tầm thầy học đạo. Từ đó, không còn biết tông tích chi nữa. Tôi ẩn tại một hang động sau núi, lễ sám vạn Phật, không dám lộ diện. Lúc ấy thường gặp hổ sói, nhưng tâm không sợ sệt.
Đồng Trị nguyên niên, 23 tuổi. (1862/63)
Tại hang núi tôi lễ sám, đã mãn ba năm. Ngày nọ, vị chức sư ở Cổ Sơn lên cho hay rằng cha tôi nơi Tuyền Châu đã từ quan về hưu. Tôi không cần phải trốn lánh nữa. Lão hòa thượng Diệu Liên rất khen tôi hằng tâm tu khổ hạnh. Nhưng tu huệ cũng cần phải tu phước, phải nên trở về núi nhậm chức, làm việc. Sau đó, tôi liền trở về núi, nhận công việc.
(Đại sự trong năm: Quân Thường Thắng đánh bại quân Thái Bình. Việt Nam cắt miền Nam cho Pháp.)
Đồng Trị năm thứ 3, 25 tuổi. (1864/65)
Nhậm chức tại Cổ Sơn. Mùa đông, tháng mười hai, nghe tin cha vì bịnh nên đã qua đời tại huyện Tương Lương. Từ đó, không còn hỏi thăm tin tức gia đình, thư từ cũng không liên lạc.
(Đại sự trong năm: Hồng Tú Toàn uống thuốc độc tự tử. Thái Bình Thiên Quốc tan rã.)
Đồng Trị năm thứ 5, 27 tuổi. (1866/67)
Có người đồng hương đến cho hay rằng sau khi cha tôi mất, kế mẫu Vương Thị dẫn hai cô con dâu đi xuất gia làm ni sư. Bà Vương Thị với pháp danh là Diệu Tịnh. Cô Điền Thị pháp danh là Chân Khiết. Cô Đàm Thị pháp danh là Thanh Tiết.
Tôi nhậm chức tại Cổ Sơn đã mãn bốn năm. Công việc của tôi lúc ấy là nấu cơm, làm vườn, hành đường, điển tọa. Tất cả việc đều cực nhọc, nhưng không phiền lòng. Trong chùa, những khi phân phát đồ cúng dường cho chư Tăng, tôi đều không nhận lấy. Mỗi ngày chỉ ăn một bát cơm mà sức khoẻ vẫn tráng kiện. Lúc đó, trên núi có thiền sư Cổ Nguyệt, là vị tu khổ hạnh bậc nhất trong chúng. Tôi thường đàm đạo với Ngài. Nghĩ lại, đã nhậm chức mấy năm mà việc tu trì không có chút phần tiến bộ. Lại nhớ xưa kia, pháp sư Huyền Trang, mười năm trước khi qua Ần Độ thỉnh kinh, tự học ngôn ngữ Ần Độ, tập mỗi ngày đi trăm dặm, và nhịn ăn. Mới đầu một ngày rồi lần lần lên đến mười ngày, để chuẩn bị cho sau này phải đi qua những bãi sa mạc hoang vu, tuyệt không cỏ nước. Việc khổ hạnh của các bậc cổ đức là như thế. Tôi là người gì, sao lại không hành theo gương người xưa? Thế nên, tôi xin từ chức các công việc trong chùa, chia hết các vật dụng tư nhân, chỉ mang theo một y, một bát, một đôi vớ, một tấm bồ đoàn, một cái nón lá, rồi trở lại hang động trong núi mà tu hành.
Đồng Trị năm thứ 8, 30 tuổi. (1869/70)
Ba năm ở hang núi. Khi ấy, tôi sống rất đơn giản. Đói ăn đọt tùng lá dại, khát uống nước suối. Giày vớ ngày càng rách nát, chỉ còn lại một chiếc áo tràng che thân. Đầu quấn theo quyền Kim Cang, tóc dài cả mấy thước, đôi mắt sáng rực. Người ở xa nhìn thấy tưởng là yêu quái, đều bỏ chạy cả. Tôi cũng chẳng cùng người nói chuyện.
Ba năm đầu, lắm khi thấy cảnh giới tốt, mà không tự cho là kỳ lạ. Một lòng quán chiếu cùng niệm Phật. Trong hang sâu núi thẳm, hổ sói rắn trùng không hại. Không nhận sự thương hại, không ăn thức ăn nấu chín của người thế gian. Ngữa mặt nhìn trời, muôn sự đều nằm trong thân. Tâm rất an lạc, như vị trời ở cõi tứ thiền. Nghiệm biết, tai hoạn của thế nhân đều do thân miệng ý gây ra.
Cổ nhân nói rằng âm thanh của một bình bát vang xa hơn cả muôn ngàn tiếng chuông. Nay, tôi một bình bát cũng chẳng có, nên tự tại không ngại. Sức khỏe ngày càng tráng kiện. Tai mắt ngày càng tinh thông linh lợi. Đi nhanh như bay. Tự hỏi mình không biết sao được như thế! Tùy ý thích, có núi thì ở, có lá dại thì ăn. Đi từ nơi này sang nơi khác, như thế một năm trôi qua mà chẳng biết.
Đồng Trị năm thứ 9, 31 tuổi. (1870/71)
Ngày nọ, khi dừng chân nơi một ngọn núi ở Ôn Châu, thì bỗng đâu từ xa một thiền sư đi đến, đảnh lễ và hỏi: “Lâu nghe hạnh cao của Thầy, nên nay đến cầu xin chỉ dạy.”
Nghe thế, tôi cảm thấy vô cùng xấu hổ, liền đáp: “Tri thức ngu muội, thiếu sự tham học; ngưỡng vọng Thượng Tọa từ bi chỉ dạy.”
Hỏi: “Thầy hành hạnh này, đã bao nhiêu năm rồi?”
Tôi liền thuật lại những việc đã xảy ra trong những năm sống trong rừng núi.
Vị ấy bảo: “Tôi cũng chỉ tham học đôi chút, không thể chỉ dẫn gì được. Thầy nên đến núi Thiên Thai, Hoa Đảnh, am Long Tuyền, thỉnh vấn lão pháp sư Dung Cảnh. Vị ấy là người có đạo đức nhất ở núi Thiên Thai. Tất nhiên, sẽ chỉ những điều ích lợi cho Thầy.”
Nghe thế, tôi đi thẳng đến Hoa Đảnh ở núi Thiên Thai. Vừa đến một am tranh liền gặp một vị tăng, nên tiện dịp hỏi thăm chỗ của lão pháp sư Dung Cảnh.
Đáp: “Vị tăng mặc áo vá đằng kia là Ngài đó.”
Tôi liền đi thẳng đến và đảnh lễ. Lão pháp sư chẳng màng quay đầu lại. Tôi liền bạch: “Con nay đến đây hầu mong thân cận lão Pháp Sư. Vọng cầu vì lòng từ bi mà chiếu cố đến con.”
Pháp Sư xoay mình lại, nhìn tôi hồi lâu rồi hỏi: “Ông là Tăng, là đạo sĩ, hay là người thế tục?”
Đáp: “Con là Tăng.”
Hỏi: “Thọ giới cụ túc chưa?”
Đáp: “Bạch Pháp Sư! Con đã thọ giới rồi.”
Hỏi: “Ông tu hành với hình dạng như thế này lâu mau rồi?”
Tôi liền lược thuật lại sự tu hành của mình trong những năm vừa qua.
Hỏi: “Ai dạy ông tu như thế?”
Đáp: “Bạch Pháp Sư! Nhân thấy người xưa, ai nấy đều tu hành khổ hạnh mới đắc đạo, nên con cố học theo.”
Đáp: “Ông chỉ biết người xưa tu thân. Vậy ông có biết người xưa tu tâm như thế nào không? Thấy hình thể tu hành của ông như vầy, thật gần với ngoại đạo, chẳng phải là chánh đạo, uổng phí công phu tu hành cả mười năm. Ở rừng sâu núi thẳm, ăn đọt tùng uống nước suối, thọ mạng được trăm ngàn năm, bất quá chỉ là một trong mười loại tiên nhân như trong kinh Lăng Nghiêm thôi, cách đạo rất xa. Tiến lên một bước nữa là chỉ chứng được sơ quả, tự giải thoát. Nếu có tâm Bồ Tát, trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, tự độ cùng độ người, tu đạo xuất thế gian nhưng không rời pháp thế gian. Ông miễn cưỡng không ăn cơm, mặc quần không đáy, chưa nói là làm bộ khác thường kỳ dị; công phu quái dị như vầy mà năng thành phiến sao?”
Tôi bị lão Pháp Sư đánh một dùi như thế, đau nhức xương, nên đảnh lễ Ngài cầu chỉ dạy.
Pháp Sư nói: “Tôi dạy ông, nếu nghe thì ở lại, còn không nghe thì nên đi nơi khác.”
Đáp: “Bạch Pháp Sư! Con đến đây mong được thân cận gần gũi Ngài. Sao lại dám không nghe lời chỉ dạy!”
Lão Pháp Sư liền cho áo quần, rồi bảo đi cạo đầu, tắm gội sạch sẽ, phân công làm việc trong chùa. Lại dạy khán câu thoại đầu: ‘Ai là người đang mang thây chết này?’
Từ đó, tôi ăn cơm cháo lại, cũng học giáo quán của tông Thiên Thai. Siêng năng tu học làm việc nên được Pháp Sư khen ngợi.
Đồng Trị năm thứ 10, 32 tuổi. (1871/72)
Tại am Long Tuyền, hầu cận lão pháp sư Dung Cảnh, tâm được khai mở nhiều. Pháp Sư tuổi ngoài tám mươi, giới luật tinh nghiêm, tông giáo đều thông. Nhiều lần, Pháp Sư bảo tôi lên tòa giảng kinh cho những vị khách tăng đến am tham học.
Đồng Trị năm thứ 11, 33 tuổi. (1872/73)
Nghe theo lời dạy của Pháp Sư, tôi đến chùa Quốc Thanh tham học quy chế thiền môn và cũng đến chùa Phương Quảng học kinh Pháp Hoa.
Đồng Trị năm thứ 13, 35 tuổi. (1874/75)
Trên hai năm, học kinh giáo tại chùa Quốc Thanh, đôi khi cũng trở về am tranh, tham vấn hầu cận lão pháp sư Dung Cảnh.
Quang Tự nguyên niên, 36 tuổi. (1875/76)
Đến chùa Cao Minh nghe pháp sư Mẫn Hi giảng kinh Pháp Hoa. Xong, liền từ biệt lão pháp sư Dung Cảnh, không thể không lưu luyến. Đàm thoại cùng Ngài suốt cả mấy đêm. Sau đó trân trọng cáo biệt.
Xuống núi, đi ngang qua Tuyết Đậu, đến chùa Nhạc Lâm nghe giảng kinh A Di Đà. Xong, liền vượt biển đi tham bái núi Phổ Đà. Nương ở sau chùa qua năm mới. Lúc ở tại núi Phổ Đà, thường đi tham bái các chùa am tự viện.
Tháng mười, sóng triều đẩy dạt xác một con cá voi đến bãi cát Thiên Bộ. Thân cá dài cả trăm thước; mắt lớn như chậu kiểng. Ngư dân xẻ bụng ra thì thấy bên trong có một chiếc thuyền nhỏ, lại có tóc người cùng vòng xuyến v.v… Lại nữa, lúc sóng triều lên, tại động Triều Dương, hiện ra một con rồng, thân vàng sáng chói. Đuôi rồng cũng dài như đuôi cá voi. Rồng hiện ra như thế hồi sau thì biến mất.
Quang Tự năm thứ 2, 37 tuổi. (1876/77)
Từ núi Phổ Đà, tôi trở lại huyện Ninh Ba, đến chùa A Dục Vương, trả một tháng ba đồng tiền lệ phí ăn uống ngủ nghỉ. Tôi lạy xá lợi Phật hai năm để báo ân sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Sau đó, tôi đến chùa Thiên Đồng nghe giảng tông thông kinh Thủ Lăng Nghiêm. Từ Ninh Ba, tôi đi Hàng Châu, triều bái Tam Thiên Trúc cùng các thánh cảnh khác. Nơi Bán Sơn, tôi đến lễ hòa thượng Thiên Lãng cùng vị tăng tri khách Trương Tùng. Tôi ở tại chùa Tây Thiên Mục qua mùa đông. Trên đường từ Ninh Ba đến Hàng Châu thời tiết rất nóng nực. Vì thuyền nhỏ mà người đông, nên thanh niên cùng phụ nữ đều nằm la liệt. Nửa đêm, khi mọi người đang say giấc, tôi cảm giác như có ai đụng đậy thân mình, nên liền tỉnh dậy, thấy bên cạnh mình, một cô gái trần truồng. Tôi không dám nói, vội ngồi dậy, kiết già, trì chú. Cô ấy cũng chẳng dám động đậy. Nếu lúc ấy ngu muội, thì chắc hư bại rồi. Vì việc này, tôi có lời khuyên các vị tu hành rằng không thể không cẩn trọng trong những trường hợp như trên.
Quang Tự năm thứ 4, 39 tuổi. (1878/79)
Tôi đến chùa Thiên Ba, lễ hòa thượng Thanh Quang, rồi ở lại chùa qua đông.
Quang Tự năm thứ 5, 40 tuổi. (1878/79)
Tôi đến Tiêu Sơn lễ hòa Thượng Đại Thủy. Lúc ấy có đề đốc Cung Bảo, Bành Ngọc Đường trú ngụ tại chùa. Ông ta vì mến thích nên thường mời tôi đàm luận Phật Pháp cùng những cách tu hành vài ngày. Càng đàm luận, ông càng sanh thâm tâm cung kính.
Quang Tự năm thứ 6, 41 tuổi. (1880/81)
Tôi đến chùa Kim Sơn để thân cận hòa thượng Quán Tâm, Tân Lâm, Đại Định, v.v… Tọa thiền nơi chùa qua đông.
Quang Tự năm thứ 7, 42 tuổi. (1881/82)
Tôi đến chùa Cao Mân tại Dương Châu, lễ hòa thượng Lãng Huy. Tôi ở lại chùa qua đông. Thiền công rất tiến bộ.
Quang Tự năm thứ 8, 43 tuổi. (1882/83)
Hơn hai mươi năm cắt ái từ thân, xuất gia tu đạo, nhưng đạo nghiệp vẫn chưa thành, mãi phiêu du theo gió nghiệp. Tâm rất xấu hổ. Nay muốn báo ân sanh thành dưỡng dục của cha mẹ, nên định trở lại biển Nam Hải, núi Phổ Đà nơi hướng đông, rồi từ đó đi về hướng bắc núi Ngũ Đài mà lễ bái. Thế nên, tôi đến núi Phổ Đà, ở nơi đấy vài tháng, tu thiền tĩnh tọa; đôi khi thấy vài cảnh giới. Sau đó, tôi phát tâm hành hương triều bái đến núi Ngũ Đài, miền bắc.
Ngày đầu tháng bảy, từ am Pháp Hoa nơi núi Phổ Đà, tôi khởi hương, hành đi ba bước lạy một lạy. Triều bái trực chỉ thẳng đến núi Ngũ Đài. Lúc đó, phụ hương có bốn thiền sư: Biến Chân, Thu Nghi, Sơn Hà, và Giác Thừa. Sau khi qua biển, mỗi ngày hành bộ không nhiều. Giữa đường chúng tôi ngừng tại Hồ Châu. Sau khi đến Tô Châu, Thường Châu, bốn vị tăng đều từ từ thối lui, còn tôi vẫn lễ bái, hành ba bước một lạy. Khi đến Nam Kinh, tôi lễ tháp tổ Pháp Dung Ngưu Đầu. Sau đó, vượt sông, nghỉ tại chùa Sư Tử ỏ Phổ Khẩu qua năm mới.
(Đại sự trong năm: Pháp chiếm kinh thành Huế, Việt Nam.)
Quang Tự năm thứ 9, 44 tuổi. (1883/84)
Tôi lại bắt đầu khởi hương đi ba bộ một lạy nơi núi Sư Tử. Từ Tô Bắc tôi vào tỉnh Hà Nam, đi qua Phương Dương, Hào Châu, Hạo Lăng, Tung Sơn, chùa Thiếu Lâm, đến chùa Bạch Mã tại Lạc Dương. Ngày đi đêm nghỉ, gió mưa sáng tối, cứ như thế mà đi, cứ như thế mà lạy; khổ vui đói khát, không quên chánh niệm, nhất tâm xưng thánh hiệu Bồ Tát.
Tháng chạp, tôi lạy đến bến Thiết Tá nơi sông Hoàng Hà, đi qua lăng Quang Võ. Ngày đầu, ngủ tại lữ xá. Ngày thứ hai liền băng qua sông. Lúc ấy trời vừa sập tối nên không dám đi. Nơi ấy, bốn bề không người, không khói bếp. Trên đường lộ, có một lều tranh nhỏ, không người ở. Tôi tạm dừng chân nơi đây, kiết già thiền tọa. Tối đến, trời lạnh thấu xương, tuyết rơi dầy đặc. Hôm sau, mở mắt ra, thấy bốn bề đều trắng xóa như thế giới lưu ly, tuyết dầy cả thước, không còn thấy đuờng đi, không người qua lại, nên không biết đi đâu, chỉ ngồi trơ ra mà niệm Phật. Bụng đói da lạnh, chòi tranh không vách che, thu mình ngồi trong góc nhỏ. Tuyết rơi thêm nhiều, gió lạnh càng thâm, bụng càng thêm đói, chỉ còn hơi thở, nhưng chánh niệm không mất. Một ngày, hai ngày, ba ngày, tuyết vẫn rơi như thế, giá lạnh cũng như thế, bụng đói vẫn như thế; từ từ nhập vào trạng thái hôn mê. Trưa ngày thứ sáu, tuyết ngừng rơi, thấy bóng mặt trời mờ mờ, nhưng vì đã lâm bệnh nên không đứng dậy được. Sáng ngày thứ bảy, có một người ăn xin đến, thấy nằm trên tuyết, hỏi han vài câu, nhưng tôi không thể trả lời được. Biết nhuốm bệnh nặng, nên ông gạt tuyết ra, lấy rơm nhóm lửa, nấu cháo bằng gạo vàng cho tôi ăn. Ắn xong, mình toát mồ hôi, khí lực bình phục lại.
Ông hỏi: “Ngài từ đâu đến đây?”
Đáp: “Thưa, tôi từ núi Phổ Đà, Nam Hải đến.”
Hỏi: “Vậy Ngài đi đâu?”
Đáp: “Thưa, tôi triều bái đến núi Ngũ Đài.”
Tôi hỏi lại danh tánh của ông. Ông đáp: “Tôi họ Văn, tên Cát.”
Tôi lại hỏi: “Vậy Ngài đi đâu?”
Đáp: “Tôi từ núi Ngũ Đài, nay trở về Trường An.”
Hỏi: “Từ núi Ngũ Đài đến, vậy ông có biết hết chư tăng ở đó không?”
Đáp: “Trên đó, ai ai cũng biết tôi cả!”
Hỏi: “Từ đây đến núi Ngũ Đài, tôi phải đi qua những vùng nào?”
Đáp: “Ngài phải đi qua Bồng Huyện, Hoài Khánh, Hoàng Sơn Lĩnh, Tân Châu, Thái Tục, tỉnh Thái Nguyên, Đại Châu, Nga Khẩu, tức đến núi Ngũ Đài. Khi tới Bí Ma Nham, nơi đó, sẽ gặp một vị tăng từ miền Nam lên, tên Thanh Nhất, là bậc tu hành rất thâm cao.”
Tôi hỏi tiếp: “Từ đây đến núi lộ trình bao xa?”
Đáp: “Hơn hai ngàn dặm.”
Hôm sau, khi mặt trời vừa lên, ông nấu cháo gạo vàng với tuyết. Thấy tuyết đang tan thành nước trong nồi, ông chỉ tay vào và hỏi: “Ở Nam Hải có vật này không?”
Đáp: “Thưa, không.”
Hỏi: “Vậy Ngài uống bằng gì?”
Đáp: “Thưa, tôi uống bằng nước.”
Khi tuyết trong nồi đã tan, ông lại chỉ tay vào nước, hỏi: “Vậy chứ đây là gì?”
Tôi không trả lời đuợc.
Ông hỏi tiếp: “Ngài đi lễ lạy danh sơn để mong cầu điều chi?”
Tôi đáp: “Khi vừa sanh ra thì không còn thấy mẹ. Thế nên, nay muốn lễ lạy để báo ân sanh thành của mẹ hiền.”
Hỏi: “Vai mang hành lý, đuờng xa trời lạnh, bao giờ Ngài mới đến được núi Ngũ Đài? Khuyên Ngài chớ bái lạy làm chi.”
Đáp: “Thệ nguyện đây đã định trước rồi, thì không cần hỏi chi năm tháng ngắn hay dài.”
Bảo: “Thệ nguyện như Ngài khó mà lập được. Hiện nay thời tiết tốt, nhưng tuyết vẫn chưa tan, không thể tìm đường nào được. Thế nên, Ngài hãy theo dấu chân tôi mà đi. Khoảng hai mươi dặm sẽ gặp núi Tiểu Kim. Thêm hai mươi dặm nữa sẽ đến Bồng Huyện; nơi đó sẽ có chùa mà nghỉ ngơi.”
Sau đó chúng tôi chia tay, tạm biệt. Nhân vì tuyết dầy không thể lạy, nên chỉ quay lưng lại, lễ bước chân của mình. Đến núi Tiểu Kim tôi nghỉ qua đêm. Hôm sau, khởi hương đi qua Bồn Huyện. Từ Bồn Huyện đi đến Hoài Khánh. Trên đường đến chùa Hồng Phước, có một lão hòa thượng tên là Đức Lâm, thấy tôi lễ lạy trên đường, liền đến cầm phụ cây hương và nói: “Thỉnh Thượng Tọa vào chùa nghỉ ngơi.”
Sau đó, lại bảo đệ tử mang hành lý của tôi vào chùa, ân cần tiếp đãi. Ắn cơm uống trà xong, Hòa Thượng hỏi: “Thượng Tọa bắt đầu từ nơi nào khởi hương lễ bái?”
Tôi liền kể sơ lại rằng vì muốn báo đáp thâm ân của cha mẹ nên từ núi Phổ Đà khởi hương lễ lạy đến nơi đây, đã hơn hai năm trường.
Đang khi đàm đạo, biết tôi xuất gia tại Cổ Sơn, lão Hòa Thượng bất giác rơi lệ mà nói: “Tôi có hai huynh đệ đồng tu từ Hành Dương và Phước Châu đến. Cả ba chúng tôi đều hành hương lên núi Ngũ Đài, đồng ở lại đây ba mươi năm trường. Sau đó, họ chia tay với tôi để trở về quê quán. Từ đó bặt tăm tin tức. Nay nghe giọng nói Hồ Nam của Thượng Tọa, lại cũng là Phật tử Cổ Sơn, chợt như gặp được huynh đệ đồng tu thuở xưa, bất giác động niệm. Tôi nay đã ngoài tám mươi lăm. Chùa đây vốn đầy đủ gạo lúa, nhưng năm rồi giảm thiểu đôi chút. Tuyết rơi nhiều như vầy, chắc năm tới sẽ thu hoạch khá hơn. Thượng Tọa có thể ở lại.”
Vì lòng chí thành khẩn thiết của lão Hòa Thượng, nên tôi miễn cưỡng lưu trú lại chùa qua năm.
Quang Tự năm thứ10, 45 tuổi. (1884/85)
Mồng hai tháng giêng, từ chùa Hồng Phước tôi khởi hương lễ bái. Đến phủ Hoài Khánh rồi trở lại chùa nghỉ qua đêm. Mồng ba, tôi trân trọng từ biệt lão hòa thượng Đức Lâm. Hôm đó, đến phủ, thành nội tên là Tiểu Nam Hải. Vì không biết nghỉ qua đêm nơi nào, nên tôi ra ngoài thành ngủ bên lề đường. Tối đó, bụng đau kịch liệt. Sáng ngày mồng bốn cũng cố lễ bái. Chiều đến, thân bị cảm lạnh. Mồng năm, bắt đầu bị kiết lỵ, nhưng những ngày kế cũng rán lễ lạy. Ngày mười ba đến Hoàng Sa Lĩnh. Trên đỉnh núi có một ngôi miếu hoang tàn, không mái nóc. Khi đến đó, tôi kiệt sức, không thể đi xin thức ăn được. Ngày đêm đi cầu cả chục lần, không sức khởi động. Vì am miếu ở tại đảnh núi, không người qua lại, chỉ nhắm mắt chờ chết mà thôi, nhưng thâm tâm không hề hối hận. Khuya ngày mười lăm, chợt thấy bên dưới phía tây miếu có ai đang đốt lửa, nghi là ăn trộm, nhìn kỹ lại thì nhận ra người ấy chính là Văn Cát lúc trước, thâm tâm mừng rỡ, liền gọi: “Tiên sinh Văn Cát.”
Ông liền cầm đuốc tới và hỏi: “Đại Sư Phụ! Sao Ngài vẫn còn ở đây?”
Tôi kể lại cho ông nghe những việc đã xảy ra. Ông liền ngồi xuống bên cạnh, an ủi và đưa một chung nước cho tôi uống. Đêm đó, gặp được Văn Cát, thân tâm rất thanh tịnh. Ngày mười sáu, Văn Cát đem y phục dơ bẩn của tôi ra giặt giũ, lại cũng cho một chén thuốc để uống. Ngày mười bảy, bịnh thuyên giảm rất nhiều. Sau khi ăn hai chén cháo gạo vàng thì ra mồ hôi nhuể nhại. Ngày mười tám thì khỏi bịnh. Tôi cảm tạ Văn Cát, nói: “Hai lần nguy hiểm, đều nhờ Tiên sinh cứu tế, cảm ơn bất tận.”
Văn Cát đáp: “Chỉ là việc nhỏ thôi.”
Tôi lại hỏi: “Bây giờ Tiên sinh đi đâu?”
Đáp: “Trở lại núi Ngũ Đài.”
Tôi nói: “Tôi vẫn còn bịnh, lại phải lễ bái, không thể theo kịp Tiên sinh được.”
Đáp: “Xem Ngài từ tháng chạp đến giờ, lễ lạy trên đường không được nhiều cho lắm. Vậy đến năm nào mới tới! Sức của Ngài cũng không được khỏe, chắc khó mà lễ lạy. Do đó, không nhất định phải lễ lạy, triều bái lên Ngũ Đài.”
Đáp: “Tiên sinh có ý tốt, tôi rất cảm ơn, nhưng vì lúc chào đời không nhìn được mẹ mình. Mẹ vì sanh ra tôi nên mới qua đời. Còn cha chỉ được một mụn con, mà tôi lại bỏ trốn đi tu. Do đó, cha từ quan, buồn rầu nên giảm tuổi thọ mà mất. Trời cao lồng lộng, ân cha nghĩa mẹ bao la. Bao năm trằn trọc không an, nên nay mới phát nguyện triều bái, cầu Bồ Tát gia hộ, nguyện cho cha mẹ được thoát khổ, sớm sanh về cõi tịnh độ, thì chẳng quản chi trăm ngàn gian lao trước mắt. Nếu không đến được thánh cảnh, thì chết cũng không dám thối nguyện.”
Văn Cát nói: “Tâm thành hiếu thảo kiên cố của Ngài thật rất khó lập. Nay tôi trở về núi, cũng không gấp chi. Tôi muốn phụ mang hành lý trên đường để Ngài dễ dàng lễ lạy, bớt đi sầu khổ, tâm không sanh hai niệm.”
Tôi đáp: “Nếu thế, công đức của Tiên sinh thật lớn vô cùng. Lễ bái đến Ngũ Đài, nguyện đem công đức này, phân nửa hồi hướng về cho cha mẹ sớm chứng đạo Bồ Đề, phân nửa xin hồi hướng đến Tiên sinh để báo đền ơn cứu mạng. Vậy thưa có được không?”
Đáp: “Ngài thật là người con hiếu thảo, còn tôi chỉ thuận tiện mà giúp. Không dám nhận lời cảm tạ.”
Sau đó Văn Cát lo cho tôi cả bốn ngày liền. Bịnh tình thuyên giảm rất nhiều.
Ngày mười chín, tuy còn yếu nhưng tôi vẫn khởi hương lễ bái. Việc mang hành lý và ăn uống có Văn Cát lo giùm. Bao vọng tưởng trong đầu đều chợt ngừng. Ngoài không việc phiền lụy. Trong không vọng niệm; bịnh ngày càng thuyên giảm, sức khỏe ngày càng tăng. Từ sáng đến tối, đi lễ lạy được khoảng bốn mươi dặm, nhưng không cảm giác mệt nhọc. Tháng hai, đến chùa Ly Tướng huyện Thái Tục, vị tăng tri khách thấy, liền chào. Sau đó quay đầu lại nhìn Văn Cát và hỏi tôi: “Vị này là ai?”
Tôi thuật lại đầu đuôi sự việc xảy ra trên đường. Nghe xong, tăng tri khách liền nổi giận, bảo: “Ra ngoài hành cước, không biết thời cuộc. Năm nay đất bắc nghèo khó, vậy triều bái núi gì? Thầy chắc là một đại lão quan, mới có người theo hầu cận. Nếu muốn hưởng phước, cần gì phải ra ngoài đi như vầy. Thầy xem có chùa nào mà có người thế tục xách bị theo hầu không?”
Nghe lời khiển trách như thế, tôi không dám đáp lời lại. Tôi nhận lỗi mình và cáo từ. Tăng tri khách bảo: “Vô lý! Tự tiện đến, vậy ai bảo Thầy đi?”
Nghe lời trước ngược lời sau, tôi đáp: “Thỉnh tiên sinh Văn Cát đến trọ tại lữ quán, còn tôi xin làm phiền Ngài nghỉ lại đây một đêm. Vậy, thưa có được không?”
Tăng tri khách đáp: “Vậy cũng được.”
Văn Cát bảo: “Từ đây đến Ngũ Đài cũng không còn xa lắm. Tôi sẽ trở về trước, còn Ngài cứ từ từ mà đi. Hành lý của Ngài, không lâu sẽ có người mang lên núi dùm.”
Tôi cố giữ Văn Cát lại nhưng không được. Lại đưa tiền cho, Văn Cát cũng không nhận. Vội từ biệt mà đi. Sau đó, tăng tri khách đổi sắc mặt vui vẻ, mang đồ của tôi vào chùa, đi ra nhà bếp nhúm lửa nấu trà luộc bún. Ngạc nhiên trước thái độ ấy, tôi nhìn bên phải trái, chẳng thấy một ai, liền hỏi: “Thưa Thầy, trong chùa đây tăng chúng nhiều ít?”
Đáp: “Mấy năm trước, tôi ở bên ngoài sông Giang, rồi trở lại đây nhận chức trụ trì. Nơi nầy liên tiếp bị thất mùa, nên mọi người đi hết, chỉ còn lại mình tôi. Lương thực chỉ có bún miến như vầy thôi. Vừa rồi, ngoài cửa, tôi chỉ nói đùa thôi. Xin Thầy đừng để trong lòng.”
Tôi nghe lời này, buồn bực cả chục phần, chẳng nói gì được, miễn cưỡng nuốt nửa tô bún, rồi liền cáo từ. Thầy tri khách đây cố giữ lại, nhưng tôi không có lòng gì để đáp ứng. Tôi liền đi đến lữ quán tìm kiếm Văn Cát, nhưng không gặp. Lúc ấy, là mười tám tháng tư, tuy trời tối nhưng trăng tỏ. Vì muốn đuổi kịp Văn Cát, nên tôi lễ lạy trong đêm hôm luôn, hướng về phủ Thái Nguyên mà khởi hương. Vì nóng lòng gấp gáp, nên ngày hôm sau máu từ mũi chảy ra không dừng. Hai mươi ngày kế, đến chùa Bạch Vân tại Hoàng Độ Câu. Vị tăng tri khách thấy mũi miệng tôi ra máu nên không cho tạm trú, chỉ miễn cưỡng cho nghỉ qua đêm. Sáng ngày hai mươi mốt, đi vào thành Thái Nguyên, đến chùa Cực Lạc, nuốt phải những lời chửi mắng, không được cho nghỉ qua đêm. Sáng ngày hai mươi hai, ra ngoài thành lễ bái. Nơi cửa bắc, gặp một thầy trẻ tên là Văn Hiền. Thấy tôi, liền đến gần, cầm giúp hương và mang phụ hành lý, rồi mời vào chùa nghỉ ngơi. Quí mến kính trọng như người thân. Dẫn tôi vào phòng phương trượng, tiếp đãi cơm nước; đàm đạo một hồi rồi tôi liền hỏi: “Tuổi thầy chắc chỉ ngoài hai mươi, lại hình như là người ngoài tỉnh, làm thế nào mà được trụ trì nơi đây?”
Đáp: “Bạch Thượng Tọa! Cha của con làm quan nơi đây đã nhiều năm, nhậm chức tại phủ Bình Dương, bị gian thần hãm hại. Mẹ vì vậy uất khí mà mất. Con nuốt lệ xuất gia. Quan thân sĩ thứ nơi đây, biết gia cảnh, nên thỉnh con về trụ trì chùa này. Con chỉ cố gượng ở lại, vì lúc nào cũng muốn rời chỗ này. Nay được chiêm ngưỡng đạo phong oai đức của Thượng Tọa, tâm rất kính phục. Thỉnh Ngài ở lại nơi đây lâu dài để con được dịp hầu cận.”
Tôi thuật lại nguyên do phát nguyện lễ bái. Thầy trụ trì này tâm càng thêm cung kính tin phục, cố lưu giữ tôi lại cả mười ngày. Sau đó tôi tiếp tục lên đường lễ bái. Thầy cúng dường y phục cùng tiền lệ phí, nhưng tôi đều không nhận. Thầy cầm phụ hương, tiển tôi đi cả hơn mười dặm, rơi lệ từ biệt. Lúc ấy là mồng một tháng năm. Tôi hướng thẳng đến Hân Châu.
Sáng nọ, đang lúc lễ lạy trên đường, đằng sau tiến đến một cỗ xe ngựa, đi hoãn lại mà không vượt qua mặt. Tôi biết nên lánh qua một bên. Từ trên xe ngựa bước xuống một vị quan, đến gần liền hỏi: “Tại sao Đại Sư lạy trên đường như vầy?”
Tôi thuật sơ qua lời phát nguyện của mình. Vị quan đây cũng là người Hồ Nam. Tôi cùng Ngài đàm luận rất hợp ý.
Vị Quan nói: “Như vầy, tôi hiện đang trú tại chùa Bạch Vân, nơi Nga Khẩu. Ngài triều bái đến Ngũ Đài thì phải đi ngang qua đó. Hành lý của Ngài đây, tôi sẽ mang lên đó trước.”
Tôi cảm tạ xong, vị quan trở lên xe rồi đi khuất.
Mỗi ngày vẫn lễ bái như thường, không còn bị trở ngại chi nữa. Giữa tháng năm, tôi lạy đến chùa Bạch Vân, gặp viên quan cai quản doanh trại, người mang hành lý dùm tôi hôm trước. Ngài thấy tôi đến liền ra nghinh tiếp, mời vào doanh trại nghỉ ngơi, ân cần ưu đãi. Tôi nghỉ ở nơi đây ba ngày, sau đó cáo từ. Vị quan ấy cúng dường tiền lộ phí cùng lễ vật nhưng tôi không nhận. Thế nên, vị quan ấy phái quân lính mang hành lý của tôi cùng tài vật cúng dường đến chùa Hiển Thông.
Tôi khởi hương lễ bái đến núi Khuê Phong, Bí Ma Nham, Sư Tử Oa, Long Động, cùng các nơi khác. Kỳ tích nước non, tả không thể hết. Vì bận lễ bái, nên không thể nhìn xem rõ ràng. Cuối tháng năm đến chùa Hiển Thông, lấy hành lý do quân lính mang lên mấy ngày trước. Khi tới chùa Hiển Thông, việc trước nhất là đến các chùa am tự viện kế cận dâng hương lễ bái. Đi khắp nơi hỏi thăm tung tích Văn Cát, không ai biết cả. Sau đó, thuật lại sự tình nguyên do cho một lão tăng nghe. Lão tăng ấy liền chắp tay nói: “Đó là hóa thân của Bồ Tát Văn Thù vậy.”
Tôi liền đảnh lễ cảm tạ Bồ Tát.
Ngày hai mươi hai, khởi hương. Hai ngày sau, lạy qua Đông Đài. Đêm tối, trăng thanh sao sáng, tôi lạy đến một ngôi thất bằng đá rồi dâng hương cùng lễ bái, tụng kinh, ngồi thiền một tuần trong thất. Sau đó xuống núi, lạy qua hang Na La Diên. Lương thực hết. Mồng một tháng sáu, trở về chùa Hiển Thông. Ngày hôm sau, khởi hương, lên đỉnh Hoa Nghiêm ở qua đêm. Ngày thứ ba, lạy qua Bắc Đài, rồi nghỉ qua đêm tại Trung Đài. Ngày thứ tư, lạy qua Tây Đài nghỉ qua đêm. Ngày thứ năm, trở về chùa Hiển Thông. Ngày thứ bảy, lạy qua Nam Đài và đả thiền thất nơi đây. Ngày mười lăm, trở về chùa Hiển Thông, tham gia đại hội Phật giáo vào tháng sáu. Đến đây lời nguyện bái hương ba bước một lạy trong ba năm để cầu cho cha mẹ được siêu thoát đã hoàn mãn.
Trong ba năm, trừ những lúc bị bịnh hoạn, gió mưa sương tuyết cản trở, không thể lễ lạy bên ngoài, còn trong mọi thời, tôi luôn nhất tâm chánh niệm. Lễ lạy trên đường, gặp bao gian nan, nhưng tâm luôn vui vẻ. Mỗi lần xét lại tâm mình, hể càng gặp khổ bao nhiêu thì tâm càng an lạc bấy nhiêu. Vì thế mới hiểu được lời của cổ nhân nói rằng nếu tiêu bớt một phần tập khí thì được một phần sáng suốt. Nhẫn được mười phần phiền não thì chứng được ít phần bồ đề.
Lại nữa, trên đường có rất nhiều danh lam thắng cảnh. Từ núi Phổ Đà đến Giang Triết, Trung Châu, Hoàng Hà, Thái Hành, thắng địa danh sơn nhiều kể không thể hết. Hồi ký du lịch xưa nay, miêu tả rất tường tận, nhưng nếu thân không đến những nơi đó thì không thể cảm nhận rõ ràng. Như thánh cảnh Thanh Lương tại Ngũ Đài, nơi Bồ Tát Văn Thù thường phóng quang. Lại có những dãy núi thẳng sừng sửng cao ngàn thước, tuyết phủ ngàn năm; những cây cầu đá, lầu các treo lơ lững trên không, khó tìm thấy được những nơi khác.
Trong lúc tôi đang bái hương, ba bước một lạy, không thể nhìn xem thưởng thức được những thắng cảnh nầy. Khi nguyện lễ lạy đã xong thì cũng là lúc đến tại những chỗ đó. Tôi không muốn để cho thần núi cười tánh hiếu kỳ của mình.
Đại hội Phật giáo kết thúc, tôi lên đảnh Đại Loa, lễ lạy những ánh đèn Trí Huệ. Đêm thứ nhất, không thấy chi cả. Đêm thứ hai, thấy bên đỉnh Bắc Đài có một chùm lửa, bay qua Trung Đài rồi rơi xuống, từ một chùm lửa to mà phân ra cả chục chùm lửa bé, lớn nhỏ không đồng. Đêm thứ ba, lại thấy bên Trung Đài, trên không trung xuất hiện ba chùm lửa sáng rực, bay lên bay xuống. Nơi Bắc Đài cũng hiện ra bốn chùm lửa, lớn nhỏ không đồng. Mồng mười tháng bảy, tôi bái tạ Bồ Tát Văn Thù xong, liền trở xuống núi. Từ đình Hoa Nghiêm đi về hướng bắc, đến Đại Doanh, phía nam của Hồn Nguyên, qua Bắc Ngạc ở Hằng Sơn; lên thẳng khẩu Hổ Phong có một tảng đá ghi khắc rằng đây là ngọn núi đầu tiên ở phương bắc. Đi vào miếu trên đó thì thấy những tầng cấp cao vời vợi như lên tận trời xanh, cùng cả rừng đá thạch. Lễ xong, tôi liền xuống núi, đến phủ Bình Dương, thăm hang động tiên nhân Nam Bắc; hướng về phía nam của thành có miếu vua Nghiêu rất hùng tráng và mỹ lệ. Trở về hướng nam, đến Bồ Châu, Lô Thôn, lễ miếu Hán Thọ Hưởng Hầu; qua sông Hoàng Hà, vượt Đổng Quan, vào đất Xiểm Tây, đến Hoa Ầm; lên núi Thái Hoa, lễ miếu Hoa Sơn Tây Ngạc. Vòng qua Thiên Xích Tràng, eo đất Bá Xích, tới Lão Quân Lê Câu, đến tham quan các danh lam thắng cảnh khác. Tôi nghỉ tại những nơi đó tám ngày. Tôi rất ngưỡng mộ hai vị Thánh Tề Gi.
Lại qua núi Thủ Dương, tới chùa Quán Ấm ở Hương Sơn thuộc phía tây nam tỉnh Xiểm Tây, xem phần mộ của Trang Vương; vào tỉnh Cam Túc, đến chùa Bình Lương, núi Không Động. Gần cuối năm, tôi trở về Hương Sơn ở qua năm mới.
Quang Tự năm thứ 11, 46 tuổi. (1885/86)
Mùa xuân, tôi rời chùa Hương Sơn, đi về hướng tây, đến ải quan Đại Khánh, vào đất Xiểm Tây, qua Diệu Châu, Tam Nguyên, tới Hàm Dương xem cây cổ thụ Cam Đường của Triệu Bá; thăm đất Trường An nơi tường thành hùng vĩ, vẫn còn nhiều di tích lịch sử. Phía đông bắc ngoài thành có chùa Từ Ấn, trong chùa có tháp Đại Nhạn được cất cao bảy từng, cùng bia đá đời nhà Đường và bia Cảnh Giáo Đại Tần. Trước cung Phủ Học là một rừng bia đá, có hơn bảy trăm loại khác biệt. Phía đông của thành có cầu Ba Kiều, rộng khoảng bảy mươi hai thước, cũng có lâu trạm, nơi khách qua đường thường gặp mặt, hẹn hò. Sau khi dừng lại cửa ải Dương Quan, tôi đến chùa Hoa Ngiêm, lễ tháp hòa thượng Đỗ Thuận, tháp quốc sư Thanh Lương. Qua chùa Ngưu Đầu, Hưng Quốc lễ tháp pháp sư Huyền Trang. Tiếp tục, đến núi Chung Nam phía đông Ngũ Đài, có chùa Bảo Tạng; Bạch Thủy Lương nơi sườn núi Hương Cổ, tại đây có hai vị thánh tăng ẩn tu. Tới động Ngân Đồng ở Gia Ngũ Đài, là chỗ ẩn tu của tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm. Sau đó, đến phía nam Ngũ Đài, gặp chư đại hòa thượng Giác Lãng, Trị Khai, Pháp Nhẫn, Thể An, Pháp Tánh, đang kết am tranh tọa thiền nơi đây. Chư vị giữ tôi ở lại. Pháp Nhẫn trụ tại Lão Hổ Oa, Trị Khai ở Xả Long Xuân. Pháp Tánh trú tại động Tương Tử. Tôi cùng Giác Lãng đồng ở tại am tranh lớn. Sáng sớm mồng một tháng ba, nơi sau chánh điện, tôi chợt thấy chòm sao Thiên Chửu bay loạn xạ trên không trung, hồi lâu mới mất. Không biết đó là điềm gì.
(Đại sự trong năm: Chiến tranh Trung-Pháp bùng nổ. Việt Nam ký hòa ước cắt nước cho Pháp.)
Quang Tự năm thứ 13, 48 tuổi. (1887/89)
Trên hai năm, kết am tranh tại phía nam Ngũ Đài, cùng chư tăng tham cứu tu hành, được lợi ích rất nhiều. Tháng hai, xuống núi, đến lễ chùa Hoàng Dụ tại núi Thúy Vi; lại qua chùa Tịnh Nghiệp tại núi Hậu An lễ tháp Tuyên Tổ thuộc phái Luật Tông, và đến chùa Thảo Đường lễ đạo tràng của pháp sư Cưu Ma La Thập. Kế, đến núi Thái Bá, cao cả một trăm lẻ tám dặm, tuyết vẫn chưa tan trong mùa hè. Lại qua chùa Nhị Bản, Đại Bản; lên đỉnh Hoa Trì nơi có mạch nước phân thành bốn dòng; đến trấn Tử Ngưu, qua phủ Hán Trung nơi Hán Cao Tổ lạy tướng mình. Tới miếu Chư Cát tại Bao Thành, thăm đèn vạn năm của Trương Phi, cùng các danh lam thắng cảnh khác. Đi xa, vượt Long Động Bối, ải quan Thiên Hùng, tiểu Nga Mi, ải quan Kiếm Môn, chùa Bát Bồng, ải quan Bạch Mã, thăm mộ phần vua Bàng Thống, miếu Văn Xương tại huyện Tử Đồng tỉnh Tây Xuyên. Trên đường, đi qua núi Thất Khúc, suối Cửu Khúc, ải Kiếm Môn nơi mà chót núi bị cắt làm đôi, hai vách đá thẳng như lưỡi kiếm. Sử ghi rằng có một vị tướng quân giữ ải, đánh tan đạo quân cả mười ngàn người. Ở trên có thành Khương Duy, tức nơi đóng binh của Bá Ước thuở xưa. Cầu treo khó đi, như lên trời xanh. Thật lời của người xưa không hư dối. Đến Quảng Hán phía nam huyện Tân Bộ, tại chùa Bảo Quang nghỉ qua năm mới. Năm ấy, khi vào đất Tây Xuyên, đơn độc hành bộ, ba y một bát, chẳng chi phiền lụy, thanh thản an nhàn với cảnh non nước, khiến thân tâm lắng đọng.
Quang Tự năm thứ 14, 49 tuổi. (1888/89)
Tháng giêng, từ chùa Bảo Quang, khởi hành vào tỉnh Thành Đô, lễ chùa Chiêu Giác, viện Văn Thù, chùa Thảo Đường, cung Thanh Dương; qua Hoa Dương, Song Lưu, hướng về phía nam đến huyện Mi Sơn, huyện Hồng Nhã. Tới chân núi Nga Mi, từ chùa Phục Hổ, động Cửu Lão qua Sơn đảnh của núi Nga Mi lễ hương. Đêm đến, thấy Phật quang; muôn ngàn đóm lửa sáng rực như một giải ngân hà trên trời. Thắng cảnh như thế, tả không thể hết. Nơi chùa Bảo Quang, tham kiến lão hòa thượng Ứng Chân, rồi trú tại chùa mười ngày. Sau đó, qua chùa Vạn Niên, lễ điện Phật Tỳ Lô Xá Na. Xuống núi, đến Nhã Châu, qua huyện Huỳnh Kinh, vào Lô Định. Tới đây là biên giới của tỉnh Tây Xuyên. Tháng năm, băng qua sông Lô. Trong huyện Nhã An có sông Đại Độ rộng cả ba dặm; bắc ngang sông là cầu dây Lô Định. Người đi trên cầu này phải rất cẩn thận vì cầu thường đong đưa lắc lư. Đi về hướng tây, qua Đả Tiến Lô, Lý Đường, Ba Đường. Lên phía bắc, đến Sát Mộc Đa tức Xương Đô. Qua hướng tây tới Thạc Đốc; đi ngang A Lan Đa và Lạp Lý. Nơi đây đất rộng người thưa, đủ chủng tộc như người Hoa, Tây Tạng, Mông Cổ, v.v… Ngôn ngữ khác biệt, Người biết tiếng Hoa chỉ vài ba trăm. Tại Lý Đường có ngọn núi thần Công Cát là vùng đất thánh của Phật tử người Tây Tạng. Ba Đường là vùng núi cao hiểm trở. Sát Mộc Đa có nhiều sông ngòi. Các chủng tộc phần lớn theo Lạt Ma Giáo. Từ Lạp Lý đi về hướng nam đến Giang Đạt; vượt qua vùng này tức đến biên giới Tây Tạng.
Tôi vào đất Tây Tạng, đến Điểu Tô Giang, băng ngang sông Lạp Tát, tức đến thủ đô Lạp Tát; đây là trung tâm hành chánh và tôn giáo của toàn nước Tây Tạng. Phía tây bắc là núi Đạt Bố Lạp, có cung Đạt Bố Lạp, cao ba mươi tầng; chánh điện và mái ngói rất trang nghiêm. Đá thạch chạm vàng trông chóa mắt, là nơi mà đức Phật sống Đạt Lai Lạt Ma thường ngồi thuyết pháp. Vây quanh là hai mươi ngàn vị Lạt Ma. Vùng phụ cận có ba ngôi chùa lớn như Cát Nhĩ Bàn, Biệt Bạng, Sắc Lạp, cũng có hơn ngàn vị Lạt Ma. Vì ngôn ngũ không thông, khi đến các chùa, tôi chỉ dâng hương cùng lễ đức Phật sống thôi. Lại đi về hướng tây, qua Cung Cát, Giang Tử, đến Nhật Khách Đáo; phía tây có chùa Gia Thập Luân Bố, kiến trúc đồ sộ hùng vĩ mỹ lệ, rộng cả mấy dặm, là trung tâm hành chánh và tôn giáo thứ nhì của Tây Tạng, do vị Ban Thiền Hoạt Phật lãnh đạo, cũng có bốn năm ngàn vị Lạt Ma thường vây quanh. Từ Tây Xuyên vào đất Tây Tạng, đi cả một năm; mặt trời lên thì đi, mặt trời lặn thì dừng; leo núi băng sông, lắm khi cả mấy ngày mà chẳng gặp một bóng người; chim thú khác lạ, phong tục danh xưng rất dị kỳ; tăng sĩ không giữ giới luật, ăn thịt bò thịt dê, y áo đạo phục tông mũ đỏ mũ vàng khác biệt; chợt nhớ lại pháp hội tại Kỳ Viên Tịnh Xá lúc Phật còn tại thế mà rưng rưng nước mắt.
Cuối năm ấy ở lại Tây Tạng qua năm mới.