Bi ký thuật công đức trùng tu Di Lặc Lâu Các của Linh Nham Sơn Tự

(năm Dân Quốc 29 – 1940, cuối Hè năm Canh Thìn)

Di Lặc là đấng giáo chủ của thế giới Sa Bà sẽ giáng sanh trong tương lai, Lâu Các là phòng ốc nơi đức Di Lặc ở khi Thiện Tài đi về phương Nam tham học. Nhà nhiều tầng là Lâu, lầu cao là Các. Lâu các này thắng diệu khôn sánh, phàm phu, Nhị Thừa, Quyền Vị Bồ Tát đều chẳng thể thấy được! Đấy chính là báo cảnh do công đức thắng diệu thượng cầu hạ hóa của đức Di Lặc từ vô lượng kiếp đến nay cảm thành. Thiện Tài đã tham học với hai vị thiện tri thức là Đức Sanh và Hữu Đức[1] xong, họ lại dạy Thiện Tài đi qua Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng Đại Lâu Các trong vườn Đại Trang Nghiêm ở nước Hải Ngạn tại phương Nam thỉnh giáo Di Lặc Bồ Tát: “Vị Bồ Tát ấy ắt sẽ có thể vì ngươi nói diệu pháp khế lý khế cơ rốt ráo, khiến cho ngươi được đại lợi ích”. Do vậy, Thiện Tài cực lực đối trị tập khí phiền não, cực lực tu trì đạo Giới – Định – Huệ, đến trước Tỳ Lô Giá Na Đại Lâu Các ở nước Hải Ngạn, năm vóc mọp sát đất, nguyện thấy đức Di Lặc, nói kệ tán thán, bèn thấy Di Lặc Bồ Tát từ chỗ khác đi tới.

Thiện Tài đảnh lễ, Di Lặc đối trước đại chúng cùng đi với Ngài, tán thán Thiện Tài là chân Phật tử, là chân pháp khí. Lại vì Thiện Tài nói đủ mọi công đức của tâm Bồ Đề hòng bồi đắp nền tảng thành Phật, dạy vào trong Đại Lâu Các quan sát trọn khắp sẽ biết rõ cách học Bồ Tát hạnh. Học xong sẽ thành tựu vô lượng công đức. Thiện Tài bạch rằng: “Kính xin Đại Thánh mở cửa lâu các cho con được vào!” Ngài Di Lặc khảy ngón tay ra tiếng, cửa liền mở ra, bảo Thiện Tài vào. Vào xong cửa đóng lại. Thấy lâu các ấy rộng rãi vô lượng giống như hư không. Mặt đất và cung điện, hết thảy vật cúng đều dùng vô lượng các thứ báu để hợp thành. Lại thấy trong ấy có vô lượng trăm ngàn các thứ lâu các nhiệm mầu, mỗi mỗi rộng lớn nghiêm trang, đẹp đẽ, đều bằng với hư không, chẳng ngăn ngại nhau, cũng chẳng tạp loạn. Nơi mỗi một chỗ thấy hết thảy chỗ, trong hết thảy chỗ đều thấy như thế.

Khi đó, Thiện Tài rạp mình lễ kính, vừa mới mọp đầu đã tự thấy thân mình trọn khắp trong hết thảy các lâu các, lễ khắp hết thảy Phật – Pháp – Tăng, thấy đủ các thứ cảnh giới tự tại chẳng thể nghĩ bàn, như là: Hoặc thấy đức Di Lặc vừa mới phát tâm Bồ Đề hành đạo Bồ Tát, thân cận vị thiện tri thức nào, chứng tam-muội nào cho đến đích thân chứng được Pháp Thân, trong mười phương pháp giới, trải qua số kiếp nhiều như số vi trần trong cõi Phật hiện những thân tam thừa lục đạo để giáo hóa, mỗi mỗi đều thấy trọn vẹn và hết thảy chư Phật trong mười phương thế giới từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành Phật độ sanh và nhập Niết Bàn, pháp tồn tại lâu – mau, cũng đều thấy trọn vẹn. Thiện Tài ở trong lâu các thượng cầu hạ hóa, trải số kiếp nhiều như số vi trần trong cõi Phật siêng năng, chuyên ròng tu trì đủ mọi diệu hạnh mà chẳng mỏi mệt, nhất tâm tiến thẳng đến Vô Thượng Bồ Đề.

Khi ấy, Di Lặc Bồ Tát liền thâu hồi thần lực, vào trong lâu các, khảy ngón tay ra tiếng, bảo Thiện Tài: “Thiện nam tử! Hãy dậy đi, pháp tánh như vậy đó. Đây chính là trí biết các pháp của Bồ Tát, [biết các pháp] là tướng được hiện bởi nhân duyên tụ tập. Tự tánh như thế giống như huyễn, như mộng!” Do vậy, Đại Lâu Các ấy chính là pháp giới tạng. Phàm tất cả những sự vi diệu trong pháp giới không gì chẳng thấy trọn vẹn trong lâu các này. Đó gọi là “mười pháp giới xưa – nay, từ đầu đến cuối chẳng lìa một niệm hiện tại, vô biên cõi nước, ta – người chẳng cách biệt chừng bằng mảy lông!” Nếu không có thần thông đạo lực của Di Lặc, Thiện Tài cạn lòng thành tận lòng kính, làm sao đạt được như vậy?

Đời gần đây, các nơi không nơi nào chẳng thờ tượng Di Lặc nơi tiền điện, chẳng gọi là Di Lặc Điện mà lại gọi là Thiên Vương Điện, đúng là coi ngài Di Lặc như khách ăn nhờ ở đậu các Thiên Vương, quá mất ý nghĩa tôn kính! Linh Nham tu bổ tiền điện, nhân đấy tôi bèn nói nguyên cớ với giám viện là đại sư Diệu Chân, lại trích lục chương Thiện Tài tham học với ngài Di Lặc từ kinh Hoa Nghiêm để chứng tỏ ngài Di Lặc đức vượt trỗi Thập Địa, đạo đã chứng Đẳng Giác, từ bi cứu vớt chúng sanh, nếu không phải là Phật sẽ chẳng thể biết được! Do vậy, bèn đặt tên [cho tiền điện] là Di Lặc Lâu Các để mong sau này ai bước vào đó sẽ đều giống như Thiện Tài hoặc trong đời này hoặc trong đời mai sau, ai nấy đích thân chứng được đạo trong lâu các, để an ủi tấm lòng đại từ bi “luôn dạy cho người đương thời” của ngài Di Lặc.

Hơn nữa, các nơi thờ tượng Di Lặc chính là tượng Bố Đại hòa thượng do ngài Di Lặc thị hiện vào cuối đời Đường. Nay đã biết là do Di Lặc thị hiện thì cố nhiên hãy nên thờ bổn tượng vi diệu trang nghiêm. Nhằm tỏ rõ ngài đang sống trên Đâu Suất Thiên nên tạc tượng ngài đội mũ Ngũ Phật để làm tiêu thức[2]. Lược thuật duyên khởi để bảo cùng người thông sáng mai sau, hiểu tôi hay trách tội tôi, tôi cũng chẳng màng! Chuyện tu bổ điện từ đầu đến cuối, công đức của đàn-na tín chủ được ghi cặn kẽ trong tấm bia khác, nên chẳng ghi lại tường tận ở đây!

***

[1] Đức Sanh đồng tử (Śrī-Sambhava) là vị thứ năm mươi mốt trong số năm mươi ba vị thiện tri thức được Thiện Tài đến tham học. Vị này cùng với Hữu Đức đồng nữ cùng ở tại thành Diệu Ý Hoa Môn, đều đã chứng môn giải thoát của Bồ Tát, do tịnh trí quán sát thấy các thế gian đều là huyễn trụ, đều do nhân duyên sanh cho đến các việc biến hóa điều phục của hết thảy các vị Bồ Tát đều là huyễn trụ, đều do nguyện và trí hợp lại mà thành vậy.

[2] Tiêu thức là những vật dụng nhằm biểu thị hạnh nguyện, phương tiện của một vị Phật hay một vị Bồ Tát, chẳng hạn tiêu thức của ngài Quán Âm là bình cam lộ với nhành dương liễu, tiêu thức của Địa Tạng Bồ Tát là viên minh châu và tích trượng, tiêu thức của Văn Thù Bồ Tát là thanh kiếm trí huệ v.v… Trong Mật Tông thường tạc tượng Di Lặc Bồ Tát cầm tháp báu (tượng trưng cho Tỳ Lô Giá Na Lâu Các) đội mũ Ngũ Phật và mặc y phục cõi trời, ngồi thõng hai chân (ngụ ý Ngài vẫn chưa thành Phật).