Bài ký về chuyện sanh Tây của cư sĩ La Tử Sanh ở Mân Hầu
Thế gian lẫn xuất thế gian đều lấy lòng Thành làm gốc. Lòng Thành đến cùng cực, đá vàng phải nứt. Huống hồ những người cùng hàng đều cùng được phú bẩm cái tâm này, mà chư Phật, Bồ Tát lại là những vị trọn không có tâm, lấy tâm của chúng sanh làm tâm của chính mình ư? Trong cõi đời, chưa hề có ai lòng Thành tuy chưa đến mức cùng cực mà [lại có thể khiến cho] người khác nhìn vào sanh lòng cảm kích, được đức Phật rủ lòng gia bị! Cũng chưa có ai lòng Thành đã đến mức cùng cực mà người khác nhìn vào chẳng cảm kích, Phật không gia bị. Vì thế, kẻ mong thành thánh, thành hiền, học Phật, học Tổ, chỉ nên cạn hết tấm lòng Thành mà thôi! Đối với chuyện sanh Tây của cư sĩ La Tử Sanh, tôi có được một chứng cứ.
Cư sĩ tên là Vũ Tằng, tự là Tử Sanh, người xứ Mân Hầu, tỉnh Phước Kiến, anh em gồm ba người, ông ta đứng vào hàng thứ hai. Thuở nhỏ theo học Nho, trưởng thành đăng lính, mồ côi cha từ năm tám tuổi. Thờ bà mẹ thủ tiết, đối đãi anh em nổi tiếng hiếu hữu. Bẩm tánh chân thật, trung hậu, tiết kiệm, chất phác, liêm khiết, trong chẳng dám dối mình, ngoài chẳng dám gạt người. Vì thế, sĩ quan, binh lính tín nhiệm, giao cho ông ta trông coi quân nhu. Suốt mười mấy năm, ngoài tiền lương ra, trọn chưa hề tắt mắt gì!
Ông ta còn dốc lòng tin tưởng Phật pháp, khá chán ngán trần cảnh. Tuổi trung niên sau khi vợ mất, tâm niệm đã hệt như cây khô, tro lạnh. Năm Nhâm Tuất (1922) thời Dân Quốc do cư tang mẹ liền bỏ sạch đồ mặn, chuyên tu Tịnh nghiệp. Con trai ông ta là Khanh Đoan, Ngạn Tuấn và những người cùng chí hướng tổ chức Phước Châu Phật Hóa Xã. Cư sĩ cổ vũ, tán thành, giúp đỡ, hết sức đề xướng. Mùa Hạ năm Giáp Tý (1924), Phật Hóa Xã được dời sang chùa Khai Hóa ở Tây Hồ, con người lẫn địa thế đều thích hợp, nhưng do chùa xây dựng đã lâu, cột kèo, phòng ốc xô lệch, tượng Phật long lở, cư sĩ muốn cho những người niệm Phật đều nhìn vào sẽ dấy lòng cảm mộ bèn một mình đứng ra lo liệu tu bổ cho [cảnh chùa] được trang nghiêm. Công việc mới hoàn thành được một nửa, ông ta liền tạ thế. Lúc ấy nhằm ngày mồng Chín tháng Sáu năm Bính Dần (1926), thọ sáu mươi tuổi. Khanh Đoan kế thừa chí cha hoàn thành công cuộc [trùng tu], đáng gọi là “khéo thờ cha” vậy.
Thoạt đầu, mười mấy hôm trước khi cư sĩ mất, cổ chợt sanh ung loét, đấy chính là do túc nghiệp. Loét rữa bên trong, nóng – lạnh xen lẫn, nhưng cư sĩ muốn nhờ vào nỗi khổ ấy để mau được vãng sanh, bảo quyến thuộc tụ tập niệm Phật trong phòng để giúp chánh niệm. Cũng có bạn bè đến trợ niệm, mỗi lần đến mấy chục người. Ông ta đã dặn sẵn quyến thuộc: “[Khi ta] lâm chung chẳng được tắm rửa, thay quần áo sẵn, khóc lóc v.v… Trong đám tang, bất luận tế thần, đãi khách đều chẳng dùng đồ mặn. Đồ tẩm liệm chỉ dùng vải trơn, chẳng được dùng lụa là”. Con và dâu đều vâng lời, phương trượng Tuyết Phong Đạt Bổn đặc biệt đến khai thị. Vì thế, trong mười mấy ngày tuy bị đau khổ, nhưng tâm cư sĩ thường trấn định, trọn chẳng có một niệm nào khác. Đến lúc lâm chung, chánh niệm phân minh, an tường qua đời, hàng quyến thuộc ai nấy đều nén đau buồn niệm Phật suốt năm tiếng đồng hồ rồi mới tắm rửa, thay áo, khóc lóc v.v… đáng gọi là “biết pháp”. Đến lúc nhập liệm, đảnh môn (đỉnh đầu) vẫn còn ấm, tứ chi mềm mại, đủ chứng tỏ cụ đã sanh Tây.
Điều lạ nhất là con trai lẫn con dâu đều phát nguyện suốt đời ăn chay trường niệm Phật. Những xã hữu trong Phật Hóa Xã niệm Phật, niệm chú Vãng Sanh cho ông ta có tới ba mươi mấy gia đình. Số câu niệm Phật đến hơn một ngàn năm trăm vạn câu, chú Vãng Sanh được niệm tới hơn mười một vạn chín ngàn biến. Đều dùng những công đức ấy để cầu cho phẩm sen của ông ta được cao hơn, mau chứng Vô Sanh. Nếu ông ta chẳng phải là người bình sinh chí thành cảm người, làm sao được như vậy?
Ôi! Như cư sĩ đáng gọi là bậc thiện sĩ trong một làng, là đứa con thật sự của đức Như Lai. Nếu ngờ vực cư sĩ là người sốt sắng giữ vẹn luân thường, tận lực tu các điều thiện, lại còn niệm Phật nhiều năm, sao lúc lâm chung lại nẩy sanh khối loét ác hiểm ấy thì [kẻ nghi như vậy] chẳng biết chúng ta từ vô thủy đến nay đã kết oán nghiệp không thể kể nổi số lượng. Nếu chẳng niệm Phật, ắt sẽ phải báo đền dài lâu suốt kiếp, chẳng có lúc nào xong! Do sức niệm Phật, cư sĩ mới chuyển được báo nặng trong đời sau thành báo nhẹ trong đời này để giải thoát các nỗi khổ sanh tử, về thẳng Tây Phương, cao dự hải hội, thân cận Di Đà, cùng với các thiện nhân hội họp ở một chỗ. Xưa kia, pháp sư Giới Hiền[1] còn mắc phải bệnh ngặt, pháp sư Huyền Trang lâm chung cũng bị đau khổ, mỗi vị đều được Bồ Tát chỉ dạy an ủi, cho biết đấy là quả báo do trong đời trước đã não hại chúng sanh, huống hồ hạng phàm phu sát đất ư? Vì thế, tôi viết đại lược nguyên do. Tán rằng:
Cao cả thay cư sĩ, đáng gọi bậc thông sáng, dẫu sống trong trần thế, chẳng bị nhiễm bụi trần, bẩm tánh sẵn hiếu hữu, cần kiệm, nhân, khoan dung, gia đình hưởng vui sướng, hài hòa thật tràn trề, thân nêu gương nghiêm cẩn, hòa vui tiếp độ người, dốc lòng nơi Tịnh Độ, mong chứng được lẽ chân, đã khơi mở Phật hóa, lại trùng tu nhà chùa, vàng, ngọc thật trang nghiêm, nhằm tỏ lòng cảm mộ. Tuổi nhằm thời nhĩ thuận[2], liền thị hiện về Tây, quyến thuộc, bạn trợ niệm, công đức vòi vọi thay! Do vậy, lúc lâm chung, nhất tâm chuyên ức niệm, theo chân Phật vãng sanh, đảnh ấm kiểm nghiệm được, con trai lẫn con dâu, đều phát nguyện chí thành, ăn chay cùng niệm Phật, suốt đời chẳng đổi thay, để đem công đức ấy, mong tăng cao phẩm sen, chóng chứng Vô Sanh Nhẫn, trở về độ Sa Bà. Xã hữu nhờ cậy tôi, ghi chép câu chuyện này, muốn cho kẻ thấy nghe, đồng gội nhuần pháp lợi, liền tóm lược công hạnh, nhằm nêu nghĩa ẩn tàng, hòng thỏa hoằng thệ nguyện, độ sanh của Như Lai.
***
[1] Giới Hiền (Śīlabhadra) sống khoảng thế kỷ thứ 6, hay thứ 7, là một vị Luận Sư nổi tiếng của Đại Thừa Phật Giáo Du Già Hạnh (Duy Thức), trụ trì chùa Na Lan Đà ở tại nước Ma Kiệt Đà, Ấn Độ. Sư thuộc dòng dõi hoàng gia Samatata ở Đông Ấn, hiếu học từ thuở nhỏ, tham học với khắp các bậc minh triết. Khi đến Na Lan Đà, Sư gặp được Hộ Pháp Bồ Tát, nghe ngài giảng pháp, tin tưởng, giác ngộ, bèn theo xuất gia. Năm 30 tuổi, Sư từng viết luận khiến các sư trưởng ngoại đạo khắp cả một giải Nam Ấn Độ phải chịu thua. Sư trụ trì chùa Na Lan Đà rất lâu, chuyên hoằng truyền giáo nghĩa Duy Thức. Sư y cứ các bộ Giải Thâm Mật Kinh, Du Già Sư Địa Luận v.v… chia Phật giáo thành ba thời là Hữu, Không, Trung, lập ra thuyết Ngũ Chủng Tánh. Khi ngài Huyền Trang đến cầu học, Sư đã hơn trăm tuổi. Do đức độ và kiến thức của Sư, đại chúng không kêu trực tiếp pháp danh nữa mà gọi Sư bằng mỹ hiệu Chánh Pháp Tạng. Về nỗi khổ của đại sư Giới Hiền, trong thư trả lời cư sĩ Châu Tụng Nghiêu (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển 1), Tổ đã cho biết: “Xưa kia, Giới Hiền luận sư ở Tây Vực, đức cao khắp đời, đạo lẫy lừng Tứ Trúc (bốn xứ Thiên Trúc). Do túc nghiệp nên thân mắc ác bệnh, khổ sở cùng cực, chẳng thể chịu đựng nổi, muốn tự tử, chợt thấy ba vị Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Thế Âm giáng xuống, bảo: “Ông trong kiếp xa xưa kia, nhiều lần làm quốc vương não hại chúng sanh, đáng lẽ đọa ác đạo từ lâu. Do ông hoằng dương Phật pháp nên phải chịu nỗi đau khổ nhỏ này trong cõi người để tiêu diệt nỗi khổ địa ngục cả kiếp dài lâu. Ông nên gắng chịu đựng, xứ Đại Đường có một vị Tăng tên là Huyền Trang, ba năm nữa sẽ đến đây học pháp”. Giới Hiền luận sư nghe xong, ráng chịu đau sám hối, lâu ngày lành bệnh. Đến ba năm sau, ngài Huyền Trang đến đó, ngài Giới Hiền bảo đệ tử thuật lại tình trạng đau khổ của căn bệnh. Người kể lại nỗi khổ nghẹn ngào, ứa lệ, đủ thấy sự khổ ấy rất lớn”.
[2] “Nhĩ Thuận” là sáu mươi tuổi. Nhĩ Thuận vốn là một thành ngữ phát xuất từ một câu nói của Khổng Tử trong sách Luận Ngữ: “Ngô thập hữu ngũ nhi chí ư học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mạng, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tùng sở dục, bất du củ” (Ta dốc chí học tập từ năm mười lăm, đến năm ba mươi tuổi ý chí đã định, bốn mươi tuổi không còn lầm lẫn, năm mươi tuổi hiểu mạng trời, sáu mươi tuổi tai nghe đã thuần, bảy mươi tuổi hành xử thuận theo lòng muốn, không trái vượt quy củ).