LUẬN LỤC THẬP TỤNG NHƯ LÝ
Tác giả: Bồ-tát Long Thọ
Hán dịch: Đời Triệu Tống, Đại sư Thi Hộ
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Quy mạng ba đời đấng Tịch Mặc
Lời chánh pháp diễn nói duyên sinh
Nếu hiểu các pháp lìa duyên sinh
Pháp hành đã tạo lìa như thế.
Lìa hai bên có – không
Người trí có chỗ dựa
Sâu xa không chốn duyên
Nghĩa duyên sinh thành lập.
Nếu nói pháp vô tánh
Tức sinh các sai lầm
Người trí nên như lý
Quán sát pháp hữu tánh.
Nếu thật đạt hữu tánh
Như người ngu phân biệt
Vô tánh thì không nhân
Nghĩa giải thoát nào lập?
Không thể nói hữu tánh
Không thể nói vô tánh
Biết rõ tánh vô tánh
Đại trí như lý nói.
Niết-bàn và sinh tử
Chớ quán tánh sai khác
Chẳng Niết-bàn sinh tử
Hai tánh có sai biệt.
Sinh tử và Niết-bàn
Cả hai không thực có
Nếu hiểu rõ sinh tử
Đây chính là Niết-bàn.
Phá hữu tánh sinh kia
Phân biệt diệt cũng vậy
Việc được tạo như huyễn
Hiện tiền diệt không thật.
Nếu diệt có chỗ hoại
Biết kia là hữu vi
Pháp hiện còn không đạt
Pháp hoại sao lại biết?
Các uẩn kia không diệt
Hết nhiễm tức Niết-bàn
Nếu hiểu rõ tánh diệt
Sẽ đạt đến giải thoát.
Nếu pháp sinh pháp diệt
Cả hai không thể đạt
Dùng chánh trí quán xét
Từ vô minh duyên sinh.
Nếu thấy pháp tịch tĩnh
Các tạo tác cũng vậy
Biết pháp nầy tối thắng
Đạt pháp trí vô biên.
Tánh duyên sinh thấy được
Không thấy nghĩa nầy sai
Tánh vi diệu trong nầy
Chẳng duyên sinh phân biệt.
Chánh giác Phật đã nói
Có nói chẳng không nhân
Nếu sạch nguồn phiền não
Tướng luân hồi sẽ tan.
Các pháp hành nhất định
Thấy có tạo có giữ
Tại sao lúc trước sau
Từ duyên mà an lập?
Vì sao trước đã sinh
Sau đó lại chuyển khác
Nên giới hạn trước sau
Nhìn thấy như sự huyễn.
Vì sao huyễn được sinh
Vì sao có chấp trước
Si mê ở trong huyễn
Cầu huyễn cho là thật.
Trước chẳng phải là sau
Chấp thấy nên không xả
Trí quán tánh vô tánh
Như hình ảnh huyễn ảo.
Nếu nói sinh chẳng diệt
Là phân biệt hữu vi
Nên vòng duyên sinh kia
Xoay theo không chỗ hiện.
Nếu đã sinh chưa sinh
Tự tánh kia không sinh
Nếu tự tánh không sinh
Gọi sinh thế nào được?
Nhân lặng thì pháp tận
Tận nầy không thể đạt
Nếu tự tánh không tận
Tên tận làm sao lập?
Không pháp nào được sinh
Không pháp nào được diệt
Hai đường sinh diệt kia
Tùy sự tùy nghĩa hiện.
Biết sinh thì biết diệt
Biết diệt biết vô thường
Tánh vô thường nếu biết
Không đạt gốc các pháp.
Các pháp từ duyên sinh
Tuy sinh tức lìa diệt
Như người đến bờ kia
Liền thấy việc biển lớn.
Nếu tự tâm không hiểu
Phàm phu chấp tánh ngã
Tánh không, tánh điên đảo
Liền sinh các lỗi lầm.
Các pháp là vô thường
Khổ, không và vô ngã
Trong ấy thấy lìa pháp
Trí quán tánh, không tánh.
Không trụ, không chỗ duyên
Không căn cũng chẳng lập
Từ chủng vô minh sinh
Lìa phần trước, giữa, sau.
Thành đại ác si ám
Như cây chuối không thật
Như thành Càn-thát-ba
Đều hiện bày huyễn ảo.
Cõi nầy đầu Phạm vương
Phật chánh thuyết như thật
Sau các Thánh không vọng
Nói cũng không sai khác.
Thế gian bị si ám
Ái lưu chuyển không dứt
Người trí biết các ái
Nên bình đẳng khéo nói.
Trước nói các pháp có
Cầu tánh thật nơi có
Sau tánh cầu cũng không
Liền lìa tánh không chấp.
Nếu không biết nghĩa lìa
Nghe xong liền có chấp
Nên phước nghiệp đã tạo
Hạng phàm ngu tự phá.
Như trước nói bình đẳng
Pháp nghiệp kia chân thật
Nếu hiểu rõ tự tánh
Nói vậy tức không sinh.
Tôi đã nói như thế
Đều y theo lời Phật
Như chỗ tuyên dương đó
Tức pháp uẩn xứ giới.
Đại chủng và các thức
Đã nói đều bình đẳng
Lúc trí ấy hiện chứng
Không còn vọng phân biệt.
Một nầy nếu như thật
Phật nói là Niết-bàn
Tối thắng nầy không vọng
Là trí không phân biệt.
Nếu tâm có tán loạn
Cùng các ma tạo tác
Nếu như thật lìa lỗi
Tức không có sinh nầy.
Vô minh duyên như vậy
Phật vì thế gian nói
Nếu đời không phân biệt
Tại sao đây không sinh?
Nếu vô minh bị diệt
Diệt rồi tức chẳng sinh
Tên sinh, diệt trái ngược
Vô trí sinh phân biệt.
Có nhân thì có sinh
Không duyên tức chẳng trụ
Lìa duyên nếu có tánh
Có nầy cũng đâu được?
Nếu có tánh đáng giữ
Tức nói có sinh – trụ
Trong nầy nghi lại nhiều
Nói có pháp được trụ.
Nếu Bồ-đề được chứng
Tức khắp nơi thường nói
Nếu tánh trụ giữ được
Đây nói lại có sinh.
Nếu nói pháp thật có
Vô trí nói như vậy
Nếu nói pháp có xứ
Giữ cũng không thể được.
Pháp không sinh không ngã
Trí ngộ nhận thật tánh
Các tướng thường – vô thường
Đều do tâm hiện khởi.
Nếu thành lập nhiều tánh
Tức muốn thành thật tánh
Kia tại sao khác đây
Thường – vô thường sai lầm.
Nếu thành lập một tánh
Chỗ muốn như trăng – nước
Chẳng thật chẳng không thật
Đều do tâm khởi hiện.
Pháp tham sân rất nặng
Do đó sinh kiến chấp
Nên tranh luận an lập
Lìa tánh mà chấp thật.
Nên nhân khởi các kiến
Kiến nên sinh phiền não
Nếu biết đúng điều ấy
Thấy phiền não đều sạch.
Nên biết pháp vô thường
Từ duyên sinh nên hiện
Duyên sinh cũng không sinh
Đây thật ngữ tối thượng.
Trí chúng sinh tà vọng
Không thật tưởng cho thật
Tranh luận với người khác
Tự hành chuyển điên đảo.
Tự phần không thể lập
Phần khác làm sao có
Tự – tha đều không phần
Trí hiểu không tranh luận.
Có pháp nào đáng nương
Phiền não như rắn độc
Nếu không tịch không động
Tâm liền không chỗ dựa.
Phiền não như rắn độc
Sinh sai lầm rất nặng
Độc phiền não che lấp
Làm sao thấy các tâm?
Như ngu thấy hình ảnh
Liền vọng sinh tưởng thật
Đời ràng buộc cũng vậy
Tuệ bị ngu si trùm.
Tánh dụ như hình ảnh
Chẳng phải cảnh mắt trí
Đại trí vốn không sinh
Cảnh giới tưởng vi tế.
Chấp sắc gọi phàm phu
Lìa tham là tiểu Thánh
Biết rõ tự tánh sắc
Đó là trí tối thượng.
Nếu chấp các pháp thiện
Như lìa tham, điên đảo
Như đã thấy người huyễn
Lìa tạo tác cầu thể.
Biết nghĩa nầy là sai
Không quán tánh – vô tánh
Phiền não không thể đạt
Tánh sáng phá trí tà.
Trí lìa nhiễm, thanh tịnh
Cũng không nương vào tịnh
Có nương tức có nhiễm
Tịnh kia lại sinh lỗi.
Pháp phiền não cực ác
Nếu thấy lìa tự tánh
Thì tâm chẳng loạn động
Vượt qua biển sinh tử.
Pháp thiện cam lồ nầy
Từ Đại bi sinh ra Theo lời
Như Lai nói Không phần hạn, phân biệt.
Như vậy trong nầy khó nói được
Tùy người trí thấy liền thành tựu
Người trí tùy quán thuận theo pháp
Như vậy đều từ Đại bi chuyển.
Tánh chân thật trong tất cả pháp
Người trí theo đó quán như lý
Chỗ hướng do đấy tín được sinh
Cứu chúng sinh kia lìa các khổ.
Nghĩa nầy sâu xa lại rộng lớn
Tôi vì lợi ích nên ngợi ca
Như lời đại trí nay đã nêu
Si ám tự – tha đều phá trừ.
Phá hết phiền não si ám rồi
Như như chỗ tạo lìa ma chướng
Do đó thường mở cửa đường thiện
Các sự giải thoát lại đâu sai.
Người trì tịnh giới được sinh thiên
Câu nầy là chắc chắn chân thật
Ví như phá giới trụ chánh tâm
Tuy hoại giới nhưng không hoại kiến.
Chủng tử lớn lên chẳng vô nghĩa
Thấy nghĩa lợi ích rộng thực hành
Không lấy Đại bi làm nhân chánh
Người trí đâu thể muốn sinh pháp.