LUẬN A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ
Tác giả: Tôn giả Thế Thân
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ 

 

QUYỂN 18

Phẩm thứ 4: PHÂN BIỆT NGHIỆP, phần 6

Ở trước đã biện về ba trọng chướng, trong ấy nói năm nghiệp vô gián là Thể của nghiệp chướng. Vậy Thể của năm nghiệp vô gián này là gì?

* Tụng viết:

Trong năm vô gián này

Bốn nghiệp thân một ngữ

Ba sát, một nói dối

Một gia hạnh sát sinh.

* Luận nêu: Trong năm nghiệp vô gián: Bốn là thân nghiệp, một là ngữ nghiệp. Ba là sát sinh, một là nghiệp đạo căn bản nói lời hư dối, một là gia hạnh của nghiệp đạo sát sinh. Do thân Như Lai là không thể hại. Nghiệp vô gián phá hoại Tăng là nói lời hư dối. Đã là nói lời hư dối thì duyên gì gọi là phá Tăng? Là nhân thọ nhận tên gọi của quả. Hoặc là chủ thể phá. Nếu như thế thì Tăng bị phá, Thể ấy là gì? Chủ thể phá, đối tượng bị phá, người nào đã tạo thành?

* Tụng viết:

Tăng phá: Không hòa hợp

Tâm bất tương ưng hành

Tánh vô phú vô ký

Tăng bị phá đã thành.

* Luận nêu: Thể của Tăng bị phá là không hòa hợp. Tánh không hòa hợp này là vô phú vô ký, là tâm bất tương ưng hành, thuộc về hành uẩn. Thế đâu thành vô gián? Tăng bị phá như vậy là nhân nơi lời nói hư dối sinh, nên nói phá hòa hợp Tăng là quả vô gián, không phải là người của chủ thể phá thành Tăng bị phá này. Chỉ là Tăng chúng của đối tượng bị phá đã thành. Người của chủ thể phá này tạo nơi chốn nào thành tựu? Dị thục của sự việc phá hoại Tăng nơi xứ nào thọ nhận, trải qua thời gian bao lâu?

* Tụng viết:

Chủ thể phá chỉ thành

Tội nói hư dối ấy

Một kiếp quả vô gián

Tùy tội tăng khổ tăng.

* Luận nêu: Người của chủ thể phá Tăng thì thành tội phá hoại Tăng. Tội phá hoại Tăng này, tánh là nói lời hư dối. Tức Tăng bị phá cùng sinh ngữ nghiệp hữu biểu vô biểu. Tội này tất bị đọa trong đại địa ngục Vô gián, trải qua một trung kiếp thọ nhận khổ cực nặng. Tội nghịch khác chưa hẳn sinh nơi vô gián. Nếu tạo tác nhiều tội nghịch, thì dị thục đều ở nơi đời tiếp theo như thế nào? Tức nhiều tội nghịch đồng chiêu cảm nơi một đời. Tùy theo tội kia tăng thì khổ trở lại tăng dữ dội. Nghĩa là do nhiều tội nghịch nên chiêu cảm nơi địa ngục trung, đại, thân mềm yếu, có nhiều vật dụng tạo khổ mãnh liệt, thọ nhận các thứ khổ nặng gấp hai, ba, bốn, năm lần. Vậy kẻ nào ở nơi xứ nào có thể phá đối với ai? Phá tại thời gian nào, trải qua bao lâu?

* Tụng viết:

Bí-sô kiến hạnh tịnh

Phá xứ khác, kẻ ngu

Lúc nhận Đạo sư khác

Gọi phá không qua đêm.

* Luận nêu: Người có thể phá hoại Tăng chủ yếu là hàng Đại Bísô, tất không phải là hàng tại gia và Bí-sô-ni. Chỉ là người kiến hành, chẳng phải là người ái hành. Là người trụ nơi hạnh tịnh, không phải là kẻ phạm giới. Do kẻ phạm giới thì lời nói không có uy lực. Chính là ở nơi xứ khác khởi phá hòa hợp Tăng, không phải là đối trước bậc Đại sư. Do chư Như Lai là không thể xem thường, bức bách. Ngôn từ luôn oai nghiêm, nên những thứ xem thường, bức bách kia là vô dụng. Chỉ phá đối với hàng Tăng phàm phu, không phải là hàng Tăng Thánh giả, do các Thánh giả đã chứng đắc pháp tánh.

Có thuyết nói: Tăng đạt được pháp nhẫn cũng không thể phá. Do bao hàm hai nghĩa ấy nên nói là kẻ ngu (Phàm phu). Tăng bị phá chủ yếu là đã nhận Sư khác với Đức Phật. Nhận Sư khác với Đức Phật tức nói có Thánh đạo khác. Nên nói Tăng bị phá tại thời điểm như thế. Đêm này tất cùng hành, không trải qua đêm khác. Như thế gọi là phá pháp luân Tăng. Tức có thể làm chướng ngại Thánh đạo luân chuyển, hủy hoại sự hòa hợp của Tăng.

Nơi châu nào và bao nhiêu người có thể phá pháp luân Tăng? Phá yết-ma Tăng?

* Tụng viết:

Châu Thiệm-bộ, chín người v.v…

Mới phá pháp luân Tăng

Chỉ phá yết-ma Tăng

Chung ba châu, tám người.

*  Luận nêu: Chỉ người của châu Thiệm-bộ, tối thiểu là chín người hoặc shiều hơn Số lượng ấy mới có thể phá pháp luân Tăng, chẳng phải là ở châu khác, do không có Phật. Xứ có Đức Thế Tôn thì mới có vị Sư khác. Chính là tám Bí-sô phân làm hai chúng, là đối tượng bị phá. Người chủ thể phá là thứ chín. Thế nên chúng ít nhất cũng phải có chín người. Chữ vân vân (Đẳng: Châu Thiệm-bộ, chín v.v…) là làm rõ nhiều hơn số lượng ấy là vô hạn. Chỉ phá yếtma Tăng là chung nơi ba châu đều có, tối thiểu là tám người, nhiều hơn cũng là vô hạn. Chung nơi ba châu: Là nơi các châu này đều có Thánh giáo. Chủ yếu là trong một trụ xứ, Tăng phân làm hai bộ, riêng làm yết-ma nên phải có tám người. Hơn số lượng ấy thì không hạn chế nên cũng nói là vân vân. Vào thời gian nào thì không phá pháp luân Tăng?

* Tụng viết:

Đầu, sau, trước chia rẽ

Phật diệt, chưa kiết giới

Nơi sáu vị như thế

Không phá pháp luân Tăng.

* Luận nêu: Đầu: Là thời gian Đức Thế Tôn chuyển pháp luân chưa lâu. Sau: Nghĩa là thời gian Đức Thiện Thệ sắp nhập Niết-bàn. Trong khoảng thời gian Đầu – Sau ấy, Tăng chúng là đồng một vị. Đối với giới, chánh kiến, thì sự chia rẽ chưa khởi lên. Chính do chia rẽ làm hai phát sinh nên mới có thể phá. Thời gian của đối thứ nhất, tức chỉ, quán chưa lập, pháp như thế do đấy nên luôn thuận hợp. Thời gian sau Phật diệt độ, không có vị Đại sư đích thực nào là đối địch. Thời gian chưa kiết giới, tức không có trong một trụ xứ phân làm hai bộ. Nơi sáu phần vị này không có phá pháp luân tăng. Sự việc phá pháp luân Tăng không phải chư Phật đều có. Tất dựa nơi túc nghiệp mới có sự việc ấy.

Phần luận thêm dừng lại ở đây. Nên biện về duyên nghịch.

* Tụng viết:

Hủy hoại ruộng ân đức

Chuyển hình cũng thành nghịch

Mẹ là nhân huyết kia

Lầm cùng không hoặc có

Cố ý đả thương Phật

Sau hại vô học, không.

* Luận nêu: Vì sao sát hại mẹ v.v… thành nghiệp vô gián? Do đã dứt bỏ ruộng ân, hủy hoại ruộng đức. Nghĩa là sát hại cha mẹ là dứt bỏ ruộng ân. Vì sao là có ân? Vì là gốc của sinh thân. Vì sao dứt bỏ gốc kia? Nghĩa là xả bỏ ân ấy. Ruộng đức: Nghĩa là các vị còn lại như A-la-hán v.v… đã gồm đủ các đức thù thắng, cũng có thể sinh khởi các đức ấy. Hủy hoại chỗ dựa của đức nên thành tội nghịch. Sát hại hình chuyển của cha mẹ có thành tội nghịch chăng? Tội nghịch cũng thành, vì chỗ nương dựa là một. Do các nghĩa như thế nên nói sát hại cha mẹ v.v… là thành nghiệp vô gián.

Hỏi: Từng có người khiến cho người nam, không phải là cha mình, không phải là A-la-hán, lìa bỏ mạng căn mà tạo tội vô gián chăng? Có. Nghĩa là kẻ nam kia là người mẹ chuyển hình. Từng có người khiến cho người nữ, không phải là mẹ mình, không phải là A-la-hán, lìa bỏ mạng căn mà tạo tội vô gián chăng? Có. Nghĩa là kẻ nữ kia là người cha chuyển hình. Nếu như có người nữ bị rơi Yết-lạtlam (Bào thai), người nữ khác nhặt được đưa vào trong sản môn của mình, rồi sinh con. Vậy người con ấy sát hại người mẹ này thì đâu có thành tội nghịch hại mẹ? Vì nhân nơi huyết thống là người mẹ kia, tức gốc của sinh thân. Các thứ tạo tác đã có nên thuộc về người mẹ sau, là người đã nuôi dưỡng khiến trưởng thành. Nếu đối với cha mẹ khởi gia hạnh sát hại, nhưng lại giết lầm kẻ khác thì không thành tội vô gián. Đối với người không phải là cha mẹ, khởi gia hạnh sát hại, nhưng lại giết lầm cha mẹ mình, thì cũng không thành tội nghịch. Như người con cầm chiếc gậy xua đuổi muỗi nơi giường ngủ của cha mẹ, người mẹ nằm khuất phía trong giường nhân đấy bị giết chết. Nếu một gia hạnh hại mẹ, cùng với hai vô biểu khác sinh, thì tội nghịch chỉ là biểu nghiệp, do nghiệp vô gián có thế lực mạnh. Tôn giả Diệu Âm nói: Có hai thứ biểu. Biểu là do cực vi tích tập mà thành. Nếu hại A-la-hán không có tưởng về A-la-hán, nhưng đối với chỗ nương dựa của vị ấy khởi tâm quyết định sát hại không phân biệt, thì cũng thành tội nghịch. Nếu có kẻ sát hại cha mẹ mình là A-la-hán thì chỉ phạm một tội nghịch, do nơi nương dựa chỉ là một. Nếu như vậy thì đối với dụ được nêu nên làm sao thông hợp? Đức Phật nói với Thủy Khiếm Trì: “Ông đã tạo nên hai tội nghịch, là hại cha và giết bậc A-la-hán”. Sự việc kia là làm rõ một tội nghịch do hai duyên tạo thành. Hoặc là dùng hai môn để quở trách tội ấy. Nếu đối với Đức Phật khởi tâm ác làm thân Phật chảy máu, thì tất cả đều thành tội vô gián chăng? Chính là do tâm sát hại mới thành tội nghịch. Nếu chỉ khởi tâm đả thương khiến thân Phật chảy máu thì không thành tội vô gián. Nếu lúc tạo gia hạnh sát hại người kia không phải là A-la-hán, nhưng khi sắp chết người ấy mới đắc quả A-la-hán, thì chủ thể sát hại là kẻ kia có thành tội nghịch không? Không. Do đối với thân bậc vô học không có gia hạnh sát hại. Nếu tạo gia hạnh vô gián không thể chuyển, thì có thể lìa nhiễm đắc Thánh quả chăng?

* Tụng viết:

Tạo gia hạnh định nghịch

Không lìa nhiễm đắc quả.

* Luận nêu: Gia hạnh vô gián nếu tất định thành, thì trung gian quyết không thể lìa nhiễm, đắc quả. Gia hạnh của nghiệp đạo ác khác, nơi trung gian nếu Thánh đạo sinh thì nghiệp đạo không khởi. Do chỗ nương dựa cùng với ý định kia là trái nhau. Ở trong nghiệp vô gián của các hành ác, thì tội nào là nặng nhất? Đối với nghiệp thiện thế gian thuộc các hành diệu, thì nghiệp thiện nào đạt được quả lớn nhất?

* Tụng viết:

Nói hư dối phá Tăng

Ở trong tội: lớn nhất

Tư cảm hữu thứ nhất

Quả lớn trong thiện đời.

* Luận nêu: Tuy hiểu rõ về pháp, phi pháp, vì muốn phá Tăng nên khởi lời nói hư dối, điên đảo đã hiện rõ, trong vô gián thì tội này là nặng nhất. Do tội này đã phá hủy làm thương tổn pháp thân Phật, làm chướng ngại nẻo sinh thiên của thế gian hướng đến đạo giải thoát. Nghĩa là Tăng bị phá cho đến chưa hòa hợp, tất cả thế gian nhập Thánh đạo, đắc quả, lìa nhiễm, dứt hết lậu, thảy đều bị ngăn chận. Các hành nghiệp như tập định, đọc tụng Kinh Luật, tư duy v.v… đều dứt, trong đại thiên thế giới pháp luân không chuyển. Hàng trời, người, rồng v.v… thân tâm bị nhiễu loạn. Thế nên tội này đã chiêu cảm dị thục là một kiếp nơi địa ngục Vô gián. Do vậy, tội phá hoại Tăng là nặng nhất. Các tội vô gián còn lại, theo thứ lớp: Tội thứ năm, thứ ba, thứ nhất, cùng về sau là nhẹ dần. Tội thứ hai là nhẹ nhất, do ân v.v… ít. Nếu như thế vì sao trong việc tạo tội của ba nghiệp, Đức Phật nói ý tạo tội là tội lớn nhất. Lại nói, trong các tội thì tà kiến là lớn nhất. Tức căn cứ theo năm tội vô gián để nói, thì tội phá hoại Tăng là nặng nhất. Căn cứ theo ba nghiệp tạo tội để nói thì tội của ý là lớn nhất. Nếu dựa theo năm thứ kiến chấp sai lạc để nói, thì tà kiến là nặng nhất. Hoặc dựa theo quả báo lớn do đã hại nhiều hữu tình, đoạn dứt các căn thiện, như thứ lớp ấy để nói là nặng. Tư đã chiêu cảm quả dị thục của hữu thứ nhất, ở trong thiện của thế gian là quả lớn nhất. Tức chiêu cảm dị thục là tám vạn đại kiếp rất tịch tĩnh. Căn cứ theo quả dị thục nên nói lời ấy. Căn cứ nơi quả ly hệ thì định kim cang dụ tương ưng với tư là có thể chứng đắc đại quả. Các kiết vĩnh viễn đoạn dứt là từ nơi quả này. Vì phân biệt với quả này nên nói: Là thiện của thế gian (Quả dị thục của hữu thứ nhất). Là chỉ tội vô gián nhất định sinh nơi địa ngục, hay là các tội đồng loại vô gián cũng nhất định sinh vào nơi ấy? Có Sư khác nói: Không phải chỉ tội vô gián sinh. Vậy đồng loại là thế nào?

Ô (Nhiễm) mẹ, Ni vô học

Giết Bồ-tát trụ định

Cùng Thánh giả hữu học

Đoạt duyên hòa hợp Tăng

Phá hoại Tốt-đổ-ba

Là đồng loại vô gián.

* Luận nêu: Năm thứ tội như thế, tùy theo thứ lớp ấy, là Thể của năm nghiệp đồng loại vô gián. Nghĩa là có kẻ đối với mẹ mình là Ni A-la-hán (Ni vô học), hành phi phạm hạnh hết sức cấu nhiễm. Hoặc có kẻ sát hại Bồ-tát trụ định. Hoặc giết Thánh giả hữu học. Hoặc cướp đoạt duyên hòa hợp Tăng. Hoặc phá hoại Tốt-đổ-ba. Đó là năm đồng loại của tội nghịch. Đối với nghiệp có dị thục (Quả báo), ở trong ba thời tức đều có thể tạo chướng ngại lớn. Thế nào là ba thời?

* Tụng viết:

Sắp đắc Nhẫn, Bất hoàn

Nghiệp vô học là chướng.

* Luận nêu: Nếu từ vị Đảnh, lúc sắp đạt được vị Nhẫn, thì nghiệp chiêu cảm nẻo ác đều là chướng ngại lớn. Do nhẫn là vượt khởi địa của dị thục kia. Như người sắp xa lìa đất nước mình đã cư ngụ, thì tất cả chủ nợ đều là chướng ngại lớn. Nếu có người lúc sắp chứng đắc quả Bất hoàn, thì các nghiệp thuộc cõi dục đều là chướng ngại lớn, chỉ trừ nghiệp tùy thuận hiện pháp thọ. Hoặc có người lúc sắp đắc quả vô học (Quả A-la-hán) thì nghiệp thuộc cõi sắc, vô sắc đều là chướng ngại lớn, cũng trừ nghiệp thuận hiện. Hai dụ như trước. Như trên đã nói về Bồ-tát trụ định, là từ nơi phần vị nào được mang tên là trụ định? Vị kia lại ở nơi nào gọi là định?

* Tụng viết:

Từ tu nghiệp tướng diệu

Bồ-tát đắc tên định

Sinh nhà sang nẻo thiện

Đủ nam, niệm kiên cố.

* Luận nêu: Từ tu tập nghiệp có thể chiêu cảm quả dị thục là ba mươi hai tướng diệu của bậc Đại trượng phu, Bồ-tát mới được lập tên là trụ định. Do từ thời ấy cho đến khi thành Phật luôn sinh nơi nẻo thiện cùng gia đình giàu sang v.v… Sinh nơi nẻo thiện: Nghĩa là sinh vào nẻo người, trời, do tốt đẹp đáng nêu xưng nên gọi là nẻo thiện. Ở trong nẻo thiện, thường sinh vào gia đình phú quý, nghĩa là các nhà Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Trưởng giả đại phú, hoặc Đại Bà-la-môn. Nơi các gia đình phú quý, các căn có đủ có khuyết, nhưng Bồ-tát kia luôn đủ căn thù thắng. Luôn thọ thân nam, hãy còn không làm thân nữ huống là thọ thân của hạng hoàng môn v.v… Đời đời thường có thể nhớ nghĩ (Niệm) về thọ mạng đời trước. Các sự việc thiện được tạo tác thường không thoái chuyển khuất phục. Nghĩa là ở trong sự việc tạo lợi lạc cho hữu tình, tuy bị các khổ bức bách thân, Bồ-tát đều có thể nhẫn chịu. Tuy có vô số hành ác khác luôn chống trái, nhưng tâm của Bồ-tát ấy không hề chán mệt. Như nơi thế gian truyền có loại Đà-bà-vô-giá (Hạng nô bộc phục dịch không cần tiền công), nên biết lời ấy là nói về Bồ-tát kia. Do bậc Đại sĩ kia, tuy đã thành tựu tất cả công đức thù thắng viên mãn, nhưng do từ lâu xa đã hành tập đại bi không duyên, nên thường xuyên tự nhiên hệ thuộc kẻ khác, đối khắp tất cả loài hữu tình, do tâm không kiêu mạn, đều gồm thâu đồng với chính mình. Hoặc thường quán thân mình như kẻ nô bộc kia, nên ở trong hết thảy các sự việc khó cầu đạt, Bồ-tát đều gắng nhẫn. Cùng đối với tất cả sự việc khổ nhọc Bồ-tát đều có thể gánh vác tu tập nghiệp tướng diệu, tướng ấy là thế nào?

Nam Thiệm-bộ đối Phật

Phật tư, tư được thành

Ngoài trăm kiếp mới tu

Đều trăm phước trang nghiêm.

* Luận nêu: Bồ-tát chủ yếu là ở trong châu Thiệm-bộ mới có thể hành tác tu tập nghiệp dẫn sinh tướng diệu. Do châu này tuệ giác rất sáng tỏ, sắc bén. Chỉ là thân người nam, không phải là thân nữ. Bấy giờ, đã vượt qua phần vị như thân nữ v.v… Bồ-tát chỉ hiện đối trước Phật, duyên nơi Phật khởi tư là tư được thành, không phải là loại văn, tu. Chỉ hơn trăm kiếp tu tập, không phải là nhiều. Trong nhân của chư Phật, pháp nên như thế. Chỉ Đức Bạc-già-phạm Thích-ca Mâu-ni, do tinh tấn tột cùng, nên có thể vượt chín kiếp, tức trong chín mươi mốt kiếp là nghiệp tướng diệu thành tựu. Thế nên Đức Như Lai nói với người chủ thôn: Ta nhớ lại trong chín mươi mốt kiếp đến nay, không thấy một gia đình nào nhân bố thí thức ăn cho Ta mà có thương tổn chút ít, chỉ toàn là thành tựu lợi lớn! Từ nơi tự tánh này, nên thường nhớ nghĩ về đời sống của kiếp trước. Vì vậy chỉ nói chín mươi mốt kiếp. Sư Túc Cựu nói: Bồ-tát ra khỏi vô số kiếp thứ nhất trở đi, lìa bốn thứ lỗi lầm, được hai thứ công đức, như trước đã biện.

Nơi mỗi mỗi tướng diệu có trăm phước trang nghiêm. Những gì gọi là lượng của mỗi mỗi phước? Có thuyết cho: Chỉ trừ Bồ-tát gần Phật, còn lại là tất cả hữu tình đã tu nghiệp tạo quả giàu có an vui, gọi là lượng của một phước. Có thuyết nói: Thời kỳ thế giới sắp thành, tất cả hữu tình đã chiêu cảm lực tăng thượng nơi nghiệp của Đại thiên quốc độ, là lượng của một phước. Có thuyết nêu: Lượng này chỉ có Đức Phật mới nhận biết.

Nay, bậc Đại sư của Ta, về thời xa xưa, lúc còn ở vị Bồ-tát, trải qua ba vô số kiếp đã cúng dường bao nhiêu Đức Phật?

* Tụng viết:

Nơi ba vô số kiếp

Đều cúng dường bảy vạn

Lại thứ lớp cúng dường

Năm sáu bảy ngàn Phật.

* Luận nêu: Trong vô số kiếp thứ nhất, đã cúng dường bảy vạn năm ngàn Đức Phật. Nơi vô số kiếp tiếp theo, đã cúng dường bảy vạn sáu ngàn Đức Phật. Trong vô số kiếp thứ ba, đã cúng dường bảy vạn bảy ngàn Đức Phật. Như vậy, nơi ba vô số kiếp, mỗi mỗi thời đều viên mãn, cùng với thời gian mới phát tâm đều gặp chư vị Phật nào?

* Tụng viết:

Đủ ba vô số kiếp

Nghịch thứ gặp Thắng Quán

Phật Nhiên Đăng, Bảo Kế

Thích Ca Mâu Ni đầu.

* Luận nêu: Nói nghịch thứ: Là từ sau hướng về trước. Nghĩa là nơi vô số kiếp thứ ba viên mãn, đã gặp và phụng sự Đức Phật hiệu là Thắng Quán. Vô số kiếp thứ hai viên mãn, đã gặp và phụng sự Đức Phật hiệu là Nhiên Đăng. Nơi vô số kiếp thứ nhất viên mãn, đã gặp và phụng sự Đức Phật hiệu là Bảo Kế. Thời kỳ đầu tiên mới phát tâm, đã gặp Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nghĩa là Đức Thế Tôn của Ta, vào thời xa xưa khi còn ở vị Bồ-tát, đầu tiên đã gặp một vị Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, bèn ở trước vị Phật ấy phát thệ nguyện rộng lớn: Con xin nguyện sẽ làm Phật hoàn toàn như Đức Thế Tôn hôm nay! Đức Phật kia cũng xuất thế nơi kiếp sau cùng. Sau khi diệt độ, chánh pháp cũng trụ một ngàn năm. Thế nên Đức Như Lai ngày nay, mỗi mỗi đều đồng với Đức Phật kia.

Bồ-tát Thích Ca ở trong phần vị nào đã tu tập viên mãn pháp Ba-la-mật-đa nào?

Chỉ do bi thí khắp

Bị xẻ thân không giận

Tán thán Phật Để Sa

Đến Bồ-đề vô thượng.

Sáu Ba-la-mật-đa

Nơi bốn vị như thế

Một hai lại một hai

Thứ lớp tu viên mãn.

* Luận nêu: Như khi Bồ-tát đối khắp hết thảy chúng sinh, có thể bố thí tất cả, cho đến đầu mắt não tủy. Hành trì tuệ xả như thế chỉ do tâm bi. Không phải là tự mong cầu cho sự sống thù thắng sai biệt. Được như thế là đã tu tập Bố thí Ba-la-mật-đa viên mãn. Hoặc có lúc Bồ-tát bị chặt đứt các chi phần nơi thân, tuy chưa lìa hẳn dục tham, nhưng tâm không chút giận dữ. Được như thế là đã tu tập Nhẫn nhục Ba-la-mật-đa viên mãn. Hoặc có khi Bồ-tát đã tinh tấn dũng mãnh hành hóa, nhân đấy được gặp Đức Như Lai Để Sa, đang an tọa trong tòa báu, nhập định hỏa giới, uy quang rực rỡ khác thường. Bồ-tát đã chuyên tâm thành kính quỳ mọp chiêm ngưỡng, trải qua bảy ngày đêm không hề mệt mỏi. Tâm tịnh dùng kệ vi diệu tán thán Phật Để Sa:

Trời đất cõi này: Nhà đa văn

Xứ Thệ cung Thiên mười phương không

Trượng phu, ngưu vương, Đại Sa-môn

Tìm khắp núi rừng không gì bằng.

Tán thán như thế rồi liền vượt qua chín kiếp. Ngang với mức ấy là đã tu tập viên mãn Tinh tấn Ba-la-mật-đa. Hoặc có khi Bồ-tát ngồi nơi tòa Kim cang, sắp chứng đắc quả vị Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng. Tiếp theo, trước quả vị Vô thượng giác là trụ nơi định kim cang dụ. Đạt đến mức ấy là đã tu tập viên mãn Định, Tuệ Ba-la-mậtđa. Do có thể đi đến bờ kia từ chỗ trụ nơi công đức viên mãn, nên sáu thứ pháp này gọi là Ba-la-mật-đa.

Như Khế kinh nói: Có ba sự phước nghiệp: (1) Sự phước nghiệp loại thí. (2) Sự phước nghiệp loại giới. (3) Sự phước nghiệp loại tu. Ở đây, vì sao lập tên gọi sự phước nghiệp?

* Tụng viết:

Ba loại thí giới tu

Đều tùy chỗ ứng hợp

Nhận tên sự phước nghiệp

Sai biệt như nghiệp đạo.

* Luận nêu: Ba loại đều là phước, hoặc nghiệp, hoặc sự, theo chỗ ứng hợp, nói như nghiệp đạo. Nghĩa là như phân biệt trong mười nghiệp đạo, có nghiệp cũng là đạo, có đạo không phải là nghiệp. Ở đây: Có phước cũng là nghiệp cũng là sự. Có phước là nghiệp không phải là sự. Có phước là sự không phải là nghiệp. Có phước chỉ là phước, không phải là nghiệp, không phải là sự. Lại, trong loại thí, hai nghiệp thân ngữ đã có đủ ba thứ tên, nghĩa của phước nghiệp sự. Tư (Ý nghiệp) cùng khởi kia chỉ gọi là phước nghiệp. Pháp cùng có của tư chỉ nhận lấy tên phước. Về loại giới, tánh đã đạt chỉ là nghiệp thân ngữ, nên đều thọ nhận đủ tên gọi phước nghiệp sự. Nơi loại tu, từ chỉ gọi là phước, sự, là sự của nghiệp. Tư tương ưng với từ, dùng từ làm môn để hành tác. Từ cùng với tư nghiệp chỉ gọi là phước nghiệp. Pháp cùng có khác chỉ nhận lấy tên phước. Hoặc tên gọi phước, nghiệp là làm rõ về nghĩa tạo phước. Tức sự gia hạnh của phước là hiển bày về chỗ dựa. Nghĩa là thí giới tu là sự của phước nghiệp. Vì thành tựu ba thứ ấy nên khởi gia hạnh của phước. Có thuyết cho: Chỉ tư là phước – nghiệp chân thật. Sự của phước nghiệp tức là thí giới tu. Do ba pháp gì gọi là thí? Thí đã chiêu cảm quả gì?

* Tụng viết:

Do xả ấy gọi thí

Cúng dường tạo lợi ích

Thân ngữ cùng phát khởi

Chiêu cảm quả phước lớn.

* Luận nêu: Tuy vật của đối tượng xả thí cũng được mang tên là thí, nhưng ở trong đây nói xả bỏ được thực hiện đầy đủ gọi là thí. Nghĩa là do được thực hiện đầy đủ này nên sự xả thí được thành tựu. Nguyên do xả bỏ là Thể của thí chân thật. Hoặc do sợ hãi, mong cầu, tham v.v…, sự việc xả bỏ cũng thành, nhưng không phải là ý ở đây nói. Để phân biệt với các trường hợp kia nên nói câu: “Cúng dường tạo lợi ích”. Nghĩa là vì đối với kẻ khác, nhằm cúng dường tạo lợi ích mà có đối tượng xả thí. Ở đây, sự thực hiện đầy đủ gọi là thí. Tên gọi của sự thực hiện thí đầy đủ là gì? Nghĩa là thân ngữ nghiệp cùng với chủ thể phát tâm ấy. Chủ thể phát tâm nghĩa là gì? Là căn thiện không tham cùng khả năng sinh khởi tụ ấy. Như có Tụng nói:

Nếu người do tâm tịnh

Xả kỷ mà hành thí

Sát-na uẩn thiện này

Lập chung tên là thí.

Nên biết, loại thí như thế là phước nghiệp sự. Có thể chiêu cảm được sự giàu có lớn nơi hiện tại, là quả. Nói phước của loại thí là làm rõ nghĩa của thí là Thể. Như vật dụng của loại lá, nhà cửa của loại cỏ. Nói loại giới, tu nên căn cứ theo đây để giải thích. Vì nhằm tạo lợi ích gì mà hành bố thí?

* Tụng viết:

Vì lợi ích tự tha

Không vì hai hành thí.

* Luận nêu: Ở đây, tất cả các loại dị sinh (Phàm phu) chưa là dục tham cùng đã lìa dục tham, đem những vật hiện có của mình phụng thí nơi tháp miếu, thì thí này gọi là chỉ vì tự lợi chẳng phải là lợi tha. Do thí này là tự mình đạt được lợi ích. Nếu các Thánh giả đã lìa dục tham, bố thí cho các hữu tình, trừ loại thuận hiện thọ, thì thí này gọi là chỉ vì tạo lợi ích cho kẻ khác. Vì kẻ khác do thí này nên đạt được lợi ích, không phải vì tự lợi. Do đã vượt địa của quả. Nếu tất cả các loại dị sinh chưa lìa dục tham cùng đã lìa dục tham kia đem những vật dụng hiện có của mình bố thí cho các hữu tình, thì thí này gọi là cả hai cùng có lợi ích. Hoặc các Thánh giả kia đã lìa dục tham, phụng phí nơi tháp miếu, trừ loại thuận hiện thọ, thì thí này gọi là không vì lợi ích cả hai. Do đây chỉ là cung kính báo ân.

Trước đã biện minh chung về thí chiêu cảm sự giàu có lớn. Nay tiếp theo sẽ biện về nhân khác của quả thí.

* Tụng viết:

Do chủ, của, ruộng khác

Nên quả thí sai biệt.

* Luận nêu: Thể có sai biệt do ba thứ nhân: Nghĩa là chủ, của cải, ruộng có sai biệt. Thí sai biệt nên quả có sai biệt. Do thí chủ sai biệt là thế nào?

* Tụng viết:

Chủ khác do nơi tin

Kính trọng hành bố thí

Được tôn trọng yêu mến

Đúng thời, khó mất quả.

* Luận nêu: Do thí chủ có các công đức như thành tín, giới, văn (Hiểu biết) v.v… có sai biệt, nên gọi là chủ khác. Do chủ khác nên thí thành sai biệt. Do thí có sai biệt nên quả đạt được có khác. Có các thí chủ gồm đủ công đức như thế, có thể như pháp hành bốn thứ thí như kính trọng v.v… Như thứ lớp liền đạt được bốn thứ quả như tôn trọng v.v… Nghĩa là nếu thí chủ hành thí kính trọng, tức chiêu cảm thường được kẻ khác tôn trọng. Nếu tự tay bố thí, liền có thể chiêu cảm được ở nơi tài sản rộng lớn, yêu thích thọ dụng. Nếu hành thí đúng thời thì chiêu cảm của cải vật dụng hợp thời, những thứ cần dùng đều hợp thời, không quá thời. Nếu hành thí không gây tổn hại, tức chiêu cảm được tài sản vật dụng nuôi sống không bị kẻ khác xâm đoạt, cùng lửa v.v… hủy hoại. Do của cải của đối tượng bố thí có sai biệt là thế nào?

* Tụng viết:

Của khác do nơi sắc v.v…

Được sắc diệu, tên tốt

Chúng yêu, thân mềm mại

Có tùy thời lạc xúc.

* Luận nêu: Do của cải được đem bố thí hoặc thiếu hoặc đủ sắc hương vị xúc, như thứ lớp tức được quả hoặc thiếu hoặc đủ sắc diệu v.v… Nghĩa là của cải được đem bố thí có sắc đầy đủ nên liền chiêu cảm sắc diệu. Hương đầy đủ nên liền chiêu cảm danh tiếng tốt, như hương thơm lan tỏa khắp các phương. Vị đầy đủ nên liền chiêu cảm được chúng yêu mến, như vị ngon ngọt thì được nhiều người yêu thích. Xúc đầy đủ nên liền chiêu cảm thân mềm mại cùng tùy thời sinh xúc do lạc thọ, như nữ báu v.v… (Thuộc Chuyển luân vương). Quả có giảm là do nhân thiếu. Như vậy, cũng do đầy đủ sắc, hương v.v… nên gọi là của cải khác. Do của cải đem bố thí có khác, nên Thể cùng quả của thí đều có sai biệt. Do ruộng của đối tượng thí có sai biệt là thế nào?

* Tụng viết:

Ruộng khác do nẻo, khổ

Ân đức có sai biệt.

* Luận nêu: Ruộng của đối tượng bố thí, do nẻo, khổ, ân, đức đều có sai biệt, nên gọi là Ruộng khác. Do ruộng khác nên quả của thí có khác. Do nẻo khác: Như Đức Thế Tôn nói: Nếu thí cho loài bàng sinh thì thọ nhận quả gấp trăm lần. Thí cho người phạm giới thì thọ nhận quả gấp ngàn lần. Do khổ khác: Như bảy hữu. Dựa trong sự phước nghiệp, trước nói nên bố thí cho người khách, thí cho người đi đường, người bệnh, người nuôi bệnh, người đã đem vườn rừng hiến cúng cho các chùa, người đã dùng thức ăn thường ngày cúng dường chúng Tăng, người đã đúng lúc cung cấp thức ăn uống, y phục v.v… cho những kẻ bị bệnh do lạnh nóng gió v.v… Lại nói: Nếu có người nam người nữ tâm tin thanh tịnh, thành tựu bảy thứ hữu dựa nơi sự phước nghiệp này như đã nói, thì phước đức đạt được là không thể lường tính. Do ân khác: Như đối với cha mẹ, Sư trưởng cùng những vị khác có ân đối với mình. Như trong Kinh Bản Sinh đã nói về gấu, hươu v.v… là các loài có ân. Do đức khác: Như Khế kinh nói: Nếu thí cho người trì giới thì thọ nhận quả gấp hàng ức lần. Nơi các thứ thí thì thí nào là phước tối thắng?

* Tụng viết:

Bồ-tát thoát nơi thoát

Thí thứ tám: Tối thắng.

* Luận nêu: Đức Bạc-già-phạm nói: Nếu người lìa nhiễm đối với người lìa nhiễm, thí các thứ của cải, vật dụng nuôi sống, thì ở trong tài thí, thí ấy là tối thắng. Hoặc các Bồ-tát hành trì tuệ thí, là nhân tạo lợi lạc khắp các hữu tình, tuy không gọi là giải thoát thí đối với giải thoát, nhưng ở nơi thí phước cũng là tối thắng. Trừ loại này, lại có tám thứ bố thí, trong ấy loại thí thứ tám, phước cũng là tối thắng.

Tám thứ thí là những gì? Đó là: (1) Bố thí tùy theo nơi đến. (2) Bố thí vì sợ hãi. (3) Bố thí vì báo ân. (4) Bố thì vì cầu được báo đáp. (5) Bố thí vì hành theo người trước. (6) Bố thí vì mong cầu sinh thiên. (7) Bố thí vì mong có được danh tiếng. (8) Bố thí vì để trang nghiêm tâm, vì để hỗ trợ nuôi dưỡng tâm, vì để cúng dường các vị Du-già, vì nhằm đạt được nghĩa thắng thượng.

Bố thí tùy theo nơi đến: Sư Túc Cựu nói: Tùy theo nơi chốn gần mình đi đến mới có thể bố thí. Bố thí vì sợ hãi: Nghĩa là thấy các thứ của cải này, tướng hoại đã hiện tiền, nên đem bố thí để khỏi bị mất. Bố thí vì hành theo người trước: Nghĩa là thuận theo gia pháp của tổ tiên là những người trước đã làm nên hành bố thí. Các thứ thí còn lại dễ hiểu nên không giải thích riêng.

Như nơi Khế kinh nói: Thí cho vị hướng Dự lưu thì quả đạt được là vô lượng. Thí cho vị chứng quả Dự lưu thì lượng quả đạt được lại tăng. Cho đến nói rộng. Vậy từng có thí cho người không phải là Thánh, quả đạt được cũng vô lượng chăng?

* Tụng viết:

Cha mẹ, bệnh, Pháp sư

Bồ-tát đời sau cùng

Như chẳng phải chứng Thánh

Quả thí cũng vô lượng.

* Luận nêu: Năm loại như thế đều là hàng phàm phu, nếu như chỉ thí cho họ cũng có thể chiêu cảm quả vô lượng. Trụ nơi hữu sau rốt gọi là đời sau cùng. Trong bốn thứ ruộng phước thì Pháp sư thuộc về ruộng phước nào? Là thuộc về ruộng phước ân. Vì sao? Vì Pháp sư là hàng Đại thiện hữu của các thế gian. Vì đối với những kẻ bị vô minh làm cho mù tối, Pháp sư có thể thí cho họ mắt tuệ, có thể mở bày chỉ rõ về sự việc an nguy của thế gian, khiến hữu tình sinh khởi pháp thân vô lậu. Nói tóm tắt, Pháp sư thuyết giảng điều thiện, cho đến có thể vì Phật hành tác các sự việc. Nên đối với vị ấy hành bố thí, tức chiêu cảm quả vô lượng. Muốn nhận biết tướng nặng nhẹ của các nghiệp, tức nên nhận biết về nghiệp nặng nhẹ lược do sáu nhân.

Sáu nhân ấy là những gì?

* Tụng viết:

Hậu khởi, ruộng, căn bản

Gia hạnh, tư, ý lạc

Do nơi dưới trên ấy

Nghiệp thành phẩm hạ thượng.

* Luận nêu: Hậu khởi: Là nghiệp đã tạo rồi, theo đấy mà hành tác. Ruộng: Là đối với ruộng phước kia đã tạo tổn hại hay làm tăng ích. Căn bản: Là nghiệp đạo căn bản. Gia hạnh: Là đã dẫn khởi thân nghiệp ngữ nghiệp kia. Tư: Nghĩa là do tư ấy nên nghiệp đạo đã hoàn thành. Ý lạc: Là những ý nghĩ sâu xa hiện có: Ta nên tạo tác như vậy như vậy. Ta sẽ hành tác như thế như thế. Hoặc có các nghiệp chỉ do hậu khởi đã thâu nhận, nên thành phẩm nặng, nhất định an lập quả dị thục kia. Hoặc có các nghiệp do nơi ruộng phước nên thành nặng. Hoặc có trường hợp đối với ruộng phước, do sức mạnh của căn bản nên thành nặng, không phải do thứ khác. Như đối với cha mẹ là ruộng phước, hành sát hại là tội nặng, không phải là các nghiệp như trộm cắp v.v… Do các thứ còn lại hành nặng nên đối chiếu với đây để suy xét. Nếu có đủ sáu nhân đều là phẩm thượng, nghiệp ấy là cực nặng. Trái với đó là nhẹ nhất. Trừ hai thứ này, trung gian là không phải rất nặng rất nhẹ. Như Khế kinh nói có hai thứ nghiệp: Là nghiệp tạo tác và nghiệp tăng trưởng. Do nơi nhân gì nói là nghiệp tăng trưởng? Do năm thứ nhân. Những gì là năm nhân?

* Tụng viết:

Do thẩm tư, trọn đủ

Không ố tác đối trị

Có trợ bạn dị thục

Nghiệp ấy gọi tăng trưởng.

* Luận nêu: Do thẩm tư: Nghĩa là nghiệp đã tạo kia, không phải là trước hoàn toàn không có suy xét, lường tính. Không phải đột nhiên tư tạo. Do trọn đủ: Nghĩa là trong các hữu tình, hoặc do một hành ác liền bị đọa vào nẻo ác. Hoặc cho đến ba hành ác. Hoặc do một nghiệp đạo ác, tức bị đọa nơi nẻo ác. Hoặc cho đến mười nghiệp đạo ác. Ở đây, nếu có hữu tình tạo nghiệp ngang bằng với mức ấy tức nên đọa vào nẻo ác. Lúc chưa trọn đủ chỉ gọi là tạo tác, không gọi là tăng trưởng. Do không ố tác đối trị: Nghĩa là nghiệp tạo rồi không có hối hận, không có đối trị. Do có trợ bạn: Nghĩa là tạo nghiệp bất thiện thì bất thiện là trợ bạn. Do dị thục: Nghĩa là nghiệp tạo nhất định đưa đến dị thục (Quả báo). Nên biết là thiện tức trái với đây. Khác với các nghiệp này gọi là tạo tác.

Như trước đã nêu rõ: Các hữu tình chưa lìa dục v.v…, đem các vật dụng mình hiện có phụng thí nơi tháp miếu, thì thí này gọi là chỉ vì tự lợi ích. Đã không có người thọ nhận, thì phước làm sao thành?

* Tụng viết:

Phước tháp miếu loại xả

Như từ bi, không thọ.

* Luận nêu: Phước có hai loại: Là xả và thọ. Phước thuộc loại xả: Nghĩa là do tâm thiện, chỉ xả bỏ của cải vật dụng để hành thí thì phước của thí liền khởi. Phước thuộc loại thọ: Nghĩa là ruộng phước của đối tượng thí thọ dụng vật thí thì phước của thí mới khởi. Ở nơi tháp miếu đã phụng thí, cúng dường vật dụng, tuy không có phước thuộc loại thọ nhận, nhưng có phước thuộc loại xả thí. Nơi tháp miếu kia đã không thọ nhận thì phước do đâu sinh? Lại do nhân gì để nhận biết? Phước sinh khởi chủ yếu là do người được thí kia thọ nhận, không thọ nhận thì không sinh. Không thọ nhận nơi người khác thì không gồm thâu lợi ích. Điều ấy không phải là chứng cớ quyết định. Nếu phước chủ yếu thành là do tạo lợi ích cho kẻ khác, thì tu từ v.v… cùng chánh kiến v.v… tức nên không sinh phước. Vì thế nên thừa nhận là cúng dường nơi tháp miếu có nhiều phước sinh. Như tu từ

v.v… Nghĩa là có một hữu tình tu các định như từ v.v…, tuy không có người thọ nhận, cùng tạo lợi ích cho kẻ khác, nhưng từ nơi tâm của người ấy đã sinh vô lượng phước. Như vậy, bậc có đức, tuy đã mất, đã là quá khứ, nhưng nhớ tưởng đến, hiện bày sự cung kính cúng dường, thì phước do tự tâm sinh đâu phải là không có thực. Thí này là hành nghiệp cung kính. Tâm không như thế thì nghiệp phát khởi mới là vượt hơn. Nghĩa là như có một hữu tình muốn sát hại kẻ oán đối, kẻ oán đối kia đã chết, nhưng người này vẫn còn mang tưởng oán hận, phát khởi vô số nghiệp thân ngữ ác, sinh nhiều phi phước, chẳng phải chỉ như khởi tâm. Như thế, bậc Đại sư tuy đã là quá khứ, nhưng nhớ tưởng, hiển bày rộng sự cung kính cúng dường, khởi nghiệp thân ngữ mới sinh nhiều phước, không phải chỉ là khởi tâm. Nếu ở nơi ruộng phước thiện gieo trồng hạt giống của nghiệp thí, thì có thể chiêu cảm quả ái. Nếu ở nơi ruộng phước xấu ác, tuy bố thí, tức nên chỉ chiêu cảm quả phi ái. Điều này không phải như vậy. Vì sao?

* Tụng viết:

Ruộng xấu có quả ái

Trồng quả không điên đảo.

* Luận nêu: Hiện thấy trong ruộng, việc gieo trồng quả là không đảo ngược. Từ hạt giống Mạt-độ-ca gieo trồng thì sinh quả Mạt-độ-ca, vị của nó là rất ngon. Từ hạt giống Nhẫm-bà gieo trồng thì sinh quả Nhẫm-bà, vị của nó rất đắng. Như vậy, không phải do lực dụng của ruộng mà việc gieo trồng quả có đảo ngược. Cũng thế, thí chủ tuy ở nơi ruộng xấu ác, nhưng có tâm tạo lợi ích cho kẻ khác, thì công việc gieo trồng các hạt giống thí, chỉ chiêu cảm quả ái, không chiêu cảm quả phi ái. Tuy nhiên, do lỗi của ruộng nên khiến việc gieo trồng, hoặc sinh quả ít, hoặc quả hoàn toàn không có.

Phần luận thêm về phước nghiệp sự của loại thí đã rõ. Nay tiếp theo nên biện về phước nghiệp sự của loại giới.

* Tụng viết:

Lìa phạm giới cùng ngăn

Gọi giới đều có hai

Không nhân phạm giới hoại

Dựa nơi trị diệt tịnh v.v…

* Luận nêu: Các thứ sắc bất thiện gọi là phạm giới. Ở đây, tánh tội lập tên gọi phạm giới. Già tội (Ngăn cấm) nghĩa là ngăn cấm các tội ăn phi thời v.v… Tuy không phải là tánh tội, nhưng Đức Phật vì để bảo vệ pháp cùng tâm ý riêng khác của hữu tình nên đã ngăn cấm. Người thọ giới rồi mà phạm cũng gọi là phạm giới. Để phân biệt với tánh tội nên chỉ lập tên già tội. Lìa tánh tội cùng già tội thì cùng gọi là giới. Giới này đều có hai, là biểu, vô biểu, do nghiệp thân ngữ là tự tánh. Đã lược biện về tự tánh của giới có sai biệt. Nếu gồm đủ bốn đức thì được mang tên là thanh tịnh. Nếu cùng với đấy trái nhau thì gọi là không thanh tịnh. Nói bốn đức là: (1) Không bị phạm giới hủy hoại. Phạm giới nghĩa là các thứ sắc bất thiện đã nói ở trước. (2) Không bị nhân của sự phạm giới kia hủy hoại. Nhân của sự phạm giới kia là các phiền não, tùy phiền não như tham v.v… (3) Dựa nơi đối trị. Nghĩa là dựa nơi các pháp niệm trụ v.v… Các pháp này có thể đối trị việc phạm giới cùng nhân của nó. (4) Dựa nơi diệt. Nghĩa là dựa nơi Niết-bàn, hồi hướng về Niết-bàn, chứ không phải là về một đời sống thù thắng nào khác. Chữ Đẳng (Vân vân: Dựa nơi trị diệt tịnh v.v…) là làm rõ lại có thuyết khác. Có thuyết cho: Giới tịnh do năm thứ nhân: (1) Căn bản tịnh. (2) Quyến thuộc tịnh. (3) Không có tầm hại. (4) Niệm thâu giữ. (5) Hồi hướng về tịch diệt. Có Sư khác nói: Giới có bốn loại: (1) Giới sợ hãi. Nghĩa là vì sợ không sống nổi, sợ tiếng xấu ác, sợ bị trị phạt, sợ bị đọa vào nẻo ác, nên thọ giữ Thi la. (2) Giới hy vọng. Nghĩa là do tham có các ngôi vị hơn hẳn có nhiều tài sản, được cung kính, xưng tán, nên thọ trì tịnh giới. (3) Giới thuận giác chi. Nghĩa là vì cầu giải thoát cùng chánh kiến v.v… nên thọ trì tịnh giới. (4) Giới thanh tịnh. Nghĩa là giới vô lậu. Tức giới ấy có thể vĩnh viễn lìa bỏ các thứ cấu uế của nghiệp, Hoặc. Đã biện về loại giới. Loại tu sẽ biện.

* Tụng viết:

Đẳng dẫn thiện gọi tu

Có thể huân tập tâm.

* Luận nêu: Nói Đẳng dẫn thiện, Thể ấy là gì? Nghĩa là tự tánh vốn có của Tam-ma-địa. Tu gọi là nghĩa gì? Nghĩa là huân tập tâm, do địa định thiện, đối với tâm tương tục có thể huân tập trọn vẹn khiến thành loại đức. Như hoa tỏa hương xông phủ khắp lùm cây cỏ. Thế nên riêng gọi là tu. Hai loại giới, tu đã chiêu cảm như thế nào?

* Tụng viết:

Giới, tu, thắng, thứ lớp

Cảm sinh thiên, giải thoát.

* Luận nêu: Giới chiêu cảm sinh thiên. Tu chiêu cảm giải thoát. Chữ Thắng (Nơi câu tụng trên) là làm rõ căn cứ theo chỗ hơn (Thắng) để nói. Nghĩa là thí cũng có thể chiêu cảm quả sinh thiên, nhưng theo chỗ hơn nên nói là giới. Trì giới cũng có thể chiêu cảm quả ly hệ (Giải thoát), nhưng theo chỗ hơn nên nói là tu. Kinh nói: Có bốn hạng người có thể sinh khởi phạm phước: (1) Vì để cúng dường Đức Như Lai, nên đã làm việc không tiền công, tạo dựng tháp ở những nơi chốn chưa từng có. (2) Vì để cúng dường bốn phương Tăng, nên tạo lập chùa, phụng thí vườn cây, bốn sự cung cấp đầy đủ. (3) Đệ tử của Phật bị phá rồi, có thể khiến hòa hợp. (4) Đối với các hữu tình, tu rộng khắp tâm từ v.v… Như vậy, lượng của phạm phước là thế nào?

* Tụng viết:

Chiêu cảm kiếp sinh thiên v.v…

Là lượng một phạm phước.

* Luận nêu: Các Sư quỹ phạm trước nói như thế này: Tùy theo phước có thể chiêu cảm quả báo một kiếp sinh lên xứ trời, thọ nhận các thứ diệu lạc, là lượng của một phước. Do chỗ chiêu cảm kia, thời gian thọ dụng diệu lạc đồng với thọ lượng một kiếp của trời Phạm Phụ. Do đấy nơi Bộ khác có kệ nói:

Người có tín chánh kiến

Tu tập mười thắng hạnh

Tức là sinh phạm phước

Chiêu cảm kiếp thiên lạc.

Sư Tỳ-bà-sa cho: Tức ở trong phần nói về nghiệp phân biệt tướng diệu đã biện về lượng của phước. Ở đây tức đồng với chỗ đã biện kia. Chữ vân vân (Đẳng: Chiêu cảm kiếp sinh thiên v.v…) là làm rõ có các thuyết khác như thế.

Đã nói về tài thí. Pháp thí thì thế nào?

* Tụng viết:

Pháp thí là như thật

Không nhiễm, biện giải kinh.

* Luận nêu: Nếu có thể đúng như thật, vì các hữu tình, do tâm không nhiễm, biện giảng về Khế kinh v.v…, khiến họ sinh hiểu biết đúng đắn, thì gọi là pháp thí. Nếu có tâm điên đảo hoặc nhiễm ô, cầu lợi, tiếng khen, được cung kính để biện giảng, thì người này tức làm tổn hại phước lớn của mình và người.

Trước đã giải thích riêng về ba thứ phước nghiệp sự. Nay sẽ giải thích trong kinh nói về thiện của thuận ba phần.

* Tụng viết:

Thuận phước, thuận giải thoát

Thuận phần quyết trạch: ba

Cảm quả ái, Niết-bàn

Thứ lớp Thánh đạo thiện.

* Luận nêu: Nói thuận phần phước: Nghĩa là chiêu cảm thiện nơi quả khả ái của thế gian. Thuận phần giải thoát: Nghĩa là nhất định có thể chiêu cảm thiện của quả Niết-bàn. Thiện này sinh rồi, khiến hữu tình kia được gọi là trong thân có pháp Niết-bàn. Nếu có người nghe nói về sinh tử có lỗi lầm, các pháp là vô ngã, Niếtbàn có đức, thì lông thân dựng lên, thống thiết rơi lệ, nên biết là người ấy đã gieo trồng thiện của thuận phần giải thoát. Như thấy do được mưa nên nơi sân đất có mầm mộng sinh, tức nhận biết ở chỗ đất lõm xuống ấy trước có hạt giống. Thuận phần quyết trạch: Nghĩa là gần như có thể chiêu cảm thiện nơi quả của Thánh đạo. Tức bốn gia hạnh như noãn v.v… (Phần sau sẽ nói rộng). Như thế gian đã nói về các thứ sách vở, in ấn, toán, văn, số. Năm thứ ấy tự thể là gì?

* Tụng viết:

Các như lý đã khởi

Ba nghiệp cùng chủ phát

Thứ lớp là tự thể

Sách, in, toán, văn, số.

* Luận nêu: Như lý khởi: Là gia hạnh chân chính sinh. Ba nghiệp nên biết tức là thân ngữ ý. Chủ thể phát khởi tức là có thể sinh khởi ba nghiệp ấy. Như chỗ ứng hợp kia, là các pháp như thọ, tưởng v.v… Ở đây, nói sách, in ấn, là dùng thân nghiệp ở trước cùng với chủ thể phát khởi kia là năm uẩn, làm Thể. Tiếp đến, toán, văn, dùng ngữ nghiệp ở trước cùng với chủ thể phát khởi kia là năm uẩn, làm Thể. Sau là số, nên biết là dùng ý nghiệp ở trước, cùng với chủ thể phát khởi kia là bốn uẩn, làm Thể. Tức chỉ do ý tư mới có thể tính đếm các pháp. Nay nên lược biện về dị danh của các pháp.

* Tụng viết:

Thiện vô lậu gọi diệu

Nhiễm có tội, che, kém

Thiện hữu vi ưng tập

Giải thoát gọi vô thượng.

* Luận nêu: Pháp thiện vô lậu cũng gọi là diệu. Các pháp nhiễm ô cũng gọi là có tội, có che giấu và thấp kém. Căn cứ theo chỗ diệu – kém này, trong phần còn lại đã thành, nên tụng không biện. Các thiện hữu vi cũng gọi là ưng tập. Phần không phải là ưng tập còn lại, nghĩa căn cứ theo đây đã thành. Vì sao vô vi không gọi là ưng tập? Do không thể thường xuyên hành tập khiến tăng trưởng. Lại, hành tập là quả. Vì vô vi này là không quả. Giải thoát, Niết-bàn cũng gọi là vô thượng. Do không một pháp có thể vượt hơn Niết-bàn. Vì đấy là thiện, là thường, siêu vượt các pháp. Pháp còn lại là hữu thượng, nghĩa căn cứ theo đấy đã thành.

HẾT – QUYỂN 18