LUẬN A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ
Tác giả: Tôn giả Thế Thân
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ 

 

QUYỂN 1

Phẩm thứ 1: PHÂN BIỆT GIỚI, phần 1.

Bậc Nhất thiết chủng diệt các tối

Cứu chúng sinh khỏi bùn sinh tử

Kính lễ Sư như lý như thế

Luận Đối Pháp Tạng con sẽ nói.

Luận nêu: Nay tạo luận là nhằm làm rõ về bậc Đại sư của mình, nơi thể tánh là tôn quý, cao vượt so với các Thánh chúng. Nên trước hết là tán thán về đức, mới bày tỏ sự kính lễ. Chữ Chư (Bậc) được nêu ở đầu câu kệ thứ nhất, là chỉ cho Đức Phật, Thế Tôn. Đây là Bậc có thể phá trừ tối tăm, nên gọi là Minh diệt (Tối tăm diệt). Nói: Nhất thiết chủng chư minh diệt (Nhất thiết chủng diệt các tối): Nghĩa là diệt trừ tất cả các thứ tối tăm nơi các cảnh. Do các thứ vô tri có thể che phủ nghĩa thật, cùng gây chướng ngại cho sự thấy biết chân chính, nên nói chúng (Các thứ vô tri) là tối tăm (Minh). Chỉ có Đức Phật, Thế Tôn là có thể đối trị vĩnh viễn tất cả các thứ tối tăm nơi tất cả cảnh, chứng đắc pháp bất sinh nên gọi là diệt. Hàng Thanh văn, Độc giác tuy diệt trừ được các tối tăm, do còn nhiễm nơi vô tri, chưa đoạn trừ rốt ráo, nên không phải là Nhất thiết chủng. Vì sao? Do chư vị này đối với pháp bất cộng của Phật về thời, xứ là còn cách rất xa, cùng với các nghĩa loại có vô biên sai biệt cũng thế. Không nhiễm nơi vô tri cũng còn chưa đoạn trừ hết chúng huống chi là có nhiễm. Đã tán thán về đức tự lợi viên mãn của Đức Thế Tôn, nên tiếp theo là tán thán về đức lợi tha của Đức Phật: Cứu chúng sinh khỏi bùn sinh tử: Do sinh tử kia là nơi chốn khiến các chúng sinh bị chìm đắm, nên khó có thể ra khỏi, vì thế dụ cho Bùn. Chúng sinh ở trong ấy bị chìm ngập, trôi nổi, không ai cứu vớt. Đức Thế Tôn thương xót các chúng sinh kia, nên tùy theo đấy trao cho họ chánh pháp thích hợp, dùng bàn tay giáo hóa cứu vớt khiến họ ra khỏi. Đã tán thán về đức của Phật, tiếp đến là bày tỏ sự kính lễ. Kính lễ Sư như lý như thế: Cúi lạy sát nơi bàn chân nên gọi là Kính lễ. Các bậc có đủ đức tự lợi, lợi tha như trước nêu, nên gọi là Như thế. Chỉ dạy, trao truyền, khuyên gắng đều thuận hợp như thật, gọi là Sư như lý. Nói Sư như lý là hiển bày về đức lợi tha, có thể tạo phương tiện, nên gọi là chánh giáo như lý. Từ nơi bùn sinh tử, cứu vớt chúng sinh ra khỏi, không do uy lực cùng nguyện, thần thông. Lễ Sư như lý là nhằm làm công việc gì? Luận Đối Pháp Tạng con sẽ nói. Chỉ dạy, khuyên bảo học chúng nên gọi là Luận. Luận này vì sao gọi là Đối Pháp Tạng? Thế nào là Đối Pháp?

– Tụng viết:

Tuệ tịnh tùy hành gọi

Đối Pháp Cùng các

Tuệ luận có thể đạt.

Luận nêu: Tuệ nghĩa là trạch pháp. Tịnh tức là vô lậu. Quyến thuộc của tuệ tịnh gọi là Tùy hành. Như thế nói chung về năm uẩn vô lậu gọi là Đối Pháp. Đây tức là A-tỳ-đạt-ma thắng nghĩa. Nếu nói A-tỳ-đạt-ma thế tục, tức là các tuệ cùng các luận có thể đạt được pháp ấy. Tuệ nghĩa là tuệ sinh đắc, tuệ văn tư tu hữu lậu cùng tùy hành đạt được pháp ấy. Luận nghĩa là truyền giáo sinh tuệ vô lậu. Các tuệ luận này là tư lương của các tuệ tịnh kia, nên cũng được gọi là A-tỳ-đạt-ma. Giải thích về tên gọi: Tức có thể giữ lấy tự tướng nên gọi là Pháp. Nếu là pháp thắng nghĩa thì chính là Niết-bàn. Nếu là pháp của pháp tướng là chung nơi bốn Thánh đế. Đây là có thể đối hướng hoặc có thể đối quán, nên gọi là Đối Pháp. Đã giải thích về Đối Pháp. Vì sao Luận này gọi là Đối Pháp Tạng?

– Tụng viết:

Thâu thắng nghĩa kia, dựa nơi đấy Đây lập tên: Đối Pháp – Câu Xá.

Luận nêu: Do trong Luận Đối Pháp kia, thắng nghĩa đã hội nhập thuộc nơi đấy, nên Luận này được mang tên là Tạng. Hoặc Luận này dựa nơi thắng nghĩa kia, từ nơi thắng nghĩa kia dẫn sinh, là đối tượng thâu chứa của thắng nghĩa ấy nên cũng gọi là Tạng. Thế nên Luận này gọi là Đối Pháp Tạng. Vậy do nhân nào nói A-tỳ-đạtma kia? Bậc nào lại là vị trước tiên nêu giảng A-tỳ-đạt-ma để nay tạo luận nên cung kính giải thích?

– Tụng viết:

Nếu lìa trạch pháp thì nhất định

Không phương tiện hơn diệt các Hoặc

Do Hoặc, thế gian trôi biển Hữu

Nhân đấy truyền Phật nói Đối Pháp.

Luận nêu: Nếu lìa trạch pháp thì không có phương tiện thù thắng có thể diệt trừ các Hoặc. Do các Hoặc có thể khiến cho thế gian trôi nổi lưu chuyển nơi biển lớn sinh tử. Nhân đấy truyền cho là Đức Phật đã thuyết giảng Đối Pháp kia. Muốn khiến thế gian đạt được trạch pháp, nên nếu lìa nói Đối Pháp thì hàng đệ tử không thể ở nơi tướng của các pháp phân biệt chọn lựa đúng như lý. Nhưng Đức Phật Thế Tôn đã thuyết giảng A-tỳ-đạt-ma rải rác nơi khắp các Kinh. Chư vị Đại Thanh văn như Tôn giả Ca Đa Diễn Ni Tử v.v… (Tác giả Luận A Tỳ Đạt Ma Phát Trí: N0 1544, Tập 26) đã kết tập, sắp đặt lại. Cũng như Đại đức Pháp Cứu đã kết tập các bài tụng Ô-đà-nam nói về vô thường thành Phẩm Vô Thường v.v… (Kinh Pháp Cú. N0 210, Tập 4) Các Sư Tỳ-bà-sa đã truyền nói như vậy. Pháp gì gọi là đối tượng được phân biệt lựa chọn kia để nhân đấy truyền cho là Phật thuyết giảng Đối Pháp?

– Tụng viết:

Pháp hữu lậu vô lậu

Trừ đạo còn hữu vi

Nơi lậu kia tùy tăng

Nên nói là hữu lậu.

Vô lậu tức đạo đế

Cùng ba thứ vô vi

Là hư không, hai diệt

Trong ấy, không, vô ngại.

Trạch diệt là ly hệ

Tùy sự buộc đều khác

Hoàn toàn ngăn sẽ sinh

Riêng được phi trạch diệt.

* Luận nêu: Nói tất cả pháp lược có hai thứ: Là hữu lậu và vô lậu. Thế nào là pháp hữu lậu? Là các pháp hữu vi, trừ đạo đế. Vì sao? Vì ở trong ấy, các lậu đã cùng tùy tăng. Còn duyên nơi diệt đế, đạo đế, các lậu tuy sinh khởi nhưng không tùy tăng, nên không phải là hữu lậu. Nghĩa không tùy tăng trong phẩm Tùy Miên tự sẽ nói rõ.

Đã biện về hữu lậu. Thế nào là vô lậu? Nghĩa là đạo Thánh đế cùng ba vô vi. Những gì là ba vô vi? Là hư không và hai diệt. Hai diệt là trạch diệt và phi trạch diệt. Ba thứ vô vi như hư không này v.v… cùng với đạo Thánh đế gọi là pháp vô lậu. Vì sao? Vì các lậu ở đây đã không tùy tăng. Lược nói về ba vô vi: Trong ấy, hư không chỉ do vô ngại làm tánh. Do vô ngại nên sắc hiện hành trong hư không. Trạch diệt tức dùng ly hệ (Lìa trói buộc) làm tánh. Tức xa lìa những thứ trói buộc của các pháp hữu lậu, chứng đắc giải thoát gọi là trạch diệt. Trạch nghĩa là giản trạch (Phân biệt lựa chọn) tức sự sai biệt của tuệ. Đều phân biệt lựa chọn riêng về bốn Thánh đế, nên diệu lực của trạch (Phân biệt lựa chọn) ấy đã chứng đắc diệt, gọi là trạch diệt. Như bò được đóng vào xe thì gọi là xe bò. (Lược bỏ phần giữa nên nói như thế). Tất cả pháp hữu hậu đồng một trạch diệt chăng? Không phải thế. Vậy thế nào là “Tùy sự buộc đều khác?”. Nghĩa là tùy theo lượng của sự trói buộc, thì việc lìa trói buộc cũng như vậy. Nếu không như vậy thì vào lúc chứng đắc diệt do kiến khổ đoạn trừ phiền não, tức nên chứng diệt tất cả các phiền não đã đoạn. Nếu như thế thì tu các pháp đối trị khác tức là vô dụng. Dựa nơi nghĩa nào để nói diệt không đồng loại. Dựa vào nghĩa diệt nơi tự không có nhân đồng loại, cũng chẳng cùng với tha nên nói như thế, không phải là không có đồng loại. Đã nói về trạch diệt. Vĩnh viễn ngăn ngại pháp sẽ sinh tức được phi trạch diệt. Nghĩa là có thể ngăn ngại hoàn toàn pháp vị lai sinh, tức đạt được diệt khác với trước, gọi là Phi trạch diệt. Sự đạt được này không nhân nơi trạch (Phân biệt lựa chọn), chỉ do thiếu duyên. Như mắt cùng với ý lúc chuyên chú về một sắc, thì các sắc thanh hương vị xúc pháp khác đều từ bỏ. Tức nói năm thức thân duyên nơi cảnh giới kia, trụ nơi đời vị lai hoàn toàn không sinh, do trụ ấy không thể duyên nơi cảnh quá khứ, tức duyên không đủ nên được phi trạch diệt. Đối với pháp được diệt nên tạo ra bốn trường hợp:

Hoặc đối với các pháp chỉ được trạch diệt: Nghĩa là các pháp hữu lậu sinh nơi quá khứ, hiện tại.

Hoặc đối với các pháp chỉ được phi trạch diệt. Nghĩa là pháp vô lậu, pháp hữu vi không sinh.

Hoặc đối với các pháp đều cùng được hai diệt. Nghĩa là các pháp hữu lậu kia không sinh.

Hoặc đối với các pháp đều không được hai diệt. Nghĩa là các pháp vô lậu sinh nơi quá khứ hiện tại.

Như thế là đã nói về ba thứ vô vi. Trước đã nói, trừ đạo Thánh đế, các pháp hữu vi còn lại, đó gọi là hữu lậu. Vậy thế nào là hữu vi?

* Tụng viết:

Lại, các pháp hữu vi

Là năm uẩn như sắc

Cũng thế lộ, ngôn y

Cũng hữu ly, hữu sự.

* Luận nêu: Năm uẩn như sắc: Nghĩa là thứ nhất là sắc uẩn, cho đến thứ năm là thức uẩn. Năm pháp như thế là gồm thâu đủ hữu vi. Các duyên tụ tập cùng tạo tác, nên không có một chút pháp nào là do một duyên sinh. Nếu là loại kia thì vị lai là không ngăn ngại. Như sữa, như củi. Pháp hữu vi này cũng gọi là Thế lộ (Lộ trình của thời gian). Do đã hành theo chánh hành nên hành là tánh, hoặc bị vô thường thôn tính, diệt bỏ. Hoặc gọi là Ngôn y (Chỗ dựa ngôn ngữ). Ngôn nghĩa là ngôn ngữ, y này là chỗ dựa, tức danh cùng hợp với nghĩa. Ngôn y như thế là gồm thâu đủ hết thảy các pháp hữu vi. Nếu không như thế tức nên trái với Luận Phẩm Loại Túc đã nêu. Luận kia nói: Ngôn y thuộc về mười tám giới. Hoặc gọi là Hữu ly. Ly nghĩa là vĩnh viễn xuất ly, tức là Niết-bàn. Tất cả pháp hữu vi đều có tánh ly kia. Hoặc gọi là Hữu sự, do có nhân. Sự là nghĩa của nhân. Các Sư Tỳ-bà-sa đã truyền nói như vậy. Những loại như thế là các tên gọi sai biệt của pháp hữu vi. Ở trong đây đã nói về pháp hữu vi này.

* Tụng viết:

Hữu lậu gọi thủ uẩn

Cũng nói là hữu tránh

Cùng khổ tập thế gian

Kiến xứ và ba hữu.

* Luận nêu: Ở đây đã lập về gì? Tức lập thủ uẩn, cũng gọi là uẩn. Hoặc có khi chỉ là uẩn mà không phải là thủ uẩn. Nghĩa là hành vô lậu. Phiền não gọi là thủ. Uẩn từ thủ sinh nên gọi là Thủ uẩn. Như lửa của trấu cỏ. Hoặc uẩn thuộc về thủ nên gọi là thủ uẩn. Như quan của vua. Hoặc uẩn sinh thủ nên gọi là thủ uẩn. Như cây có hoa quả. Pháp hữu lậu này cũng gọi là Hữu tránh. Phiền não gọi là tránh (Tranh cãi, tranh chấp). Là xúc đối làm nghiêng động phẩm thiện. Là làm tổn hại tự tha. Vì tránh là tùy tăng nên gọi là hữu tránh. Giống như hữu lậu. Cũng gọi là khổ, vì trái với tâm Thánh. Cũng gọi là tập, vì có thể chiêu cảm khổ. Cũng gọi là Thế gian, do có thể bị hủy hoại, do có sự đối trị. Cũng gọi là Kiến xứ, do kiến trụ trong ấy, tùy tăng theo tùy miên. Cũng gọi là Ba hữu, do có nhân, có chỗ dựa nên thuộc về ba hữu. Các loại như vậy là biệt danh theo nghĩa của pháp hữu lậu. Vậy sắc uẩn là thế nào?

* Tụng viết:

Sắc chính là năm căn

Năm cảnh cùng vô biểu.

* Luận nêu: Nói năm căn: Đó là các căn nhãn nhĩ tỷ thiệt thân (Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân). Nói năm cảnh: Tức là cảnh giới của năm căn như mắt v.v… Đó là sắc thanh hương vị cùng đối tượng xúc. Và vô biểu: Là vô biểu sắc. Chỉ dựa nơi lượng này để lập tên sắc uẩn. Ở đây, trước nên nói về tướng của năm căn.

* Tụng viết:

Thức kia dựa sắc tịnh

Gọi năm căn như nhãn…

* Luận nêu: Kia: Nghĩa là trước nói năm cảnh như sắc v.v… Thức: Tức là thức của sắc thanh hương vị xúc. Thức kia đã dựa nơi năm thứ sắc tịnh, theo như thứ lớp ấy nên biết. Tức là năm căn như nhãn v.v… Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Mắt nghĩa là nội xứ, là sắc tịnh do bốn đại chủng tạo, lấy đó làm tánh. Như thế cho đến nói rộng. Hoặc lại là kia: Tức trước đã nói về năm căn như mắt v.v… Thức tức là thức của nhãn nhĩ tỷ thiệt thân. Thức ấy đã dựa nơi năm thứ sắc tịnh, gọi là căn như nhãn v.v… Như vậy là thuận với Luận Phẩm Loại Túc. Như Luận ấy nói: Thế nào là nhãn căn? Là sắc tịnh làm chỗ dựa cho nhãn thức, lấy đó làm tánh. Như thế cho đến nói rộng. Đã nói về năm căn, tiếp theo là nói về năm cảnh.

* Tụng viết:

Sắc hai hoặc hai mươi

Thanh chỉ có tám thứ

Vị sáu, hương bốn loại

Xúc mười một là tánh.

* Luận nêu: Nói sắc hai: Tức một là hiển, hai là hình. Hiển sắc có bốn: Là xanh vàng đỏ trắng. Các hiển sắc khác là sự sai biệt của bốn thứ này. Hình sắc có tám: Nghĩa là dài là trước, không ngay là sau. Hoặc hai mươi: Tức sắc xứ này lại nói hai mươi: Tức xanh vàng đỏ trắng, dài ngắn vuông tròn, cao thấp ngay không ngay, mây, khói, bụi, sương mù, ảnh, ánh sáng, sáng tối. Có Sư khác nói: Không là một hiển sắc thứ hai mươi mốt. Ở đây, ngay nghĩa là hình bằng nhau. Hình không bằng nhau gọi là không ngay. Hơi nước nơi đất bốc lên gọi là sương mù. Ánh nắng của mặt trời gọi là ánh sáng (Quang). Các thứ ánh sáng của mặt trăng, tinh tú, thuốc, lửa, ngọc báu, ánh chớp v.v… gọi là sáng (Minh). Ngăn che hai thứ ánh sáng trên, sinh ra từ trong ấy các sắc khác có thể thấy gọi là bóng (Ảnh). Trái với ánh sáng này là tối. Các sắc khác vì dễ hiểu nên ở đây không giải thích. Hoặc có sắc xứ có hiển sắc không có hình sắc. Nghĩa là xanh vàng đỏ trắng, bóng, ánh sáng, sáng tối. Hoặc có sắc xứ có hình sắc không có hiển sắc. Nghĩa là dài v.v… cùng một phần nghiệp thân biểu là tánh. Hoặc có sắc xứ có hiển sắc có hình sắc. Nghĩa là các sắc còn lại. Có Sư khác nói: Chỉ có ánh sáng, sáng v.v… là sắc có hiển không có hình. Hiện thấy nơi thế gian các sắc xứ như xanh vàng v.v… có dài ngắn v.v… Như thế vì sao nơi một sự có đủ hiển, hình? Do ở trong ấy đều cùng có thể nhận biết. Ở đây nói có: Là nghĩa có trí, không phải là nghĩa có cảnh. Nếu như thế thì trong thân biểu cũng nên có hiển trí.

Đã nói về sắc xứ. Nên nói về thanh xứ: Thanh chỉ có tám thứ. Nghĩa là có chấp thọ hoặc không chấp thọ đại chủng làm nhân, cùng tên là hữu tình, tên là phi hữu tình có sai biệt là bốn. Đây lại có hợp ý không hợp ý – có sai biệt thành tám. Âm thanh chấp thọ đại chủng làm nhân: Nghĩa là âm thanh được phát ra từ lời nói, tay chân v.v… Các âm thanh được phát ra từ gió, rừng cây, sông nước v.v…, gọi là âm thanh không chấp thọ đại chủng làm nhân. Âm thanh mang tên hữu tình, nghĩa là nghiệp ngữ biểu. Các âm thanh còn lại gọi là phi hữu tình danh. Có thuyết cho: Có âm thanh chung cho có chấp thọ cùng không chấp thọ đại chủng làm nhân. Như tay đánh trống cùng hợp với âm thanh đã sinh ra. Như không thừa nhận cực vi của một hiển sắc, cả hai thứ do bốn đại tạo. Âm thanh cũng nên như vậy.

Đã nói về thanh xứ. Nên nói về vị xứ. Vị có sáu thứ: Là ngọt chua mặn cay đắng lạt riêng khác.

Đã nói về vị xứ. Nên nói về hương xứ. Hương có bốn loại: Là hương tốt, hương xấu, hương như nhau, hương không như nhau có sai biệt. Trong Bản luận nói hương có ba thứ: Hương tốt, hương xấu cùng hương bình đẳng.

Đã nói về hương xứ. Nên nói về xúc xứ. Xúc có mười một: Nghĩa là các tánh trơn, nhám, nặng, nhẹ của bốn đại chủng cùng lạnh, đói, khát. Về đại chủng phần sau sẽ nói rộng. Mềm mại gọi là trơn láng. Thô mạnh gọi là nhám rít. Có thể cân đo gọi là nặng. Trái với đấy gọi là nhẹ. Muốn ấm áp gọi là lạnh. Muốn ăn gọi là đói. Muốn uống gọi là khát. Ba thứ này là ở nơi nhân lập tên gọi của quả nên nói như thế. Như có tụng nói:

Chư Phật xuất hiện vui

Diễn nói chánh pháp vui

Tăng chúng hòa hợp vui

Đồng tu dũng tiến, vui.

Ở trong cõi sắc không có xúc của đói khát, chỉ có các thứ xúc còn lại. Về y phục của cõi kia nếu để riêng thì không thể cân lường, tập hợp lại thì có thể cân lường. Xúc lạnh ở nơi cõi ấy tuy không thể tổn giảm nhưng có thể tăng ích. Truyền nói như thế. Ở đây đã nói về nhiều thứ sắc xứ. Có khi nhãn thức duyên nơi một sự thì sinh. Nghĩa là vào bấy giờ đều phân biệt nhận biết riêng. Có lúc nhãn thức duyên nơi nhiều sự mới sinh. Nghĩa là vào lúc ấy không phân biệt nhận biết riêng. Như từ xa quan sát đám quân lính đông đảo nơi núi rừng, hoặc các khối ngọc báu có vô lượng hiển hình v.v… Nên biết các thức như nhĩ v.v… cũng thế. Có Sư khác cho: Thân thức duyên tối đa nơi năm xúc khởi. Nghĩa là bốn đại chủng cùng một thứ như trơn láng v.v… Có thuyết nói: Tối đa là duyên chung nơi tất cả mười một xúc khởi. Nếu như vậy thì năm thức duyên chung nơi cảnh, nên năm thức thân nhận lấy cảnh của cộng tướng, không phải là cảnh của tự tướng. Căn cứ theo xứ tự tướng, chấp nhận năm thức thân giữ lấy cảnh của tự tướng, không phải là sự tự tướng. Ở đây có lỗi gì? Nay nên xét chọn. Hai căn thân, lưỡi đều cùng đến với hai cảnh, thì thức nào khởi trước. Tức tùy theo cảnh cường thịnh thì thức kia sinh trước. Cảnh nếu như nhau thì thiệt thức khởi trước. Ăn uống dẫn phát thân khiến tương tục.

Đã nói về căn cảnh cùng giữ lấy tướng của cảnh. Tướng của vô biểu sắc nay sẽ nói.

* Tụng viết:

Tâm loạn cùng không tâm

Tùy lưu tịnh, bất tịnh

Tánh đại chủng đã tạo

Do đấy nói vô biểu.

* Luận nêu: Tâm loạn: Nghĩa là tâm khác với đây. Không tâm: Là nhập định vô tưởng cùng định diệt tận. Chữ đẳng (vân vân) là hiển bày chỉ rõ về không phải tâm loạn và có tâm. Sự nối tiếp tương tợ gọi là Tùy lưu. Thiện cùng với bất thiện gọi là Tịnh, bất tịnh. Vì phân biệt các đắc nối tiếp tương tợ, thế nên lại nói là Đại chủng đã tạo. Tỳbà-sa nói tạo là nghĩa của nhân. Tức là năm thứ nhân đã tạo tác sinh khởi, hiển lập gọi là nhân nên nói là Do đấy. Vô biểu tuy dùng nghiệp sắc làm tánh, như có biểu nghiệp, nhưng không phải là biểu thị khiến kẻ khác nhận biết rõ, vì vậy gọi là Vô biểu. Người nói (Thuyết giả) hiển bày điều ấy là lời nói của Sư Tông (Tỳ-bà-sa). Lược nêu về biểu nghiệp cùng định sẽ sinh sắc thiện bất thiện gọi là vô biểu.

Đã nói về vô biểu do đại chủng đã tạo. Thế nào là đại chủng?

* Tụng viết:

Đại chủng là bốn giới

Tức địa thủy hỏa phong

Có thể thành nghiệp trì v.v…

Tánh cứng ướt nóng động.

* Luận nêu: Địa thủy hỏa phong (Đất nước lửa gió) có thể giữ lấy tự tướng cùng sắc được tạo nên gọi là giới. Bốn giới như thế cũng gọi là đại chủng. Là tánh thuộc chỗ dựa của tất cả sắc còn lại. Do thể rộng lớn, hoặc ở trong các nhóm như địa v.v… đã tăng thịnh, hình tướng lớn. Hoặc khởi vô số dụng của sự lớn. Bốn đại chủng này có thể tạo thành nghiệp gì? Như theo thứ lớp ấy, có thể tạo thành bốn nghiệp trì, nhiếp, thục, trưởng. Địa giới có thể nắm giữ (Trì). Thủy giới có thể gồm thâu (Nhiếp). Hỏa giới có thể làm chín (Thục). Phong giới có thể làm lớn thêm (Trưởng). Trưởng nghĩa là tăng thịnh. Hoặc lại lưu dẫn. Nghiệp dụng đã như thế, còn tự tánh thì thế nào? Như theo thứ lớp kia, tức dùng cứng, ướt, nóng, động làm tánh. Địa giới tánh là cứng chắc. Thủy giới tánh là thấm ướt. Hỏa giới tánh là nóng ấm. Phong giới tánh là lay động. Do đấy có thể dẫn phát sắc do đại chủng tạo, khiến chúng nối tiếp sinh đến phương khác. Như thổi đèn sáng, nên gọi là động. Luận Phẩm Loại Túc cùng Khế kinh nói: Thế nào gọi là Phong giới? Nghĩa là tánh động như nhẹ v.v… Lại nói tánh nhẹ là sắc được tạo. Thế nên tự tánh của phong giới là động. Tức nêu nghiệp dụng để làm rõ về Thể, nên cũng nói là nhẹ. Thế nào là Địa v.v… và các giới như địa v.v… khác nhau?

*  Tụng viết:

Địa là hiển, hình sắc

Theo đời tưởng đặt tên

Thủy hỏa cũng lại thế

Phong tức giới cũng vậy.

* Luận nêu: Địa nghĩa là hiển hình, sắc xứ là Thể, tùy theo tưởng của thế gian giả lập tên gọi ấy. Do các tướng của thế gian chỉ rõ về địa để hiển bày về hình sắc mà cùng chỉ rõ. Phong tức phong giới. Thế gian đối với động lập tên gọi phong, nên hoặc như địa v.v…, tùy theo tưởng của thế gian để lập tên, vì phong cũng hiển bày hình, nên nói là cũng vậy, như thế gian nói hắc phong, đoàn phong (Gió đen, gió xoáy). Dụng này làm rõ về hình, biểu thị về phong. Vì sao uẩn này là vô biểu về sau nói là sắc? Là do biến hoại. Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Do biến hoại nên gọi là sắc thủ uẩn. Cái gì có thể làm biến hoại? Nghĩa là tay chân xúc chạm tức liền biến hoại. Cho đến nói rộng. Biến hoại tức là nghĩa có thể não hoại, nên trong Phẩm Nghĩa đã nói như vầy:

Người hướng cầu các dục

Thường dấy khởi hy vọng

Các dục nếu không đạt

Não hại như trúng tên.

Sắc lại là thế nào khiến dục bị não hoại? Tức bị dục quấy nhiễu não hại khiến sinh biến hoại. Có thuyết cho: Biến ngại nên gọi là sắc.

Nếu như thế thì cực vi tức nên không gọi là sắc, vì không có biến ngại. Vấn nạn này là không đúng. Vì không có một cực vi nào đều ở riêng mà trụ. Rất nhiều cực vi tụ tập, nên nghĩa biến ngại tức thành. Vậy sắc quá khứ vị lai tức nên không gọi là sắc chăng? Sắc này cũng đã từng hoặc sẽ có biến ngại, nên cùng với sắc kia là giống nhau. Như củi đã đốt cháy.

Các vô biểu sắc tức nên không gọi là sắc? Có người giải thích: Biểu sắc có biến ngại, nên vô biểu sắc tùy theo biểu sắc kia cũng nhận lấy tên sắc. Ví như cây cối động thì bóng cũng động theo. Giải thích này không đúng v.v… Vô biểu sắc không có biến ngại. Lại, lúc biểu diệt thì vô biểu tức nên diệt. Như cây cối lúc diệt thì bóng tất diệt theo. Có thuyết giải thích: Chỗ dựa là đại chủng có biến ngại, nên vô biểu nghiệp cũng được mang tên sắc. Nếu như vậy tức chỗ dựa có biến ngại, thì năm thức như nhãn thức v.v… tức nên cũng gọi là sắc? Vấn nạn này là không đủ. Do lúc vô biểu nương dựa nơi đại chủng là để chuyển. Như bóng dựa nơi cây, ánh sáng dựa nơi ngọc báu. Năm thức như nhãn thức v.v… lúc dựa nơi mắt v.v… thì không như thế, vì chỉ có thể tạo ra sự hỗ trợ sinh duyên.

Nhưng ở đây Luận chủ nói bóng dựa nơi cây, ánh sáng dựa nơi ngọc báu lại không thuận hợp với nghĩa của Tỳ-bà-sa. Tông ấy nói bóng v.v… là cực vi của hiển sắc, đều tự nương dựa nơi bốn đại chủng. Nếu như cho bóng, ánh sáng nương dựa nơi cây, ngọc báu mà vô biểu sắc thì không đồng với sự nương dựa kia. Thuyết đó cho chỗ dựa là đại chủng tuy diệt, nhưng vô biểu sắc thì không diệt theo. Vì vậy chỗ nêu bày chưa phải là giải thích về vấn nạn. Lại có giải thích riêng về lời vấn nạn ấy. Luận chủ: Chỗ dựa của năm thức như nhãn thức v.v… là bất định. Hoặc có biến ngại, tức là các căn như mắt v.v… Hoặc không biến ngại, nghĩa là ý vô gián. Chỗ dựa của vô biểu tức không như thế, nên vấn nạn ở trước nhất định là không đủ. Biến ngại gọi là sắc, về lý được thành tựu.

* Tụng viết:

Trong ấy căn cùng cảnh

Nhận là mười xứ giới.

* Luận nêu: Trong đây như trước đã nói về tánh của sắc uẩn, thừa nhận tức căn cảnh là mười xứ giới. Nghĩa là ở nơi môn xứ thì lập làm mười xứ: Là nhãn xứ, sắc xứ, nói rộng cho đến thân xứ, xúc xứ. Nếu ở nơi môn giới thì lập làm mười giới: Là nhãn giới, sắc giới, nói rộng cho đến thân giới, xúc giới.

Đã nói về sắc uẩn cùng lập xứ, giới. Nên nói về xứ giới của ba uẩn như thọ v.v…

* Tụng viết:

Thọ lãnh nạp theo xúc

Tưởng lấy tượng làm Thể

Bốn khác gọi hành uẩn

Như thế thọ cùng ba

Và vô biểu vô vi

Gọi pháp xứ, pháp giới.

* Luận nêu: Thọ uẩn nghĩa là ba, lãnh nạp theo xúc, tức lạc thọ, khổ thọ cùng bất khổ bất lạc thọ. Đây lại phân biệt thành sáu thọ thân. Tức thọ do nhãn xúc sinh, cho đến thọ do ý xúc sinh. Tưởng uẩn nghĩa là khả năng giữ lấy hình tượng làm thể. Tức có thể nắm giữ lấy các tướng như xanh vàng, dài ngắn, nam nữ, oán thân, khổ vui v.v… Đây lại phân biệt thành sáu tưởng thân: Nên nơi như thọ. Trừ trước cùng sau là sắc thọ tưởng thức, tất cả hành còn lại gọi là hành uẩn. Nhưng Đức Bạc-già-phạm (Thế Tôn) ở trong Khế kinh, nói sáu tư thân là hành uẩn, do chúng là hơn hết. Vì sao? Vì hành gọi là tạo tác. Còn tư là tánh của nghiệp, về nghĩa tạo tác thì mạnh nên là hơn hết. Vì thế Đức Phật đã nói: Nếu có thể tạo tác hữu lậu hữu vi thì gọi là hành thủ uẩn. Nếu không như vậy thì tâm sở pháp khác cùng bất tương ưng không phải thuộc về uẩn, nên chẳng phải là khổ tập, tức không thể là nên nhận biết, nên đoạn trừ. Như Đức Thế Tôn nói: Nếu đối với một pháp chưa thấu đạt, chưa nhận biết, Ta nói là không thể tạo được biên vực của khổ. Chưa đoạn chưa diệt nói cũng như vậy. Do đấy nhất định nên thừa nhận trừ bốn uẩn, hành hữu vi còn lại đều thuộc về hành uẩn. Tức ở đây đã nói về thọ tưởng hành uẩn, cùng vô biểu sắc, ba thứ vô vi, bảy pháp như thế ở trong môn xứ lập làm pháp xứ. Ở trong môn giới lập làm pháp giới. Đã nói về xứ giới của ba uẩn như thọ v.v… nên nói về thức uẩn cùng lập xứ giới.

* Tụng viết:

Thức là đều liễu biệt

Đây tức gọi ý xứ

Cùng bảy giới nên biết

Sáu thức chuyển là ý.

* Luận nêu: Mỗi mỗi đều phân biệt nhận biết (liễu biệt) về những cảnh giới kia, nhận lấy chung về tướng của cảnh nên gọi là thức uẩn. Đây lại sai biệt tức có sáu thức thân: Là nhãn thức thân đến ý thức thân. Nên biết như thế là nói về thức uẩn. Ở trong môn xứ lập làm ý xứ. Ở trong môn giới lập làm bảy giới: Là nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Tức sáu thức này chuyển là ý giới. Như vậy là ở đây đã nói về năm uẩn nhận lấy mười hai xứ và mười tám giới. Nghĩa là trừ vô biểu sắc, các sắc uẩn còn lại tức gọi là mười xứ, cũng gọi là mười giới. Thọ tưởng hành uẩn, vô biểu, vô vi gọi chung là pháp xứ, cũng gọi là pháp giới. Nên biết thức uẩn tức gọi là ý xứ cũng gọi là bảy giới: Là sáu thức giới cùng với ý giới. Đâu phải không cho thức uẩn chỉ là sáu thức thân. Khác với ở đây nói, sao lại là ý giới. Tức ở trong đó lại cho là không có pháp khác.

* Tụng viết:

Do tức sáu thức thân

Vô gián diệt là ý.

* Luận nêu: Tức sáu thức thân vô gián diệt rồi, có thể sinh ra thức sau nên gọi là ý giới. Nghĩa như ở đây là con, tức nơi khác gọi là cha. Lại như ở đây là quả, tức chỗ khác gọi là hạt giống. Nếu như vậy thì giới thật tức nên chỉ là mười bảy hoặc mười hai. Sáu thức cùng với ý lại cùng gồm thâu. Vậy sao được lập mười tám giới?

* Tụng viết:

Thành chỗ dựa thứ sáu

Mười tám giới nên biết.

* Luận nêu: Như năm thức giới riêng có năm giới như nhãn v.v… là chỗ dựa, ý thức thứ sáu không có chỗ dựa riêng. Vì thành chỗ dựa này nên nói là ý giới. Như thế, cảnh giới của đối tượng nương dựa (chỗ dựa), chủ thể nương dựa, nên biết đều là sáu giới, tức thành mười tám. Nếu như vậy thì tâm niệm sau cùng của bậc Vô học (A-la-hán) tức nên không phải là ý giới. Cho vô gián diệt này, thức sau không sinh, nên không phải là ý giới là không đúng. Vì ở đây tánh của ý đã trụ, chỉ cho thiếu duyên khác nên thức sau không sinh. Trong đây: Uẩn gồm thâu tất cả hữu vi. Thủ uẩn chỉ gồm thâu tất cả hữu lậu. Xứ, giới gồm thâu chung toàn bộ tất cả pháp. Gồm thâu riêng là như vậy, còn gồm thâu chung thì thế nào?

* Tụng viết:

Thâu chung tất cả pháp

Do một uẩn xứ giới

Chỉ gồm thâu tự tánh

Do đã lìa tha tánh.

* Luận nêu: Do một sắc uẩn, ý xứ và pháp giới, nên biết là gồm thâu chung hết tất cả pháp. Nghĩa là ở nơi các xứ, theo thắng nghĩa mà nói, chỉ gồm thâu tự tánh, không gồm thâu tha tánh. Vì sao? Vì pháp cùng với tha tánh là luôn lìa nhau. Đây lìa đối với kia mà nói gồm thâu thì lý ấy là không đúng. Lại như nhãn căn chỉ gồm thâu sắc uẩn, nhãn xứ, nhãn giới nơi khổ, tập đế, là tánh kia. Không gồm thâu uẩn khác, xứ giới khác v.v… vì lìa tánh kia. Nếu ở nơi các xứ, theo thế tục mà nói, nên biết là cũng dùng pháp khác để gồm thâu thứ khác. Như bốn nhiếp sự gồm thâu đồ chúng v.v…, nhãn nhĩ tỷ, ba xứ, mỗi xứ đều có hai, vì sao Thể của giới không phải là hai mươi mốt? Vấn nạn này là phi lý.

* Tụng viết:

Loại cảnh thức là đồng

Tùy hai giới, Thể một.

* Luận nêu: Loại đồng: Nghĩa là hai xứ đồng là tự tánh của nhãn. Cảnh đồng: Nghĩa là hai xứ đồng dùng sắc làm cảnh. Thức đồng: Nghĩa là hai xứ đồng là chỗ dựa của nhãn thức. Do đấy nhãn giới tuy hai mà là một. Nhĩ, tỷ cũng nên an lập như thế. Nếu như vậy thì do đâu có hai xứ sinh dựa?

* Tụng viết:

Nhưng vì khiến đoan nghiêm

Mắt cùng đều sinh hai.

* Luận nêu: Vì chỗ dựa khiến thân tướng đoan nghiêm, nên Thể của giới tuy một nhưng có hai xứ sinh. Nếu xứ của nhãn, nhĩ căn chỉ sinh một, mũi không hai lỗ thì thân không đoan nghiêm. Giải thích này là không đúng. Nếu xưa nay là vậy thì ai cho là xấu xí? Lại như loài cú mèo v.v…, tuy sinh hai xứ nhưng có gì là đoan nghiêm? Như vậy, ba căn (Mắt, tai, mũi) vì sao sinh hai? Là do nơi chốn phát khởi thức được sáng tỏ, đoan nghiêm. Hiện thấy nơi thế gian, nếu bịt một mắt v.v… thì sự phân biệt, nhận biết về sắc v.v… liền không sáng tỏ. Thế nên ba căn đều sinh hai xứ.

Đã nói về các uẩn cùng xứ giới gồm thâu. Nên nói về nghĩa của chúng. Uẩn xứ giới này, về nghĩa riêng là thế nào?

* Tụng viết:

Tụ môn sinh chủng tộc

Là nghĩa uẩn xứ giới.

* Luận nêu: Các pháp hữu vi hòa hợp, nghĩa tích tụ là nghĩa của uẩn. Như Khế kinh nói: Các sắc hiện có, hoặc quá khứ hoặc vị lai hoặc hiện tại, hoặc trong hoặc ngoài, hoặc thô hoặc tế, hoặc kém hoặc hơn, hoặc xa hoặc gần, tất cả như thế lược làm một tụ gọi là sắc uẩn. Do nghĩa của tụ này nên nghĩa của uẩn đã thành. Ở trong kinh ấy, vô thường đã diệt gọi là quá khứ. Nếu chưa sinh gọi là vị lai. Đã sinh nhưng chưa diệt gọi là hiện tại. Tự thân gọi là trong, phần còn lại gọi là ngoài. Hoặc căn cứ theo xứ để biện. Có đối gọi là thô, không đối gọi là tế. Hoặc cùng đối đãi để lập. Nếu nói cùng đối đãi thì thô tế không thành. Vấn nạn này là không đúng, vì nơi chốn đối đãi là khác. Đối đãi kia là thô, chưa từng có như thế là tế. Đối đãi kia là tế, chưa từng có như thế là thô. Cũng như so sánh về cha, con, khổ tập đế v.v… Nhiễm ô gọi là kém, không nhiễm gọi là hơn. Quá khứ vị lai gọi là xa. Hiện tại gọi là gần. Cho đến thức uẩn nên biết cũng như thế. Nhưng có sai biệt: Dựa nơi năm căn gọi là thô. Chỉ dựa nơi ý căn gọi là tế. Hoặc căn cứ theo địa để biện. Sư Tỳbà-sa đã nói như thế. Đại đức Pháp Cứu lại nói như vầy: Đối tượng giữ lấy của năm căn gọi là sắc thô. Ngoài ra gọi là sắc tế. Không vừa ý gọi là sắc kém. Ngoài ra gọi là sắc hơn. Không thể thấy xứ gọi là sắc xa. Ở nơi xứ có thể thấy gọi là sắc gần. Sắc quá khứ v.v… như nơi tự danh đã hiển bày. Thọ v.v… cũng như thế. Tùy theo sức của chỗ dựa, nên biết xa gần thô tế là đồng với trước. Nghĩa của môn sinh trưởng nơi tâm tâm sở pháp là nghĩa của xứ. Theo Huấn Thích Từ (Ngữ Nguyên Học) cho là có thể sinh trưởng tâm tâm sở pháp, nên gọi là xứ, là nghĩa có thể sinh trưởng tác dụng kia. Nghĩa chủng tộc của pháp là nghĩa của Giới. Như trong một dãy núi có nhiều chủng loại như đồng sắt vàng bạc v.v… gọi là nhiều giới. Như thế, nơi một thân hoặc một sự tương tục có mười tám loại chủng tộc của các pháp gọi là mười tám giới. Ở đây, chủng tộc là nghĩa gốc sinh. Như vậy, mắt v.v… cái gì là gốc sinh? Nghĩa là nhân đồng loại của tự chủng loại. Nếu vậy thì vô vi tức nên không gọi là giới, vì là gốc sinh khởi tâm tâm sở pháp. Có thuyết cho: Tiếng giới là biểu thị nghĩa chủng loại. Nghĩa là chủng loại của mười tám pháp, về tự tánh đều riêng khác không đồng, gọi là mười tám giới. Nếu nói nghĩa tích tụ là nghĩa của uẩn, thì uẩn tức nên là giả có, vì nhiều thật tích tập cùng mới thành. Như một đống vật, như ngã. Vấn nạn này là không đúng, do một cực vi thật cũng gọi là uẩn. Nếu như thế thì không nên nói nghĩa tích tụ là nghĩa của uẩn, vì một vật thật không có nghĩa tích tụ. Có thuyết nói: Nghĩa có thể đội vác gánh nặng, là nghĩa của uẩn. Do đấy, thế gian nói gánh vác gọi là uẩn, vì là nơi chốn tích tụ của vật. Hoặc có người nói: Nghĩa có thể phân đoạn là nghĩa của uẩn. Nên Tôn giả Thế Hữu đã nói: Nếu ông trả lại ba uẩn thì tôi sẽ cho ông. Giải thích này vượt kinh. Kinh nói nghĩa tích tụ là nghĩa của uẩn. Như nơi Khế kinh nói: Các sắc hiện có, hoặc là quá khứ v.v… nói rộng như trước. Nếu cho kinh này làm rõ mỗi mỗi sắc như quá khứ v.v… đều riêng khác gọi là uẩn, vì thế tất cả sắc quá khứ cùng mỗi mỗi vật thật thảy đều gọi là uẩn. Luận chủ cho chấp này là phi lý, vì như kinh kia nói: Như vậy tất cả lược làm một tụ, gọi là uẩn. Do vậy như tụ, uẩn nhất định là giả có (Kinh Bộ). Nếu như thế tức nên thừa nhận các xứ có sắc cũng là giả có. Cực vi của mắt v.v… cần có nhiều tích tụ mới thành môn sinh. (Luận chủ) Vấn nạn này là phi lý. Do mỗi mỗi cực vi trong nhiều tích tụ đều có dụng của nhân. Nếu không như vậy thì căn cảnh cùng hỗ trợ là cùng sinh chung thức v.v…, nên chẳng phải là xứ riêng, tức là nên không có mười hai xứ riêng. Nhưng Tỳ-bà-sa nói như thế này: Các Sư Đối Pháp, nếu quán về uẩn giả thì các vị đều nói cực vi là một phần ít của một giới một xứ một uẩn. Nếu không quán thì các vị kia nói cực vi tức là một giới một xứ một uẩn. Ở đây nên đối với phân đoạn cho là có phần. Như đốt cháy phần ít chiếc áo cũng nói là đốt cháy áo. Vì sao Đức Thế Tôn ở nơi cảnh của đối tượng nhận biết do môn như uẩn tạo ra ra ba thứ thuyết?

* Tụng viết:

Ngu căn ưa thích ba

Nói uẩn xứ giới ba.

* Luận nêu: Hữu tình được hóa độ có ba loại. Đức Thế Tôn đã vì họ nên thuyết giảng ba môn như uẩn v.v… Truyền nói: Hữu tình ngu có ba thứ: Hoặc ngu về tâm sở chấp chung là ngã. Hoặc chỉ ngu về sắc. Hoặc ngu về sắc – tâm. Căn cũng có ba: Là lợi, trung, độn. Về ưa thích cũng có ba loại: Là ưa thích văn tóm lược, trung bình và rộng. Như theo thứ lớp kia, Đức Thế Tôn vì đấy nói ba thứ uẩn xứ giới. Do đâu Đức Thế Tôn nói tâm sở còn lại gồm chung nơi hành uẩn? Lại phân riêng thọ, tưởng làm hai uẩn?

* Tụng viết:

Tránh căn nhân sinh tử

Cùng với thứ lớp nhân

Nơi các tâm sở pháp

Thọ tưởng riêng làm uẩn.

* Luận nêu: Tránh căn có hai: Là chấp trước các dục và chấp trước các kiến. Hai thứ này là thọ tưởng, như theo thứ lớp kia là nhân hơn hết. Do sức mạnh của vị thọ, nên tham chấp nơi các dục. Do sức mạnh của tưởng điên đảo, nên tham chấp nơi các kiến. Lại, pháp sinh tử là do thọ cùng tưởng làm nhân hơn hết. Vì đắm chấp nơi thọ nên khởi tưởng điên đảo. Tức sinh tử luân hồi là do hai nhân này cùng về sau sẽ nói về nhân thứ lớp. Nên biết đã lập riêng thọ tưởng làm uẩn. Về nhân thứ lớp kia, tiếp theo phần này sẽ biện. Vì sao vô vi nói ở tại xứ giới không thuộc về uẩn?

* Tụng viết:

Uẩn không thâu vô vi

Do nghĩa không tương ưng.

* Luận nêu: Ba pháp vô vi không thể nói ở trong uẩn như sắc v.v… Vì nghĩa cùng với sắc v.v… là không tương ưng. Nghĩa là Thể chẳng phải là sắc cho đến chẳng phải là thức, cũng không thể nói là uẩn thứ sáu. Do vô vi kia cùng với nghĩa của uẩn không tương ưng. Nghĩa tích tụ là nghĩa của uẩn như trước đã nói đủ. Tức là pháp vô vi, không phải như sắc v.v… có các phẩm loại như quá khứ với những sai biệt có thể tóm lược làm một tụ gọi là uẩn vô vi. Lại nói thủ uẩn là hiển bày về nhiễm, dựa. Nhiễm tịnh nơi hai dựa, nói uẩn là đã làm rõ. Vô vi đối với hai nghĩa này đều không có. Nghĩa không tương ưng nên không lập uẩn. Có thuyết nói: Như chiếc bình vỡ thì không phải là bình. Như thế uẩn dứt (Vô vi) tức nên không phải là uẩn. Uẩn kia ở nơi xứ giới là điên đảo nên thành lỗi. Như vậy là đã nói về các uẩn được lập, bỏ. Sẽ nói về thứ lớp.

* Tụng viết:

Tùy theo vật nhiễm, thô v.v…

Giới riêng thứ lớp lập.

* Luận nêu: Sắc có đối nên trong các uẩn là thô. Trong vô sắc, thô chỉ là tướng của thọ, hành. Nên thế gian có câu nói: Tay của tôi cùng bị đau. Đối đãi với hai tưởng thô thì tưởng như nam, nữ v.v… là dễ nhận biết rõ. Hành thô hơn thức. Các hành như tham, sân thì dễ nhận biết rõ. Thức là vi tế nhất. Vì nhận lấy chung về tướng của cảnh là khó phân biệt. Do đấy, tùy theo thô để lập thứ lớp của uẩn. Hoặc từ nơi sinh tử vô thủy đến nay, nam nữ đối với sắc lại cùng yêu thích. Ở đây là do đắm chấp vị của lạc thọ. Tham đắm thọ lại nhân nơi tưởng điên đảo sinh. Tưởng điên đảo này sinh là do phiền não. Như thế là phiền não đã dựa nơi thức mà sinh. Thức này cùng với ba thứ trước đều là thức nhiễm ô. Do đấy nên tùy theo nhiễm để lập thứ lớp của uẩn. Hoặc cho sắc như vật chứa, thọ giống như thức ăn uống, tưởng đồng với gia vị hỗ trợ, hành tợ như người đầu bếp, thức dụ cho người ăn. Nên tùy theo vật chứa để lập thứ lớp của uẩn. Hoặc tùy theo cõi để lập riêng thứ lớp của uẩn. Nghĩa là trong cõi dục có các thứ dục diệu, tướng sắc hiển rõ. Tĩnh lự của cõi sắc có hỷ thù thắng, tướng thọ hiển rõ. Trong ba vô sắc, giữ lấy tướng như không v.v…, tức tướng tưởng hiển rõ. Nơi đệ nhất hữu thì tư là hơn hết, nên tướng hành hiển rõ. Đây tức là thức trụ. Thức trụ trong ấy hiển bày tợ như thứ lớp của ruộng đất, hạt giống nơi thế gian. Vì vậy, thứ lớp của các uẩn là như thế. Do đấy, năm uẩn không có lỗi tăng giảm. Tức do các thứ lớp nhân như vậy, nên lìa hành lập riêng hai uẩn thọ tưởng. Nghĩa là thọ cùng với tưởng, ở trong các hành là tướng thô sinh nhiễm, giống như thức ăn đồng hỗ trợ. Trong hai cõi là mạnh nên lập riêng làm uẩn. Nơi môn Xứ Giới nên biện trước, nói về thứ lớp của sáu căn. Vì thứ lớp của cảnh thức này là có thể nhận biết.

* Tụng viết:

Năm cảnh trước chỉ hiện

Bốn cảnh chỉ được tạo

Dụng khác xa nhanh sáng

Hoặc theo thứ lớp xứ.

* Luận nêu: Trong sáu căn, năm căn trước như nắt v.v… chỉ nhận lấy hiện cảnh, vì vậy nên nói trước. Cảnh của ý thì bất định, ba đời vô vi. Hoặc chỉ giữ lấy một, hoặc giữ lấy hai, ba, bốn. Nói: Bốn cảnh chỉ được tạo: Là nối tiếp trước đến đây. Trong năm thì bốn cảnh trước chỉ là được tạo nên nói trước. Cảnh của thân thì bất định. Hoặc giữ lấy đại chủng, hoặc giữ lấy sắc được tạo, hoặc cùng giữ lấy cả hai. Khác tức là bốn thứ trước. Như chỗ ứng hợp theo dụng, là xa nhanh sáng, nên nói trước. Nghĩa là nhãn căn, nhĩ căn nhận lấy cảnh xa, nên tại hai căn ấy nêu bày trước. Trong hai căn thì dụng của mắt là xa nên nói trước. Từ xa thấy núi sông còn âm thanh thì không nghe. Lại, dụng của mắt thì mau chóng. Trước tiên, từ xa thấy người đánh chuông khua trống, sau mới nghe âm thanh. Hai căn mũi lưỡi (Tỷ, thiệt) về dụng thì cùng không xa. Trước nói về mũi: Là do mau chóng sáng rõ. Như khi đối nơi các thức ăn uống tỏa hương thơm thì mũi ngửi mùi trước, sau lưỡi mới nếm vị. Hoặc ở trong thân, tùy theo nơi chốn nương dựa trên dưới có sai biệt để nói về thứ lớp của các căn. Nghĩa là chỗ dựa của mắt thì ở trên hết. Thứ đến là tai mũi lưỡi thân, phần nhiều ở nơi dưới. Ý thì không có phương xứ. Có tức là nương dựa nơi các căn sinh, nên nói sau cùng.

Vì sao mười xứ đều thuộc về sắc uẩn, nhưng chỉ ở nơi một thứ lập tên sắc xứ? Lại, thể của mười hai xứ đều là pháp, nhưng chỉ ở nơi một thứ lập tên pháp xứ?

* Tụng viết:

Vì sai biệt tối thắng

Gồm nhiều pháp tăng thượng

Nên một xứ gọi sắc

Một gọi là pháp xứ.

* Luận nêu: Vì sai biệt: Vì khiến nhận biết rõ về cảnh, tánh của cảnh có vô số sai biệt, nên ở nơi sắc uẩn, theo tướng sai biệt kiến lập mười xứ, không gồm làm một. Nếu không như thế thì sự sai biệt như mắt v.v… là tên gọi của tưởng. Nhưng thể là sắc nên lập tên là sắc xứ. Đây là sự phân biệt của tên gọi như mắt v.v…, tuy nêu xưng chung, nhưng về tên gọi tức riêng. Lại, trong các sắc thì sắc xứ là tối thắng nên lập tên chung. Do có đối, nên khi tay v.v… xúc chạm tức liền biến hoại. Cùng do có thấy nên có thể chỉ rõ là ở tại đây tại kia có sai biệt. Lại, các thế gian chỉ ở nơi xứ này đồng nói là sắc, không phải ở nơi mắt v.v… Lại, vì sai biệt nên lập một pháp xứ không phải ở nơi tất cả. Như sắc nên biết. Lại, ở trong ấy đã gồm thâu rất nhiều pháp như thọ, tưởng v.v… nên lập tên chung. Lại, do pháp tăng thượng, đó là Niết-bàn, ở đây gồm thâu nên lập riêng làm pháp. Có Sư khác nói: Trong sắc xứ có hai mươi thứ sắc rất thô hiển bày, là cảnh của ba mắt nhục nhãn, thiên nhãn, thánh tuệ nhãn, nên riêng lập tên sắc. Trong pháp xứ có tên gọi của các pháp, trí của các pháp, nên lập riêng tên gọi pháp. Nơi các Khế kinh nói có vô số uẩn khác cùng danh tưởng của xứ giới có thể đạt được. Là do ở đây gồm thâu hay là lìa ở đây? Các thứ kia đều được ở đây gồm thâu. Như chỗ ứng hợp nên biết. Lại biện về sự gồm thâu danh tưởng của các uẩn khác.

* Tụng viết:

Mâu-ni nói pháp uẩn

Số có tám mươi ngàn

Thể kia ngữ hoặc danh

Sắc ấy thuộc hành uẩn.

* Luận nêu: Các thuyết cho sự giáo hóa của Phật, ngôn ngữ là Thể, tức thuyết kia nói pháp uẩn đều thuộc về sắc uẩn. Các thuyết cho sự giáo hóa của Phật, danh ngôn là Thể, tức thuyết kia nói pháp uẩn đều thuộc về hành uẩn. Các pháp uẩn này về lượng thì thế nào?

* Tụng viết:

Có nói các pháp uẩn

Lượng như Luận kia nêu

Hoặc nói tùy theo uẩn

Hành như thật đối trị.

* Luận nêu: Có các Sư nói: Tám vạn pháp uẩn, mỗi mỗi lượng như nơi Luận Pháp Uẩn Túc đã nói. Nghĩa là mỗi mỗi pháp kia có sáu ngàn tụng, như trong Đối Pháp, Pháp Uẩn Túc đã nói. Hoặc nói: Pháp uẩn tùy theo uẩn v.v… để nói, mỗi mỗi sai biệt số có tám vạn. Nghĩa là: Uẩn, Xứ, Giới, Duyên khởi, Đế, Thực, Tĩnh lự, Vô lượng, Vô sắc, Giải thoát, Thắng xứ, Biến xứ, Phẩm giác, Thần thông, Vô tránh, Nguyện trí, Vô ngại giải v.v… mỗi mỗi môn giáo gọi là một pháp uẩn. Nói như thật: Hữu tình của đối tượng hóa độ có tám vạn hành riêng khác như tham, sân v.v… Vì đối trị tám vạn hành kia, nên Đức Thế Tôn đã tuyên thuyết tám vạn pháp uẩn. Như Luận kia đã nói tám vạn pháp uẩn đều thuộc về hai uẩn trong năm uẩn này. Như thế, nơi xứ khác, các loại uẩn xứ giới cũng nên như vậy.

* Tụng viết:

Như thế uẩn xứ khác

Đều tùy chỗ ứng hợp

Thâu trong phần nêu trước

Nên quán kỹ tự tướng.

* Luận nêu: Trong Khế kinh khác, các uẩn xứ giới tùy theo chỗ ứng hợp, gồm thâu ở trong thuyết đã nói nơi trước. Như trong Luận này đã nói về uẩn v.v… Nên quán xét về mỗi mỗi tự tướng kia. Lại trong các kinh đã nói năm uẩn khác. Nghĩa là năm uẩn giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Trong kia nói giới uẩn, thì ở đây là thuộc về sắc uẩn. Bốn uẩn còn lại kia thì ở đây là thuộc về hành uẩn. Lại, các kinh nói mười biến xứ v.v… thì tám biến xứ trước, tánh là không tham, nên ở đây là thuộc về pháp xứ. Nếu gồm luôn trợ bạn, tánh là năm uẩn, tức ở đây là thuộc về ý xứ, pháp xứ. Gồm thâu tám thắng xứ nên biết cũng như vậy. Hai biến xứ không, thức, bốn vô sắc xứ như không vô biên v.v… tánh là bốn uẩn, tức ở đây là thuộc về ý xứ, pháp xứ. Năm xứ giải thoát, tánh là tuệ, nên ở đây là thuộc về pháp xứ. Nếu gồm luôn trợ bạn, thì âm thanh này là thuộc về ý xứ, pháp xứ. Lại có hai xứ: Là xứ trời Vô tưởng hữu tình và xứ Phi tưởng phi phi tưởng. Xứ đầu tức ở đây là thuộc về mười xứ, do không có hương, vị. Xứ sau tức ở đây là thuộc về ý xứ, pháp xứ vì tánh là bốn uẩn. Lại như trong Kinh Đa Giới, nói về giới sai biệt có sáu mươi hai, tùy theo chỗ ứng hợp nên biết đều thuộc về mười tám giới này. Lại, trong kinh kia đã nói về sáu giới: Là bốn giới địa thủy hỏa phong như đã nêu, còn hai giới không, thức thì chưa nói về tướng của chúng. Đây tức là hư không gọi là không giới và tất cả thức gọi là thức giới chăng? Không như thế thì là thế nào?

* Tụng viết:

Không giới là khoảng trống

Truyền nói là sáng tối

Thức giới: Thức hữu lậu

Chỗ dựa hữu tình sinh.

* Luận nêu: Các thứ có cửa ngõ, cửa sổ, cùng miệng mũi v.v… các lỗ trống trong ngoài, gọi là không giới. Như thế, các lỗ trống làm sao có thể nhận biết? Truyền nói: Lỗ trống tức là sáng tối. Không phải lìa sáng tối mà lỗ trống có thể nhận lấy. Nên nói không giới lấy sáng tối làm Thể. Tức cần biết Thể này không lìa ngày đêm. Tức đây là nói về sắc Lân-a-già. A-già tức là sắc tích tập. Tối đa là có thể tạo chướng ngại nên gọi là A-già. Sắc của không giới này cùng với A-già kia là gần nhau, vì thế gọi là sắc Lân-a-già. Có thuyết cho: A-già tức là sắc của không giới. Ở đây không có ngăn ngại nên gọi là A-già. Tức sắc A-già, những ngăn ngại khác cùng gần nhau, vì thế gọi là sắc Lân-a-già. Các thức hữu lậu gọi là thức giới. Vì sao không nói các thức vô lậu là thức giới? Do đã cho sáu giới là chỗ dựa của các hữu tình sinh khởi. Các giới như thế là từ nơi sự nối tiếp sinh tâm cho đến tâm mạng chung chúng vẫn luôn giữ lấy sự sống. Các pháp vô lậu thì không như vậy. Trong sáu giới kia, bốn giới trước tức ở đây là thuộc về xúc giới. Giới thứ năm (Không giới) tức ở đây là thuộc về sắc giới. Giới thứ sáu (Thức giới) tức ở đây là thuộc về giới của bảy tâm. Các giới khác như nơi kinh kia nói, như chỗ ứng hợp đều tức gồm thâu trong mười tám giới này.

HẾT – QUYỂN 1