KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Ðà
Hoà Thượng Tuyên Hóa giảng giải
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
TẬP 18
QUYỂN BỐN MƯƠI TÁM
PHẨM VẺ ĐẸP QUANG MINH CÔNG ĐỨC CỦA NHƯ LAI THỨ BA MƯƠI LĂM
Như Lai có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, tướng tốt trang nghiêm thân. Tám mươi vẻ đẹp là từ ba mươi tướng tốt mà ra. Phẩm này là Phẩm Vẻ Đẹp Quang Minh Công Đức của Như Lai, thuộc về Phẩm thứ Ba Mươi Lăm trong Kinh Hoa Nghiêm.
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Bảo Thủ rằng : Phật tử ! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có vẻ đẹp tên là Viên mãn vương. Trong vẻ đẹp đó, phóng ra đại quang minh, tên là Xí thạnh, có bảy trăm vạn A tăng kỳ quang minh làm quyến thuộc.
Lúc đó, Đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Bảo Thủ nói rằng : Phật tử ! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có một vẻ đẹp tên là Viên mãn vương, trong vẻ đẹp đó, phóng ra đại quang minh, tên là Xí thạnh. Có bảy trăm vạn A tăng kỳ quang minh làm quyến thuộc.
Phật tử ! Khi ta làm Bồ Tát ở tại cung trời Đâu Suất, phóng đại quang minh, tên là Quang tràng vương, chiếu đến các thế giới nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật.
Đức Phật lại gọi một tiếng Phật tử ! Khi ta làm Bồ Tát, ở tại cung trời Đâu Suất (trời Tri Túc), phóng đại quang minh, tên là Quang tràng vương. Quang minh đó chiếu đến các thế giới nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật.
Trong các thế giới đó, chúng sinh trong địa ngục gặp được quang minh đó, thì các khổ được tiêu trừ, đắc được mười thứ mắt thanh tịnh, tai mũi lưỡi thân ý, cũng lại như thế, đều sinh tâm hoan hỉ, nhảy nhót vui mừng.
Trong các thế giới đó, tất cả chúng sinh trong địa ngục, phàm là người nào gặp được quang minh đó, thì các khổ đều được tiêu diệt, lìa khổ được vui. Đắc được mười thứ mắt thanh tịnh, mười thứ tai thanh tịnh, mười thứ mũi thanh tịnh, mười thứ lưỡi thanh tịnh, mười thứ thân thanh tịnh, mười thứ ý thanh tịnh. Hết thảy chúng sinh đều sinh tâm hoan hỉ, nhảy nhót hớn hở vui mừng.
Từ địa ngục chết đi, họ được sinh về cõi trời Đâu Suất. Trên cõi trời nầy, có cái trống tên là Thậm khả ái lạc. Chúng sinh được sinh về cõi trời nầy rồi, cái trống đó tự phát ra âm thanh mà bảo họ rằng : Các Thiên tử ! Các ông tâm đừng phóng dật, ở chỗ Như Lai gieo trồng các căn lành. Do thuở xưa các ông đã gần gũi thiện tri thức, nhờ đại oai thần lực của Tỳ Lô Giá Na, khi các ông chết đi, được sinh về cõi trời này.
Từ địa ngục chết đi, họ được sinh về Trời Đâu Suất (từng trời thứ tư của dục giới). Trên cõi trời nầy có cái trống trời, tên là Thậm khả ái lạc. Chúng sinh được sinh về cõi trời nầy rồi, thì cái trống đó tự phát ra âm thanh mà bảo rằng : « Các vị Thiên tử ! Các ông tâm đừng phóng dật, ở chỗ Như Lai phải gieo trồng tất cả căn lành. Do thuở xưa các ông đã từng gần gũi các vị thiện tri thức, nhờ đại oai thần lực của Tỳ Lô Giá Na Bồ Tát, khi các ông trong địa ngục chết đi, mới được sinh về cõi trời Đâu Suất này ».
Phật tử ! Bánh xe ngàn căm dưới chân Bồ Tát, tên là Quang minh phổ chiếu vương, có vẻ đẹp tên là Viên mãn vương, thường phóng bốn mươi thứ quang minh. Trong đó có một quang minh, tên là Thanh tịnh công đức, chiếu đến các thế giới nhiều như số hạt bụi ức Na do tha cõi Phật. Tuỳ các chúng sinh, đủ thứ nghiệp hạnh, đủ thứ dục lạc, đều khiến cho thành thục.
Phật tử ! Ở dưới chân của Bồ Tát có bánh xe ngàn căm (đối với cha mẹ, và sư trưởng, dùng tiền tài cúng dường đúng như pháp, thì đắc được tướng này), tên là Quang minh phổ chiếu vương. Tướng bánh xe ngàn căm có một vẻ đẹp, tên là Viên mãn vương, thường thường phóng ra bốn mươi thứ quang minh. Trong những quang minh đó, có một quang minh, tên là Thanh tịnh công đức. Quang minh đó, chiếu đến các thế giới nhiều như số hạt bụi ức Na do tha cõi Phật. Tuỳ theo đủ thứ nghiệp và đủ thứ hạnh của tất cả chúng sinh tu; đủ thứ dục vọng và đủ thứ khoái lạc, đều khiến cho họ thành thục, toại tâm mãn nguyện, đạt được nguyện vọng mong cầu.
Chúng sinh địa ngục A tỳ rất khổ, ai gặp được quang minh đó, thảy đều khiến cho họ khi chết đi, được sinh về cõi trời Đâu Suất.
A tỳ dịch là vô gián, vì địa ngục này chẳng có không gian. Một người cũng chật đầy, nhiều người cũng chật đầy, cho nên gọi là vô gián. Lại có lối nói khác là, từ khi bắt đầu thọ khổ, chẳng có lúc nào gián đoạn, cho nên gọi là vô gián. Chúng sinh địa ngục A tỳ thọ cực hình rất khổ, khổ khó mà nói được, không cách chi hình dùng được. Nếu ai gặp được quang minh của Tỳ Lô Giá Na Bồ Tát, thảy đều khiến cho họ khi chết đi, thì được sinh về cõi trời Đâu Suất, hưởng sự an vui ở cõi trời.
Được sinh về cõi trời rồi, nghe tiếng trống trời nói rằng : Lành thay, lành thay, các Thiên tử ! Tỳ Lô Giá Na Bồ Tát đã nhập vào tam muội Ly cấu, các ông nên kính lễ.
Chúng sinh địa ngục, nhờ quang minh của Bồ Tát chiếu đến, cho nên được sinh về cõi trời. Sinh về cõi trời rồi, liền nghe tiếng trống trời phát ra nói rằng : Lành thay ! Lành thay ! Các vị Thiên tử ! Tỳ Lô Giá Na Bồ Tát đã nhập vào tam muội Ly cấu, các ông nên cung kính lễ lạy ba lần.
Bấy giờ, các Thiên tử nghe tiếng trống trời khuyên dạy như vậy, đều sinh tâm niệm như vầy : Kỳ lạ ít có, do nguyên nhân gì mà trống trời phát ra tiếng vi diệu nầy ?
Lúc đó, các vị Thiên tử đó, nghe tiếng trống trời khuyên dạy như vậy. Họ đều nghĩ như vầy : « Kỳ lạ ít có ! Đây là việc kỳ lạ ít có, do nguyên nhân gì mà trống trời tự nhiên phát ra tiếng vi diệu không thể nghĩ bàn nầy ?
Lúc đó, trống trời bảo các Thiên tử rằng : Tôi phát ra tiếng, là do sức các căn lành mà thành tựu.
Lúc đó, trống trời bảo các Thiên tử rằng : « Tôi phát ra tiếng là do thuở xưa đã từng gieo trồng đủ thứ căn lành, tu hành đủ thứ công đức, mới có sức lực này, nên mới thành tựu ».
Các Thiên tử ! Như tôi nói tôi, mà chẳng chấp trước cái tôi, chẳng chấp trước của tôi. Tất cả chư Phật cũng lại như thế, tự nói là Phật mà chẳng chấp trước cái tôi, chẳng chấp trước của tôi.
Các vị Thiên tử ! Giống như tôi tự nói tôi, tuy có cái tôi, nhưng chẳng chấp trước vào cái tôi, cũng chẳng chấp trước vào những gì của tôi. Mười phương ba đời tất cả chư Phật, cũng lại như thế. Phật tự nói mình là Phật, nhưng mà chẳng chấp trước vào tướng tôi, cũng chẳng chấp trước vào của tôi. Cũng chẳng tồn tại tướng cái tôi, chẳng còn chấp trước vào của tôi.
Các Thiên tử ! Như tiếng của tôi, chẳng phải từ phương đông đến, chẳng từ phương nam tây bắc bốn hướng trên dưới đến. Nghiệp báo thành Phật cũng lại như thế, chẳng phải từ mười phương đến.
Các vị Thiên tử ! Giống như tiếng trống của tôi phát ra, chẳng phải từ phương đông đến, cũng chẳng phải từ phương nam tây bắc đến, càng chẳng phải từ bốn hướng trên dưới đến. Phật do thiện nghiệp mà thành tựu, cũng là đạo lý như thế, chẳng phải từ mười phương đến.
Các Thiên tử ! Ví như các ông, xưa ở trong địa ngục. Địa ngục và thân chẳng từ mười phương đến. Nhưng do các ông điên đảo tạo nghiệp ác, ngu si trói buộc, nên sinh thân địa ngục. Đây không có gốc rễ, không có nơi đến.
Các vị Thiên tử ! Ví như xưa kia, khi các ông ở trong địa ngục. Địa ngục và nghiệp thân thọ khổ chẳng từ mười phương đến, mà do các ông điên đảo tạo nghiệp ác, ngu si bị trói buộc, cho nên mới sinh thân địa ngục. Đây không có gốc rễ, là do nghiệp báo thành tựu, chẳng có nơi đến.
Các Thiên tử ! Do sức oai đức của Tỳ Lô Giá Na Bồ Tát, nên phóng đại quang minh, mà quang minh đó, chẳng từ mười phương đến.
Các vị Thiên tử ! Do sức oai đức của Tỳ Lô Giá Na Bồ Tát, cho nên phóng đại quang minh, mà quang minh đó, chẳng từ mười phương đến, là do thuở xưa tu căn lành thanh tịnh mà ra.
Các Thiên tử ! Tiếng trống trời của tôi, cũng lại như thế, chẳng phải từ mười phương đến. Nhưng do nhờ sức căn lành tam muội, sức oai đức Bát nhã ba la mật, mà sinh ra âm thanh thanh tịnh như vậy, thị hiện đủ thứ tự tại như vậy.
Các vị Thiên tử ! Tiếng trống trời của tôi cũng lại như thế, chẳng phải từ mười phương đến. Đó là do nhờ sức căn lành tam muội mà ra, cũng là do sức oai đức Bát nhã ba la mật thuở xưa tu hành, mà sinh ra âm thanh thanh tịnh như vậy, thị hiện đủ thứ tự tại như vậy.
Các Thiên tử ! Ví như núi chúa Tu Di, phía trên có cung điện Trời Tam Thập Tam rất đẹp. Có đủ thứ đồ vui, mà đồ vui đó, chẳng phải từ mười phương đến. Tiếng trống trời của tôi, cũng lại như thế, chẳng phải từ mười phương đến.
Các vị Thiên tử ! Ví như núi chúa Tu Di, phía trên có cung điện trời Tam Thập Tam rất đẹp. Có đủ thứ đồ vui, mà đồ vui đó, chẳng phải từ mười phương đến. Tiếng trống trời của tôi, cũng lại như thế, chẳng phải từ mười phương đến.
Các Thiên tử ! Ví như các thế giới nhiều như số hạt bụi ức Na do tha cõi Phật, nghiền hết làm bụi. Tôi vì chúng sinh nhiều như số hạt bụi như vậy. Tuỳ theo sở thích của họ mà diễn nói pháp, khiến cho họ sinh tâm đại hoan hỉ, mà tôi đối với họ chẳng sinh tâm mệt mỏi, chẳng sinh tâm thối lùi khiếp sợ, chẳng sinh tâm tâm kiêu mạn, chẳng sinh tâm phóng dật.
Các vị Thiên tử ! Ví như các thế giới nhiều như số hạt bụi ức Na do tha cõi Phật, thảy đều nghiền nát hết làm bụi. Tôi vì chúng sinh nhiều như số hạt bụi như vậy. Tuỳ theo sở thích của họ mà diễn nói pháp, khiến cho họ sinh tâm đại hoan hỉ, mà tôi đối với họ chẳng sinh tâm mệt mỏi, cũng chẳng sinh tâm thối lùi khiếp sợ, cũng chẳng sinh tâm tâm kiêu mạn, chẳng sinh tâm phóng dật.
Các Thiên tử ! Tỳ Lô Giá Na Bồ Tát trụ tam muội Ly cấu cũng lại như thế. Có một vẻ đẹp trong lòng bàn tay phải, phóng ra một luồng quang minh, hiện ra vô lượng thần lực tự tại. Tất cả Thanh Văn Bích Chi Phật còn không thể biết được, hà huống là các chúng sinh.
Các vị Thiên tử ! Tỳ Lô Giá Na Bồ Tát trụ tam muội Ly cấu, cũng lại như thế. Có một vẻ đẹp trong lòng bàn tay phải, phóng ra một luồng quang minh. Trong quang minh đó hiện ra vô lượng thần lực tự tại. Tất cả Thanh Văn và tất cả Bích Chi Phật, còn không thể biết được quang minh đó từ đâu đến, hà huống là tất cả phàm phu chúng sinh, càng không thể biết được từ nơi nào đến.
Các Thiên tử ! Các ông nên đi đến chỗ Bồ Tát đó, gần gũi cúng dường, đừng tham trước đồ vui năm dục, đừng chấp vào vui năm dục, làm chướng ngại các căn lành.
Các vị Thiên tử ! Các ông nên đi đến chỗ Bồ Tát Tỳ Lô Giá Na, để gần gũi Ngài, cúng dường Ngài. Đừng tham luyến đồ vui năm dục. Nếu tham ái vui năm dục, thì sẽ làm chướng ngại sự tu các căn lành.
Các Thiên tử ! Ví như kiếp lửa, thiêu huỷ sạch hết núi Tu Di, không còn dư thừa. Tâm tham dục ràng buộc, cũng lại như thế, trọn không thể sinh tâm niệm Phật.
Các vị Thiên tử ! Ví như kiếp lửa trong ba nạn lớn, thiêu huỷ sạch hết núi Tu Di, không còn dư thừa. Tâm tham ái năm dục ràng buộc, cũng giống như bị kiếp lửa thiêu huỷ sạch hết, gì cũng không còn, trọn không thể sinh tâm niệm Phật.
Các Thiên tử ! Các ông nên biết ân báo ân.
Các vị Thiên tử ! Các ông là chúng sinh thọ cực khổ trong địa ngục, mà được Tỳ Lô Giá Na Bồ Tát phóng đại quang minh, cứu các ông ra khỏi địa ngục, mới được vãng sinh về cõi trời Đâu Suất. Các ông nên biết ân đức của Tỳ Lô Giá Na Bồ Tát, nay nên phải biết ân báo ân đức Ngài.
Các Thiên tử ! Có chúng sinh chẳng biết báo ân, phần nhiều gặp hoạnh tử, sinh vào địa ngục.
Các vị Thiên tử ! Phàm là chúng sinh thọ được ân đức của Tỳ Lô Giá Na Bồ Tát, nếu có chúng sinh chẳng biết báo ân, thì nhất định phần nhiều gặp sự chết ngoài ý muốn. Ví như bị tai nạn xe hơi mà chết, rớt máy bay ma chết, chìm thuyền mà chết, trật đường rầy xe lửa mà chết. Tóm lại, phàm là chết chẳng chánh đáng, tức là hoạnh tử. Sau khi chết đi, sẽ sinh vào địa ngục, thọ quả báo khổ.
Các Thiên tử ! Các ông thuở xưa ở trong địa ngục, nhờ hào quang chiếu thân, xả bỏ nơi đó mà sinh về đây. Các ông hôm nay nên mau chóng hồi hướng, để tăng trưởng căn lành.
Các vị Thiên tử ! Khi thuở xưa các ông ở trong địa ngục, nhờ hào quang của Tỳ Lô Giá Na Bồ Tát chiếu đến thân các ông, các ông mới được xả bỏ thân địa ngục mà sinh về cõi trời Đâu Suất. Các ông hôm nay nên mau chóng hồi hướng, để tăng trưởng căn lành của các ông.
Các Thiên tử ! Như trống trời tôi đây, chẳng phải nam, chẳng phải nữ, mà hay sinh ra vô lượng vô biên sự việc không thể nghĩ bàn. Các ông Thiên tử Thiên nữ, cũng lại như thế, chẳng phải nam, chẳng phải nữ, mà được thọ dụng đủ thứ cung điện vườn rừng tốt đẹp. Như trống trời tôi đây, chẳng sinh, chẳng diệt, sắc thọ tưởng hành thức, cũng lại như thế, chẳng sinh, chẳng diệt. Nếu các ông ngộ hiểu được chỗ này, nên biết liền nhập vào tam muội Vô y ấn.
Các vị Thiên tử ! Như Trống trời tôi đây, chẳng phải nam, cũng chẳng phải nữ, mà hay sinh ra vô lượng vô biên sự việc không thể nghĩ bàn. Các vị Thiên tử và Thiên nữ, cũng giống như Trống trời tôi đây, chẳng phải nam, cũng chẳng phải nữ, mà được thọ dụng đủ thứ cung điện và vườn rừng tốt đẹp. Như Trống trời tôi đây, chẳng sinh cũng chẳng diệt, sắc thọ tưởng hành thức năm uẩn, cũng lại như thế, chẳng sinh cũng chẳng diệt. Nếu các ông ngộ hiểuđược đạo lý này, nên biết liền nhập vào tam muội Vô y ấn.
Bấy giờ, các Thiên tử nghe tiếng đó rồi, được chưa từng có, lập tức đều hoá làm một vạn mây hoa, một vạn mây hương thơm, một vạn mây âm nhạc, một vạn mây tràng, một vạn mây lọng, một vạn mây ca ngợi. Hoá làm như vậy rồi, cùng nhau đi đến chỗ cung điện của Tỳ Lô Giá Na Bồ Tát ở, chắp tay cung kính, đứng qua một bên, muốn chiêm ngưỡng Bồ Tát, nhưng chẳng thấy được.
Lúc đó, các Thiên tử nghe tiếng Trống trời nói rồi, cảm thấy đây là việc chưa từng có, chưa từng nghe qua diệu pháp này, lập tức đều hoá làm một vạn mây hoa, một vạn mây hương thơm, một vạn mây âm nhạc, một vạn mây tràng, một vạn mây lọng, một vạn mây ca ngợi .v.v… Hoá làm đủ thứ như vậy rồi, những vị Thiên tử đó cùng nhau đi đến chỗ cung điện của Tỳ Lô Giá Na Bồ Tát ở, chắp tay cung kính, đứng qua một bên, đều muốn chiêm ngưỡng tôn nhan của Tỳ Lô Giá Na Bồ Tát, nhưng chẳng thấy được.
Bấy giờ, có vị Thiên tử nói như vầy : Tỳ Lô Giá Na Bồ Tát, đã từ đây chết đi, sinh vào nhà vua Tịnh Phạn tại nhân gian, ngồi trong lầu các chiên đàn, ở trong thai Ma Gia phu nhân.
Lúc đó, có vị Thiên tử nói như vầy : « Tỳ Lô Giá Na Bồ Tát, đã từ đây chết đi, sinh vào trong nhà vua Tịnh Phạn tại nhân gian, ngồi trong lầu các chiên đàn, ở trong thai Ma Gia phu nhân » (Bồ Tát trụ thai thanh tịnh, giống như ở trong cung điện vườn rừng).
Bấy giờ, các vị Thiên tử dùng thiên nhãn quán sát, thấy thân Bồ Tát ở tại nhân gian nhà vua Tịnh Phạn. Có các vị trời Phạm Thiên, trời Dục Thiên thừa sự cúng dường.
Lúc đó, các vị Thiên tử dùng thiên nhãn vô ngại để quán sát, thì thấy thân Tỳ Lô Giá Na Bồ Tát, ở tại nhân gian trong cung vua Tịnh Phạn. Lúc đó, có các vị trời Phạm Thiên Vương, và trời Lục Dục Thiên Vương, đều thừa sự cúng dường.
Các chúng Thiên tử đều nghĩ như vầy : Nếu chúng ta không đến chỗ Bồ Tát thưa hỏi, cho đến một niệm sinh tâm ái trước cung trời nầy, thì không thể được.
Tất cả đại chúng Thiên tử đều nghĩ như vầy : Nếu chúng ta không đến chỗ Bồ Tát thưa hỏi, cho đến một niệm sinh tâm ái trước phước báo cung trời Đầu Suất nầy, thì không thể được, chúng ta phải biết ân báo ân.
Bấy giờ, mỗi vị Thiên tử cùng với mười Na do tha quyến thuộc, muốn xuống cõi Diêm Phù Đề.
Lúc đó, hết thảy các Thiên tử cùng với mười Na do tha quyến thuộc, đều muốn hàng xuống thế giới Ta Bà cõi Diêm Phù Đề, đến cung vua Tịnh Phạn, lễ bái Tỳ Lô Giá Na Bồ Tát.
Bấy giờ, trong Trống trời phát ra âm thanh bảo rằng : Các Thiên tử ! Đại Bồ Tát chẳng phải từ đây chết mà sinh về nhân gian kia. Chỉ dùng thần lực, tuỳ theo tâm của các chúng sinh, mà khiến cho họ được thấy.
Lúc đó, trong Trống trời lại phát ra âm thanh bảo tất cả các Thiên tử rằng : « Các vị Thiên tử ! Tỳ Lô Giá Na là đại Bồ Tát trong các Bồ Tát. Ngài chẳng phải từ cung trời Đâu Suất mạng chung, sinh về thế giới Ta Bà. Mà là dùng sức thần thông, tuỳ thuận tâm của tất cả chúng sinh mà thị hiện thọ sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều được thấy quá trình tám tướng thành đạo của Bồ Tát ».
Các vị Thiên tử ! Như nay tôi đây, chẳng phải mắt thấy, mà hay phát ra tiếng. Đại Bồ Tát nhập vào tam muội Ly cấu, cũng lại như thế. Chẳng phải mắt thấy, mà nơi nơi thị hiện thọ sinh. Lìa khỏi sự phân biệt, trừ kiêu mạn, không nhiễm trước.
Các vị Thiên tử ! Như nay Trống trời tôi đây, tuy chẳng có con mắt, không thể nhìn thấy tất cả sự vật, mà tôi hay phát ra tiếng. Đại Bồ Tát nhập vào tam muội Ly cấu, cũng lại như thế. Chẳng phải mắt thấy, mà Ngài đến khắp nơi thị hiện tướng thọ sinh. Lìa khỏi sự phân biệt, diệt trừ tất cả kiêu mạn, không còn mọi nhiễm ô, chẳng còn mọi sự chấp trước.
Các vị Thiên tử ! Các ông nên phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, tịnh trị ý mình, khéo trụ oai nghi.
Các vị Thiên tử ! Các ông nên phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề (Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác), nên tịnh trị ý mình, tức là Phật đạo. Khéo trụ oai nghi, không còn mao bệnh. Tức là tiến lùi có oai đức và nghi tắc, đi đứng nằm ngồi bốn đại oai nghi, đều hợp với pháp, do đó có câu :
« Đi như gió
Đứng như tùng
Ngồi như chung
Nằm như cung ».
Đó là tiêu chuẩn oai nghi, còn có ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh.
Hiện tại chúng ta đang tham thiền đả toạ (thiền thất), tức là tịnh trị ý mình. Tịnh trị tâm mình, điều trị tâm mình, hàng phục tâm tham sân si ba độc, khiến cho không còn dấu vết nữa, chỉ có vô sinh pháp nhẫn (không thấy có chút pháp sinh, không thấy có chút pháp diệt, nhẫn thọ nơi tâm). Trong thiền đường, khi ngồi, khi đi, không người, không ta, không chúng sinh, không thọ giả. Khi đi, trên chẳng biết có trời, giữa chẳng biết có người, dưới chẳng biết có đất, như vậy ở trong thiền đường và ở ngoài thiền đường, sẽ trở thành một khối, thành một thể. Thiền đường giống như pha lê, trong ngoài trong suốt, thân thể của chúng ta, tham đến trong ngoài thấu suốt, tơ hào không có chướng ngại. Nếu nhẫn không được, thì sẽ có chướng ngại. Không có chướng ngại thì sẽ nhẫn được. Khi ngồi không biết ngồi, khi đi không biết đi. Lúc đó, thật sự đạt đến cảnh giới : Không người, không ta, không chúng sinh, không thọ giả. Tuy nhiên chẳng còn tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ giả, nhưng ta người chúng sinh thọ giả, vẫn tồn tại. Chỉ là ở trên phần của mình, tất cả đều không, bên trong chẳng biết có người, bên ngoài chẳng biết có thân, lại chẳng biết có tất cả sự vật, đồng một thể với hư không. Tận hư không khắp pháp giới, chẳng còn một niệm vọng tưởng. Khi tham đến cảnh giới này, thì tự nhiên sẽ có tin tức tốt.
Sám hối tiêu trừ tất cả nghiệp chướng, phiền não chướng, báo chướng, thấy chướng.
Các vị Thiên tử ! Các ông nên sám hối, cần phải tiêu trừ tất cả nghiệp chướng, tức là nghiệp ác do thân miệng ý ba nghiệp đã tạo ra. Phải tiêu trừ tất cả phiền não chướng, tức là tư hoặc của tham sân si ba ác dẫn đến phiền thân não tâm. Phải tiêu trừ tất cả báo chướng, tức là khổ báo của súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, ba đường ác. Phải tiêu trừ tất cả thấy chướng, tức là thấy hoặc tà tri tà kiến, chướng ngại chánh đạo. Tức cũng là thấy thì mê hoặc, thấy thì chướng ngại.
Dùng hết số thân chúng sinh pháp giới, dùng hết số đầu chúng sinh pháp giới, dùng hết số lưỡi chúng sinh pháp giới. Dùng hết số thân nghiệp thiện, lời nghiệp thiện, ý nghiệp thiện, chúng sinh pháp giới, sám hối tiêu trừ hết thảy các chướng lỗi ác.
Các vị Thiên tử ! Các ông phải dùng hết số thân của hết thảy chúng sinh pháp giới, dùng hết số đầu chúng sinh pháp giới, dùng hết số lưỡi chúng sinh pháp giới. Dùng hết số thân nghiệp thiện, lời nghiệp thiện, ý nghiệp thiện, chúng sinh pháp giới để sám hối. Phải tiêu trừ sạch hết thảy các tội lỗi ác của các ông. Do đó có câu :
« Con xưa đã tạo các nghiệp ác
Đều do vô thuỷ tham sân si
Từ than miệng ý mà sinh ra
Tất cả nay con đều sám hối”.
Bấy giờ, các Thiên tử nghe lời đó rồi, được chưa từng có, sinh tâm đại hoan hỉ, mà hỏi rằng : Đại Bồ Tát sám hối tiêu trừ tất cả lỗi ác như thế nào ?
Lúc đó, tất cả Thiên tử nghe lời của Trống trời xong rồi, cảm thấy những lời này chưa từng được nghe qua, là việc rất hi hữu, trong sinh tâm đại hoan hỉ, mà hỏi Trống trời rằng : « Đại Bồ Tát sám hối tiêu trừ tất cả lỗi ác như thế nào ? Xin ông hãy từ bi khai thị được chăng » ?
Bấy giờ, Trống Trời nhờ sức căn lành tam muội Bồ Tát, phát ra bảo rằng : Các Thiên tử ! Bồ Tát biết các nghiệp, chẳng từ phương đông đến, chẳng từ phương nam, tây bắc bốn hướng trên dưới đến, mà cùng tích tập, dừng trụ nơi tâm, nhưng từ điên đảo sinh, không có trụ xứ. Bồ Tát quyết định thấy rõ không có nghi hoặc như vậy.
Lúc đó, Trống Trời nhờ sức căn lành tam muội Bồ Tát, phát ra tiếng mà bảo tất cả Thiên tử rằng : Các vị Thiên tử ! Bồ Tát biết hết thảy tất cả các nghiệp, chẳng từ phương đông đến, chẳng từ phương nam, tây bắc bốn hướng trên dưới đến, mà cùng thọ nghiệp tích tập, dừng trụ nơi tâm. Đó là từ điên đảo tạo nghiệp mà ra, chẳng có một thể tánh, chẳng có một trụ xứ. Bồ Tát quyết định thấy rõ đạo lý đó, không có hoài nghi, không có mê hoặc.
Các vị Thiên tử ! Như Trống trời tôi đây, nói nghiệp, nói báo, nói hạnh, nói giới, nói hoan hỉ, nói an lạc, nói các tam muội.
Các vị Thiên tử ! Như Trống trời tôi đây, nói tất cả nghiệp đã tạo, nói tất cả báo sẽ thọ, nói tất cả hành vi của chúng sinh, nói tất cả giới luật của chúng sinh, nói tất cả pháp hoan hỉ, nói tất cả pháp an lạc, nói tất cả các tam muội, nói tất cả chánh tri chánh kiến, khiến cho tất cả chúng sinh y pháp tu hành, chứng được giải thoát.
Chư Phật Bồ Tát cũng lại như thế. Nói cái ta, nói của ta, nói chúng sinh, nói tham sân si đủ thứ các nghiệp, mà thật không có cái ta, không có của ta. Các nghiệp đã tạo, quả báo sáu cõi, tìm cầu mười phương, đều không thể được.
Mười phương tất cả chư Phật Bồ Tát, cũng lại như thế. Nói cái ta, cũng nói của ta, nói chúng sinh, nói tham sân si đủ thứ các nghiệp báo, mà thật không có cái ta, không có của ta. Các nghiệp đã tạo, phải thọ quả báo trong sáu cõi luân hồi, nhưng nếu tìm cầu nguồn gốc trong mười phương, thì không thể được, vì nghiệp báo chẳng có thể tánh, cho nên không thể được.
Các Thiên tử ! Ví như tiếng của tôi, chẳng sinh, chẳng diệt. Chư Thiên tạo nghiệp ác, thì chẳng nghe tiếng Trống của tôi, chỉ nghe tiếng địa ngục, dùng để giác ngộ. Tất cả các nghiệp, cũng lại như thế, chẳng sinh, chẳng diệt, tuỳ theo sự tu tập, sẽ thọ quả báo.
Các vị Thiên tử ! Ví như tiếng Trống trời của tôi phát ra, là chẳng sinh, chẳng diệt, là chẳng đoạn, chẳng thường. Tất cả Thiên tử tạo nghiệp ác, thì họ chẳng nghe, chẳng thấy tiếng Trống trời của tôi nói, chỉ nghe tiếng địa ngục thọ khổ, âm thanh khiến cho họ giác ngộ. Tất cả các nghiệp mà con người tạo ra, cũng lại như thế. Nghiệp cũng chẳng sinh, chẳng diệt, tuỳ theo chúng sinh tạo nghiệp gì, thì sẽ thọ quả báo đó.
Các Thiên tử ! Như tiếng Trống trời của tôi phát ra, trong vô lượng kiếp không thể cùng tận, không có gián đoạn, hoặc đến, hoặc đi, đều không thể được.
Các vị Thiên tử ! Như tiếng Trống trời của tôi phát ra, trong vô lượng kiếp thời gian, không thể hết được. Lúc nào cũng có ở trong hư không, không có khi nào gián đoạn, cũng chẳng đến, cũng chẳng đi, âm thanh đó đều không thể đắc được.
Các Thiên tử ! Nếu có đến đi, thì có đoạn thường. Tất cả chư Phật trọn không diễn nói pháp có đoạn thường, chỉ trừ phương tiện, vì thành thục chúng sinh.
Các vị Thiên tử ! Giả sử có đến có đi, thì đó là pháp chấp đoạn, chấp thường. Hết thảy tất cả chư Phật, trọn không diễn nói pháp có đoạn, có thường, chỉ trừ phương tiện, vì thành thục chúng sinh, khiến cho họ phát tâm bồ đề, mà nói pháp môn phương tiện khéo léo này.
Các Thiên tử ! Ví như tiếng của tôi, trong vô lượng thế giới, tuỳ theo tâm của chúng sinh, đều khiến cho họ được nghe. Tất cả chư Phật cũng lại như thế, tuỳ theo tâm chúng sinh, đều khiến cho họ được thấy.
Các vị Thiên tử ! Ví như tiếng Trống trời của tôi, trong mười phương vô lượng thế giới, tuỳ theo tâm của chúng sinh, khiến cho chúng sinh có duyên, đều được nghe tiếng này. Mười phương tất cả chư Phật, cũng lại như thế, tuỳ theo tâm chúng sinh, đều khiến cho họ được thấy chư Phật.
Các Thiên tử ! Như có tấm gương pha lê, tên là Năng chiếu, thanh tịnh trong suốt. Lượng của tấm gương đó đồng với mười thế giới, vô lượng vô biên. Tất cả sông núi, tất cả chúng sinh, trong các cõi nước, cho đến địa ngục súc sinh ngạ quỷ, hết thảy hình bóng, đều hiện ra ở trong tấm gương đó.
Các vị Thiên tử ! Như có tấm gương pha lê, tên là Năng chiếu, mặt gương vừa thanh tịnh vừa trong suốt. Thể tích của tấm gương đó, đồng với mười phương thế giới lớn nhỏ, vô lượng vô biên. Tất cả sông núi, tất cả chúng sinh, trong các cõi nước, cho đến địa ngục súc sinh ngạ quỷ, hết thảy hình bóng, đều hiện ra ở trong tấm gương đó.
Các Thiên tử ! Ý của các ông như thế nào ? Các hình bóng đó, có thể nói là đi vào trong gương, lại từ trong gương đi ra chăng?
Đáp rằng : Không vậy.
Các vị Thiên tử ! Ý của các ông như thế nào ? Các hình bóng đó, có thể nói là « đi vào trong gương, lại từ trong gương đi ra chăng » ? Có thể nói như thế chăng ?
Các Thiên tử đều đáp rằng : Không vậy.
Các Thiên tử ! Tất cả các nghiệp cũng lại như thế, tuy hay sinh ra các nghiệp quả báo, mà không có chỗ đến đi.
Các vị Thiên tử ! Tất cả các nghiệp cũng lại như thế, tuy hay sinh ra các nghiệp quả báo, mà nó không chỗ đến, cũng không chỗ đi.
Các Thiên tử ! Ví như nhà huyễn thuật, huyễn hoặc mắt người. Nên biết các nghiệp cũng lại như thế. Nếu biết như vậy, là chân thật sám hối, tất cả tội ác đều được thanh tịnh.
Các vị Thiên tử ! Ví như nhà huyễn thuật, có thể biến hoá ra đủ thứ huyễn thuật, khiến cho hoa mắt người xem, nhìn chẳng rõ ràng là thật hay là giả. Nên biết các nghiệp đã tạo ra cũng lại như thế. Nếu biết như vậy, tức là chân thật sám hối nghiệp chướng, tất cả tội ác đều tiêu trừ sạch hết, được thanh tịnh.
Khi nói pháp nầy, thì các Thiên tử trời Đâu Suất Đà, nhiều như số hạt bụi trăm ngàn ức Na do tha cõi Phật, đều đắc được vô sinh pháp nhẫn. Các Thiên tử trời lục dục vô lượng không nghĩ bàn, phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Tất cả Thiên nữ trong cõi trời lục dục, đều xả bỏ thân nữ, phát tâm vô thượng bồ đề.
Khi Trống trời nói pháp nầy, thì tất cả Thiên tử trời Đâu Suất Đà, nhiều như số hạt bụi trăm ngàn ức Na do tha cõi Phật, đều đắc được vô sinh pháp nhẫn. Các Thiên tử trời lục dục nhiều vô lượng không nghĩ bàn, đều phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Tất cả Thiên nữ trong cõi trời lục dục, tướng mạo xinh đẹp, nhưng họ đều hết tham luyến, đều xả bỏ thân nữ, lập tức được thân nam, còn phát tâm vô thượng bồ đề.
Trời lục dục, tức là :
1. Trời Tứ Thiên Vương.
2. Trời Đao Lợi.
3. Trời Dạ Ma.
4. Trời Đâu Suất.
5. Trời Hoá Lạc.
6. Trời Tha Hoá Tự Tại.
Chư Thiên tuy nhiên khoái lạc, nhưng khi hưởng hết phước trời, sẽ hiện ra năm tướng suy, chứng minh sắp chết, vẫn phải thọ khổ trong luân hồi. Thế nào là năm tướng suy ? Nói một cách đơn giản như sau :
1. Mũ hoa trên đầu héo : Mũ hoa người trời đội trên đầu, làm bằng hoa tươi. Loại hoa này rất đẹp, tươi mãi không héo. Nhưng khi năm tướng suy hiện, thì mũ hoa trên đầu tự nhiên héo.
2. Quần áo dơ bẩn : Vì trên trời chẳng có bụi dơ, cho nên quần áo của người trời mặc, không dơ bẩn, không cần giặt là. Khi năm tướng suy hiện, thì quần áo của người trời tự nhiên dơ bẩn, mà còn hôi hám.
3. Dưới nách ra mồ hôi : Thân thể của người trời rất là sạch sẽ, không ra mồ hôi. Nhưng khi năm tướng suy hiện, thì hai nách của người trời chảy mồ hôi.
4. Thân thể hôi hám : Thân thể của người trời thường toả ra mùi thơm, vì người trời giữ giới luật. Nhưng khi năm tướng suy hiện, thì toả ra mùi hôi, giống như mùi tử thi, khiến cho người bịt mũi bỏ đi.
Nếu chúng ta đời đời kiếp kiếp giữ giới luật, thì trên thân sẽ toả ra mùi thơm, bằng không sẽ toả ra mùi hôi, khiến cho không ai dám gần gũi. Muốn thân toả ra mùi thơm, thì phải giữ gìn giới luật.
5. Đứng ngồi không yên : Người trời thích tu tập thiền định, tĩnh toạ tu tâm, chẳng sinh tạp niệm. Nhưng khi năm tướng suy hiện, thì ngồi cũng chẳng yên, đứng cũng chẳng yên. Ngồi xuống lại muốn đứng lên, đứng lên lại muốn ngồi xuống, tâm ý hoảng loạn, chẳng có định lực. Tay chân không yên như thế, thì sẽ đoạ vào năm nẻo (người, A tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh).
Có bài kệ rằng :
« Lục dục chư Thiên cụ ngũ suy
Tam thiền Thiên thượng hữu phong tai
Nhậm quân tu đáo Phi Phi Tưởng
Bất như Tây Phương quy khứ lai ».
Nghĩa là :
Sáu trời ngũ dục đủ năm tướng suy
Trên trời Tam Thiền có nạn gió
Dù tu đến Trời Phi Phi Tưởng
Chẳng bằng sinh về cõi Tây Phương.
Mục đích chúng ta tu đạo là vì chấm dứt sinh tử. Làm thế nào để chấm dứt sinh tử ? Phải tham thiền đả toạ, thì sẽ khống chế được sinh tử. Hoặc niệm danh hiệu Phật, thì sẽ được vãng sinh về cõi Tây Phương, chẳng còn bị sinh tử khống chế nữa. Đây là hai đại pháp môn thoát khỏi ba cõi.
Bấy giờ, các Thiên tử nghe nói Phổ Hiền hồi hướng rộng lớn, vì đắc được Thập địa, vì đắc được các lực trang nghiêm tam muội.
Lúc đó, tất cả các vị Thiên tử nghe nói tu pháp môn Bồ Tát Phổ Hiền hồi hướng rộng lớn, vì có thể chứng đắc quả vị Thập địa Bồ Tát, lại có thể đắc được các lực của chư Phật, để trang nghiêm tam muội, đắc được chánh định chánh thọ.
Dùng số chúng sinh đồng thanh tịnh ba nghiệp, vì sám hối tiêu trừ tất cả các chướng nặng, liền thấy hoa sen bảy báu nhiều như số hạt bụi trăm ngàn ức Na do tha cõi Phật.
Các vị Thiên tử đó, bèn dùng số chúng sinh đồng thanh tịnh ba nghiệp, để sám hối tiêu trừ tất cả các chướng nặng, vì nhân duyên đó, cho nên lập tức thấy được hoa sen bảy báu nhiều như số hạt bụi trăm ngàn ức Na do tha cõi Phật hiện tiền.
Trên mỗi hoa sen, đều có Bồ Tát ngồi kiết già, phóng đại quang minh. Trong mỗi vẻ đẹp của các Bồ Tát đó, đều phóng ra quang minh đồng với số chúng sinh. Trong các quang minh đó, có chư Phật đồng với số chúng sinh, ngồi kiết già, tuỳ tâm chúng sinh để vì họ nói pháp, nhưng vẫn chưa hiện sức ít phần tam muội Ly cấu.
Trên mỗi đoá hoa sen bảy báu đó, đều có Bồ Tát ngồi kiết già, phóng đại quang minh. Trong mỗi tướng vẻ đẹp của các Bồ Tát đó, lại phóng ra quang minh đồng với số chúng sinh. Trong mỗi quang minh đó, lại hiện ra chư Phật đồng với số chúng sinh, ngồi kiết già, tuỳ tâm chúng sinh để vì chúng sinh diễn nói diệu pháp, tuy là như thế, nhưng vẫn chưa hiện sức ít phần tam muội Ly cấu.
Bấy giờ, các Thiên tử đó, dùng các hoa tốt đẹp nhất. Lại trong mỗi lỗ chân lông trên thân mình, hoá làm chúng sinh số đồng với các mây hoa đẹp, cầm hoa để rải lên đức Phật, cúng dường Như Lai Tỳ Lô Giá Na, tất cả các mây hoa đẹp đều ở trên thân Phật.
Bấy giờ, các Thiên tử đó, dùng các hoa tốt đẹp nhất. Lại trong mỗi lỗ chân lông trên thân mình, hoá làm chúng sinh số đồng với các mây hoa đẹp, cầm tất cả hoa báu để rải lên thân Phật, cúng dường Như Lai Tỳ Lô Giá Na, hết thảy tất cả các mây hoa đẹp đều ở trên thân Phật.
Các mây hương đó, khắp mưa xuống các thế giới nhiều như số hạt bụi vô lượng cõi Phật. Nếu có chúng sinh thân thọ được mùi hương đó, thì thân họ an lạc.
Đủ thứ các mây hương đó, khắp mưa xuống các thế giới nhiều như số hạt bụi vô lượng cõi Phật. Nếu có chúng sinh thân thọ được mùi hương đó, thì thân họ an lạc, vĩnh viễn chẳng còn sự đau bệnh, thân tâm vĩnh viễn khoẻ mạnh, tinh thần an ổn.
Ví như Tỳ Kheo nhập vào đệ Tứ thiền, tất cả nghiệp chướng đều được tiêu diệt.
Đưa ra một ví dụ để nói, như Tỳ Kheo nhập vào trời đệ Tứ Thiền (xả niệm thanh tịnh địa). Tất cả nghiệp chướng đều tiêu diệt hết không còn. Trời Tứ Thiền vẫn còn là cảnh giới của phàm phu, chưa nhập vào dòng Thành. Nếu tiếp tục tinh tấn, khi đến cõi trời Ngũ Bất Hoàn, thì mới nhập vào dòng Thánh.
Nếu có ai ngửi được, thì các chúng sinh đó, nơi sắc thanh hương vị xúc, bên trong đầy đủ có năm trăm phiền não. Bên ngoài cũng có năm trăm phiền não. Người tham nhiều thì có hai vạn một ngàn phiền não. Người sân nhiều thì có hai vạn một ngàn phiền não. Người si nhiều thì có hai vạn một ngàn phiền não. Người tham sân đồng nhau thì có hai vạn một ngàn phiền não.
Nếu có chúng sinh ngửi được, thì các chúng sinh đó, đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, năm trần, bên trong đầy đủ có năm trăm phiền não. Bên ngoài cũng có năm trăm phiền não. Đối với người tham nhiều, thì có hai vạn một ngàn phiền não. Người sân nhiều, thì có hai vạn một ngàn phiền não. Đối với người si nhiều, thì có hai vạn một ngàn phiền não. Đối với người tham sân đều nhau, thì có hai vạn một ngàn phiền não.
Biết rõ như vậy, đều là hư vọng. Biết như vậy rồi, thành tựu căn lành mây hương tràng tự tại quang minh thanh tịnh.
Nếu những chúng sinh đó biết rõ tám vạn bốn ngàn phiền não như vậy, đều là hư vọng không thật rồi, sẽ thành tựu căn lành mây hương tràng tự tại quang minh thanh tịnh.
Nếu có chúng sinh, thấy được lọng đó, gieo trồng một căn lành thanh tịnh kim võng chuyển luân vương một Hằng hà sa.
Nếu có chúng sinh, thấy được lọng báu của các vị Thiên tử đó hoá hiện ra, thì gieo trồng xuống một căn lành thanh tịnh kim võng chuyển luân vương một Hằng hà sa.
Phật tử ! Bồ Tát trụ bậc chuyển luân vương nầy, giáo hoá chúng sinh trong các thế giới, nhiều như số hạt bụi trăm ngàn ức Na do tha cõi Phật.
Các vị Phật tử ! Bồ Tát trụ bậc Chuyển Luân Vương nầy, giáo hoá hết thảy chúng sinh trong các thế giới, nhiều như số hạt bụi trăm ngàn ức Na do tha cõi Phật, khiến cho họ phát tâm bồ đề, tu vô thượng đạo.
Phật tử ! Ví như Như Lai Nguyệt Trí ở thế giới Minh Cảnh, thường có các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, ở trong vô lượng các thế giới, hoá hiện thân ấy mà đến nghe pháp. Rộng vì họ diễn nói việc bổn sanh, chưa từng gián đoạn dù chỉ một niệm. Nếu có chúng sinh nghe được danh hiệu đức Phật đó, thì sẽ được vãng sinh về cõi Phật đó.
Các vị Phật tử ! Ví như ở trong thế giới Minh Cảnh, có Đức Như Lai hiệu là Nguyệt Trí. Thường có các Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ v.v… ở trong vô lượng các thế giới, hoá hiện thân ấy mà đến thế giới Minh Cảnh để lắng nghe Như Lai Nguyệt Trí, rộng vì họ diễn nói việc Bồ Tát bổn sanh, chưa từng gián đoạn dù chỉ một niệm. Nếu có một chúng sinh nghe được danh hiệu của Đức Phật đó, thì chắc chắn sẽ được vãng sinh về cõi của Đức Phật đó.
Bồ Tát an trụ bậc thanh tịnh kim võng chuyển luân vương, cũng lại như thế. Nếu có ai tạm gặp được quang minh đó, thì sẽ đắc được bậc Thập địa của Bồ Tát, vì do sức căn lành thuở xưa đã tu hành.
Bồ Tát an trụ bậc thanh tịnh kim võng Chuyển Luân Vương, cũng lại như thế. Nếu có chúng sinh tạm thời gặp được quang minh đó, thì chắc chắn sẽ đắc được bậc Thập địa (bậc Pháp vân) của Bồ Tát, vì người đó nhờ sức căn lành thuở xưa đã tu hành.
Phật tử ! Như được Sơ thiền, tuy chưa mạng chung, mà thấy hết thảy cung điện của cõi Phạm Thiên, thọ được sự an lạc nơi cõi Phạm Thiên. Bậc đắc được các thiền, cũng đều như vậy.
Đức Phật lại gọi một tiếng các vị Phật tử ! Như người chứng được Sơ thiền, tuy chưa mạng chung, mà thấy hết thảy cung điện của cõi trời Phạm Thiên. Lại hưởng thọ được sự an lạc nơi cõi trời Phạm Thiên. Bậc đắc được Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, cũng đều như vậy.
Đại Bồ Tát trụ bậc thanh tịnh kim võng chuyển luân vương, phóng quang minh thanh tịnh ma ni kế. Nếu có chúng sinh gặp được quang minh nầy, thì đều đắc được bậc Thập địa của Bồ Tát, thành tựu vô lượng trí huệ quang minh. Đắc được mười thứ mắt thanh tịnh, cho đến mười thứ ý thanh tịnh. Đầy đủ vô lượng tam muội thâm sâu, thành tựu nhục nhãn thanh tịnh như vậy.
Khi đại Bồ Tát trụ bậc thanh tịnh kim võng Chuyển Luân Vương, phóng quang minh thanh tịnh ma ni kế. Nếu có chúng sinh gặp được quang minh nầy, thì đều chứng đắc được bậc Thập địa của Bồ Tát, thành tựu vô lượng trí huệ quang minh. Đắc được mười thứ pháp nhãn thanh tịnh, mười thứ pháp nhĩ thanh tịnh, mười thứ pháp tĩ thanh tịnh, mười thứ pháp thiệt thanh tịnh, mười thứ pháp thân thanh tịnh, mười thứ pháp ý thanh tịnh. Lại đầy đủ vô lượng tam muội thâm sâu, thành tựu nhục nhãn thanh tịnh như vậy.
Phật tử ! Nếu như có người, đem ức Na do tha cõi Phật, nghiền nát làm bụi. Một hạt bụi là một cõi, lại đem số hạt bụi cõi Phật đó, nghiền nát làm bụi. Hạt bụi như vậy, đều để trên bàn tay trái, cầm đi về phương đông, trải qua các thế giới nhiều như số hạt bụi, bèn để xuống một hạt bụi. Đi về phương đông như vậy, hết số hạt bụi đó. Phương nam tây bắc bốn hướng trên dưới, cũng lại như thế. Như vậy hết thảy mười phương thế giới, hoặc để hạt bụi và không để hạt bụi, đều đem tập thành một cõi Phật.
Các vị Phật tử ! Nếu như có người, đem ức Na do tha cõi Phật, nghiền nát làm bụi. Một hạt bụi làm một cõi Phật. Lại đem số hạt bụi cõi Phật đó, nghiền nát làm bụi. Sau đó, lại lấy những bụi đó, đều để trên bàn tay trái, cầm đi về phương đông, trải qua các thế giới nhiều như số hạt bụi, bèn để xuống một hạt bụi. Đi về phương đông như vậy, hết số hạt bụi đó. Phương nam, phương tây, phương bắc, phương đông bắc, phương đông nam, phương tây nam, phương tây bắc, phương trên, phương dưới, cũng lại như thế. Như vậy hết thảy mười phương thế giới, hoặc để hạt bụi và không để hạt bụi, đều đem tập thành một cõi Phật.
Bảo Thủ ! Ý ông như thế nào ? Cõi Phật đó, rộng lớn vô lượng, có thể nghĩ bàn chăng ?
Đáp rằng : Không vậy, cõi Phật đó, rộng lớn vô lượng, hy hữu kỳ đặc, không thể nghĩ bàn. Nếu có chúng sinh, nghe ví dụ này, mà sinh tâm tin hiểu, nên biết càng hy hữu kỳ đặc hơn.
Phật gọi một tiếng : « Bảo Thủ ! Ý ông như thế nào ? Thế giới nhiều như hạt bụi, tích tập thành một cõi Phật. Cõi nước đó có rộng lớn vô lượng vô biên chẳng ? Có thể nghĩ bàn chăng » ?
Bồ Tát Bảo Thủ đáp rằng : « Không vậy, cõi Phật đó rộng lớn, vô lượng, là hy hữu, là kỳ đặc, không thể nghĩ bàn. Nếu có chúng sinh, nghe ví dụ này, mà sinh tâm tin hiểu, nên biết càng hy hữu kỳ đặc hơn ».
Đức Phật nói : Bảo Thủ ! Như thế, như thế ! Như lời ông nói, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, nghe ví dụ nầy mà sinh tâm tin, ta thọ ký cho người đó, chắc chắn sẽ thành A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, sẽ đắc được trí huệ vô thượng của Như Lai.
Đức Phật lại nói với Bảo Thủ rằng: « Bảo Thủ ! Ông nói rất đúng, tức là như thế! Như lời ông nói, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, nghe ví dụ nầy rồi, mà sinh tâm tin, ta sẽ thọ ký cho người đó, chắc chắn sẽ chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (A nậu đa la tam miệu tam bồ đề), sẽ đắc được trí huệ vô thượng của Như Lai.
Bảo Thủ ! Ví như lại có người, đem cõi Phật rộng lớn như đã nói ở trên, nhiều như số hạt bụi ngàn ức cõi Phật, đều nghiền nát làm bụi. Như vậy lần lược triển chuyển, cho đến trải qua tám mươi lần.
Đức Phật lại gọi một tiếng : « Bảo Thủ ! Ví như lại có người, đem cõi Phật rộng lớn như đã nói ở trên, nhiều như số hạt bụi ngàn ức cõi Phật, đều nghiền nát làm bụi. Đem những hạt bụi đó, y chiếu theo ví dụ như ở trên đã nói, để trên tay trái, đi về phương đông, để hết những hạt bụi đó, lại tích tập thành một cõi Phật. Lại đem cõi Phật đó nghiền nát ra làm bụi, lần lược như vậy, triển chuyển, cho đến trải qua tám mươi lần ».
Như vậy tất cả cõi Phật rộng lớn, hết thảy hạt bụi. Nhục nhãn nghiệp báo thanh tịnh của Bồ Tát, ở trong một niệm, đều thấy rõ được, cũng thấy các Đức Phật nhiều như số hạt bụi trăm ức cõi Phật rộng lớn. Như tấm gương pha lê, thanh tịnh quang minh, chiếu hiện các thế giới nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật.
Như vậy tất cả cõi Phật rộng lớn, hết thảy hạt bụi. Nhục nhãn nghiệp báo thanh tịnh của Bồ Tát, ở trong một niệm, đều hoàn toàn thấy rõ các cõi Phật nhiều như số hạt bụi, cũng thấy rõ các Đức Phật nhiều như số hạt bụi trăm ức cõi Phật rộng lớn. Như tấm gương pha lê, thanh tịnh quang minh, chiếu hiện các thế giới nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật.
Bảo Thủ ! Đó đều là tam muội thâm sâu của thanh tịnh kim võng chuyển luân vương, căn lành phước đức mà thành tựu.
Đức Phật lại gọi một tiếng : « Bảo Thủ ! Đó đều là tam muội thâm sâu của thanh tịnh kim võng chuyển luân vương, căn lành phước đức mà thành tựu.