KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Ðà
Hoà Thượng Tuyên Hóa giảng giải
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
TẬP 17
QUYỂN BỐN MƯƠI LĂM
PHẨM A TĂNG KỲ THỨ BA MƯƠI
A tăng kỳ là số mục đầu tiên của mười số mục lớn của Ấn độ. « A » dịch là vô. « Tăng kỳ » dịch là số, tức là vô số, hoặc dịch là vô lượng số. Nghĩa là số mục không biết được là bao nhiêu, không cách chi có thể nói được số mục chính xác, không cách chi có thể hình dung được, cho nên mới nói : « Bất khả thuyết bất khả thuyết ». Phẩm này là phẩm thứ ba mươi trong Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật, nên gọi là Phẩm A Tăng Kỳ thứ ba mươi.
Bấy giờ, Bồ Tát Tâm Vương bạch Phật rằng : Đức Thế Tôn ! Chư Phật Như Lai diễn nói A tăng kỳ, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết.
Lúc đó, tức là lúc Bồ Tát Phổ Hiền nói xong Phẩm Thập Nhẫn, có vị Bồ Tát gọi là Tâm Vương (tâm thống nhiếp các pháp, vương thống ngự bốn biển), bèn đối với Đức Phật Tỳ Lô Giá Na (báo thân của Phật Thích Ca Mâu Ni) nói : « Đức Thế Tôn ! Mười phương ba đời tất cả chư Phật, đã từng diễn nói A tăng kỳ, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết. Con thường thường nghe đến những số mục này, nhưng vẫn không hiểu rõ, rốt ráo ý nghĩa như thế nào ?
Đức Thế Tôn ! Thế nào là A tăng kỳ, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết ?
Bồ Tát Tâm Vương lại nói : « Đức Thế Tôn ! Thế nào là A tăng kỳ ? Cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết ? Xin Đức Thế Tôn từ bi, vì chúng con đại chúng trong pháp hội Hoa Nghiêm, diễn nói để cho chúng con hiểu rõ ».
Phật bảo Bồ Tát Tâm Vương rằng : Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử ! Nay ông vì muốn khiến cho các thế gian, nhập vào nghĩa số lượng của Phật biết, mà hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.
Phật nói với Bồ Tát Tâm Vương rằng : « Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử! Vấn đề ông hỏi tốt lắm! Tốt lắm! Hiện tại ông muốn khiến cho tất cả chúng sinh thế gian, đều biết nghĩa lý số lượng của Phật biết, mà hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác”.
Thiện nam tử! Hãy lắng nghe, khéo suy nghĩ, ta sẽ vì ông mà nói.
Phật lại gọi một tiếng: “Thiện nam tử! Ông phải tụ tinh hội thần, ông phải chú ý lắng nghe, phải khéo suy gẫm và nhớ lấy. Bây giờ ta sẽ vì ông mà nói rõ vấn đề ông hỏi”.
Bồ Tát Tâm Vương cung kính thọ giáo.
Lúc đó, Bồ Tát Tâm Vương hoan hỉ nói: “Dạ, con xin cung kính thọ giáo, lắng nghe pháp âm, y giáo phụng hành”.
Đức Phật nói: Thiện nam tử! Một trăm Lạc xoa làm một Câu chi. Câu chi Câu chi làm một A dữu đa. A dữu đa A dữu đa làm một Na do tha. Na do tha Na do tha làm một Tần bà la. Tần bà la Tần bà la làm một Căng yết la. Căng yết la Căng yết la làm một A già la. A già la A già la làm một Tối thắng. Tối thắng Tối thắng làm một Ma bà la. Ma bà la Ma bà la làm một A bà la. A bà la A bà la làm một Đa bà la. Đa bà la Đa bà la làm một giới phần. Giới phần Giới phần làm một Phổ ma. Phổ ma Phổ ma làm một nỉ ma. Nỉ ma Nỉ ma làm một A bà kiềm. A bà kiềm A bà kiềm làm một Di già bà. Di già bà Di già bà làm một Tỳ la già. Tỳ la già Tỳ la già làm một Tỳ già bà. Tỳ già bà Tỳ già bà làm một Tăng yết la ma. Tăng yết la ma Tăng yết la ma làm một Tỳ tát la. Tỳ tát la Tỳ tát la làm một Tỳ thiệm bà. Tỳ thiệm bà Tỳ thiệm bà làm một Tỳ thạnh già. Tỳ thạnh già Tỳ thạnh già làm một Tỳ tố đà. Tỳ tố đà Tỳ tố đà làm một Tỳ bà ha. Tỳ bà ha Tỳ bà ha làm một Tỳ bạc để. Tỳ bạc để Tỳ bạc để làm một Tỳ khư đảm. Tỳ khư đảm Tỳ khư đảm làm một Xưng lượng. Xương lượng Xưng lượng làm một Nhất trì. Nhất trì Nhất trì làm một Dị lộ. Dị lộ Dị lộ làm một Điên đảo. Điên đảo Điên đảo làm một Tam mạt gia. Tam mạt gia Tam mạt gia làm một Tỳ đổ la. Tỳ đổ la Tỳ đổ la làm một Hề bà la. Hề bà la Hề bà la làm một Từ tế. Từ tế Từ tế làm một Châu quảng. Châu quảng Châu quảng làm một Cao sơn. Cao sơn Cao sơn làm một Tối diệu. Tối diệu Tối diệu làm một Nê la bà. Nê la bà Nê la bà làm một Ha lý bà. Ha lý bà Ha lý bà làm một Nhất động. Nhất động Nhất động làm một Ha lý bồ. Ha lý bồ Ha lý bồ làm một Ha lý tam. Ha lý tam Ha lý tam làm một Hề lỗ già. Hề lỗ già Hề lỗ già làm một Đạt la bộ đà. Đạt la bộ đà Đạt la bộ đà làm một Ha lỗ na. Ha lỗ na Ha lỗ na làm một Ma lỗ đà. Ma lỗ đà Ma lỗ đà làm một Sám mộ đà. Sám mộ đà Sám mộ đà làm một Y la đà. Y la đà Y la đà làm một Ma lỗ ma. Ma lỗ ma Ma lỗ ma làm một Điều phục. Điều phục Điều phục làm một Ly kiêu mạn. Ly kiêu mạn Ly kiêu mạn làm một Bất động. Bất động Bất động làm một Cực lượng. Cực lượng Cực lượng làm một A ma đát la. A ma đát la A ma đát la làm một Bột ma đát la. Bột ma đát la Bột ma đát la làm một Già ma đát la. Già ma đát la Già ma đát la làm một Na ma đát la. Na ma đát la Na ma đát la làm một Hề ma đát la. Hề ma đát la Hề ma đát la làm một Tỳ ma đát la. Tỳ ma đát la Tỳ ma đát la làm một Bát la ma đát la. Bát la ma đát la Bát la ma đát la làm một Thi bà ma đát la. Thi bà ma đát la Thi bà ma đát la làm một Ế la. Ế la Ế la làm một Tiết la. Tiết la Tiết la làm một Đế la. Đế la Đế la làm một Kệ la. Kệ la Kệ la làm một Tốt bộ la. Tốt bộ la Tốt bộ la làm một Nê la. Nê la Nê la làm một Kế la. Kế la Kế la làm một Tế la. Tế la Tế la làm một Tỳ la. Tỳ la Tỳ la làm một Mê la. Mê la Mê la làm một Ta la đồ. Ta la đồ Ta la đồ làm một Mê lỗ đà. Mê lỗ đà Mê lỗ đà làm một Khế lỗ đà. Khế lỗ đà Khế lỗ đà làm một Ma đổ la. Ma đổ la Ma đổ la làm một Ta mẫu la. Ta mẫu la Ta mẫu la làm một A dã ta. A dã ta A dã ta làm một Ca ma la. Ca ma la Ca ma la làm một Ma già bà. Ma già bà Ma già bà làm một A đát la. A đát la A đát la làm một Hê lỗ gia. Hê lỗ gia Hê lỗ già làm một Tiết lỗ bà. Tiết lỗ bà Tiết lỗ bà làm một Yết la ba. Yết la ba Yết la ba làm một Ha bà bà. Ha bà bà Ha bà bà làm một Tỳ bà la. Tỳ bà la Tỳ bà la làm một Na bà la. Na bà la Na bà la làm một Ma la la. Ma la la Ma la la làm một Ta bà la. Ta bà la Ta bà la làm một Mê la phổ. Mê la phổ Mê la phổ làm một Giả ma la. Giả ma la Giả ma la làm một Đà ma la. Đà ma la Đà ma la làm một Bát la ma đà. Bát la ma đà Bát la ma đà làm một Tỳ già ma. Tỳ già ma Tỳ già ma làm một Ô ba bạt đa. Ô ba bạt đa Ô ba bạt đa làm một Diễn thuyết. Diễn thuyết Diễn thuyết làm một Vô tận. Vô tận Vô tận làm một Xuất sanh. Xuất sanh Xuất sanh làm một Vô ngã. Vô ngã Vô ngã làm một A bạn đa. A bạn đa A bạn đa làm một Thanh liên hoa. Thanh liên hoa Thanh liên hoa làm một Bát đầu ma. Bát đầu ma Bát đầu ma làm một Tăng kỳ. Tăng kỳ Tăng kỳ làm một Thú. Thú Thú làm một Chí. Chí Chí làm một A tăng kỳ. A tăng kỳ A tăng kỳ làm một A tăng kỳ chuyển. A tăng kỳ chuyển A tăng kỳ chuyển làm một vô lượng. Vô lượng vô lượng làm một vô lượng chuyển. Vô lượng chuyển vô lượng chuyển làm một vô biên. Vô biên vô biên làm một vô biên chuyển. Vô biên chuyển vô biên chuyển làm một vô đẳng. Vô đẳng vô đẳng làm một vô đẳng chuyển. Vô đẳng chuyển vô đẳng chuyển làm một bất khả số. Bất khả số bất khả số làm một bất khả số chuyển. Bất khả số chuyển bất khả số chuyển làm một bất khả xưng. Bất khả xưng bất khả xưng làm một bất khả xưng chuyển. Bất khả xưng chuyển bất khả xưng chuyển làm một bất khả tư. Bất khả tư bất khả tư làm một bất khả tư chuyển. Bất khả tư chuyển bất khả tư chuyển làm một bất khả lượng. Bất khả lượng bất khả lượng làm một bất khả lượng chuyển. Bất khả lượng chuyển bất khả lượng chuyển làm một bất khả thuyết. Bất khả thuyết bất khả thuyết làm một bất khả thuyết chuyển. Bất khả thuyết chuyển bất khả thuyết chuyển làm một bất khả thuyết bất khả thuyết. Và bất khả thuyết bất khả thuyết làm một bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển.
Phật lại gọi một tiếng: Thiện nam tử! Mười vạn làm một Lạc xoa. Một trăm Lạc xoa làm một Câu chi. Câu chi Câu chi làm một A dữu đa. Từ đây trở đi tăng gấp đến một trăm hai mươi lần, tên gọi là bất khả lượng chuyển. Bất khả lượng chuyển bất khả lượng chuyển, gọi là một bất khả thuyết. Bất khả thuyết bất khả thuyết, gọi là bất khả thuyết chuyển. Bất khả thuyết chuyển bất khả thuyết chuyển, làm một bất khả thuyết bất khả thuyết. Và từ đây tăng lên đến bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển. Vượt qua số lời nói gọi là bất khả thuyết bất khả thuyết.
Chữ đại biểu số mục, Trung Quốc có hai mươi ba số. Một đến mười là mười. Mười lần mười là trăm. Mười lần trăm là ngàn. Mười lần ngàn là vạn. Mười lần vạn là ức. Mười lần ức là triệu. Mười lần triệu là kinh. Mười lần kinh là cai. Mười lần cai là tử. Mười lần tử là nhưỡng. Mười lần nhưỡng là câu. Mười lần câu là giản. Mười lần giản là chánh. Mười lần chánh là tái. Tái là ý nghĩa trời đất không thể dung chứa. Tiểu thừa có sáu mươi số, đến vô số là ngừng. Trong phẩm này có một trăm hai mươi bốn số, tăng dần lên, đến bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển là ngừng.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì Bồ Tát Tâm Vương mà nói bài kệ rằng.
Lúc đó, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì Bồ Tát Tâm Vương mà nói ra một trăm hai mươi bài kệ dưới đây, dùng để trả lời vấn đề của Bồ Tát Tâm Vương hỏi.
Không thể nói ra bất khả thuyết
Đầy dẫy tất cả bất khả thuyết
Trong các kiếp không thể nói ra
Nói bất khả thuyết không hết được.
Vì không thể dùng lời nói, cho nên không thể nói (bất khả thuyết). Không thể nói nghĩa là hình dung quá nhiều, không biết có bao nhiêu, cũng có nghĩa là không khi nào nói hết được, vì quá nhiều, trong hết thảy thế gian, đều đầy dẫy tất cả không thể nói. Dù không thể nói ra trong tất cả đại kiếp, nói không thể nói, cũng nói không thể hết được. Nói không hết được, vẫn có thể nói, cho nên không thể nói không thể nói hết được.
Các cõi Phật nhiều bất khả thuyết
Thảy đều nghiền nát làm hạt bụi
Cõi trong một bụi bất khả thuyết
Như một tất cả đều như vậy.
Có các cõi Phật nhiều không thể nói được, đem những cõi đó nghiền nát ra nhỏ như hạt bụi. Ở trong mỗi hạt bụi, lại có cõi Phật nhiều không thể nói ra hết được. Ở trong mỗi hạt bụi, đều có cõi Phật nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết. Rốt ráo có bao nhiêu ? Chúng ta phàm phu không cách chi biết được. Dù có dùng máy điện toán để tính, cũng tính không ra số mục là bao nhiêu. Tại sao ? Vì có số thì có lời để nói.
Bất khả thuyết các cõi Phật đó
Một niệm nghiền bụi bất khả thuyết
Niệm niệm nghiền bụi cũng như vậy
Suốt bất khả thuyết kiếp luôn nghiền.
Cõi nước chư Phật bất khả thuyết bất khả thuyết như vậy, ở trong một niệm, đều nghiền nát thành bụi. Số lượng đó nhiều không thể nói. Ở trong mỗi một hạt bụi, lại có các cõi nước chư Phật nhiều bất khả thuyết. Ở trong niệm niệm, hạt bụi nghiền ra đều như vậy. Cùng tận bất khả thuyết kiếp, luôn luôn là như vậy.
Bụi đó có cõi bất khả thuyết
Cõi đó làm bụi nói càng khó
Dùng bất khả thuyết pháp toán số
Bất khả thuyết kiếp số như vậy.
Hết thảy cõi Phật trong mỗi một hạt bụi, đã là bất khả thuyết. Lại đem mỗi cõi Phật, nghiền nát ra làm bụi, càng bất khả thuyết hơn nữa. Dùng bất khả thuyết phương pháp toán số, ở trong bất khả thuyết kiếp như vậy để tính toán.
Dùng các bụi đó đếm các kiếp
Một bụi mười vạn bất khả thuyết
Kiếp đó khen ngợi một Phổ Hiền
Không thể hết được lượng công đức.
Dùng đủ thứ số mục hạt bụi như vậy để làm các kiếp. Ở trong mỗi hạt bụi, có mười vạn kiếp số bất khả thuyết. Ở trong nhiều kiếp như vậy, để tán thán khen ngợi công đức của một vị Bồ Tát Phổ Hiền, không ai có thể nói hết được Bồ Tát Phổ Hiền rốt ráo có bao nhiêu lượng công đức !
Một bụi nhỏ nơi đầu sợi lông
Có bất khả thuyết các Phổ Hiền
Tất cả đầu lông đều như thế
Như vậy cho đến khắp pháp giới.
Ở nơi đầu của mỗi sợi lông, có Bồ Tát Phổ Hiền nhiều bất khả thuyết. Ở tại tất cả hạt bụi đầu sợi lông, có bất khả thuyết bất khả thuyết Bồ Tát Phổ Hiền. Giống như vậy, cho đến khắp cùng pháp giới.
Lượng công đức của một vị Bồ Tát Phổ Hiền, đã không thể nói hết được, hà huống là lượng công đức của nhiều vị Bồ Tát Phổ Hiền tận hư không khắp pháp giới, càng nói không hết được.
Hết thảy cõi nơi đầu sợi lông
Số đó vô lượng bất khả thuyết
Tận hư không lượng các đầu lông
Mỗi mỗi nơi cõi đều như vậy.
Ở trên mỗi đầu sợi lông, hết thảy tất cả các cõi, số đó nhiều vô lượng vô biên, không thể nói ra được rốt ráo có bao nhiêu. Các đầu sợi lông nhiều ở tận hư không khắp pháp giới, mỗi một cõi, cũng đều như vậy.
Các cõi nước nơi đầu lông đó
Vô lượng các loài khác nhau ở
Có bất khả thuyết cõi loài khác
Có bất khả thuyết cõi loài đồng.
Tại mỗi đầu sợi lông, có vô lượng các cõi Phật. Ở trong mỗi cõi nước, lại có vô lượng loài chúng sinh khác nhau đang ở trong đó. Có bất khả thuyết cõi loài khác, lại có bất khả thuyết cõi loài giống nhau.
Không thể nói được đầu sợi lông
Đều có cõi tịnh bất khả thuyết
Đủ thứ trang nghiêm bất khả thuyết
Đủ thứ kỳ diệu bất khả thuyết.
Có những đầu sợi lông nhiều không thể nói hết được, đều có cõi thanh tịnh, số lượng đó là bất khả thuyết. Ở trong mỗi cõi nước, đều có đủ thứ sự trang nghiêm không thể nghĩ bàn, số lượng đó cũng là bất khả thuyết. Lại có đủ thứ cảnh giới kỳ diệu không thể nghĩ bàn, số lượng đó cũng là bất khả thuyết.
Nơi mỗi mỗi đầu sợi lông đó
Diễn bất khả thuyết danh chư Phật
Mỗi mỗi danh có các Như Lai
Nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết.
Bồ Tát có thể ở nơi mỗi một đầu sợi lông, diễn nói danh hiệu chư Phật nhiều bất khả thuyết. Ở trong mỗi danh hiệu, đều có các Như Lai, danh hiệu đều nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết, không cách chi nói hết được.
Cổ đức có nói : « Thiện ác hai con đường, tu thì tu, tạo thì tạo », đúng là tình hình như vậy. Tu cái gì ? Tu đường lành. Tạo những gì ? Tạo đường ác. Thiện tri thức đã cảnh cáo chúng ta không ngừng, nhưng chúng ta ngu si, chẳng nghe lời của thiện tri thức, chỉ biết lợi mình, chẳng biết lợi người. Tóm lại, tạo ác chẳng tu thiện, cho nên cuối cùng không thoát được sáu nẻo luân hồi.
Tư tưởng của chúng ta và A tăng kỳ rất nhiều như nhau, vô lượng vô biên vô cùng tận. Một niệm chạy đến thiên đường, một niệm chạy xuống địa ngục. Khởi vọng tưởng thiện thì sinh thiên, khởi vọng tưởng ác thì đoạ vào địa ngục. Cho nên, chúng ta mỗi cử chỉ lời nói hành động, đều phải cẩn thận, từng phút từng giây coi chừng, lúc nào cũng phải chú ý.
Về mặc làm việc, làm rất là tốt, nhưng trong tâm cứ khởi vọng tưởng, như vậy thì không thể thành tựu đạo quả. Phải trong ngoài như một, không khởi vọng tưởng. Có người đang khởi vọng tưởng, cho rằng người khác không biết, hằng ngày cứ khởi vọng tưởng, khởi vọng tưởng đến địa ngục, chính mình còn không biết tại sao lại đến địa ngục, loại người này thật đáng thương xót !
Chúng ta người tu đạo, phải giữ gìn lời nói của mình. Khi mọi người cùng ở với nhau, thì phải phòng ngừa thị phi. Do đó có câu rằng :
« Hoạ tùng khẩu xuất,
Bệnh tùng khẩu nhập ».
Nghĩa là :
Hoạ do miệng mà ra
Bệnh do ăn mà sinh.
Không thể tuỳ tiện nói bừa bãi, đừng để sinh ra phiền não, tốt nhất là cẩn thận lời nói, đừng nói nhiều quá. Do đó có câu:
“Thị phi chỉ vì nói nhiều quá,
Phiền não đều do đó mà ra”.
Phải ngồi một mình phòng ngừa tâm, khi mình ngồi một mình, thì phải cẩn thận phòng tâm, không thể khởi vọng tưởng, nhất là ý niệm về dâm dục, càng không thể dấy khởi. Người xuất gia phải đặc biệt chú ý, phải quản lý tâm của mình, đừng khởi những vọng tưởng vô ích.
Vọng tưởng, ai ai cũng đều hay khởi lên, chưa từng có người nào không khởi vọng tưởng. Nhưng khi khởi vọng tưởng, phải biết vận dụng phương pháp để khống chế nó, đừng để nó nổi sóng làm gió. Dùng phương pháp gì? Niệm Phật, hoặc trì chú, hoặc ngồi thiền, hoặc lễ lạy. Tóm lại, tìm chút việc làm cho tinh thần tập trung, để đừng khởi vọng tưởng.
Người tu đạo, trước hết phải phá cửa ải sắc dục, nếu không phá cửa ải sắc dục, thì tất cả đều không có hy vọng. Suốt ngày hồ đồ điên đảo, không thể thành tựu. Cho nên hôm nay tôi thành thật nói với quý vị, phải hàng phục được tâm của mình. Hàng phục được tâm, thì ý niệm dâm dục sẽ không còn nữa. Nếu không đoạn trừ ý niệm dâm dục, thì khi tu cái gì, cũng đều không thể chứng quả Thánh. Dù tu đến tám vạn đại kiếp, giống như nấu cát muốn thành cơm, không có chuyện đó xảy ra.
Các vị! Muốn đắc được quả Thánh vô lậu, thì nhất định phải đoạn dục khử ái, thanh tâm quả dục, thì mới có một chút hy vọng. Bằng không, một chút hy vọng cũng không có, chi bằng sớm hoàn tục còn tốt hơn, đừng để thời gian trôi qua lãng phí!
Bất cứ là người nam, hoặc người nữ, là Tỳ Kheo, hoặc Tỳ Kheo ni, là cư sĩ nam, hoặc cư sĩ nữ, hoặc là người già, hoặc là người trẻ, ai nói ra đạo lý đúng, thì tin người đó; ai nói ra đạo lý không đúng, thì không tin người đó. Điều quan trọng nhất là phải có con mắt chọn pháp. Phải đạo thì tiến, trái đạo thì lùi; lựa thiện mà theo, không thiện thì đổi. Đó là quan niệm căn bản của người tu đạo.
Có người biết rõ lỗi lầm của mình, mà không biết dừng lại để sửa đổi, loại người này biết rõ mà cố phạm, thật là không kham sự giáo hoá, không kham lãnh thọ Phật pháp, mình không thương yêu mình, mình không thứ lỗi cho mình, thì người khác làm sao làm được, người khác làm sao thương yêu được, cho nên về điểm này, phải đặc biệt chú ý.
Trên mỗi mỗi thân các đức Phật
Hiện bất khả thuyết các lỗ lông
Ở trong mỗi mỗi lỗ lông đó
Hiện các sắc tướng bất khả thuyết.
Có các vị Phật nhiều bất khả thuyết, ở trên báo thân của mỗi vị Phật, hiện ra nhiều lỗ chân lông bất khả thuyết. Ở trong mỗi lỗ chân lông của chư Phật, lại hiện ra vô lượng vô biên các sắc tướng, nói không ra được có bao nhiêu? Cho nên nói bất khả thuyết. Tuy nhiên bất khả thuyết, nhưng vẫn phải nói. Tại sao? Vì dạy bạn đừng chấp trước, chẳng chấp trước thì mới có thể giải thoát.
Không thể nói được các lỗ lông
Đều phóng quang minh bất khả thuyết
Ở trong mỗi mỗi quang minh đó
Đều hiện hoa sen bất khả thuyết.
Trên báo thân của chư Phật, có nhiều lỗ chân lông bất khả thuyết. Ở trong mỗi lỗ chân lông phóng ra đại quang minh, cũng bất khả thuyết. Ở trong mỗi quang minh, đều hiện ra các hoa sen đủ thứ màu sắc: Có hoa sen xanh, hoa sen đỏ, hoa sen vàng, hoa sen trắng, lớn như bánh xe, những hoa sen đó, cũng nhiều bất khả thuyết.
Ở trong mỗi mỗi hoa sen đó
Đều có nhiều cánh bất khả thuyết
Trong những cánh hoa bất khả thuyết
Đều hiện sắc tướng bất khả thuyết.
Ở trong mỗi đoá hoa sen, lại có vô lượng cánh hoa sen, cũng là bất khả thuyết. Ơ trong bất khả thuyết cánh hoa sen, mỗi cánh hoa sen, đều hiện ra đủ thứ sắc tướng, cũng là bất khả thuyết.
Trong các sắc bất khả thuyết đó
Lại hiện những cánh bất khả thuyết
Quang minh trong cánh bất khả thuyết
Sắc tướng trong quang bất khả thuyết.
Trong đủ thứ sắc bất khả thuyết của hoa sen, lại hiện ra đủ thứ cánh hoa sen, cũng có nhiều bất khả thuyết. Ở trong cánh hiện ra quang minh, cũng nhiều bất khả thuyết. Sắc tướng hiện ra ở trong quang minh, cũng nhiều bất khả thuyết.
Trong sắc tướng bất khả thuyết đó
Mỗi mỗi hiện quang bất khả thuyết
Trong quang hiện trăng bất khả thuyết
Trăng lại hiện trăng bất khả thuyết.
Ở trong đủ thứ sắc tướng bất khả thuyết đó, mỗi mỗi sắc tướng lại hiện ra đủ thứ quang minh, cũng nhiều bất khả thuyết. Ở trong mỗi quang minh, lại hiện ra mặt trăng, cũng nhiều bất khả thuyết. Ở trong mặt trăng lại hiện ra mặt trăng, mặt trăng trùng trùng vô tận, cũng nhiều bất khả thuyết.
Trên báo thân chư Phật bất khả thuyết, mỗi mỗi hiện ra các lỗ chân lông nhiều bất khả thuyết. Trong mỗi lỗ chân lông, lại hiện ra cõi nước chư Phật, lại hiện ra hoa sen báu lớn, lại hiện ra bất khả thuyết cánh hoa sen. Ở trong mỗi cánh hoa, đều phóng quang minh. Ở trong quang minh, lại phóng quang minh, hiện ra đủ thứ sắc tướng, vô cùng vô tận. Trong quang minh hiện ra mặt trăng, trong mặt trăng lại hiện mặt trăng, cảnh giới đó, đều do chư Phật hiện ra.
Trên thân của chúng ta chúng sinh, cũng có sở hiện. Hiện cái gì? Hiện ra vi trùng. Trên thân của chúng ta có vô lượng vi trùng, vi trùng này còn hôi thúi hơn vi trung trong nhà cầu. Trên thân của mỗi vi trùng, lại hiện ra bất khả thuyết tế khuẩn (vi khuẩn cực nhỏ). Những tế khuẩn này, con mắt của phàm phu nhìn chẳng thấy được, người chứng được thiên nhãn thông mới nhìn thấy được (kính hiển vi đặc biệt hiện tại cũng nhìn không thấy được). Tế khuẩn này rất là bố láo. Bất quá, chính chúng ta chẳng biết mà thôi. Vi trùng lớn (thân thể) xem giống như là bảo bối, quan trọng, lại sợ đói, lại sợ khát, lại sợ lạnh, lại sợ nóng, nghĩ hết biện pháp để bảo hộ vi trùng lớn này. Tại sao phải thương mến nó? Vì có tâm ba độc. Có tâm tham bèn sinh ra vi trùng tham dục. Có tâm sân, thì sinh ra vi trùng sân hận. Có tâm si thì sinh ra vi trùng ngu si. Tóm lại, có tư tưởng gì rồi, thì sinh ra vi trùng đó.
Tư tưởng của chúng ta so với dòi trong nhà cầu còn bố láo hơn gấp mười lần, cứ nghĩ tà tri tà kiến, chẳng có một chút chánh tri chánh kiến. Càng bố láo thì càng bố láo nghĩ đông tây, cho đến tạo thành thế giới bố láo, thế giới ô nhiễm, cho nên biến thành đời ác năm trước.
Đời ác năm trược là do tâm vọng tưởng chẳng thanh tịnh của chúng ta tạo thành. Năm trược là: Kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược. Năm trược này thật là đáng sợ.
Trong tâm của chúng ta có ý niệm bất chánh đáng, như ý niệm đố kỵ và ý niệm chướng ngại, lúc nào cũng đang tác quái, nhưng chính mình không thừa nhận có tà tri tà kiến, tìm cách che đậy nó lại, để người khác không biết. Kỳ thật, hành vi xấu xí này, so với yêu ma quỷ quái còn xấu xí gấp mười lần. Sự xấu xí, nói đơn giản là giống như toả ra mùi hôi thối, xông đến cõi trời Ba Mươi Ba, khiến cho trời Đế Thích phải bịt mũi bỏ chạy. Các vị xem! Mùi hôi thối này có lợi hại chăng? Có thể biết mùi hôi đó không thể ngửi được vậy.
Tư tưởng và hành vi của mình, dù có hôi thối như vậy, mình cũng không biết, cho rằng mình là người thanh cao, hoá ra làm cho thế giới ô nhiễm, do đó mà biến thành đời ác năm trược.
Các vị phải biết, một niệm của chúng ta chánh, thì hỗ trợ trời đất thêm chánh khí; một niệm của chúng ta là tà, thì hơi thối xung thiên, khiến cho trời đất dung nạp không hết. Đây chẳng phải là nói chơi, càng chẳng phải là hí luận, mà đúng sự thật là như vậy.
Trong các mặt trăng bất khả thuyết
Mỗi mỗi hiện quang bất khả thuyết
Ở trong mỗi mỗi quang minh đó
Lại hiện mặt trời bất khả thuyết.
Ở trong các mặt trăng nhiều bất khả thuyết, mỗi mặt trăng lại hiện ra ánh sáng mặt trăng, cũng nhiều bất khả thuyết. Ở trong mỗi ánh sáng mặt trăng, lại hiện ra các mặt trời, cũng nhiều bất khả thuyết.
Trong các mặt trời bất khả thuyết
Mỗi mỗi hiện sắc bất khả thuyết
Ở trong mỗi mỗi các sắc đó
Lại hiện quang minh bất khả thuyết.
Ở trong các mặt trời nhiều bất khả thuyết, mỗi mặt trời lại hiện ra đủ thứ màu sắc, cũng nhiều bất khả thuyết. Ở trong mỗi một thứ màu sắc, lại hiện ra đủ thứ quang minh, cũng bất khả thuyết.
Ở trong mỗi mỗi quang minh đó
Hiện bất khả thuyết toà sư tử
Mỗi đồ trang nghiêm bất khả thuyết
Mỗi mỗi quang minh bất khả thuyết.
Ở trong mỗi luồng quang minh, lại hiện ra bất khả thuyết toà sư tử. Lại hiện ra đồ trang nghiêm, mỗi thứ đồ trang nghiêm, đều nhiều bất khả thuyết. Lại hiện ra quang minh, mỗi luồng quang minh, đều có diệu sắc nhiều bất khả thuyết.
Sắc đẹp trong quang bất khả thuyết
Tịnh quang trong sắc bất khả thuyết
Ở trong mỗi mỗi tịnh quang đó
Lại hiện đủ thứ diệu quang minh.
Diệu sắc hiện ra ở trong quang minh, cũng bất khả thuyết. Quang minh thanh tịnh hiện ra ở trong diệu sắc, cũng nhiều bất khả thuyết. Ở trong mỗi thứ quang minh thanh tịnh, lại hiện ra đủ thứ diệu quang minh. Cảnh giới đó, đều là không thể nghĩ bàn.
Quang đó lại hiện đủ thứ quang
Không thể nói ra bất khả thuyết
Ở trong đủ thứ quang minh đó
Đều hiện báu đẹp như Tu Di.
Ở trong quang minh đó, lại hiện ra đủ thứ quang minh, nhiều bất khả thuyết không thể nói ra được. Ở trong đủ thứ quang minh đó, trong mỗi mỗi quang minh, lại hiện ra báu đẹp bất khả thuyết, cao lớn như núi Tu Di.
Chúng ta và hư không hợp mà làm một, chúng ta có vọng tưởng gì, thì sẽ toả ra mùi vị đó. Mùi vị này, đầy dẫy hư không. Hư không đã bị nhiễm ô, chúng ta hít vào trong cơ thể, bèn sinh ra đau bệnh. Nhẹ thì toàn thân khó chịu, nặng thì ảnh hưởng đến sự hô hấp!
Chúng ta khởi vọng tưởng tà tri tà kiến, như: Tâm sát sinh, tâm trộm cắp, tâm tà dâm, tâm nói dối, tâm sân hận, tâm đố kị, tâm chướng ngại v.v…có những thứ độc tố này trong tâm, khi phun ra ngoài thì làm nhiễm ô không khí. Cho nên ở trong không khí, tồn tại rất nhiều độc khí, nếu hít vào trong cơ thể, thì sẽ bị trúng độc. Tế bào trong cơ thể sẽ sinh ra sự biến hoá, chẳng phải ung thư thì bệnh nặng, khiến cho con người chịu không thấu. Cho nên, tư tưởng và hành vi của chúng ta, nhất định phải chân chánh quang minh, bằng không, chỉ làm tăng thêm độc khí cho trời đất. Vũ trụ đầy dẫy khí độc, thì chúng sinh toàn thế giới sẽ bị trúng độc mà chết.
Vọng tưởng của chúng ta là ác, thì độc khí ở trong hư không nhiều một chút, vọng tưởng của chúng ta là thiện, thì tường khí ở trong hư không nhiều một chút. Độc khí đầy dẫy trong hư không, còn lợi hại hơn đạn nguyên tử gấp ngàn vạn lần.
Trong thân thể của chúng ta, cũng có đạn nguyên tử, đạn laser, đạn hạt nhân v.v…Nếu trong tâm của chúng ta chẳng có những thứ này, thì thế giới vốn chẳng hiện ra những thứ này. Ở bên trong chúng ta có những gì, thì sẽ hiện ra bên ngoài cái ấy. Nếu bên trong chẳng có, thì bên ngoài cũng chẳng có, do đó:
“Vạn pháp do tâm tạo”.
Cổ nhân có nói:
“Trời đất vốn vô sự,
Con người tự làm ra”.
Đây là nói người ngu si, cảm thấy cái này cũng là thật, cái kia cũng là thật, thật lại thật đi, thì chết thật, chính mình còn không biết vì sao mà chết, thật là đáng thương!
Người ngu si ở trên thế giới này, điên điên đảo đảo, phiền phiền não não, tranh tranh náo náo, chẳng có khi nào ngừng được. Bên ngoài chẳng có, thì bên trong có, bên trong chẳng có, thì trong lúc ngủ lại có. Có cái gì? Có vọng tưởng, vọng tưởng lăn xăn, tâm chẳng thanh tịnh, phải biết vọng tưởng là hòn đá cột chân người tu đạo, chướng ngại thành tựu đạo nghiệp.
Các vị xem! Con người thật là quái vật, mình còn không thừa nhận mình là quái vật. Còn thương tiếc cho rằng thân thể của mình là đồ quý giá, lúc nào cũng nghĩ đến nó, cho nó ăn uống đồ bổ! Khiến cho nó sống thêm mấy năm. Bất cứ là thần phụ, mục sư, hoà thượng, rất nhiều người ăn uống thuốc bổ mỗi ngày, cho rằng đó là sự kéo dài mạng sống, để được mạnh khoẻ, có thể duy trì mạng sống, trường sinh bất tử.
Hôm nay tôi nói với mọi người! Bớt khởi vọng tưởng, thì rất có lợi ích hơn với bất cứ thuốc bổ nào. Nếu không tin đạo lý này, thì đó là ngu si đến cực điểm. Đạo lý chân chánh này, không thể không tin, không tin tức là chẳng có trí huệ. Người chẳng có trí huệ, thì không tin chân lý.
Chân lý là gì? Tức là đạo lý chân chánh, ví như người có dục niệm nặng, uống thuốc bổ gì cũng vô dụng. Tại sao? Vì lậu đi hết. Họ chẳng hiểu đạo dưỡng sanh chân chánh – thanh tâm quả dục. Chúng ta người tu đạo, trước hết phải đoạn dục khứ ái, đó là pháp tắc cơ bản. Bằng không, tu đến tám vạn đại kiếp, cũng không thể nào thành tựu được.
Hôm nay tôi nói lời thật, hy vọng các vị nghe rồi, hãy thu hồi tham sân si ba độc của mình lại, đừng để toả độc ra ngoài hư không, để cho tất cả chúng sinh hít thở không trí tươi mát trong lành, công đức của các vị thật vô lượng, đó là gián tiếp phóng sinh. Và tôi hy vọng các vị mọi người tiêu diệt hết mọi vọng tưởng, chẳng còn vọng tưởng nữa, thì tất cả đều tự tại, đắc được lợi ích.
Mùa đông tại Vạn Phật Thành là khảo nghiệm định lực của người tu đạo, là rèn luyện thân tâm của người tu đạo. Mùa hè tại Vạn Phật Thành cũng là khảo nghiệm. Do đó:
“Tất cả là khảo nghiệm
Xem bạn làm thế nào?
Trước mắt không nhận thức
Hãy luyện lại từ đầu”.
Mọi người phải nhớ câu này. Cách đây mấy ngày, chúng ta đả Phật thất và thiền thất (một Phật thất và ba thiền thất, tổng cộng bốn tuần lễ). Do đó có câu: “Đông thiền hạ học”, vào mùa đông, vì thời tiết lạnh, cho nên phải tham thiền đả toạ. Vào mùa hè, vì thời tiết nóng nực, cho nên phải giảng kinh thuyết pháp. Tại sao? Vì mùa hè nóng nực, nếu tham thiền đả toạ, ngồi thiền mồ hôi chảy ra, trong tâm bực bội, ngồi không yên. Mùa đông trời lạnh, mặc áo lạnh vào ngồi thiền tĩnh toạ, tâm an dễ nhập định.
Bây giờ tôi kể một câu chuyển để tham khảo: Trước kia có một vị thiện tri thức, dẫn một số đồ đệ đi ra ngoài tham phương. Vì đều là người phương nam đi đến phương bắc, lúc đó đúng vào thời tiết lạnh lẽo băng giá, làm lạnh chết một số côn trùng nhỏ, côn trùng lớn chịu cũng không thấu, bèn ở chỗ đất trống nhóm lửa lên để sưởi ấm. Vị thiện tri thức nhìn thấy, bèn la lớn nói:
– “Người tu đạo, nếu không thể chịu đói chịu lạnh, còn tu đạo gì nữa”?
Do đó bèn dùng nước dập tắt lửa, còn dạy rằng:
– “Các vị không tự làm sinh ra lửa trong người của mình, mà đi tìm lửa bên ngoài hơ cho ấm, thật là không có chí khí”!
Đám đồ đệ thấy sư phụ nổi nóng, đều nhìn nhau không nói, dập tắt hết lửa bên ngoài, sinh khởi lửa trong nội tâm, ngồi xuống bắt đầu ngồi thiền, và không cảm thấy lạnh nữa. Do đó, có thể thấy chúng ta không thể mượn duyên bên ngoài, mà phải tự cường bất tức, dùng nghị lực của mình, để khắc phục hoàn cảnh bất như ý.
Trong mỗi quang minh hiện báu đẹp
Không thể nói ra bất khả thuyết
Mỗi báu đẹp như Tu Di đó
Hiện các cõi nước bất khả thuyết.
Ở trong mỗi luồng quang minh, hiện ra các báu đẹp như núi Tu Di, nhiều không thể nào nói ra được rốt ráo có bao nhiêu, cho nên mới nói bất khả thuyết. Trong mỗi mỗi báu đẹp nhiều như núi Tu Di đó, lại hiện ra tất cả cõi nước chư Phật, số lượng đó cũng nhiều không thể nói ra bất khả thuyết.
Hết Tu Di báu không thừa sót
Thị hiện cõi nước đều như vậy
Dùng một cõi nước nghiền làm bụi
Một bụi sắc tướng bất khả thuyết.
Hết các núi Tu Di báu, không biết số là bao nhiêu, thị hiện ra cõi nước chư Phật, nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết như vậy. Dùng một cõi nước nghiền nát ra làm bụi, ở trong mỗi hạt bụi, lại phóng ra vô lượng quang minh sắc tướng, cũng là bất khả thuyết.
Các cõi làm bụi bụi có tướng
Không thể nói được bất khả thuyết
Như vậy đủ thứ các bụi tướng
Đều phóng quang minh bất khả thuyết.
Đem hết thảy cõi nước thảy đều nghiền nát thành bụi. Ở trong mỗi mỗi hạt bụi, lại có vô lượng quang minh sắc tướng, cũng nhiều không thể nào dùng lời nói để nói ra, cho nên nói bất khả thuyết. Đủ thứ các sắc tướng như vậy, đều phóng ra quang minh, cũng bất khả thuyết.
Trong quang hiện Phật bất khả thuyết
Pháp Phật nói ra bất khả thuyết
Trong pháp diệu kệ bất khả thuyết
Nghe kệ hiểu được bất khả thuyết.
Ở trong quang minh hiện ra vô lượng vô số chư Phật, cũng bất khả thuyết. Diệu pháp của mỗi vị Phật nói ra, vô lượng vô biên, cũng là bất khả thuyết. Ở trong diệu pháp, có rất nhiều diệu kệ, cũng là bất khả thuyết. Nghe những bài kệ rồi, bèn hiểu rõ, cũng là bất khả thuyết.
Trong niệm niệm hiểu bất khả thuyết
Hiển rõ chân đế bất khả thuyết
Thị hiện vị lai tất cả Phật
Thường diễn nói pháp vô cùng tận.
Sư hiểu rõ các pháp bất khả thuyết đó, ở trong niệm niệm, hiển rõ đế chân thật, cũng là bất khả thuyết. Lại thị hiện tất cả chư Phật vị lai, thường diễn nói tất cả diệu pháp, cũng là vô cùng vô tận.
Mỗi mỗi Phật pháp bất khả thuyết
Đủ thứ thanh tịnh bất khả thuyết
Vang diệu âm thanh bất khả thuyết
Chuyển bánh xe pháp bất khả thuyết.
Pháp của mỗi vị Phật nói ra, là diệu pháp thâm sâu vô thượng, không thể dùng lời nói để nói ra được. Đủ thứ thanh tịnh diệu pháp, “Thanh tịnh bổn nguyên, diệu chân như tính”, đạo lý này, rộng lớn vô biên, cũng là bất khả thuyết. Diệu âm thanh của Phật nói ra, cũng là bất khả thuyết. Phật thường chuyển bánh xe pháp, nói tất cả chánh pháp, cũng là bất khả thuyết.
Ở trong mỗi mỗi pháp luân đó
Diễn Tu đa la bất khả thuyết
Trong mỗi mỗi Tu đa la đó
Pháp môn khác nhau bất khả thuyết.
Ở trong mỗi một pháp luân, diễn nói Tu đa la (kinh điển), cũng là nhiều bất khả thuyết. Ở trong mỗi bộ Tu đa la, lại có tất cả pháp môn khác nhau, cũng nhiều bất khả thuyết.
Ở trong mỗi mỗi pháp môn đó
Lại nói các pháp bất khả thuyết
Ở trong mỗi mỗi các pháp đó
Điều phục chúng sinh bất khả thuyết.
Ở trong mỗi một pháp môn, lại diễn nói tất cả các pháp, cũng là bất khả thuyết. Ở trong mỗi các pháp, điều phục tất cả chúng sinh, cũng là bất khả thuyết.
Hoặc lại nơi đầu một sợi lông
Thường an trụ bất khả thuyết kiếp
Như các đầu lông khác cũng thế
An trụ kiếp số đều như vậy.
Hoặc lại ở nơi đầu một sợi lông, không biết Phật trụ bao nhiêu đại kiếp, số kiếp đó cũng là bất khả thuyết. Tại một đầu sợi lông như vậy, ở những đầu sợi lông khác cũng như thế. Kiếp số an trụ đều là bất khả thuyết.
Tâm Ngài vô ngại bất khả thuyết
Biến hoá chư Phật bất khả thuyết
Mỗi mỗi biến hoá các Như Lai
Lại hiện biến hoá bất khả thuyết.
Tâm của Phật là viên dung vô ngại, cũng là bất khả thuyết. Lại ở đầu sợi lông, biến hoá ra tất cả chư Phật, cũng là bất khả thuyết. Tất cả chư Phật biến hoá ra, đều là tướng tốt trang nghiêm. Ở trong sự biến hoá, lại hiện sự biến hoá, biến hoá trùng trùng, trùng trùng biến hoá, cũng là bất khả thuyết.
Pháp thân Phật đó bất khả thuyết
Phật đó phân thân bất khả thuyết
Trang nghiêm vô lượng bất khả thuyết
Đi đến mười phương bất khả thuyết.
Pháp thân của Phật là khắp cùng tất cả mọi nơi. Vô tại vô bất tại, chẳng có số mục có thể hình dùng được, cho nên nói là bất khả thuyết. Phân thân của Phật, là tận hư không, khắp pháp giới. Ở trong mỗi hạt bụi, đều có phân thân của Phật, cũng là bất khả thuyết. Cõi nước của Phật là trang nghiêm vô lượng, cũng là bất khả thuyết. Phật thường thường đi đến cõi nước chư Phật trong mười phương, để giáo hoá chúng sinh, cũng là bất khả thuyết.
Đi khắp cõi nước bất khả thuyết
Quán sát chúng sinh bất khả thuyết
Thanh tịnh chúng sinh bất khả thuyết
Điều phục chúng sinh bất khả thuyết.
Phật vì giáo hoá chúng sinh, mà đi khắp các cõi nước, cũng là bất khả thuyết. Phật vì quán sát nhân duyên của tất cả chúng sinh, chúng sinh nào đáng độ được, liền đi độ thoát, cũng là bất khả thuyết. Thanh tịnh chúng sinh, nhiều bất khả thuyết, khiến cho họ phát bồ đề tâm, tu bồ đề đạo. Phật dùng đủ thứ pháp môn, để điều phục chúng sinh cang cường, khiến cho họ nhu thuận, nhiều bất khả thuyết.
Các trang nghiêm đó bất khả thuyết
Các thần lực đó bất khả thuyết
Các thần biến đó bất khả thuyết.
Đạo tràng của mỗi vị Phật, đều thanh tịnh trang nghiêm, cũng là bất khả thuyết. Hết thảy thần lực của chư Phật, rộng lớn vô biên, cũng là bất khả thuyết. Tất cả tự tại của chư Phật, nhậm vận tự như, cũng là bất khả thuyết. Thần thông của chư Phật, thiên biến vạn hoá, cũng là bất khả thuyết.
Hết thảy thần thông bất khả thuyết
Hết thảy cảnh giới bất khả thuyết
Hết thảy gia trì bất khả thuyết
Trụ tại thế gian bất khả thuyết.
Hết thảy thần thông diệu dụng của chư Phật, cũng là bất khả thuyết. Hết thảy tất cả cảnh giới của chư Phật, cũng là bất khả thuyết. Sự gia trì của chư Phật, cũng là bất khả thuyết. Tướng của chư Phật trụ thế gian, cũng là bất khả thuyết.
Thanh tịnh thật tướng bất khả thuyết
Nói Tu đa la bất khả thuyết
Nơi mỗi mỗi Tu đa la đó
Diễn nói pháp môn bất khả thuyết.
Lý thể thật tướng thanh tịnh, cũng là bất khả thuyết. Nói tất cả nghĩa lý kinh điển, cũng là bất khả thuyết. Trong bất khả thuyết kinh điển, mỗi một bộ kinh điển, diễn nói pháp môn vô cùng vô tận, cũng là bất khả thuyết.
Học Phật pháp, càng học phải càng thông minh, mới có cơ hội khai ngộ. Chẳng phải càng học càng ngu si, học nhiều năm mà chẳng tăng trưởng trí huệ, vẫn hồ đồ chẳng biết gì là chánh pháp, gì là tà pháp. Tại sao ? Vì chẳng nghiên cứu triệt để. Nghe Phật pháp, là giáo hoá chúng ta cung hành thực tiễn, y giáo phụng hành, y pháp tu hành. Chẳng phải nghe kinh rồi, thì đem kinh điển để vào trong tủ, không còn dùng nữa. Đạo lý nghe được, phải tự hỏi mình có thể làm được như vậy chăng ? Học Phật pháp như vậy, mới không lãng phí công phu, mới không lãng phí thời gian.
Cổ nhân có nói :
« Nói là pháp, hành là đạo ».
Lại nói :
« Nói rất hay, nói rất giỏi,
Chẳng thực hành, chẳng phải đạo ».
Lại nói :
« Đạo là hành, chẳng hành đâu có dùng đạo;
Đức là làm, chẳng làm sao có đức ».
Trời mùa đông lạnh như thế này, mà đến giảng Phật pháp, đến nghe Phật pháp, phải thân thể lực hành, cung hành thực tiễn, mới là hành vi nghe pháp. Bằng không, bất cứ nghe bao nhiêu kinh, nghe bao nhiêu pháp, cũng chẳng ích gì. Điểm này, hy vọng các vị hiểu rõ thâm sâu.
Tu đạo ! Tu đạo! Tu đạo ! Phải tu đạo! Thế nào là tu đạo? Ăn cơm là tu đạo, mặc áo là tu đạo, ngủ là tu đạo. Khi ăn cơm, phải ăn cho hết sạch, không thể chừa nửa bát, đổ vào thùng rát, làm tiêu hao phước báo. Khi mặc áo, phải mặc áo sạch sẽ, không thể mặc áo dơ bẩn, bằng không mất đi oai nghi. Khi ngủ thì, cũng phải mặc đồ ngủ sạch sẽ đàng hoàng, không thể cẩu thả, nếu người khác nhìn thấy, thật là khó coi. Nhất là người xuất gia, đi đứng nằm ngồi bốn oai nghi lớn, càng phải chú ý.
Vạn Phật Thánh Thành mới bắt đầu, nơi nơi phải có quy cụ, tất cả phải làm cho tốt. Trước hết phải từ chỗ nhỏ, mỗi người phải dọn dẹp phòng ngủ của mình cho sạch sẽ, dù một tờ giấy, một cây bút, đều phải để chỗ nên để; một cây kim, một sợi chỉ, cũng không thể để bậy bạ. Phải dưỡng thành tập quán tốt, thì tương lai đi ra ngoài tham phương, cũng phải tề chỉnh, sai một chút cũng không được, điểm này phải đặc biệt chú ý.
Ở trong mỗi mỗi pháp môn đó
Lại nói các pháp bất khả thuyết
Ở trong mỗi mỗi các pháp đó
Hết thảy quyết định bất khả thuyết.
Trong bất khả thuyết pháp môn, mỗi thứ pháp môn, lại nói tất cả các pháp, cũng là bất khả thuyết. Trong các pháp bất khả thuyết, mỗi một thứ pháp, hết thảy quyết định, cũng là bất khả thuyết.
Ở trong mỗi mỗi quyết định đó
Điều phục chúng sinh bất khả thuyết
Không thể nói ra pháp đồng loại
Không thể nói ra tâm đồng loại.
Trong bất khả thuyết quyết định, mỗi thứ quyết định, đều có thể điều phục tất cả chúng sinh cang cường, cũng là bất khả thuyết. Có pháp đồng loại không thể nói ra và tâm đồng loại không thể nói ra.
Không thể nói ra pháp khác loại
Không thể nói ra tâm khác loại
Không thể nói ra căn khác loại
Không thể nói ra lời khác loại.
Có pháp khác loại nhiều không thể nói ra được, có tâm khác loại nhiều không thể nói ra được, có căn khác loại không thể nói ra được, có lời lẽ khác loại không thể nói ra được.
Niệm niệm ở chỗ các sở hành
Điều phục chúng sinh bất khả thuyết
Hết thảy thần thông bất khả thuyết
Hết thảy thị hiện bất khả thuyết.
Trong niệm niệm của Bồ Tát, tất cả chỗ sở hành, điều phục chúng sinh cang cường, đều thành chúng sinh nhu thuận, số lượng đó nhiều không thể nói ra được. Hết thảy thần thông biến hoá, cũng bất khả thuyết. Hết thảy tự tại thị hiện, cũng bất khả thuyết.
Ở trong thời kiếp bất khả thuyết
Ở trong sai biệt bất khả thuyết
Bồ Tát đều phân biệt nói được
Những người tính toán không làm được.
Trải qua trong các thời kiếp, cũng là bất khả thuyết. Ở trong hết thảy sự khác biệt, cũng là bất khả thuyết. Nhưng sự bất khả thuyết này, Bồ Tát đều phân biệt nói ra được. Tất cả những người tính toán giỏi, chẳng có cách chi làm được.
Nơi một đầu lông cõi lớn nhỏ
Cõi tạp nhiễm thanh tịnh thô tế
Tất cả bất khả thuyết như vậy
Mỗi mỗi thấu rõ phân biệt được.
Nơi đầu một sợi lông, có vô lượng cõi nước lớn và cõi nước nhỏ, có cõi nước tạp nhiễm và cõi nước thanh tịnh, có cõi nước thô và cõi nước tế. Những cõi nước như vậy, nhiều bất khả thuyết, nhưng Bồ Tát thấu rõ từng cõi từng cõi, và phân biệt được rất rõ ràng.
Dùng một cõi nước nghiền làm bụi
Bụi đó vô lượng bất khả thuyết
Số bụi như vậy vô biên cõi
Đều tụ tập lại đầu sợi lông.
Dùng một cõi nước, nghiền nát thành hạt bụi, số lượng những hạt bụi đó, nhiều bất khả thuyết. Vô lượng vô biên số hạt bụi cõi nước đó, thảy đều tụ tập tại một đầu sợi lông. Đó là cảnh giới trong nhỏ dung lớn.
Các cõi nước đó bất khả thuyết
Cùng tụ đầu lông không chật hẹp
Không khiến đầu lông có lớn thêm
Mà cõi nước đó đều tụ lại.
Các cõi nước đó, nhiều bất khả thuyết, đều cùng tụ tập ở nơi đầu một sợi lông, nhưng không chật hẹp, cũng chẳng khiến cho đầu sợi lông lớn thêm, mà tất cả cõi nước đều tụ tập trên đầu sợi lông.
Ở trong hết thảy các cõi nước
Hình tướng như xưa không tạp loạn
Như một cõi nước không tạp loạn
Tất cả cõi nước đều như thế.
Hết thảy các cõi nước trên đầu sợi lông, chẳng những không chật hẹp, mà hình tướng vẫn như cũ, chẳng có sự tạp loạn, đều có thứ tự. Một cõi nước tình hình như vậy, hết thảy cõi nước cũng đều như thế.
Cảnh giới hư không chẳng bờ mé
Đều để đầu lông khiến đầy dẫy
Đầu lông các cõi nước như vậy
Bồ Tát một niệm đều nói được.
Cảnh giới hư không chẳng có bờ mé, đều để đầy dẫy nơi đầu sợi lông, khiến cho hư không đầy ắp không có không gian. Nhiều đầu sợi lông như vậy, trên mỗi đầu sợi lông, có bất khả thuyết cõi nước, nhưng Bồ Tát ở trong một niệm, đều nói ra được.
Ở trong một lỗ lông rất nhỏ
Bất khả thuyết cõi lần lượt vào
Lỗ lông dung được các cõi đó
Các cõi không thể đầy lỗ lông.
Trong một lỗ chân lông rất nhỏ, có bất khả thuyết bụi cõi, lần lượt tiến vào trong lỗ chân lông, mà trong lỗ chân lông dung nạp được các cõi nhiều như hạt bụi ấy, nhưng cõi nước nhiều như hạt bụi đó, không thể nào chiếm đầy lỗ chân lông.
Lúc vào kiếp số bất khả thuyết
Lúc thọ kiếp số bất khả thuyết
Tại lúc hàng liệt an trụ nầy
Tất cả các kiếp không thể nói.
Khi vào số lượng kiếp, cũng là bất khả thuyết. Khi thọ số lượng kiếp cũng bất khả thuyết. Khi hàng liệt an trụ, hết thảy tất cả kiếp, chẳng có cách chi có thể nói được rõ ràng, rốt ráo có bao nhiêu tiểu kiếp.
Nhiếp thọ an trụ như vậy rồi
Hết thảy cảnh giới bất khả thuyết
Lúc vào phương tiện bất khả thuyết
Vào rồi sở tác bất khả thuyết.
Sau khi nhiếp nhiếp thọ an trụ rồi, hết thảy cảnh giới bất khả thuyết bất khả thuyết. Khi vào phương tiện là bất khả thuyết, vào rồi, sở tác cũng bất khả thuyết.
Ý căn tỏ rõ bất khả thuyết
Du lịch các phương bất khả thuyết
Dũng mãnh tinh tấn bất khả thuyết
Tự tại thần biến bất khả thuyết
Ý căn của Bồ Tát minh bạch thấu rõ, là bất khả thuyết. Bồ Tát du lịch mười phương thế giới, giáo hoá chúng sinh, là bất khả thuyết. Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn hành Bồ Tát đạo, là bất khả thuyết. Bồ Tát có thần thông tự tại biến hoá, là bất khả thuyết.
Hết thảy tư duy bất khả thuyết
Hết thảy đại nguyện bất khả thuyết
Hết thảy cảnh giới bất khả thuyết
Tất cả thông đạt bất khả thuyết.
Sự tư duy của Bồ Tát, cũng là bất khả thuyết. Những đại nguyện của Bồ Tát, cũng là bất khả thuyết. Những cảnh giới của Bồ Tát, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát đối với hết thảy tất cả đều thông đạt vô ngại, cũng là bất khả thuyết.
Thân nghiệp thanh tịnh bất khả thuyết
Lời nghiệp thanh tịnh bất khả thuyết
Ý nghiệp thanh tịnh bất khả thuyết
Tin hiểu thanh tịnh bất khả thuyết.
Thân nghiệp của Bồ Tát thanh tịnh không nhiễm, cũng là bất khả thuyết. Lời nghiệp của Bồ Tát thanh tịnh không nhiễm, cũng là bất khả thuyết. Ý nghiệp của Bồ Tát thanh tịnh không nhiễm, cũng là bất khả thuyết. Ba nghiệp của Bồ Tát thanh tịnh đến cực điểm, chẳng có chút tư tưởng nhiễm ô nào. Bồ Tát đối với tin hiểu hành chứng rất thanh tịnh, cũng là bất khả thuyết.
Chúng ta học Phật pháp, phải y chiếu “Tin, hiểu, hành, chứng” bốn giai đoạn này tu hành, mới có thể được giải thoát.
1. Tin: Nghĩa là không hoài nghi. Phải tin hiểu tam tạng mười hai bộ kinh của Phật nói. Đức Phật là bậc Thánh nhân không nói dối, lời lẽ nói ra đều chân thật. Phải tin nhân quả, do đó:
“Trồng dưa được dưa,
Trồng đậu được đậu”.
Phải tin luân hồi, do đó:
“Tu thập thiện sinh về trời,
Giữ năm giới sinh làm người”.
Phải tin tất cả chúng sinh, đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật. Nếu giết hại một chúng sinh, tức là gián tiếp giết hại một vị Phật, do đó:
“Tin là nguồn gốc mẹ công đức,
Nuôi lớn tất cả các pháp lành”.
2. Hiểu: Nghĩa là hiểu biết. Bất cứ chủ nghĩa và tư tưởng nào, nếu không hiểu biết triệt để, mà tin mù quáng, đó là mê tín. Cho nên phải có con mắt chọn pháp, biết lựa chọn thế nào là chánh pháp, thế nào là tà pháp. Tóm lại, nếu không trái ngược với truyền thống tư tưởng, thì có thể tin, nhưng phải được vị thiện tri thức chỉ dẫn, bằng không, tu mù luyện đui, lãng phí công phu, chẳng những không được lợi ích, thậm chí còn bị hại.
3. Hành: Nghĩa là đem công sức ra thực hành. Tin kinh điển của Phật nói rồi, tinh tấn nghiên cứu, hiễu rõ rồi, nếu không áp dụng tu hành, thì không lợi ích gì cả. Do đó: “Ngồi mà nói, không bằng đứng dậy đi”, bằng không, trở thành thiền nơi miệng lưỡi. Nói một trượng, không bằng làm một thước.
4. Chứng: Nghĩa là chứng được, cũng là điểm cuối của hành, đắc được sự thu hoạch rốt ráo. Do đó:
“Trồng trọt một phần,
Thu hoặch một phần”.
Nếu không nỗ lực trồng trọt, thì tuyệt đối không có gì để thu hoạch. Thu hoạch học Phật pháp là gì? Tức là chấm dứt sinh tử, đắc được cứu kính Niết Bàn. Cho nên phải siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si, mới chứng được “Thường, lạc, ngã, tịnh”, bốn đức Niết Bàn, đó mới là khoái lạc thật sự, đó mới là mục đích tu học Phật pháp.
Diệu trí thanh tịnh bất khả thuyết
Diệu huệ thanh tịnh bất khả thuyết
Rõ các thật tướng bất khả thuyết
Đoạn các nghi hoặc bất khả thuyết
Bồ Tát vì tu lục độ vạn hạnh, cho nên chứng được diệu quán sát trí, không những thanh tịnh, mà còn bất khả thuyết. Trí huệ vi diệu của Bồ Tát rất thanh tịnh, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát thấu rõ lý thể thật tướng của các pháp, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát đã đoạn đoạn tuyệt kiến tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc, cũng là bất khả thuyết.
Thoát khỏi sinh tử bất khả thuyết
Thăng lên chánh vị bất khả thuyết
Tam muội thâm sâu bất khả thuyết
Thấu đạt tất cả bất khả thuyết.
Bồ Tát đã thoát khỏi sinh tử của ba cõi, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát đã thăng lên chánh vị (Đẳng giác Bồ Tát), cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát hay nhập vào tam muội thâm sâu, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát đã đạt được đạo lý tất cả pháp đều không, đều do duyên khởi, mà không thực thể, cũng là bất khả thuyết.
Tất cả chúng sinh bất khả thuyết
Tất cả cõi Phật bất khả thuyết
Biết thân chúng sinh bất khả thuyết
Biết tâm họ thích bất khả thuyết.
Tất cả chúng sinh nhiều bất khả thuyết. Tất cả cõi Phật nhiều bất khả thuyết. Nhưng Bồ Tát biết tất cả thân chúng sinh, là bất khả thuyết. Lại biết tâm ưa thích của tất cả chúng sinh, là bất khả thuyết. Tóm lại, mỗi cử chỉ hành động lời nói của chúng sinh, Bồ Tát đều biết. Khởi vọng tưởng gì, Bồ Tát cũng đều biết, đều thấy.
Biết nghiệp quả họ bất khả thuyết
Biết ý hiểu họ bất khả thuyết
Biết phẩm loại họ bất khả thuyết
Biết chủng tánh họ bất khả thuyết.
Bồ Tát có thần thông bất khả thuyết, biết được nghiệp quả của tất cả chúng sinh, là bất khả thuyết. Biết được ý hiểu của tất cả chúng sinh, là bất khả thuyết. Biết được phẩm loại của tất cả chúng sinh, là bất khả thuyết. Biết được chủng tánh của tất cả chúng sinh, là bất khả thuyết.
Biết họ thọ thân bất khả thuyết
Biết nơi họ sinh bất khả thuyết
Biết họ đang sinh bất khả thuyết
Biết họ sinh rồi bất khả thuyết.
Bồ Tát biết cảnh giới nhập thai, trụ thai, thọ thân, của tất cả chúng sinh, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát biết tất cả chúng sinh, chết đây sinh kia, chết kia sinh đây, sinh sinh tử tử, tử tử sinh sinh, xứ sở này cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát biết cảnh giới của tất cả chúng sinh đang sinh ra, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát biết cảnh giới của tất cả chúng sinh, sinh ra rồi, cũng là bất khả thuyết.
Biết họ hiểu rõ bất khả thuyết
Biết họ hướng về bất khả thuyết
Biết ngôn ngữ họ bất khả thuyết
Biết nghiệp họ làm bất khả thuyết
Bồ Tát biết cảnh giới hiểu biết và thấu rõ của tất cả chúng sinh, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát biết cảnh giới hướng về của tất cả chúng sinh, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát biết ngôn ngữ học của tất cả chúng sinh, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát biết nghiệp làm của tất cả chúng sinh, cũng là bất khả thuyết.
Bồ Tát đại từ bi như vậy
Lợi ích tất cả các thế gian
Khắp hiện thân mình bất khả thuyết
Vào cõi chư Phật bất khả thuyết.
Bồ Tát đại từ bi như vậy, thấu rõ cảnh giới bất khả thuyết của tất cả chúng sinh, để lợi ích tất cả các chúng sinh thế gian. Bồ Tát khắp thị hiện thân mình, để giáo hoá tất cả chúng sinh, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát đi vào các cõi Phật giáo hoá chúng sinh, cũng nhiều bất khả thuyết.
Thấy các Bồ Tát bất khả thuyết
Phát sinh trí huệ bất khả thuyết
Thưa hỏi chánh pháp bất khả thuyết
Xiển dương Phật giáo bất khả thuyết.
Thấy được tất cả Bồ Tát, cũng là bất khả thuyết. Phát sinh ra tất cả trí huệ, cũng là bất khả thuyết. Hay thưa hỏi tất cả chánh pháp, cũng là bất khả thuyết. Xiển dương tất cả Phật giáo, cũng là bất khả thuyết.
Hiện đủ thứ thân bất khả thuyết
Đến các cõi nước bất khả thuyết
Thị hiện thần thông bất khả thuyết
Khắp cùng mười phương bất khả thuyết.
Bồ Tát tuỳ các loài chúng sinh, mà hiện ra đủ thứ thân, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát đến cõi nước chư Phật mười phương, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát thị hiện đủ thứ thần thông, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát khắp cùng mười phương thế giới, cũng là bất khả thuyết.
Nơi nơi phân thân bất khả thuyết
Gần gũi chư Phật bất khả thuyết
Làm các đồ cúng bất khả thuyết
Đủ thứ vô lượng bất khả thuyết.
Bồ Tát phân thân đến các nơi, để vì chúng sinh thuyết pháp, phân thân nhiều bất khả thuyết. Bồ Tát đến các cõi nước chư Phật mười phương, gần gũi chư Phật, có chư Phật nhiều bất khả thuyết. Bồ Tát dùng tất cả đồ trang nghiêm, để cúng dường tất cả chư Phật, nhiều bất khả thuyết. Bồ Tát dùng đủ thứ vô lượng đồ cúng dường, nhiều bất khả thuyết.
Các báu thanh tịnh bất khả thuyết
Hoa sen tối thượng bất khả thuyết
Tràng thơm tối thắng bất khả thuyết
Cúng dường Như Lai bất khả thuyết.
Dùng các báu thanh tịnh để cúng dường Phật, cũng là bất khả thuyết. Dùng các thứ hoa sen tốt đẹp tối thượng để cúng dường Phật, cũng là bất khả thuyết. Dùng tràng hương hoa thù thắng để cúng dường Phật, cũng là bất khả thuyết. Rộng tu cúng dường tất cả Như Lai, cũng nhiều bất khả thuyết.
Tín tâm thanh tịnh bất khả thuyết
Ngộ hiểu tối thắng bất khả thuyết
Chí thích tăng thượng bất khả thuyết
Cung kính chư Phật bất khả thuyết.
Việc tin Phật quan trọng nhất là phải có tín tâm thanh tịnh. Nếu chẳng có tín tâm, thì cũng giống như phiêu lãng ở trong hư không, chẳng có sự thành tựu. Tín tâm thanh tịnh này, cũng là bất khả thuyết. Ngộ hiểu tối thù thắng, cũng là bất khả thuyết. Chí thích tăng thượng, cũng là bất khả thuyết. Cung kính cúng dường chư Phật, cũng là bất khả thuyết.
Tu hành bố thí bất khả thuyết
Tâm đó quá khứ bất khả thuyết
Ai cầu đều thí bất khả thuyết
Tất cả đều thí bất khả thuyết.
Tu hành phải bố thí, mới có thể cứu độ chúng sinh. Tâm tu hành bố thí, cũng là bất khả thuyết. Bồ đề tâm của Bồ Tát phát ra trong quá khứ, cũng là bất khả thuyết. Chúng sinh có cầu gì, Bồ Tát đều bố thí cái đó, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát chẳng những bố thí cho người cần, mà cũng bố thí cho đạo tràng của chư Phật, thanh tịnh trang nghiêm, cũng là bất khả thuyết.
Trì giới thanh tịnh bất khả thuyết
Tâm ý thanh tịnh bất khả thuyết
Khen ngợi chư Phật bất khả thuyết
Ưa thích chánh pháp bất khả thuyết.
Người tin Phật, nhất định phải giữ giới thanh tịnh, giống như ở trong căn nhà sạch sẽ; nếu không giữ giới thanh tịnh, cũng giống như ở trong căn nhà xí. Giữ giới thanh tịnh thì không phạm giới sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, năm giới lớn căn bản. Tâm ý thanh tịnh, thì không phạm tham, sân, si, mạn, nghi, và thân, biên, giới, kiến, tà, mười thứ sử. Tán thán khen ngợi công đức của chư Phật, ưa thích học tập chánh pháp của chư Phật, đều nhiều bất khả thuyết.
Thành tựu các nhẫn bất khả thuyết
Vô sinh pháp nhẫn bất khả thuyết
Đầy đủ tịch tĩnh bất khả thuyết
Trụ bậc tịch tĩnh bất khả thuyết.
Bồ Tát tu hành nhất định phải thực hành nhẫn nhục. Nhẫn nhục mới đến được bờ kia. Thế nào là bờ kia? Tức là bất khả thuyết. Có người nói: “Bất khả thuyết! Làm thế nào đến được bờ kia? Làm thế nào thành tựu được Ba la mật”? Nếu chẳng phải Ba la mật, thì có thể nói ra được. Vì là Ba la mật, cho nên mới không thể nói được (bất khả thuyết)! Thành tựu tất cả nhẫn, ngộ được vô sinh pháp nhẫn (không thấy có chút pháp sinh, không thấy có chút pháp diệt, nhẫn chịu nơi tâm), đó tức là bất khả thuyết. Nói không ra được, làm sao nói? Đầy đủ tịch tĩnh, cũng là bất khả thuyết. Nếu nói ra được, thì chẳng đầy đủ tịch tĩnh! Trụ tại bậc tịch tĩnh, cũng là bất khả thuyết.
Khởi đại tinh tấn bất khả thuyết
Tâm đó quá khứ bất khả thuyết
Tâm không thối chuyển bất khả thuyết
Tâm không khuynh động bất khả thuyết.
Bồ Tát sinh khởi tâm tinh tấn lớn nhất, cũng là bất khả thuyết. Vì quá nhiều, nói cũng nói không hết được. Trong quá khứ tất cả pháp bất khả thuyết, hiện tại tất cả pháp bất khả thuyết, vị lại tất cả pháp bất khả thuyết. Tại sao? Vì tâm quá khứ không thể đắc được, tâm hiện tại không thể đắc được, tâm vị lai không thể đắc được. Vì ba tâm không thể đắc được, cho nên chẳng có gì có thể nói. Nếu nói được, thì tâm bất thối chuyển đã thối chuyển rồi. Tức nhiên tâm chẳng thối chuyển, tại sao phải nói ra? Phàm là có thể nói ra, tức là thối chuyển, cho nên bất khả thuyết (không thể nói). Chẳng khuynh hướng, chẳng động tâm, lại có gì có thể nói, cũng là không thể nói.
Tất cả định tạng bất khả thuyết
Quán sát các pháp bất khả thuyết
Tịch nhiên tại định bất khả thuyết
Thấu đạt các thiền bất khả thuyết.
Trong tất cả định tạng (nhập định), cũng là bất khả thuyết. Nếu nói, đó là xuất định. Quán sát tất cả các pháp, cũng là bất khả thuyết. Tịch nhiên ở trong định, cũng là bất khả thuyết. Thấu rõ thông đạt cảnh giới của tất cả các thiền, cũng là bất khả thuyết.
Trí huệ thông đạt bất khả thuyết
Tam muội tự tại bất khả thuyết
Thấu đạt các pháp bất khả thuyết
Thấy rõ chư Phật bất khả thuyết.
Trí huệ thông đạt rồi, còn có gì để nói? Cho nên nói bất khả thuyết. Tam muội (chánh định chánh thọ) đã nhậm vận tự tại, muốn nhập định, liền nhập định; muốn xuất định, liền xuất định. Nhập định xuất định, động tĩnh nhất như. Hai mà chẳng hai, cũng chẳng có gì để nói. Thấu rõ thông đạt tất cả các pháp thật tướng, đó cũng là bất khả thuyết. Thấy rõ mười phương chư Phật, đó cũng là bất khả thuyết.
Tu vô lượng hạnh bất khả thuyết
Phát nguyện rộng lớn bất khả thuyết
Cảnh giới thâm sâu bất khả thuyết
Pháp môn thanh tịnh bất khả thuyết.
Tu vô lượng vô biên hạnh rộng lớn, phát vô lượng vô biên nguyện rộng lớn, đều là bất khả thuyết. Đắc được cảnh giới thâm sâu, và pháp môn thanh tịnh, đều là bất khả thuyết, phàm là nói ra đều chẳng phải.
Thế nào là nguyện rộng lớn? Tức là tu nhẫn nhục tam muội, tức cũng là phải chịu đựng. Bất cứ như thế nào, đều phải nhẫn thọ. Ai áp bức mình, phải nhẫn thọ, không nóng giận. Ai nhục mạ tôi, phải nhẫn thọ, không nóng giận. Vì học Phật pháp, phải nhẫn thọ chịu đựng.
Pháp lực Bồ Tát bất khả thuyết
Pháp trụ Bồ Tát bất khả thuyết
Các chánh niệm đó bất khả thuyết
Các pháp giới đó bất khả thuyết.
Pháp lực của Bồ Tát tu, cũng là bất khả thuyết, Bồ Tát dùng pháp phương tiện trụ thế, cũng là bất khả thuyết. Tất cả chánh niệm của Bồ Tát, cũng bất khả thuyết. Tất cả cảnh giới của Bồ Tát, cũng là bất khả thuyết.
Không thể nói, không thể nói, vẫn nói. Hôm nay tôi làm thủ ca, thủ ca từ này, không nhất định là tốt, các vị hãy ghi nhớ, đem ra để sửa lại, xem thử ai sửa tốt, thì dùng người đó. Bài kệ của tôi nói, ca từ v.v… bất cứ ai cũng đều có thể sửa, chẳng phải một chữ không thể bớt, cũng chẳng phải một chữ không thể thêm, tức chẳng phải kim châm, cũng chẳng phải ngọc luật. Bây giờ hãy chú ý nghe:
“Tận hư không
Phật tánh sung mãn
Khắp pháp giới
Hữu tình uẩn dục trước.
Chúng sinh thành Phật
Phật hoá đồng bào
Vạn pháp do tâm tạo!
Đoàn kết nhất chí
Phục hưng thánh giáo
Cùng phấn chấn
Đồng nỗ lực
Dũng mãnh hướng đạo
Phải đại công
Trừ ích kỷ
Tâm thẳng tốt nhất
Bảy báu bên trong
Rửa sạch trần ai
Thanh tịnh quang minh
Vạn Phật diệu giác”.
Tu phương tiện trí bất khả thuyết
Học trí thâm sâu bất khả thuyết
Vô lượng trí huệ bất khả thuyết
Rốt ráo trí huệ bất khả thuyết.
Bồ Tát tu hành phương tiện trí huệ, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát học tập trí huệ thâm sâu, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát có vô lượng trí huệ, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát có trí huệ rốt ráo, cũng là bất khả thuyết.
Các pháp trí đó bất khả thuyết
Tịnh pháp luân đó bất khả thuyết
Đại pháp vân đó bất khả thuyết
Đại pháp vũ đó bất khả thuyết.
Bồ Tát có tất cả các pháp trí huệ, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát có pháp luân thanh tịnh trí huệ, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát có sức lực hưng đại pháp vân, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát có sức lực mưa đại pháp vũ, cũng là bất khả thuyết.
Các thần lực đó bất khả thuyết
Các phương tiện đó bất khả thuyết
Vào trí không tịch bất khả thuyết
Niệm niệm liên tục bất khả thuyết.
Hết thảy tất cả sức thần thông của Bồ Tát, cũng là bất khả thuyết. Hết thảy tất cả pháp phương tiện của Bồ Tát, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát chứng nhập trí huệ không tịch, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát niệm niệm liên tục, cũng là bất khả thuyết.
Vô lượng hạnh môn bất khả thuyết
Niệm niệm luôn trụ bất khả thuyết
Biển cõi chư Phật bất khả thuyết
Đều đi đến được bất khả thuyết.
Bồ Tát có vô lượng hạnh môn, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát niệm niệm thường trụ ở trong vô lượng pháp môn, cũng là bất khả thuyết. Biển cõi chư Phật mười phương, tuy nhiên nhiều bất khả thuyết, nhưng Bồ Tát đi đến khắp cùng hết thảy biển cõi của chư Phật, để giáo hoá chúng sinh. Bụi cõi như biển cả, vô lượng vô biên, cũng là bất khả thuyết.
Các cõi khác nhau bất khả thuyết
Đủ thứ thanh tịnh bất khả thuyết
Trang nghiêm khác biệt bất khả thuyết
Vô biên sắc tướng bất khả thuyết.
Mỗi một cõi Phật có đủ thứ hình tướng khác nhau, cũng là bất khả thuyết. Đủ thứ thế giới thanh tịnh, cũng là bất khả thuyết. Có thế giới thanh tịnh, cũng có thế giới nhiễm ô. Thế giới có sự khác nhau về hình dáng, và sự trang nghiêm, cũng là bất khả thuyết. Phật có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, cho nên nói vô biên sắc tướng bất khả thuyết.
Đủ thứ xen tạp bất khả thuyết
Đủ thứ tốt đẹp bất khả thuyết
Thanh tịnh cõi Phật bất khả thuyết
Thế giới tạp nhiễm bất khả thuyết.
Trên thế giới có đủ thứ châu báu, hổ tương sen tạp, cũng là bất khả thuyết. Có đủ thứ trang nghiêm tốt đẹp, cũng là bất khả thuyết. Có cõi Phật thanh tịnh, giống như thế giới Tây Phương Cực Lạc và thế giới Đông Phương Lưu Ly, cũng là bất khả thuyết. Có thế giới tạp nhiễm, giống như đời ác năm trược (thế giới của chúng ta đang ở), cũng là bất khả thuyết.
Biết rõ chúng sinh bất khả thuyết
Biết chủng tánh họ bất khả thuyết
Biết nghiệp báo họ bất khả thuyết
Biết tâm hạnh họ bất khả thuyết.
Bồ Tát thấu rõ tâm tánh chúng sinh, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát biết chủng tánh chúng sinh, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát biết nghiệp báo chúng sinh, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát biết tâm hạnh chúng sinh, cũng là bất khả thuyết.
Biết căn tánh họ bất khả thuyết
Biết hiểu muốn họ bất khả thuyết
Tạp nhiễm thanh tịnh bất khả thuyết
Quán sát điều phục bất khả thuyết.
Bồ Tát biết căn tánh của mỗi chúng sinh, hoặc là thiện căn, hoặc là ác căn, cũng là bất khả thuyết. Lại biết hết thảy chúng sinh, sự hiểu biết của họ như thế nào, lòng ham muốn của họ là gì, cũng là bất khả thuyết. Lại biết hết thảy chúng sinh, tư tưởng của họ là tạp nhiễm, hoặc là thanh tịnh. Bồ Tát quán sát hết thảy chúng sinh, dùng phương pháp gì để điều phục, cũng là bất khả thuyết.
Biến hoá tự tại bất khả thuyết
Hiện đủ thứ thân bất khả thuyết
Tu hành tinh tấn bất khả thuyết
Độ thoát chúng sinh bất khả thuyết.
Vì căn tánh của chúng sinh khác nhau, Bồ Tát dùng đủ thứ biến hoá tự tại để giáo hoá, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát thị hiện đủ thứ thân để giáo hoá, cũng là bất khả thuyết. Tu hành đạo bồ đề, dũng mãnh tinh tấn, cũng là bất khả thuyết. Độ thoát hết thảy chúng sinh, khiến cho họ lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử, cũng là bất khả thuyết.
Thị hiện thần biến bất khả thuyết
Phóng đại quang minh bất khả thuyết
Đủ thứ sắc tướng bất khả thuyết
Khiến chúng sinh tịnh bất khả thuyết.
Bồ Tát thị hiện đủ thứ thần thông biến hoá, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát phóng đại quang minh, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát có đủ thứ sắc tướng, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho họ trở về nguồn cội, khôi phục thanh tịnh, cũng là bất khả thuyết.
Mỗi mỗi lỗ lông bất khả thuyết
Phóng lưới quang minh bất khả thuyết
Lưới quang hiện sắc bất khả thuyết
Chiếu khắp cõi Phật bất khả thuyết.
Trong hết thảy lỗ lông trên thân của Bồ Tát, thảy đều phóng ra vô lượng lưới đại quang minh, quang quang chiếu với nhau, lỗ lỗ thông với nhau, vô lượng vô tận, vô tận trùng trùng. Trong mỗi lưới đại quang minh, lại hiện ra đủ thứ màu sắc, do đó: “Năm quang mười màu, xán lạn chói mắt”. Mỗi lưới quang minh, chiếu khắp cõi nước chư Phật mười phương. Cảnh giới này, vẫn là bất khả thuyết bất khả thuyết.
Dũng mãnh vô uý bất khả thuyết
Phương tiện khéo léo bất khả thuyết
Điều phục chúng sinh bất khả thuyết
Khiến thoát sinh tử bất khả thuyết.
Bồ Tát thường phát tâm dũng mãnh và tâm vô uý, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát dùng đủ thứ phương tiện, đủ thứ pháp môn khéo léo, để giáo hoá chúng sinh, cũng là bất khả thuyết. Chúng sinh thế giới Ta Bà, cử tâm động niệm, đâu chẳng phải là tạo tội, đâu chẳng phải là nghiệp. Cang cường thành tánh, khó điều khó phục, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát khiến cho chúng sinh đó chấm dứt sinh tử, thẳng đến bờ kia, cũng là bất khả thuyết.
Thanh tịnh thân nghiệp bất khả thuyết
Thanh tịnh lời nghiệp bất khả thuyết
Vô biên ý nghiệp bất khả thuyết
Diệu hạnh thù thắng bất khả thuyết.
Bồ Tát giáo hoá chúng sinh, khiến cho thân nghiệp của chúng sinh thanh tịnh, không nhiễm trước, khiến cho lời nghiệp của chúng sinh thanh tịnh không nhiễm trước, khiến cho ý nghiệp của chúng sinh thanh tịnh không nhiễm trước. Vô lượng vô biên ba nghiệp, thảy đều thanh tịnh, đều là bất khả thuyết. Hạnh môn thù thắng vi diệu của Bồ Tát tu, cũng nhiều bất khả thuyết.
Thành tựu trí báu bất khả thuyết
Thâm nhập pháp giới bất khả thuyết
Bồ Tát tổng trì bất khả thuyết
Khéo hay tu học bất khả thuyết.
Bồ Tát thành tựu trí huệ diệu báu, nhiều bất khả thuyết. Bồ Tát nhập vào pháp giới, hợp với pháp giới mà làm một, nhiều bất khả thuyết. Bồ Tát hay tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa, nhiều bất khả thuyết. Bồ Tát khéo tu học tất cả pháp môn, nhiều bất khả thuyết.
Bậc trí âm thanh bất khả thuyết
Âm thanh thanh tịnh bất khả thuyết
Chánh niệm chân thật bất khả thuyết
Khai ngộ chúng sinh bất khả thuyết.
Bồ Tát có âm thanh vi diệu, cũng bất khả thuyết. Âm thanh của Bồ Tát thanh tịnh, cũng bất khả thuyết. Bồ Tát lúc nào cũng chánh niệm, chẳng có tà niệm; lúc nào cũng chân thật, chẳng hư nguỵ, cũng bất khả thuyết. Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, thọ đủ thứ khổ. Tại sao? Vì muốn độ thoát tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh khai ngộ, hiểu rõ thế gian là khổ, xuất thế gian là vui. Khai ngộ chúng sinh cũng bất khả thuyết.
Đầy đủ oai nghi bất khả thuyết
Thanh tịnh tu hành bất khả thuyết
Thành tựu vô uý bất khả thuyết
Điều phục thế gian bất khả thuyết.
Cử chỉ hành động, lời nói việc làm của Bồ Tát, đều y theo quy cụ, có pháp tắc, đều đầy đủ oai nghi. Do đó: “Ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh”, nghĩa là đi, đứng, nằm, ngồi, đều có nghi tắc, chẳng tổn oai đức, vì bốn đại oai nghi. Do đó: “Hành như phong, lập như tùng, toạ như chung, ngoạ như cung”, oai nghi này, cũng nhiều bất khả thuyết. Tâm của Bồ Tát chẳng có phiền não, tu hành hạnh môn thanh tịnh, cũng nhiều bất khả thuyết. Bồ Tát thành tựu vô uý, điều phục thế gian, đều là bất khả thuyết.
Chúng chư Phật tử bất khả thuyết
Thanh tịnh thắng hạnh bất khả thuyết
Tán thán chư Phật bất khả thuyết
Khen ngợi vô tận bất khả thuyết.
Hết thảy đệ tử của Phật và thính chúng pháp hội, cũng bất khả thuyết. Tu hành hạnh môn thanh tịnh thù thắng, cũng bất khả thuyết. Tán thán khen ngợi công đức mười phương chư Phật, cũng bất khả thuyết. Khen ngợi chẳng cùng tận, cũng bất khả thuyết.
Đạo Sư thế gian bất khả thuyết
Diễn nói tán thán bất khả thuyết
Các Bồ Tát đó bất khả thuyết
Thanh tịnh công đức bất khả thuyết.
Thế gian có vô lượng đạo sư, cũng bất khả thuyết. Diễn nói tất cả các pháp, khen ngợi tất cả chư Phật, cũng là bất khả thuyết. Trong pháp hội, có tất cả Bồ Tát, cũng bất khả thuyết. Công đức thanh tịnh của Bồ Tát, cũng bất khả thuyết.
Các bờ mé đó bất khả thuyết
Hay trụ trong đó bất khả thuyết
Trụ trong trí huệ bất khả thuyết
Hết các kiếp trụ không nói được.
Bờ mé công đức của Bồ Tát, là bất khả thuyết. Bồ Tát trụ ở trong đó, là bất khả thuyết. Trụ trong nhiều kiếp tu trí huệ bất khả thuyết. Cùng tận tất cả kiếp, rốt ráo trụ bao nhiêu thời gian, chẳng cách chi có thể nói được.
Vui thích chư Phật bất khả thuyết
Trí huệ bình đẳng bất khả thuyết
Khéo vào các pháp bất khả thuyết
Với pháp không ngại bất khả thuyết.
Bồ Tát hoan hỉ ưa thích tất cả chư Phật, cũng là bất khả thuyết. Trí huệ của Bồ Tát và trí huệ của Phật là bình đẳng, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát kheo vào tất cả các pháp, chứng được các pháp thật tướng, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát đối với tất cả các pháp, viên dung vô ngại, cũng là bất khả thuyết.
Ba đời như không bất khả thuyết
Ba đời trí huệ bất khả thuyết
Thấu đạt ba đời bất khả thuyết
Trụ nơi trí huệ bất khả thuyết.
Đời quá khứ bất khả đắc, đời hiện tại bất khả đắc, đời vị lai bất khả đắc. Tại sao? Vì quá khứ đã qua rồi, hiện tại cũng không ngừng, vị lai thì chưa đến. Ba đời giống như không, là bất khả thuyết. Tuy nhiên ba đời như không, nhưng trong pháp thế gian không thể nói là không. Tại sao? Nếu nói là không, chúng sinh nghe được bèn sinh khởi tưởng đoạn diệt. Cho nên tại như không, lại biết chẳng không, đó là một thứ trí huệ. Người có trí huệ, thấy tất cả pháp đều là viên dung vô ngại. Ba đời như không, ba đời trí huệ, cảnh giới đó đều là bất khả thuyết. Bồ Tát biết rõ thông đạt đạo lý ba đời như không, ba đời như có, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát trụ ở trong trí huệ quang minh, cũng là bất khả thuyết.
Diệu hạnh thù thắng bất khả thuyết
Vô lượng đại nguyện bất khả thuyết
Thanh tịnh đại nguyện bất khả thuyết
Thành tựu bồ đề bất khả thuyết.
Bồ Tát chứng được diệu hạnh thù thắng, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát phát vô lượng đại nguyện, cũng là bất khả thuyết. Thanh tịnh đại nguyện, mà tư tưởng không nhiễm ô, cũng là bất khả thuyết. Thành tựu bồ đề, vô thượng giác đạo, cũng là bất khả thuyết.
Chư Phật bồ đề bất khả thuyết
Phát sinh trí huệ bất khả thuyết
Phân biệt nghĩa lý bất khả thuyết
Biết tất cả pháp bất khả thuyết.
Mười phương chư Phật chứng được bồ đề giác đạo, cũng là bất khả thuyết. Trí huệ phát sinh cũng là bất khả thuyết. Phân biệt các thứ nghĩa lý, cũng là bất khả thuyết. Biết tất cả các pháp, cũng là bất khả thuyết.
Nghiêm tịnh cõi Phật bất khả thuyết
Tu hành các lực bất khả thuyết
Trường kỳ tu tập bất khả thuyết
Một niệm ngộ hiểu bất khả thuyết.
Trang nghiêm thanh tịnh cõi nước chư Phật, cũng là bất khả thuyết. Tu hành thập lực, cũng là bất khả thuyết. Từ vô lượng kiếp đến nay, tu tập bồ đề giác đạo, cũng là bất khả thuyết. Ở trong một niệm, ngộ hiểu lý sinh tử luân hồi, cũng là bất khả thuyết.
Chư Phật tự tại bất khả thuyết
Rộng nói chánh pháp bất khả thuyết
Đủ thứ thần lực bất khả thuyết
Thị hiện thế gian bất khả thuyết.
Tự tại thần lực của mười phương chư Phật, cũng là bất khả thuyết. Chư Phật rộng nói chánh pháp, cũng là bất khả thuyết. Đủ thứ thần thông lực, cũng là bất khả thuyết. Thị hiện nơi thế gian, để giáo hoá chúng sinh, cũng là bất khả thuyết. Tóm lại, những cảnh giới đó, không thể dùng tâm nghĩ, không thể dùng lời lẽ bàn luận, thật là diệu không thể tả.
Thanh tịnh pháp luân bất khả thuyết
Dũng mãnh chuyển được bất khả thuyết
Đủ thứ khai diễn bất khả thuyết
Thương xót thế gian bất khả thuyết.
Thường chuyển thanh tịnh diệu pháp luân, cũng là bất khả thuyết. Dũng mãnh tinh tấn để chuyển bánh xe pháp vô thượng, cũng là bất khả thuyết. Khai diễn đủ thứ diệu pháp môn, cũng là bất khả thuyết. Thương xót tất cả chúng sinh thế gian, cũng là bất khả thuyết.
Không thể nói được tất cả kiếp
Khen các công đức bất khả thuyết
Bất khả thuyết kiếp có thể hết
Đức bất khả thuyết không hết được.
Bồ Tát ở trong tất cả kiếp bất khả thuyết, để tán thán khen ngợi công đức bất khả thuyết của chư Phật. Bất khả thuyết kiếp, vẫn không khi nào hết được, nhưng chư Phật có công đức bất khả thuyết, không cách chi nói hết được.
Không thể nói hết các Như Lai
Không thể nói hết các căn lưỡi
Khen đức của Phật bất khả thuyết
Bất khả thuyết kiếp không hết được.
Có các Như Lai nhiều không thể nói, có các căn lưỡi nhiều không thể nói, để tán thán Phật có công đức nhiều bất khả thuyết. Trong các kiếp nhiều bất khả thuyết, cũng nói không hết được công đức của Phật.
Mười phương hết thảy các chúng sinh
Tất cả đồng thời thành Chánh Giác
Trong đó một Phật hiện khắp được
Không thể nói được tất cả thân.
Mười phương thế giới, hết thảy tất cả chúng sinh, đều đồng thời thành tựu quả vị Chánh Giác. Trong đó mỗi vị Phật, hiện khắp mười phương, thị hiện phân thân nhiều bất khả thuyết, để giáo hoá chúng sinh.
Một thân trong bất khả thuyết đó
Thị hiện cái đầu bất khả thuyết
Một đầu trong bất khả thuyết đó
Thị hiện cái lưỡi bất khả thuyết.
Trong thân Phật bất khả thuyết đó, mỗi thân thị hiện vô lượng vô biên đầu, nhiều bất khả thuyết. Trong bất khả thuyết đầu đó, mỗi cái đầu lại thị hiện vô lượng vô biên lưỡi nhiều bất khả thuyết. Lưỡi đó tức là tướng lưỡi rộng dài, khắp ba ngàn đại thiên thế giới.
Một lưỡi trong bất khả thuyết đó
Thị hiện âm thanh bất khả thuyết
Một âm trong bất khả thuyết đó
Trải qua kiếp trụ bất khả thuyết.
Mỗi cái lưỡi trong bất khả thuyết đó, thị hiện đủ thứ âm thanh, cũng bất khả thuyết. Mỗi âm thanh trong bất khả thuyết đó, trải qua đại kiếp, trụ ở thế gian, cũng bất khả thuyết.
Như một tất cả Phật như vậy
Như một tất cả thân như vậy
Như một tất cả đầu như vậy
Như một tất cả lưỡi như vậy.
Như một vị Phật, thị hiện bất khả thuyết thân như vậy. Tất cả vị Phật cũng như thế. Giống như một thân, có thể thị hiện bất khả thuyết đầu như vậy, tất cả thân cũng như thế. Giống như một cái đầu, có thể thị hiện bất khả thuyết lưỡi, tất cả đầu cũng như thế. Giống như một cái lưỡi, có thể thị hiện bất khả thuyết âm thanh, tất cả lưỡi cũng như thế.
Như một tất cả âm như vậy
Bất khả thuyết kiếp luôn khen Phật
Bất khả thuyết kiếp có thể hết
Khen công đức Phật không hết được.
Giống như một âm thanh, có thể thị hiện như vậy, tất cả âm thanh, cũng như thế. Âm thanh đó, ở trong bất khả thuyết kiếp, luôn luôn tán thán khen ngợi chư Phật, ở trong bất khả thuyết kiếp, cũng không khi nào hết được. Khen ngợi công đức của Phật, chẳng khi nào hết được.
Trong một hạt bụi thảy đều có
Bất khả thuyết thế giới Liên Hoa
Trong mỗi mỗi thế giới Liên Hoa
Hiền Thủ Như Lai bất khả thuyết.
Ở trong mỗi hạt bụi, đều có âm thanh khen ngợi Phật. Ở trong bất khả thuyết thế giới Liên Hoa, cũng có sự khen ngợi đó. Ở trong mỗi thế giới Liên Hoa, có Hiền Thủ Như Lai, cũng nhiều bất khả thuyết.
Cho đến pháp giới đều khắp cùng
Trong đó hết thảy các hạt bụi
Thế giới hoặc thành hoặc trụ hoại
Số đó vô lượng bất khả thuyết.
Do một thân mà hoá vô lượng thân, từ vô lượng thân mà thành một thân, cho đến khắp cùng pháp giới. Trong pháp giới hết thảy tất cả thế giới nhiều như hạt bụi, vô luận là thành, hoặc là trụ, hoặc là hoại, hoặc là không, số đó vô lượng vô biên bất khả thuyết.
Nơi mỗi hạt bụi vô biên tế
Vô lượng các cõi khắp đi vào
Mười phương khác biệt bất khả thuyết
Biển cõi phân bố bất khả thuyết.
Nơi mỗi hạt bụi, biến hoá làm vô lượng vô biên hạt bụi. Hết thảy vô lượng vô biên cõi nước mười phương, khắp vào trong một hạt bụi, đây là cảnh giới nhỏ có thể dung lớn. Mười phương thế giới, có đủ thứ sự khác nhau, cũng bất khả thuyết. Biển cõi chư Phật, phân bố trong mười phương, cũng bất khả thuyết.
Trong mỗi mỗi cõi có Như Lai
Thọ mạng kiếp số bất khả thuyết
Chư Phật tu hành bất khả thuyết
Diệu pháp thâm sâu bất khả thuyết.
Trong mỗi cõi nước, đều có một vị Phật, đang ở đó giáo hoá chúng sinh. Thọ mạng và trụ kiếp số của chư Phật, đều bất khả thuyết. Hạnh môn tu hành của chư Phật và diệu pháp nói ra, đều là bất khả thuyết.
Thần thông đại lực bất khả thuyết
Trí không chướng ngại bất khả thuyết
Vào nơi lỗ lông bất khả thuyết
Lỗ lông nhân duyên bất khả thuyết.
Thần thông lực của chư Phật rất lớn, cũng bất khả thuyết. Vô ngại trí của chư Phật rất rộng lớn, cũng bất khả thuyết. Chư Phật có thể vào trong một lỗ lông, chuyển đại pháp luân, giáo hoá chúng sinh. Ở trong một lỗ lông, có thể dung nạp ba ngàn đại thiên thế giới mười phương. Tóm lại, ba ngàn đại thiên thế giới mười phương, có thể bao dung ở trong một lỗ chân lông. Nhân duyên lỗ lông đó cũng bất khả thuyết.
Thành tựu thập lực bất khả thuyết
Giác ngộ bồ đề bất khả thuyết
Vào tịnh pháp giới bất khả thuyết
Đắc tạng trí sâu bất khả thuyết.
Bồ Tát có thể thành tựu mười lực của Phật, cũng bất khả thuyết. Bồ Tát giác ngộ chân đế bồ đề, cũng bất khả thuyết. Bồ Tát vào thanh tịnh pháp giới, cũng bất khả thuyết. Bồ Tát đắc được trí huệ tạng thâm sâu, cũng bất khả thuyết.
Đủ thứ số lượng bất khả thuyết
Như vậy tất cả đều biết rõ
Đủ thứ hình lượng bất khả thuyết
Nơi đó thảy đều thông đạt hết.
Tuy nhiên có đủ thứ số lượng bất khả thuyết, nhưng Bồ Tát hoàn toàn biết được tất cả số lượng. Tuy nhiên có đủ thứ hình lượng bất khả thuyết, nhưng Bồ Tát đối với hình lượng đó thảy đều thông đạt, hoàn toàn thấu hiểu hết.
Đủ thứ tam muội bất khả thuyết
Đều trụ trong đó trải kiếp số
Nơi bất khả thuyết chỗ chư Phật
Tu hạnh thanh tịnh bất khả thuyết.
Có đủ thứ tam muội, cũng bất khả thuyết. Bồ Tát trải qua kiếp số trụ ở trong hết thảy tam muội. Bồ Tát ở trong đạo tràng của chư Phật mười phương nhiều bất khả thuyết, tu hành hạnh môn rất thanh tịnh, cũng bất khả thuyết.
Được bất khả thuyết tâm vô ngại
Đi đến mười phương bất khả thuyết
Thần lực thị hiện bất khả thuyết
Tu không bờ mé bất khả thuyết.
Bồ Tát tu hạnh thanh tịnh, cho nên đắc được tâm vô ngại bất khả thuyết. Hay đi đến mười phương thế giới giáo hoá chúng sinh, cũng bất khả thuyết. Bồ Tát vì điều phục chúng sinh cang cường, nên thị hiện đại oai thần lực, cũng bất khả thuyết. Bồ Tát tu lục độ vạn hạnh, chẳng có bờ mé, cũng bất khả thuyết.
Đi đến các cõi bất khả thuyết
Thấu đạt chư Phật bất khả thuyết
Tinh tấn dũng mãnh bất khả thuyết
Trí huệ thông đạt bất khả thuyết.
Bồ Tát đi đến cõi nước chư Phật mười phương, cúng dường Phật, gần gũi Phật, cũng bất khả thuyết. Bồ Tát thấu rõ thông đạt diệu pháp của chư Phật nói, cũng bất khả thuyết. Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn học tập Phật pháp, cũng bất khả thuyết. Bồ Tát đắc được trí huệ vô chướng ngại, thông đạt được tất cả các pháp, cũng bất khả thuyết.
Với pháp chẳng hành chẳng không hành
Vào các cảnh giới bất khả thuyết
Không thể diễn nói các đại kiếp
Luôn đến mười phương bất khả thuyết.
Bồ Tát đối với tất cả các pháp, chẳng hành chẳng không hành (phi hành phi bất hành). Tại sao? Vì vào tất cả cảnh giới, cũng là bất khả thuyết. Bồ Tát ở trong tất cả đại kiếp không thể diễn nói, luôn luôn du hành mười phương, đến khắp hết thảy thế giới giáo hoá chúng sinh, cũng bất khả thuyết.
Phương tiện trí huệ bất khả thuyết
Chân thật trí huệ bất khả thuyết
Thần thông trí huệ bất khả thuyết
Niệm niệm thị hiện bất khả thuyết.
Bồ Tát có trí huệ thiện xảo phương tiện, tức là quyền giáo. Pháp môn quyền giáo này, cũng bất khả thuyết. Bồ Tát lại có trí huệ chân thật, tức là thật giáo. Pháp môn thật giáo này, cũng bất khả thuyết. Tại sao phải có quyền giáo? Vì pháp môn quyền xảo phương tiện vì thật giáo mà nói, do đó: “Vì thật thí quyền”. Trí huệ phương tiện thiện xảo dùng hết rồi, tức là “khai quyền hiển thật”, chứng đắc trí huệ chân thật, cũng là bất khả thuyết. Thần thông biến hoá phải y trí huệ làm cơ sở. Nếu chẳng có trí huệ, điên điên đảo đảo, loạn dụng thần thông, chẳng những vô ích, ngược lại còn có hại. Thần thông là bản tánh của trí huệ, biến hoá vô cùng, cũng bất khả thuyết. Ở trong niệm niệm, thị hiện đến cõi nước chư Phật mười phương, để giáo hoá chúng sinh, cũng bất khả thuyết.
Với bất khả thuyết các Phật pháp
Mỗi mỗi biết rõ bất khả thuyết
Ở trong một thời chứng bồ đề
Hoặc đủ thứ thời mà chứng nhập.
Bồ Tát đối với Phật pháp, đều biết rõ, khéo vận dụng, cũng bất khả thuyết. Bồ Tát hoặc một thời chứng được đạo bồ đề, thành tựu quả bồ đề. Hoặc tất cả thời chứng được đạo bồ đề, thành tựu quả bồ đề.
Đầu lông cõi Phật bất khả thuyết
Trong bụi cõi Phật bất khả thuyết
Cõi Phật như vậy đều đi đến
Thấy các Như Lai bất khả thuyết.
Nơi đầu sợi lông hiện ra cõi Phật, nơi cõi Phật hiện ra đầu sợi lông. Đó là cảnh giới trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, cũng là bất khả thuyết. Ở trong mỗi hạt bụi, hiện ra vô lượng cõi Phật, ở trong mỗi cõi Phật, lại có vô lượng hạt bụi, cũng là bất khả thuyết. Các cõi Phật nhiều như vậy, Bồ Tát đều tuỳ hỉ đi đến, giúp Phật hoằng dương, giáo hoá chúng sinh. Thấy các đức Phật nhiều bất khả thuyết.
Thông đạt nhất thật bất khả thuyết
Khéo vào giống Phật bất khả thuyết
Cõi nước chư Phật bất khả thuyết
Thảy đều đi đến thành bồ đề.
Thông đạt nhất chân pháp giới (chân như thật tướng), cũng là bất khả thuyết. Khéo vào giống Phật (tương lai thành Phật), cũng bất khả thuyết. Cõi nước chư Phật mười phương, cũng bất khả thuyết. Đương nhiên có nhiều cõi nước, nhưng Bồ Tát đều đi đến thành tựu Chánh Đẳng Chánh Giác.
Cõi nước chúng sinh và chư Phật
Thể tánh khác nhau bất khả thuyết
Ba đời như vậy không bờ mé
Bồ Tát đều thấy rõ tất cả.
Hết thảy cõi nước, hết thảy chúng sinh, hết thảy chư Phật, thể tánh đều có đủ thứ sự khác nhau, cũng là bất khả thuyết. Ba đời bất khả thuyết như vậy chẳng có bờ mé. Nhưng Bồ Tát đối với cảnh giới đó, đều biết rõ ràng.