KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Ðà
Hoà Thượng Tuyên Hóa giảng giải
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

 

TẬP 13

QUYỂN HAI MƯƠI BẢY

PHẨM THẬP HỒI HƯỚNG THỨ HAI MƯƠI LĂM PHẦN NĂM

 

Phật tử ! Ðại Bồ Tát bố thí cả búi tóc liền da đầu cho người đến cầu xin, như Bồ Tát Bảo Kế Vương, Bồ Tát Thắng Diệu Thân, và vô lượng các Bồ Tát khác. 

Lúc đó, Bồ Tát thấy người đến xin, tâm sinh hoan hỉ, mà nói rằng: Nay nếu ông muốn búi tóc liền da đầu, thì có thể lấy, búi tóc của tôi là tối đệ nhất trong cõi Diêm Phù Ðề. Khi nói như vậy tâm không động loạn, chẳng niệm nghiệp dư, xả lìa thế gian, chí cầu tịch tĩnh, rốt ráo thanh tịnh, tinh cần chất trực, hướng về nhất thiết trí. Liền cầm đao bén, cắt búi tóc liền da đầu, gối phải quỳ xuống, chắp hai tay lại, một lòng bố thí cho.

Các vị đệ tử của Phật ! Trong Kinh văn ở trước, đại Bồ Tát bố thí cho tất cả chúng sinh là ngoại tài, hiện tại Ngài bố thí cho tất cả chúng sinh là nội tài-thân tâm tính mạng, đầu mắt tuỷ não. Như nay bố thí là búi tóc liền da đầu. Chúng ta ở trong chánh điện nhìn thấy trên đầu của Phật có viên tròn đen, cao nhô lên giống như núi thịt nhỏ, đó tức là tướng nhục kế trên đỉnh đầu, là một trong 32 tướng của Phật. Bồ Tát cũng có tướng đảnh nhục kế, là do công đức tu hành mà thành tựu, Bồ Tát nếu gặp có người đến xin Ngài nhục kế, thì Ngài cũng chẳng xẻn tiếc. Giống như thuở xưa có vị Bồ Tát Bảo Kế Vương, Bồ Tát Thắng Diệu Thân, cùng với vô lượng Bồ Tát khác, các Ngài đều đem nhục kế của mình bố thí cho người đến cầu xin.

Khi đại Bồ Tát, Ngài muốn bố thí búi tóc liền với da đầu, thấy có người đến xin búi tóc, thì Ngài bèn sinh tâm đại hoan hỉ, mà nói với người xin: Hiện tại nếu ông muốn búi tóc liền với da đầu, thì có thể lấy trên đầu của tôi. Búi tóc của tôi tốt đẹp nhất ở trong cõi Diêm Phù Ðề, được gọi là đệ nhất. Khi trong miệng Ngài nói như thế, thì trong tâm cũng chẳng có chút hoảng sợ tán loạn nào. Ngài chẳng nghĩ gì cả, tất cả đều buông xả đặng, tất cả trên thế gian, Ngài đều xả được hết. Một lòng lập chí vui thiền định vắng lặng, hy vọng đắc được sự thanh tịnh chân chánh. Tinh tấn siêng tu học Phật đạo, ba nghiệp thanh tịnh, lìa khỏi hai chướng-Phiền não chướng, sở tri chướng, phẩm chất đoan chánh, tâm ngay thẳng, chỉ cầu hướng về nhất thiết trí huệ. Do đó, tay bèn cầm đao sắc bén tự cắt búi tóc liền da trên đầu của mình xuống, đem đến trước mặt người xin, gối phải quỳ sát đất, chắp tay lại, cung kính dâng bố thí búi tóc liền da đầu cho người đến xin.

Chánh niệm chỗ thực hành của ba đời tất cả chư Phật Bồ Tát, phát tâm đại hoan hỉ tăng thêm ý chí vui thích. Ở trong các pháp, ý khéo khai mở thấu hiểu, chẳng thủ lấy khổ, biết rõ khổ thọ. Vô tướng vô sinh, các thọ khởi với nhau, chẳng có thường trụ. Cho nên tôi phải đồng với tất cả các Bồ Tát quá khứ hiện tại và vị lai. Tu hành đại xả, phát lòng tin ưa thích thâm sâu, cầu nhất thiết trí. Chẳng có thối chuyển, chẳng do người khác chỉ dạy, sức lực thiện tri thức. Khi đại Bồ Tát bố thí như thế, đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được vô kiến đảnh, thành tựu búi tóc Bồ Tát như tháp. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tóc xanh biếc, tóc kim cang, tóc mịn màng mềm mại, diệt được tất cả phiền não của chúng sinh. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tóc thấm nhuần, tóc kín dày, tóc không lấn phủ vành trán.

Bồ Tát lúc đó, một lòng không hai, chánh niệm hạnh môn của ba đời chư Phật và Bồ Tát tu, sinh tâm đại hoan hỉ, đồng thời tăng trưởng chí nguyện của mình được vui thành tựu. Ðối với pháp lý của chư Phật nói, quá khứ có chỗ chẳng minh bạch, hiện tại hốt nhiên trong tâm ý đều minh bạch. Tuy nhiên cắt búi tóc trên đầu xuống để bố thí, nhưng chẳng cho rằng thọ khổ. Vì Bồ Tát thấu hiểu:

“Thọ khổ thì hết khổ
Hưởng phước thì hết phước”.

Khổ vốn chẳng có tự thể, cũng chẳng có “tướng” và “sinh”, nó vốn tức là không. Sắc thọ tưởng hành thức năm uẩn, tuy thường thường cùng nhau sinh khởi, nhưng chẳng phải lúc nào cũng tồn tại có tác dụng. Do đó, tôi-Bồ Tát phải tuỳ đồng hết thảy tất cả Bồ Tát quá khứ hiện tại và vị lai, cùng tu hành pháp môn đại bố thí, cử hành đại hội bố thí, phát vô lượng tâm đại hỉ đại xả, tin sâu chỉ có phụng hành giáo lý của chư Phật, mới là pháp vui chân chánh. Một lòng trên cầu Phật trí, chẳng sợ thọ bất cứ khổ nạn nào, cũng chẳng thối thất tâm nguyện của mình. Tôi quyết tâm như thế, chẳng phải nhờ thiện tri thức chỉ dạy, hoặc nhờ sức lực thiện tri thức tăng cường mới làm được, mà là tôi tự phát tâm, ý chí ưa thích hành đại bố thí nầy.

Khi đại Bồ Tát bố thí búi tóc, đem công đức căn lành của Ngài tu tập, đối với chúng sinh hồi hướng như vầy: Tôi nguyện tất cả chúng sinh được vô kiến đảnh-không thể thấy được đỉnh đầu của họ, chỉ có Phật mới có tướng vô kiến đảnh trang nghiêm nầy. Hy vọng chúng sinh tu hành công đức, có thể thành tựu búi tóc Bồ Tát giống như bảo tháp. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được đầu tóc xanh biếc, hoặc là đầu tóc giống như kim cang, hoặc là đầu tóc mịn màng mềm mại, hay diệt được tám vạn bốn ngàn thứ phiền não của chúng sinh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được đầu tóc thấm nhuần bóng mượt, vừa kín vừa lại dày, cũng không thể lấn phủ vành trán, rất có thứ lớp, nhìn trông thật rất đẹp.

Nguyện cho tất cả chúng sinh được tóc mềm mại. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tóc như chữ vạn, tóc xoắn khu ốc về phía phải. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tướng tóc của Phật, vĩnh viễn lìa tất cả phiền não kết tập. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tóc quang minh, quang minh đó chiếu mười phương thế giới. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tóc không rối loạn, giống như tóc của Như Lai, sạch đẹp không không tạp. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tóc đảnh tháp như bậc ứng cúng, khiến cho người thấy, như thấy được tóc của Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tóc không nhiễm trước của Như Lai, vĩnh viễn lìa tất cả màng tối trần cấu. 

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí búi tóc liền da đầu, vì muốn khiến cho tâm chúng sinh được vắng lặng, đều được viên mãn các Ðà la ni, rốt ráo nhất thiết chủng trí của Như Lai, mười thứ lực của Phật.

Bồ Tát lại nguyện cho hết thảy chúng sinh, được đầu tóc mềm mại. Tại sao ? Vì đầu tóc mềm cứng, có thể hiển ra cá tính của con người, là hoà thiện hay là cố chấp. Cá tính của người cố chấp chẳng dễ gì hợp tác với người, vì có tỳ khí cang cường. Người đầu tóc mềm mại, thì tính tình hoà thiện. Chúng ta người tu học đạo, phải thường thường chú ý khống chế tỳ khí của mình, giảm bớt đi phiền não và sân hận. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được đầu tóc hình chữ vạn, tóc xoắn hình ốc về phía phải. Ðầu tóc của chư Phật tức là tóc xoắn hình ốc về phía phải. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được đầu tóc giống như Phật, vĩnh viễn xa lìa tám vạn bốn ngàn phiền não kết tập-kết tập tức là tiểu mao bệnh của một số người. Người không có đại bệnh thì có tiểu bệnh; chẳng có tiểu bệnh, thì có mao bệnh, đó tức là kết tập. Ví như trong đời sống của mọi người, đều có chỗ ưa thích khác nhau, như mùi vị ăn uống. Tóm lại, tham sân si mạn nghi là kết tập của chúng sinh, có thể vĩnh viễn xa lìa những tập khí xấu nầy, thì sẽ vĩnh viễn lìa tất cả phiền não kết tập. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được đầu tóc quang minh, thứ quang minh đó có thể chiếu khắp mười phương thế giới. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được đầu tóc không tạp loạn, thẳng mượt không rối loạn, thanh tịnh tốt đẽp, màu sắc thuần nhất không tạp, giống như đầu tóc của Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu đầu tóc đỉnh tháp của bậc xứng đáng trời người cúng dường, khiến cho bất cứ người nào thấy được như thấy được đầu tóc của Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được đầu tóc thanh tịnh như Phật chẳng có sự ô nhiễm, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả màng đen tối trần cấu. Những lời nguyện ở trên, là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí búi tóc liền với da đầu. Vì muốn khiến cho tâm của tất cả chúng sinh, thường ở trong định thanh tịnh vắng lặng, chẳng sinh vọng niệm nào khác, đều đắc được đủ thứ Ðà la ni viên mãn. Chú lực tổng trì, và nhất thiết chủng trí chân thật của Phật, cùng với mười đại oai thần lực của Phật.

Các vị thiện tín ! Bồ Tát phát nguyện, lần nầy rồi lần khác, nguyện nguyện vô cùng, nguyện nguyện vô tận, vì cứu độ chúng sinh, nguyện nguyện chu tường, vĩnh viễn không ngừng nghỉ. Cho nên gọi là nguyện hải, nguyện lực thâm sâu không đáy, rộng lớn không bờ mé, Ngài nhìn thấy chúng sinh từ trong bất tịnh sinh ra, từ trong bất tịnh chết đi, vĩnh viễn lưu chuyển trong sự bất tịnh. Do đó Ngài phát nguyện cứu chúng sinh thoát ra khỏi sự bất tịnh, khiến cho chúng sinh đều đắc được thân tâm thanh tịnh. Bồ Tát thương xót chúng ta ngu si, chẳng có trí huệ, cứ làm những việc điên đảo. Ngài lại phát nguyện giáo hoá chúng sinh, khiến cho chúng ta khai mở trí huệ, khai mở mắt tâm, ở trong quang minh của Phật chiếu đến, hưởng thọ pháp hỉ vô thượng. Bồ Tát lại thấy chúng ta mắt loà vô tri, chẳng phân biệt được khổ vui, cho nên khai thị chúng ta phải nhận thức cảnh giới, đối với thọ khổ, thọ vui, chẳng khổ chẳng thọ vui, đều có thể thái nhiên. Khi gặp cảnh nghịch, phải nhẫn nại phá tan cửa ải khổ; khi gặp cảnh thuận cũng đừng lưu luyến, minh bạch tất cả vô thường. Gặp bất cứ cảnh giới gì, đều có định lực như như chẳng động, rõ ràng sáng suốt. Có nghị lực và quyết tâm chuyển biến cảnh giới, mới diệt trừ được phiền não thống khổ. Nhất là người tu hành, càng phải chú ý. Bồ Tát lại sợ chúng ta tướng sinh chẳng đủ trang nghiêm, trên từ đầu xuống dưới chân, chẳng có chút nào mà Bồ Tát chẳng nghĩ đến chúng ta, thảy đều vì chúng ta hồi hướng, nguyện nguyện vì chúng ta mà mong cầu, đều hy vọng cho tất cả mỗi chúng sinh đều viên mãn thành tựu đầy đủ. Các bạn hãy nghĩ xem ! Thiên hạ còn có ai có tâm từ bi hơn Bồ Tát chăng ! Khi Ngài hồi hướng, bất luận là thiện ác tốt xấu, giàu nghèo sang hèn, nam nữ già trẻ oán thân, một luật đều bao quát hết trong đó, nguyện cho khắp tất cả đều được lợi ích của Ngài hồi hướng, tâm của Ngài thật là bình đẳng ! Mọi người phải sớm phát tâm đại bi, do tâm đại bi mới sinh ra tâm bồ đề, mới báo đáp được thâm ân của Bồ Tát.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát đem con mắt bố thí cho người đến xin. Như Bồ Tát Hoan Hỉ Hạnh, Bồ Tát Nguyệt Quang Vương, và vô lượng các Bồ Tát khác. Khi đại Bồ Tát bố thí mắt, thì khởi tâm thí nhãn thanh tịnh. Khởi tâm trí nhãn thanh tịnh. Khởi tâm y chỉ pháp quang minh. Khởi tâm hiện quán vô thượng Phật đạo. Phát tâm hồi hướng trí huệ rộng lớn. Phát tâm xả thí bình đẳng với Bồ Tát ba đời. Phát tâm nơi vô ngại nhãn khởi niềm tin thanh tịnh bất hoại. Ðối với người xin, khởi tâm hoan hỉ nhiếp thọ.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, hiện tại Ngài lại đem con mắt của mình, bố thí cho người đến xin mắt. Như Bồ Tát Hoan Hỉ Hạnh, Bồ Tát Nguyệt Quang Vương, cùng với vô lượng các Bồ Tát khác, đều đã từng bố thí con mắt của các Ngài. Vị đại Bồ Tát nầy, khi Ngài bố thí con mắt, tâm của Ngài rất thanh tịnh, chẳng có chút tâm tạp nhiễm nào, chân tâm thành ý đem con mắt của Ngài bố thí cho người đến xin. Có người có con mắt phóng quang, có thể nhìn sự vật rất xa, đó là nguyên nhân thuở xưa đã từng bố thí con mắt. Có người tuy nhiên có con mắt, nhưng chẳng nhìn thấy sự vật, đó là trong quá khứ không có công đức bố thí con mắt. Nói như vậy, tôi nghĩ rằng sẽ dẫn khởi nghi vấn của các bạn, cho rằng chẳng bố thí con mắt cho người khác, thì đương nhiên phải có con mắt tốt, còn đem con mắt bố thí cho người, thì mới chẳng còn con mắt. Lối nói nầy là sự thấy nông cạn của thế tục, nhưng đi ngược lại trong luật nhân quả. Bố thí là xả bỏ, bạn càng xả bỏ cho người khác, thì bạn càng có, xả bỏ càng nhiều thì quả báo phước đức càng lớn. Trong Kinh Ðịa Tạng có nói:

“Xả một được vạn báo”.

Trong xã hội có rất nhiều người có tiền, mà họ chẳng xả bỏ được cho những kẻ nghèo, thà lãng phí vật chất, để cá nhân hưởng thụ năm dục. Các bạn hãy nhìn xem những người bần cùng khốn khổ cô nhi, quần áo chẳng có mặt ấm thân, cơm chẳng no bụng, họ là những người kém phước đức. Cho nên chúng ta đừng sợ bố thí cho họ, thì mình chẳng còn nữa. Khi Bồ Tát bố thí con mắt, thì Ngài sinh khởi tâm trí huệ thanh tịnh, hy vọng con mắt Ngài bố thí, trở thành mắt trí thanh tịnh của người xin. Ngài lại nghĩ đến công đức bố thí con mắt, hồi hướng cho pháp giới chúng sinh, hy vọng họ đều phát tâm trí huệ rộng lớn. Lại phát tâm bình đẳng đồng với các Bồ Tát ba đời mà bố thí. Lại phát tâm con mắt chẳng thọ tất cả sự chướng ngại, mắt từ bi bình đẳng quán sát tất cả chúng sinh, đều như quyến thuộc chí thân. Tâm tin thanh tịnh kiên cố, đối với chân lý Phật pháp thông đạt vô ngại, chẳng có tơ hào nghi hoặc, chẳng bị dị luận phá hoại. Ðối với người xin con mắt của Ngài, thì sinh tâm đại hoan hỉ, và còn nhiếp thọ chúng sinh có pháp duyên, giáo hoá họ, phát tâm bồ đề viên mãn.

Vì rốt ráo tất cả thần thông. Vì sinh Phật nhãn. Vì tăng trưởng tâm đại bồ đề. Vì tu tập đại từ bi. Vì chế phục sáu căn. Do các pháp như vậy mà sinh tâm như thế.

Tại sao Bồ Tát muốn làm công đức bố thí con mắt ? Vì hy vọng đắc được tất cả thần thông chân chánh, mà hành công đức bố thí đặc biệt khó xả mà xả được. Kỳ thật sức thần thông chỉ cần nhận chân tu hạnh thanh tịnh, công phu tu đến trình độ viên mãn, thì tự nhiên sẽ cảm mà toại thông. Lại vì muốn thành Phật đạo, sẽ khai mở Phật nhãn. Quang minh của Phật nhãn, giống như ánh sáng của một ngàn mặt trời, nó có thể chiếu khắp pháp giới. Cổ nhân có bài kệ rằng:

“Thiên nhãn thông phi ngại,
Nhục nhãn ngại phi thông,
Pháp nhãn duy quán tục,
Huệ nhãn liễu chân không,
Phật nhãn như thiên nhật,
Chiếu dị thể hoàn đồng”.

“Thiên nhãn thông phi ngại”: Người có thiên nhãn thông, thì họ có thể thấy mọi sự sinh hoạt ở trên trời, năm quang mười sắc, tất cả đều ở trong con mắt; dưới thì thấy đủ thứ sinh hoạt của tất cả chúng sinh, nhỏ bé đều nhìn thấy hết; dưới lòng đất khoảng mười thướt, tất cả bảo tàng cũng đều nhìn thấy rõ ràng; nhưng không thể khởi tâm tham tuỳ ý lấy làm của mình, một khi khởi tâm tham thì thiên nhãn vĩnh viễn chẳng sáng trở lại nữa.

“Nhục nhãn ngại phi thông”. Nhục nhãn của phàm phu, chỉ nhìn thấy sự vật ở trước, cách tường chẳng nhìn thấy, càng không nhìn thấy sự vật có vật chướng ngại ngăn che. Song, nhục nhãn ở đây, có thể thấy được sự vật có vật chướng ngại ngăn che, có thể nhìn thấy người, thấy quỷ, thấy thần, thấy Phật.

“Pháp nhãn duy quán tục”. Pháp nhãn thì nhìn thấy thật tướng của tất cả các pháp, nhưng chẳng phải thuộc về tục đế; bất quá pháp nhãn cũng có thể nhìn thấy sự vật mà phàm phu nhìn chẳng thấy, giống như chúng ta tụng Kinh, mắt phải nhìn vào quyển Kinh, từng chữ từng câu từng hàng mà đọc từ từ. Nếu như tu hành được pháp nhãn thanh tịnh, thì tận hư không khắp pháp giới đều là Kinh điển, tuỳ ý bạn hoan hỉ, thích Kinh gì đều có cả, mà còn nhìn nhanh gấp hơn trăm lần phàm phu, đối với ý nghĩa Kinh điển, cũng đều thấu rõ minh bạch.

“Huệ nhãn liễu chân không”. Huệ nhãn thấu rõ được đạo lý chân không, chân đế về chân không chẳng không, diệu hữu phi hữu. “Phật nhãn như thiên nhựt”. Ánh sáng của Phật nhãn giống như ngàn mặt trời chiếu soi, chiếu khắp mười phương pháp giới, hết thảy tất cả đều thấy rõ như trong lòng bàn tay.

Phàm phu bề ngoài nhìn chỉ thấy có hai con mắt thịt, kỳ thật mỗi người đều có năm thứ con mắt (ngũ nhãn), nhưng vì không tu hành, tham trước năm dục, đời sống thân tâm đều chẳng thanh tịnh, cho đến mắt thịt càng ngày càng yếu đi, thì làm gì nói đến chuyện khai mở ngũ nhãn. Dù bậc Thánh nhân đã khai mở thiên nhãn, nhục nhãn, pháp nhãn, huệ nhãn, Ngài cũng chẳng xử dụng thường xuyên, mà là khéo quán cơ duyên, khi nào cần dùng thì mới dùng, càng không thể sinh tâm cống cao tự mãn, như thế thì sẽ mất đi tác dụng. Bất quá bậc Thánh nhân chân chánh chứng quả, Ngài cũng tuyệt đối chẳng phạm mao bệnh ấu trĩ đó. Khi công đức tu hành và công phu đạt đến tứ quả A La Hán, thì họ sẽ thành tựu tam minh và ngũ thông, sẽ chẳng thối thất. Tam minh bao quát thiên nhãn minh.

Bồ Tát vì tăng trưởng tâm bồ đề rộng lớn của Ngài, cho nên phải tu công đức bố thí mắt. Có rất nhiều người tại sao khi tu hành thì thối tâm giữa đường ? Là vì đạo tâm của họ chẳng vững chắc, tâm bồ đề chẳng tăng trưởng, không thể rộng lớn, khi thọ cảnh nghịch thì thối tâm; nhất là người xuất gia thường thường bị cảnh giới năm dục dẫn dụ, chẳng qua được cửa ải ma dục. Hy vọng bốn chúng đệ tử tu học Phật đạo, mọi người tuỳ thời phải tăng trưởng tâm bồ đề của mình.

Bồ Tát lại vì tu tập tâm đại từ đại bi, cho nên hành công đức bố thí mắt. Các vị thiện tín ! Nếu mỗi người đều có tâm từ bi, còn có nhìn sự việc không đúng của chúng sinh chăng ? Còn có thể cảm thấy người khác không thuận mắt chăng ? Hoan hỉ ai, chán ghét ai, ai thiện ai ác, sinh những tâm phân biệt nầy chăng ? Sự việc trên thế gian, lập trường của mỗi người đều khác nhau, tư tưởng đều khác nhau, do đó ý kiến mỗi cá nhân, hình thành thị phi đối lập tranh chấp, đối nghịch, phỉ báng, tiến thêm nữa diễn ra cảnh chảy máu chém giết, đó đều là do chẳng có tâm từ bi, chẳng có lòng dung thứ, vì ngã kiến quá sâu, tâm sân quá nặng. Nếu như ai ai cũng đều có tâm lượng rộng lớn như hư không khắp pháp giới, thì còn có lỗi lầm tranh chấp tôi đúng bạn sai chăng ? Tôi thường thường nói với các bạn: Nhà xí là nơi dơ bẩn nhất, nhưng trên thế giới có phải không cần nhà xí chăng ? Tôi muốn mọi người đều biết là không thể nào được. Bất luận là người giàu nghèo sang hèn, đều muốn ăn thức ăn ngon, nhưng ăn vào trong bụng rồi, trải qua sự tiêu hoá, thải ra chẳng muốn nhìn, vật rất là thối. Lúc đó, nếu bạn chẳng dùng nhà xí để chuyển vận, thì còn dùng phương pháp gì để giải quyết ? Rắn độc thú dữ thì hại người, nhưng ông trời có đức háo sinh, bạn có thể trừ diệt sạch hết chúng chăng ? Cho nên chúng ta đừng có nhìn người khác không đúng, đừng có nhìn nhất cử nhất động chỗ không tốt của người khác, phải dưỡng thành tâm dung thứ người khác, nhất là người xuất gia tu đạo, càng phải có tâm từ bi, tha thứ cho người, người tốt kẻ xấu đều đối đãi như nhau, dùng tâm từ bi để cảm hoá kẻ ác, kẻ ác mới là đối tượng giáo hoá của chúng ta, tu tập căn lành công đức, thì tại người ác thấy có công hiệu nhất. Nhất là không thể thấy người có lỗi lầm thì bỏ họ, kẻ khác chẳng bằng tâm ý của ta thì bài bác họ, như thế là dưỡng lớn tâm sân hận, tự giam bớt mầm bồ đề.

Tôi có mấy câu rất thiển cạn, cũng có thể nói là châm ngôn xử sự làm người của tôi, nói ra cho các vị nghe. Nếu các bạn cảm thấy đúng, thì đừng ngại thực hành theo; nếu các bạn cho rằng không hợp ý, thì bạn cũng có thể lập ra tiêu chuẩn càng tốt.

“Sự sự đô hảo khứ”. Nghĩa là mọi việc đều trôi qua tốt đẹp: Việc gì cũng đều chẳng có.

“Phiền não nan đoạn liễu”. Nghĩa là phiền não khó dứt hết, chỉ có phiền não khó đoạn dứt sạch nhất.

“Chân năng bất sinh khí”. Nghĩa là thật không sinh nóng giận, nếu bạn thật không nóng giận với kẻ khác.

“Tựu đắc vô giá bảo”. Nghĩa là sẽ được báu vô giá, Không nóng giận là báu vô giá. Không màng cảnh giới gì, thiện ác tốt xấu, thậm chí gặp người đánh chưởi, đều không nóng giận, cảnh nghịch đến thuận mà thọ nhận, tu công phu nhẫn nhục, như thế chẳng đợi đắc được báu vô giá, bèn trở thành đại phú ông giàu có nhất trong nước.

“Tái yếu bất oán nhân”. Nghĩa là lại chẳng thù oán người, tiến thêm một bước nữa chẳng oán trời trách người.

“Vạn sự đô năng hảo”. Nghĩa là mọi việc thảy đều tốt, lúc đó tâm cảnh của bạn rộng lớn thái nhiên, mọi việc đều cảm thấy thuận tâm như ý.

“Phiền não vĩnh bất sinh”. Nghĩa là phiền não vĩnh viễn không sinh, Mọi việc đều như ý, thì làm gì còn có phiền não sinh ra ?

“Sân hận tiêu trừ liễu”. Nghĩa là sân hận đã tiêu trừ, vì tâm lượng rộng lớn, hay dung thứ người, nhường cho người, thì tâm sân hận vốn chẳng có chỗ nào sinh ra, như vậy thì tự nhiên sẽ tiêu trừ sạch hết không còn.

“Oan nghiệp tùng na trảo”. Nghĩa là oan nghiệp tìm chỗ nào? Bạn không sân hận kẻ khác, lại không đố kị người khác, khắp nơi đều hoà khí, đi đến đâu thì nơi đó đều mát mẻ yên bình, ai ai cũng đều mến bạn, gần gũi bạn, thì còn có oan gia đối đầu chăng ?

“Thường sầu nhân bất đối”. Nghĩa là còn lo người không đúng, bạn cảm thấy người nầy cũng không đúng, người kia cũng không thuận mắt, chuyên môn vạch lông tìm vết, tâm đầy oán khí, cái nầy không đúng cái kia không đúng.

“Na thị khổ một liễu”. Nghĩa là, như vậy khổ chưa hết, trái cũng không đúng, phải cũng không đúng, lúc nào cũng phiền não, chuyện gì cũng nổi giận, đó chẳng phải tự mình tìm chuốt lấy cái khổ chăng, ai có thể thay thế được !

Bồ Tát đại từ đại bi, Ngài đói với chúng sinh chưa từng mong cầu gì. Chúng sinh tốt, Ngài phát tâm hoan hỉ; chúng sinh có lỗi lầm, Ngài phát tâm thương sót, lấy lỗi lầm của chúng sinh làm lỗi lầm của mình, cho nên nói chư Phật Bồ Tát chẳng thấy lỗi chúng sinh. Bồ Tát lại lại vì hàng phục sáu căn-mắt tai mũi lưỡi thân ý sáu căn, chẳng để cho sáu căn bị năm dục làm nhiễm ô, thâm tâm kiên cố chẳng bị sáu căn sáu trần làm giao động, chẳng bị sáu trần mê hoặc. Khiến cho sáu căn lìa khỏi dòng sáu trần của phàm phu, nhập vào dòng pháp tính của Thánh nhân. Thực hành công đùc bố thí mắt tức là vì hàng phục sáu căn. Căn cứ vào các pháp nói ở trên, mà sinh tâm học pháp tu đạo.

Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí mắt, thì đối với người xin đó, tâm sinh vui thích, thiết bày hội bố thí, tăng trưởng sức lực của pháp, xả lìa sự ưa thấy phóng dật của thế gian, dứt trừ sự ràng buộc của dục vọng, tu tập bồ đề. Tuỳ theo chỗ họ mong cầu, tâm an chẳng động, chẳng trái với ý của họ, đều khiến cho họ được mãn nguyện đầy đủ, mà thường tuỳ thuận hạnh xả không hai. Ðem căn lành đó hồi hướng như vầy: 

Nguyện cho tất cả chúng sinh được mắt tối thắng, chỉ bày tất cả. Nguyện cho tất cả chúng sinh được mắt vô ngại, khai diễn trí tạng. Nguyện cho tất cả chúng sinh được nhục nhãn thanh tịnh, quang minh soi thấu, chẳng có gì chướng ngại được. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thiên nhãn thanh tịnh, đều thấy nghiệp quả sinh tử của chúng sinh.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, khi Ngài bố thí mắt thì đói với người xin con mắt, trong tâm sinh khởi sự vui thích vô hạn, mà còn vì người đó mà thiết lập pháp hội bố thí lớn, vì chúng sinh mà làm tăng trưởng sức tự tin của họ thâm sâu đối với Phật pháp. Khiến cho chúng sinh thấu hiểu xả lìa tham ái ô nhiễm của thế gian, và tất cả tà tri tà kiến trên thế gian, và đoạn tuyệt trừ sạch những hành vi phóng đãng bất chánh đáng đó, cùng với những sự ràng buộc tham dục, để tu học căn lành bồ đề giác đạo. Bồ Tát ở trong hội bố thí, đề ra những yêu cầu của họ, trong tâm của Ngài chẳng có sự xẻn tiếc, cũng chẳng tính toán do dự, tâm bình khí hoà an nhiên chẳng động, hoan hỉ vui mừng, chẳng trái với tâm nguyện của chúng sinh, khiến cho ai nấy đều mãn nguyện. Bồ Tát bố thí chẳng phải ngẫu nhiên mà làm, Ngài thường tuỳ thuận chúng sinh, dùng hành trì thí xả làm pháp môn không hai tu hành của Ngài. Bồ Tát đem căn lành bố thí tích tụ, đối với chúng sinh hồi hướng như vầy: Ngài nói tôi nguyện cho tất cả chúng sinh-bao quát thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hoá sinh, có tưởng, không tưởng, có sắc, không sắc, chẳng có tưởng, chẳng không tưởng, chẳng có sắc, chẳng không sắc .v.v… Tất cả chúng sinh, hy vọng họ đều đắc được mắt thù thắng quang minh chiếu soi, có thể chỉ bày, hướng dẫn chúng sinh chánh quyết rõ ràng, đi trên con đường chân chánh quang minh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được mắt không bị bất cứ vật gì chướng ngại, có thể khai diễn bảo tạng trí huệ rộng lớn. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được nhục nhãn thanh tịnh, tuy nói là nhục nhãn, nhưng rất là thanh tịnh nhìn thấy tất cả, bất luận gần xa to nhỏ, đều thấy rõ ràng, con mắt quang minh, chẳng bị bất cứ vật gì bên ngoài ngăn che được. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được thiên nhãn thanh tịnh, có thể quán thấy ở trên trời, quán thấy tiền nhân hậu quả luân chuyển sinh tử của tất cả chúng sinh trên thế gian, cùng với sự tích tạo nghiệp thọ báo của tất cả chúng sinh trong vô lượng kiếp, đều nhìn thấy rất rõ ràng.

Nguyện cho tất cả chúng sinh được pháp nhãn thanh tịnh, có thể tuỳ thuận nhập vào cảnh giới của Như Lai. Nguyện cho tất cả chúng sinh được mắt trí huệ, xả lìa tất cả phân biệt thủ lấy chấp trước. Nguyện cho tất cả chúng sinh đầy đủ Phật nhãn, thảy đều giác ngộ tất cả các pháp. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu phổ nhãn, khắp hết các cảnh giới chẳng có chướng ngại. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu mắt thanh tịnh lìa màng ngu si, thấu rõ cõi chúng sinh, vốn là không, chẳng chỗ có. Nguyện cho tất cả chúng sinh đầy đủ mắt thanh tịnh không chướng ngại, đều được rốt ráo mười lực của Như Lai. 

Ðó là hồi hướng căn lành bố thí mắt của đại Bồ Tát. Vì khiến cho chúng sinh được mắt thanh tịnh nhất thiết trí.

Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được pháp nhãn thanh tịnh, có thể chiếu rõ thật tướng của tất cả các pháp, thông đạt chân lý thật tướng của các pháp, hay tuỳ thuận chân lý tu hành nhập vào cảnh giới của Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được mắt đại trí huệ, đối với tất cả sự lý trên thế gian, đều biết rất rõ ràng, chẳng khởi tư tưởng phân biệt, cũng chẳng thủ lấy chấp trước sinh vọng tưởng. Sở dĩ người đời thủ lấy chấp trước, là vì họ chẳng có huệ nhãn, chỉ có ngu si chấp cái ta. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được đầy đủ Phật nhãn, đều có thể giác ngộ thể tính của các pháp như huyễn như hoá. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh có thể thành tựu phổ nhãn, xa lìa ngu si, như cắt trừ màng bệnh trong con mắt, từ đó quang minh vô ngại. Ðắc được mắt sáng có đại trí huệ, thấu đạt cõi chúng sinh vốn là không, chẳng chỗ có. Vì chúng sinh chấp trước, mà có cõi chúng sinh, hiện tại phá trừ rồi sự chấp trước nầy, thì như lìa khỏi màng ngu si. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh tu hạnh thanh tịnh, thì có thể đắc được mắt đầy đủ chẳng có chướng ngại, đều có thể đắc được mười thứ lực chân thật không thể nghĩ bàn của Như Lai. Ðó là hồi hướng căn lành bố thí mắt của đại Bồ Tát, kỳ thật là vì khiến cho chúng sinh, đều đắc được mắt nhất thiết trí huệ thanh tịnh.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát hay đem tai mũi bố thí cho những người xin. Như Bồ Tát Thắng Hạnh Vương. Bồ Tát Vô Oán Thắng, và vô lượng các Bồ Tát khác. Khi bố thí, tự mình đưa cho người xin. Chuyên tâm tu tập các hạnh của Bồ Tát. Đủ giống tánh Phật. Sinh vào nhà Như Lai. Nhớ nghĩ hạnh bố thí của các Bồ Tát. Thường siêng phát khởi bồ đề của chư Phật. Thanh tịnh các căn công đức trí huệ. Quán sát ba cõi, chẳng có cõi nào bền vững. Nguyện thường thấy được chư Phật Bồ Tát. Tuỳ thuận nghĩ nhớ tất cả Phật pháp, biết thân là hư vọng, vốn không chẳng chỗ có, chẳng có tham tiếc.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài đem tai mũi của mình bố thí cho những người đến cầu xin. Ðây là việc người khó làm, mà Bồ Tát làm được. Dùng tâm bi và nguyện lực của Ngài, tinh thần xả bỏ đại ngã của mình vì chúng sinh, cho nên trong tâm vắng lặng của Ngài là như như chẳng động, chẳng sinh tâm thống khổ thương tiếc. Từ vô thuỷ đến nay, người tu hạnh bồ đề, tu Bồ Tát hạnh, hành Bồ Tát đạo, rất là tự nhiên sinh tâm như vậy, làm bố thí như vậy. Như có Bồ Tát Thắng Hạnh Vương tu hành công đức thù thắng. Bồ Tát Vô Oán Thắng đối với bất cứ người nào cũng đều chẳng sinh tâm oán hận, và vô lượng vô số các đại Bồ Tát khác, các Ngài đều chẳng tiếc thân thể của mình, bố thí cho những người đến cầu xin đáng thương. Khi bố thí, tâm an lý đắc hoà nhan duyệt sắc, thân tự đem vật bố thí dâng lên cho người xin. Hành vi như vậy của Bồ Tát chẳng phải mong cầu tiếng tăm lợi dưỡng, Ngài chỉ chuyên tâm tu tập hạnh môn mà tất cả Bồ Tát phải tu. Ðầy đủ giống tánh của Phật, mà sinh vào nhà của Phật, đạt được quả vị Phật. Nghĩ nhớ hạnh môn tu bố thí của các Bồ Tát. Thường siêng tinh tấn, phát tâm đại từ bì như chư Phật đã phát, vì tâm từ bi mà sinh ra tâm đại bồ đề. Luôn giữ giới thanh tịnh, ba nghiệp thanh tịnh, khiến cho các căn thanh tịnh, tích tập công đức thanh tịnh, sinh đại trí huệ. Quán sát ba cõi-cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, chẳng có gì chân thật, chẳng có sự vật gì vĩnh viễn tồn tại. Người tu học Phật đạo, có cái nhìn đối với ba cõi, phải thường biết cảnh giác, có tư tưởng xuất thế: “Ba cõi không an, giống như nhà lửa”. Hy vọng thường thấy được chư Phật Bồ Tát, thì phải luôn luôn tuỳ thuận pháp của chư Phật nói, biết rõ các pháp không tướng, thấy pháp như thấy Phật. Người tu học Phật đạo, tuyệt đối không thể chấp trước cái nhục thân nầy, phải biết thân thể nầy vốn là do bốn đại giả hoà hợp mà thành, hư vọng chẳng có chủ. Một khi đến thời kỳ, thì bốn đại đều trở về bản thể của nó, tất cả đều huyễn diệt chẳng chỗ có, lại có gì có thể tham luyến thương tiếc ?

Khi Bồ Tát bố thí tai mũi như vậy, tâm thường vắng lặng, điều phục các căn, cứu giúp chúng sinh, thoát khỏi hiểm ác các hoạn nạn, sinh trưởng nhất thiết trí huệ công đức. Nhập vào biển đại bố thí, thấu đạt nghĩa của pháp, tu đủ các đạo. Nương trí huệ hành, được pháp tự tại, dùng thân không kiên cố, tu thành thân kiên cố.

Khi Bồ Tát bố thí tai mũi, thì tâm của Ngài rất vắng lặng an nhiên, sáu căn của Ngài cũng rất điều thuận, chẳng có chút nào chẳng tự tại, Bồ Tát thấy được chúng sinh gặp nguy hiểm và hoạn nạn, Ngài chẳng từ mạo hiểm để cứu tế chúng sinh thoát khỏi khổ nạn. Do đó, mà sinh trưởng nhất thiết trí huệ, phương tiện khéo léo giáo hoá chúng sinh, tích tụ vô lượng căn lành công đức. Thực hành hạnh đại bố thí khó làm mà làm được như thế, như nhập vào trong biển đại bố thí, thấu rõ thông đạt đạo lý thật tướng của tất cả các pháp. Hết thảy nghĩa lý pháp môn, Ngài thảy đều tu tập viên mãn đầy đủ. Nương theo pháp môn Bát Nhã tu chứng, hành Bồ Tát đạo cứu độ giáo hoá chúng sinh trầm mê, nhậm vận tự tại, vì Ngài đã minh bạch tất cả các pháp, thấu hiểu tất cả các pháp, lại hay vận dụng phương tiện khéo léo tất cả các pháp, đắc được công dụng tự tại của pháp. Tuy Ngài bố thí tai mũi của mình cho người, nhưng Ngài đắc được thiên nhãn thiên nhĩ thiên tĩ, đó là dùng nhục thân chẳng kiên cố, tu thành thân kim cang kiên cố bất hoại.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát, khi Ngài bố thí tai, đem các căn lành hồi hướng như vầy: 

Nguyện cho tất cả chúng sinh được tai vô ngại, nghe khắp tất cả tiếng nói pháp. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tai không chướng, thảy đều hiểu rõ tất cả âm thanh. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tai Như Lai, thông đạt tất cả không bị trì trệ. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tai thanh tịnh, chẳng vì lỗ tai mà sinh tâm phân biệt. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tai không điếc lãng, khiến cho rốt ráo không có sự nghe sai mờ. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tai khắp pháp giới, đều biết pháp âm của tất cả chư Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tai vô ngại, khai ngộ tất cả pháp không chướng ngại. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tai không hoại, khéo biết các luận không ai huỷ hoại được. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tai nghe khắp, rộng lớn thanh tịnh làm vua các tai. Nguyện cho tất cả chúng sinh đầy đủ thiên nhĩ, cùng với tai Phật. 
Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí tai, vì khiến cho chúng sinh đều đắc được tai thanh tịnh.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, khi Ngài bố thí tai, đem các căn lành của Ngài tu tập, hồi hướng như vầy: Tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, đều được tai không có chướng ngại, nghe khắp âm thanh của mười phương chư Phật thuyết pháp. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được tai không chướng, đối với tất cả âm thanh không gian, đều phân biệt thấu hiểu được. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được tai của Như Lai, bất cứ sự lý gì, khi nghe được liền minh bạch, lỗ tai đặc biệt thông minh, chẳng có hiện tượng gì trì trệ được. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được tai rất thanh tịnh, chẳng vì thọ thanh trần mà sinh tâm ô nhiễm và phân biệt. Tâm Bồ Tát thường thanh tịnh vắng lặng, Ngài tuyệt đối chẳng bị lời lẽ tà kiến dụ hoặc, cho nên Ngài bố thí tai cho chúng sinh, cũng hy vọng chúng sinh đều đắc được tai thanh tịnh, sinh tâm thanh tịnh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được tai không điếc lãng, sinh ra tai chẳng bị điếc, sau này cũng chẳng bị nạn lãng tai. Nghe sai mờ-tâm ý hồ đồ, thấy việc chẳng rõ ràng, giống như nghe mà chẳng nghe, có mắt mà chẳng thấy. Hy vọng chúng sinh vĩnh viễn đều chẳng sinh tâm thức mù mờ chẳng rõ ràng như thế. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được căn tai đặc biệc thông minh, nghe được pháp âm của chư Phật thuyết pháp trong khắp pháp giới, một khi pháp âm lọt vào lỗ tai, thì đều thấu hiểu. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được căn tai chẳng bị chướng ngại, nghe được pháp của chư Phật nói, lập tức khai ngộ, thông đạt vô ngại. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được tai không hoại, khéo nghe được đủ thứ nghị luận, dù có nghe được dị luận ngoại đạo, cũng chẳng tổn hoại căn tai thanh tịnh của Ngài.

Trong Kinh Pháp Hoa Phật đã từng nói: “… Trong ba ngàn đại thiên thế giới, hết thảy tất cả các thứ tiếng, tuy chưa được thiên nhĩ, dùng tai thường thanh tịnh của cha mẹ sinh ra, thảy đều nghe biết. Như vậy phân biệt đủ thứ âm thanh, mà chẳng hoại căn tai”. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được tai nghe khắp tiếng trong ba ngàn đại thiên thế giới, rộng lớn thanh tịnh, làm vua tai trong tất cả chúng sinh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được đầy đủ căn lành, đắc được thiên nhĩ, bất cứ xa bao nhiêu, trên đến cõi trời Hữu Ðỉnh, dưới đến địa ngục Vô Gián, tất cả âm thanh thảy đều nghe được hết. Ðắc được tai giống như Phật, tai của Phật là viên dung vô ngại, tận hư không khắp pháp giới, chẳng có một thứ âm thanh nào mà chẳng nghe được.

Những lời nguyện ở trên, là của đại Bồ Tát hồi hướng căn lành khi Ngài bố thí tai. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được tai thanh tịnh, nghe khắp pháp âm vô thượng của chư Phật nói.

Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí mũi, hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được mũi cao thẳng. Được mũi tốt đẹp. Được tướng mũi thiện. Được mũi đáng ưa thích. Được mũi tịnh diệu. Được mũi tuỳ thuận. Được mũi cao hiển. Được mũi phục oán. Được mũi khéo thấy. Được mũi Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát bố thí mắt tai rồi, tiếp theo lại bố thí mũi. Khi bố thí mũi, Ngài hồi hướng như vầy: Ngài nói: Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đắc được mũi cao thẳng. Ðắc được mũi tốt đẹp: Mũi và các khí quan khác, phối hợp rất tương xứng, không lớn, không nhỏ, không cao, không thấp. Ðược tướng mũi thiện: Vì lỗ mũi sinh ra rất đẹp, khiến cho tướng mặt đều hiển lộ ra rất thiện lương, khiến cho người nhìn thấy vẻ bên ngoài thuận mắt, sinh tâm hoan hỉ. Ðược mũi đáng ưa thích: Lỗ mũi sinh ra rất đoan chánh đồng đều, khiến cho người thấy được vừa hoan hỉ lại tôn kính, sự ưa thích đó là thanh tịnh, tâm lý rất cung kính. Ðược mũi tịnh diệu: Hình sắc bên ngoài lỗ mũi nhuần nhã, hình dáng lỗ mũi cũng rất tốt đẹp, thần kinh khứu giác của lỗ mũi cũng đặc biệc linh mẫn. Ðược mũi tuỳ thuận: Trong vô hình lỗ mũi có một sức lực hấp dẫn, người tu đạo sinh ra được mũi tuỳ thuận, đối với việc hoằng pháp lợi sinh có sự trợ giúp rất lớn. Tất cả chúng sinh thấy được vị pháp sư nầy, thị họ sẽ rất muốn theo vị thầy đó tu học Phật pháp, và còn rất nghe lời chỉ dạy. Ðược mũi cao hiển: Hình lỗ mũi nầy tục ngữ có nói là mũi huyền đảm, mũi cao và thẳng, mũi tướng thiện, tổng hợp ưu điểm của mũi khéo thấy, trở thành như mũi của Phật. Lỗ mũi là một bộ phận quan trọng ở trên mặt của con người, là chủ của ngũ quan. Con người ở trong thai mẹ, lỗ mũi cũng thọ hình trước. Tướng mũi sinh ra có thể tượng trưng cho tính cách của một con người-trung, gian, thành, trá, cũng có thể hiển bày ra vận mệnh giàu nghèo sang hèn. Người xuất gia tuy không coi trọng về tướng mạng, nhưng tướng tốt trang nghiêm, phẩm đức học thức ưu lương, vẫn rất quan trọng. Tướng tốt là đời trước tu tập phước báu, là bên ngoài, vô thường, cho nên cần phải dụng công trên phẩm đức. Phẩm đức là bên trong, ngày ngày tăng trưởng, càng lâu càng bền vững.

Nhục thân chúng ta phải có tướng tốt trang nghiêm, phẩm đức trang nghiêm pháp thân vô hình. Người xuất gia tuỳ thời chú ý vun bồi pháp thân, ngàn vạn đừng lầm lẫn dùng hết tướng tốt đời trước tu được, cũng đừng cô phụ lợi ích của Bồ Tát hồi hướng cho chúng ta. Ðược mũi phục oán: Thứ lỗ mũi nầy trong vô hình nó có một khí chất oai nghiêm, không nộ mà oai, khiến cho người một khi thấy được tự nhiên sinh tâm kính sợ. Ðầy dẫy oán cừu, thấy mặt thì trong vô hình tiêu tan mất. Người có đức hạnh, chẳng phải tại địa vị tuổi tác, họ nói năng im lặng hành động, tự nhiên chảy ra phẩm cách khiến cho người kính sợ, sự kính sợ nầy chẳng phải là sợ hãi, sợ hãi thì khiến cho người xa lìa họ; mà là khiến cho người cung kính. Người xuất gia phải có sự tu dưỡng, vun bồi khí chất không nộ mà oai. Ðược mũi khéo thấy: Vì lỗ mũi sinh ra rất đoan chánh, ngũ quan tương xứng, hiển lộ từ tường đầy sắc mặt, khiến cho người thấy được sinh tâm hoan hỉ, cũng sinh thiện niệm chánh kiến. Ðược mũi Như Lai: Ngũ quan của Phật viên mãn như vậy, ưu điểm lỗ mũi của Ngài là trên đời chẳng có thể ví dụ được. Bồ Tát hy vọng chúng sinh cũng sinh ra có lỗ mũi như thế. Tóm lại, Bồ Tát tâm bi tha thiết, mong muốn mỗi chúng sinh đều viên mãn, thậm chí còn vượt hơn chính Ngài nữa, lúc đó Ngài mới yên tâm chứng quả Phật vào Niết Bàn, bằng không Ngài sẽ vĩnh viễn theo chúng sinh thọ khổ !

Nguyện cho tất cả chúng sinh được khuôn mặt lìa nét giận hờn. Ðược khuôn mặt tất cả pháp. Ðược khuôn mặt không chướng ngại. Ðược khuôn mặt thiện kiến. Ðược khuôn mặt tuỳ thuận. Ðược khuôn mặt thanh tịnh. Ðược khuôn mặt lìa lỗi lầm. Ðược khuôn mặt viên mãn của Như Lai. Ðược khuôn mặt khắp tất cả mọi nơi. Ðược khuôn mặt vô lượng tốt đẹp. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí mũi.

Bồ Tát bố thí mắt tai mũi rồi, lại đem căn lành tu tập hồi hướng cho chúng sinh: Hiện tại Ngài lại cứ nghĩ đến ngũ quan tốt đẹp, nếu chẳng có một khuôn mặt đẹp, thì đó chẳng phải là thiếu sót một cái gì lớn lao trong cái đẹp chăng ? Cho nên Bồ Tát lại phát nguyện, nguyện cho tất cả chúng sinh được lìa khuôn mặt giận hờn; giận hờn là khí phẫn uất trong tâm, biểu hiện ở trên mặt, khiến cho người thấy phát sợ. Bồ Tát nguyện cho chúng sinh đừng có khuôn mặt hung ác, mà đắc được khuôn mặt từ bi. Khuôn mặt tất cả pháp: Tức giống như khuôn mặt của Bồ Tát, nhìn được khuôn mặt nầy, thì tự nhiên sẽ minh bạch tất cả các pháp, sùng kính tất cả các pháp. Khuôn mặt không chướng ngại: Khiến cho người một khi thấy được bèn sinh tâm thuận lợi, tâm hoan hỉ. Khuôn mặt khéo thấy: Khuôn mặt thiện lượng chánh trực. Khuôn mặt tuỳ thuận: Người tâm tính khiêm hoà, thì khuôn mặt của họ biểu hiện rất tuỳ hoà, chẳng cố chấp, ở đâu cũng khiến cho mọi người vừa ý, cho nên người khác cũng nghe họ chỉ dạy. Khuôn mặt thanh tịnh: Khuôn mặt thanh tịnh có hai điểm đặc trưng: Một là biểu hiện bên ngoài thanh tịnh, sắc da bên ngoài nhoẵn bóng sạch sẽ, chẳng có bệnh hoạn gì hết, mặt mày sáng sủa như trăng rằm, thường hiện ra dáng vui vẻ tươi cười; riêng về phương diện khác, phàm là người có tướng mặt hoà mục nầy, thì nhất định là vị quân tử có tâm thanh tịnh, phẩm đức thanh cao. Nếu là người xuất gia tu đạo, nhìn thì biết vị đó là cao Tăng đắc đạo, công phu thiền định đã đến lư hoả trừng thanh, phương diện ba nghiệp tuyệt đối xa lìa tạp nhiễm, vì tướng theo tâm chuyển. Khuôn mặt lìa lỗi lầm: Người ba nghiệp thanh tịnh, thì xa lìa tất cả lỗi lầm, tâm của họ bình dị, cho nên sắc mặt của họ tự nhiên, thường hiện ra biểu hiện hân hoan vui vẻ, như thường gần gũi người tốt nầy, thì sẽ được đồng hoá họ, cũng sẽ lìa khỏi lỗi lầm, làm người thiện lương thanh bạch. Ðược khuôn mặt viên mãn của Như Lai: Khuôn mặt của Như Lai, chẳng phải văn tự có thể hình dung được, các vị có thể đến chùa vào chánh điện, bất cứ góc độ nào, bạn từ từ chiêm ngưỡng tướng vị Phật lớn chính giữa, dùng tâm thanh tịnh, tâm tôn trọng, tâm cung kính nhìn tướng của Phật, tâm thần lãnh hội, thì bạn sẽ thể hội được tướng mạo của Phật viên mãn như thế nào. Khi bạn tiếp xúc đến thần quang của diện mạo Phật, thì thân tâm thanh tịnh hân hoan vui vẻ, quên hết tất cả phiền não và tội nghiệp của thế gian. Sức cảm chiêu nầy, là Phật đã viên mãn lục độ vạn hạnh trong quá khứ, tích tụ căn lành công đức thành tựu trong trăm kiếp. Bồ Tát phát nguyện hy vọng chúng sinh đắc được tướng mạo viên mãn của Như Lai, nhưng chúng minh mê mờ chẳng chịu tu hành, chẳng nghe chỉ dạy, đó là cô phụ khổ tâm của Bồ Tát.

Lại nguyện cho chúng sinh được khuôn mặt khắp tất cả mọi nơi: Ở đây chẳng phải nói khuôn mặt đắc được, lớn có thể khắp tất cả ở mọi nơi, mà là nói bạn có đức hạnh, có nhân duyên, bất cứ đến đâu cũng đều được mọi người cung kính hoan nghinh. Lại được khuôn mặt vô lượng tướng tốt: Cũng có thể nói là khuôn mặt sinh ra được viên mãn đầy đủ, chẳng có chút thiếu khuyết nào. Ở trên là hồi hướng căn lành tu tập của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí mũi, hy vọng chúng sinh đắc được sự hồi hướng có một khuôn mặt tốt.

Vì khiến cho chúng sinh rốt ráo được nhập vào các Phật pháp. Vì khiến cho chúng sinh rốt ráo nhiếp thọ các Phật pháp. Vì khiến cho chúng sinh rốt ráo thấu rõ các Phật pháp. Vì khiến cho chúng sinh rốt ráo trụ trì các Phật pháp. Vì khiến cho chúng sinh rốt ráo thường thấy các Như Lai. Vì khiến cho chúng sinh thảy đều chứng được pháp môn của Phật. Vì khiến cho chúng sinh rốt ráo thành tựu tâm không thể hoại. Vì khiến cho chúng sinh đều chiếu rõ chánh pháp của chư Phật. Vì khiến cho chúng sinh khắp nghiêm tịnh cõi nước chư Phật. Vì khiến cho chúng sinh đều được thân đại oai lực của Như Lai. 

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí tai mũi.

Bồ Tát bố thí tai mũi, cùng với sự hồi hướng căn lành của Ngài, mục đích của Ngài chẳng phải tham cầu công đức, mà là hy vọng chúng sinh khai mở đại trí huệ, chân chánh vào sâu tạng Kinh, trí huệ như biển. Lại hy vọng chúng sinh quyết thực tiếp thọ pháp của chư Phật nói, mà còn có thể y giáo phụng hành, nhiếp trì không giải đãi. Lại muốn khiến cho chúng sinh đều minh bạch pháp của chư Phật nói, không có nghi hoặc. Lại muốn khiến cho hết thảy chúng sinh an trụ vào pháp của chư Phật nói, vĩnh viễn không thối chuyển. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh thường thấy chư Phật, gần gũi chư Phật. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đều tu chứng được pháp môn của chư Phật nói, viên mãn quả vị Phật. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu tâm tin kiên cố như kim cang, chẳng có gì có thể chướng ngại phá hoại được. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đều minh bạch pháp của chư Phật nói, đắc được chánh pháp nhãn tạng. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, thảy đều dùng công đức thanh tịnh trang nghiêm cõi nước của chư Phật. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được đại oai đức thân kim cang bất hoại giống như Phật. Ðó là những sự hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí tai mũi.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát an trụ vững chắc ở trong cảnh giới tự tại, có thể dùng răng bố thí cho các chúng sinh. Như thuở xưa Bồ Tát Hoa Xỉ Vương. Bồ Tát Lục Nha Tượng Vương, và vô lượng các Bồ Tát khác.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tâm tin của Ngài thâm sâu, nguyện lực kiên cố, buông xả tất cả không chấp không nương tựa, chuyên tâm tu hành pháp môn bố thí. Ở trong cảnh giới nhậm vận tự tại, có thể đem răng bố thí cho chúng sinh. Thưở xưa có vị Bồ Tát Hoa Xỉ Vương, vì khó xả mà xả được, nhẫn nại sự đau răng bố thí cho chúng sinh, cho nên đời đời kiếp kiếp Ngài đắc được răng tốt đẹp nhất. Do công đức đó, được gọi là Bồ Tát Hoa Xỉ Vương.

Lại như Bồ Tát Lục Nha Tượng Vương-có một câu chuyện như vầy: Lúc Ðức Phật còn tại thế, có một đời đã từng thọ sinh làm đại tượng vương (voi chúa), Ngài sinh ra có sáu cái ngà dài rất trắng muốt. Một lần nọ, bị ông vua Ca Xa biết được, bèn sai năm người chiên đà la đi lấy, nếu lấy không được thì sẽ bị mất mạng. Họ vì bảo vệ mạng sống, nên thân thể quấn y cà sa nguỵ làm Sa Môn, tay cầm mũi tên độc, vào trong núi Tuyết, chỗ con voi chúa đại tượng vương ở để giết hại.

Lúc đó, voi mẹ ở xa thấy có người dương cung bắn, lập tức báo cáo cho tượng vương biết, tượng vương nghe rồi nhìn xem, thì thấy đệ tử của Phật cạo râu tóc, mặc áo cà sa, ngược lại còn nói với voi mẹ rằng: Họ đều đã lìa ác tâm, chẳng còn hại chúng sinh nữa, mẹ đừng có sợ.

Lúc đó những người chiên đà la thấy voi chúa không chạy trốn, bèn lấy mũi tên độc bắn trúng tim con voi chúa. Voi mẹ thấy tình hình như vậy, kêu rống to lên, đàn voi nghe tiếng tụ tập lại, oán nộ muốn dùng chân đạp chết bọn chiên đà la. Voi chúa không oán giận, dùng thân bảo vệ họ, và hỏi họ tại sao bắn Ngài ? Bọn chiên đà la bèn nói sự thật. Voi chúa hoan hỉ, bèn dùng vòi lôi hết sáu cái ngà dâng cho bọn chiên đà la lấy đem về phục mạng. Và còn nói với đàn voi rằng: Ta thà bỏ thân mạng, cũng chẳng khởi tâm giết hại chúng sinh, lại đối với chiên đà la nói: “Nay tôi đem ngà trắng bố thí cho các ông, mà không phẫn, không hận, không sẻn tiếc. Nguyện đem công đức bố thí sẽ được thành Phật, diệt trừ bệnh phiền não của chúng sinh”.

Các vị ! Voi chúa tuy thọ bàng sinh thân thú, nhưng vì cầu quả Phật Chánh Ðẳng Chánh Giác, mà xả bỏ thân mạng không sẻn tiếc, còn biết cung kính người xuất gia, đối với ác hạnh của họ cũng không báo thù. Chúng ta nghe qua câu chuyện nầy, có sự phản ứng gì ? Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, bố thí xả bỏ nội tài, ngoại tài, giống như vậy, có vô lượng vô số các Bồ Tát khác, ở đây bất quá cử ra hai vị Bồ Tát mà thôi.

Khi đại Bồ Tát bố thí răng, tâm của Ngài thanh tịnh, ít có khó được, như hoa Ưu Ðàm. Đó là: Tâm bố thí vô tận. Tâm bố thí niềm tin lớn. Tâm bố thí từng bước thành tựu vô lượng. Tâm bố thí điều phục các căn. Tâm bố thí tất cả đều xả bỏ. Tâm bố thí tất cả trí nguyện. Tâm bố thí an lạc chúng sinh. Bố thí lớn. Bố thí tột cùng. Bố thí thù thắng. Bố thí tối thắng. Tâm bố thí chẳng có lòng hiềm ghét thù hận.

Ðại Bồ Tát khi Ngài bố thí răng, thì tâm của Ngài rất thanh tịnh bình tĩnh, chẳng có chút vọng niệm nào, cũng chưa từng cảm thấy đau đớn, trình độ an tĩnh như thế, thật là ít có, giống như hoa Ưu Ðàm, thời gian rất lâu mới nở một lần, thời gian nở lại rất ngắn. Người thấy được thứ hoa nầy, cũng rất ít. Lúc đó, tâm của Bồ Tát sung mãn tâm bố thí vô tận, hy vọng mình có thể vĩnh viễn hành bố thí lớn. Lại sinh khởi ý niệm tâm tin lớn, dùng tâm tin nguyện lớn nhất bố thí răng của mình. Lại hy vọng có thể từng bước từng bước, thành tựu vô lượng tâm bố thí lớn, chẳng những chỉ có thể bố thí răng, mà thân tâm tính mạng của mình đều có thể xả bỏ được. Lại có thể điều phục thân tâm năm căn của mình, đều được an nhiên tự tại, chẳng cảm thấy chút đau khổ nào. Lại đối với tất cả nội tài, ngoại tài, đều bố thí được hết, chẳng có chấp trước, cũng chẳng sẻn tiếc. Bồ Tát hành sự là dùng trí huệ để thực hành, vì nguyện lực tức là căn lành, cho nên Ngài hành bố thí chẳng phải là mù mắt. Ngài phải quán sát nhân duyên, rồi sau đó mới làm, tất cả đều căn cứ vào trí huệ và tâm nguyện mà bố thí. Mục đích Ngài bố thí, chẳng phải là vì viên mãn công đức của mình, mà là vì khiến cho chúng sinh đắc được an lạc, có tâm xả mình vì người, thì tự nhiên Ngài sẽ viên mãn bố thí Ba La Măt. Bồ Tát thiết lập hội bố thí lớn, người khác xả không được, mà Ngài đều xả được; người khác không làm được mà Ngài làm được. Cho nên pháp hội bố thí của Ngài là hội bố thí lớn nhất vô giá, phong phú nhất, hội bố thí toàn thiện tột cùng nhất, hội bố thí thù thắng hơn người khác, hội bố thí thù thắng nhất. Nếu có người cần thân mạng của Ngài, thì Bồ Tát cũng chẳng có tơ hào do dự bố thí cho họ, mà còn chẳng sinh chút tâm hiềm hận nào, thảy đều xả thí cho người xin. Bồ Tát dùng đủ thứ tâm ít có khó được như vậy, để bố thí răng của Ngài.

Lúc đó, Bồ Tát đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được răng trắng bén nhọn, thành tháp tối thắng, thọ trời người cúng dường. Nguyện cho tất cả chúng sinh được răng bằng phẳng đồng đều, như tướng tốt của Phật, chẳng có hở thiếu. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tâm điều phục, khéo hướng về hạnh Ba La Mật của Bồ Tát. Nguyện cho tất cả chúng sinh được miệng lành thanh tịnh, răng bóng trắng, hiển hiện phân minh. Nguyện cho tất cả chúng sinh được răng trang nghiêm có thể nghĩ nhớ, miệng được thanh tịnh, không có tướng xấu. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu đầy đủ bốn mươi cái răng, thường toả ra đủ thứ hương thơm ít có.

Bồ Tát phát tâm ít có như ở trên đã nói rồi, lại đem căn lành của Ngài bố thí răng, hồi hướng như vầy: Tôi nguyện cho tất cả chúng sinh được răng trắng sạch bén nhọn, có hình dáng giống như tháp, tiếp thọ trời người cúng dường thức ăn uống thượng hạng. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được răng rất bằng phẳng đồng đều, ngay hàng, giống như Phật có tướng tốt về răng, không hở cũng không thiếu khuyết. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được thân tâm an nhiên, năm căn điều thuận, chẳng cấp tốc thô tháo, cũng chẳng nổi giận, nhu hoà khiêm nhường, khéo tu tập các hạnh môn, hướng về lục độ vạn hạnh của Bồ Tát tu. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được nghiệp miệng thanh tịnh, thường nói lời chân chánh. Răng trắng khiết, răng rất bóng sáng, hiển hiện phân minh rõ ràng. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được răng đoan chánh toàn mỹ, miệng cũng đặc biệt thanh tịnh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu đầy đủ bốn mươi cái răng. Tại sao phải nguyện cho chúng sinh đầy đủ bốn mười cái răng ? Vì bốn mươi cái răng rất khó có được, là bậc đế vương đại phú quý mới sinh ra có đủ bốn mươi cái răng. Phật là đấng Pháp Vương, bậc đại giác phước huệ đầy đủ, cho nên Ngài có bốn mươi cái răng. Ngài Thanh Lương Quốc Sư tả Kinh Hoa Nghiêm Sớ Sao, là Bồ Tát thị hiện, cũng có đủ bốn mươi cái răng. Vị đại Bồ Tát tu pháp hồi hướng nầy, Ngài cũng hy vọng chúng sinh thành tựu đầy đủ bốn mươi cái răng.

Các vị ! Mọi người hãy mau phát tâm tu hạnh Bồ Tát, bằng không, khiến cho Bồ Tát thất vọng thương tâm ! Ở trong răng thường thường toả ra đủ thứ hương thơm ít có, thứ hương thơm đó rất tự nhiên từ trong răng, theo sự hô hấp nhẹ nhàng toả ra trong không khí, tuyệt đối chẳng phải là nước dầu thơm.

Nguyện cho tất cả chúng sinh ý khéo điều phục, răng trắng bóng, như hoa sen trắng, có vân quay về bên phải, thành tựu chữ vạn. Nguyện cho tất cả chúng sinh miệng môi thanh tịnh, răng trắng sạch, phóng ra vô lượng quang minh, chiếu sáng khắp cùng. Nguyện cho tất cả chúng sinh răng cứng sắc bén, ăn nhai kỹ, không tham trước mùi vị, làm ruộng phước vô thượng. Nguyện cho tất cả chúng sinh nơi giữa răng thường phóng quang minh, thọ ký cho các Bồ Tát đệ nhất. 

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí răng. Vì khiến cho chúng sinh đủ nhất thiết trí, trí huệ thanh tịnh ở trong các pháp.

Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh, khéo điều phục ý căn của mình, ở trong ý niệm chẳng khởi tà niệm tham sân si, cho nên phải khéo tự điều phục, thường tu giới định huệ ba học vô lậu, sinh khởi chánh niệm. Răng sinh ra trắng khiết sạch sẽ, giống như hoa sen trắng, trên răng có vân, quay về phía bên phải, thành tựu hình chữ vạn. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh miệng môi thanh tịnh. Răng trắng khiết phóng ra vô lượng quang minh, chiếu sáng khắp cõi nước chư Phật trong mười phương thế giới. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh răng sinh ra rất chắt và bén nhọn, bất cứ ăn gì, đều nhai kỹ càng, chẳng có nuốt trựng. Tuy nhiên có răng tốt, nhưng không tham trước ăn uống, mà làm ruộng phước bậc nhất của chúng sinh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh răng thường có quang minh phóng ra, có thể thọ việc các Như Lai thọ ký đệ nhất. Nói Bồ Tát khi nào sẽ thành Phật, cõi nước tên gì, trụ kiếp như thế nào, trụ thế bao lâu?

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí răng. Bồ Tát vì khiến cho tất cả chúng sinh đều đầy đủ nhất thiết trí huệ, ở trong các Phật pháp sinh đại trí huệ, dùng đại trí huệ thanh tịnh nầy, để giáo hoá tất cả chúng sinh.

Phật tử ! Nếu có ai đến chỗ đại Bồ Tát xin cái lưỡi, thì Ngài đối với người xin, dùng tâm từ bi, nói lời nhẹ nhàng khả ái. Như thuở xưa Bồ Tát Ðoan Chánh Diện Vương, Bồ Tát Bất Thoái Chuyển, và vô lượng các Bồ Tát khác.

Các vị đệ tử của Phật ! Nếu có người nào đến chỗ đại Bồ Tát xin cái lưỡi của Ngài, thì lúc đó Bồ Tát dùng tâm đại từ đại bi, và dùng lời nói rất hoà mục khải ái đối với người xin. Như thuở xưa có vị Bồ Tát Ðoan Chánh Diện Vương, Bồ Tát Bất Thoái Chuyển, và vô lượng vô số các Bồ Tát khác, bố thí cái lưỡi. Vì Bồ Tát muốn viên mãn bố thí Ba La Măt, thì phải xả bỏ nội tài, nhưng người xin nội tài thật là ít có, cho nên Bồ Tát thấy có người đến xin nội tài của Ngài, thì phát tâm hoan hỉ, tâm cung kính, vui vẻ nói năng dịu dàng mà bố thí.

Phật tử ! Khi đại Bồ Tát ở trong các cõi thọ sinh, thì có vô lượng trăm ngàn ức Na do tha chúng sinh đến xin cái lưỡi. Khi đó Bồ Tát đặc người đó trên toà sư tử. Dùng tâm không sân. Tâm không hại. Tâm không hận. Tâm đại oai đức. Tâm sinh ra từ giống tánh của Phật. Tâm trụ chỗ Bồ Tát trụ. Tâm thường chẳng trược loạn. Tâm trụ nơi thế lực lớn. Tâm không chấp nơi thân. Tâm không chấp nơi lời nói. Hai gối quỳ xuống đất, mở miệng thè lưỡi ra, tâm từ bi lời nói nhẹ nhàng, nói với người xin rằng: Nay thân nầy của tôi, đều thuộc về ông, ông có thể lấy lưỡi của tôi, tuỳ ý mà sử dụng, khiến cho nguyện vọng của ông đều được đầy đủ.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát khi Ngài tu Bồ Tát hạnh, thường thọ sinh ở trong sáu nẻo. Ở trong những thế giới đó, thường có vô lượng số trăm ngàn ức Na do tha chúng sinh, đến xin cái lưỡi của Ngài. Khi ấy, Bồ Tát đặc người xin lên trên toà sư tử. Tâm của Ngài an tĩnh, chẳng có tơ hào phẫn uất, cũng chẳng có tâm giết hại chúng sinh, cũng chẳng có tâm oán hận ai; chỉ dùng tâm thành tựu đại oai đức, tâm từ bi từ trong giống tánh của Phật chảy ra, tâm vô ngã rộng lớn trụ chỗ trụ của Bồ Tát, tâm thanh tịnh chẳng điên đảo cũng chẳng ngu si, tâm trụ nơi địa vị thế lực lớn, tâm chẳng chấp trước đối với thân, tâm cũng chẳng chấp trước đối với lời nói. Bồ Tát dùng mười thứ tâm thanh tịnh thù thắng đó, hai gối quỳ xuống đất, mở miệng ra, thè lưỡi ra cho người xin xem, tâm từ bi nói lời nhẹ nhàng với người xin rằng: Hiện tại thân thể đây của tôi, hoàn toàn thuộc về ông, tuỳ ông muốn làm gì thì làm. Ông muốn cái lưỡi của tôi, thì có thể cắt lấy đi, khiến cho nguyện vọng của ông được tuỳ tâm mãn nguyện.

Lúc đó Bồ Tát, đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi cùng khắp, đều có thể tuyên nói diễn bày các pháp lời nói. Nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi che trùm cả mặt, lời nói ra không hai, thảy đều chân thật. Nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi che trùm khắp tất cả cõi Phật, thị hiện thần thông tự tại của chư Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi mềm mỏng, luôn thọ được hương vị thanh tịnh thơm ngon thượng hạng. Nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi biện tài, dứt trừ được tất cả lưới nghi của thế gian. Nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi quang minh, có thể phóng ra vô số vạn ức quang minh. Nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi quyết định, biện nói các pháp chẳng cùng tận. Nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi điều phục khắp, khéo khai thị tất cả bí yếu, những lời nói ra đều khiến cho họ tin thọ. Nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi thông đạt khắp, khéo nhập vào tất cả biển ngôn ngữ. Nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi khéo nói tất cả các pháp môn, nơi lời nói trí đều đến bờ kia. 

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí lưỡi. Vì khiến cho chúng sinh đều đắc được trí viên mãn vô ngại.

Lúc đó Bồ Tát, Ngài đem đủ thứ căn lành tu tập, hồi hướng như vầy: Ngài nói: Tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đắc được lưỡi dùng khắp pháp giới, đều nói được lời nói của mỗi cõi nước. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi che trùm cả mặt; khi thè lưỡi ra thì có thể che trùm khắp cả khuôn mặt, lưỡi của Phật là như thế. Tại sao lưỡi của chúng ta ngắn và nhỏ ? Vì chúng ta ưa nói dối, lâu dần thì thụt vào ngắn và nhỏ như vậy; nếu như học theo Phật không nói dối, giữ giới thanh tịnh, thì mỗi người đều có thể được lưỡi che trùm cả mặt. Lời nói không hai, thảy đều chân thật, tức là không nói dối, thành thật không dối trá, lời nói có uy tín. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi che khắp tất cả cõi Phật, có tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới và tất cả cõi nước chư Phật. Lại có thể thị hiện sức thần thông nhậm vận tự tại của chư Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi mềm mỏng, luôn luôn thọ được hương vị ăn uống thanh tịnh thơm ngon thượng hạng. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi biện tài vô ngại, dứt trừ được lưới nghi của người đời. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi quang minh, cái lưỡi có thể phóng ra vô số vạn ức quang minh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi quyết định, tất cả sự lý, cái lưỡi đều đắc được sự quyết định chánh quyết, biện luận diễn nói thật tướng của các pháp, chẳng khi nào cùng tận. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi điều phục, đối với chúng sinh cang cường khó điều, khó phục, nghe được Ngài khai thị, thì lập tức hồi tâm thuần phục, nghe sự giáo hoá. Nếu giảng giải pháp môn bí yếu của chư Phật, thì một khi xiển minh, chúng đều liễu ngộ tin thọ phụng hành.

Ðại đệ tử của Phật, Ngài Phú Lâu Na thuyết pháp đệ nhất, Ngài đắc được lưỡi điều phục khắp nầy. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi thông đạt khắp cùng, đối với hết thảy ngôn ngữ, một khi lọt qua tai thì liền hiểu và nói được, có thiên tài ngôn ngữ, đắc được tam muội ngôn ngữ, cho nên nói khéo nhập vào biển ngôn ngữ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi phương tiện khéo léo hay hoằng dương các thứ pháp môn. Lời nói trí huệ của Ngài đã đến được rốt ráo thành thục tột đỉnh-bờ bên kia. Ðó là hồi hướng căn lành tu tập của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí lưỡi, vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được trí huệ viên mãn chẳng có chướng ngại.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát đem cái đầu bố thí cho người đến xin. Như Bồ Tát Tối Thắng Trí. Đại trượng phu quốc vương Ca Thi, và các đại Bồ Tát khác. Vì muốn thành tựu đầu trí huệ tối thắng, nhập vào tất cả các pháp. Vì muốn thành tựu chứng được đầu đại bồ đề cứu chúng sinh. Vì muốn đầy đủ đầu tối đệ nhất thấy tất cả các pháp. Vì được đầu trí huệ chánh kiến thanh tịnh. Vì muốn thành tựu đầu không chướng ngại. Vì muốn chứng được đầu bậc đệ nhất. Vì cầu đầu trí huệ tối thắng thế gian. Vì muốn thành tựu đầu trí huệ thanh tịnh ba cõi không thấy được đảnh. Vì được đầu trí huệ vương thị hiện đến khắp mười phương. Vì muốn được đầu tự tại đầy đủ tất cả các pháp không thể phá hoại được.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài lại đem cái đầu của mình bố thí cho người đến xin. Giống như thuở xưa Bồ Tát Tối Thắng Trí, đại trượng phu quốc vương Ca Thi, cùng với vô lượng vô số các đại Bồ Tát khác, đều đã từng thực hành qua tinh thần bố thí đại vô uý. Mục đích các Ngài thực hành bố thí nầy, là vì muốn thành tựu đầu trí huệ thù thắng có thể thâm nhập vào chân lý của các pháp. Lại vì hy vọng chứng được đầu đại bồ đề giác đạo, cứu hộ chúng sinh, cứu bạt chúng sinh thoát khỏi biển khổ sinh tử. Lại vì muốn đắc được đầu tối đệ nhất đầy đủ thắng trí, thấy rõ chân lý của sự lý ở trong tất cả các pháp. Lại vì muốn đắc được đầu có trí huệ thanh tịnh chánh tri chánh kiến. Chánh tri chánh kiến là trợ giúp người, cứu hộ người, dẫn dắt người đi trên con đường tin phụng Phật pháp, làm ảnh hưởng người phát tâm bồ đề. Nếu có người muốn xuất gia tu đạo, thì khiến cho họ được thành tựu, khen ngợi họ. Tài bồi tưới nước khiến cho hạt giống bồ đề dần dần lớn lên, làm như thế tức là biểu hiện của sự chánh tri chánh kiến; bằng không thì tức là tà tri tà kiến của kẻ ác. Lại vì muốn thành tựu đầu không bị bất cứ gì chướng ngại, tất cả đều thuận tâm như ý, sự lý đều viên dung vô ngại. Lại vì muốn chứng được đầu của bậc đệ nhất thế gian, khiến cho chúng sinh đều có chỗ nương tựa. Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được đầu tối thù thắng trên thế gian, có trí huệ vô thượng vi diệu, vĩnh viễn chẳng sinh tà kiến, chẳng dính vào lưới ngu si. Lại vì muốn thành tựu đầu có trí huệ thanh tịnh, trong ba cõi không thể thấy được đảnh. Lại vì muốn đắc được đầu vua trí huệ, có thể thị hiện trong mười phương thế giới-cũng giống như đầu của Phật. Lại vì muốn được đầu đầy đủ chân lý của tất cả các pháp, thông đạt vô ngại, thiên ma ngoại đạo không thể phá hoại được, đầu tất cả tự tại.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát, an trụ pháp nầy, tinh cần tu tập, vì đã nhập vào giống tánh của chư Phật, học Phật tu hành bố thí. Ở chỗ chư Phật, sinh niềm tin thanh tịnh, tăng trưởng căn lành, khiến cho những người xin đều được thoả mãn, tâm được thanh tịnh, vui mừng vô lượng, tâm thanh tịnh tin hiểu, chiếu rõ Phật pháp, phát tâm bồ đề, an trụ tâm xả, các căn thơ thới, công đức tăng trưởng, sinh ưa muốn lành, thường thích tu hành hạnh bố thí rộng lớn.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài rất an nhiên tự tại, dũng mãnh tinh tấn chuyên tu hạnh khó làm mà làm được, bố thí đầu. Ðó là biểu thị Ngài đã thâm nhập vào giống tánh của chư Phật. Học hành vi của Phật và bố thí nội tài và ngoại tài, ở tại đạo tràng của Phật, lắng nghe pháp của chư Phật nói, sinh tâm tin thanh tịnh, tăng trưởng căn lành tối thắng. Khiến cho những người đến xin đầu, đều được mãn nguyện, tâm của họ thanh tịnh vô lượng, hoan hỉ vui mừng vô lượng. Vì tâm thanh tịnh tin hiểu của Bồ Tát đối với tất cả Phật pháp, đều thấu rõ liễu ngộ, phát tâm đại bồ đề, an trụ nơi tâm bố thí xả bỏ, vĩnh viễn chẳng thối chuyển. Ở trong cảnh giới thanh tịnh vô vi đó, các căn-sáu căn tự nhiên điều thuận thơ thới, căn lành công đức, ngày càng tăng trưởng, trong tâm sinh ra ý niệm ưa thích làm lành, thường hoan hỉ tu hành phạm hạnh, lập pháp hội bố thí rộng lớn.

Bấy giờ, Bồ Tát đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được đầu Như Lai, được đảnh đầu không ai thấy. Tất cả mọi nơi không bị che khuất. Là thượng thủ nhất ở trong cõi nước của chư Phật. Tóc xoắn về bên phải. Quang minh thanh tịnh nhuần bóng. Có chữ vạn nghiêm sức, ít có trong đời. Ðầy đủ đầu Phật. Thành tựu đầu trí huệ. Đầu tối đệ nhất ở trong tất cả thế gian. Là đầu đầy đủ, là đầu thanh tịnh, là đầu ngồi đạo tràng viên mãn trí huệ. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí đầu, vì khiến cho chúng sinh được pháp tối thắng, thành tựu đại trí huệ vô thượng.

Khi đại Bồ Tát bố thí đầu, thì đem đủ thứ căn lành công đức tu tập bố thí, đối với chúng sinh hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được đầu giống như Phật, tức là tướng đảnh Phật không ai thấy được, ở bất cứ chỗ nào, cũng không thể nào che khuất quang minh đầu của Ngài. Ở trong cõi nước của chư Phật, là tối thượng thủ bậc nhất. Ðầu tóc của Ngài đều tự nhiên xoắn về bên phải, màu tóc thuần tịnh, quang minh sáng bóng, tóc xoắn về bên phải hiển hiện ra giống hình chữ vạn, chẳng phải do sự nghiêm sức làm nên, mà tự nhiên thành tựu sự trang nghiêm ít có trong đời. Ðầy đủ hết thảy tướng tốt đầu của Phật, hiếm có trong đời, thành tựu đầu có trí huệ. Cũng là đầu đệ nhất ở trong hết thảy chúng sinh thế gian, là đầu viên mãn đầy đủ tất cả ưu điểm, thanh tịnh nhất, ngồi đạo tràng thuyết pháp lợi sinh, viên mãn nhất thiết chủng trí. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí đầu, vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được quang minh pháp tạng thù thắng nhất, thành tựu đại trí huệ vô thượng.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát dùng tay chân của mình bố thí cho chúng sinh. Như Bồ Tát Thường Tinh Tấn, Bồ Tát Vô Ưu Vương, và vô lượng các Bồ Tát khác. Ở trong các cõi, đủ thứ nơi sinh, bố thí tay chân. Dùng niềm tin làm tay, sinh khởi hạnh nhiêu ích. Qua lại xoay vòng, siêng tu chánh pháp. Nguyện được tay báu, dùng tay làm vật bố thí. Chỗ thực hành chẳng không, đầy đủ đạo Bồ Tát. Thường dang rộng hai tay sẵn sàng bố thí, bước đi dũng mãnh không khiếp sợ. Dùng sức tin thanh tịnh, đầy đủ hạnh tinh tấn, trừ diệt đường ác, thành tựu bồ đề.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, lại dùng tay và chân của Ngài bố thí cho những chúng sinh chẳng có tay chân. Giống như thuở xưa Bồ Tát Thường Tinh Tấn, Bồ Tát Vô Ưu Vương, và rất nhiều các vị đại Bồ Tát khác, khi các Ngài tại nhân địa hành Bồ Tát đạo, thì thương xót những chúng sinh cụt tay, cụt chân, liền đem tay chân của mình bố thí cho họ, thà mình thọ khổ. Bồ Tát đại từ đại bi, đối với chúng sinh, khó xả mà xả bỏ được, khó nhẫn mà nhẫn được, khó nhường mà nhường được. Chúng ta người tu đạo, nên thời khắc phản tỉnh, nhìn lỗi lầm của chính mình, đừng cứ đi giặt đồ dơ thay thế cho người khác, nói người ta dài ngắn. Người khác là một mặt gương sáng của mình, người ta có hạnh lành thì mình khen ngợi học tập; người ta có ác hạnh thì mình thương xót họ mà tự biết cảnh tỉnh, đừng tuỳ tiện phỉ bán họ, sân hận với họ, chán ghét họ. Nếu có thể khuyên họ được, thì giúp họ sửa lỗi hướng thiện, tức là lợi ích người, là công đức lành. Người tu đạo quan trọng nhất là giữ giới, đối cảnh giới không động vọng niệm, không sinh tâm tham dục, ngày ngày sám hối, phát nguyện phát tâm bồ đề. Như thế mới có thể tăng tấn định lực, mới gọi là công phu nên làm. Hy vọng mọi người cố gắng, học hạnh Bồ Tát, trừ khử sạch tập khí mao bệnh của mình.

Ðại Bồ Tát tu hạnh bố thí, chẳng phải chỉ hành bố thí trong loài người, mà Ngài vào trong khắp chín pháp giới, sáu loài tứ sinh để thọ sinh. Ngài chẳng tiếc mạng sống, chẳng sợ gian nan khốn khổ, vào sâu trong đủ loại chúng sinh, giáo hoá, điều phục, tế độ, lợi ích họ, khiến cho họ đều biết bỏ tà theo chánh, cải ác hướng thiện, và còn bố thí nội tài tay chân của Ngài .v.v…Tại sao dùng niềm tin làm tay ? Vì tin mới có thể đi thực hành. Tin là nhân bố thí tay, có tài báu vật chất từ trong tay bố thí ra, đó là quả của niềm tin nhờ tay. Cho nên Bồ Tát dùng niềm tin làm tay, thì sinh khởi tất cả hạnh lành lợi ích chúng sinh. Bồ Tát chẳng tính thời gian kiếp số, như vậy đi đi lại lại trong chín pháp giới và ban đủ thứ cho chúng sinh-đời đời kiếp kiếp sinh sống với họ, một mặt tự lợi, siêng tu tất cả chánh pháp cầu đạo vô thượng, một mặt lợi tha, giáo hoá vô lượng chúng sinh, tiếp dẫn họ vào Phật đạo. Lại nguyện cho đắc được tay báu, vô lượng các châu báu đều từ trong tay chảy ra, dùng tay báu đó bố thí khắp cho tất cả chúng sinh. Chỗ thực hành chẳng không: Ðến bất cứ nơi nào, Ngài đều thực hành bố thí khắp, tuyệt đối chẳng khiến cho người có tâm luống qua mà thất vọng. Việc làm đều đầy đủ đạo Bồ Tát, bình đẳng bố thí khắp. Ngài thường dũi tay báu của Ngài ra, tuỳ thời muốn đem tài phước của mình, rộng bố thí cho người, Ngài đến khắp nơi quán sát bệnh khổ của chúng sinh, mãn nguyện tâm đại từ bi, nương theo đại nguyện lực cứu khắp chúng sinh, qua lại ở trong sáu loài bốn sinh, dũng mãnh không khiếp sợ. Dùng tâm tin nguyện lực thanh tịnh, đầy đủ tinh thần tinh tấn hành đạo, một lòng diệt trừ đường ác, dẫn dắt chúng sinh tiến đến thành tựu bồ đề giác đạo.

Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí như vậy, dùng vô lượng vô biên tâm rộng lớn, khai mở pháp môn thanh tịnh, nhập vào biển chư Phật, thành tựu bố thí tay, chu cấp khắp mười phương. Nguyện lực nhậm trì đạo nhất thiết trí. Trụ nơi tâm rốc ráo lìa cấu. Pháp thân trí thân, không dứt không hoại. Tất cả ma nghiệp không thể khuynh động được. Nương thiện tri thức, tâm ý bền vững, đồng với các Bồ Tát, tu hành bố thí.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, khi Ngài bố thí tay chân, Ngài dùng tâm từ bi rộng lớn vô lượng vô biên, đối với chúng sinh khai thị diễn nói pháp môn thanh tịnh của chư Phật nói. Do đó, Ngài có thể vào sâu biển pháp của chư Phật. Cũng nhờ công đức đó mà thành tựu tay báu bố thí, chu cấp khắp cho mười phương chúng sinh thọ khổ. Bồ Tát phát nguyện lực lớn, dùng sự hoằng dương Phật pháp làm trách nhiệm của mình, khiến cho Phật pháp trụ trì lâu dài tại thế gian, dùng nguyện lực vô thượng, trụ nơi trí đạo: An trụ nơi tâm chân chánh chẳng có trần cấu, thanh tịnh không nhiễm. Vì lìa khỏi tâm cấu bẩn, cho nên pháp thân thậm nhiên. Vì trụ trí địa, liền thành tựu trí thân. Pháp thân thậm nhiên, không thể bị huỷ hoại. Ngọn đèn trí vĩnh viễn liên tục, chẳng có đoạn diệt. Lúc đó, tất cả vọng niệm ác hạnh không thanh tịnh, đều chẳng có biện pháp nào để giao động chí nguyện kiên cố của Ngài được. Y chỉ thiện tri thức, nghe sự giáo hoá của Ngài, tài bồi tâm tin kiên cố. Ðồng như các vị đại Bồ Tát tu hành bố thí Ba La Mật.

Phật tử ! Khi đại Bồ Tát, vì các chúng sinh mà cầu nhất thiết trí bố thí tay chân. Ngài đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, đầy đủ sức thần thông, đều đắc được tay báu. Ðược tay báu rồi, đều tôn kính nhau, sinh nghĩ tưởng làm ruộng phước. Dùng đủ thứ báu, càng phải cúng dường lẫn nhau. Lại dùng các thứ báu cúng dường chư Phật. Nổi mây báu đẹp khắp cõi nước của chư Phật. Khiến cho các chúng sinh cùng khởi tâm từ bi, không não hại lẫn nhau. Du hành đến các cõi nước chư Phật. An trụ nơi không sợ hãi, tự nhiên đầy đủ, rốt ráo thần thông.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát vì cứu tất cả chúng sinh, nên phải có đại trí huệ, cho nên Ngài bố thí tay chân. Khi Ngài bố thí tay chân, lại đem đủ thứ căn lành của Ngài tu tập, đối với chúng sinh hồi hướng như vầy: Ngài nói tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đầy đủ sức thần thông, đắc được tay báu tự nhiên hiện ra bảy báu. Khi họ đắc được bảy báu rồi, đừng sinh tâm tham, phải có tâm tôn kính lẫn nhau, phải sinh ra tư tưởng tôi có thể làm ruộng phước cho những chúng sinh khác. Càng phải đem châu báu đẹp sinh ra từ tay báu, cúng dường cho mọi người. Lại biết đem những châu báu đó, cúng dường mười phương chư Phật, và nổi mây báu đẹp khắp cõi nước của chư Phật. Khiến cho hết thảy chúng sinh đều sinh tâm từ bi, trợ giúp lẫn nhau, không sinh ác tâm phiền não và xâm hại kẻ khác. Thường đến cõi nước của chư Phật, chiêm ngưỡng gần gũi lễ lạy chư Phật, an trụ trong tâm bình tĩnh không sợ hãi, tự nhiên đầy đủ sức thần thông chân thật.

Lại khiến cho chúng sinh đều đắc được tay báu: Tay hoa, tay hương, tay y phục, tay lọng, tay tràng hoa, tay hương bột, tay đồ trang nghiêm, tay vô biên, tay vô lượng, tay khắp cùng. Ðắc được những tay đó rồi, dùng sức thần thông thường siêng đi đến tất cả cõi Phật, có thể dùng một tay rờ khắp tất cả thế giới của chư Phật. Dùng tay tự tại giữ gìn các chúng sinh. Ðược tướng tay tốt, phóng ra vô lượng quang minh. Có thể dùng một tay che khắp chúng sinh. Thành tựu tay Như Lai ngón tay có màn lưới, móng như đồng đỏ.

Bồ Tát vì tất cả chúng sinh, bố thí tay chân để cầu nhất thiết trí. Lại đem công đức tu tập hồi hướng cho chúng sinh, hy vọng chúng sinh đắc được đủ thứ tay hiếm có trên đời, khiến cho mỗi chúng sinh đều được tay báu, hay sinh ra tất cả báu đẹp. Tay hoa: Hay sinh ra đủ thứ hoa quý. Tay hương: Hay sinh ra các thứ hương báu. Tay y phục: Hay hiện ra y trời. Tay lọng: Hay sinh ra lọng hoa có các châu báu. Tay tràng hoa: Hay sinh ra tất cả tràng hoa. Tay hương bột: Hay sinh ra hương bột tốt nhất. Tay đồ trang nghiêm: Có thể sinh ra các thứ đồ trang nghiêm hiếm có trên đời. Tay vô biên: Thứ tay nầy diệu dụng vô biên. Tay vô lượng: Thứ tay nầy có thể sinh ra vô lượng bảy báu. Tay khắp cùng: Hay bình đẳng hộ khắp tất cả chúng sinh. Bồ Tát hy vọng chúng sinh đều có thể sinh ra đủ thứ tay báu hiếm có trên đời, dụng tâm của Ngài là thương sót chúng sinh, có tay báu như vậy rồi, thì tất cả đều sẽ toại tâm mãn nguyện, không khởi tâm tham sân si, chẳng tạo nghiệp ác. Ðắc được tay báu đó rồi, thì phải biết cảm ân báo đức, dùng sức thần thông luôn luôn đi đến cõi nước của chư Phật, lễ lạy chư Phật, cúng dường chư Phật, lắng nghe lời dạy của chư Phật, siêng tu Phật đạo. Ðắc được tay báu đó rồi, lại có thể dùng một tay, có thể rờ khắp đảnh chúng sinh trong thế giới của chư Phật. Lại có thể dùng tay báu tự tại hộ trì tất cả chúng sinh. Ðắc được tay báu tướng tốt, có thể phóng ra vô lượng vô biên quang minh. Lại có thể dùng tay báu đó che mát khắp tất cả chúng sinh. Thành tựu tay giống như đức Như Lai, ngón tay có màn lưới, móng như đồng đỏ tốt đẹp giống như Phật.

Bấy giờ, Bồ Tát dùng tay đại nguyện, che khắp chúng sinh. Nguyện cho tất cả chúng sinh chí thường ưa cầu vô thượng bồ đề. Sinh ra biển tất cả công đức. Thấy người đến xin, hoan hỉ không nhàm chán, nhập vào biển Phật pháp, đồng căn lành với Phật. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí tay chân.

Khi Bồ Tát nói lời nguyện, đồng thời Ngài dũi ra tay phát đại nguyện, che mát khắp tất cả chúng sinh, từ từ Ngài nói ra lời nguyện trong tâm của Ngài: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được lợi ích sự hồi hướng của tôi, phải lập chí thường ưa cầu vô thượng bồ đề giác đạo, luôn luôn trụ chánh niệm, tập thực hành các điều lành, tích tụ đủ thứ công đức, vô lượng vô biên như biển cả. Thấy người đến xin tay chân của bạn, thì sinh tâm đại hoan hỉ, chẳng có biểu hiện không vui. Nhập vào trong biển trí huệ của Phật, có căn lành công đức giống như đức Phật. Ðó là đại Bồ Tát hồi hướng đủ thứ căn lành của Ngài tu tập cho chúng sinh, khi Ngài bố thí tay chân.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát huỷ hoại thân mình chảy máu, để bố thí cho chúng sinh. Như Bồ Tát Pháp Nghiệp. Bồ Tát Thiện Ý Vương, và vô lượng các Bồ Tát khác. Ở trong các cõi, khi bố thí thân thể máu huyết, thì khởi tâm thành tựu nhất thiết trí. Khởi tâm hoan hỉ ngưỡng mộ đại bồ đề. Khởi tâm ưa thích tu hạnh Bồ Tát. Khởi tâm chẳng lấy khổ thọ. Khởi tâm ưa thấy người xin. Khởi tâm chẳng hiềm người đến xin. Khởi tâm hướng về tất cả Bồ Tát đạo. Khởi tâm thủ hộ hạnh xả của tất cả Bồ Tát. Khởi tâm tăng thêm rộng lớn hạnh bố thí lành của Bồ Tát. Khởi tâm chẳng thối chuyển, tâm chẳng nghỉ ngơi, tâm chẳng luyến tiếc nơi chính mình.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát Ngài huỷ hoại thân thể của mình, lấy máu bố thí cho chúng sinh cần máu. Hiện nay các nơi đều có những chỗ cho máu, để cung cấp máu cho những người thiếu máu, giống như hoại thân lấy máu bố thí cho chúng sinh. Bất quá thuở xưa công cụ y liệu không tiến bộ, hoại thân lấy máu là người phải có tinh thần hy sinh không sợ hãi-Bồ Tát mới làm được. Như Bồ Tát Pháp Nghiệp, Bồ Tát Thiện Ý Vương, còn có nhiều Bồ Tát khác đều đã thực hành qua sự bố thí nầy. Vị Bồ Tát nầy khi Ngài ở trong sáu nẻo hoại thân bố thí máu, thì Ngài phát khởi thắng tâm vô lượng, làm công đức bố thí nầy, hy vọng thành tựu nhất thiết trí huệ. Dùng tâm hoan hỉ, ngưỡng mộ bồ đề giác đạo, chân thành ưa thích tu học hạnh Bồ Tát. Ngài tự nguyện thực hành sự bố thí nầy, tuyệt đối không cho rằng là thọ khổ. Sinh khởi tâm hoan hỉ thấy có người đến xin máu của Ngài, tuyệt đối chẳng sinh tâm hiềm chán đối với người xin. Sinh khởi tâm hướng về cầu Bồ Tát đạo. Lại sinh khởi tâm thủ hộ hạnh bố thí đại hỉ đại xả của các vị Bồ Tát. Lại sinh khởi tăng thêm rộng lớn tâm bố thí của Bồ Tát, khiến cho càng ngày càng tăng trưởng, rộng lớn đến tận cùng hư không khắp pháp giới. Ðủ thứ tâm thù thắng như vậy, tuyệt đối chẳng thối chuyển, tuyệt đối chẳng nghỉ ngơi, tuyệt đối cũng chẳng luyến tiếc lợi ích của chính mình, mà sinh tâm ích kỷ.

Ðem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được thành tựu pháp thân trí thân. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân không mệt mỏi, giống như kim cang. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân không thể hoại, không thể làm thương hại được. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân như biến hoá, hiện khắp thế gian, chẳng cùng tận. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân đáng ưa thích, thanh tịnh kiên cố vi diệu. Nguyện cho tất cả chúng sinh được sinh thân pháp giới, đồng với Như Lai, không chỗ nương tựa. 

Bồ Tát đem đủ thứ căn lành, hồi hướng cho chúng sinh như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được viên mãn bồ đề, chu khắp pháp giới, thành tựu thanh tịnh pháp thân. Trí chứng các pháp thật tướng, thông đạt vô ngại, thành tựu thân trí huệ vô thượng. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được thân thể vĩnh viễn không mỏi mệt, kiên cố giống như Na la diên. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân kim cang bất hoại, đao thương kiếm mác đều không thể làm thương hại đến nhục thân của họ được. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân thể trăm ngàn ức biến hoá, thị hiện khắp thế gian, chẳng cùng tận. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân thể thanh tịnh tốt đẹp, viên mãn kiên cường, khiến cho chúng sinh gần gũi, khiến cho chúng sinh sinh tâm hoan hỉ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được sinh thân tận hư không biến pháp giới, đồng như pháp thân của Phật, không cần nương tựa bất cứ chỗ nào.

Nguyện cho tất cả chúng sinh, được thân quang minh như báu đẹp, tất cả người đời không thể chói sáng hơn được. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân trí tạng hải, nơi cõi bất tử mà được tự tại. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân bảo hải, ai thấy cũng đều được lợi ích, không luống qua. Nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân hư không, thế gian não hoạn, không thể nhiễm trước. 

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, Ngài dùng tâm đại thừa, tâm rộng lớn, tâm vui mừng, tâm hân hạnh, tâm hoan hỉ, tâm tăng thượng, tâm an lạc, tâm không ô trược, để hoại thân lấy máu bố thí.

Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân thể như dạ minh châu, quang minh chiếu sáng mười phương, trên thế gian chẳng có ai sáng hơn quang minh đó được. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân trí huệ bảo tạng, thâm sâu như biển cả, nơi cõi bất tử-Bồ Tát ngộ nhập vào các pháp thật tướng, chứng được cảnh giới Niết Bàn, tất cả giải thoát được tự tại, cho nên Ngài cũng nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân tự tại như vậy. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân như bảo hải, tuỳ tâm sở dục có thể ở trong thân của Ngài xuất hiện nhiều thứ báu, khiến cho người thấy được Ngài, đều đắc được lợi ích, không luống qua. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân như hư không, hết thảy phiền não và hoạn nạn trên thế gian tuyệt đối không nhiễm trên thân của Ngài. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài hoại thân lấy máu bố thí cho chúng sinh, Ngài dùng tâm đại thừa Bồ Tát, tâm thanh tịnh không nhiễm, tâm rộng lớn vô biên, tâm hân hoan khoái lạc, tâm hân hạnh minh bạch pháp môn bố thí, tâm hoan hỉ, tâm tăng trưởng trí huệ hướng thượng, tâm an ổn khoái lạc, tâm không ô trược. Dùng đủ thứ tâm thắng diệu như vậy để bố thí.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát thấy có người đến cầu xin thân tuỷ thịt của mình, liền hoan hỉ nói lời dịu dàng với người xin rằng: Thân tuỷ thịt của tôi, tuỳ ý lấy dùng. Như Bồ Tát Nhiêu Ích. Bồ Tát Nhất Thiết Thí Vương, và vô lượng các Bồ Tát khác.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát nếu thấy có người đến cầu xin Ngài tuỷ và thân thịt thì, Ngài rất hoan hỉ, lập tức hoà nhan duyệt sắc với người đến cầu xin, hiện ra dáng vẻ rất vui mừng, dùng lời nói dịu dàng nói với họ rằng: “Thịt và tuỷ trên thân của tôi đây, tuỳ ý ông, hoan hỉ dùng bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu”. Giống như thuở xưa Bồ Tát Nhiêu Ích, Bồ Tát Nhất Thiết Thí Vương, và còn có vô lượng các đại Bồ Tát khác, các Ngài đều đã từng thực hành đại bố thí thân thịt cốt tuỷ nầy để cứu chúng sinh. Trước kia có vị thái tử Nguyệt Quang, có xe một mình tự đi du hành, ở giữa đường gặp một người nghèo khổ mình đầy ghẻ lở, ông ta ngăn cản xe của thái tử, và nói với thái tử rằng:

– “Mình tôi sinh ra chứng bệnh nầy, rất là đau khổ và phiền não. Thái tử ! Ngài thật là hạnh phúc, một mình tự cỡi xe đi du hành. Ngài có thể phát tâm đại từ, thương xót tôi, trị cho bệnh của tôi được lành chăng ?”

Thái tử nghe rồi, bèn đi hỏi rất nhiều danh y.

– Bác sĩ nói: “Chứng bệnh đó là do tâm sân hận nặng mà sinh ra, phải lấy cốt tuỷ của người nào mà từ nhỏ đến lớn chưa từng sinh ra một chút tâm sân hận, thoa lên thân bệnh ghẻ của người đó, và còn uống máu và tuỷ của người đó thì mới khỏi được”.

Thái tử nghe xong trong tâm suy nghĩ, đến đâu để tìm người như thế đây, ai có thể không tiếc thân thể của mình ! Ngoại trừ chính ta đây, do đó lập tức sai chiên đà la lóc thịt đập xương, lấy tuỷ thoa lên cho bệnh nhân, và lấy máu cho uống.

        Bồ Tát ở trong các cõi, đủ thứ các nơi sinh ra, khi dùng tuỷ thịt của mình bố thí cho người xin, thì tâm hoan hỉ rộng lớn. Tâm bố thí tăng trưởng. Ðồng với các Bồ Tát tu tập căn lành, lìa trần cấu của thế gian, đắc được ý chí vui thích thâm sâu. Dùng thân bố thí khắp, tâm chẳng cùng tận. Ðầy đủ vô lượng căn lành rộng lớn, nhiếp thọ tất cả diệu công đức bảo. Như pháp của Bồ Tát, thọ hành không nhàm mỏi. Tâm thường ưa thích bố thí công đức. Một lòng chu cấp, tâm chẳng hối tiếc. Quán sát các pháp đều từ duyên không có thể. Không tham nghiệp bố thí và quả báo bố thí. Tuỳ chỗ được gặp, bình đẳng bố thí cho.

Bồ Tát ở trong sáu nẻo thọ sinh trong các loài, chỉ cần có chúng sinh cầu xin Ngài tuỷ thịt, thì Ngài lập tức bố thí cho. Khi Ngài bố thí cho người, thì tâm tràn đầy sự hoan hỉ, tâm cảnh rộng lớn, tâm bố thí cũng càng ngày càng tăng trưởng. Ðồng với các vị đại Bồ Tát trong quá khứ tu tập pháp môn bố thí, căn lành tích tụ cũng đồng đều. Do đó Ngài xa lìa tất cả trần cấu của thế gian, đắc được trí huệ thâm sâu, lập định tín nguyện của mình, cảm được pháp lạc chân thật. Ðem thân thể của mình và ngũ tạng lục phủ, bố thí khắp cho chúng sinh cần, tâm thương nhớ chúng sinh hành bố thí nội tài ngoại tài, vĩnh viễn chẳng ngừng nghỉ. Dùng công đức bố thí đó, đầy đủ vô lượng căn lành rộng lớn, có thể nhiếp thọ tất cả thắng diệu công đức bảo. Pháp môn tu hành đều hợp với pháp môn của Bồ Tát tu, tâm thọ thân trì, cung hành thực tiễn, chưa từng sinh tâm mỏi mệt, trong tâm đều hoan hỉ làm công đức bố thí. Tâm của Ngài chẳng có ý niệm nào khác, chỉ chuyên tâm nhất ý chu cấp cho chúng sinh, chúng sinh cần gì, thì Ngài chu cấp cái đó. Nội tài, ngoại tài, người khác khó xả mà Ngài đều xả được, chưa từng sinh tâm hối tiếc. Bồ Tát thường suy gẫm quán sát các pháp, thấu đạt các pháp thật tướng, minh bạch tất cả các pháp đều từ duyên mà sinh, chẳng có bản thể của nó. Tuy nhiên bố thí có đức, nhưng Bồ Tát không tham, cũng không chấp trước công đức bố thí đó, càng không tính toán tương lai thu hoạch được quả báo gì. Hoài bảo của Ngài là thái độ hành sở vô sự, rất là tự tại. Ngài tuỳ thời tuỳ lúc, khi gặp cơ hội bố thí, thì Ngài không lựa chọn đối tượng bố thí, chẳng phân biệt kẻ gần người xa, chẳng nhớ ác xưa, cũng chẳng ghét kẻ ác, một luật bố thí bình đẳng.

        Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí như vậy thì, tất cả chư Phật thảy đều hiện tiền. Ngài nghĩ chư Phật như cha, vì được hộ niệm. Tất cả chúng sinh thảy đều hiện tiền, vì khắp khiến cho được an trụ nơi pháp thanh tịnh. Tất cả thế giới thảy đều hiện tiền, vì nghiêm tịnh tất cả cõi nước chư Phật. Tất cả chúng sinh thảy đều hiện tiền, vì dùng tâm đại bi cứu hộ khắp. Tất cả Phật đạo thảy đều hiện tiền, vì ưa quán mười thứ lực của Như Lai. Quá khứ vị lai hiện tại tất cả Bồ Tát, thảy đều hiện tiền, vì đều cùng viên mãn các căn lành. Tất cả không sợ hãi thảy đều hiện tiền, vì làm được sư tử hống tối thượng. Tất cả ba đời thảy đều hiện tiền, vì được trí bình đẳng quán sát khắp. Tất cả thế gian thảy đều hiện tiền, vì phát nguyện rộng lớn, suốt kiếp vị lai tu bồ đề. Tất cả hạnh Bồ Tát không mệt mỏi thảy đều hiện tiền, vì phát tâm rộng lớn vô số lượng.

Các vị đệ tử của Phật ! Khi đại Bồ Tát hành bố thí thân thịt cốt tuỷ, thì mười phương chư Phật cùng lúc đều hiện ra ở trước Ngài, khen ngợi Ngài rằng: “Thiện nam tử ! Ðó mới là bố thí vô thượng !” Lúc đó Bồ Tát thấy được chư Phật, tâm nghĩ mình giống như người con đi du hành đã lâu nay gặp lại cha. Ðó tức là tâm đại từ bi của Bồ Tát, xả thân cứu chúng sinh, vì đắc được cảm ứng chư Phật hộ niệm. Tất cả chúng sinh cũng đều hiện tiền, vì Bồ Tát khiến cho khắp tất cả chúng sinh, đều an trụ ở trong Phật pháp thanh tịnh. Tất cả thế giới đều hiện tiền, vì Bồ Tát đã từng trang nghiêm tất cả cõi Phật. Lại nữa tất cả chúng sinh đều hiện tiền, vì Bồ Tát chưa từng tiếc thân mạng, khắp cứu hộ họ. Tất cả Phật đạo đều hiện tiền, vì Bồ Tát đã từng dũng mãnh tinh tấn, chí ưa quán sát mười thần lực không thể nghĩ bàn của Phật. Tất cả Bồ Tát trong ba đời cùng lúc đều hiện ra ở trước, vì trong quá khứ các Ngài đã từng tu hạnh Bồ Tát với nhau, đồng thời viên mãn đủ thứ căn lành. Tất cả sử sự không sợ hãi thảy đều hiện ra ở trước, vì Bồ Tát đã từng ở trong các cõi, rộng làm sư tử hống. Sư tử hống là đánh trống pháp lớn, thổi loa pháp lớn, hoằng dương chánh pháp, giáo hoá chúng sinh. Tất cả ba đời thảy đều hiện ra ở trước-là nói tất cả chư Phật, các Bồ Tát, tất cả đủ loại chúng sinh trong ba đời, đồng thời hiển hiện ra ở trước, là vì Bồ Tát đã đạt được cảnh giới chuyển thức thành trí, đắc được diệu quán sát trí bình đẳng. Ðủ loại chúng sinh trên thế gian thảy đều hiển hiện ra, là vì Bồ Tát đối với những chúng sinh đó, khiến cho họ sinh tâm đại bi, phát tâm nguyện rộng lớn. Ngài nói: Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, suốt tất cả kiếp vị lai, tôi phải siêng tu bồ đề giác đạo, cứu bạt tất cả chúng sinh. Mười phương ba đời các Bồ Tát, khi các Ngài tu hạnh Bồ Tát, chưa từng có vị nào sinh tâm mỏi mệt nhàm chán, cũng đều hiển hiện ra ở trước, vì đó đây đều đã từng phát tâm bồ đề rộng lớn vô số lượng.

Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí tuỷ và thịt, thì đem căn lành đó hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân kim cang, không thể huỷ hoại. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân kiên mật, luôn không khuyết giảm. Nguyện cho tất cả chúng sinh được ý sinh thân, giống như thân Phật, trang nghiêm thanh tịnh. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân tướng trăm phước, ba mươi hai tướng tự trang nghiêm. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân diệu trang nghiêm, tám mươi vẻ đẹp, đầy đủ mười lực không thể phá hoại được. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân Như Lai, rốt ráo thanh tịnh, không thể hạn lượng. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân kiên cố, tất cả ma oán không thể phá hoại được. Nguyện cho tất cả chúng sinh được nhất tướng, đồng một thân tướng với chư Phật ba đời. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân vô ngại, dùng tịnh pháp thân khắp cõi hư không. Nguyện cho tất cả chúng sinh được bồ đề tạng thân, có thể dung nạp khắp tất cả thế gian. 

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát cầu nhất thiết trí, khi Ngài bố thí tuỷ và thịt. Vì khiến cho chúng sinh đều được thân Như Lai rốt ráo thanh tịnh vô lượng.

Các vị đệ tử của Phật ! Khi đại Bồ Tát Ngài bố thí cốt tuỷ và thân thịt, thì đem căn lành của Ngài tu bố thí, đối với chúng sinh hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều được thân kim cang bất hoại, không thể nào bị vật bên ngoài phá hoại được. Thân kim cang tức là thân vô lậu, chẳng có tất cả tập khí mao bệnh, không thể lậu vào ba đường ác. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được thân kiên mật, sáu căn thông minh lanh lợi, thân tâm khoẻ mạnh, chẳng có chút thiếu khuyết nào, tứ chi ngũ quan lục căn, đều viên mãn đầy đủ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được ý sinh thân không thể nghĩ bàn, tuỳ theo ý niệm mà đến khắp ba ngàn thế giới, chẳng bị tất cả sự trở ngại. Ba ngàn thế giới cũng không ngoài một niệm. Giống như pháp thân của Phật, đầy khắp hư không, tuỳ nơi hiện ra thân thanh tịnh trang nghiêm. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được thân tướng tốt trăm phước, có ba mươi hai tướng giống như thân Phật, tự trang nghiêm thân. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được thân tám mươi vẻ đẹp, trang nghiêm vi diệu không thể tưởng tượng được. Ðồng thời đầy đủ mười lực, không thể phá hoại được. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được thân giống như Phật, thanh tịnh không có văn tự nào có thể so sánh được. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được thân kiên cố nhất, tất cả ma vương và oán địch không cách chi phá hoại được. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được thân nhất tướng, nhất tướng tức là tất cả tướng, thân tướng có thể huyễn hoá trăm ngàn ức đồng với chư Phật ba đời. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được thân không bị tất cả hình thể sắc tướng trở ngại được, có thể hợp nhất với khí vật, dùng pháp thân thanh tịnh, khắp cùng hư không pháp giới. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được thân giống như bồ đề giác đạo, có thể dung nạp khắp mười phương thế giới, cũng có thể hiển hiện tất cả chúng sinh, thành Chánh Giác ở trong thân của Ngài. Ðó là hồi hướng căn lành, vì cầu nhất thiết trí huệ của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí cốt tuỷ và thân thịt cho chúng sinh. Hy vọng khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được thân chân thật thanh tịnh vô lượng giống như chư Phật.

Thân Phật là một nhiều vô ngại, vì tiếp dẫn chúng sinh, tuỳ loại mà hoá thân, cho nên nói Phật có trăm ngàn ức hoá thân, hoặc nói thân vô tận. Ở trong Kinh điển ghi có mười thân viên mãn:

1. Dưới cội bồ đề, hàng ma thành đạo là bồ đề thân.
2. Bổn nguyện độ sinh, thù nhân hàng tích làm nguyện thân.
3. Phổ ứng quần cơ, tuỳ loại hiện hoá làm hoá thân.
4. Thần lực nhậm trì, toàn thân bất hoại làm làm lực trì thân.
5. Vi trần tướng hải, trang nghiêm thật báo làm trang nghiêm thân.
6. Oai đức quảng đại, ma ngoại quy phục làm oai thế thân.
7. Ý có chỗ đến, thì thân liền đến, làm ý sinh thân.
8. Phước đức đầy đủ như biển, tròn khắp làm phước đức thân.
9. Pháp tính thanh tịnh, chu khắp pháp giới làm pháp thân.
10. Diệu trí viên minh, thông đạt vô ngại làm trí thân.

Ðiều gọi là hai thân, ba thân, mười thân, trăm ngàn ức thân, thật tức là một pháp giới thân, cùng làm duyên khởi, tướng tức tướng nhập, triển chuyển vô ngại, tổng làm một nhiều vô ngại pháp giới thân.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát đem tim mình bố thí cho những người đến xin. Như Bồ Tát Vô Hối Yểm. Bồ Tát Vô Ngại Vương, và vô lượng các đại Bồ Tát khác. Khi đem tim mình bố thí cho người xin, thì Ngài học tâm bố thí tự tại. Tu tâm bố thí tất cả. Tâm tập hành đàn Ba La Mật. Tâm thành tựu đàn Ba La Mật. Tâm học tất cả Bồ Tát bố thí. Tâm vô tận tất cả đều xả. Tâm tập quán tất cả đều bố thí. Tâm gánh vác hạnh bố thí của tất cả Bồ Tát. Tâm chánh niệm tất cả chư Phật hiện tiền. Tâm cúng dường cho tất cả những người đến xin không đoạn tuyệt.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài đem tim của mình bố thí cho người đến xin. Như thuở xưa có vị Bồ Tát Vô Hối Yểm, Bồ Tát Vô Ngại Vương, và vô lượng các vị đại Bồ Tát khác, các Ngài đều đã từng thực hành đại bố thí khó làm mà làm được. Khi Bồ Tát đem tim mình bố thí cho người xin, thì Ngài buông xả vạn duyên, tâm của Ngài rất tự tại. Ngài tu tâm bố thí tất cả, học tập đàn Ba La Mật-tâm bố thí đến bờ kia. Tâm thành tựu bố thí độ. Tâm học tập các Bồ Tát quá khứ tu bố thí. Tâm bố thí vô tận, tất cả trong ngoài đều thí xả được. Tâm tập quán dưỡng thành hoan hỉ bố thí. Tâm gánh vác trách nhiệm hạnh bố thí của tất cả Bồ Tát. Tâm chánh niệm chư Phật thường hiện tiền. Tâm bố thí đối với tất cả những người đến cầu xin, thảy đều khiến cho họ được toại tâm mãn nguyện, vĩnh viễn không đoạn tuyệt. Bồ Tát ôm ấp mười tâm nguyện nầy, hành nghiệp lành bố thí.

Khi đại Bồ Tát bố thí như vậy thì, tâm của Ngài thanh tịnh. Vì độ tất cả các chúng sinh. Vì được mười lực bồ đề. Vì nương vào đại nguyện mà tu hành. Vì muốn an trụ Bồ Tát đạo. Vì muốn thành tựu nhất thiết trí. Vì không bỏ lìa thệ nguyện xưa. 

Ðem các căn lành đó hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được tâm kim cang tạng, tất cả núi Kim Cang và núi Thiết Vi đều không thể phá hoại được. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tâm kim cang giới tướng chữ vạn trang nghiêm. Ðược tâm không thể lay động. Ðược tâm không sợ hãi. Ðược tâm lợi ích thế gian thường vô tận. Ðược tâm đại dũng mãnh tràng trí huệ tạng.

Ðại Bồ Tát, khi Ngài bố thí tim của mình cho người đến xin thì, tâm của Ngài rất thanh tịnh tự tại, tơ hào không tạp niệm, vì Ngài muốn độ tất cả chúng sinh. Lại vì muốn chứng được bồ đề giác đạo, nhập vào quả vị của Phật. Lại vì nương vào đại thệ nguyện thuở xưa Ngài đã phát, mà tu đại bố thí nầy. Lại vì an trụ vào quả vị bồ đề giác đạo, không có tâm thối chuyển. Lại vì hy vọng diệu trí viên mãn, thành tựu trí huệ thù thắng, cũng không muốn xả bỏ lìa đại thệ nguyện của mình đã phát, vì cứu chúng sinh, chẳng tiếc tất cả, nhất định muốn hoàn thành thệ nguyện của mình, mà bố thí tim của mình cho chúng sinh. Bồ Tát đem đủ thứ căn lành của Ngài tu tập, đối với chúng sinh hồi hướng như vầy: Ngài nói tôi nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được tâm kiên cố như kim cang, dù có dùng thế lực của tất cả núi Kim Cang và núi Thiết Vi, cũng không thể nào phá hoại được chánh niệm của Ngài. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được tâm kim cang giới tướng chữ vạn trang nghiêm, biểu thị vạn đức cát tường, mà nhập vào trí huệ lại khế hợp với pháp tính chư Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được tâm tín nguyện kiên định, chẳng bị dị luận của thiên ma ngoại đạo mà lay động. Lại đắc được tâm không sợ hãi đối với bất cứ cảnh giới gì. Lại đắc được tâm hằng thường chỉ biết lợi ích cho thế gian. Lại đắc được tâm đại dũng mãnh tràng đại trí huệ tạng.

Ðược tâm kiên cố tràng như Na la diên. Ðược tâm không thể cùng tận như biển chúng sinh. Ðược tâm Na la diên tạng không thể phá hoại được. Ðược tâm diệt trừ các chúng ma nghiệp ma quân. Ðược tâm không sợ hãi. Ðược tâm đại oai đức. Ðược tâm thường tinh tấn. Ðược tâm đại dũng mãnh. Ðược tâm không kinh hãi. Ðược tâm áo giáp kim cang. Ðược tâm các Bồ Tát tối thượng. Ðược tâm thành tựu Phật pháp bồ đề quang minh. Ðược tâm thành nhất thiết trí, ngồi dưới cội bồ đề, an trụ tất cả chánh pháp của chư Phật, lìa các mê hoặc. Ðược tâm thành tựu mười lực. 

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí tim. Vì khiến cho chúng sinh chẳng nhiễm thế gian, đầy đủ tâm mười lực của Như Lai.

Bồ Tát lại hy vọng chúng sinh đắc được tâm kiên cố giống như tràng Na la diên. Lại đắc được tâm đại từ bi vô cùng vô tận, nhiều giống như chúng sinh, thâm sâu vô lượng không đáy như biển cả, hạnh bố thí chẳng cùng tận. Lại đắc được tâm pháp tính Na la diên, không vật gì có thể phá hoại được. Lại đắc được tâm đại dũng mãnh, có thể tiêu diệt được tất cả nghiệp ma, có thể phá trừ hết thảy ma quân. Lại đắc được tâm chân lý không sợ hãi. Lại đắc được tâm bình đẳng từ ái có oai đức, khiến cho người cung kính mà lại thích phục tùng. Lại đắc được tâm luôn luôn biết tinh tấn tu trì chánh pháp. Lại đắc được tâm dũng mãnh cứu hộ tất cả chúng sinh, chẳng tiếc hy sinh thân mình. Lại đắc được tâm định không kinh sợ, cũng chẳng động thanh sắc. Lại đắc được tâm tin áo giáp kiên cố như kim cang. Lại đắc được tâm từ bi thanh tịnh giống như các Bồ Tát. Lại đắc được tâm trí huệ thành tựu pháp của Phật nói và viên mãn giác đạo. Lại đắc được thành tựu tâm đại trí huệ ngồi ở dưới cội bồ đề, an trụ trong chánh pháp của chư Phật, lìa khỏi hết thảy nhiễm ô điên đảo và tất cả dụ hoặc không chánh đáng. Lại đắc được thành tựu tâm mười thứ lực đại oai thần.

Mười hai thứ tâm tối thắng ít có đó, là khi đại Bồ Tát bố thí tim, đem đủ thứ căn lành của Ngài tu tập, hồi hướng cho chúng sinh. Vì hy vọng chúng sinh đều không ô nhiễm những mao bệnh không thanh tịnh của thế gian, có thể viên mãn đầy đủ mười thứ tâm oai thần lực, cho nên Bồ Tát ưa thích thực hành đại bố thí nầy.

Phật tử ! Nếu có người đến xin ruột thận gan phổi, thì đại Bồ Tát đều bố thí cho. Như Bồ Tát Thiện Thí. Bồ Tát Hàng Ma Tự Tại Vương, và vô lượng các đại Bồ Tát khác. Khi thực hành bố thí đó, thấy người đến xin, tâm của Ngài hoan hỉ, dùng mắt từ ái quát sát, vì cầu bồ đề. Tuỳ theo chỗ họ cần, thảy đều bố thí cho. Trong tâm chẳng hối tiếc, quán sát thân nầy, chẳng có bền vững. Tôi phải bố thí cho họ, để đổi lấy thân kiên cố. Lại nghĩ thân nầy cũng sẽ hư hoại, người thấy sẽ sinh nhàm chán, là thức ăn của chồn sói chó. Thân nầy vô thường, rồi sẽ phải bỏ, làm thức ăn cho loài khác, không có giác tri.

Các vị đệ tử của Phật ! Nếu như có người đến cầu xin ruột già, ruột non, thận, gan, phổi, thì đại Bồ Tát liền lập tức bố thí cho họ. Như thuở xưa Bồ Tát Thiện Thí, Bồ Tát Hàng Ma Tự Tại Vương, và vô lượng các vị đại Bồ Tát khác. Các Ngài đã từng thực hành đại bố thí nầy, khó xả mà xả được, khó làm mà làm được. Khi vị đại Bồ Tát nầy hành bố thí, Ngài thấy người đến xin, thì tâm của Ngài tràn đầy tâm hoan hỉ, dùng mắt từ ái, nhìn vào nội tạng của người đến xin. Bồ Tát vì cầu đạo quả vô thượng bồ đề, cho nên Ngài đều tuỳ thuận chúng sinh, bất cứ họ cầu xin gì, Ngài đều làm cho họ được toại tâm mãn nguyện, tuyệt đối trong tâm chẳng hối tiếc. Tại sao ? Vì Bồ Tát quán sát thân nầy chẳng bền vững: Hiện tại có người cần tôi phải mau bố thí cho họ, để được thân kim cang kiên cố bất hoại. Lại nghĩ đến thân thể nầy, chuyển nháy mắt thời gian trôi qua mấy mươi năm, sẽ hư hoại rữa mục, đến lúc đó ai thấy cũng đều sinh tâm nhàm chán. Nếu chẳng may chết sớm, bất quá làm thức ăn cho chồn, sói, và chó. Thân thể nầy là vô thường, đến phút cuối rồi cũng phải xả bỏ. Làm thức ăn cho dã thú, chẳng có tri giác, chẳng bằng sớm bố thí cho người.

Phật tử ! Khi đại Bồ Tát quán sát như thế, biết thân vô thường, rất ô uế. Nơi pháp thấu hiểu tỏ ngộ, sinh tâm đại hoan hỉ. Cung kính xem người đến xin đó, như bậc thiện tri thức. Tuỳ chỗ họ cầu xin, thảy đều bố thí cho. Dùng thân không bền nầy, đổi lấy thân bền vững.

Các vị đệ tử của Phật ! Khi vị đại Bồ Tát đó quán tưởng như vậy, Ngài biết thân thể nầy là vô thường, là bốn đại giả hợp mà thành, bên ngoài thì mồ hôi, bên trong thì tiết ra những chất ô uế, hôi thối đến cực điểm. Bồ Tát có tư tưởng như thế rồi, lập tức khoát nhiên hiểu ngộ chân không diệu hữu của Phật pháp. Chân chánh công đức lợi ích của sự bố thí cũng đều minh bạch triệt để, do đó sinh ra tâm đại hoan hỉ. Ngài rất cung kính thành khẩn chú ý nhìn người đến xin ngũ tạng lục phủ. Trong tâm lại nghĩ như vầy: Vị nầy đến giáo hoá ta, dẫn dắt ta phát tâm bồ đề, thiện tri thức bảo hộ ta tu hạnh Bồ Tát ! Chỗ họ cần, ta đều thí tặng cho họ. Ðem thân ô uế, không bền vững, vô thường, bốn đại giả hợp hư vọng nầy, đổi lấy pháp thân kim cang bất hoại, quang minh trí huệ biến hoá vô cùng vô tận.

Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí như vậy, Ngài đem hết thảy căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân trí tạng, trong ngoài đều thanh tịnh. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân phước tạng, có thể nhậm trì khắp tất cả trí nguyện. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân thượng diệu, bên trong chứa hương thơm, bên ngoài phát ra quang minh. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân không lộ bụng, trên dưới ngay thẳng, chi đốt tương xứng. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân trí huệ, dùng vị Phật pháp thư thái dưỡng lớn. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân vô tận, tu tập an trụ pháp tính thâm sâu.

Các vị đệ tử của Phật ! Khi đại Bồ Tát bố thí như Kinh văn đã nói ở trước, Ngài đem tất cả căn lành tu tập, hồi hướng cho tất cả chúng sinh: Ngài nói tôi nguyện cho tất cả chúng sinh đều được thân trí huệ bảo tạng, bên trong viên minh tịnh trí, chẳng có chút tư tưởng nhiễm ô nào, bên ngoài thân đoan chánh hiển lộ, tướng tốt trang nghiêm, có khí chất thanh cao, được trí thân trong ngoài thanh tịnh như thế. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được thân phước báo bảo tạng, có thể làm công đức đại bố thí nhậm vận tự tại khắp, toại tâm mãn nguyện, không có sự khổ về cầu không được. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được thân tốt đẹp tối thượng, bên trong chứa hương thơm, bên ngoài phát ra quang minh trí huệ, khiến cho ai thấy được cũng đều sinh tâm cung kính tôn trọng. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được thân trên dưới ngay thẳng, tứ chi các đốt đều viên mãn tương xứng, đừng có bụng mập mạp khó coi. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được thân trí huệ, pháp hỉ sung mãn, dùng vị Phật pháp để thư thới dưỡng lớn trí huệ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được thân công đức vô cùng tận, tu tập vô lượng pháp môn, an trụ ở trong pháp tính thâm sâu, vĩnh viễn không mỏi nhàm, vĩnh viễn không thối chuyển.

Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân Ðà la ni thanh tịnh tạng, dùng diệu biện tài, hiển bày các pháp. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân thanh tịnh, thân tâm trong ngoài đều tịnh. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân trí quán hạnh thâm sâu của Như Lai, trí huệ sung mãn, mưa đại pháp vũ. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân ở trong vắng lặng, ở ngoài vì chúng sinh làm trí tràng vương, phóng đại quang minh, chiếu khắp tất cả. 

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí ruột thận gan phổi. Vì khiến cho chúng sinh trong ngoài thanh tịnh, đều được an trụ nơi trí huệ vô ngại.

Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được thân Ðà la ni thanh tịnh tạng-Ðà là ni là tiếng Phạn, dịch là tổng trì, tức là có thể tổng nghĩa nhậm trì vô lượng Phật pháp, khiến cho không quên mất. Giữ thiện không thôi nghỉ, giữ ác đừng cho sinh khởi, lấy niệm định huệ làm thể, khái quát là bốn thứ: Pháp, nghĩa, Chú, nhẫn, đà la ni. Hy vọng chúng sinh được thân Ðà la ni thanh tịnh tạng, dùng bốn vô ngại biện tài, để hiển bày ra thật tướng lý thể không thể nghĩ bàn của các pháp. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được thân thanh tịnh, thân tâm chẳng nhơ bẩn, trong ngoài sạch sẽ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được thân trí quán hạnh thâm sâu giống như Phật, tức dùng Bát Nhã thâm sâu quán chiếu các hạnh vô thường, chứng được vô lượng diệu trí huệ, xiển minh các pháp thật tướng khắp đối với chúng sinh, giống như khắp mưa cam lồ pháp vũ, thấm nhuần pháp giới hữu tình vô tình. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được thân bên trong vắng lặng-tức là bên trong tâm vắng lặng, định lực thâm hậu, chẳng sinh vọng niệm, chẳng bị cảnh giới làm lay động. Ðối với bên ngoài làm trí huệ tràng vương của chúng sinh, dùng trí huệ lãnh đạo tất cả chúng sinh thoát khỏi biển sinh tử, hướng về Phật đạo. Phóng đại quang minh, chiếu khắp các pháp giới, phá trừ đen tối. Ðó tức là hồi hướng đủ thứ căn lành công đức của đại Bồ Tát, khi Ngài tu pháp môn bố thí ngũ tạng lục phủ. Vì hy vọng chúng sinh đều đắc được thân tâm trong ngoài thanh tịnh, đều được an ổn trụ trong cảnh giới trí huệ chẳng có chướng ngại.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát bố thí những lóng xương của mình cho người xin. Như Bồ Tát Pháp Tạng. Bồ Tát Quang Minh Vương, và vô lượng các đại Bồ Tát khác. Khi bố thí lóng xương phần thân của mình, thấy người đến xin, Ngài sinh tâm ưa thích. Tâm hoan hỉ. Tâm tịnh tín. Tâm an lạc. Tâm dũng mãnh. Tâm từ. Tâm vô ngại. Tâm thanh tịnh. Tuỳ chỗ người xin, đều bố thí cho họ.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát bố thí lóng xương trên thân của mình, cho người đến xin, như thuở xưa Bồ Tát Pháp Tạng, Bồ Tát Quang Minh Vương, và vô lượng các vị đại Bồ Tát khác. Khi vị đại Bồ Tát đó bố thí lóng xương trên thân Ngài, nhìn thấy có người đến xin, bèn sinh tâm ưa thích vô hạn, cao hứng có thể viên mãn tâm bố thí độ. Tâm của Ngài thanh tịnh, tin sâu có thể đạt được mục đích bố thí của Ngài. Do đó, trong tâm đặc biệt bình an khoái lạc. Có tâm dũng mãnh, chẳng cảm thấy thống khổ. Khởi tâm đại từ, nguyện cho người xin được lóng xương đó, giải trừ bệnh khổ của họ. Hành bố thí đó chẳng sinh tâm chướng ngại, trong tâm rất thanh tịnh, chẳng có tạp niệm. Tuỳ thuận người đến cầu xin, đều hoan hỉ cho họ, chẳng có tâm bỏn xẻn không thể xả không được.

Khi đại Bồ Tát bố thí lóng xương, thì đem căn lành đó hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được hoá thân, đừng thọ thân máu thịt xương nữa. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân kim cang, không thể phá hoại được, không có ai thắng qua được. Nguyện cho tất cả chúng sinh được pháp thân viên mãn nhất thiết trí, nơi cõi sinh chẳng ràng buộc, chẳng chấp trước. Nguyện cho tất cả chúng sinh được trí lực, các căn viên mãn, chẳng đoạn, chẳng hoại. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân pháp lực, trí lực tự tại, đến nơi bờ kia. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân kiên cố, thân đó chân thật, thường không tán hoại.

Khi đại Bồ Tát bố thí lóng xương, Ngài đem đủ thứ căn lành tu tập, đối với chúng sinh hồi hướng như vầy: Ngài nói tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đắc được hoá thân hoa sen, đừng có thân máu, thịt, xương, bốn đại giả hợp này nữa. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân kim cang, chẳng có vật gì phá hoại được, trên thế gian chẳng có ai thắng qua thân kim cang bất hoại nầy. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được pháp thân thanh tịnh viên mãn nhất thiết trí, sinh ra trong cảnh giới tự tại chẳng có ràng buộc, chẳng có chấp trước. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được thân trí lực, sáu căn viên mãn đầy đủ, vĩnh viễn chẳng đoạn, chẳng hoại, chẳng thiếu khuyết. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân pháp lực, thân đó thanh tịnh quang minh, trí huệ sung mãn, tự tại vô ngại, đến được Niết Bàn bờ bên kia. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân kiên cố, thân đó mạnh khoẻ, vĩnh viễn chẳng có bệnh não, trong ngoài chân thật, vĩnh viễn không thể tán hoại.

Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân tuỳ ứng, giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân trí huân, có đầy đủ sức mạnh Na la diên. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân kiên cố tương tục không đoạn tuyệt, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả bệnh tật mệt mỏi. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân đại lực an trụ, đều đầy đủ sức đại tinh tấn. Nguyện cho tất cả chúng sinh được pháp thân bình đẳng khắp thế gian, trụ nơi trí huệ tối thượng vô lượng. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân phước đức lực, ai thấy đều được lợi ích, xa lìa các điều ác. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân không nơi nương tựa, đều được đầy đủ trí huệ không nương tựa. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân Phật nhiếp thọ, thường được tất cả chư Phật gia hộ.

Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được thân tuỳ tiếng ứng hoá, ngàn chỗ cầu ngàn chỗ ứng, vào trong đủ loài chúng sinh, tuỳ theo loài mà ứng hiện, giáo hoá điều phục, khiến cho họ đều được an trụ nơi Phật đạo. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thường thường gần gũi bậc thiện tri thức, thọ được thân trí huệ huân tập, trở thành bậc trí, và còn có sức mạnh kim cang đại lực sĩ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân thể kiên cố, tinh thần sung mãn, có sức mạnh hơn người, tương tục không dứt, vĩnh viễn không cảm thấy mệt mỏi, cũng chẳng bị mệt mỏi quá độ mà sinh bệnh, cũng chẳng vì vậy mà ngừng tất cả sự hoạt động, cho nên chẳng có những hiện tượng xấu đó. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân thể có sức mạnh, lại có thể an trụ nơi vắng lặng, lại hay dũng mãnh tinh tấn, chẳng kể ngày đêm, dụng công tu hành. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được pháp thân thanh tịnh tận hư không khắp pháp giới, bình đẳng hộ khắp pháp giới chúng sinh, an trụ nơi trí huệ tối thượng vô lượng. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân phước đức lực. Người có phước huệ đức tánh đều đầy đủ, thì tự nhiên có sức nhiếp hoá, khiến cho người thiện thấy được, liền tăng trưởng thiện niệm của họ; còn người ác thấy được, thì lập tức biết cải ác hướng thiện, xa lìa mọi tập ác ngày xưa. Cổ ngữ có nói:

“Thân giáo trọng hơn ngôn giáo”.

Lại nói:

“Cầu kinh sư thì dễ
Cầu nhân sư thì khó”.

Những lời lẽ đó đều biểu thị lực phước đức của thân, hay khiến cho người thấy được lợi ích xa lìa các điều ác. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được pháp thân đầy khắp hư không, chẳng cần nơi nương tựa, đầy đủ trí huệ không chấp, không nương tựa. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân thanh tịnh được chư Phật nhiếp thọ, thường thường được Phật lực của chư Phật gia bị và hộ niệm.

Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân lợi ích khắp các chúng sinh, thảy đều vào khắp tất cả mọi loài. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân hiện khắp, chiếu hiện khắp tất cả Phật pháp. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân đầy đủ tinh tấn, chuyên nhớ siêng tu đại thừa trí hạnh. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân thanh tịnh lìa cống cao ngã mạn, trí thường an trụ, không động loạn. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân hạnh kiên cố, thành tựu tất cả trí nghiệp đại thừa. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân sinh vào nhà Phật, vĩnh viễn lìa tất cả sinh tử thế gian. 

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí lóng xương. Vì khiến cho chúng sinh đắc được nhất thiết trí, vĩnh viễn được thanh tịnh.

Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được thân lợi ích khắp tất cả chúng sinh, bình đẳng vào trong sáu nẻo để giáo hoá tất cả chúng sinh, cứu độ họ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân thị hiện khắp, có thể chiếu hiện khắp tất cả Phật pháp. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân tinh tấn tu học tất cả pháp môn, viên mãn đầy đủ thông đạt vô ngại, một lòng một ý chuyên môn siêng tu Phật pháp đại thừa, cầu trí huệ vô thượng. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân thanh tịnh lìa khỏi tập khí cống cao ngã mạn, dùng trí lãnh đạo tất cả mọi hành vi, thường an trụ nơi cảnh giới trí huệ, chẳng bị hoàn cảnh lay động, chẳng bị tham sân si mê loạn.

Người tu học Phật đạo, quan trọng nhất là phải diệt trừ tập khí mao bệnh chấp ta, ngã mạn, cống cao. Hằng ngày chúng ta tu, tức cũng là diệt trừ tập khí. Diệt trừ được một phần tập khí mao bệnh, thì đắc được một phần pháp thân thanh tịnh; nếu chẳng hạ thủ công phu về phương diện nầy, thì thân thanh tịnh chẳng dễ gì đắc được; nếu chẳng đắc được thân thanh tịnh, thì trí huệ không thể hiện tiền. Ngã mạn, ngã chấp, cống cao, những thứ đó đều là tập khí nhiễm ô, cũng là mao bệnh rất khó dứt trừ, ai ai cũng đều cho rằng là tâm lý, thì đều cảm thấy ở đâu cũng cao hơn người một bậc, việc gì cũng muốn tranh đệ nhất, có thái độ trong con mắt chẳng xem ai ra gì. Ðó đều là mao bệnh xấu cống cao ngã mạn, hy vọng mọi người tuỳ thời chú ý tu sửa những mao bệnh nầy, nhất là người xuất gia càng phải đặc biệt tự chế. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân thể kết thật tín niệm trác tuyệt, tu hành biện đạo vĩnh viễn chẳng thối chuyển, từ lúc ban đầu phát tâm bồ đề cho đến thành Phật, chẳng bao giờ thay đổi tư tưởng tu hành, cũng chẳng hiện ra ý niệm giải đãi, thành tựu nghiệp quả nhất thiết trí huệ, viên mãn hạnh Bồ Tát đại thừa. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân sinh vào nhà Phật, làm con của đấng Pháp Vương, vĩnh viễn lìa khỏi sinh tử của thế gian. Ðó là hồi hướng đủ thứ căn lành tu tập của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí lóng xương. Vì khiến cho chúng sinh đắc được trí huệ, thân tâm cũng vĩnh viễn xa lìa cấu bẩn, trong ngoài đều được thanh tịnh.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát thấy có người tay cầm dao bén đến cầu xin da của mình, Ngài sinh tâm hoan hỉ, các căn thư thái, ví như có ân nặng với mình, bèn nghinh tiếp rước, mời ngồi trên toà, cuối mình cung kính, mà nghĩ như vầy: Người nầy đến xin, thật là khó gặp, họ muốn làm cho ta mãn tâm nguyện được nhất thiết trí, cho nên đến cầu xin, lợi ích cho ta. Bồ Tát hoan hỉ vui vẻ mà nói rằng: Thân nầy của tôi, tất cả đều xả bỏ, ai muốn cần da thì tuỳ ý mà lấy. Như thuở xưa Bồ Tát Thanh Tịnh Tạng, Bồ Tát Kim Hiếp Lộc Vương, và vô lượng các đại Bồ Tát khác, chẳng có gì khác biệc.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát nhìn thấy có người cầm dao bén đến xin da của Ngài. Ngài thấy rồi bèn lập tức sinh tâm đại hoan hỉ vui vẻ, toàn thân sung mãn sự cao hứng, giống như có người ban tặng ân huệ cho Ngài. Ngài lập tức nghinh đón, thỉnh mời vào trong nhà và mời vị đó ngồi trên toà, hỏi thăm cung kính đến cực điểm. Trong tâm nghĩ rằng: Vị nầy đến xin da, thật là bậc thiện tri thức của ta, có nhân duyên lớn với ta. Khắp thế gian rất nhiều người, nhưng chỉ có mình vị nầy đến xin da của ta, đây chẳng phải là rất khó gặp chăng ? Họ đến muốn làm cho ta được nguyện vọng đầy đủ nhất thiết trí ! Cho nên đến xin da của ta, đây là làm lợi ích cho ta ! Nghĩ như thế, trong tâm càng thêm hoan hỉ, vui vẻ tươi cười mà nói với vị đó rằng: “Thân thể tôi bây giờ, toàn thân trong ngoài đều bố thí, ông muốn dùng da của tôi, thì tuỳ ý ông, muốn chỗ nào thì cứ lấy !” Thuở xưa có vị Bồ Tát Thanh Tịnh Tạng, Bồ Tát Kim Hiếp Lộc Vương, ngoài ra còn có vô lượng các đại Bồ Tát khác, đều đã từng bố thí da, giống như Ngài chẳng có gì khác biệt.

Bấy giờ, Bồ Tát đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được da mịn màng, giống như đức Như Lai, sắc tướng thanh tịnh, người thấy chẳng nhàm. Nguyện cho tất cả chúng sinh được da bất hoại, giống như kim cang, không có gì hoại được. Nguyện cho tất cả chúng sinh được da sắc vàng, giống như vàng thật tốt đẹp ở cõi Diêm Phù Ðề, thanh tịnh sáng sạch. Nguyện cho tất cả chúng sinh được da vô lượng màu sắc, tuỳ tâm ưa thích của họ, hiện ra màu sắc thanh tịnh. Nguyện cho tất cả chúng sinh được da thanh tịnh sắc đẹp, đầy đủ sắc tướng thanh tịnh của Như Lai. Nguyện cho tất cả chúng sinh được da màu sắc đệ nhất, tự tánh thanh tịnh, sắc tướng không gì so sánh được.

Khi Bồ Tát quán tưởng như vậy, liền đem đủ thứ công đức của Ngài tu bố thí, vì chúng sinh mà hồi hướng như vầy: Tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, đều được da mịn màng, giống như màu da của Phật-sắc vàng, nhẵn bóng thanh tịnh, ai thấy cũng đều hoan hỉ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được da bất hoại, giống như kim cang, chẳng có vật gì có thể hại được. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được da sắc vàng, giống như vàng thật tốt đẹp ở cõi Diêm Phù Ðề, thanh tịnh mà còn sáng sủa. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được da vô lượng màu sắc, tuỳ tâm của mỗi người thấy được đều hoan hỉ, muốn màu gì thì hiện ra màu đó. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được da thanh tịnh tốt đẹp nhất, đầy đủ sự trang nghiêm của người xuất gia, cũng có thể biểu hiện từ bi thiện căn của đệ tử Phật, giống như sắc tướng thanh tịnh của Phật-ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được da màu sắc tốt đẹp bậc nhất trên thế gian, vì tự tánh thanh tịnh không nhiễm, phẩm đức cao siêu, cho nên màu da tướng bên ngoài thân thể, chẳng có chỗ nào mà không đoan chánh viên mãn. Sắc tướng thanh tịnh, chẳng có ai có thể so sánh được.

Nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu màu da thanh tịnh của Như Lai, dùng các tướng tốt tự trang nghiêm. Nguyện cho tất cả chúng sinh được màu da đẹp, phóng đại quang minh, chiếu khắp tất cả. Nguyện cho tất cả chúng sinh được da lưới sáng, như tràng cao của thế gian, phóng ra bất khả thuyết quang minh viên mãn. Nguyện cho tất cả chúng sinh được màu da nhẵn bóng, tất cả sắc tướng thảy đều thanh tịnh. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí da. Vì khiến cho chúng sinh đều được tất cả cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh, đầy đủ đại công đức của Như Lai.

Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh, có thể tu hành các điều lành, không làm các điều ác, siêng tu Phật pháp của chư Phật nói, y giáo phụng hành, thành tựu màu da thanh tịnh giống như Phật, dùng tướng tốt viên mãn mà tu hành đắc được đầy đủ, tự trang nghiêm thân mình. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được màu da tốt đẹp nhất, phóng đại quang minh, có thể chiếu khắp đến tất cả hữu tình vô tình trong mười phương thế giới. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được da rất quang minh mà hiển hiện tấm lưới, giống như tràng cao dựng thẳng của thế gian, phóng ra vô lượng quang minh, chiếu soi mười phương. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được màu da nhẵn bóng mềm mại sáng sủa, ngũ quan tứ chi, khắp thân trên dưới đều hiển hiện tướng tốt thanh tịnh. Ðó tức là hồi hướng căn lành công đức tu tập của đại Bồ Tát. Vì khiến cho chúng sinh đều đắc được cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh, cũng hy vọng mỗi chúng sinh đều có thể tu tập đại công đức giống như Phật.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát dùng ngón tay ngón chân bố thí cho những người xin. Như Bồ Tát Kiên Tinh Tấn. Bồ Tát Diêm Phù Ðề Tự Tại Vương, và vô lượng các đại Bồ Tát khác. Bấy giờ, Bồ Tát hoan hỉ vui vẻ, tâm Ngài an lành, chẳng có điên đảo. Nương theo đại thừa, chẳng cầu báo đáp, chẳng màng tiếng tăm, chỉ phát tâm Bồ Tát rộng lớn, xa lìa tất cả sự nhiễm ô tham sẻn đố kị, chuyên hướng về diệu pháp vô thượng của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, hiện tại Ngài lại đem ngón tay ngón chân bố thí cho những người đến xin. Như thuở xưa Bồ Tát Kiên Tinh Tấn, Bồ Tát Diêm Phù Ðề Tự Tại Vương, cùng với vô lượng các đại Bồ Tát khác, khi các Ngài hành Bồ Tát đạo, đều đã thực hành đại bố thí nầy, khó làm mà làm được. Vị Bồ Tát nầy bố thí ngón tay, ngón chân, trên mặt của Ngài hiện ra dáng vẻ từ bi hoan hỉ, trong tâm của Ngài rất an ổn từ bi, chẳng có chút điên đảo tạp loạn nào. Hoàn toàn ôm hoài bảo tu theo Phật pháp đại thừa, tâm nguyện làm lợi ích cho chúng sinh. Ngài chẳng cầu báo đáp tốt đẹp, cũng chẳng hy vọng có tiếng tăm là đại thiện nhân, để cho ai ai cũng biết đến cúng dường lễ bái Ngài. Ngài chỉ thương xót dân chúng, đại bi làm đầu, phát tâm nguyện bồ đề rộng lớn. Khi Bồ Tát ban đầu phát tâm, thì xả lìa tâm nhiễm ô tham sẻn đố kị, và đủ thứ tập khí mao bệnh nhơ bẩn. Ngài chỉ chuyên tâm một lòng hướng về diệu pháp cầu chứng quả Phật.

Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí như vậy, Ngài đem các căn lành thảy đều hồi hướng: Nguyện cho tất cả chúng sinh được ngón tay chân thon dài, giống như Phật không khác. Nguyện cho tất cả chúng sinh được ngón tay chân tròn trịa, trên dưới xứng với nhau. Nguyện cho tất cả chúng sinh được móng tay chân đồng đỏ, nổi cao thanh tịnh chói sáng. Nguyện cho tất cả chúng sinh được ngón tay chân của bậc nhất thiết trí thắng trượng phu, đều có thể nhiếp trì tất cả các pháp. Nguyện cho tất cả chúng sinh được ngón tay chân tốt đẹp, đầy đủ mười lực. Nguyện cho tất cả chúng sinh được ngón tay chân như bậc đại nhân thon dài mập mạp đều đặng.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, khi bố thí ngón tay ngón chân như ở trên đã nói, Ngài đem căn lành công đức của Ngài tu hành, tơ hào cũng chẳng lưu lại, đều hồi hướng cho chúng sinh. Ngài nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được ngón tay thon nhỏ mà dài, giống như ngón tay của Phật, chẳng có gì khác biệt. Tại sao Bồ Tát hy vọng ngón tay của chúng sinh thon dài ? Một là vì ngón tay của Phật thon dài, nên Ngài cũng muốn chúng sinh có ngón tay giống như ngón tay của Phật. Hai là ngón tay dài hơn bàn tay là tướng đại quý, mà còn thông minh hơn người.

Thời xưa khi hình dung tướng đế vương, thì nhất định nói hai tay của họ dài quá gối, hai tai thòng xuống gần vai, mắt phượng đỏ, đi như rồng, như hổ, cho nên Bồ Tát nguyện chúng sinh có ngón tay thon. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được ngón tay mập tròn, đầu ngón tay tròn trịa có thịt, cũng chẳng lộ gân cốt, no đầy vừa phải, không thô, không tế, trên dưới bằng đều tương xứng, khiến cho người thấy được sinh tâm hoan hỉ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được móng tay màu đồng đỏ, nhô lên cao, bề mặt móng tay rất thanh tịnh lại có quang minh chiếu sáng, nói đơn giản là có thể dùng làm gương chiếu soi người và vật, là quý tướng thiên nhiên. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh có ngón tay của bậc nhất thiết trí huệ thù thắng đại trượng phu. Bậc đại trượng phu thì: «Phú quý không dâm, bần tiện không không thay đổi, oai võ không khuất phục”, phải có chí lớn tiết lượng, mới có thể được gọi là đại trượng phu. Nói về Bồ Tát đại trượng phu, thì Ngài học tập tất cả các pháp, thông đạt tất cả các pháp, mà còn có thể sinh được ngón tay tướng tốt, giống như Phật có tám mươi vẻ đẹp, ngón tay tốt là một trong tám mươi vẻ đẹp. Bồ Tát hy vọng chúng sinh cũng có vẻ đẹp như thế, và còn đầy đủ mười thứ oai thần lực. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được ngón tay của bậc đại nhân. Bậc đại nhân là chỉ Ðức Phật đầy đủ phước huệ, tâm nguyện của Bồ Tát là hy vọng chúng sinh cũng đắc được ngón tay giống như Phật, thon nhỏ mà dài, mập tròn no đầy, dài ngắn đồng đều, ngay thẳng xứng nhau, chẳng có hiện tượng không bằng nhau.

Nguyện cho tất cả chúng sinh được ngón tay có luân tướng, đốt ngón tay tròn đầy, chỉ tay đều xoay vòng về bên phải. Nguyện cho tất cả chúng sinh được ngón tay như hoa sen có chỉ hình chữ vạn, mười lực nghiệp báo, tướng tốt trang nghiêm. Nguyện cho tất cả chúng sinh được ngón tay quang tạng, phóng đại quang minh, chiếu bất khả thuyết thế giới của chư Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh được ngón tay thiện an bố, thiện xảo phân bố, lưới màng đầy đủ. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí ngón tay. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều được tâm thanh tịnh.

Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được ngón tay ngón chân có luân tướng, đốt của mỗi ngón đều rất viên mãn, chỉ tay đều xoay vòng về bên phải. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được ngón tay như hoa sen, có chỉ tay cát tường hình chữ vạn. Có nghiệp báo mười thứ oai thần lực, thành tựu thứ tướng tốt đó trang nghiêm thân. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được quang tạng sáng lạn, phóng đại quang minh, như giữa ban ngày, có thể chiếu đến nhiều thế giới của Phật không thể nào tính đếm được. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được ngón tay thiện an bố, khéo léo phân bố như lưới, như màng, mọi việc đều viên mãn đầy đủ. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí ngón tay ngón chân cho chúng sinh. Vì khiến cho chúng sinh đều đắc được thân tâm thanh tịnh.

Phật tử ! Khi đại Bồ Tát thỉnh cầu pháp, nếu có người nói: Ông có thể bố thí móng liền thịt cho tôi, thì tôi sẽ ban bố pháp cho ông. Bồ Tát liền đáp: Hãy ban bố pháp cho tôi, còn móng liền thịt thì tuỳ ý mà lấy. Như Bồ Tát Cầu Pháp Tự Tại Vương. Bồ Tát Vô Tận, và vô lượng các đại Bồ Tát khác. Vì cầu pháp, muốn đem chánh pháp khai thị diễn nói, lợi ích chúng sinh. Tất cả đều khiến cho được đầy đủ, nên xả bỏ móng liền thịt cho những người xin.

Các vị đệ tử của Phật ! Khi đại Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng, tu hồi hướng thứ sáu-Tuỳ thuận kiên cố hồi hướng tất cả căn lành, thì Ngài coi trọng về bố thí Ba La Mật, còn năm độ kia chẳng phải không tu, chỉ bất quả tuỳ sức tuỳ phần mà thôi. Trong quá trình hồi hướng thứ sáu nầy, Ngài đã từng bố thí nội tài và ngoại tài-đất nước vợ con bảy báu đồ tư sanh, đầu mắt tuỷ não, thân thịt, ngũ quan, tứ chi, ngũ tạng, lục phủ .v.v… Hiện tại Ngài lại làm công đức bố thí. Bồ Tát vì pháp mà xả thân, vĩnh viễn kiên lập ở trong tâm mắt của chư Phật Bồ Tát và trời người. Chúng ta thân làm đệ tử Phật, đương nhiên không thể trong thời gian ngắn mà đạt được sự hành trì như Bồ Tát, nhưng chúng ta ít nhứt cũng phải đi trên con đường thành Phật đạo, tiêu diệt bớt tham sân si, làm các điều lành, không làm các điều ác. Ðối với tập khí mao bệnh, phải cố gắng sửa đổi, Bồ Tát xả bỏ được thân thịt của Ngài, chẳng lẽ chúng ta một chút mao bệnh cũng bố thí xả bỏ không được chăng ? Tôi có một cái túi miệng lớn, chuyên thu những tập khí mao bệnh xấu, xin các vị phát tâm đại từ bi, hãy đem bố thí hết cho tôi ! Hơn nữa chúng ta phải phản tỉnh, thường sám hối lỗi lầm của mình. Bồ Tát nguyện nguyện đều hy vọng chúng ta đắc được thân tâm thanh tịnh, khai mở đại trí huệ sớm thành Phật đạo, mà chúng ta chẳng nghe lời Ngài, chẳng tiếp thọ lợi ích của Ngài hồi hướng, suốt ngày khởi vọng tưởng, lúc nào cũng khởi lòng tham dục, ở đâu cũng trách người không phải, sinh tâm sân si. Thân tâm như vậy làm sao mà được thanh tịnh ! làm sao có thể khai đại ngộ, đắc được trí huệ ! Tu đến tám vạn đại kiếp cũng thoát không khỏi cửa tự lầm lẫn, còn nói chi đến minh tâm kiến tánh ! Không sửa đổi tâm ý và hành vi của mình, thì làm sao đối với sự cúng dường của chư Phật Bồ Tát, phụ mẫu, sư trưởng và mười phương ? Tức nhiên chúng ta đã làm đệ tử của Phật, cắt ái từ thân, cạo bỏ râu tóc, thân mặc y của Như Lai, thì chúng ta phải chân tâm thành ý, y giáo phụng hành, cước đạp thật địa, trong ngoài nhất chí, xứng đáng làm đệ tử Phật, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni !

Bồ Tát Kim Cang Tràng giảng xong phần Kinh văn ở trước rồi, Ngài rất cảm động lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài muốn cầu nghe Phật pháp chưa từng được nghe, lúc đó nếu như có người nói với Ngài rằng: Nếu Ngài có thể bố thí ngón tay và móng tay liền thịt, thì tôi nhất định sẽ nói Phật pháp “liễu sinh thoát tử” cho Ngài nghe. Bồ Tát nghe được pháp vi diệu như thế, rất vui mừng lập tức đáp rằng: Chỉ cần ông nói cho tôi Phật pháp “liễu sinh thoát tử”, thì móng tay liền thịt và da thịt trên thân của tôi, tuỳ ý ông có thể lấy dùng. Giống như thuở xưa Bồ Tát Cầu Pháp Tự Tại Vương, Bồ Tát Vô Tận và vô lượng các vị đại Bồ Tát khác, các Ngài vì cầu pháp, muốn đem chánh pháp giảng nói cho tất cả chúng sinh, hướng dẫn chúng sinh tu học Phật pháp, giáo hoá chúng sinh sinh chánh tín chánh niệm, khiến cho chúng sinh đắc được lợi ích chân thật, mà còn hy vọng chỗ mong cầu của chúng sinh đều được viên mãn, cho nên Bồ Tát thà bố thí móng tay liền thịt của mình cho người đến xin.

Lúc đó, Bồ Tát đem căn lành đó hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được tướng móng đồng đỏ như chư Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được móng nhẵn bóng, tướng tốt trang nghiêm. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được móng quang minh thanh tịnh, chiếu soi bậc nhất. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được móng nhất thiết trí, đủ tướng của bậc đại nhân. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được móng không gì sánh bằng, nơi các thế gian, không chỗ nhiễm trước. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được móng trang nghiêm đẹp, quang minh chiếu khắp tất cả thế gian. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được móng không hoại, thanh tịnh không thiếu khuyết.

Khi Bồ Tát quyết định đem móng liền thịt bố thí cho chúng sinh, thì đem căn lành của Ngài bố thí tịch tập, đối với chúng sinh hồi hướng như vầy: Ngài nói, tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đắc được móng màu đồng đỏ giống như chư Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đắc được móng quang minh thanh tịnh, giống như gương sáng có thể chiếu thấy tất cả sự vật, cũng có thể chiếu thấy nghiệp quả tuần hoàn của chúng sinh, là móng bậc nhất trong thế gian. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được móng có thể sinh ra nhất thiết trí huệ, đầy đủ tướng của bậc đại nhân-tướng móng của chư Phật Bồ Tát. Cổ ngữ Trung Quốc có cầu rằng: “Phước nhuận ốc, đức nhuận thân”. Nghĩa là nói những người giàu có, nhà cửa của họ chưng bày đồ đạc tốt đẹp, hiển bày có tiền có khí mạch, cầu biểu hiện trên vật chất. Người có đức tính thì không giống như thế, tức là họ cao quý nhã khiết về khí chất, toả ra một thứ khí chất khiến cho họ kính ngưỡng. Mặt mày của họ cùng với tóc da đều đặc biệt nhẵn bóng có một thứ ánh sáng thanh tịnh, tay dũi ra mười ngón tròn mập, móng tay quang minh chiếu sáng, từ móng ngón tay có thể nhìn được sự thông minh trí huệ của họ. Lại nguyện cho tất cả chúng đều sinh đắc được móng tốt đẹp nhất, chẳng có ai có thể so sánh được. Ðối với năm dục của thế gian, họ chẳng nhiễm, cũng chẳng chấp trước, nhìn thấu tất cả buông xả tất cả. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được móng đặc biệt tốt đẹp lại rất trang nghiêm, trên móng phóng ra quang minh, có thể chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được móng không hoại, thanh tịnh lại không thiếu khuyết, mỹ mãn đầy đủ. Ngũ quan tứ chi của con người tại sao có sự đẹp xấu khác biệt ? Đó đều là do đời đời kiếp kiếp tu căn lành mà thành. Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, là do Ngài đời đời kiếp kiếp tu hành lục độ vạn hạnh mới thành tựu. Nếu chúng ta muốn có tướng tốt đầy đủ, thì phải theo như lý mà tu hành, xả mình vì chúng sinh.

Nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được tướng móng phương tiện nhập vào tất cả Phật pháp, trí huệ rộng lớn, thảy đều thanh tịnh. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được móng thiện sinh, nghiệp quả Bồ Tát thảy đều thanh tịnh vi diệu. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được móng như bậc đại Đạo Sư nhất thiết trí, phóng vô lượng tạng quang minh sắc đẹp. 

Ðó là đại Bồ Tát vì cầu pháp, khi bố thí móng liền thịt, đem căn lành hồi hướng. Vì khiến cho chúng sinh đầy đủ móng sức lực vô ngại nhất thiết trí của chư Phật.

Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh, có thể vào sâu các pháp, thông đạt vô ngại, lại có thể vận dụng phương tiện mà không nhiễm nơi cảnh giới, đắc được trí huệ thanh tịnh rộng lớn. Có móng tướng tốt như thế, thì đối với sự việc chẳng nhiễm bụi trần, đối với pháp chẳng chấp chẳng nương tựa. Lại nguyện cho tất cả chúng đều sinh đắc được móng có thể sinh ra đủ thứ nghiệp thiện, diệt trừ tất cả nghiệp ác, nghiệp quả đắc được đồng với nghiệp thiện quả báo của Bồ Tát, thảy đều thanh tịnh vi diệu. Lại nguyện cho tất cả chúng đều sinh đắc được trí móng nhất thiết trí huệ, có thể làm đại Đạo Sư của chúng sinh, giống như móng tay của Phật, có thể phóng ra vô lượng tạng quang minh vô lượng màu sắc vi diệu. Ở trên là nói về móng tốt đẹp, đều tướng tốt và vẻ đẹp của Phật có đủ. Ðại Bồ Tát vì cầu pháp, bồ thí móng liền thịt của Ngài, lại đem căn lành bố thí hồi hướng cho chúng sinh, Ngài cũng hy vọng chúng sinh có tướng tốt vẻ đẹp như vậy, và còn hy vọng chúng sinh được móng đầy đủ nhất thiết trí huệ, thành tựu tất cả trí lực thông đạt vô ngại giống như chư Phật. Ðó là mục đích bố thí móng của đại Bồ Tát.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát cầu tạng Phật pháp, cung kính tôn trọng, sinh ý nghĩ khó được. Nếu có người đến nói rằng: Ngài có thể nhảy vào hầm lửa sâu, thì tôi sẽ bố thí pháp cho Ngài. Bồ Tát nghe rồi hoan hỉ vui mừng, suy gẫm như vầy: Tôi vì pháp, còn phải ở lâu trong ngục A tỳ, tất cả các đường ác, thọ vô lượng khổ, hà huống nhảy vào hầm lửa sâu, liền được nghe pháp. Kỳ thay chánh pháp, rất dễ đắc được. Chẳng thọ vô lượng thống khổ địa ngục, chỉ nhảy vào hầm lửa, lập tức liền được nghe. Hãy vì tôi nói, tôi sẽ nhảy vào hầm lửa. Như Bồ Tát Cầu Thiện Pháp Vương, Bồ Tát Kim Cang Tư Duy. Vì cầu pháp mà vào trong hầm lửa.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài vì muốn cầu đắc được bảo tạng Phật pháp thành Phật, trên đối với chư Phật, dưới đến tất cả chúng sinh, Ngài đều cung kính tôn trọng, thường sinh khởi ý nghĩa khó được:

“Pháp vi diệu thâm sâu vô thượng,
Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được”.

Lại nghĩ:

“Thân người khó được
Phật pháp khó nghe
Nước Phật khó sanh
Thiện tri thức khó gặp”.

Lúc đó có người có thể giảng Kinh thuyết pháp được, đến ở trước Bồ Tát nói với Ngài rằng:

– “Nếu như Ngài có thể nhảy vào hầm lửa sâu, như có tinh thần dũng cảm hy sinh nguyện xả bỏ mạng sống để cầu pháp, thì tôi sẽ vì Ngài giảng nói diệu pháp khó gặp được”.
Bồ Tát nghe rồi, hoan hỉ vui mừng, trong tâm nghĩ:

– «Ta vì cầu chánh pháp khó được, dù vào trong địa ngục A tỳ và vào trong ba đường ác thọ khổ lâu dài cũng chẳng tiếc. Hiện tại chỉ cần ta nhảy vào hầm lửa ở nhân gian, mà có thể được nghe pháp. Kỳ thay, quá dễ dàng được nghe chánh pháp, không cần phải thọ vô lượng thống khổ trong địa ngục A tỳ, chỉ cần nhảy vào hầm lửa thì có thể được nghe. Xin ông hãy vì tôi nói chánh pháp nhãn tạng ! Tôi nghe rồi nhất định sẽ nhảy vào hầm lửa”. Bồ Tát biểu hiện như vậy, giống như thuở xưa Bồ Tát Cầu Thiện Pháp Vương, Bồ Tát Tư Duy, các Ngài cũng đã từng vì cầu pháp mà nhảy vào trong hầm lửa sâu.

Tư tưởng của Bồ Tát ngược lại với tư tưởng của phàm phu, Bồ Tát rất cẩn thận khi trồng nhân, cho nên nói Bồ Tát sợ nhân không sợ quả, đối với xử sự tiếp vật, tuyệt đối chẳng sai lầm nhân quả, chẳng làm việc điên đảo, không khởi vọng niệm. Khi quả đến cũng chẳng màng gặp bất cứ cảnh giới gì, Ngài đều tự nhiên, khổ vui đều chẳng động tâm. Phàm phu thì không tự nhiên, trong bụng cứ tính toán với người, chỉ một lòng nghĩ đến lợi ích của mình, vốn chẳng có quan niệm thọ báo. Một khi quả báo đến, thì oán trời trách người, còn không biết sám hối, ở trong sự đau khổ phiền não, chẳng biết tìm lối thoát. Bồ Tát thương xót chúng sinh, nghĩa là thương xót chúng sinh vô tri hồ đồ. Bồ Tát xả thân cầu pháp, nhảy vào hầm lửa, phát thệ nguyện lớn, cho nên tu căn lành công đức hồi hướng cho chúng sinh, đủ thứ sự bố thí khó làm mà làm được, Ngài đều vì cứu chúng sinh. Chúng ta người tu học Phật đạo, nếu có tinh thần Bồ Tát như thế, thì chúng ta cũng là Bồ Tát. Nếu chẳng có tinh thần như thế, thì hãy mau phát tâm đại bi, học tập theo Bồ Tát. Bồ Tát chẳng sợ gian khổ, chẳng sợ gian nan, một lòng trợ giúp chúng sinh.

Những chuyện cầu pháp xả thân mạng, trong Kinh điển cũng có ghi lại rất nhiều, hiện tại tôi kể một câu chuyện: Vua Phạm Thiên có một vị thái tử, tên là Ðàm Ma Kiềm, từ khi sinh ra thì thích tu chánh pháp, cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Cho nên đi cầu pháp khắp bốn phương, nhưng cuối cùng chẳng đắc được gì cả, trong tâm rất buồn rầu.

Lúc đó, trời Ðế Thích biến thành Bà La Môn đến gặp Ðàm Ma Kiềm, nói:

– “Tôi có chánh pháp ‘liễu sinh thoát tử’, nếu Ngài muốn cầu pháp nầy, thì phải có cái giá lớn tương đương với nó, vì hồi đó tôi cầu pháp nầy, cũng chẳng dễ gì đắc được”.

– Ðàm Ma Kiềm hỏi: “Ông muốn tôi cho ông cái giá gì ?”

– Vị Bà La Môn nói: “Nếu Ngài có tinh thần dũng mãnh không sợ chết nhảy vào hầm lửa sâu mười trượng, có tâm thành cầu pháp, có tinh thần hy sinh, thì tôi mới nói pháp cho Ngài nghe”.

Ðàm Ma Kiềm nghe rồi, cho rằng như thế rất là dễ, Ngài nghĩ: “Ta vì cầu chánh pháp, đều muốn vào trong ba đường ác thọ khổ không ngừng, hà huống là chỉ nhảy vào hầm lửa nhỏ có một chút thì có xá gì “!

Do đó, thái tử Ðàm Ma Kiềm bẩm với phụ vương, song, ông vua không nhẫn tâm xả bỏ thái tử, bèn thỉnh mời các vua nước nhỏ lân cận đến khuyên can. Thái tử Ðàm Ma Kiềm đối với phụ vương và các quốc vương nói: “Thân thể của tôi đây sớm muộn gì cũng phải chết, tôi có thể vì nghe chánh pháp mà chết, còn hơn không nghe pháp mà sống”, có nghĩa là “sớm nghe đạo, tối chết là đáng vậy”.

Các vị quốc vương khuyên giải, thấy thái tử quyết tâm vì pháp xả thân khó có thể vãn hồi, chỉ lấy mắt nhìn Ngài nhảy vào hầm lửa. Do đó, Bà La Môn liền nói pháp cho thái tử Ðàm Ma Kiềm nghe.

Bà La Môn nói:

“Thường hành nơi tâm từ
Trừ khử tưởng sân hại
Ðại bi thương chúng sinh
Tu hành tâm đại hỉ.
Ðồng chỗ mình đắc pháp
Cứu hộ làm đạo nghĩa
Mới đúng Bồ Tát hạnh”.

Thái tử Ðàm Ma Kiềm nghe bài kệ đó rồi, rất hoan hỉ bèn nhảy vào trong hầm lửa. Lúc đó, Bà La Môn với Phạm Thiên Vương đồng thời lôi kéo tay thái tử Ðàm Ma Kiềm, nói:

– “Hết thảy chúng sinh, đều đợi Ngài đi cứu họ, sao Ngài lại có thể nhảy vào hầm lửa ?”

– Thái tử nói: “Ðời người trăm năm cuối cùng cũng sẽ chết, nay tôi đã nghe được chánh pháp mà chết, đã mãn tâm nguyện của tôi, còn hơn là không nghe pháp mà sống. Ý của tôi đã quyết, không thể nào thay đổi được”.

Nói xong, Bà La Môn và Phạm Thiên Vương thấy Ngài kiên quyết như thế, cũng không ngăn cản nữa, chỉ thấy thái tử cười vọt thân mà nhảy vào hầm lửa. Nói thì cũng lạ thật, mọi người đều thấy hầm lửa chảy hừng hực, khi thái tử nhảy vào thì đột nhiên biến thành hồ sen. Nước trong lăn tăn, hoa sen to như bánh xe xoè nở nghinh tiếp, thái tử ngồi thẳng trang nghiêm trên hoa sen.

Nguyên lai là do lòng chí thành cầu pháp của thái tử, mà cảm động đến thiên long bát bộ đều đến ủng hộ. Vị Bà La Môn cũng vọt thân lên hư không, hướng về thái tử cuối đầu nói:

– “Lành thay ! Lành thay ! Ngài thật là một vị đại Bồ Tát cầu pháp quên mình”.

Lúc đó, trời mưa hoa báu rực rỡ rơi xuống, thái tử Ðàm Ma Kiềm, phụ vương và các vị quốc vương, thảy đều hoan hỉ khen ngợi. Thái tử lúc đó chính là tiền thân của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, phụ vương tức là vua Tịnh Phạn. Người tu hành chỉ cần chân thành cầu pháp, thì tự nhiên sẽ có cảm ứng. Nếu như bạn vì cảm ứng mà cầu pháp, nghĩ muốn được thần thông mà cầu pháp, đó là tồn tại tâm vọng niệm, e rằng bạn sẽ chẳng đắc được gì cả.

Bấy giờ, Bồ Tát đem căn lành đó hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, trụ nơi pháp nhất thiết trí chỗ của Phật trụ, vĩnh viễn chẳng thối chuyển vô thượng bồ đề. Nguyện cho tất cả chúng sinh lìa các hiểm nạn, thọ sự an lạc của Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tâm không sợ hãi, lìa những khiếp sợ. Nguyện cho tất cả chúng sinh thường ưa thích cầu pháp, đầy đủ an vui, các pháp trang nghiêm. Nguyện cho tất cả chúng sinh lìa các đường ác, diệt trừ tất cả ba độc lửa cháy mạnh. Nguyện cho tất cả chúng sinh được an lạc, đầy đủ việc thắng diệu lạc của Như Lai.

Sau khi Bồ Tát vì cầu pháp mà xả thân mạng rồi, lập tức đem căn lành của Ngài tu tập, vì chúng sinh mà hồi hướng như vầy: Ngài nguyện cho tất cả chúng sinh được trụ nơi quả vị của Phật trụ-cõi Thường Tịch Quang, pháp thân huệ mạng sung mãn hư không, vĩnh viễn chẳng thối chuyển vô thượng bồ đề, cũng không thể thối chuyển vào hàng nhị thừa hoặc địa vị của phàm phu. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đều biết lìa khỏi tất cả tai nạn nguy hiểm, thường làm mười điều lành, đời đời kiếp kiếp có thể xa lìa ba đường ác, sinh trong trời người hưởng thọ phước báo an lạc của Phật pháp. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được tâm không sợ hãi, lìa khỏi tất cả mọi việc khiếp sợ. Nếu chúng ta muốn xa lìa các sự sợ hãi, thì chỉ có đừng tham, đừng truy cầu, không tranh, không sân, đối với mọi người và sự việc có tâm từ bi, nhẫn nhịn nhường làm đầu, hỉ xả giúp người. Làm người tâm bình khí hoà như vậy, đến đâu cũng lợi ích cho mọi người, cũng chẳng có kẻ oán, như vậy thì còn khiến cho bạn sinh tâm khiếp sợ nữa chăng ! Lại nguyện cho tất cả chúng sinh biết thường sinh tâm ưa thích cầu pháp, minh bạch tất cả sự vui thế gian đều là hư huyễn, chỉ có dùng pháp tự làm vui, khiến cho pháp hỉ sung mãn trong tâm, đầy đủ tư tưởng an vui với các pháp, đắc được lợi ích của các pháp, trang nghiêm Phật tính của chính mình. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh có thể lìa khỏi các đường ác-bốn đường ác: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la. Muốn vĩnh viễn lìa bốn đường ác nầy, thì đừng làm các điều ác, cho đến một chút ý niệm ác cũng không sinh. Nếu như bạn có một tâm niệm sân, tức là hướng về đường A tu la. Cổ đức có nói:

“Một niệm sân khởi lên
Tám vạn cửa chướng ngại đều đến”.

Lại nói:

“Ngàn ngày nhặt củi,
Một chút lửa sẽ thiêu sạch”.

Sân tức là lửa vô minh, tuy nói chỉ là một chút lửa nhỏ, nhưng nó có thể thiêu hết sạch rừng công đức ngàn dặm. Chúng ta người tu hành, phải cẩn thận đừng sân hận, nhất định phải biết tuỳ thời diệt trừ tâm tham sân si. Nếu có một niệm sinh khởi, thì sẽ có quan hệ với các đường ác. Ba độc lửa cháy mạnh bao quát: Tâm tham, sân, si, mạn, nghi, và tập khí, hành vi, mao bệnh, các hình thức biểu hiện. Lửa cháy mạnh tức là lửa hừng hực cháy, thiêu đốt tư tưởng của con người trở thành hồ đồ, thiêu đốt hành vi thành điên đảo, chính mình phiền não thống khổ không yên, càng ảnh hưởng đến những người chung quanh thọ khổ. Bồ Tát thấu hiểu được mao bệnh của chúng sinh, cho nên Ngài hy vọng chúng sinh diệt trừ tất cả ba độc lửa cháy mạnh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh luôn luôn được sống trong hoàn cảnh bình an khoái lạc, đầy đủ hết thảy việc vui thù thắng vi diệu của Phật. Việc vui của Phật là gì ? Tâm của Phật bao trùm hư không, lượng khắp pháp giới, chẳng tham năm dục, chẳng lưu luyến vui thế gian. Thiền duyệt vi thực pháp hỉ sung mãn. Thương xót chúng sinh cứu khổ ban vui, thành tựu vô lượng vô biên công đức thanh tịnh, trang nghiêm cõi Cực Lạc rộng lớn, Ngài và các Bồ Tát chẳng có các khổ, chỉ thọ các sự vui.

Nguyện cho tất cả chúng sinh được tâm Bồ Tát, vĩnh viễn lìa tất cả lửa tham sân si. Nguyện cho tất cả chúng sinh được niềm vui các tam muội của Bồ Tát, thấy khắp chư Phật, tâm đại hoan hỉ. Nguyện cho tất cả chúng sinh được khéo nói chánh pháp, nơi pháp rốt ráo, thường chẳng quên mất. Nguyện cho tất cả chúng sinh đầy đủ niềm vui thần thông của Bồ Tát, rốt ráo an trụ nhất thiết chủng trí. 

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài vì cầu chánh pháp mà nhảy vào hầm lửa. Vì khiến cho chúng sinh lìa nghiệp chướng ngại, đều được đầy đủ lửa trí huệ.

Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đắc được tâm từ bi giống như Bồ Tát. Tâm của Bồ Tát là xem người thân sơ đều bình đẳng, chẳng nhớ lỗi xưa, cũng chẳng ghét kẻ ác, chẳng hỏi chúng sinh đối với Ngài như thế nào, niệm niệm Ngài đều không quên chúng sinh, nguyện nguyện chẳng quên chúng sinh, tất cả công đức căn lành đều hồi hướng cho chúng sinh, hy vọng chúng sinh mọi việc đều viên mãn đầy đủ, luôn luôn sống trong sự an lạc. Do đó Ngài nguyện cho chúng sinh vĩnh viễn lìa tất cả lửa ba độc, chẳng thọ sự độc hại của tham sân si. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đắc được niềm vui chánh thọ chánh định của Bồ Tát tu. Ở trong thiền định thường thường thấy được chư Phật, trong tâm tự nhiên sinh khởi tâm đại hoan hỉ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều khéo diễn nói chánh pháp, đối với vô lượng pháp môn của Phật nói, đều thông đạt triệt để, thấu hiểu chân chánh, mà chẳng quên mất. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, cũng hoàn toàn đắc được thần thông diệu dụng và tự tại an lạc giống như Bồ Tát, có trí huệ thông đạt được đủ thứ pháp tánh pháp tướng, thì an trụ ở trong nhất thiết chủng trí. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, vì cầu chánh pháp mà xả thân nhảy vào hầm lửa. Vì khiến cho chúng sinh vĩnh viễn xa lìa nghiệp nhiễm ô chướng ngại, mà đắc được lửa trí huệ viên mãn thanh tịnh.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát vì cầu chánh pháp, phân biệt diễn nói, khai mở Bồ Tát đạo, chỉ bày con đường bồ đề, hướng về trí huệ vô thượng. Siêng tu mười lực, tâm nhất thiết trí rộng lớn, được trí pháp không chướng ngại, khiến cho chúng sinh thanh tịnh, trụ nơi cảnh giới của Bồ Tát. Siêng tu đại trí huệ, khi hộ Phật bồ đề, thì dùng thân thọ đủ vô lượng khổ não. Như Bồ Tát Cầu Thiện Pháp. Bồ Tát Dũng Mãnh Vương, và vô lượng các đại Bồ Tát khác. Vì cầu pháp mà thọ vô lượng khổ, cho đến nhiếp lấy sự phỉ báng chánh pháp, ác nghiệp che đậy, ma nghiệp chi trì, người cực đại ác, họ đáng thọ tất cả khổ não, nhưng Bồ Tát vì cầu pháp, Ngài đều thọ lấy.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài vì cầu đắc được chánh pháp nhãn tạng, cho đến tất cả mọi nơi vì chúng sinh diễn nói chánh pháp, phân môn biệt loại thảy đều xiển minh, khiến cho chúng sinh đạt được đạo lý chân thật, thật tướng của các pháp, mở bày tu hạnh Bồ Tát như thế nào, hành Bồ Tát đạo như thế nào? Vì chúng sinh lập ra đường lối tu hành, chỉ bày cho chúng sinh hướng về con đường giác ngộ. Phát nguyện cầu trí huệ vô thượng, tinh tấn siêng tu mười lực của Phật, khiến cho tâm rộng lớn, tâm khai mở trí huệ, biết tất cả các pháp một tướng, thấu rõ các pháp không tướng, đắc được trí huệ pháp môn vô ngại, không, vô tướng, vô nguyện. Khiến cho tất cả chúng sinh đều trở về nguồn cội, khôi phục thanh tịnh, trụ nơi cảnh giới của Bồ Tát. Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn tu học như vậy, cuối cùng đắc được trí huệ thù thắng. Bồ Tát vì bảo hộ chánh pháp và bồ đề giác đạo của chư Phật, trải qua hết sự gian nan, thân tiếp thọ vô lượng thống khổ. Giống như thuở xưa Bồ Tát Cầu Thiện Pháp, Bồ Tát Dũng Mãnh Vương, cùng với vô lượng đại Bồ Tát, các Ngài cũng vì cầu được chánh pháp, mà thọ hết đủ thứ vô lượng gian khổ hiểm nạn, còn phải nhiếp lấy những lời phỉ báng chánh pháp, chẳng tin chánh pháp của những kẻ tà giáo tạo nghiệp ác, đáng thọ tội nghiệp địa ngục vô gián, những kẻ ác đó, họ đáng thọ tội khổ, Bồ Tát đều nguyện thay thế họ thọ khổ. Bồ Tát thương xót những kẻ ác đó vô tri, bị ác nghiệp che đậy, thọ ma nghiệp chi trì, tạo ra đại ác, trở thành kẻ ác lớn nhất, họ đáng tiếp thọ đủ thứ khổ độc nhiệt não, nhưng Bồ Tát vì cầu lấy chánh pháp, nên Ngài hoàn toàn thân tự tiếp thọ hết tất cả khổ não đó.

Ðem những căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn lìa khỏi tất cả khổ não bức bách, thành tựu thần thông tự tại an lạc. Nguyện cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn lìa khỏi các khổ, được tất cả niềm vui. Nguyện cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn diệt trừ khổ uẩn, được thân chiếu hiện, luôn thọ an lạc. Nguyện cho tất cả chúng sinh vượt khỏi ngục khổ, thành tựu trí hạnh. Nguyện cho tất cả chúng sinh thấy đạo an ổn, lìa khỏi các đường ác. Nguyện cho tất cả chúng sinh được niềm vui hoan hỉ của pháp, vĩnh viễn dứt các khổ. Nguyện cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn nhổ sạch các khổ, từ bi thương nhau, chẳng có tâm tổn hại.

Bồ Tát tự nguyện thay thế chúng sinh thọ khổ, và đem căn lành tích tập vì chúng sinh mà hồi hướng như vầy: Ngài nói, tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn lìa khỏi các sự thống khổ phiền não, và tất cả khổ ách bức bách, thành tựu bình an khoái lạc, đắc được thần thông diệu dụng tự do tự tại. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn lìa khỏi các sự thống khổ, đắc được tất cả khoái lạc. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn tiêu diệt khổ uẩn-khổ kết, tiêu diệt hết khổ kết thì sẽ đắc được quang minh chiếu khắp, hiện thân biến hoá, vĩnh viễn thọ được an lạc. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, vượt thoát khỏi thống khổ địa ngục, thành tựu hạnh môn trí huệ-tu học Phật pháp, phát thệ nguyện lớn, phổ độ chúng sinh, cầu đạo vô thượng bồ đề, đó tức là hạnh trí huệ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thường hành Phật đạo bình an, xa lìa tất cả đường ác. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn nhổ sạch tất cả gốc khổ, trợ giúp thương nhau, có lòng từ bi, đừng có tâm tổn hại người.

Nguyện cho tất cả chúng sinh được niềm vui của chư Phật, lìa khổ sinh tử. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu an lạc thanh tịnh không gì bằng, tất cả khổ não không thể tổn hại. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tất cả vui thù thắng, rốt ráo đầy đủ niềm vui vô ngại của Phật. 

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài thọ các khổ, để cầu pháp. Vì muốn cứu hộ tất cả chúng sinh khiến cho họ lìa hiểm nạn, trụ nơi giải thoát nhất thiết trí không có sự chướng ngại.

Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được niềm vui vắng lặng giống như chư Phật, thoát khỏi biển khổ sinh tử. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu an lạc thanh tịnh tự tại vô thượng, bất cứ khổ não nào cũng không thể tổn hại được họ, giao động họ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được các sự khoái lạc thù thắng nhất, phàm là hết thảy niềm vui tự tại không có sự chướng ngại của chư Phật, hy vọng chúng sinh đều hoàn toàn đắc được, viên mãn đầy đủ.

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài thọ các thứ khổ nạn, để cầu được chánh pháp. Mục đích của Ngài là muốn cứu hộ tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều lìa khỏi ba đường ác, an trụ nơi cảnh giới nhất thiết trí-hoàn toàn thanh tịnh, chẳng có ác nghiệp chướng ngại, giải thoát tự tại, cho nên Bồ Tát thà thọ tất cả sự khổ.

Phật tử ! Khi đại Bồ Tát ở ngôi vua cầu chánh pháp, thì cho đến chỉ vì một hàng, một chữ, một câu, một nghĩa, đều sinh ý nghĩ khó được. Ðều có thể xả hết tất cả trong nước: Cõi nước thành ấp, hoặc gần hoặc xa, nhân dân kho tàng, vườn hồ nhà cửa, cây rừng hoa quả, cho đến tất cả vật trân quý đẹp lạ, cung điện lầu các, vợ con quyến thuộc, và ngôi vua đều xả bỏ được hết. 

Ở trong pháp không kiên cố, cầu pháp kiên cố. Vì muốn lợi ích tất cả chúng sinh, siêng cầu giải thoát vô ngại của chư Phật, rốt ráo thanh tịnh đạo nhất thiết trí. Như Bồ Tát Ðại Thế Ðức, Bồ Tát Thắng Ðức Vương, và vô lượng các đại Bồ Tát khác. Siêng cầu chánh pháp, cho đến rất ít, dù chỉ một chữ. Năm thể sát đất, chánh niệm tất cả Phật pháp ba đời. Ưa thích tu tập, vĩnh viễn không tham trước danh văn lợi dưỡng, xả bỏ ngôi vua tự tại của thế gian, cầu ngôi Pháp Vương tự tại của Phật. Niềm vui thế gian, tâm chẳng chấp trước, dùng pháp xuất thế, dưỡng lớn tâm mình. Vĩnh viễn lìa khỏi tất cả hí luận thế gian, trụ nơi pháp không hí luận của chư Phật.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, khi ở ngôi vua tôn quý nhất thế gian, song, Ngài không coi trọng phú quý trước mắt, mà một lòng tìm cầu chánh pháp, cho đến dù chỉ đắc được một câu Kinh kệ, một câu Phật pháp, một câu chánh ngôn, thậm chí một chữ, Ngài đều coi là trân bảo quý giá, sinh tâm hoan hỉ, sinh tư tưởng khó gặp, khó được. Bồ Tát cũng có thể xả bỏ được hết tất cả tài vật trong nước như: Cõi nước gần, hoặc xa, thành thị thôn ấp, nhân dân, kho tàng châu báu, vườn tược, ao hồ, nhà cửa, phòng ốc, rừng cây, hoa quả, nông thôn, đồng ruộng, cho đến các thứ bảo bối trân quý đẹp lạ, và cung điện của Ngài ở, lầu các, bảy báu .v.v…khó xả nhất là vợ con, cho đến quyến thuộc nô bộc, tôn quý nhất là ngôi vua .v.v…Bồ Tát vì cầu lấy chánh pháp, nên Ngài xả bỏ được hết, bố thí cho người khác, hoặc đầu mắt tuỷ thịt tứ chi lục phủ, Ngài vì cầu chánh pháp, đều không lưu luyến xẻn tiếc.

Mục đích của Bồ Tát là ở trong pháp hữu vi không rốt ráo, cầu được pháp vô vi rốt ráo chân thật, vĩnh viễn tồn tại, kiếp lửa cũng không thể thiêu huỷ được. Ðồng thời Ngài cũng muốn đem chánh pháp chân thật nầy, lợi ích cho hết thảy chúng sinh. Do đó, Ngài siêng cầu chánh pháp của chư Phật, chẳng có mọi sự chướng ngại, chân chánh đắc được đạo trí huệ giải thoát, viên dung thanh tịnh, thông đạt tất cả lý tánh sự tướng mười pháp giới. Bồ Tát làm như thế, như thuở xưa Bồ Tát Ðại Thế Ðức, Bồ Tát Thắng Ðức Vương, và vô lượng các đại Bồ Tát khác, các Ngài đều vì cầu chánh pháp, cho đến rất ít dù chỉ một chữ, các Ngài cũng đều thà xả bỏ đầu mắt tuỷ não bên trong, bên ngoài xả bỏ đất nước vợ con. Nếu Bồ Tát thấy có vị thiện tri thức có thể vì Ngài nói chánh pháp, thì Ngài nhất định cung kính lễ bái, năm thế sát đất-đầu, hai tay, hai chân, trong tâm chánh niệm chánh pháp của ba đời chư Phật nói, pháp hỉ sung mãn, một lòng chuyên chú, ưa thích tu tập. Ngài siêng năng tu tập như thế, tuyệt đối chẳng nguỵ trang biểu hiện, cầu lấy tiếng tăm lợi ích phong phú của người thế gian. Bồ Tát chẳng tham đồ hư danh và lợi dưỡng của thế tục, Ngài xả bỏ hết ngôi vua, giàu có nhất, tôn quý nhất thế gian, sao lại từ bỏ những danh văn lợi dưỡng của thế tục ? Ngài vì cầu ngôi Pháp Vương tự tại của Phật, mới làm như thế. Ðối với tất cả dục lạc thế gian, Ngài đã chẳng còn chút dục niệm nào. Ngài đem chỗ cầu đắc được, thế pháp tu chứng được, dưỡng lớn thân Ngài, thấm nhuần tâm bồ đề giác đạo của Ngài. Vĩnh viễn lìa khỏi tất cả lời lẽ hành vi hư vọng của thế gian, an trụ nơi cảnh giới chánh pháp không có hí luận, chân thật thanh tịnh vô vi của chư Phật.

Bấy giờ, Bồ Tát đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh thường ưa thích huệ thí, tất cả đều xả bỏ. Nguyện cho tất cả chúng sinh xả bỏ được hết thảy, trong tâm chẳng hối tiếc. Nguyện cho tất cả chúng sinh thường cầu chánh pháp, không tiếc thân mạng, đồ tư sanh. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được lợi ích của pháp, dứt được nghi hoặc của tất cả chúng sinh. Nguyện cho tất cả chúng sinh được lòng muốn pháp lành, tâm thường vui thích chánh pháp của chư Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh vì cầu Phật pháp, xả bỏ được thân mạng cùng với ngôi vua, tâm lớn tu tập vô thượng bồ đề. Nguyện cho tất cả chúng sinh tôn trọng chánh pháp, thường ưa thích thâm sâu, chẳng tiếc thân mạng. Nguyện cho tất cả chúng sinh hộ trì pháp rất khó đắc được của chư Phật, thường siêng tu tập. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được bồ đề quang minh của chư Phật, thành tựu hạnh bồ đề, chẳng do người khác mà ngộ. Nguyện cho tất cả chúng sinh thường quán sát được tất cả Phật pháp, nhổ trừ mũi tên nghi hoặc, tâm được an ổn. 

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài xả bỏ quốc thành để cầu chánh pháp. Vì muốn khiến cho chúng sinh thấy biết viên mãn, thường được trụ nơi đạo an ổn.

Vị đại Bồ Tát đó cầu chánh pháp, Ngài phát tâm đại bồ đề, học tinh thần ít có của các đại Bồ Tát thuở quá khứ vì pháp quên mình, xả bỏ nội ngoại tài, do đó Ngài đem căn lành tu tập hồi hướng cho chúng sinh như vầy: Ngài nói, tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, thường hoan hỉ làm công đức bố thí, đem tất cả khả năng của mình để bố thí. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh có thể huệ thí hết thảy nội ngoại tài, trong tâm tuyệt đối chẳng hối tiếc. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh biết phải thường cầu chánh pháp, vì cầu chánh pháp mà không tiếc thân mạng, và có thể thí xả tất cả vật chất duy trì mạng sống. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được lợi ích của chánh pháp, giải trừ hết lòng nghi hoặc của chúng sinh đối với Phật pháp. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh có tâm cầu pháp lành, luôn luôn hoan hỉ nghe chánh pháp của chư Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh có thể vì cầu chánh pháp mà xả bỏ được thân mạng và ngôi vua cao quý, phát tâm nguyện lớn tu tập vô thượng bồ đề giác đạo, như các đại Bồ Tát thuở xưa. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh biết sự tôn trọng chánh pháp, thường vào sâu được chánh pháp, hoan hỉ ưa thích chánh pháp, chẳng tiếc sinh mạng. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh thường hộ trì chánh pháp, hoằng dương chánh pháp, thường siêng tu tập pháp vi diệu rất khó gặp của chư Phật nói. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đều có thể đắc được quang minh bồ đề giác đạo của chư Phật, thành tựu quả đức bồ đề giác đạo, chẳng nhờ người khác mà minh bạch, tự mình tự tu tự ngộ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đối với tất cả Phật pháp thường quán hành tương ưng, thấu đạt thật tướng các pháp, nhổ trừ hết thảy mũi tên hoài nghi trong tâm, từ đó tin mà không nghi, an ổn tự tại. Ðó là đại Bồ Tát hồi hướng căn lành tu tập cho chúng sinh, khi Ngài cầu chánh pháp, xả bỏ thân mạng quốc thành vợ con. Vì hy vọng chúng sinh ở chỗ thấy hiểu, tức cũng là phương diện tin hiểu, đều được viên mãn thông đạt, sinh khởi chánh tri chánh kiến, an ổn hoan hỉ tu hành Phật đạo.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát làm ông vua lớn, nơi pháp tự tại, khắp ban hành sắc lệnh, khiến dứt trừ nghiệp giết hại. Trong cõi Diêm Phù Ðề, thành ấp tụ lạc, tất cả sự giết hại thảy đều cấm dứt trừ. Loài không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, đủ thứ loài. Bố thí khắp không sợ hãi, không có tâm lường gạt. Rộng tu tất cả hạnh của Bồ Tát, nhân từ thương xót loài vật, không làm hại phiền não đến kẻ khác. Phát tâm diệu bảo, an ổn chúng sinh. Ở chỗ chư Phật lập chí ưa thích trí huệ thâm sâu, thường tự an trụ nơi ba thứ giới thanh tịnh, cũng khiến cho chúng sinh an trụ như thế. Ðại Bồ Tát khiến các chúng sinh trụ nơi năm giới, vĩnh viễn dứt trừ nghiệp giết hại.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài thị hiện làm ông vua một nước lớn-Chuyển Luân Thánh Vương, Ngài đều căn cứ theo đạo lý Phật pháp trị quốc dạy dân. Ngài dùng phương pháp phương tiện khéo léo, nơi pháp nhậm vận tự tại, khắp giáo hoá thần dân phát tâm đại từ bi, thí hành nhân chính, sắc lệnh toàn quốc trừ bỏ nghiệp giết hại. Trong cõi Diêm Phù Ðề thành ấp tụ lạc nông thôn, tất cả việc giết hại, thảy đều cấm chỉ hết, dứt tuyệt sự giết hại. Chẳng những không thương hại đối với con người, mà cho đến hết thảy động vật cũng không được giết hại, như loài bò sát không chân, con người và phi cầm hai chân, loài súc sinh bốn chân, loài trùng nhiều chân, phàm là động vật có mạng sống, thảy đều thí cho họ chẳng có tâm kinh hãi sợ sệt, được sự bảo hộ an toàn, chẳng có sự nguy hiểm bị giết hại. Giáo hoá nhân dân thương yêu lẫn nhau, không có tâm lường gạt chiếm đoạt, rộng tu tất cả hạnh mà các Bồ Tát tu. Dùng tâm nhân từ ái hộ tất cả chúng sinh hữu tình, không xâm phạm đến họ, cũng không làm cho họ sinh khổ não. Phát tâm từ bi chân thật, khiến cho tất cả chúng sinh đều được sống an ổn không sầu lo. Tại đạo tràng của Phật, luôn nghe chánh pháp, y giáo phụng hành, lập chí nguyện lớn, ưa thích làm tất cả Phật sự. Thường thường an trụ ở trong ba loại giới thanh tịnh:

1. Giới nhiếp pháp lành.
2. Giới nhiếp luật nghi.
3. Giới lợi ích tất cả chúng sinh.

Cũng chỉ dạy chúng sinh làm mười điều lành, tâm chẳng thối lùi, chẳng thọ sự dụ dỗ của ngoại đạo, an ổn tự tại, sinh hoạt nơi cảnh giới thanh tịnh. Ông vua đại Bồ Tát nầy, cũng khiến cho nhân dân toàn quốc đều thọ năm giới-không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, mỗi người đều tin sâu Phật pháp, an phận giữ mình, xã hội an ninh, vĩnh viễn dứt trừ nghiệp giết, hơn nữa cũng chẳng có việc đao binh hung ác phát sinh, đó gọi là nhân gian tịnh độ, tức là hoà vui thái bình như thế.

Bồ Tát đem căn lành đó hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh phát tâm bồ đề, đầy đủ trí huệ, vĩnh viễn bảo vệ thọ mạng, chẳng có cùng tận. Nguyện cho tất cả chúng sinh trụ vô lượng kiếp, cúng dường tất cả chư Phật, cung kính siêng tu, càng tăng thêm thọ mạng. Nguyện cho tất cả chúng sinh đầy đủ tu hành, lìa pháp già chết, tất cả tai hại không tổn hại đến mạng của họ. Nguyện cho tất cả chúng sinh đầy đủ thành tựu thân không bệnh não, thọ mạng tự tại, tuỳ ý mà trụ. Nguyện cho tất cả chúng sinh được mạng sống vô tận, hết thuở vị lai, trụ hạnh Bồ Tát, giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm cửa thọ mạng, mười lực căn lành, tăng trưởng ở trong đó.

Bồ Tát đem căn lành giáo hoá chúng sinh dứt tuyệt nghiệp giết, hồi hướng cho chúng sinh như vầy: Ngài nói tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, đều phát tâm đại từ đại bi, hỉ xả rộng lớn xả mình vì người như vậy. Mỗi người học Phật đạo, nhất định phải phát tâm Bồ Tát, nghĩa là phải có tâm và độ lượng của Bồ Tát.

Chúng ta đừng nói đến sự cao thâm, hãy nói việc bình thường ở trước mắt, ví như đạo tràng sạch sẽ, tuỳ tay thu lượm tất cả vật nhơ bẩn, đó là việc nhẹ mà dễ dàng, mỗi lần pháp hội kết thúc rồi, đều có nhiều nơi cần phải quét dọn, lúc đó phải tự động đi làm, trong tâm đừng có ý niệm đó không phải việc của tôi, sư phụ chẳng kêu tôi làm. Trong đạo tràng tất cả đều phải tự động tự phát, đừng nghĩ rằng đó là việc của ai, phải tự động đi làm, làm càng nhiều càng tốt. Tu hành chẳng phải chỉ giới hạn tham thiền tụng Kinh, mà là tuỳ thời tuỳ lúc tu hành, đừng có tâm phân biệt nhiều như thế, càng đừng có tranh quyền đoạt lợi, tranh làm lãnh tụ chi phối người khác, ở trước mặt sư phụ cầu biểu hiện. Việc làm hư vọng không thật đó, không thể gọi là người tu hành.

Trước kia khi tôi làm Sa Di, mỗi lần tôi đến đạo tràng, đều làm việc mà người khác không làm. Việc đại chúng cùng làm, thì tôi cũng chẳng ở sau người, những công việc biểu hiện có danh, có lợi, tôi chưa từng tranh với ai. Chúng ta tu hành biện đạo, quan trọng nhất là chân đạp thật trên đất, tất cả hướng về chân thật mà làm. Ðạo tràng đúng đắn sạch sẽ, tức là trang nghiêm đạo tràng, tín chúng đi đến thấy hoàn cảnh sạch sẽ, thọ được không khí sạch sẽ, cũng khiến cho họ phát tâm bồ đề lập tâm hướng đạo. Tâm Bồ Tát là mình lợi người, từ bi làm mục đích, chúng ta học Phật thì phải học tâm hạnh của Bồ Tát. Hy vọng mọi người hãy mau phát tâm bồ đề, sớm thành đạo quả bồ đề. Xa lìa ngu si, từ bỏ chút thông minh tự cho mình là cao minh, thật tâm tu học Phật pháp, mới có thể đầy đủ trí huệ. Dứt tuyệt tất cả ý niệm giết, nghiệp giết, mới có thể vĩnh viễn bảo toàn thọ mạng, chẳng có khi nào cùng tận. Thọ mạng đó, chẳng phải nói nhục thân thọ mạng và tuổi thọ trường sinh bất tử của thế gian, mà là nói pháp thân huệ mạng vĩnh viễn chẳng cùng tận.

Lại nguyện cho tất cả chúng sinh có thọ mạng dài vô lượng kiếp, ở trong vô lượng kiếp đều cúng dường mười phương chư Phật. Vì cung kính cúng dường chư Phật, lại siêng tu tất cả Phật pháp, cho nên càng tăng thêm thọ mạng, đắc được vô lượng thọ và vô lượng quang. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh tu tập viên mãn tám vạn bốn ngàn pháp môn và lục độ vạn hạnh, dứt hẳn tham dục ái trước và vô minh, chứng được vô sinh pháp nhẫn, lên được bậc Bồ Tát, thì xa lìa pháp khổ sinh già bệnh chết, tất cả tai nạn độc hại cũng không thể xâm phạm vào mạng sống của họ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh siêng tu các pháp, thấu đạt các pháp, thâm nhập các pháp, tu đầy đủ tất cả Phật pháp, đạt đến cảnh giới viên dung vô ngại, tự nhiên trở thành thân tâm kim cang kiên cố. Thân chẳng thọ bệnh ma ràng buộc, tâm cũng chẳng thọ mê hoặc của tất cả dị luận. Thọ mạng đắc được tự tại rồi, thì sinh tử do mình khống chế, đến đi tự như. Tuỳ theo nguyện lực của mình mà thọ sinh, đã vượt ra khỏi ba cõi, vua Diêm Vương chẳng quản lý được nữa ! Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được thọ mạng lâu dài vô cùng vô tận, hết thuở vị lai trong tất cả kiếp, đều tu hạnh Bồ Tát, hành Bồ Tát đạo, an trụ nơi trí huệ của Bồ Tát, vĩnh viễn chẳng giải đãi, giáo hoá tất cả chúng sinh, điều phục tất cả chúng sinh cang cường, nhiếp vào Phật đạo. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh trở thành cửa thọ mạng, vào trong cửa nầy rồi, thì vĩnh viễn không chết. Mười thứ căn lành lực dụng, ở trong cửa thọ mạng tuỳ theo thời kiếp càng ngày càng tăng trưởng thêm nhiều.

Nguyện cho tất cả chúng sinh căn lành đầy đủ, được mạng vô tận, thành tựu viên mãn nguyện lớn. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều thấy chư Phật, cúng dường thừa sự, trụ mạng vô tận, tu tập căn lành. Nguyện cho tất cả chúng sinh ở chỗ Như Lai, khéo học chỗ đáng học, được niềm vui của Thánh pháp, thọ mạng vô tận. Nguyện cho tất cả chúng sinh mạng căn thường trụ không già không bệnh, dũng mãnh tinh tấn, vào trí huệ của Phật. 

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát trụ nơi ba tụ tịnh giới, vĩnh viễn dứt trừ nghiệp giết. Vì khiến cho chúng sinh được trí huệ viên mãn mười lực của Phật.

Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh, làm các điều lành không làm điều ác, đầy đủ hết thảy căn lành, đắc được thọ mạng chẳng cùng tận, viên mãn tất cả nguyện lớn đã phát. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều được thấy chư Phật, cúng dường chư Phật, thừa sự hết thảy Phật sự, được thọ mạng vô cùng tận, tu tập pháp lành, làm các nghiệp lành, rộng tích tập căn lành. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ở trong đạo tràng của Phật, khéo học tập tất cả Thánh pháp đáng học-pháp thành Phật, được niềm vui vô lượng, thọ mạng vô tận. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được mạng căn không già, không sinh bệnh, vĩnh viễn không hoại, mà còn dũng mãnh tinh tấn, vào sâu biển trí huệ của Phật.

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, an trụ trong ba tụ tịnh giới, vĩnh viễn dứt trừ nghiệp giết. Ngài hy vọng mỗi chúng sinh đắc được lợi ích hồi hướng của Ngài, có thể được diệu dụng mười lực của Phật, cũng có thể viên mãn trí huệ của Phật.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát thấy có chúng sinh, ôm lòng tàn nhẫn, làm tổn hại người và súc sinh, hết thảy thân nam, khiến cho thân thiếu khuyết, thọ các khổ độc. Bồ Tát thấy việc đó rồi, phát tâm đại từ bi thương xót cứu vớt, khiến cho tất cả nhân dân trong cõi Diêm Phù Ðề, đều xả bỏ nghiệp đó.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài nhìn thấy lòng của một hạng người, rất tàn nhẫn, từ việc tổn hại người và súc sinh thân nam, khiến cho thân thể người và súc sinh bị tàn phế và đau khổ. Bồ Tát thấy tình hình đó rồi, trong tâm chẳng nhẫn, sinh khởi tâm đại từ bi thương xót họ, quyết tâm cứu độ họ, do đó khiến cho nhân dân cõi Diêm Phù Ðề, từ đó về sau từ bỏ nghiệp ác tàn hại người và súc sinh thân nam.

Bấy giờ, Bồ Tát nói với họ rằng: Sao ông lại làm nghiệp ác đó? Tôi có kho tàng, trăm ngàn vạn ức, tất cả đồ vui, thảy đều đầy dẫy, tuỳ ý ông cần, tôi đều cho ông hết. Việc của ông làm, do các tội sinh ra, nay tôi khuyên ông, đừng làm việc đó nữa. Nghiệp của ông làm chẳng hợp đạo lý. Lợi ích việc làm của ông đắc được, không thể dùng được. Tổn người lợi mình, chẳng có ích gì. Việc ác như thế chẳng phải pháp lành, tất cả Như Lai đều chẳng khen ngợi.

Lúc đó, Bồ Tát nói với người tàn hại người và súc sinh hình nam rằng: Tại sao ông lại làm những nghiệp ác đó ? Nếu như ông vì vàng bạc, thì tôi có rất nhiều kho tàng, trong đó chứa đầy vàng bạc châu báu, nếu ông cần phẩm vật đồ tư sanh, hoặc cần đồ chơi, thì trong kho của tôi đều có, tuỳ sở thích của ông mà lấy, tôi đều cho ông. Hiện tại ông làm những việc giết hại người và súc sinh, bao nhiêu tội nghiệp đều do đó mà phát sinh, tương lai ông sẽ thọ ác báo lớn, cho nên hiện tại tôi khuyên ông, đừng làm những việc ác tán thiên hại lý đó nữa. Như hiện tại những việc ác đó chẳng hợp với đạo lý, dù ông có được nhiều lợi ích, đó lại có công dụng gì ? Những việc tổn hại kẻ khác để lợi mình, bất cứ nói như thế nào, cũng không đúng. Giống như hành vi tội ác như thế, đồng với tất cả hạnh ác bất thiện khác, tương lai khi tội ác đầy dẫy, thì nhất định quả báo sẽ lợi hại nhất, chư Phật cũng chẳng khen ngợi ông, cũng không thể cứu độ ông.

Bồ Tát nói như thế rồi, bèn đem hết thảy tất cả đồ vui, bố thí cho hết. Lại đem lời lành vì họ nói diệu pháp, khiến cho họ vui mừng. Đó là khai thị pháp tịch tĩnh, khiến cho họ tin thọ, diệt trừ bất thiện. Tu hành tịnh nghiệp, cùng khởi tâm từ, chẳng tổn hại nhau. Người đó nghe rồi, vĩnh viễn bỏ việc tội ác.

Bồ Tát nói pháp cho người tàn hại người và súc sinh thân hình nam rồi, lập tức đem hết thảy tất cả vật tư sanh và các thứ đồ vui chơi, bố thí hết cho người đó, để làm thoả mãn nguyện vọng của họ. Sau đó lại dùng lời hoà dịu, phương pháp khéo léo xiển dương từ bi hỉ xả Phật pháp vi diệu, khiến cho họ nghe rồi, trong tâm rất hoan hỉ. Lại đối với họ khai thị lợi ích của pháp tịch tĩnh, hướng dẫn họ tu học Phật pháp, làm cho họ sinh tâm tin sâu, thọ trì không giải đãi. Giáo hoá họ từ đây diệt trừ tất cả ác tính ác hạnh và nghiệp giết bất thiện trong quá khứ, tu hành phạm hạnh thanh tịnh. Ðối với người và tất cả súc sinh, sinh khởi tâm từ bi thương lẫn nhau, đó đây cũng chẳng tàn sát lẫn nhau nữa. Người đó nghe rồi, thống thiết hối cải, vĩnh viễn xả bỏ tất cả tâm niệm và hành vi tội ác, phát nguyện làm lại con người mới, xả bỏ nghiệp ác tàn hại người và súc sinh thân hình nam.

Bấy giờ, Bồ Tát đem căn lành đó hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh đủ thân hình phương trượng, thành tựu tướng mã âm tàng của Như Lai. Nguyện cho tất cả chúng sinh đủ thân người nam, phát tâm dũng mãnh, tu các phạm hạnh. Nguyện cho tất cả chúng sinh đủ sức dũng mãnh, luôn làm chủ đạo, trụ trí vô ngại, vĩnh viễn không thối chuyển. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được đầy đủ thân đại trượng phu, vĩnh viễn lìa tâm dục, chẳng có nhiễm trước. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được thành tựu pháp người nam lành, trí huệ tăng trưởng, được Phật khen ngợi. Nguyện cho tất cả chúng sinh khắp được đầy đủ sức lực của bậc đại nhân, thường tu tập mười lực căn lành. Nguyện cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn chẳng hư hoại mất thân người nam, thường tu pháp phước trí chưa từng có. Nguyện cho tất cả chúng sinh ở trong năm dục, không ràng buộc, tâm được giải thoát, nhàm lìa ba cõi, trụ hạnh Bồ Tát. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu bậc phương trượng trí huệ bậc nhất, tất cả đều tin sùng, phục tùng sự giáo hoá của họ. Nguyện cho tất cả chúng sinh đầy đủ trí huệ Bồ Tát trượng phu, chẳng lâu sẽ thành vô thượng đại hùng.

Bồ Tát bố thí vô lượng tài vật châu báu và bố thí pháp vi diệu cho người đó rồi, lại đem căn lành công đức của Ngài bố thí hồi hướng cho chúng sinh như vầy: Ngài nói, tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, đều được viên mãn đầy đủ thân hình người nam, thành tựu tướng mã âm tàng giống như Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, có đủ thân hình người nam hoàn mãn không thiếu khuyết, biết phát tâm dũng mãnh tinh tấn tu hành tất cả hạnh thanh tịnh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, có đủ nguyện lực dũng mãnh vô uý, luôn luôn làm người lãnh đạo của chúng sinh, nương tựa thông đạt đại trí huệ vô ngại, vĩnh viễn chẳng thối chuyển về hàng nhị thừa hoặc phàm phu. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều được thân đại trượng phu viên mãn đầy đủ, vĩnh viễn lìa tâm niệm tham dục, chẳng có hành vi ô nhiễm không chánh đáng, cũng chẳng chấp trước tà tri tà kiến dị luận ngoại đạo. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều trở thành người nam lành phẩm đức tốt đẹp, tướng mạo đoan chánh, trí huệ càng ngày càng tăng trưởng, được chư Phật khen ngợi. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều có đủ sức lực của bậc đại nhân. Người có đại giác đại trí đại nguyện, thì gọi là bậc đại nhân, cũng có thể nói là Bồ Tát. Bồ Tát hy vọng chúng sinh đều có trí huệ và nguyện lực của bậc đại giác, thường tu tập mười lực căn lành của Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn chẳng thối mất tâm nguyện lực kiên quyết của người nam, vĩnh viễn chẳng hư hoại hình thể bên ngoài của nam tính. Người nữ như có ý chí kiên cường của nam tính, cạo đầu xuất gia thọ giới cụ túc, hoằng pháp lợi sinh làm Phật sự, cũng có thể được tôn làm người nam lành giống nhau, đại trượng phu. Ngược lại, người nam mà chẳng có hùng tâm chí lớn, nhu nhược bất tài, tuy thân hình là người nam, nhưng nhu nhược như người nữ không khác. Bồ Tát hy vọng chúng sinh không hư hoại mất hình thể người nam, mà trong tâm thường biết tu pháp chưa từng có, cầu phước huệ đầy đủ. Pháp chưa từng có tức là thân tâm thanh tịnh, chẳng có tư tưởng hành vi tham ái dâm dục, thậm chí một niệm cũng không sinh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đối với năm dục trong cõi hồng trần-tài, sắc, danh, ăn, ngủ, hoặc sắc, thanh, hương, vị, xúc, sự hưởng thụ chẳng thanh tịnh nầy, chẳng tham ái trầm mê, chẳng chấp trước, tâm chẳng bị năm dục ràng buộc, như thế sẽ được giải thoát. Minh bạch thọ tức là khổ, đối với ba cõi, sinh tâm nhàm lìa, lúc nào cũng nghĩ đến muốn xa lìa nhà lửa nầy, chỉ có tu học hạnh Bồ Tát, an tâm trụ nơi trí huệ của Bồ Tát. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, trở thành bậc đại trượng phu trí huệ bậc nhất, thông đạt chân lý chẳng làm việc hồ đồ, minh biện thị phi, chẳng sinh tư tưởng điên đảo. Tâm tính bình hoà chẳng có vô minh phiền não, bình đẳng từ bi hỉ xả chẳng có oán địch, có đức hạnh toàn mỹ như vậy, thì những người gần gũi bạn, nam nữ già trẻ nghe danh mà đến nương theo bạn, người thiện ác tốt xấu, đều đến tiếp thọ sự giáo hoá của bạn, tin theo lời dạy của bạn. Tức khiến cho người tôn giáo khác can cường khó điều phục, làm mười điều ác, họ đều đến chỗ bạn bởi cảm chiêu đức giáo hoá của bạn, mà quy y nơi chân lý bát chánh đạo. Ðó tức là bậc trượng phu trí huệ đệ nhất, tất cả tín ngưỡng họ, phục tùng sự giáo hoá của họ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đầy đủ trí huệ và tâm từ bi của Bồ Tát, lại có khí khái dũng mãnh của bậc đại trượng phu, quang minh lỗi lạc. Tương lai không lâu có thể sẽ trở thành một vị đại anh hùng tối cao vô thượng nhất, giống như Ðức Phật, trên trời dưới nhân gian Ngài là tôn quý nhất.

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài cấm tuyệt tất cả huỷ hoại thân hình nam. Vì khiến cho chúng sinh đủ thân hình đại trượng phu. Ðều thủ hộ các điều lành của đại trượng phu. Sinh vào nhà hiền Thánh, trí huệ đầy đủ, thường siêng tu tập hạnh thù thắng của đại trượng phu. Có dụng của đại trượng phu, khéo hiển bày bảy đạo của đại trượng phu. Ðầy đủ giống lành trượng phu của chư Phật, chánh giáo của đại trượng phu, dũng mãnh của đại trượng phu, tinh tấn của đại trượng phu, trí huệ của đại trượng phu, thanh tịnh của đại trượng phu, khắp khiến cho chúng sinh rốt ráo đều được.

Ở trên vừa nói là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát làm pháp thí, Ngài cấm tuyệt tất cả nghiệp ác huỷ hoại thân hình nam, khuyên những người làm ác đó cải ác hướng thiện. Bồ Tát vì khiến cho chúng sinh có đủ thân hình và đức hạnh của đại trượng phu, do đó:

“Ðại trượng phu hai tay khai mở đường sinh tử,
Đấng nam nhi hai mi phá tan ải danh lợi”.

Càng có thể dùng tinh thần không sợ hãi bảo vệ các điều lành của đại trượng phu. Phàm là người nam có phẩm đức như thế, đều có thể sinh vào nhà hiền Thánh, bậc đồng với Thánh hiền, đầy đủ tất cả các loại trí. Thường hay khuyên tấn tu tập hạnh thù thắng của đại trượng phu. Như trong Kinh nói: “Tướng đầy đủ-thân hình trượng phu; huệ đầy đủ-trí huệ đầy đủ; hạnh đầy đủ-thắng hạnh trượng phu”.

Lại có đại dụng của đại trượng phu.

1. Gần gũi thiện tri thức, phát tâm đại bồ đề. Một người có căn lành có trí huệ, thì biết gần gũi thiện tri thức, xa lìa ác tri thức, được vô lượng pháp ích, thành tựu lực lớn dụng lớn.

2. Lắng nghe chánh pháp: Nếu muốn hoàn thành đại dụng của đại trượng phu, thì phải thường nghe chánh pháp, mới có thể tăng trưởng văn huệ, cho nên phàm là khi có thiện tri thức thuyết pháp, nhất định phải đi nghe, lắng nghe chánh pháp.

3. Suy gẫm nghĩa lý: Nghe chánh pháp rồi, nhất định phải suy gẫm nghĩa lý, nghiên cứu thâm sâu, đó là thành tựu công phu tư huệ.

4. Như lời nói mà tu hành: Công phu nghe và suy gẫm đều làm được rồi, tiếp theo là phải như lý tu hành. Cổ nhân có nói:

“Ngồi mà nói, chẳng bằng đi mà hành”.

Nếu chỉ biểu hiện cầu ngoài da, hành vi lại trái với đạo, thì đó chẳng phải là đại trượng phu, cũng chẳng thể xưng là đệ tử Phật. Nếu chúng ta muốn làm đệ tử Phật chân chánh, muốn phát đại dụng của đại trượng phu, thì chúng ta phải như lý tu hành, đạp vững trên đất tu hành, đó là thành tựu công phu tu huệ. Ðại trượng phu dùng bốn điểm chánh yếu, thứ nhất là phải gần gũi thiện tri thức, vì gần gũi thiện tri thức mới thành tựu văn tư tu (nghe, suy gẫm, tu hành) ba huệ Phật học, mới hiển ra đại dụng của đại trượng phu, do đó có thể thấy người tu học Phật đạo, quan trọng là phải gần gũi thiện tri thức.

Ðại trượng phu còn có lối giải thích khác:
1. Tự chánh: Hay chánh tín không thay đổi.

2. Chánh tha: Hay tuỳ cơ thọ pháp.
3. Hay tuỳ đáp vấn: Tấn tốc trả lời vấn nạn.
4. Khéo giải nhân duyên: Minh bạch tất cả nhân duyên của chúng sinh. Khéo hiển bày bảy đạo của đại trượng phu: Bồ Tát hy vọng chúng sinh biết dùng phương pháp phương tiện khéo léo, hiển bày ra một bậc trượng phu có đủ bảy thứ đặc điểm, hoặc nói là bảy điều kiện phải có đủ. Hiện tại chiếu theo pháp thế gian, cử ra bảy điểm:
1. Tuổi thọ sống lâu: Thọ mạng lâu dài, sống lâu ở đời.
2. Sắc đẹp đoan nghiêm: Tướng đầy đủ, sắc đầy đủ, xuất gia trang nghiêm.
3. Không bệnh ít phiền não: Thân thể khoẻ mạnh, an lạc tự tại, chẳng có phiền não.
4. Chẳng phải nô bộc, chẳng phải người nữ: Chẳng phải người nô bộc, cũng chẳng phải thân người nữ.
5. Trí huệ mãnh lợi: Có đại trí huệ siêu quần.
6. Lời nói uy nghi: Nói lời nói có trọng lượng, không nói thì thôi, nói ra thì kình người. Trong khí chất tự nhiên chảy ra khí thế không nộ mà uy, khiến cho người kính sợ.
7. Có đại tông diệp: Tức là xuất thân từ danh môn quý tộc.

Ngoài ra còn có một lối nói pháp, tức là bảy thứ đạo bảy hiền.

1. Hay tuỳ tín hành: Tuỳ theo tâm tin tu hành.
2. Tuỳ pháp hành: Nương vào chánh pháp tu hành.
3. Tin hiểu: Tin hiểu tất cả chân lý Phật pháp.
4. Kiến chí: Có chánh kiến vào sâu các pháp thật tướng.
5. Thân chứng: Thân chứng ngộ diệu ý của các pháp.
6. Huệ giải thoát: Là nương theo trí Bát Nhã thấu đạt sự lý của pháp giới, đắc được tự tại chân chánh.
7. Ðều giải thoát: Tất cả hết thảy đều nhìn xuyên thủng buông xả tự tại, đạt được cảnh giới giải thoát không chấp không nương tựa.
Có bảy thứ đạo nầy, mới đáng gọi là đại trượng phu. Có những điều kiện ưu tú vừa nói ở trên, thì đầy đủ nhân duyên hạt giống sinh vào nhà chư Phật, có thể làm đệ tử tốt nhất của chư Phật, có thể thừa gia nghiệp của chư Phật, tương lai nhất định sẽ viên mãn quả vị Phật. Bồ Tát đã từng thọ qua chánh giáo nhân cách của đại trượng phu, Ngài lại đem chánh giáo đại trượng phu giáo hoá tất cả chúng sinh, càng hy vọng chúng sinh đều có thể đắc được đại trượng phu chánh giáo, lại có khí tiết dũng mãnh của đại trượng phu, lại có chánh tinh tấn của đại trượng phu, lại có trí huệ thù thắng của đại trượng phu, tất cả hành vi đều nương theo trí mà hành, tuyệt đối chẳng phải hạng người hữu dũng vô mưu, lại có phẩm đức cao thượng của đại trượng phu, thân tâm không dơ trong ngoài thanh tịnh. Bồ Tát có đức tốt như vậy, cho nên Ngài cũng hy vọng chúng sinh đều có đủ những đức tốt đó, trở thành giống lành đại trượng phu của chư Phật, người nam lành toàn mỹ bậc nhất trên thế gian ! Tâm Bồ Tát như thế, chúng ta làm thế nào để không phụ lòng hy vọng của Ngài ! làm thế nào để báo đáp ân đức của Ngài trong muôn một.