KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Ðà
Hoà Thượng Tuyên Hóa giảng giải
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
TẬP 14
QUYỂN HAI MƯƠI CHÍN
PHẨM THẬP HỒI HƯỚNG THỨ HAI MƯƠI LĂM PHẦN BẢY
Kinh văn: (chữ đậm là Kinh văn)
Hồi hướng bình đẳng tuỳ thuận tất cả chúng sinh thứ bảy.
Phật tử ! Thế nào là hồi hướng bình đẳng tuỳ thuận tất cả chúng sinh của đại Bồ Tát.
Giảng giải: (Chữ thường là giảng giải)
Bồ Tát Kim Cang Tràng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Các vị đại chúng có biết thế nào là hồi hướng bình đẳng tuỳ thuận tất cả chúng sinh của đại Bồ Tát chăng ? Hiện tại tôi vì đại chúng giải thích, xin các vị hãy chú ý lắng nghe.
Phật tử ! Đại Bồ Tát nầy tuỳ theo chỗ tích tập tất cả căn lành. Căn lành nhỏ. Căn lành lớn. Căn lành rộng. Căn lành nhiều. Căn lành vô lượng. Căn lành các thứ. Căn lành số hạt bụi. Căn lành A tăng kỳ. Căn lành không bờ mé. Căn lành không thể suy nghĩ. Căn lành không thể lường. Căn lành cảnh giới Phật. Căn lành cảnh giới pháp. Căn lành cảnh giới Tăng. Căn lành cảnh giới thiện tri thức. Căn lành cảnh giới tất cả chúng sinh. Căn lành cảnh giới phương tiện khéo léo. Căn lành cảnh giới tâm tu các điều lành. Căn lành cảnh giới trong. Căn lành cảnh giới ngoài. Căn lành cảnh giới vô biên pháp trợ đạo.
Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, thời khắc tuỳ theo chỗ tu hành tích tập tất cả căn lành. Có căn lành nhỏ, có căn lành lớn. Song, Bồ Tát chẳng phải vì căn lành nhỏ mà không tu, Ngài chẳng màng căn lành lớn nhỏ, đều tu hành hết. Bồ Tát lại phát tâm đại bồ đề, tu căn lành rộng lớn, tu căn lành nhiều thứ, tu căn lành vô lượng, tu căn lành các thứ. Phàm là lành thì đều tu hành. Giống như căn lành nhiều như số hạt bụi, căn lành nhiều như số A tăng kỳ, Bồ Tát thảy đều tu hành. Căn lành không bờ mé, căn lành không thể suy nghĩ, căn lành không thể lường, Bồ Tát đều tu hành. Đem những công đức đó hồi hướng cho pháp giới chúng sinh.
Căn lành hết thảy tất cả cảnh giới của Phật. Căn lành hết thảy cảnh giới của Pháp. Căn lành hết thảy tất cả cảnh giới của Tăng. Căn lành hết thảy tất cả cảnh giới của thiện tri thức. Căn lành hết thảy tất cả cảnh giới của chúng sinh, đều đi tu hành, tu hành tất cả căn lành cảnh giới phương tiện khéo léo, tu hành tất cả cảnh giới tâm lành. Căn lành cảnh giới trong, tức là siêng tu giới định huệ ; căn lành cảnh giới ngoài, tức là tiêu diệt tham sân si. Tham sân si tiêu diệt rồi thì tư nhiên sẽ tăng trưởng căn lành. Lại phải tu căn lành tất cả cảnh giới vô biên pháp trợ đạo, pháp trợ đạo tức là pháp môn ba mươi bảy phẩm pháp trợ đạo, tức cũng là : Bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy bồ đề phần, tám chánh đạo.
Siêng tu căn lành xả bỏ tất cả. Căn lành lập thắng chí rốt ráo trì giới thanh tịnh. Căn lành tất cả xả bỏ đều thọ kham nhẫn. Căn lành thường tinh tấn tâm không thối lùi. Căn lành dùng đại phương tiện vào vô lượng tam muội. Căn lành dùng trí huệ khéo quán sát. Căn lành biết tất cả chúng sinh tâm hành khác nhau. Căn lành tích tập vô biên công đức. Căn lành siêng tu tập nghiệp hạnh Bồ Tát. Căn lành che khắp nuôi dưỡng tất cả thế gian.
Bồ Tát lại siêng tu căn lành xả bỏ tất cả. Tức là bố thí Ba La Mật, có thể xả bỏ phẩm vật mà người khác không xả bỏ được, để tích tụ căn lành. Lại siêng tu căn lành thù thắng rốt ráo trì giới báu thanh tịnh, tức là trì giới Ba La Mật. Tại gia giữ năm giới, xuất gia giữ giới cụ túc. Lại siêng tu căn lành tất cả đều xả, chẳng có gì mà không thể kham nhẫn, tức là nhẫn nhục Ba La Mật. Bất cứ những việc gì không như ý, đều tiếp thọ nhẫn nhục. Lại siêng tu căn lành thường tinh tấn, tâm không thối chuyển, tức là tinh tấn Ba La Mật. Ngày tinh tấn, đêm tinh tấn, thân tinh tấn, tâm tinh tấn, tóm lại, lúc nào cũng tinh tấn, chẳng có sự giải đãi. Lại siêng tu căn lành pháp môn đại phương tiện, vào vô lượng tam muội, tức là thiền định Ba La Mật. Lại siêng tu căn lành trí huệ, khéo quán sát tất cả nhân duyên, tức là bát nhã Ba La Mật. Đó là pháp môn lục độ đến bờ kia.
Bồ Tát biết căn lành tư tưởng và hành vi khác nhau của tất cả chúng sinh. Chúng sinh nghĩ gì, làm gì, Bồ Tát đều hoàn toàn thấu rõ. Tại sao ? Vì Bồ Tát có tha tâm thông. Tu hành căn lành tích tập vô biên công đức. Siêng tu học tập căn lành Bồ Tát hạnh của Bồ Tát tu. Siêng tu căn lành che khắp nuôi dưỡng tất cả thế gian. Bồ Tát tu đủ thứ những căn lành đó, vì chúng sinh hồi hướng.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát ở nơi căn lành nầy: Tu hành, an trụ, nhập vào, nhiếp thọ, tích tập, biện đủ, ngộ hiểu, tâm tịnh, khai thị, phát khởi, thì được tâm kham nhẫn, đóng bít cửa đường ác. Khéo nhiếp các căn, đầy đủ oai nghi. Xa lìa điên đảo. Chánh hạnh viên mãn. Kham làm pháp khí của tất cả chư Phật, làm ruộng phước đức tốt của chúng sinh. Được Phật nghĩ nhớ, lớn căn lành Phật. Trụ nơi nguyện của chư Phật, thực hành nghiệp của chư Phật. Tâm được tự tại, đồng với chư Phật ba đời. Hướng về đạo tràng của Phật, vào sức lực của Như Lai. Đủ sắc tướng của Phật, vượt khỏi các thế gian, chẳng thích sinh về trời, chẳng tham phước lạc, chẳng chấp các hành. Tất cả căn lành đều đem hồi hướng.
Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, đối với đủ thứ căn lành như đã nói ở trước, đều tu hành được. An trụ ở trong căn lành, hướng nhập vào căn lành, nhiếp thọ căn lành, tích tập căn lành, biện đủ căn lành, ngộ hiểu căn lành, tâm tịnh căn lành, khai thị căn lành. Khi phát khởi căn lành thì, đắc được tâm kham nhẫn thọ, đóng bít cửa tất cả các đường ác. Khéo nhiếp thọ tất cả căn lành, tất cả oai nghi đều đầy đủ. Xa lìa điên đảo mộng tưởng, tức cũng là lìa khỏi tất cả mọi hành vi không chánh đáng. Tu hành hạnh môn chánh đáng, đắc được viên mãn. Kham làm được pháp khí của tất cả chư Phật. Lại làm ruộng phước tốt cho tất cả chúng sinh gieo trồng phước đức, khiến cho tất cả chúng sinh gieo trồng vô lượng căn lành. Được chư Phật nghĩ nhớ, tăng trưởng căn lành của chư Phật, trụ nơi đại nguyện của chư Phật, thực hành nghiệp lành của chư Phật, trong tâm đắc được tự tại, đồng với niềm vui của tất cả chư Phật ba đời. Thường đi đến đạo tràng của mười phương chư Phật, đắc được mười lực chư Phật, đầy đủ sắc tướng của chư Phật, tức cũng là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, vượt khỏi tất cả tướng tốt thế gian. Chẳng nguyện sinh về cõi trời hưởng phước trời, chẳng tham phú quý của thế gian, chẳng chấp trước vào tất cả hạnh. Đem tất cả căn lành tu tập, đều vì chúng sinh hồi hướng, khiến cho họ lìa khổ được vui, đó mới là tinh thần của Bồ Tát.
Làm tạng công đức của các chúng sinh. Trụ đạo rốt ráo. Che khắp tất cả. Ở trong đạo hư không, cứu chúng sinh ra, khiến cho họ an trụ tất cả pháp lành. Khắp các cảnh giới, không dứt không hết được. Khai mở tất cả cửa trí bồ đề. Kiến lập tràng trí huệ nghiêm tịnh đại đạo. Thị hiện khắp tất cả thế gian, khiến trừ cấu nhiễm. Tâm khéo điều phục, sinh nhà Như Lai. Thanh tịnh giống tánh Phật. Công đức đầy đủ, làm ruộng phước lớn. Làm nơi nương tựa của thế gian, an lập chúng sinh, đều khiến cho thanh tịnh. Thường siêng tu tập tất cả căn lành.
Bồ Tát làm bảo tạng công đức của tất cả chúng sinh, trụ nơi đạo rốt ráo, che hộ khắp tất cả chúng sinh. Ở trong đạo hư không, cứu vớt chúng sinh ra, khiến cho tất cả chúng sinh an trụ ở trong pháp lành. Khắp cùng tất cả cảnh giới, chẳng có gián đoạn, chẳng hết được. Khai mở tất cả cửa trí huệ bồ đề, kiến lập tràng trí huệ, trang nghiêm thanh tịnh tất cả đạo tràng lớn. Khắp thị hiện trăm ngàn ức hoá thân trong tất cả thế gian, khiến cho chúng sinh trừ sạch tất cả tư tưởng trần cấu và nhiễm ô. Tâm khéo điều phục tất cả vọng tưởng, sinh vào trong nhà Phật, thanh tịnh giống tánh Phật. Công đức đó đầy đủ viên mãn, làm ruộng phước lớn nhất của chúng sinh, làm chỗ nương tựa của chúng sinh thế gian. Khiến cho tất cả chúng sinh được bình an có thể tự lập được, khiến cho tâm của tất cả chúng sinh đều thanh tịnh không nhiễm, luôn siêng tu học hết thảy tất cả căn lành.
Phật tử ! Đại Bồ Tát dùng sức chí nguyện thanh tịnh tâm bồ đề. Khi tu các căn lành thì nghĩ như vầy : Các căn lành nầy tích tập từ tâm bồ đề. Suy gẫm từ tâm bồ đề. Phát khởi từ tâm bồ đề. Chí thích từ tâm bồ đề. Tăng ích từ tâm bồ đề. Đều là thương xót tất cả chúng sinh. Đều hướng về cầu nhất thiết chủng trí. Đều thành tựu mười lực của Như Lai. Khi nghĩ như thế thì, căn lành tăng thêm, vĩnh viễn không thối chuyển.
Các vị đệ tử của Phật ! Khi đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, dùng sức chí nguyện thanh tịnh và tâm bồ đề, tu hành tất cả căn lành, thì quán tưởng như vầy : Tất cả căn lành nầy, đều do phát tâm bồ đề tích tập mà có, đều do phát tâm bồ đề suy gẫm mà có. Đủ thứ căn lành nầy, là do phát tâm bồ đề tu hành, là từ tâm bồ đề lập chí nguyện và cầu sự an vui, là từ tâm bồ đề tăng thêm lợi ích. Tại sao phải phát tâm bồ đề ? Vì thương xót chúng sinh khổ, cứu vớt chúng sinh khổ, cho nên mới phát tâm bồ đề. Vì hướng về cầu nhất thiết chủng trí, vì thành tựu mười lực của Phật, cho nên mới phát tâm bồ đề. Tâm bồ đề là gì ? Nói đơn giản là trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh. Người tu hành không phát tâm bồ đề, giống như hoa nở mà không kết trái, chẳng có ích gì.
Khi Bồ Tát nghĩ tưởng như thế, thì căn lành lại tăng thêm rất nhiều, bất cứ Bồ Tát gặp khốn khổ hoạn nạn gì, vĩnh viễn không bao giờ thối chuyển tâm bồ đề. Tâm bồ đề vững chắc như kim cang, thiên ma ngoại đạo không thể phá hoại được.
Phật tử ! Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Nguyện cho tôi dùng căn lành quả báo nầy, hết kiếp thuở vị lai, tu hạnh Bồ Tát, đều đem bố thí cho tất cả chúng sinh, đều đem hồi hướng cho tất cả chúng sinh, khắp cùng không thừa sót.
Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, lại nghĩ tưởng như vầy : Tôi nguyện dùng căn lành và quả báo nầy, hết kiếp thuở vị lai, tu hành hạnh môn Bồ Tát, đem căn lành tu được, thảy đều hồi hướng cho tất cả chúng sinh, hoàn toàn hồi hướng cho tất cả chúng sinh, lợi ích khắp hết cho tất cả chúng sinh, khiến cho chẳng có một chúng sinh nào không được hồi hướng căn lành nầy. Cho nên nói khắp hết không thừa sót.
Nguyện khiến cho A tăng kỳ thế giới đầy dẫy châu báu. A tăng kỳ thế giới đầy dẫy y phục. A tăng kỳ thế giới đầy dẫy hương thơm. A tăng kỳ thế giới đầy dẫy đồ trang nghiêm. A tăng kỳ thế giới đầy dẫy vô lượng ma ni báu. A tăng kỳ thế giới đầy dẫy hoa đẹp. A tăng kỳ thế giới đầy dẫy vị ngon. A tăng kỳ thế giới đầy dẫy tài sản của cải. A tăng kỳ thế giới đầy dẫy giường toà, dùng lọng báu che, giăng bày y đẹp. A tăng kỳ thế giới đầy dẫy các thứ mũ báu trang nghiêm.
Bồ Tát phát nguyện, nguyện khiến cho các thế giới nhiều như số A tăng kỳ, ở trong mỗi thế giới, đều đầy dẫy châu báu đẹp lạ. Lại nguyện khiến cho các thế giới nhiều như số A tăng kỳ, đều đầy dẫy tất cả quần áo. Lại nguyện khiến cho các thế giới nhiều như số A tăng kỳ, đều đầy dẫy tất cả hương thơm. Lại nguyện khiến cho các thế giới nhiều như số A tăng kỳ, đều đầy dẫy đồ trang nghiêm. Lại nguyện khiến cho các thế giới nhiều như số A tăng kỳ, đầy dẫy tất cả hoa đẹp. Lại nguyện khiến cho các thế giới nhiều như số A tăng kỳ, đầy dẫy tất cả vị ngon thượng hạng. Lại nguyện khiến cho các thế giới nhiều như số A tăng kỳ, đầy dẫy tất cả tài sản và của cải. Lại nguyện khiến cho các thế giới nhiều như số A tăng kỳ, đầy dẫy giường báu và toà báu, ở trên giường báu có lọng trướng báu che, ở trên toà báu có y đẹp giăng bày. Lại nguyện khiến cho các thế giới nhiều như số A tăng kỳ, đầy dẫy các thứ mũ báu trang nghiêm.
Giả sử một người thường đến chỗ Bồ Tát cầu xin, hết thuở kiếp vị lai, Bồ Tát đem các vật đó bố thí cho họ, chưa từng nhàm mỏi, không ngừng nghỉ. Như nơi một người, tất cả chúng sinh cũng đều như vậy.
Giả sử có người, từ bây giờ cho đến hết thuở kiếp vị lai, thường đến chỗ Bồ Tát cầu xin. Bồ Tát đem các phẩm vật như đã nói ở trên bố thí cho họ, chưa từng nhàm mỏi, vĩnh viễn không dừng nghỉ. Đối với một chúng sinh bố thí như thế, cho đến tất cả chúng sinh cũng đều bố thí như thế, tuyệt đối tâm không nhàm mỏi.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí như vậy, thì không có tâm hư dối, không có tâm hy vọng, không có tâm danh dự, không có tâm hối tiếc, không có tâm nhiệt não. Chỉ phát tâm chuyên cầu nhất thiết trí, tâm xả bỏ tất cả, tâm thương xót chúng sinh, tâm giáo hoá thành thục. Đều khiến an trụ tâm nhất thiết trí.
Phật tử ! Đại Bồ Tát đem các căn lành hồi hướng như vầy : Hết kiếp thuở vị lai thường hành bố thí, tâm trụ nhất thiết trí.
Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, khi bố thí như vậy thì, dụng tâm chân thật để bố thí. Tuyệt đối chẳng có chút tâm hư dối, cũng chẳng hy vọng tương lai đắc được lợi ích gì mới bố thí, cũng chẳng mưu đồ được danh dự tốt mới bố thí. Bố thí rồi chẳng sinh tâm hối tiếc, chẳng sinh tâm phiền não, lúc nào cũng an vui, do đó: “Làm lành vui nhất”. Tại sao đem căn lành để hồi hướng ? Vì đạo tâm chuyên cầu nhất thiết trí huệ, tâm từ bố thí tất cả, tâm thương xót tất cả chúng sinh, tâm giáo hoá thành thục tất cả chúng sinh, khiến cho tâm trí của tất cả chúng sinh an trụ nơi nhất thiết trí huệ
Phật tử ! Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi vì tất cả chúng sinh, muốn khiến cho A tăng kỳ thế giới đầy dẫy voi báu, đầy đủ bảy chi, tánh rất điều thuận. Trên lưng bày tràng bằng vàng, che lưới vàng, trang nghiêm các thứ báu, dùng để bố thí. Nguyện khiến cho A tăng kỳ thế giới, đầy dẫy ngựa báu, như long mã vương, dùng đủ đồ trang nghiêm châu báu để nghiêm sức, dùng để bố thí. Nguyện khiến cho A tăng kỳ thế giới, đầy dẫy kỹ nữ, đều có thể tấu diễn các thứ âm nhạc hay, dùng để bố thí. Nguyện khiến cho A tăng kỳ thế giới, đầy dẫy nam nữ, dùng để bố thí.
Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, lại nghĩ như vầy : Tôi vì tất cả chúng sinh, nguyện khiến A tăng kỳ thế giới, đều đầy dẫy voi báu. Voi báu đó đầy đủ bảy chi, đều đầy đủ sung mãn, tánh tình rất nhu hoà điều thuận. Trên lưng voi báu, bày tràng bằng vàng, lưới vàng che phía trên. Dùng đủ thứ báu đẹp để trang nghiêm, dùng để bố thí cho chúng sinh. Nguyện khiến cho A tăng kỳ thế giới, đầy dẫy ngựa báu. Ngựa báu dũng mãnh giống như long mã vương. Dùng đủ thứ đồ trang nghiêm báu đẹp để nghiêm sức con ngựa báu đó, dùng để bố thí cho tất cả chúng sinh. Nguyện khiến cho A tăng kỳ thế giới, đầy dẫy kỹ nữ, đều có thể diễn tấu đủ thứ âm nhạc hay, dùng để bố thí cho tất cả chúng sinh. Nguyện khiến cho A tăng kỳ thế giới, đầy dẫy nam nữ, để bố thí cho tất cả chúng sinh.
Bồ Tát làm mãn nguyện tâm tất cả chúng sinh, do đó:
“Trước hết dùng câu dục móc
Sau khiến vào trong Phật trí”.
Cho nên Bồ Tát phát nguyện, khiến cho hết thảy thế giới, đầy dẫy voi báu, ngựa báu, kỹ nữ, nam nữ .v.v…Tại sao ? Vì bản tánh chúng sinh có nhân tố tham tài háo sắc, cho nên Bồ Tát dùng tất cả tiền tài châu báu, để làm mãn nguyện tâm tham tài của chúng sinh. Lại dùng kỹ nữ xinh đẹp để làm mãn nguyện tâm háo sắc của chúng sinh. Vì khiến cho chúng sinh nghe được âm nhạc hay, thì lập tức phát tâm bồ đề. Khiến cho chúng sinh tuy thấy thiếu nữ xinh đẹp biểu diễn ca múa, nhưng không sinh tâm dâm dục. Bồ Tát dụng tâm khổ sở mà chúng ta chúng sinh không biết cảm ân báo đức, thật là một sự việc ăn năn.
Nguyện khiến cho A tăng kỳ thế giới, đầy dẫy thân mình, phát tâm bồ đề, mà đem bố thí. Nguyện khiến cho A tăng kỳ thế giới, đầy dẫy đầu của mình, khởi tâm không phóng dật, mà đem bố thí. Nguyện khiến cho A tăng kỳ thế giới, đầy dẫy mắt của mình, mà đem bố thí. Nguyện khiến cho A tăng kỳ thế giới, đầy dẫy thân máu thịt và xương tuỷ của mình, tâm chẳng luyến tiếc, mà đem bố thí. Nguyện khiến cho A tăng kỳ thế giới, đầy dẫy ngôi vua tự tại, mà đem bố thí. Nguyện khiến cho A tăng kỳ thế giới, đầy dẫy tôi tớ sai khiến, mà đem bố thí.
Bồ Tát phát nguyện, nguyện khiến cho A tăng kỳ thế giới, đầy dẫy thân thể của mình, thân do thần thông biến hoá đó, phát tâm bồ đề, nguyện đem thân mình bố thí cho chúng sinh cần. Lại nguyện khiến cho A tăng kỳ thế giới, đầy dẫy đầu của mình, sinh khởi tâm không phóng dật, tức cũng là giữ quy cụ. Nguyện đem đầu của mình bố thí cho chúng sinh cần . Lại nguyện khiến cho A tăng kỳ thế giới, đầy dẫy con mắt của mình, nguyện đem con mắt của mình bố thí cho chúng sinh cần, mà không sẻn tiếc. Lại nguyện khiến cho A tăng kỳ thế giới, đầy dẫy thân, máu, thịt, xương, tuỷ, của mình, tâm chẳng luyến tiếc, nguyện đem tất cả những thứ đó bố thí cho chúng sinh cần. Lại nguyện khiến cho A tăng kỳ thế giới, đầy dẫy ngôi vua tự tại, nguyện đem ngôi vua bố thí cho chúng sinh cần. Lại nguyện khiến cho A tăng kỳ thế giới, đầy dẫy tôi tớ sai khiến, nguyện đem họ bố thí cho chúng sinh cần.
Đại Bồ Tát đem đủ thứ vật bố thí như vậy, hết kiếp thuở vị lai, an trụ tâm rộng lớn bố thí tất cả. Bố thí cho một chúng sinh. Như một chúng sinh, tất cả chúng sinh trong các cõi chúng sinh, cũng đều bố thí như vậy.
Phật tử ! Đại Bồ Tát nơi một thế giới, hết kiếp thuở vị lai, tu hạnh Bồ Tát, đem các thứ vật bố thí cho một chúng sinh, với tất cả chúng sinh đều bố thí như vậy, đều khiến cho họ được đầy đủ. Như nơi một thế giới, tận hư không khắp pháp giới, trong tất cả thế giới, cũng đều như vậy.
Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, đem đủ thứ vật như vậy, hết kiếp thuở vị lai, an trụ nơi tâm rộng lớn bố thí tất cả, bố thí cho một chúng sinh. Như với một chúng sinh bố thí như vậy; hết kiếp thuở vị lai, tất cả chúng sinh cũng bố thí như vậy. Bồ Tát tận tâm kiệt sức để tu Bồ Tát đạo, tức là pháp môn bố thí hồi hướng.
Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, ở trong một thế giới, hết kiếp thuở vị lai, tu hành hạnh môn của Bồ Tát tu. Đem đủ thứ phẩm vật như đã nói ở trên, bố thí cho một chúng sinh. Giống như vậy, cũng bố thí cho tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều được đầy đủ. Như trong một thế giới, bố thí như vậy; mà tận cùng hư không khắp pháp giới trong tất cả thế giới, cũng đều bố thí như vậy.
Đại bi che khắp, trọn không gián đoạn ngừng nghỉ. Khắp thêm thương xót, tuỳ theo chỗ họ cần, đều cung cấp cúng dường. Không làm cho hạnh bố thí gặp duyên mà ngừng, cho đến chừng khảy móng tay cũng không sinh tâm mệt mỏi.
Bồ Tát dùng tâm đại bi để che hộ khắp tất cả chúng sinh. Từ khi bắt đầu cho đến cuối cùng, trọn không có lúc nào ngừng nghỉ. Khắp gia trì chúng sinh, thương xót chúng sinh. Tuỳ thuận chỗ chúng sinh cần, mà cung cấp cúng dường cho tất cả chúng sinh. Không thể trong lúc bố thí, gặp nhân duyên thù thắng mà ngừng. Tóm lại, bất cứ gặp chướng ngại gì, vẫn bố thí, cho đến không thể sinh tâm mệt mỏi, dù trong khoảng thời gian khảy móng tay. Đối với pháp môn bố thí không thể không tu hành.
Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, tức là khó làm mà làm được. Ví như có những người làm không được việc đó, song, có vẻ như Ngài cũng làm không được, nhưng Ngài vẫn phải làm, làm hết mình. Tại sao phải nói như vậy ? Các vị hãy nhìn xem ! Đức Phật Thích Ca trong quá khứ, vì độ chúng sinh mà xả thân không tiếc. Vì pháp quên mình, chỉ vì độ chúng sinh lìa khổ được vui.Trong ba ngàn đại thiên thế giới, đều là nơi xả thân mạng của chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai. Tận hư không khắp pháp giới, cõi nước chư Phật mười phương, chẳng có chỗ một hạt bụi nào, mà chẳng phải là nơi chư Phật mười phương ba đời, xả thân mạng vì tất cả chúng sinh. Tinh thần hy sinh đó thật là vĩ đại !
Chúng ta chúng sinh có đủ thứ sự chấp trước, buông xả chẳng đặng thân tâm, cho nên những chỗ làm đều ích kỷ lợi mình. Điên đảo vọng tưởng, một giây cũng không ngừng. Vọng tưởng nầy qua rồi, thì vọng tưởng khác lại đến. Do đó mười phương chư Phật nói chúng ta chúng sinh là đáng thương xót.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí như vậy, thì sinh tâm như vầy : Tâm không chấp trước. Tâm không ràng buộc. Tâm giải thoát. Tâm sức mạnh. Tâm thâm sâu. Tâm khéo nhiếp. Tâm không chấp. Tâm không thọ mạng. Tâm khéo điều phục. Tâm không tán loạn. Tâm không vọng tính. Tâm đủ các thứ bảo tính. Tâm không cầu quả báo. Tâm thấu đạt tất cả pháp. Tâm trụ đại hồi hướng. Tâm khéo quyết các nghĩa. Tâm khiến tất cả chúng sinh trụ vô thượng trí. Tâm sinh đại pháp quang minh. Tâm vào nhất thiết trí.
Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, khi đem đủ thứ các đồ vật để bố thí, thì sinh ra mười chín thứ tâm sau đây :
1. Tâm không chấp trước : Tức là không chấp trước vào nơi tâm, xem tất cả đều không, nhìn xuyên thủng, mà chẳng chấp trước. Do đó:
“Như điểu hành không không vô tích
Như đao trảm thuỷ thuỷ vô thương”.
Trong không chẳng có dấu chim bay, cho nên chim bay trong không, chẳng lưu lại dấu vết. Lại giống như dùng đao chém nước, nhưng nước không bị thương. Đó là hiện tượng tự nhiên, không thể chấp trước.
2. Tâm không ràng buộc : Tức là không có sự trói buộc tâm. Ràng buộc tức là tự mình ràng buộc mình. Như vậy thì không thể không, mà có chỗ nương. Tứ Tổ Đạo Tín đại sư đến bái kiến Tam Tổ Tăng Xán thiền sư, mở miệng liền cầu giải thoát.
– Tam Tổ hỏi : “Ai trói buộc ngươi ?”
– Tứ Tổ nghe xong khoát nhiên đại ngộ, liền được giải thoát, tức cũng là minh tâm kiến tánh.
3. Tâm giải thoát : Tức là tâm tự tại, tức cũng là tâm không ràng buộc. Giải thoát tức là vốn chẳng trụ vào đâu, do đó: “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỷ tâm”.
4. Tâm sức lớn : Sức lực của tâm phá được tất cả mê hoặc.
5. Tâm thâm sâu : Tức là tâm bồ đề.
6. Tâm khéo nhiếp : Tâm khéo nhiếp thọ tất cả chúng sinh.
7. Tâm không chấp : Tâm chẳng có mọi sự chấp trước.
8. Tâm không thọ mạng : Không thể nói tôi làm được công đức gì? Có quả báo thọ mạng thọ mạng gì ? Bồ Tát chẳng có những tư tưởng đó, chỉ biết nghĩ đến lợi ích của tất cả chúng sinh, mà quên đi sự tồn tại của mình.
9. Tâm khéo điều phục : Bồ Tát khéo điều phục cuồng tâm dã tính của mình. Khi vọng tưởng sinh ra, lập tức điều phục nó, khiến cho nó không khởi tác dụng, không thể nổi sóng làm gió. Hàng phục tâm cang cường, tâm sân hận, tâm không thể nhẫn nại. Lúc đó, trong tâm một chút phiền não cũng chẳng có, không phạm giới luật.
Tâm khéo điều phục, tức là tâm khéo nhẫn nại. Bất cứ chúng ta gặp sự việc gì, đều phải có tâm nhẫn nại. Tâm nhẫn nại nầy là chịu cực chịu oán. Chịu cực là khổ cực cũng phải nhẫn nại. Chịu oán là oán hận cũng phải nhẫn nại. Ví như có người ác ý phê bình bạn, bới lông tìm vết, nói thế nầy cũng không đúng, thế kia cũng không đúng.
Tóm lại, nói mỗi cử chỉ hành động của bạn đều sai lầm. Lúc đó, mình phải hồi quang phản chiếu, nếu thật là mình sai thì phải sửa đổi. Nếu không sai thì phải nhẫn nại, đừng nổi giận. Người tu hành phải có công phu nhẫn nại, cũng là con đường phải đi qua, tức là khảo nghiệm định lực của mình có đủ hay không, chuyển đuợc cảnh giới, hoặc là bị cảnh giới chuyển.
10. Tâm không tán loạn : Tức là tâm định, nếu tâm loạn thì tinh thần chẳng tập trung, vọng tưởng lăn xăn, vậy thì chẳng có công phu thiền định.
11. Tâm không vọng tính : Tức là tâm không vọng cầu. Do đó: “Vật tham ý ngoại chi tài”, phàm là tài vật không hợp nghĩa, không thể tham lấy. Nếu như bất chấp thủ đoạn lấy tài vật của người khác, thì đó là tâm vọng tính.
12. Tâm đủ các thứ bảo tính : Tức là Phật tính, Pháp tính, Tăng tính, tâm đầy đủ những bảo tính nầy.
13. Tâm chẳng cầu quả báo : Hiện tại tôi bố thí, tương lai sẽ được những quả báo gì ? Tâm chẳng cầu những thứ nầy.
14. Tâm thấu đạt tất cả pháp : Tâm thấu rõ thông đạt tất cả các pháp thật tướng. Đạo lý chân không diệu hữu, trung đạo liễu nghĩa.
15. Tâm trụ đại hồi hướng : Thường tu công đức đại hồi hướng.
16. Tâm khéo quyết các nghĩa : Khéo quyết rõ tất cả Kinh nghĩa. Bất cứ nghĩa lý gì, nhìn là biết, mà còn quyết định được nghĩa lý của nó như thế nào.
17. Tâm khiến tất cả chúng sinh trụ vô thượng trí : Tâm khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được trí huệ vô thượng.
18. Tâm sinh đại pháp quang minh : Tâm sinh một thứ pháp căn bản, tức là trí huệ quang minh.
19. Tâm vào nhất thiết trí : Tức là tâm trí huệ vào được trong nhất thiết trí huệ.
Phật tử ! Đại Bồ Tát đem căn lành đã tu tập, trong mỗi niệm hồi hướng như vầy : Nguyện cho tất cả chúng sinh đầy đủ tiền tài châu báu, không bị thiếu thốn. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu vô tận đại công đức tạng. Nguyện cho tất cả chúng sinh đầy đủ tất cả an ổn khoái lạc. Nguyện cho tất cả chúng sinh tăng trưởng nghiệp của đại Bồ Tát. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu viên mãn vô lượng pháp thù thắng bậc nhất. Nguyện cho tất cả chúng sinh thừa nhất thiết trí không thối chuyển. Nguyện cho tất cả chúng sinh thấy khắp chư Phật trong mười phương. Nguyện cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn xa lìa các hoặc trần cấu của thế gian. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được tâm thanh tịnh bình đẳng. Nguyện cho tất cả chúng sinh lìa các xứ nạn, đắc được nhất thiết trí.
Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, đem căn lành tích tập, trong mỗi niệm đều hồi hướng cho chúng sinh. Phát ra mười thứ tâm nguyện :
1. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đắc được tiền tài châu báu phong phú đầy đủ, không ai thiếu thốn. Các vị nghĩ xem, Bồ Tát phát nguyện như thế, có mãn nguyện chăng ? Không dễ gì mãn nguyện. Tất cả chúng sinh có tiền tài châu báu phong phú đầy đủ chăng ? Chẳng phong phú đầy đủ. Bồ Tát phát nguyện này, tuy nhiên không mãn nguyện, nhưng Ngài muốn phát nguyện như vậy. Tại sao ? Vì thành tựu tâm đại bồ đề của Ngài.
2. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu đại công đức tạng vô cùng tận.
3. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đầy đủ tất cả sự an ổn và khoái lạc.
4. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, tăng trưởng nghiệp thiện của đại Bồ Tát tu.
5. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu viên mãn pháp thù thắng bậc nhất.
6. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được thừa nhất thiết trí huệ không thối chuyển, tức cũng là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
7. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thấy khắp mười phương chư Phật, được nghe Phật pháp, cúng dường chư Phật.
8. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn xa lìa tất cả mê hoặc và trần cấu của thế gian.
9. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đắc được tâm thanh tịnh và bình đẳng.
10. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, lìa khỏi nơi tám nạn, tức là : Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, Bắc Câu Lư Châu, Trời Trường Thọ, mù câm điếc, thế trí biện thông, trước Phật sau Phật. Chúng sinh trong tám nạn nầy chẳng thấy Phật, chẳng nghe Pháp, chẳng gặp Tăng. Nguyện cho họ đều được nhất thiết trí huệ.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát hồi hướng như vậy, thì phát sinh tâm hoan hỉ.
Bồ Tát Kim Cang Tràng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, khi hồi hướng như vậy, thì phát sinh tâm hoan hỉ. Vì làm cho tất cả chúng sinh hoan hỉ, mà phát một trăm mười tâm nguyện. Ở trước bảy mươi hai câu, khiến thành bố thí, tu nhân đến quả. Hành bố thí tức là theo thứ lớp để tu hành, tức cũng là từng bước từng bước tu đến quả vị Phật. Trước hết bắt đầu tu Thập Tín, trải qua Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác mà đến Diệu Giác (Phật vị). Ở sau ba mươi tám câu, khiến thành viên dung, nhân viên quả mãn. Viên dung tức là lúc ban đầu Bồ Tát phát tâm, liền thành Chánh Giác. Tức cũng là bậc tin ban đầu phát tâm bồ đề, liền đến quả vị Diệu Giác. Tại sao phải như thế ? Vì lúc tại nhân địa, đã tu thành viên mãn Thập Tín và năm mươi mốt bậc, cho nên khi đến quả địa, thì một khi chứng liền thành Phật. Do đó, hành bố thí không ngại viên dung, viên dung không ngại hành bố thí. Hai vô ngại nầy là ý nghĩa của hồi hướng.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được lợi ích an lạc. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được tâm bình đẳng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ nơi tâm xả được. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí tất cả. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm hoan hỉ bố thí. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí vĩnh viễn lìa bần cùng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí tất cả tiền tài châu báu. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí vô số tiền tài châu báu. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí khắp, bố thí vô lượng, bố thí tất cả. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí hết kiếp thuở vị lai không dứt.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được lợi ích và an lạc, cho nên Bồ Tát mới hành bố thí, đem công đức đắc được hồi hướng cho chúng sinh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được tâm bình đẳng, chẳng có tâm phân biệt, cho nên Bồ Tát mới hành bố thí.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ nơi tâm xả bỏ, tức cũng là tâm bố thí, cho nên Bồ Tát mới hành Bố thí.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm xả bỏ tất cả, tất cả đều bố thí được, chẳng có tâm xả bỏ không được. Do đó, mà Bồ Tát hành bố thí, tuyệt đối không có tư tưởng xẻn tiếc.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm hoan hỉ bố thí, cho nên mới hành bố thí.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí, vĩnh viễn lìa khỏi bần cùng, cho nên mới hành bố thí cho tất cả chúng sinh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí tất cả tiền tài châu báu, cho nên mới hành bố thí cho tất cả chúng sinh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí vô số tiền tài châu báu, cho nên mới hành bố thí cho tất cả chúng sinh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí khắp, bố thí vô lượng, bố thí tất cả, cho nên mới hành bố thí cho tất cả chúng sinh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí hết kiếp thuở vị lai không dứt, cho nên mới hành bố thí cho tất cả chúng sinh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm tất cả đều xả bỏ không hối tiếc, không phiền não. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm xả bỏ tất cả vật tư sanh. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm tuỳ thuận bố thí. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí nhiếp lấy. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí rộng lớn. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm xả bỏ vô lượng đồ trang nghiêm cúng dường. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí không chấp trước. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí bình đẳng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí sức lực rất lớn như kim cang. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí như ánh sáng mặt trời. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí nhiếp thọ trí huệ của Như Lai.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí tất cả cảnh giới đều xả, chẳng có hối tiếc, chẳng có phiền não.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí tất cả cảnh giới đều xả, đem hết thảy vật tư sanh bố thí. Đem phẩm vật cần dùng hằng ngày bố thí cho tất cả chúng sinh, như thức ăn uống, quần áo, thuốc men, toạ cụ .v.v…
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí tuỳ thuận chúng sinh. Phàm những gì họ cần dùng, đều bố thí chẳng khi nào nhàm mỏi.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí nhiếp lấy, tức cũng là khiến cho hết thảy tất cả chúng sinh, đều có đủ tâm bố thí.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí rộng lớn, tức cũng là tâm rộng lớn để bố thí, chẳng phân biệt chủng tộc, quốc tịch.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm xả bỏ vô lượng đồ trang nghiêm, cúng dường tất cả chư Phật, bố thí cho tất cả chúng sinh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí không chấp trước. Khi bố thí, khiến cho tâm thường nghĩ đến “tam luân thể không”. Chẳng có người bố thí, cũng chẳng thấy người nhận, cũng chẳng thấy vật thí. Đó mới là tâm bố thí không chấp trước.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí bình đẳng. Song, tâm của chúng sinh rất khó bình đẳng, mà là có dày có mỏng, có thị có phi, có tốt có xấu, không thể bình đẳng như nhau. Bồ Tát vì khiến cho chúng sinh có tâm bình đẳng bố thí, mới không chọn lựa giàu nghèo sang hèn mà hành bố thí. Phàm là có người đến cầu xin cái gì, Bồ tát đều bố thí cái đó, chẳng có quan niệm thân sơ.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tâm bố thí sức lực rất lớn như kim cang. Tâm thí của Bồ Tát kiên cố giống như kim cang, quang minh không gì sánh bằng, sức lực lại đặc biệt lớn. Bồ Tát có tâm sức lực bố thí lớn như thế, mới làm mô phạm để cho chúng sinh học tập.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ trong trí huệ ánh sáng giống như mặt trời, để cầu pháp môn bố thí. Phàm là nơi ánh sáng mặt trời chiếu đến, đều có thể bố thí.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ nơi nhiếp thọ trí huệ của Như Lai, để cầu pháp môn bố thí. Phàm là nơi ánh sáng của Phật chiếu đến, đều có thể bố thí. Vì những nguyên nhân đó, cho nên Bồ Tát mới hành bố thí, khiến cho chúng sinh được an lạc. Bồ Tát tích tập đủ thứ căn lành, để hồi hướng cho chúng sinh. Đó là vì khiến cho hết thảy chúng sinh đắc được lợi ích lớn. Đó là tâm trạng từ bi của Bồ Tát.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, căn lành quyến thuộc đầy đủ. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, căn lành trí huệ thường hiện tiền. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được tâm thanh tịnh viên mãn không thể hoại. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu căn lành thanh tịnh tối thắng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, ở trong phiền não ngủ được giác ngộ. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, diệt trừ tất cả các nghi hoặc. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được trí huệ bình đẳng công đức thanh tịnh. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, công đức viên mãn không ai phá hoại được. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đầy đủ tam muội thanh tịnh bất động. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ nơi nhất thiết trí không thể hoại.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, căn lành quyến thuộc đầy đủ, gia đình hoà thuận an vui, chẳng có sự việc tranh chấp gì xảy ra.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, căn lành trí huệ thường hiện tiền. Có trí huệ rồi mới có thể học tập Phật pháp; bằng không chẳng có sự thành tựu.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được tâm thanh tịnh viên mãn không thể hoại.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu căn lành thanh tịnh tối thù thắng.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, ở trong phiền não ngủ, đắc được sự giác ngộ. Người ngu si thường sinh phiền não. Tại sao ? vì bị vô minh mê hoặc. Nếu đắc được trí huệ thanh tịnh, thì giác ngộ vô minh là gốc của phiền não, mà tìm cách trừ diệt vô minh, thì không còn phiền não.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, diệt trừ tất cả hoài nghi và mê hoặc. Tức là đến được tâm tin chân chánh, giác ngộ chân chánh, thì khôi phục được bản lai diện mục.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được trí huệ bình đẳng, công đức thanh tịnh. Tóm lại, trí huệ và công đức đều phải thanh tịnh, đều phải bình đẳng, mới gọi là toàn nhân, hợp tiêu chuẩn.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, hết thảy công đức đều viên mãn, chẳng có ai phá hoại được.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đầy đủ định lực thanh tịnh bất động. Định thanh tịnh là do ngồi thiền mà được, bất cứ thấy cảnh giới gì, cũng chẳng động tâm. Do đó:
“Núi Thái đổ trước mắt mà không sợ,
Người đẹp trước mắt tâm chẳng động”.
Đạt đến trình độ nầy, thì sẽ chuyển cảnh giới được, chẳng bị cảnh giới chuyển.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ trong trí huệ nhất thiết trí không thể hoại, cho nên Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu viên mãn vô lượng hạnh thần thông thanh tịnh của Bồ Tát. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, tu tập căn lành không chấp trước. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, niệm tâm thanh tịnh của tất cả chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, sinh căn lành thanh tịnh thù thắng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, diệt trừ tất cả nghiệp ma làm chướng đạo pháp. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đầy đủ pháp công đức thanh tịnh bình đẳng vô ngại. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, dùng tâm rộng lớn niệm chư Phật không giải đãi. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thường gần gũi chư Phật siêng năng cúng dường. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, rộng mở tất cả cửa căn lành, khắp viên mãn pháp trắng tịnh. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, tâm vô lượng, tâm rộng lớn, tâm tối thắng đều thanh tịnh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu viên mãn hạnh thần thông thanh tịnh của Bồ Tát.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, tu hành tích tập vô lượng căn lành không chấp trước.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, niệm tâm thanh tịnh của tất cả chư Phật trong ba đời, khá khứ, hiện tại và vị lai.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, sinh ra tất cả căn lành thanh tịnh nhất.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, diệt trừ tất cả nghiệp lực của ma làm, hay chướng ngại đạo pháp.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đầy đủ viên mãn pháp công đức thanh tịnh bình đẳng vô ngại.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, dùng tâm bồ đề rộng lớn, luôn luôn nghĩ nhớ chư Phật không giải đãi.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, luôn luôn gần gũi chư Phật mười phương, siêng năng cúng dường mười phương chư Phật.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, rộng mở tất cả cửa căn lành, khắp viên mãn thanh tịnh pháp không ô nhiễm.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, có tâm vô lượng, tâm rộng lớn, tâm thù thắng, đều được thanh tịnh.
Bồ Tát tu đủ thứ căn lành, đều vì chúng sinh. Cử chỉ hành động lời nói của chúng ta không nghĩ bắt chước theo Bồ Tát. Chẳng nghĩ Bồ Tát đối với chúng ta tốt như thế, thì chúng ta phải phát bồ đề tâm như thế nào ? Chẳng có người nào có thể nghĩ như thế. Giống như cha mẹ tốt với con cái, tận tâm tận sức để nuôi dưỡng lớn thành người. Song, đa số con cái chẳng hiểu thảo với cha mẹ, thậm chí con nghĩ rằng làm cha mẹ đối với mình phải làm tròn nghĩa vụ như thế, mà mình chẳng có biểu hiện gì đối với cha mẹ. Chúng sinh là như thế, chẳng màng Bồ Tát phát nguyện gì, với ta có quan hệ gì. Sở dĩ chúng sinh làm chúng sinh, là liên quan đến chỗ nầy.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu tâm bố thí Ba La Mật thanh tịnh. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, giữ gìn giới Ba La Mật thanh tịnh của chư Phật. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được đại kham nhẫn Ba La Mật. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tinh tấn Ba La Mật thường không giải đãi. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ vô lượng định, hay khởi đủ thứ thần thông trí huệ. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, biết tất cả pháp không thể tánh Bát Nhã Ba La Mật. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, viên mãn vô biên pháp giới thanh tịnh. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu viên mãn tất cả thần thông căn lành thanh tịnh. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ hạnh bình đẳng tích tập pháp lành đều viên mãn. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, khéo vào khắp cùng cảnh giới của tất cả chư Phật.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu tâm thanh tịnh bình đẳng. Tất cả sự bố thí đều được thanh tịnh, sẽ đến được bờ bên kia.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, phụng trì giới thanh tịnh của chư Phật. Tất cả giới luật đều được thanh tịnh, sẽ đến được bờ bên kia.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được đại kham nhẫn. Tất cả sự nhẫn nại đều viên mãn, sẽ đến được bờ bên kia. Kham nhẫn gì ? Tức là người ta đối với mình không tốt, thậm chí ngược đãi mình, cũng phải nhẫn nại.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ tại tinh tấn Ba La Mật, không giải đãi, không phóng dật. Nếu ngày đêm sáu thời thường tinh tấn, sẽ đến bờ bên kia.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ trong vô lượng thiền định, hay sinh ra đủ thứ thần thông biến hoá, có đủ thứ trí huệ hiện tiền. Cầu trí huệ có hai pháp môn. Một là vào sâu tạng Kinh, trí huệ như biển. Hai là tham thiền đả toạ cơ bản trí huệ hiện tiền, tức cũng là trí huệ giải thoát, mà đến bờ bên kia.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, biết tất cả các pháp, vốn chẳng có tự tính, tướng thường tự vắng lặng. Đắc được trí huệ Bát nhã, chẳng phải là trí huệ thế trí biện thông, mới chiếu rõ thật tướng các pháp, đến được bờ bên kia.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, viên mãn vô lượng vô biên pháp giới, đều đắc được thanh tịnh. Chúng ta ở trong pháp giới, giống như một hạt bụi. Chẳng những con người giống như hạt bụi, mà thế giới cũng như thế. Pháp giới có bốn tướng: Thành, trụ, hoại, không. Lúc thành thì thành tựu từng chút từng chút. Lúc trụ thì loài người càng ngày càng tiến hoá, càng ngày càng văn minh. Nhưng phải biết, tiến hoá và văn minh đạt đến cực điểm, thì thế giới sẽ huỷ hoại. Tại sao ? Lúc đó con người không cần máy bay, ai ai cũng có thần thông, có thể bay đi ở trong hư không, mà không chướng ngại. Hết thảy lỗ lông trong thân người đều biết nói, lại biết lắng nghe các thứ âm thanh, không cần điện thoại. Bất cứ hai người cách xa bao nhiêu, đó đây đều nói chuyện với nhau, giống như ở trước mặt. Đến được trình độ nầy, thì trái đất tự nhiên sẽ chẳng còn nữa, đây là đạo lý gì ? Vì bí mật của vũ trụ đã bị lộ ra, chẳng cách chi sinh tồn, cho nên sẽ huỷ diệt.
Nói một cách đơn giản, giữa loài người với nhau, cùng nhau có tham sân si ba độc, vì có ba độc, cho nên tạo ra khí độc, đầy dẫy hư không. Hư không bị nhiễm ô không thanh khiết, con người hít vào, thì từ từ trúng độc, tự nhiên sẽ khiến cho nhân loại tuyệt chủng. Đó cũng giống như trái đất huỷ diệt.
Vì có tham sân si, nên con người với con người tranh đấu với nhau, nhà với nhà tranh đấu với nhau, nước này với nước kia tranh đấu với nhau, trái đất với hành tinh tranh đấu với nhau, khiến cho vũ trụ đồng quy ư tận, nguy hiểm giống như ba nạn lớn xuất hiện.
Vì có sự quan hệ như thế, cho nên pháp giới không thanh tịnh. Hoạ may có Bồ Tát phát nguyện, khiến cho pháp giới không bị huỷ hoại, mà còn viên mãn lại thanh tịnh, biến hoá tất cả khí xấu thành cát tường.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu viên mãn tất cả thần thông. Làm thế nào có thần thông ? Trước hết phải siêng tu giới định huệ, tu đến lúc viên mãn thì, sẽ diệt trừ hết tham sân si. Lúc đó, liền đầy đủ cảnh giới sáu thần thông. Sẽ biết thần thông là do căn lành thanh tịnh thành tựu.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trụ nơi hạnh bình đẳng, tu hành đủ thứ căn lành, tích tập viên mãn, hồi hướng cho chúng sinh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, khéo vào trong cảnh giới của mười phương chư Phật, thảy đều khắp cùng, vào cảnh giới một vị Phật, tức là vào cảnh giới của tất cả chư Phật. Do đó: “Một làm vô lượng, vô lượng làm một”, đó là cảnh giới viên dung vô ngại của Kinh Hoa Nghiêm.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thân miệng ý nghiệp đều thanh tịnh. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, nghiệp thiện quả báo đều thanh tịnh. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thấu đạt các pháp đều thanh tịnh. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thấu đạt thật nghĩa đều thanh tịnh. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, tu tất cả hạnh thù thắng đều thanh tịnh. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu tất cả nguyện lớn của Bồ Tát đều thanh tịnh. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, chứng được tất cả công đức trí huệ đều thanh tịnh. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu tất cả đồng thể căn lành. Hồi hướng sinh ra thừa nhất thiết trí, đều viên mãn. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi nước chư Phật đều viên mãn. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thấy tất cả chư Phật mà chẳng chấp trước, đều viên mãn.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thân miệng ý ba nghiệp đều được thanh tịnh. Thân nghiệp thanh tịnh thì chẳng sát sinh trộm cắp tà dâm. Miệng thanh tịnh thì chẳng nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, chưởi mắng. Ý thanh tịnh thì chẳng có tham sân si. Tóm lại, ba nghiệp thanh tịnh tức là mười điều lành; ba nghiệp ô nhiễm là mười điều ác.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, nghiệp thiện thanh tịnh, quả báo viên mãn. Tức cũng là không khởi hoặc, không tạo nghiệp, không thọ báo, chẳng có nhân quả báo ứng. Học Phật pháp phải tin nhân quả, không thể lầm nhân quả, càng không thể bác không nhân quả.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thấu rõ thông đạt đạo lý thật tướng của các pháp, đều đắc được thanh tịnh.
Các vị chú ý ! Học tập Phật pháp, mục đích là cầu trí huệ. Phải ngày càng thông minh, không thể ngày càng hồ đồ. Có người càng học càng cống cao, càng tu càng ngã mạn. Đối với bạn hữu đồng tu biểu hiện ra vẻ ta đây. Những tư tưởng đó không thể được, nếu có những tư tưởng đó thì phải sớm sửa đổi, bằng không thì trong địa ngục sẽ có một phần của bạn.
Có người nói : “Kinh văn của Kinh Hoa Nghiêm, nói tới nói lui, thật là không có ý nghĩa gì hết”. Đó là vì đức hạnh của bạn không đủ, căn lành không thâm sâu, mới có tư tưởng như thế. Nếu nghiệp chướng thanh tịnh, thì lúc nào nghe Kinh cũng như uống cam lồ. Tóm lại, người nghe Kinh mà ngủ, thì tự mình phải hồi quang phản chiếu, suy gẫm tại sao ? tất phải có nguyên nhân.
Hành vi và tư tưởng của Bồ Tát khác với phàm phu chúng ta. Phàm phu chỉ biết có mình, chẳng biết có người khác. Song, Bồ Tát chỉ biết lợi ích chúng sinh, chẳng biết lợi ích chính mình. Phàm phu cho rằng Bồ Tát quá ngu. Có người nói : “Con người không ích kỷ, thì trời tru đất diệt”. Đó mới là biểu hiện không có từ bi. Người chân chánh học Phật pháp, thì có thể vì pháp quên mình, có tinh thần vô uý thí.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thấu hiểu thông đạt tất cả nghĩa lý chân thật, thảy đều thanh tịnh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, tất cả hạnh thù thắng, thảy đều thanh tịnh.
Hành vi của chúng ta có lúc hợp lý, tức là thanh tịnh. Có lúc không hợp lý tức là không thanh tịnh. Thanh tịnh thuộc về pháp trắng tịnh, không thanh tịnh thuộc về pháp nhiễm ô. Hạnh Bồ Tát thì thanh tịnh không nhiễm ô. Tại sao ? Vì những gì Bồ Tát tu đều là hạnh thanh tịnh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu nguyện lớn của Bồ Tát phát ra, nghĩa là lợi ích chúng sinh, khiến cho lìa khỏi biển khổ. Như bốn thệ nguyện lớn :
“Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.
Giải thích sơ lược như sau : Chúng sinh tuy nhiên nhiều vô biên, song, Bồ Tát phát nguyện muốn độ, độ không hết cũng muốn. Phiền não vô cùng vô tận, ai ai cũng đều có phiền não. Có bao nhiêu ? Có tám vạn bốn ngàn, cho nên có tám vạn bốn ngàn pháp môn để đối trị. Song, Bồ Tát nguyện đoạn sạch phiền não. Pháp môn có nhiều vô lượng, Bồ Tát thệ nguyện đều muốn học.
Quả vị của Phật là vô thượng, Bồ Tát thệ nguyện thành tựu quả Phật. Lời nguyện lới của Bồ Tát thảy đều thanh tịnh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, chứng được tất cả công đức, nhất thiết trí huệ, thảy đều được thanh tịnh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu tất cả căn lành đồng thể, tức cũng là đồng thể đại bi, xem người như mình, đó đây chẳng có sự phân biệt. Đem công đức nầy hồi hướng về thật tế, hồi hướng về bồ đề, hồi hướng cho chúng sinh. Sinh ra thừa nhất thiết trí huệ, thảy đều được viên mãn.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi Phật thanh tịnh, thảy đều được viên mãn.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thấy được tất cả chư Phật mười phương ba đời, cũng chẳng chấp trước vào Phật, thảy đều được cảnh giới viên mãn.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đủ các tướng tốt, công đức trang nghiêm, thảy đều viên mãn. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được mười sáu thứ âm thanh, lời nói ra đều thành thật, đều tin nhận. Dùng trăm ngàn thứ pháp để trang nghiêm, viên mãn công đức diệu âm vô ngại của Như Lai. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu tâm mười lực trang nghiêm vô ngại bình đẳng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được tất cả pháp minh vô tận của Phật, viên mãn tất cả biện tài. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được bậc đại anh hùng, làm sư tử hống, vô thượng vô uý trong loài người. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được nhất thiết trí, chuyển bánh xe pháp vô tận không thối chuyển. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thấu rõ tất cả các pháp, mở bày diễn nói, thảy đều viên mãn. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, dùng thời gian tu tập pháp lành thanh tịnh, thảy đều viên mãn. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu bậc đạo sư vô thượng pháp bảo, bình đẳng thanh tịnh. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, nơi một trang nghiêm, vô lượng trang nghiêm, đại trang nghiêm, chư Phật trang nghiêm, thảy đều viên mãn. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, bình đẳng vào khắp cùng hết thảy cảnh giới ba đời.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Dùng vô lượng công đức để trang nghiêm, thảy đều viên mãn.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được mười sáu thứ âm thanh của Như Lai. Lời nói ra đều thành thật, chân thật không hư, khiến mọi người tin nhận. Dùng trăm ngàn thứ diệu pháp để trang nghiêm tất cả diệu âm, cùng với công đức diệu âm không chướng ngại của Như Lai, đều được viên mãn.
Những gì là mười sáu thứ âm thanh ? Tức là: Tiếng lưu trạch, tiếng nhu nhuyến, tiếng duyệt ý, tiếng đáng ưa, tiếng thanh tịnh, tiếng ly cấu, tiếng trong sáng, tiếng ngọt ngào, tiếng thích nghe, tiếng không hèn mọn, tiếng tròn đủ, tiếng điều thuận, tiếng không rít, tiếng không ác, tiếng diệu dàng, tiếng vừa tai, tiếng thích thân, tiếng tâm sinh dũng mạnh, tiếng tâm vui vẻ, tiếng vui thích, tiếng không nhiệt não, tiếng như ra lệnh, tiếng khéo biết rõ, tiếng phân minh, tiếng thiện ái, tiếng khiến sinh hoan hỉ, tiếng khiến họ như ra lệnh, tiếng khiến họ khéo biết rõ, tiếng như lý, tiếng lợi ích, tiếng lìa lỗi lầm chồng chất, tiếng như tiếng sư tử, tiếng như tiếng rồng, tiếng như mây sấm, tiếng như Long Vương, tiếng như Khẩn Na La ca hay, tiếng như Ca Lăng Tần Già, tiếng như Phạm Vương, tiếng như chim Cộng Mạng, tiếng tốt đẹp như trời Đế Thích, tiếng như tiếng trống, tiếng không cao, tiếng không thấp, tiếng không theo vào tất cả tiếng, tiếng không khuyết giảm, tiếng không phá hoại, tiếng không nhiễm ô, tiếng không hi thủ, tiếng đầy đủ, tiếng trang nghiêm, tiếng hiển bày, tiếng viên mãn tất cả thứ tiếng, tiếng các căn thích hợp, tiếng không phỉ báng, tiếng không khinh chuyển, tiếng không giao động, tiếng tùy nhập tất cả chúng hội, tiếng các tướng đầy đủ, tiếng khiến chúng sinh tâm ý vui vẻ, tiếng nói tâm hạnh chúng sinh, tiếng nhập tâm chúng sinh vui vẻ, tiếng tuỳ chúng sinh tin hiểu.
Tất cả các pháp trên thế giới, đều là pháp đối đãi. Pháp xuất thế là tuyệt đối, pháp thế gian là tương đối. Tương đối là : Thiện đối với ác, thị đối với phi, âm đối với dương, sáng đối với tối, ngày đối với đêm. Tóm lại, tất cả với tất cả đều là tương đối. Do đó :
“Không thiện chẳng hiển ác
Không nghịch chẳng hiển hiếu
Không âm chẳng hiển dương
Không thị chẳng hiển phi”.
Pháp thế gian đều là pháp tương đối. Người tu pháp xuất thế phải vượt khỏi pháp tương đối. Cho nên Lục Tổ Đại Sư nói : “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính lúc đó mới là bản lai diện mục của thượng toạ Minh”. Đó là vượt khỏi pháp đối đãi. Khi không thiện không ác, tức là pháp tuyệt đối. Chúng ta đều chuyển ở trong pháp tương đối. Niệm trước sinh niệm thiện, niệm sau sinh niệm ác; niệm trước sinh niệm phải, niệm sau sinh niệm trái, niệm trước sinh niệm âm, niệm sau sinh niệm dương, niệm trước sinh chánh niệm, niệm sau sinh tà niệm. Nghĩa là tuần hoàn không ngừng trong pháp đối đãi, không thể vượt khỏi ra ngoài số nầy.
Nhưng thiện mà đến cực điểm, thì sinh ra niệm ác, ác đến cực điểm, thì sinh ra niệm thiện. Phải đến cực điểm thì là trái, trái đến cực điểm thì là phải. Dương đến cực điểm thì là âm, âm đến cực điểm thì là dương. Sáng đến cực điểm thì là tối, tối đến cực điểm thì là sáng. Đều biến hoá ở trong pháp tương đối, vạn sự vạn vật đều đang diễn nói diệu pháp. Bất quá, chúng ta bị vô minh che đậy, nhận thức không rõ cảnh giới nầy. Trước sau vẫn trôi nổi ở trong đó, phiêu lưu không ngừng nghỉ. Nếu muốn ngừng lại nơi đối đãi nghiệp quả báo ứng, thì phải tu hành hạnh môn không nghĩ thiện, không nghĩ ác.
Ở trong Phật pháp có cảnh giới không thể nghĩ bàn xuất hiện. Nếu lìa khỏi pháp đối đãi, thì không cách chi có thể minh bạch nó như thế nào.
Có câu chuyện của bà Triều Quả Tướng ở tại Los Angeles, chồng bà ta là một bác sĩ. Bà ta có một chứng bệnh kỳ lạ, trong da ngoài thịt của bà ta nổi lên nhọt sù sì, khắp cùng mình. Sáng sớm dậy thì phải hoạt động một lúc mới dậy được. Chồng bà ta chữa cũng không hết. Sau đó bà ta đến Đài Loan, tìm danh y chữa trị, thì họ nói là bệnh này thuộc về tạp chứng kỳ lạ, sử dụng châm cứu để chữa trị. Do đó, châm cứu hơn ba tháng, mà không thấy hiệu quả gì cả, bà ta bèn trở vể Mỹ. Song, hành động rất bất tiện.
Lúc đó, có người bạn giới thiệu quy y Tam Bảo, kỳ tích liền xuất hiện. Bà ta đến Chùa Kim Sơn ở San Francisco tham gia thiền thất, khi ngồi ở trong thiền đường, thì cảm giác có trăm ngàn vạn đèn sáng chiếu đến thân bà ta, có một sức nóng từ đầu chạy xuống chân, rất là dễ chịu thoải mái. Khi từ thiền đường ra nhà bếp, thì sức nóng đó không còn nữa. Trở lại thiền đường thì lại có sức nóng, rất nhiều lần đều như vậy. Kết quả bệnh của bà ta không thuốc mà khỏi, thật là không thể nghĩ bàn, diệu không thể tả. Do đó, con người không thể dùng tư tưởng của phàm phu để nghiên cứu nghĩa chân thật của Phật pháp.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu mười lực của Phật, để trang nghiêm thanh tịnh, viên mãn tâm đại từ bi đại hỉ xả vô ngại, cho nên Bồ Tát phải tu Bồ Tát đạo.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được quang minh tạng pháp vô tận của chư Phật, tất cả biện tài vô ngại, thảy đều viên mãn.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được quả vị vô thượng, tất cả đều không sợ hãi, là bậc anh hùng trong loài người, lên toà báu sư tử, làm sư tử hống diễn nói diệu pháp, giáo hoá chúng sinh. Khiến cho họ giác ngộ thế gian tất cả hết thảy đều là khổ, không, vô thường, vô ngã.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được nhất thiết trí huệ, thường chuyển bánh xe pháp vô tận không thối chuyển.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thấu rõ tất cả Phật pháp, mở bày tất cả Phật pháp, diễn nói tất cả Phật pháp, thảy đều viên mãn.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, dùng tất cả thời để tu tập pháp lành thanh tịnh, thảy đều viên mãn.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu đạo sư pháp bảo vô thượng, lại bình đẳng lại thanh tịnh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, hoặc nơi một thứ trang nghiêm, hoặc nơi vô lượng trang nghiêm, hoặc nơi đại trang nghiêm, hoặc nơi đạo tràng chư Phật thanh tịnh trang nghiêm, thảy đều viên mãn.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, bình đẳng vào khắp cùng cảnh giới của hết thảy tât cả chư Phật ba đời, thảy đều viên mãn.
Tâm nguyện Bồ Tát là bình đẳng, thương người như chính mình, tu tất cả căn lành, vì tất cả chúng sinh mà hồi hướng, chẳng giữ lại cho chính mình. Tinh thần đó, chúng ta phải học tập, làm cho bằng được với Bồ Tát.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đi đến tất cả cõi Phật, lắng nghe thọ trì chánh pháp. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được trí huệ lợi ích, làm nơi tôn kính của thế gian, bình đẳng với Đức Phật. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, dùng nhất thiết trí, biết rõ tất cả các pháp, thảy đều viên mãn. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thực hành nghiệp bất động, được quả vô ngại, thảy đều viên mãn. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, hết thảy các căn đều được thần thông, biết rõ căn tánh của tất cả chúng sinh. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được trí huệ bình đẳng không khác biệt, nơi pháp một tướng, thảy đều thanh tịnh. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, không trái ngược với lý, tất cả căn lành đều đầy đủ. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, nơi tất cả thần thông tự tại của Bồ Tát, thảy đều thấu đạt. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được tất cả công đức vô tận của Phật, phước trí đều bình đẳng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, phát tâm bồ đề, hiểu tất cả các pháp, một tướng bình đẳng, không thiếu sót.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đi đến tất cả cõi nước chư Phật trong mười phương ba đời, lắng nghe thọ trì tất cả chánh pháp.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, có trí huệ lợi ích chúng sinh, làm chỗ tín ngưỡng của chúng sinh thế gian, giống như Phật, được mọi người tôn kính.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, dùng nhất thiết trí huệ, biết rõ tất cả Phật pháp, thảy đều viên mãn.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, tu hành định nghiệp, chẳng bị tất cả cảnh giới làm giao động, đắc được quả vị không chướng ngại, thảy đều viên mãn.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, hết thảy các căn (mắt tai mũi lưỡi thân ý), đều có thần thông diệu dụng, biết rõ tất cả căn tính của chúng sinh. Biết rõ rồi, liền dùng pháp môn thông thường để đối trị, do đó “Theo bệnh cho thuốc, thuốc đến bệnh khỏi”.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được trí huệ bình đẳng chẳng có phân biệt, nơi pháp một tướng, thảy đều thanh tịnh. Nghĩa là tại mỗi thứ pháp tướng, cũng đều đắc được thanh tịnh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đối với chân lý chẳng trái ngược, tức cũng là thật tướng lý thể. Hết thảy tất cả căn lành, thảy đều đầy đủ viên mãn và thanh tịnh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đối với tất cả thần thông tự tại của Bồ Tát, thảy đều thấu rõ thông đạt.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được vô tận công đức pháp tạng của tất cả chư Phật. Phước cũng đầy đủ, huệ cũng đầy đủ, đều bình đẳng.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, phát tâm bồ đề, hiểu rõ tất cả các pháp, bình đẳng một tướng, chẳng có chỗ nào không viên mãn.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thấu đạt chánh pháp, làm ruộng phước đức tối thượng của thế gian. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu đại bi thanh tịnh bình đẳng, làm ruộng phước lớn cho những người bố thí. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, kiên cố bậc nhất, không ai cản trở phá hoại được. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thấy đều được lợi ích, không ai hàng phục được. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu viên mãn tâm bình đẳng tối thắng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, khéo thấu đạt tất cả các pháp, đắc được không sợ hãi. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, phóng một quang minh, chiếu khắp mười phương tất cả thế giới. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, khắp tu tất cả hạnh tinh tấn của Bồ Tát không giải đãi thối chuyển. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, dùng một hạnh nguyện, viên mãn khắp tất cả các hạnh nguyện. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, dùng một diệu âm, khiến khắp những người nghe đều hiểu được.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thấu rõ thông đạt chánh pháp nhãn tạng, làm ruộng phước tối thượng của thế gian.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu tâm đại bi thanh tịnh bình đẳng, làm ruộng phước lớn cho tất cả những người bố thí.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, tâm tin vững chắc bậc nhất. Tâm tin đó, không thể bị cản trở phá hoại.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, bất cứ thấy gì, thảy đều đắc được lợi ích lớn. Lợi ích đó không thể thôi phục được.
Học Phật pháp, nghe Phật pháp, vẫn phải hành trì Phật pháp. Nếu chỉ học và nghe, không cung hành thực tiễn, giống như nói thức ăn và đếm châu báu, chẳng có ích lợi gì. Do đó:
“Suốt ngày đếm châu báu
mình chẳng có đồng nào.
Nơi pháp chẳng tu hành
lỗi lầm cũng như vậy”.
Ở trong Phật pháp, chú trọng nhất về cung hành thực tiễn. Ví như học pháp môn bố thí, thì phải bố thí. Học pháp môn trì giới, thì phải giữ giới. Học pháp môn nhẫn nhục thì phải nhẫn nhục. Học pháp môn tinh tấn thì phải siêng năng tinh tấn. Học pháp môn thiền định thì phải tu thiền định. Học pháp môn Bát Nhã thì phải có trí huệ. Tất cả hết thảy phải cung hành thực tiễn, chẳng phải học mà không hành. Hành còn phải hành chân thật, không thể cẩu thả. Dụng công như thế, thì mới đắc được sự thọ dụng.
Tôi thường nói với các vị :
“Tất cả là khảo nghiệm
Hãy xem bạn làm gì
Đối cảnh không nhận thức
Phải luyện lại từ đầu”.
Học Phật pháp tức là phải thực hành, chẳng phải chỉ nói suông. Do đó:
“Nói một trượng,
Không bằng hành một thước”.
Các vị ! Hãy lưu ý về điểm quan trọng nầy ! Phải có công phu tin, hiểu, hành, chứng ! Còn phải có tinh thần từ bi hỉ xả, mới là người chân chánh học Phật pháp.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu viên mãn tâm bố thí bình đẳng thù thắng.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, khéo thấu rõ thông đạt nghĩa lý của tất cả các pháp, đắc được sự không sợ hãi.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, phóng ra một thứ đại quang minh, chiếu khắp mười phương thế giới.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, khắp tu tất cả hạnh tinh tấn của Bồ Tát, chẳng có giải đãi thối chuyển.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, dùng một hạnh nguyện viên mãn, tất cả hạnh nguyện đều viên mãn. Vì quan hệ như vậy, cho nên Bồ Tát tu các thứ căn lành, đều hồi hướng cho tất cả chúng sinh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, dùng một diệu âm, khắp khiến cho chúng sinh nghe được diệu âm, đều thấu hiểu nghĩa chân thật của tất cả các pháp.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều được đầy đủ tâm thanh tịnh của tất cả Bồ Tát. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được gặp các vị thiện tri thức, thảy đều thừa sự. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, tu hạnh Bồ Tát, điều phục chúng sinh, không nghỉ ngơi. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, dùng diệu biện tài, đủ tất cả tiếng, tuỳ căn cơ diễn nói không dứt. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, dùng một tâm, biết tất cả tâm. Dùng tất cả căn lành, bình đẳng hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thường ưa thích tích tập tất cả căn lành, an lập chúng sinh nơi trí huệ thanh tịnh. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được nhất thiết trí, thân phước đức trí huệ thanh tịnh. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, khéo biết căn lành của tất cả chúng sinh, quán sát hồi hướng, đều thành tựu.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều được đầy đủ viên mãn tâm thanh tịnh của tất cả Bồ Tát.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, khắp được gặp các vị thiện tri thức, hoàn toàn thừa sự cúng dường.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, tu hành hạnh môn của Bồ Tát tu, điều phục tất cả chúng sinh, vĩnh viễn không nghỉ ngơi.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, dùng biện tài vi diệu, đầy đủ tất cả âm thanh, tuỳ thuận căn cơ của chúng sinh, do đó: “Quán sát căn cơ, vì người nói pháp”. Rộng diễn nói nghĩa lý vô tận. Nghĩa lý giống như sóng biển, chẳng có lúc nào dứt.
Một tiếng đầy đủ tất cả tiếng, một pháp đầy đủ tất cả pháp, một nghĩa đầy đủ tất cả nghĩa – đó là cảnh giới viên dung vô ngại của Kinh Hoa Nghiêm.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, có thể dùng một tâm chúng sinh, biết được tất cả tâm chúng sinh. Đem đủ thứ căn lành tích tập, bình đẳng hồi hướng cho chúng sinh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, luôn luôn hoan hỉ tích tập tất cả căn lành, an lập chúng sinh nơi trí huệ thanh tịnh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được nhất thiết trí huệ, tất cả phước đức, đắc được thân trí huệ thanh tịnh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, khéo biết căn lành của tất cả chúng sinh, quán sát hồi hướng cho chúng sinh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được nhất thiết trí, thành Đẳng Chánh Giác đều viên mãn. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được đầy đủ thần thông trí huệ, tại một nơi xuất hiện ra đời, tất cả các nơi đều xuất hiện ra đời. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được trí huệ trang nghiêm, nghiêm tịnh một chúng hội, tất cả chúng hội đều trang nghiêm. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, nơi một cõi Phật thấy khắp tất cả cõi Phât. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, dùng tất cả đồ trang nghiêm, bất khả thuyết đồ trang nghiêm, vô lượng đồ trang nghiêm, vô tận đồ trang nghiêm, trang nghiêm khắp tất cả cõi Phật. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, nơi tất cả pháp, đều quyết định hiểu rõ nghĩa thâm sâu. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được thần thông tự tại tối thượng bậc nhất của các Như Lai. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được tất cả công đức thần thông tự tại chẳng một chẳng khác. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đầy đủ tất cả căn lành bình đẳng, được các đức Phật quán đảnh. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều được thành tựu viên mãn trí thân thanh tịnh, tôn thắng nhất ở trong các cõi.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được nhất thiết trí huệ, thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều viên mãn thành Phật.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được đầy đủ thần thông trí huệ. Tại một nơi xuất hiện ra đời, tất cả thế giới đồng thời cũng xuất hiện ra đời. Thần thông đó nhậm vận tự tại, không thể nghĩ bàn.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được trí huệ trang nghiêm. Trang nghiêm thanh tịnh một pháp hội đại chúng, tất cả pháp hội đại chúng thảy đều trang nghiêm thanh tịnh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, sinh tại cõi nước mỗi vị Phật, đều thấy khắp tất cả cõi nước chư Phật. Gần gũi một vị Phật, đồng như gần gũi tất cả chư Phật. Cúng dường một vị Phật, tức cũng là cúng dường tất cả chư Phật. Tại sao ? Vì chư Phật cùng một pháp thân.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, dùng tất cả đồ trang nghiêm, dùng bất khả thuyết đồ trang nghiêm, để trang nghiêm tất cả cõi nước chư Phật mười phương ba đời, khắp cùng không thừa sót.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đối với pháp môn của tất cả chư Phật nói, thảy đều quyết định thấu rõ nghĩa lý thâm sâu của pháp.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được thần thông diệu dụng tự tại tối thượng bậc nhất của tất cả chư Phật.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được tất cả công đức chẳng một chẳng khác, mà có thần thông diệu dụng tự tại.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đầy đủ tất cả căn lành bình đẳng, được tất cả chư Phật mười phương ba đời quán đảnh, thọ ký tương lai sẽ thành Phật ở thế giới nào, Phật hiệu gì, thọ mạng bao nhiêu kiếp ?
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều được thành tựu viên mãn thân trí huệ thanh tịnh, tôn quý nhất, thù thắng nhất ở trong tam giới hai mươi lăm cõi.
Phật tử ! Đại Bồ Tát từ bi thương xót lợi ích an lạc tất cả chúng sinh như vậy, đều khiến cho thanh tịnh, xa lìa xan tham đố kị, hưởng thọ an vui thù thắng. Đủ oai đức lớn, sinh tâm tin hiểu lớn, vĩnh viễn lìa khỏi sân hận và các ô trược. Tâm thanh tịnh, chất trực dịu dàng, chẳng có xiểm khúc mê hoặc ngu si. Thực hành hạnh xuất ly, vững chắc không hoại. Tâm bình đẳng, vĩnh viễn không thối chuyển. Thành tựu đầy đủ pháp lực trắng tịnh, không phiền não, không lỗi lầm, khéo léo hồi hướng. Thường tu chánh hạnh, điều phục chúng sinh, diệt trừ tất cả các nghiệp bất thiện. Tu hành khổ hạnh tất cả căn lành.
Bồ Tát Kim Cang Tràng lại gọi một tiếng các vị đại đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, giống như ở trước nói, từ bi thương xót tất cả chúng sinh, nguyện cho tất cả chúng sinh lìa khổ được vui. Lợi ích tất cả chúng sinh, an lạc tất cả chúng sinh. Khiến cho tất cả chúng sinh, đều được thanh tịnh, xa lìa tư tưởng xan tham đố kị, tương lai sẽ thọ được an vui thù thắng vi diệu. Đầy đủ sức oai đức lớn, sinh ra tâm tin hiểu lớn, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả sân hận và ô trược. Tâm thanh tịnh không có vọng tưởng, lại rất chất trực, rất dịu dàng; chẳng có tâm cang cường, chẳng có tâm xiểm nịnh, chẳng có tâm quanh co, chẳng có tâm mê hoặc, chẳng có tâm ngu si. Trí huệ quang minh thường hiện tiền. Tu hành hạnh môn thoát khỏi ba cõi, vững chắt như kim cang, không thể bị phá hoại. Tâm bình đẳng vĩnh viễn không thối chuyển. Tu hành pháp lực trắng tịnh, thành tựu đầy đủ, viên dung vô ngại. Chẳng có phiền não, chẳng có tổn thất, dùng pháp môn phương tiện khéo léo, để vì chúng sinh hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thường tu pháp môn chánh hạnh, tức cũng là chánh pháp. Bồ Tát dùng pháp môn phương tiện khéo léo, để điều phục tất cả chúng sinh cang cường, diệt trừ tất cả nghiệp bất thiện của chúng sinh, làm cho nghiệp lành tăng trưởng. Tu hành tất cả khổ hạnh, mới đắc được tất cả căn lành.
Nghiệp lành tức là mười điều lành, thân miệng ý ba nghiệp thanh tịnh, tức đầy đủ mười điều lành, thân miệng ý ba nghiệp nhiễm ô, tức là mười điều ác. Đó là căn bản của Phật pháp. Tại gia cư sĩ phải tu:
“Không làm các điều ác
Hãy làm các điều lành”.
Các vị xuất gia phải tu:
“Siêng tu giới định huệ
Tiêu diệt tham sân si”.
Lại khuyên chúng sinh, khiến họ tu tập. Khắp vì các hàm thức, thọ đủ các thứ khổ. Dùng mắt đại trí huệ quán sát các căn lành, biết họ đều dùng trí huệ làm tánh, phương tiện hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều được an trụ tất cả nơi công đức thanh tịnh. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều có thể nhiếp thọ tất cả căn lành, biết các tánh công đức và nghĩa lý. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, tịnh khắp tất cả các căn lành. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, ở trong cảnh giới ruộng phước, gieo trồng các pháp lành, tâm chẳng hối tiếc. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, nhiếp thọ được khắp tất cả chúng sinh, mỗi chúng sinh đều khiến cho họ hướng về nhất thiết trí. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, nhiếp khắp hết thảy tất cả căn lành, mỗi căn lành đều bình đẳng hồi hướng đồng đều.
Bồ Tát lại khuyên tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh tu tập chánh pháp. Khắp vì tất cả chúng sinh hàm thức, thay thế họ thọ đủ tất cả khổ não. Dùng mắt đại trí huệ, quán sát căn lành của chúng sinh, biết tất cả chúng sinh dùng trí huệ Bát nhã làm tánh, mà dùng pháp môn phương tiện khéo léo để vì chúng sinh hồi hướng.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều được an trụ nơi tất cả công đức thanh tịnh.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, tích tập, nhiếp thọ, thương tiếc tất cả căn lành, biết tất cả tánh công đức và tất cả nghĩa lý.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thanh tịnh khắp hết thảy các thứ căn lành.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, ở nơi ruộng phước, gieo trồng tất cả pháp lành, nghĩa là bố thí tất cả nội tài và ngoại tài, tâm chẳng hối tiếc. Tại sao chúng ta chẳng có phước báo ? Vì thuở xưa chẳng gieo trồng ruộng phước. Nếu đã từng gieo trồng căn lành, thì đời này sẽ có phước báo.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, nhiếp thọ khắp tất cả chúng sinh, mỗi chúng sinh, đều đắc được nhất thiết trí huệ.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, nhiếp thọ khắp hết thảy tất cả căn lành. Mỗi căn lành, đều dùng tâm bình đẳng hồi hướng cho chúng sinh, chẳng phân biệt đó đây, thảy đều bình đẳng, đồng đều với nhau.
Lại đem các căn lành hồi hướng như vầy : Nguyện cho tất cả chúng sinh rốt ráo được an ổn. Nguyện cho tất cả chúng sinh rốt ráo được thanh tịnh. Nguyện cho tất cả chúng sinh rốt ráo được an lạc. Nguyện cho tất cả chúng sinh rốt ráo được giải thoát. Nguyện cho tất cả chúng sinh rốt ráo được bình đẳng. Nguyện cho tất cả chúng sinh rốt ráo được thấu đạt. Nguyện cho tất cả chúng sinh rốt ráo an trụ các pháp trắng tịnh. Nguyện cho tất cả chúng sinh được mắt vô ngại. Nguyện cho tất cả chúng sinh khéo điều phục tâm mình. Nguyện cho tất cả chúng sinh đầy đủ mười lực, điều phục được chúng sinh.
Bồ Tát lại đem các thứ căn lành, vì chúng sinh hồi hướng như vầy : Nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được lợi ích lớn :
1. Nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được an ổn rốt ráo.
2. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được thanh tịnh rốt ráo.
3. Nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được an lạc rốt ráo.
4. Nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được giải thoát rốt ráo.
5. Nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được bình đẳng rốt ráo.
6. Nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thấu đạt rốt ráo, tức cũng là thấu đạt cảnh giới, người chuyển được cảnh giới, cảnh giới không chuyển được người. Do đó :
“Tánh định ma phục triều triều lạc,
Vọng tưởng bất khởi xứ xứ an”.
7. Nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được an trụ pháp trắng tịnh rốt ráo, tức cũng là pháp thanh tịnh.
8. Nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được mắt trí huệ không chướng ngại, minh bạch được chân lý.
9. Nguyện cho tất cả chúng sinh, khéo điều phục được tâm mình mà không có phiền não. Tại sao chúng ta lúc nào, ở đâu cũng đều sinh phiền não ? Vì chẳng điều phục được tâm mình. Nếu điều phục được tâm, thì tất cả phiền não đều chẳng còn nữa. Tu hành điều quan trọng nhất là điều phục được tâm mình. Đả thiền thất, hoặc đả Phật thất, tức là điều tâm, điều thân, khiến cho tâm chẳng còn tham sân si, khiến cho thân chẳng còn giết hại, trộm cắp, tà dâm. Đây là phương pháp tu hành tốt nhất.
10. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đầy đủ mười lực của Phật, điều phục được chúng sinh trong chín pháp giới.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát hồi hướng như vậy, thì không chấp nghiệp, không chấp báo, không chấp thân, không chấp vật, không chấp cõi, không chấp phương, không chấp chúng sinh, không chấp chẳng có chúng sinh, không chấp tất cả các pháp, không chấp chẳng có tất cả các pháp.
Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, khi hồi hướng như vậy, thì chẳng chấp trước vào nghiệp thiện, hoặc nghiệp ác, chẳng chấp trước vào thiện báo, hoặc ác báo. Tóm lại, tất cả đều chẳng chấp trước. Tại sao ? Vì Bồ Tát thấy tánh nghiệp và tánh báo đều không, cho nên chẳng chấp trước. Cũng chẳng chấp trước thân, cũng chẳng chấp trước vật. Do đó:
“Bên trong chẳng chấp thân tâm
Bên ngoài chẳng chấp sự vật”.
Cũng chẳng chấp trước về cõi, cũng chẳng chấp trước về phương. Tóm lại, chẳng chấp trước vào mười phưong cõi nước, chẳng chấp trước vào tất cả các phương. Cũng chẳng chấp trước vào tất cả chúng sinh, cũng chẳng chấp trước vào chẳng có chúng sinh. Cũng chẳng chấp trước vào tất cả các pháp, cũng chẳng chấp trước vào chẳng có tất cả các pháp. Đó là cảnh giới không chấp trước của Bồ tát.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát hồi hướng như vậy, thì đem căn lành đó, bố thí khắp thế gian. Nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu viên mãn trí huệ của Phật, được tâm thanh tịnh, trí huệ thấu rõ, nội tâm vắng lặng, duyên ngoài chẳng động, tăng trưởng thành tựu giống Phật ba đời.
Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, khi hồi hướng như vậy, thì đem căn lành tu hành tích tập đó, bố thí khắp cho hết thảy chúng sinh thế gian. Nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu viên mãn nhất thiết trí huệ của Phật, đắc được tâm thanh tịnh không cấu bẩn. Có trí huệ rồi, mới thấu đạt chân đế thật tướng của các pháp. Nội tâm thanh tịnh vắng lặng, gặp ngoại cảnh không động tâm, nơi nào cũng thản nhiên. Tăng trưởng thành tựu giống tánh của tất cả chư Phật mười phương ba đời.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát tu hành hồi hướng như vậy, thì vượt qua tất cả, không ai hơn được. Hết thảy lời lẽ của tất cả thế gian, đều khen ngợi cũng không hết được. Khắp tu tất cả các hạnh của Bồ Tát, đều hay qua đến tất cả cõi Phật, thấy khắp chư Phật, chẳng có chướng ngại. Lại thấy hạnh môn tu hành của Bồ Tát khắp tất cả thế giới. Dùng phương tiện khéo léo, vì các chúng sinh, phân biệt câu nghĩa thâm sâu của các pháp. Được Đà la ni, diễn nói diệu pháp, hết thuở kiếp vị lai, chẳng có đoạn tuyệt.
Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, khi Ngài tu hành pháp môn hồi hướng như vậy thì, vượt qua tất cả công đức của thế gian, chẳng có gì lớn hơn được. Hết thảy lời lẽ của tất cả thế gian, thảy đều cùng khen ngợi tán thán Bồ Tát tu công đức hồi hướng, chẳng những dùng một thứ lời lẽ và văn tự để khen ngợi không thể hết được, mà dù dùng hết thảy đủ thứ lời lẽ và văn tự để khen ngợi, cũng không thể nào hết được. Khắp tu hành hạnh môn lục độ vạn hạnh của Bồ Tát tu. Lại hay qua đến tất cả cõi nước chư Phật mười phương, thấy khắp vô lượng chư Phật, mà chẳng có mọi sự chướng ngại. Lại thấy khắp hạnh môn tu hành của các đại Bồ Tát trong tất cả thế giới. Dùng phương tiện khéo léo, vì tất cả chúng sinh, phân biệt nghĩa lý của sắc pháp, tâm pháp, tâm sở pháp, bất tương ưng pháp, vô vi pháp, năm thứ pháp nầy. Mỗi một câu nghĩa lý là gì ? mỗi một chữ nghĩa lý là gì ? đều giải thích cặn kẽ. Được nghĩa lý của Đà la ni, vì tất cả chúng sinh diễn nói diệu pháp, suốt hết kiếp thuở vị lai, luôn luôn diễn nói cũng không đoạn tuyệt, vì chúng sinh chuyển bánh xe pháp lớn, không sợ khốn khổ hoạn nạn, trọn không ngừng nghỉ.
Vì chúng sinh mà niệm niệm ở nơi bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới, giống như hình bóng, hiện thân khắp để cúng dường chư Phật. Niệm niệm nghiêm tịnh bất khả thuyết bất khả thuyết cõi nước chư Phật, đều khiến khắp cùng. Tu hành nghiêm tịnh cõi Phật, trí huệ không nhàm đủ. Niệm niệm khiến cho bất khả thuyết bất khả thuyết trăm ngàn ức Na do tha chúng sinh, thanh tịnh thành tựu, bình đẳng đầy đủ.
Bồ Tát vì tất cả chúng sinh, mà trong mỗi niệm, ở nơi bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới, giống như hình bóng, khắp thị hiện thân mình, cúng dường tất cả chư Phật. Ở trong niệm niệm, trang nghiêm thanh tịnh bất khả thuyết bất khả thuyết cõi nước chư Phật, hoàn toàn khiến cho khắp cùng. Tu hành trang nghiêm thanh tịnh cõi nước chư Phật, tăng thêm nhất thiết trí huệ, chẳng có lúc nào nhàm đủ. Ở trong niệm niệm, khiến cho bất khả thuyết bất khả thuyết trăm ngàn ức Na do tha chúng sinh, đều được thanh tịnh, thành tựu, bình đẳng, đầy đủ, thảy đều viên mãn.
Ở trong tất cả cõi Phật đó, siêng tu tất cả các Ba La Mật, nhiếp lấy chúng sinh, thành tựu tịnh nghiệp, được tai vô ngại. Ở nơi bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới chư Phật, mỗi đức Như Lai chuyển bánh xe pháp, đều lắng nghe thọ trì, tinh tấn siêng năng tu tập, chẳng sinh một tâm niệm xả lìa. Trụ nơi không chỗ được, không nương tựa, không làm, không chấp thần thông của Bồ Tát. Trong một sát na, một khảy móng tay, phân thân đến khắp bất khả thuyết thế giới của chư Phật, với các Bồ Tát đồng thấy biết như nhau.
Ở trong hết thảy tất cả cõi nước chư Phật, siêng tu tất cả hạnh môn đến bờ kia. Nhiếp lấy tất cả chúng sinh, đều thành tựu đạo nghiệp thanh tịnh. Đắc được căn tai không chướng ngại, ở trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi nước chư Phật, chư Phật chuyển bánh xe pháp, đều lắng nghe và thọ trì, siêng năng tu tập pháp đó. Pháp gì ? tức là sáu Ba La Mật vạn hạnh. Ở trong mỗi niệm, không sinh tâm lìa bỏ tất cả diệu pháp. Tuy nhiên Bồ Tát tu hành, song, chẳng có sự chấp trước, chẳng có sự nương tựa, cũng chẳng có kẻ làm, cũng chẳng có sự chấp trước. Thần thông của Bồ Tát, thời gian khoảng một sát na, hoặc một cái khảy móng tay, có thể phân thân đến khắp bất khả thuyết bất khả thuyết cõi nước chư Phật, để giáo hoá chúng sinh, và có thể cùng với bất khả thuyết bất khả thuyết Bồ Tát trong mười phương, đều có cùng một kiến giải như nhau.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát tu tập hạnh Bồ Tát như vậy, còn có thể thành tựu viên mãn vô lượng bất khả thuyết bất khả thuyết công đức thanh tịnh. Nghĩ nhớ khen ngợi không thể hết được, huống chi lại được thành tựu vô thượng bồ đề. Tất cả cõi Phật bình đẳng thanh tịnh. Tất cả chúng sinh bình đẳng thanh tịnh. Tất cả thân bình đẳng thanh tịnh. Tất cả căn bình đẳng thanh tịnh. Tất cả nghiệp quả bình đẳng thanh tịnh. Tất cả chúng hội đạo tràng bình đẳng thanh tịnh. Tất cả hạnh viên mãn bình đẳng thanh tịnh. Tất cả pháp phương tiện trí bình đẳng thanh tịnh. Tất cả các nguyện hồi hướng của Như Lai bình đẳng thanh tịnh. Tất cả cảnh giới thần thông của chư Phật bình đẳng thanh tịnh.
Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, khi tu tập hạnh Bồ Tát hồi hướng như vậy, thì vẫn còn có thể thành tựu viên mãn vô lượng bất khả thuyết bất khả thuyết công đức thanh tịnh, nghĩ nhớ khen ngợi công đức của chư Phật, hết kiếp thuở vị lai, cũng khen ngợi không hết được. Hà huống Bồ Tát lại được thành tựu vô thượng bồ đề, thành tựu quả vị Phật !
Bồ Tát khiến cho tất cả cõi Phật trong mười phương thảy đều bình đẳng thanh tịnh, trang nghiêm bình đẳng. Tất cả chúng sinh cũng được bình đẳng thanh tịnh. Tất cả thân cũng được bình đẳng thanh tịnh. Tất cả căn cũng được bình đẳng thanh tịnh. Tất cả nghiệp quả cũng được bình đẳng thanh tịnh. Tất cả đạo tràng và chúng hội của Phật cũng được bình đẳng thanh tịnh. Tất cả hạnh viên mãn cũng bình đẳng thanh tịnh. Tất cả pháp phương tiện trí cũng bình đẳng thanh tịnh. Tất cả nguyện lớn của chư Phật đã phát, pháp môn hồi hướng cho chúng sinh cũng bình đẳng thanh tịnh. Tất cả cảnh giới thần thông của chư Phật cũng bình đẳng thanh tịnh.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát hồi hướng như vậy, thì đắc được pháp môn tất cả công đức thanh tịnh hoan hỉ, vô lượng công đức, viên mãn trang nghiêm.
Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, khi hồi hướng như vậy, thì đắc được Pháp môn tất cả công đức thanh tịnh hoan hỉ. Vô lượng công đức đắc được vừa viên mãn vừa trang nghiêm.
Khi hồi hướng như vậy, thì chúng sinh chẳng trái với tất cả cõi, cõi chẳng trái với tất cả chúng sinh. Cõi chúng sinh chẳng trái với nghiệp, nghiệp chẳng trái với cõi chúng sinh. Tư duy chẳng trái với tâm, tâm chẳng trái với tư duy. Tư duy tâm chẳng trái với cảnh giới, cảnh giới chẳng trái với tư duy tâm. Nghiệp chẳng trái với báo, báo chẳng trái với nghiệp. Nghiệp chẳng trái với nghiệp đạo, nghiệp đạo chẳng trái với nghiệp. Pháp tánh chẳng trái với tướng, pháp tướng chẳng trái với tánh. Pháp sinh chẳng trái với tánh. Cõi bình đẳng chẳng trái với chúng sinh bình đẳng. Chúng sinh bình đẳng chẳng trái với cõi bình đẳng. Tất cả chúng sinh bình đẳng chẳng trái với tất cả pháp bình đẳng. Tất cả pháp bình đẳng chẳng trái với tất cả chúng sinh bình đẳng. Bờ mé lìa dục bình đẳng chẳng trái với tất cả chúng sinh an trụ bình đẳng. Tất cả chúng sinh an trụ bình đẳng chẳng trái với bờ mé lìa dục bình đẳng.
Khi Bồ Tát tu hồi hướng nầy, thì cõi nước cũng là không, chúng sinh cũng không, chẳng có sự chấp trước, do đó, chẳng có tướng trái ngược. Chúng sinh chẳng trái với tất cả cõi, cõi cũng chẳng trái với tất cả chúng sinh. Tất cả cõi nước chư Phật, tất cả nghiệp quả của chúng sinh, đều chẳng trái với nghiệp, nghiệp cũng chẳng trái với cõi Phật và chúng sinh. Tư tưởng của chúng sinh chẳng trái với tâm, tâm cũng chẳng trái với tư tưởng. Tư tưởng tâm chẳng trái với cảnh giới, cảnh giới chẳng trái với tư tưởng tâm. Tất cả toại tâm như ý, đều chẳng trái nhau, đều chẳng chướng ngại. Đây là cảnh giới sự lý vô ngại, sự sự vô ngại.
Chúng sinh vì mê hoặc, bèn tạo ra đủ thứ nghiệp. Có đủ thứ nghiệp rồi, bèn thọ đủ thứ quả báo. Tạo nghiệp gì thì thọ quả báo đó, không thể trái nhau. Nghiệp tạo ra chẳng trái với quả báo thọ, quả báo thọ chẳng trái với nghiệp tạo ra. Đây đều có quan hệ với nhau. Nghiệp chẳng trái với nghiệp đạo, nghiệp đạo chẳng trái với nghiệp. Do đó: “Nhân nào quả đó”. Tức cũng là đạo lý trồng nhân lành kết quả lành, trồng nhân ác kết quả ác, tất cả đều không trái với nhau.
Tánh của pháp chẳng trái với tướng của pháp, tướng của pháp chẳng trái với tánh của pháp, tuỳ thuận với nhau, hỗ trợ với nhau. Pháp sinh khởi chẳng trái với tánh của pháp, tánh của pháp chẳng trái với pháp sinh khởi. Cõi Phật bình đẳng chẳng trái với chúng sinh bình đẳng, chúng sinh bình đẳng chẳng trái với Phật bình đẳng, đều chẳng trái nhau. Tất cả chúng sinh bình đẳng, chẳng trái với tất cả pháp bình đẳng; tất cả pháp bình đẳng chẳng trái với tất cả chúng sinh bình đẳng. Bờ mé lìa dục (thoát khỏi ba cõi) bình đẳng, chẳng trái với tất cả chúng sinh an trụ bình đẳng; tất cả chúng sinh an trụ bình đẳng chẳng trái với bờ mé lìa dục bình đẳng.
Quá khứ chẳng trái với vị lai. Vị lai chẳng trái với quá khứ. Quá khứ vị lai chẳng trái với hiện tại. Hiện tại chẳng trái với quá khứ vị lai. Thế gian bình đẳng chẳng trái với Phật bình đẳng. Phật bình đẳng chẳng trái với thế gian bình đẳng. Bồ Tát hạnh chẳng trái với nhất thiết trí. Nhất thiết trí chẳng trái với Bồ Tát hạnh.
Quá khứ chẳng trái với vị lai, vị lai chẳng trái với quá khứ. Quá khứ vị lai chẳng trái với hiện tại, hiện tại chẳng trái với quá khứ vị lai, hổ tương chẳng trái nhau. Thế gian bình đẳng chẳng trái với Phật bình đẳng, Phật bình đẳng chẳng trái với thế gian bình đẳng. Hạnh của Bồ Tát tu chẳng trái với nhất thiết trí huệ, nhất thiết trí huệ chẳng hạnh của Bồ Tát tu. Cùng nhau trợ giúp, chẳng trái nhau.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát hồi hướng như vậy, thì được nghiệp bình đẳng. Được báo bình đẳng. Được thân bình đẳng. Được phương tiện bình đẳng. Được nguyện bình đẳng. Được tất cả chúng sinh bình đẳng. Được tất cả cõi bình đẳng. Được tất cả hạnh bình đẳng. Được nhất thiết trí bình đẳng. Được ba đời chư Phật bình đẳng. Được thừa sự tất cả chư Phật. Được cúng dường tất cả Bồ Tát. Được trồng tất cả căn lành. Được viên mãn tất cả nguyện lớn. Được giáo hoá tất cả chúng sinh. Được biết rõ tất cả nghiệp. Được thừa sự cúng dường tất cả thiện tri thức. Được vào tất cả chúng hội đạo tràng thanh tịnh. Được thông đạt tất cả chánh giáo. Được thành tựu viên mãn tất cả pháp trắng.
Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, khi hồi hướng như vậy, thì đắc được nghiệp tạo ra cũng bình đẳng. Đắc được sự thọ quả báo cũng bình đẳng. Đắc được thân của chúng sinh cũng bình đẳng. Đắc được phương tiện khéo léo cũng bình đẳng. Đắc được lời nguyện phát ra cũng bình đẳng. Đắc được tất cả chúng sinh bình đẳng. Đắc được tất cả cõi nước bình đẳng. Đắc được tất cả hạnh môn bình đẳng. Đắc được nhất thiết trí huệ bình đẳng. Đắc được ba đời chư Phật bình đẳng.
Đắc được thừa sự tất cả chư Phật mười phương ba đời. Đắc được cúng dường tất cả Bồ Tát mười phương ba đời. Đắc được gieo trồng tất cả căn lành. Đắc được viên mãn tất cả nguyện lớn.
Đắc được giáo hoá tất cả chúng sinh. Đắc được biết rõ tất cả nghiệp tạo ra. Đắc được thừa sự cúng dường tất cả thiện tri thức. Đắc được vào tất cả chúng hội đạo tràng thanh tịnh. Đắc được thông đạt tất cả chánh giáo (chánh pháp nhãn tạng). Đắc được thành tựu viên mãn tất cả pháp trắng (thanh tịnh không nhiễm). Tóm lại, tất cả đều đắc được bình đẳng.
Phật tử ! Đó là hồi hướng tuỳ thuận tất cả chúng sinh thứ bảy của đại Bồ Tát.
Các vị đệ tử của Phật ! Đạo lý vừa nói ở trên, là hồi hướng thứ bảy của đại Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, gọi là pháp môn hồi hướng bình đẳng tuỳ thuận tất cả chúng sinh.
Đại Bồ Tát thành tựu hồi hướng nầy, thì hàng phục được tất cả ma oán. Trừ sạch các dục niệm. Được sự an lạc xuất ly. Trụ nơi tánh không hai. Đủ oai đức lớn. Cứu hộ chúng sinh. Làm vua công đức. Thần túc vô ngại. Đến tất cả cõi. Vào nơi vắng lặng. Đủ tất cả thân. Thành tựu hạnh Bồ Tát. Nơi các hạnh nguyện tâm được tự tại. Phân biệt biết rõ tất cả các pháp. Đều sinh khắp tất cả cõi Phật. Được tai vô ngại, nghe hết thảy âm thanh trong tất cả cõi. Được mắt trí huệ thanh tịnh, thấy tất cả chư Phật, chưa từng tạm xa lìa. Nơi tất cả cảnh giới, thành tựu căn lành, tâm không cao thấp. Nơi tất cả pháp, được vô sở đắc. Đại Bồ Tát đem tất cả căn lành, bình đẳng tuỳ thuận hồi hướng cho tất cả chúng sinh như vậy.
Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, thành tựu hồi hướng nầy, thì diệt trừ được hết thảy sự oán hận của thiên ma ngoại đạo, nhổ sạch tất cả dục niệm cay độc. Đắc được sự an lạc thoát khỏi dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Trụ nơi một thật tánh, chẳng có hai tánh. Đầy đủ oai đức lớn, cứu hộ tất cả chúng sinh. Là vua trong công đức, có thần túc thông, viên mãn không chướng ngại. Có thể đi đến tất cả cõi nước của chư Phật, vào nơi vắng lặng, tức cũng là cảnh giới tịch diệt khoái lạc. Đầy đủ tất cả thân, tức là: Pháp thân, báo thân, ứng thân, hoá thân, thành tựu hạnh môn của Bồ Tát tu. Đối với tất cả hạnh nguyện, tâm được tự tại. Phân biệt rõ ràng đạo lý thật tướng của tất cả các pháp, hoàn toàn sinh khắp trong tất cả cõi Phật. Đắc được căn tai không chướng ngại, có thể nghe khắp hết thảy âm thanh của tất cả cõi Phật. Đắc được con mắt trí huệ thanh tịnh, thấy được tất cả chư Phật mười phương, chẳng có giây phút nào tạm xa lìa Phật. Nơi tất cả cảnh giới, thành tựu tất cả căn lành, tâm bình đẳng, chẳng có phân biệt cao thấp. Nơi tất cả các pháp, đều được vô sở đắc. Do đó, cảnh giới “Vô trí diệc vô đắc” (không trí huệ cũng không đắc được). Đại Bồ Tát đem tất cả căn lành tu tập, bình đẳng tuỳ thuận căn tánh của tất cả chúng sinh, hồi hướng cho chúng sinh như vậy, cho nên tu trì tất cả pháp môn bố thí.
Bấy giờ, Bồ Tát Kim Cang Tràng, nương thần lực của Đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói kệ rằng.
Lúc đó, Bồ Tát Kim Cang Tràng, nương đại oai thần lực của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, quán sát khắp căn cơ của tất cả chúng sinh trong mười phương, mà nói ra hai mươi mốt bài kệ dưới đây, tường thuật lại nghĩa lý kinh văn ở trước, khiến cho đại chúng trong pháp hội Hoa Nghiêm, hiểu rõ thêm. Cũng là vì hy vọng chúng ta đời vị lai hiểu rõ diệu pháp thâm sâu nầy.
Các công đức của Bồ Tát làm
Vi diệu rộng lớn rất sâu xa
Cho đến một niệm mà tu hành
Thảy đều hồi hướng không bờ mé.
Phật làm thế nào mà thành Phật ? Phải chăng vốn là Phật chăng ? Chẳng phải. Ban đầu Phật với chúng ta đều là phàm phu như nhau, chẳng những với tất cả mọi người đều như nhau, mà với hết thảy tất cả chúng sinh cũng đều như nhau. Phật đã từng làm đủ thứ chúng sinh, đã từng làm ngạ quỷ, đã từng làm súc sinh, cũng đã từng chịu khổ trong địa ngục, cũng đã từng làm A tu la lương thiện, đã từng làm người thiện nhân từ, cũng đã từng hưởng thọ an vui trên các cõi trời. Sau đó Ngài một lòng tu hành, phát tâm bồ đề, cầu quả vị vô thượng, sau đó thành Phật.
Tại sao hiện tại chúng ta vẫn chưa thành Phật ? Vì không muốn phá tan vô minh, không muốn đoạn tuyệt phiền não. Tuy nhiên trong quá khứ đã từng làm bạn với Phật, đã từng làm đồng loại chúng sinh với Phật. Song, Phật nỗ lực phá vô minh, cho nên hiện ra trí huệ vốn có, thành tựu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bồ Tát và chúng ta đều như nhau, khi Bồ Tát làm người, thì chuyên thực hành Bồ Tát đạo. Tức là lợi mình lợi người, giác mình giác người, độ mình độ người. Tuy nhiên Ngài trên cầu Phật đạo, song, Ngài cũng dưới độ chúng sinh. Do đó, mới phát tâm đại bồ đề, tu nhất thiết trí huệ, phá tất cả vô minh. Hy vọng hiện ra đại quang minh tạng, thành tựu quả Phật vô thượng. Cho nên thực hành những gì người không thực hành được, làm những gì người không làm được, nhẫn những gì người không nhẫn được, thọ những gì người không thọ được, nhường những gì người không nhường được, xả những gì người không xả được. Tóm lại, người không buông xả được, Ngài buông xả được, người không nhìn xuyên thủng được, Ngài nhìn xuyên thủng được. Bởi nguyên nhân như vậy, Bồ Tát trên cầu Phật đạo, niệm niệm phát tâm bồ đề; dưới độ chúng sinh, nơi nơi lợi ích chúng sinh. Ngài tu đủ thứ căn lành, tích tập đủ thứ công đức, mà chẳng giữ lại cho chính mình, hoàn toàn hồi hướng cho pháp giới chúng sinh.
Bồ Tát là một vị có đại trí huệ ở trong chúng sinh, chúng ta xả bỏ vật chất chẳng được, mà Ngài xả được bố thí cho người. Những gì Bồ Tát làm đều là công đức. Ngài chẳng bỏ việc lành nhỏ mà không làm, cũng chẳng làm việc ác mà tạo tội. Công đức của Bồ Tát làm, đều rất vi diệu, rất rộng lớn, rất sâu xa, chẳng phải phàm phu chúng ta có thể hiểu biết được. Cho đến ở trong một niệm, tu hành công đức, hoàn toàn hồi hướng cho chúng sinh nhiều không có bờ mé.
Bồ Tát có các đồ tư sanh
Đủ loại phong phú không hạn lượng
Voi hương ngựa báu để kéo xe
Y phục châu báu đều thù diệu.
Bồ Tát có hết thảy đồ vật tư sanh, có rất nhiều loại, đều phong phú, chẳng có hạn lượng. Ngài dùng voi hương, hoặc ngựa báu để kéo xe, xe báu danh quý đó, có thể bố thí. Hết thảy quần áo, hết thảy châu báu, đều đặc biệt thù thắng, trang nghiêm tốt đẹp, Bồ Tát đều bố thí cho chúng sinh.
Hoặc đem đầu mắt và tay chân
Hoặc là thân thịt với xương tuỷ
Đều khắp mười phương vô lượng cõi
Thí khắp tất cả khiến đầy đủ.
Bồ Tát vì cứu độ chúng sinh, nếu có người cần đầu mắt của Ngài, hoặc cần tay chân của Ngài. Ngài đều bố thí không xẻn tiếc. Hoặc có người cần thân và thịt của Ngài, cần xương và tuỷ của Ngài, bất cứ người nào, hướng về Ngài cầu xin, Ngài đều làm cho họ được mãn nguyện, chẳng làm cho họ thất vọng.
Bồ Tát đem hết thảy nội tài bố thí cho chúng sinh, lại đem hết thảy ngoại tài bố thí cho chúng sinh. Ở trong mười phương vô lượng cõi, đều bố thí như vậy. Bố thí khắp tất cả, khiến cho pháp môn bố thí sung mãn khắp tất cả cõi nước, khắp tất cả pháp giới.
Trong vô lượng kiếp chỗ tu tập
Tất cả công đức hồi hướng hết
Vì muốn cứu độ các quần sinh
Tâm Ngài rốt ráo không thối chuyển.
Bồ Tát ở trong vô lượng kiếp tu tập tất cả công đức, thảy đều hồi hướng về thật tế, hồi hướng về bồ đề, hồi hướng cho chúng sinh. Bồ Tát thời khắc không quên cứu chúng sinh, niệm niệm không quên độ chúng sinh, tâm của Bồ Tát vĩnh viễn từ bi hỉ xả, tuyệt đối không thối lùi về sau.
Bồ Tát vì độ các chúng sinh
Thường tu nghiệp hồi hướng tối thắng
Khắp khiến ba cõi được an lạc
Đều khiến sẽ thành quả vô thượng.
Bồ Tát mỗi cử chỉ hành động lời nói, đều vì hoá độ chúng sinh. Do đó, luôn luôn tu tập đức nghiệp hồi hướng tối thù thắng. Khắp khiến cho chúng sinh ba cõi, đều được an lạc. Do đó, “Ba cõi không yên, giống như nhà lửa”. Bồ Tát hay khiến cho chúng sinh ba cõi đắc được sự mát mẻ, tương lai sẽ thành tựu quả giác vô thượng.
Bồ Tát khắp phát nguyện bình đẳng
Tuỳ theo tu tập nghiệp thanh tịnh
Đều đem hồi hướng các quần sinh
Nguyện lớn như vậy trọn không bỏ.
Bồ Tát khắp phát khởi nguyện bình đẳng, tuỳ theo sự tu tập nghiệp thanh tịnh, tức cũng là công đức lành, thảy đều hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Thệ nguyện lớn như vậy trọn không xả bỏ.
Bồ Tát đem công đức làm được, hồi hướng cho chúng sinh, mà mình chẳng kể công. Bồ Tát giống như nước, nước đối với tất cả chúng sinh và tất cả sinh vật đều có lợi ích. Tại sao những tinh cầu khác không có sinh vật ? Vì chẳng có nước, cho nên không sinh trưởng tất cả sinh vật. Tại sao chẳng có nước ? Vì ban đầu văn minh đặc biệt phát đạt, khoa học phát đạt đến cực điểm, ngược lại phát sinh sự huỷ diệt. Trái đất chúng ta đang ở, sớm sẽ đến lúc huỷ diệt. Các vị hãy nghĩ xem, vũ khí hiện tại thật là lợi hại, một đầu đạn nguyên tử có thể giết chết bao nhiêu người ! Các nước thế giới đều cất giữ rất nhiều đạn nguyên tử, đạn khinh khí, đạn hạch tâm, phi đạn .v.v… rất là đáng sợ. Dùng sức hoả tiển để mang những vũ khí đó đến các nơi trên thế giới, để huỷ diệt trái đất. Chẳng những có thể huỷ diệt trái đất mà còn có thể huỷ diệt những tinh cầu khác. Những vũ khí giết người đó, không đợi người xử dụng, đến lúc nó tự phát nổ, khiến hết thảy vũ khí của các nước trên thế giới đồng thời cũng phát nổ, thì trái đất này có còn an toàn chăng ? Cho nên nói, văn minh càng tiến bộ là càng tiếp cận ngày tàn của thế giới.
Bồ Tát phát nguyện hy vọng chúng sinh đừng có tai nạn bất hạnh đó. Song, nghiệp lực của chúng sinh quá lớn, vượt qua nguyện lực của Bồ Tát. Bồ Tát thương xót khuyên răn, khiến chúng sinh cải ác hướng thiện, tiêu diệt tham sân si. Chúng sinh chẳng nghe lời ! Muốn khởi hoặc, muốn tạo nghiệp, kết quả phải thọ quả báo, Bồ Tát cũng không còn cách gì khác.
Nguyện lực Bồ Tát không hạn ngại
Tất cả thế gian đều nhiếp thọ
Như vậy hồi hướng các quần sinh
Chưa từng tạm khởi tâm phân biệt.
Nguyện lực của Bồ Tát phát ra chẳng có hạn lượng, chẳng có chướng ngại. Nguyện lực của Bồ Tát phát ra, chẳng những nhiếp thọ được chúng sinh một thế giới, mà đồng thời cũng nhiếp thọ được chúng sinh tất cả thế giới. Đem công đức đó hồi hướng cho tất cả chúng sinh, chưa từng ở trong một niệm sinh tâm phân biệt. Bạn là chúng sinh, tôi là Bồ Tát, giữa chúng ta chẳng có quan hệ gì. Ngài chẳng có tư tưởng nầy, xem tất cả mọi người đều bình đẳng, bố thí bình đẳng, hồi hướng bình đẳng, chẳng phân biệt đó đây, đó là cảnh giới tư tưởng của Bồ Tát.
Khắp nguyện chúng sinh trí thấu rõ
Bố thí trì giới đều thanh tịnh
Tinh tấn tu hành chẳng giải đãi
Nguyện lớn như vậy không ngừng nghỉ.
Bồ Tát phát nguyện, nguyện khắp tất cả chúng sinh, đều đắc được trí huệ thanh tịnh. Có trí huệ rồi, thì mới thấu rõ tất cả pháp môn, nên tu hành như thế nào? Chẳng những khiến tất cả chúng sinh thấu rõ tất cả các pháp, mà cũng khiến cho tất cả chúng sinh chín pháp giới, cũng thấu rõ tất cả các pháp, càng khiến cho chúng sinh ba đời cũng thấu rõ tất cả các pháp. Chúng sinh quá khứ đã tu hành rồi. Chúng sinh vị lai sẽ tu hành. Chúng sinh hiện tại đang tu hành. Chúng sinh hiện tại, bao quát chúng ta và tất cả mọi người trong đó. Đừng cho rằng pháp nói ở trong Kinh là vì chúng sinh ba ngàn năm về trước, chẳng phải đối với chúng ta mà nói. Nếu nghĩ như thế thì không đúng, cô phụ tâm từ bi của chư Phật Bồ Tát, cũng cô phụ tâm từ bi của tất cả Hộ pháp thiện thần. Các Ngài ủng hộ Kinh điển, thọ trì Kinh điển, công đức nầy không thể hạn lượng được.
Tuy nhiên chúng ta sinh ra sau đức Phật, song, có cơ hội nghe được pháp lớn Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật, giống như chính đức Phật Thích Ca Mâu Ni đối với chúng ta mà nói. Nếu có cảm giác như thế, thì sẽ đắc được lợi ích. Hy vọng mọi người chí thành khẩn thiết để nghe Kinh, do đó “Pháp vi diệu thâm sâu vô thượng, trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được, nay con nghe thấy được thọ trì, nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai”.
Bồ Tát tu pháp môn bố thí rất thanh tịnh. Bố thí có bố thí tài, bố thí pháp, bố thí không sợ hãi. Còn có nội thí và ngoại thí. Bố thí tài tức là hết thảy tài sản đều bố thí được, chẳng phải dạy người bố thí cho mình, mà là mình phải bố thí cho người. Hay bố thí thì đến được bờ bên kia.
Nếu thọ người bố thí, mà mình chẳng bố thí, thì họ đến được bờ bên kia Ba La Mật, còn mình thì chẳng đến được bờ bên kia Ba La Mật. Cho nên bố thí là hướng bên ngoài bố thí, chẳng phải hướng bên trong bố thí. Điểm nầy, mọi người phải hiểu, phải rõ ràng.
Bố thí pháp tức là giảng Kinh thuyết pháp, hướng dẫn chúng sinh, khiến cho họ nghe pháp khai ngộ, sớm thành Phật đạo. Do đó:
“Trong các sự cúng dường
Cúng dường pháp là hơn hết”.
Tất cả sự cúng dường, cúng dường pháp là thù thắng hơn hết, là bậc nhất.
Bố thí không sợ hãi, tức là người đang gặp hoàn cảnh hoạn nạn nguy hiểm, phải an ủi họ, khiến cho họ không sinh tâm sợ hãi. Hoặc tinh thần họ gặp lúc bối rối nguy hiểm, phải biết cách khuyên họ, cứu họ thoát khỏi cảnh nguy hiểm, song, phải biết cách cứu họ.
Nội thí tức là bố thí đầu mắt tuỷ não của mình. Ngoại thí tức là bố thí đất nước vợ con của mình, hết thảy đều bố thí cho người đến xin, tuyệt đối không có tư tưởng xả bỏ không được. Hay bố thí thì chẳng còn tâm tham, tham là đứng đầu của vạn điều ác, bất cứ tội ác gì, cũng đều do tham mà ra.
Pháp môn trì giới, tu đến thanh tịnh viên mãn, thì sẽ đạt đến bờ bên kia Ba La Mật. Hiện tại chúng ta tham thiền, ngồi ở trong thiền đường, tức là trì giới. Đây là không trì mà trì, không giới mà giới. Tại sao ? Mỗi ngày chúng ta chạy hương, ngồi hương, chạy hương là vận động thân thể, ngồi hương là an định tâm niệm. Vận động hay khiến cho máu huyết điều hoà, bách bệnh không sinh. An định hay khiến cho vọng tưởng không sinh, trí huệ hiện tiền. Cho nên người tu hành phải điều thân, điều tâm, thì mới hiệu quả. Do giới sinh định, do định phát huệ.
Tại thiền đường đả thiền thất, tức là tu hành pháp môn bậc nhất, tức cũng là pháp môn dụng công. Song, người chẳng có căn lành, thì ở tại thiền đường cảm thấy chịu không được, thậm chí ngồi một cây hương, cảm thấy toàn thân không được tự tại, chẳng phải đau lưng thì đau chân. Nên biết, không thọ khổ trong sự khổ, thì khó làm người hơn người. Lầu cao ngàn trượng là từ đất bằng mà kiến lập nên, vạn đức viên mãn là từ giới cơ bản kiến lập nên. Chúng ta đả thiền thất tức là kiến lập cơ sở vững chắc. Giống như căn nhà vậy, nhất định phải xây nền móng cho tốt, bằng không thì rất nguy hiểm.
Tham thiền đả toạ, tức là kiến lập cơ sở. Làm thế nào kiến lập cho vững chắc ? Trước hết phải giữ giới, giữ giới phải bắt đầu từ nghiệp thân miệng ý. Thân không phạm giết hại, trộm cắp, tà dâm, miệng không nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, chưởi mắng, ý thì không phạm tham, sân, si. Ba nghiệp thanh tịnh, thì giới định huệ tự nhiên sẽ viên mãn, đó là yếu quyết của sự trì giới.
Tinh tấn tu hành tức là không giải đãi. Nếu chẳng tinh tấn tu hành, thì bất cứ pháp nào cũng không thể có sự thành tựu. Tinh tấn có nhiều loại, có thân tinh tấn, tâm tinh tấn, ngày tinh tấn, đêm tinh tấn. Tóm lại, thời khắc đều tinh tấn, không giải đãi.
Trong sự tinh tấn bao quát nhẫn nhục. Dụng công phải có tâm nhẫn nại, nếu không thể nhẫn khổ chịu cực, thì một khi dụng công sẽ cảm thấy khó chịu, chịu đựng không được; không thể nhẫn nại thì không thể tinh tấn; không thể tinh tấn thì chẳng có công phu thiền định; chẳng có công phu thiền định thì chẳng có trí huệ. Pháp lục độ nầy có quan hệ với nhau, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, đây là pháp tu hành thuộc về thân; tinh tấn, thiền định, trí huệ, đây là pháp tu hành thuộc về tâm. Lục độ là pháp môn tu của Bồ Tát. Chúng ta học pháp đại thừa thì nhất định phải tu pháp môn lục độ.
Giống như ở trước nói đại thệ đại nguyện, chỉ có tinh tấn, chẳng ngừng nghỉ. Đó mới là chân chánh đệ tử của Phật ! Người chân chánh tu hành, tinh tấn lại tinh tấn, tuyệt đối không giải đãi. Như vậy chẳng có thời gian nhàn rỗi, chướng ngại người khác tu đạo. Người ham ăn lười làm, cơ sở của họ nghĩ thì biết, chẳng có vững chắc. Căn nhà của họ, chẳng chịu đựng được gió thổi, chẳng chịu đựng được trời mưa, không thể duy trì được lâu thì sẽ đổ ngã.
Chúng ta người tu đạo, nhất định phải xây dựng cơ sở cho vững chắc. Cơ sở vững chắc rồi, thì có thể xây lên lầu cao tầng, bất cứ cao như thế nào, cũng không có vấn đề gì. Bằng không thì chỉ lãng phí thời giờ, nương Phật mặc y ăn cơm, cuối cùng thì chẳng đắc được gì cả, cô phụ tâm ý một phen tu đạo.
Bồ Tát hồi hướng đến bờ kia
Khắp khai pháp môn diệu thanh tịnh
Trí huệ đồng với đấng Lưỡng Túc
Phân biệt thật nghĩa được rốt ráo.
Bồ Tát là nói tóm tắc, nói đủ là “Bồ Đề Tát Đoả”. Bồ đề dịch là “giác”. Tát Đoả dịch là “hữu tình”. Tức là giác hữu tình, hoặc là hữu tình giác. Ý nghĩa gần giống nhau. Giác hữu tình, tức là kẻ hữu tình trong sự giác ngộ. Hữu tình giác, tức là kẻ giác ngộ trong hữu tình. Bất cứ là giác hữu tình, hay hữu tình giác, ở trong nhân loại chúng ta, là một bậc giác ngộ. Trong tất cả chúng sinh, là một kẻ giác đầu tiên. Chúng ta chúng sinh là Bồ Tát chưa giác ngộ, Bồ Tát là chúng sinh đã giác ngộ. Vì chúng sinh đã giác ngộ, nên Bồ Tát làm gì cũng đều có đại đạo tâm, do đó còn gọi là chúng sinh đại đạo tâm.
Bồ Tát là bậc Thánh nhân lợi mình lợi người, giác mình giác người, độ mình độ người, cho nên đem đủ thứ căn lành tu hành, hồi hướng cho chúng sinh. Công đức viên mãn mới đạt đến bờ Niết Bàn bên kia. Bồ Tát khắp khai diễn pháp môn thanh tịnh vi diệu vô thượng. Trí huệ của Bồ Tát đồng trí huệ với Phật. Đấng Lưỡng Túc tức là Phật, phước của Phật cũng đầy đủ, huệ của Phật cũng đầy đủ, phước huệ đều viên mãn. Bồ Tát phân biệt nghĩa lý các pháp thật tướng, đắc được đáp án rốt ráo viên mãn.
Bồ Tát đã thông đạt lời lẽ
Đủ thứ trí huệ cũng như vậy
Nói pháp như lý không chướng ngại
Mà ở trong đó tâm chẳng chấp.
Bồ Tát có đại trí huệ, thông đạt được lời lẽ và văn tự các nước trên thế giới, lời lẽ của các loài chúng sinh cũng đều thầu hiểu. Đối với tất cả nghĩa lý, đều thông đạt vô ngại. Đủ thứ trí huệ của chúng sinh, đủ thứ tư tưởng của chúng sinh, đủ thứ hành vi của chúng sinh, Bồ Tát đều thông đạt đến cảnh giới viên mãn. Tất cả pháp của Bồ Tát nói đều như lý không hư, không có chướng ngại. Bồ Tát đối với các pháp, tâm không chấp trước, tức cũng là lìa khỏi pháp chấp. Bồ Tát hai chấp đều không. Hai chấp tức là chấp cái ta và chấp pháp. Hàng nhị thừa, đã hết chấp cái ta, nhưng vẫn còn chấp pháp, Bồ Tát thì hai chấp đều không.
Thường nơi các pháp không hai tưởng
Cũng lại chẳng nghĩ nơi không hai
Nơi hai không hai thảy đều lìa
Biết nó đều là đường lời lẽ.
Bồ Tát minh bạch tất cả các pháp, vốn là vắng lặng. Do đó :
“Các pháp tướng vắng lặng,
Không thể dùng lời nói”.
Phàm là pháp nói ra, đều là từ nhân duyên sinh ra. Cho nên mới nói :
“Các pháp do duyên sinh
Các pháp do duyên diệt
Phật ta đại Sa Môn
Thường hay nói như thế”.
Bồ Tát thường đối với tất cả các pháp, chẳng nghĩ thứ hai. Hết thảy tất cả các pháp, đều là đệ nhất nghĩa. Vì vậy cho nên tôi thường nói : “Phật nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, môn nào cũng thứ nhất, chẳng có thứ hai”. Tại sao phải nói như vậy ? Vì mỗi thứ pháp là đối với căn cơ của mỗi loài chúng sinh mà nói. Chỉ cần hợp căn cơ thì là thứ nhất; nếu chẳng hợp cơ thì không phải là thứ nhất, nhưng nó cũng chẳng phải là thứ hai. Cho nên nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn đều là đệ nhất.
Bồ Tát đối với các pháp chẳng nghĩ hai tưởng, phải chăng nghĩ một ? Cũng chẳng phải. Vì các pháp từ duyên sinh, các pháp từ duyên diệt. Cho nên chẳng có thứ nhất, cũng chẳng có thứ hai. Bổn thể là không, lìa khỏi hai và không hai, hai thứ tư tưởng nầy. Tại sao ? Vì biết hai và không hai đều là pháp có thể nói ra. Phàm là pháp nói ra được, đều thuộc về trong phạm vi ngôn ngữ. Pháp nói không ra, đó là cảnh giới đường ngôn ngữ đã bặc, nơi tâm nghĩ đã diệt. Con đường lời lẽ đã dứt, chỗ nghĩ trong tâm chẳng còn nữa. Đó là pháp môn thâm sâu vô thượng, cũng là pháp môn không thể nghĩ bàn. Do đó, cho nên mới nói : “Chẳng nghĩ hai tưởng, cũng chẳng nghĩ không hai tưởng”.
Biết các thế gian đều bình đẳng
Đâu chẳng phải nghiệp của lời tâm
Chúng sinh huyễn hoá không có thật
Hết thảy quả báo từ huyễn khởi.
Bồ Tát biết tất cả chúng sinh thế gian, tự tánh hoàn toàn bình đẳng, đều có Phật tánh. Nhưng vì vô minh chẳng giác, sinh ra ba thứ nghiệp tướng vi tế. Đó là nghiệp tướng, hiện tướng và chuyển tướng. Ba thứ tướng nầy là do tâm chúng sinh tạo ra, do lời lẽ của chúng sinh tạo ra, tất cả nghiệp đều do thân, miệng, ý tạo ra. Nếu thân miệng ý ba nghiệp thanh tịnh, thì tất cả nghiệp chẳng còn nữa. Chúng sinh do hư vọng mà sinh, do hư vọng mà diệt, là huyễn hoá chứ chẳng chân thật.
Thân thể của con người là do bốn đại (đất, nước, gió, lửa) hoà hợp mà sinh, đến lúc bốn đại phân tán thì chết. Chất cứng trong thân người thuộc về đất. Chất lỏng thuộc về nước. Độ ấm thuộc về lửa. Hô hấp thuộc về gió. Đến lúc chết thì bốn chất nầy trở về bản thể của nó. Đất trả về cho đất, nước trở về nước, lửa trở về lửa, gió trở về với gió. Cho nên nói do hư vọng huyễn hoá mà thành, chẳng có chân thật. Hết thảy quả báo, đều do duyên mà khởi. Do đó: “Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo”. Đó là định luật nhân quả, pháp tắc xưa nay không thay đổi. Do đó: “Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu”. Trồng cái gì được cái đó !
Hết thảy tất cả nơi thế gian
Đủ thứ quả báo đều khác nhau
Tất cả đều do nghiệp lực thành
Nếu diệt được nghiệp nó đều dứt.
Hết thảy các loại chúng sinh trong tất cả thế gian, đều có quả báo khác nhau, thọ quả báo cũng khác nhau. Ví như chó, tại sao làm chó ? Vì trong quá khứ, cứ làm việc của chó, tạo nghiệp chó thì thọ báo ứng làm chó. Heo, tại sao làm heo ? Vì trong quá khứ, cứ làm việc của heo, tạo nghiệp heo, thì thọ báo ứng làm heo. Bất cứ quả báo của loài chúng sinh nào, đều do nghiệp lực của mình tạo thành.
Do đó có thể thấy, trồng nhân thiện thì kết quả lành, trồng nhân ác thì kết quả dữ, tơ hào không sai. Đây là đạo lý tự nhiên. Cổ đức có nói rằng :
“Dục tri tiền thế nhân
Kim sinh thọ giả thị.
Dục tri lai thế quả
Kim sinh tác giả thị”.
Nghĩa là :
Muốn biết nhân đời trước
Đời này mình đang thọ
Muốn biết quả đời sau
Đời này mình đang làm.
Cho nên Bồ Tát sợ nhân, không sợ quả, khi trồng nhân thì rất cẩn thận, sợ sai nhân quả. Đến khi thọ quả báo thì, bất cứ là thiện báo, hoặc ác báo, tâm an lý đắc, vui vẻ thọ nhận. Chúng sinh sợ quả, không sợ nhân, khi tại nhân địa thì tuỳ tiện tạo nghiệp, gì cũng chẳng sợ. Đến khi thọ quả báo, thì mới biết sợ, thậm chí oán trời trách người, oán Phật Bồ Tát không gia bị, oán Hộ Pháp thiện thần không bảo hộ. Đây là chỗ khác nhau giữa Bồ Tát và chúng sinh. Chúng ta phải học tập Bồ Tát, trồng nhiều nhân lành, thì tương lai nhất định sẽ kết quả lành. Nếu nghiệp lực diệt hết, thì không còn thọ khổ nữa, mà hưởng các điều an lạc.
Bồ Tát quán sát các thế gian
Thân miệng ý nghiệp đều bình đẳng
Cũng khiến chúng sinh trụ bình đẳng
Giống như đấng Đại Thánh Vô Đẳng.
Bồ Tát quán sát hết thảy chúng sinh tất cả thế gian, đều khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo. Khởi hoặc : Tức là khởi mê hoặc, chẳng rõ sự lý, do vô minh mà khởi. Vô minh sinh ra nghiệp tướng, tức là nghiệp tạo ra. Vô minh sinh ra hiện tướng, tức là tướng của hoặc. Vô minh sinh ra chuyển tướng, tức là chuyển biến. Vô minh sinh ra ba thứ tướng vi tế nầy, sau đó trở thành hoặc. Hoặc nầy, có thô hoặc, tế hoặc, trần sa hoặc. Thô hoặc tức là kiến hoặc, đối cảnh khởi tham ái. Tế hoặc tức là tư hoặc, mê lý khởi phân biệt. Trần sa hoặc tức là hoặc như bụi, như cát, tức cũng là hoặc rất nhỏ. Tạo nghiệp : Tại sao chúng sinh tạo nghiệp ? Vì thân, miệng, ý không thanh tịnh mà tạo nghiệp. Thích sát sinh thì tạo nghiệp sát sinh. Thích trộm cắp thì tạo nghiệp trộm cắp. Thích tà dâm thì tạo nghiệp tà dâm. Thích nói dối, nói hai lưỡi, nói thêu dệt, chưởi mắng, thì tạo nghiệp nói dối, nói hai lưỡi, nói thêu dệt, chưởi mắng. Người thích tham lam, thì tham mà không biết chán, bất cứ vật gì, càng nhiều càng tốt. Do đó, “Người xuất gia không thích tài vật, mà càng nhiều càng tốt”. Người thích sân, bất cứ lúc nào cũng đều có tâm sân hận. Đối với hết thảy mọi người đều không vừa ý. Người thích si, tự cảm thấy có trí huệ, nhưng làm việc điên đảo, thị phi chẳng rõ ràng, trắng đen chẳng phân biệt, ngu si đến trình độ nầy. Thọ báo : Tức là làm nghiệp gì thọ quả báo đó. Người có tâm tham thì chết rồi biến thành quỷ. Người có tâm sân thì chết rồi biến thành súc sinh. Người có tâm si thì chết rồi đoạ vào địa ngục. Đó là quả báo tự làm tự thọ.
Thân, miệng, ý ba nghiệp thanh tịnh, tức là bình đẳng. Ba nghiệp bình đẳng, tức là không. Không hay tiêu diệt mười điều ác. Bồ Tát cũng khiến tất cả chúng sinh đều thanh tịnh, trụ trong cảnh giới bình đẳng, giống như đấng Đại Thánh Vô Đẳng, tức cũng là Phật.
Bồ Tát nghiệp thiện đều hồi hướng
Khắp khiến chúng sinh sắc thanh tịnh
Phước đức phương tiện đều đầy đủ
Đồng với bậc Vô Thượng Điều Ngự.
Bồ Tát làm đủ thứ công đức, tu các thứ nghiệp thiện, chẳng giữ lại cho chính mình, mà hoàn toàn hồi hướng cho chúng sinh. Khắp khiến cho tất cả chúng sinh sắc thân thanh tịnh. Bồ Tát có đủ thứ phước đức, có đủ thứ phương tiện, đều đầy đủ viên mãn. Cũng hy vọng tất cả chúng sinh, phước đức đầy đủ, phương tiện đầy đủ, trí huệ đầy đủ, đồng với bậc Vô Thượng Điều Ngự (Phật). Phật điều ngự được chúng sinh ba cõi, làm Thầy Điều Ngự ba cõi.
Bồ Tát vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được lợi ích lớn, cho nên vì chúng sinh mà tu hành, vì chúng sinh mà tu công đức, vì chúng sinh mà tu nghiệp thiện. Tóm lại, tất cả đều vì chúng sinh mà chẳng vì mình. Bồ Tát có tướng tốt trang nghiêm và công đức viên mãn. Khắp khiến cho tất cả chúng sinh, cũng có tướng tốt trang nghiêm, cũng có công đức viên mãn. Có phải được như vậy chăng ? Bồ Tát chẳng màng vấn đề nầy. Chỉ nguyện cho tất cả chúng sinh tốt, thì đại hoan hỉ. Dùng tâm đại từ và tâm đại bi để giáo hoá chúng sinh, đối đãi chúng sinh. Lỗi lầm của chúng sinh là của Bồ Tát. Công đức của Bồ Tát là của chúng sinh. Tinh thần thương xót chúng sinh của Bồ Tát, khiến cho người kính ngưỡng. Bồ Tát chẳng bỏ một chúng sinh ác nào, rất thương xót họ, dùng tâm từ bi, tâm thiện lương để cảm hoá họ, để nhiếp thọ họ, chuyển thành chúng sinh thiện. Bồ Tát dùng chân tâm thành khẩn, để giáo hoá tất cả chúng sinh, để điều phục tất cả chúng sinh. Đáng tiếc là chúng sinh cang cường khó điều khó phục, nhận lầm rằng Bồ Tát lo việc đâu đâu, nói Bồ Tát quá ngu si, không có việc tìm việc làm. Song, Bồ Tát nguyện làm việc ngu si. Việc mà chúng sinh không muốn làm, thì Bồ Tát lại làm; việc mà chúng sinh muốn làm, thì Bồ Tát không làm. Tư tưởng của Bồ Tát thật là cao thượng. Chúng ta phải “kiến hiền tư tề”. Nghĩa là thấy người khác giỏi hơn, cố gắng làm cho bằng họ.
Bồ Tát lợi ích các quần sinh
Công đức biển cả hồi hướng hết
Nguyện khiến oai quang hơn thế gian
Được thành thân đại lực dũng mãnh.
Bồ Tát chưa từng nghĩ vì mình, cử chỉ hành động đều nghĩ vì chúng sinh. Vì khiến cho chúng sinh chấm dứt sinh tử, trở lại con thuyền từ bi đến thế giới Ta Bà độ quần sinh, khiến cho họ lìa khổ được vui. Bồ Tát vì lợi ích chúng sinh, mới đem công đức như biển cả, hồi hướng hết cho tất cả chúng sinh. Bồ Tát đối với chúng ta quá từ bi ! Nói thẳng là chẳng cách chi báo đáp được ân đức của Bồ Tát. Chỉ có một phương pháp báo đáp là nỗ lực tham thiền, minh tâm kiến tánh, thì báo đáp được một trong vạn phần. Bồ Tát lại phát nguyện, nguyện cho tất cả chúng sinh, đều được quang minh đại oai đức, đại trí huệ, đặc biệc hơn tất cả mọi người thế gian, đắc được thân kim cang bất hoại, đại anh hùng, đại dũng mãnh, đại trượng phu.
Phàm chỗ tu tập các công đức
Nguyện khắp thế gian đều thanh tịnh
Chư Phật thanh tịnh không ai bằng
Chúng sinh thanh tịnh cũng như vậy.
Phàm là Bồ Tát tu tập tất cả công đức, nguyện khiến cho khắp tất cả thế gian đều thanh tịnh, chẳng có chỗ nào ô uế. Mười phương ba đời tất cả chư Phật, đều có pháp thân viên mãn thanh tịnh, chẳng có gì sánh bằng. Bồ Tát phát nguyện, nguyện cho sắc thân của tất cả chúng sinh đều thanh tịnh, giống như pháp thân của Phật không hai không khác.
Bồ Tát nơi nghĩa được thiện xảo
Biết được pháp tối thắng của Phật
Đem nghiệp thiện bình đẳng hồi hướng
Nguyện khiến các loài đồng Như Lai.
Bồ Tát đắc được trí huệ biện tài vô ngại, thiện xảo phương tiện để giáo hoá chúng sinh. Hết thảy tất cả nghĩa lý trong Kinh, Bồ Tát đều minh bạch. Giáo nghĩa thông đạt vô ngại, giáo lý viên dung vô ngại. Từ một đạo lý sinh ra vô lượng thứ đạo lý; vô lượng thứ đạo lý quy về một đạo lý. Do đó, “Một làm vô lượng, vô lượng làm một”. Đây là cảnh giởi diệu pháp Hoa Nghiêm.
Pháp môn thiện xảo phương tiện, tức là đối với loài chúng sinh nào, thì nói pháp đó. Ví như đối với chúng sinh nhiều tham, thì dạy họ tu pháp môn quán bất tịnh. Quán bất tịnh tức là chín lỗ chảy ra thứ bất tịnh. Mắt thì có ghèn, tai thì có cức váy, mũi thì chảy mũi, miệng thì có đàm, đó đều là những vật bất tịnh, lại thêm vào đại tiểu tiện, những vật càng bất tịnh. Phàm là người tham ái thân thể thì đối với họ nói pháp môn quán bất tịnh : Thân thể là túi da hôi thối, trong đó đầy dẫy máu mủ nước tiểu. Quán như thế thì sẽ chẳng còn ưa thích thân thể nữa. Tham từ từ sẽ bớt đi, nhưng phải mượn giả tu chân, đừng quá chấp trước nó, xem nó như là bảo bối.
Đối với người nhiều sân thì dạy họ tu quán từ bi. Đối với tất cả chúng sinh phải có tâm từ bi; nghĩa là thương xót tất cả chúng sinh, có tâm đồng tình “Người yếu mình yếu, người đói mình đói”. Phàm là người tu hành, phải có tâm trạng “Từ bi làm hoài bảo, phương tiện làm cửa”, bằng không thì chẳng có sự thành tựu.
Đối với người nhiều si, thì dạy họ tu quán nhân duyên. Quán đạo lý mười hai nhân duyên, mà ngộ đạo lý sinh tử lưu chuyển. Biết đạo lý tiền nhân hậu quả. Tin nhân quả, chẳng sai nhân quả.Bồ Tát biết nghĩa lý pháp của chư Phật nói tối thù thắng, đem căn lành công đức tích luỹ, bình đẳng hồi hướng cho chúng sinh, nguyện khiến cho chúng sinh đắc được trí huệ và quả vị giống như Phật.
Bồ Tát biết rõ các pháp không
Tất cả thế gian không chỗ có
Không có tạo tác và kẻ làm
Chúng sinh nghiệp báo cũng không mất.
Bồ Tát biết rõ tất cả các pháp vốn là vắng lặng, do đó:
“Các pháp từ bản lai
Thường tự tịch diệt tướng
Không thể dùng lời nói”.
Bản thể các pháp vốn vắng lặng, nói không ra. Tất cả thế gian chẳng chỗ có, vì là không. Chẳng có thần, hay thượng đế tạo làm ra thế gian. Phật giáo phủ nhận có thần chủ tể, mà nhận rằng vạn sự vạn vật đều do nhân sinh sinh diệt, là hiện tượng tự nhiên. Nói cho dễ hiểu là, chẳng có ai dạy bạn đi làm thiện, hoặc làm ác, mà là bạn tự lựa chọn làm thiện, hoặc làm ác, chẳng có quan hệ gì với người khác. Tự mình trồng nhân lành, tương lai sẽ kết quả lành; tự mình trồng nhân ác, thì tương lai sẽ kết quả ác. Thiện ác chẳng phải thần cho, mà là tự làm tự thọ. Do đó:
Phải lựa thiện mà theo
Không thiện thì sửa đổi.
Nếu chẳng phải tình hình như vậy, thì có thể tuỳ tiện tạo nghiệp ác, do đó phải làm việc thiện, đừng làm việc ác, tổn người lợi mình. Quả báo của chúng sinh tuy nhiên là có, nhưng chẳng phải do người khác làm chủ tể, do báo ứng tự mình trồng nhân kết quả, mà thọ báo thì cũng chẳng có ai lại thay thế.
Các pháp tịch diệt chẳng tịch diệt
Xa lìa hai tâm phân biệt nầy
Biết các phân biệt là đời thấy
Vào nơi chánh vị hết phân biệt.
Bản thể của các pháp tuy là tịch diệt, nhưng do nhân duyên sinh ra. Nếu minh bạch đạo lý thật tướng các pháp, thì tư tưởng tịch diệt, hay chẳng tịch diệt đều tiêu diệt. Tại sao có tâm phân biệt ? Vì tri kiến phân biệt của thế gian. Phân biệt cái nầy, phân biệt cái kia; phân biệt đúng, phân biệt sai; phân biết trắng, phân biệt đen; phân biệt thiện, phân biệt ác. Đến được cảnh giới của Bồ Tát, thì xa lìa tâm phân biệt, tịch diệt, chẳng tịch diệt. Biết tất cả phân biệt đều là tri kiến của thế gian, mà vào được bậc chân chánh trí huệ, tức là thành quả vị Phật. Tất cả tâm phân biệt chẳng còn nữa.
Như vậy chân thật các Phật tử
Từ nơi Như Lai pháp hoá sinh
Bồ Tát khéo hồi hướng như vậy
Thế gian nghi hoặc đều trừ diệt.
Hay tư duy tất cả các pháp như vậy, thì mới chân chánh là đệ tử của Phật. Đó là từ trong Phật pháp hoá sinh. Bồ Tát hay tích tập căn lành và công đức như vậy, thảy đều hồi hướng cho pháp giới chúng sinh. Khiến cho nghi hoặc của thế gian đều trừ diệt hết không còn.