The Forty-Two Hands
With the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA
Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976
Translated into Vietnamese by
The late Dharma Master THÍCH THIỀN-TÂM
21. The Purple Lotus Hand and Eye
The Sutra says: “For meeting the Buddhas of the ten directions, use the Purple Lotus Hand.”
The Mantra: Fwo la she ye
The True Words: Nan. Sa la sa la. Wa dz la jya la. Hung pan ja.
The verse:
With the miraculous, inconceivable Purple Lotus Flower,
We attain Bodhi quickly, the Dharma of liberation.
We meet the Buddhas of the ten directions,
And never again descend into the homes of the six paths.
* (ca ra)
(Không hiểu tại sao trong bản dịch của HT. THÍCH THIỀN-TÂM, không có 2 chữ “CA RA”?)
21) Tử-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
Kinh nói rằng: “Nếu muốn được diện kiến 10 phương tất cả chư Phật, nên cầu nơi Tay cầm Hoa-Sen-Tím.”
Thần-chú rằng: Phật Ra Xá Da [40]
Chơn-ngôn rằng: Án– tát ra tát ra, phạ nhựt-ra ca ra, hồng phấn tra.
Kệ tụng:
Vi diệu nan tư tử liên hoa
Bồ đề tốc chứng giải thoát pháp
Diện kiến thập phương Phật-đà-da
Tùng kim bất lạc lục đạo gia.
[Tử Liên Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp, vi diệu không thể “NGHĨ BÀN” mà hiểu được,
Được Pháp Giải-thoát nầy, thì mau chứng qủa Bồ-đề của chư PHẬT.
Gặp được chư Phật ở 10 phương Tịnh-độ,
Thì “TỰ-TẠI” vào Lục-đạo, cứu độ tất cả Chúng-sanh “MÀ KHÔNG BỊ THỐI CHUYỂN.”]
Tỷ-khưu Đức-Vân dạy Thiện-tài Đồng-tử về môn “ỨC-NIỆM NHỨT-THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH-GIỚI TRÍ-HUỆ QUANG-MINH PHỔ-KIẾN”, như thế nào mà gặp được chư Phật ở mười phương tịnh độ?
Lúc đầu, thì Bồ-tát Văn-Thù Sư-lợi dạy cho Thiện-Tài Đồng-Tử “PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM”, tức là chỉ dạy cho Thiện-Tài về phần “TÍN-GIẢI”, mà không dạy về phần “HÀNH-CHỨNG”, KHÔNG DẠY làm thế nào để “NHẬP PHÁP GIỚI.”
Rồi THIỆN TÀI được Bồ-tát Văn-thù giới thiệu theo học với “TỶ-KHƯU ĐỨC VÂN”, rồi Tỷ-khưu Đức-vân giới thiệu tới một vị “Thiện Tri Thức” khác… cho đến sau cùng gặp ”PHỔ-HIỀN BỒ-TÁT” dạy THIỆN TÀI “PHÁT NGUYỆN VÃNG SANH” VỀ CÕI CỰC LẠC CỦA ĐỨC PHẬT A-DI-ĐÀ, thì mới mau “NHẬP PHÁP GIỚI” một cách viên mãn.
Tôi nay hồi hướng các căn lành
Ðể được Phổ Hiền hạnh thù thắng.
Nguyện tôi lúc mạng sắp lâm chung
Trừ hết tất cả các chướng ngại
Tận mặt gặp Phật A Di Ðà
Liền được vãng sanh cõi Cực Lạc,
Tôi đã vãng sanh cõi kia rồi
Hiện tiền thành tựu nguyện lớn này
Cả thảy tròn đủ không thừa thiếu
Lợi lạc tất cả các chúng sanh.
Chúng hội Di Ðà đều thanh tịnh
Tôi từ hoa sen nở sinh ra
Thân thấy đức Phật Vô Lượng Quang
Liền thọ ký tôi đạo Bồ Ðề.
Nhờ đức Phật kia thọ ký rồi
Tôi hóa vô số vạn ức thân
Trí huệ rộng lớn khắp mười phương
Khắp lợi tất cả chúng sanh giới.
Nhẫn đến hư không thế giới tận
Chúng sanh, nghiệp và phiền não tận
Nhưng bốn pháp ấy không cùng tận
Nguyện tôi rốt ráo hằng vô tận
Tại sao “Bồ-tát Văn-thù” không dạy, mà giới thiệu tới “Tỷ-khưu Đức-vân” học Đạo ? Vì bấy giờ, Thiện-tài không thấy rằng gặp Bồ-tát Văn-thù là một chuyện hy-hữu, trong trăm ngàn muôn ức kiếp khó gặp được một lần, nên dù Bồ-tát Văn-thù có dạy, thì Thiện-tài cũng không chứng nhập được.
Cho nên, trước khi lên đường tìm cầu “THIỆN TRI THỨC”, Bồ-tát Văn-thù dặn dò THIỆN-TÀI rằng:
“Thiện tri thức có dạy bảo điều chi phải đều tùy thuận. Nơi thiện xảo phương tiện của thiện tri thức chớ thấy lỗi lầm. (Y theo PHÁP không Y theo NGƯỜI)
Lời dạy của “BỒ-TÁT VĂN-THÙ” cũng giống như Phẩm “TỨ-Y” trong “Kinh Đại-Bát Niết-Bàn”:
1) Y theo PHÁP không Y theo NGƯỜI
2) Y theo NGHĨA không Y theo LỜI
3) Y theo TRÍ không Y theo THỨC
4) Y theo KINH LIỄU-NGHĨA không Y theo KINH CHẲNG LIỄU NGHĨA
Phương nam này có một nước tên là Thắng Lạc. Trong nước Thắng Lạc có tòa núi tên là Diệu Phong. Trên núi đó có một Tỳ kheo tên là Ðức Vân. Ngươi nên đến hỏi Tỳ Kheo Ðức Vân : Bồ Tát phải học Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào ? Nhẫn đến phải như thế nào để được mau viên mãn hạnh Phổ Hiền ? Tỳ Kheo Ðức Vân sẽ chỉ bảo cho ngươi.”
Thiện Tài đồng tử nghe xong hớn hở vui mừng, đảnh lễ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng, rơi lệ từ tạ mà đi qua hướng Nam, đến nước Thắng Lạc, lên núi Diệu Phong. Ở trên núi đó xem ngó tìm kiếm khắp bốn phía, lòng khao khát muốn được gặp Tỳ-Kheo Ðức-Vân. Bảy ngày sau mới được thấy T ỳ Kheo Ðức Vân ở trên ngọn núi khác đi kinh hành chậm rãi.
BÀI HỌC THỨ 1: DẠY “NHỚ NIỆM THIỆN TRI THỨC” trong 7 ngày.
Tỷ-khưu Đức-vân dạy Thiện-tài về môn “NHỚ NIỆM THIỆN TRI THỨC”, cũng giống như pháp “TRÌ DANH HIỆU PHẬT”, trong KINH A-DI-ĐÀ , làm cho Thiện-tài có “TÂM” mong cầu muốn gặp được Thiện-Tri-Thức, nên trong 7 ngày nhớ niệm, khát ngưỡng mong gặp Tỷ-khưu Đức-vân, nên được nhất Tâm, như chỉ được sự nhất tâm mà thôi, vì còn thấy mình ở núi bên nầy, Tỷ-khưu Đức-vân ở núi bên kia (còn năng niệm sở niệm)
Thấy xong, Thiện Tài đồng tử liền đến đảnh lễ chân Tỳ Kheo Ðức Vân, hữu nhiễu ba vòng cung kính đứng trước Ðức Vân mà bạch rằng :
Bạch Ðức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát phải học Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào ? Nhẫn đến phải thế nào để được mau viên mãn hạnh Phổ Hiền ? Tôi nghe đức Thánh khéo có thể dạy bảo, mong đức Thánh thương xót dạy cho tôi thế nào Bồ Tát được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Ðức Vân Tỳ Kheo bảo Thiện Tài đồng tử rằng :
Lành thay ! Lành thay ! Này thiện nam tử ! Ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, lại có thể hỏi hạnh của Bồ Tát. Việc như vậy là sự khó trong những sự khó. Những là cầu Bồ Tát hạnh, cầu Bồ Tát cảnh giới, cầu đạo xuất ly của Bồ Tát, cầu đạo thanh tịnh của Bồ Tát, cầu tâm thanh tịnh quảng đại của Bồ Tát, cầu Bồ Tát thành tựu thần thông, cầu Bồ Tát thị hiện môn giải thoát, cầu Bồ Tát thị hiện việc làm tại thế gian, cầu Bồ Tát tùy thuận tâm của chúng sanh, cầu môn sanh tử Niết bàn của Bồ Tát, cầu Bồ Tát quán sát hữu vi vô vi tâm không chấp trước.
Này thiện nam tử ! Ta được sức thắng giải tự tại quyết định, tín nhãn thanh tịnh, trí quang chói sáng, thấy khắp các cảnh giới khỏi tất cả chướng ngại, quán sát khéo léo, phổ nhãn sáng suốt, đủ hạnh thanh tịnh. Qua đến tất cả cõi nước mười phương cung kính cúng dường tất cả chư Phật. Thường nhớ tất cả chư Phật Như Lai. Tổng trì tất cả chánh pháp của chư Phật. Thường thấy tất cả chư Phật mười phương.
Những là thấy phương đông một đức Phật, hai đức Phật, mười đức Phật, trăm đức Phật, ngàn đức Phật, ức đức Phật, trăm ức đức Phật, ngàn ức đức Phật, trăm ngàn ức đức Phật, na do tha ức đức Phật, trăm na do tha ức đức Phật, ngàn na do tha ức đức Phật, trăm ngàn na do tha ức đức Phật, nhẫn đến thấy vô số, vô lượng, vô biên vô đẳng, bất khả sổ, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết đức Phật. Nhẫn đến thấy chư Phật bằng số vi trần trong Diêm Phù Ðề, bằng số vi trần trong bốn châu thiên hạ, bằng số vi trần trong Tiểu thiên thế giới, bằng số vi trần trong nhị thiên thế giới bằng số vi trần trong Ðại Thiên thế giới, bằng số Phật sát vi trần nhẫn đến thấy chư Phật bằng số bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần.
Như phương đông, chín phương kia cũng đều thấy như vậy.
Chư Phật trong mỗi phương, những sắc tướng, những hình mạo, những thần thông, những du hí, những chúng hội trang nghiêm đạo tràng, những quang minh chiếu sáng vô biên, những quốc độ, những thọ mạng. Tùy những tâm sở nghi của chúng sanh mà chư Phật thị hiện những môn thành Ðẳng Chánh Giác, làm sư tử hống trong đại chúng.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được pháp môn “ức niệm Nhứt thiết chư Phật cảnh giới trí huệ quang minh phổ kiến” này thôi.
BÀI HỌC THỨ 2:
DẠY “ỨC-NIỆM NHỨT-THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH-GIỚI TRÍ-HUỆ QUANG-MINH PHỔ-KIẾN”
Khi niệm một vị Phật nào đó tới “không còn năng niệm sở niệm”, thì thấy được TẤT CẢ CHƯ PHẬT HIỆN Ở TRONG “PHỔ-QUANG MINH TRÍ” SÁT-NA TẾ TAM MUỘI , rồi “Qúy-vị” có khả năng hóa hiện vô-lượng thân, ở trước vô-lượng chư Phật ở 10 phương đồng thời niệm Phật. Vì Thường niệm tất cả chư Phật Như Lai, nên Thường thấy tất cả chư Phật ở mười phương Tịnh-độ.
Đây gọi là “ỨC-NIỆM NHỨT-THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH-GIỚI TRÍ-HUỆ QUANG-MINH PHỔ-KIẾN”. Còn gọi là: “PHỔ-QUANG MINH TRÍ” SÁT-NA TẾ TAM MUỘI.”
Cảnh giới nầy, cũng giống như LỄ PHẬT “không còn năng lễ sở lễ”.
Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,
Ngã thử đạo-tràng như Ðế-châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
Tóm lại, nếu “Qúy-vị” tu Tử Liên Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp, không còn năng niện sở niệm, thì gặp được chư Phật ở 10 phương “TỊNH ĐỘ” làm “THIỆN TRI THỨC”.
VÌ gặp được 10 phương chư Phật làm “ THIỆN TRI THỨC” , nên được pháp Giải-thoát không thể nghĩ bàn, mau chứng qủa Bồ-đề của Phật, rồi mới “TỰ-TẠI” vào Lục-đạo để cứu độ tất cả Chúng-sanh “MÀ KHÔNG BỊ THOÁI CHUYỂN”, hoặc “THUẬN” hoặc “NGHỊCH” tùy ý của “QÚY-VỊ”.
Kệ tụng:
Vi diệu nan tư tử liên hoa
Bồ đề tốc chứng giải thoát pháp
Diện kiến thập phương Phật-đà-da
Tùng kim bất lạc lục đạo gia.
Kinh sách tham khảo:
1) Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
– Phẩm Nhập Pháp Giới
– Phẩm Nhập Bất Tư Nghì Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện
2) Kinh Đại-Bát Niết-Bàn
3) Kinh Nhật Tụng
Tử-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Hai Mươi Mốt
Phật Ra Xá Da [40]
Án– tát ra tát ra, phạ nhựt-ra ca ra, hồng phấn tra.