LUẬN HIỂN THỨC
(Xuất xứ từ LUẬN VÔ TƯỚNG)
Tam tạng Chân Đế dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
Tất cả 3 cõi duy chỉ có thức. Sao như vậy? Ba cõi có 2 thứ thức: 1. Hiển thức. 2. Phân biệt thức. Hiển thức , tức bản thức. Bản thức này chuyển làm 5 trần 4 đại. Cái gì là phân biệt thức? Tức ý thức. Trong hiển thức, phân biệt ra nhân, thiên, dài, ngắn, lớn, nhỏ, nam, nữ, cây cối, dây bìm các vật v.v… phân biệt tất cả pháp. Thức này phân biệt pháp trần, gọi là phân biệt thức. Ví như dựa vào tấm gương ảnh của sắc được hiện. Cũng như vậy duyên vào hiển thức, phân biệt thức được khởi. Sự phân biệt này nếu khởi, an lập sức huân tập vào thức A-lê-da. Do sức huân tập này bản thức vị lai được sinh. Duyên hiển thức vị lai này, phân biệt thức vị lai được khởi. Do nghĩa của nhân này, cho nên sinh tử không có trước sau. Để làm rõ nghĩa này, trong Kinh Giải Tiết, Phật nói kệ rằng:
Hiển thức phân biệt khởi,
Phân biệt khởi huân tập,
Huân tập khởi hiển thức,
Nên sinh tử luân chuyển.
Nói huân tập, là: 1. Chấp trước tính phân biệt. 2. Quán tập tính chân thật. Do 2 nghĩa này nên gọi là huân tập.
Huân tập thứ nhất, là tăng trưởng thức A-lê-da, thức A-lê-da bị tăng trưởng, đầy đủ các công năng có thể sinh lục đạo thụ sinh các thức. Vì nghĩa đó sinh tử đầy đủ.
Huân tập thứ hai, gọi là quán tập tính chân thật. Huân tập này có thể trừ tính phân biệt chấp trước. Đó là cái huân tập thứ nhất bị tổn hoại, cho nên thức A-lê-da cũng bị tổn.
Thức A-lê-da đã bị tổn, thức thụ sinh cũng bị tổn. Vì thức A-lêda có thể sinh 3 cõi, do bị tổn nên được 3 cõi chuyển. Dựa vào đây, nghĩa chuyển y có 5 thứ, như trong tướng sai biệt của diệt có giải nói.
Hiển thức có 9 thứ: 1. Thân thức. 2. Trần thức. 3. Dụng thức. 4. Thế thức. 5. Khí thức. 6. Số thức. 7. Bốn thứ ngôn thuyết thức. 8. Tự tha dị thức. 9. Thiện ác sinh tử thức.
Tiếp đến phân biệt thức có 2 thứ: 1. Hữu thân giả thức. 2. Thụ giả thức, trong 9 thức ở trước.
Thứ nhất, thân thức, là chuyển tác tương tự như thân, nên thức gọi là thân thức. Nói tương tự là như chấp tướng mạo tương tự của thân mà chẳng phải chân thật nên nói tương tự thân. Thức này có thể làm thân tương tự, nên gọi là thân thức, tức là 5 căn. Ngoài ra trần v.v… 8 thứ thức cũng như vậy, tức là nghĩa của duy thức. Nói thân thức là có 5 thứ, tức nhãn căn giới v.v… Đó là thân thức, nói chung là 5 căn.
Thứ 2, trần thức, cũng có 6 thứ. Sắc giới v.v…cho đến thức trần, gọi chung là ứng thụ thức.
Thứ 3, dụng thức, là 6 thức nhãn thức giới v.v…, tức 6 thức, trong Đại Luận gọi đó là chính thụ thức.
Thứ 4, thế thức, có 3 thứ, tức 3 đời: quá khứ vị lai hiện tại. Lại sinh tử liên tục không dứt nên gọi thế, tức là đời.
Thứ 5, khí thức, Đại Luận gọi là xứ thức, lược tức khí thế giới.
Nghĩa là ngoài 4 đại 5 trần, rộng tức 10 phương 3 cõi v.v… Thứ 6, số thức, tính toán đo lường.
Thứ 7, 4 thứ ngôn thuyết thức, nghĩa là 4 thứ kiến, văn, giác, tri, tất cả ngôn thuyết không ra ngoài 4 thứ này. Nếu không nói thấy, tức nói nghe. Hay, biết cũng vậy
Thứ 8, tự tha dị thức, là căn cứ vào xứ đều khác, 6 nẻo không giống nhau. Y xứ tức là thân. Sáu thú thân là tự tha dị thức.
Thứ 9, thiện ác thú sinh tử thức, là tất cả sinh tử không lìa 2 đường. Thiện là nhân thiên, ác là 4 nẻo. Thiện ác đạo này không lìa sinh tử, tức sinh tức diệt không dừng trụ.
Lại hữu thân giả thức bị ngã kiến che lấp. Thức này bị ngã kiến tham ái che lấp nên thụ sinh 6 nẻo đường. Thức này là thân sinh tử. Nếu có thức này tức có thân thức. Thức này nếu hết thì thân sinh tử hết. Ngã kiến sinh tất cả nhục hoặc. Tham ái sinh tất cả bì hoặc. Cho nên có thân sinh tử. Nếu lìa ái ngã kiến tức không có bì nhục phiền não. Nếu không có bì nhục phiền não tức không có tam giới thân. Cho nên thân thức thụ sinh tử.
2. Thụ giả thức. Ý giới gọi là thụ giả. Thức tức 3 thứ ý thức: 1. A-lê-da thức, là ý thức thuộc tế phẩm, hằng thụ quả báo, không thông thiện ác, chỉ là vô phú vô ký. 2. Đà-na-thức, là ý thức thuộc trung phẩm, chỉ thụ quả báo thân phàm phu. 3. Ý thức thường rõ ràng, là ý thức thuộc thô phẩm, thông thụ quả 3 tính thiện ác vô ký.
Năm thức cũng vậy. Ba phẩm ý thức này có thể thông quả báo thụ dụng. Có điều là nay căn cứ váo sự hưng phế mà nói, nên gọi Lêda thức là thụ giả thức. Lại Lê-da thức là chỗ mà phàm phu chấp ngã, do Đà-na chấp Lê-da thức làm ngã cảnh. Năng chấp chính là Đà-na. Thức thứ 7 là thể của ngã kiến. Phân biệt thức có 2 thứ: 1. Hữu thân thức 2. Thân giả thức. Hợp gọi là ý căn. Vốn là căn nhiễm ô tức Đàna thức. Hai là lần lượt duyên thể của ý căn, tức duyên bản thức làm ngã cảnh, tự xuất duyên kia lảm rõ hiển thức có 9 thứ. Như trên, hiển thức chỉ là Lê-da. Nếu là phân biệt thức tức Đà-na và ý thức. Đà-na phân biệt ngã. Ý thức phân biệt vạn pháp. Ý thức có 3 thứ phân biệt . năm thức chỉ có tự tính phân biệt. Huân tập có 4 thứ phương tiện: 1. Nhẫn. 2. Danh. 3. tướng. 4. Thế đệ nhất pháp. 1. Nhẫn có 2: một rộng, hai sơ lược. Tất cả chúng sinh đều mê tính chân thật. Nay tu tập trước quán rộng, tiếp quán sơ lược được nhập chân thật. Nói rộng, tức quán 4 đế. Khổ tập tức là phàm phu tục đế. Diệt đạo tức là thánh nhân chân đế. Đều có 9 thứ quán khổ 9 phần, tức 3 cõi đều có 3 đời thành 9. Lại Dục giới 1 hữu, Sắc giới 4 hữu, Vô sắc giới 4 hữu, nên là 9 thứ. Tập đế 9 phần, tức là 9 kết phần, diệt 9 kết này là 9 diệt đế. Đạo đế 9 phần, là 9 thứ tự Tam-ma-đề, tức 9 thứ tự của định. Tiếp đến quán sơ lược, trước tiên quán khổ đế làm 8 thứ, là quán 4 đại 4 tên 4 đại, tức sắc ấm 4 tên tức 4 ấm, làm 8 thứ. Khổ tập có 8, tức 8 tà, 8 thánh đạo. Diệt đế 8 thứ, là diệt 8 tà, tức gọi là 8 thứ diệt. Đạo đế 8, là tu 8 thánh đạo làm đạo đế.
Tiếp lại lược quán khổ làm 7: 6 thú và trung ấm. Tập 7 tức 7 sử. Bảy sử là tham sân si mạn nghi kiến Dục giới dục gọi là dục sử. Sắc, Vô sắc giới gọi là hữu sử. Hợp làm 7 sử. Diệt 7 sử gọi là 7 thứ diệt. Đạo đế 7, tức 7 giác phần.
Tiếp lược quán khổ làm 6 thứ, là 6 thứ nội nhập. Tập 6 thứ, là 6 thứ tham ái, tức 6 trần sinh 6 thứ tham. Diệt 6 tham là 6 diệt. Đạo 6, là 6 thứ xuất ly giới: 1. Xuất ly sát tha sân, tu từ giới. 2. Xuất ly bức não sân, tu bi giới. 3. Xuất ly tật đố sân, tu hỷ giới. 4. Xuất ly tham dục, tu xả giới.. 5.Xuất ly giác quán, huân tu niệm xuất nhập tức giới. 6. Xuất ly vô minh hoặc, tu vô ngã giới. Tu 6 thứ này gọi là ra khỏi phạm vi lãnh vực này.
Tiếp lược quán khổ làm 5, tức 5 ấm. Tập là 5, tức 5 cái. Diệt 5 cái này là 5 thứ diệt. Đạo 5, tức 5 căn, cũng tức 5 lực v.v…
Tiếp lược quán khổ 4 thứ, tức 4 niệm xứ: thân, thụ, tâm, pháp. Tập 4, tức 4 thủ cũng tức là 4 lưu. Bốn thủ là, thủ chỉ là tham. Có 4 thứ tham, tức là thủ có 4 thứ: 1. Dục thủ. 2. Kiến thủ. 3. Giới thủ. 4. Ngã ngữ thủ. Ngã ngữ thủ là nội thủ duyên nội 5 ấm. Tham Sắc Vô sắc 8 thiền định nội pháp, gọi là ngã ngữ thủ. Trong đó thủ gọi là ngã ngữ thủ. Nếu tham Dục giới trần là ngoại pháp, gọi là Dục thủ. Dục thủ là chúng sinh đoạn kiến. Ngã ngữ thủ là chúng sinh thường kiến. Hai pháp này duyên sự khởi. Kiến thủ, giới thủ lấy thường kiến duyên lý khởi. Bốn thủ này là thụ tư lương, nói rõ thụ, ái, hữu 3 thứ: 1. Xa lìa tham ái, tức tất cả chúng sinh trong 3 đường. 2. Cầu được tham ái, tức nhân thiên đến 3 không. 3. An trụ tham ái, tức phi tưởng phi phi tưởng, gọi là Niết-bàn. Giống như 4 thứ thủ gọi là tập đế, diệt 4 thủ gọi là 4 diệt đế. Đạo đế 4, là 4 niệm xứ, tức là 4 thứ Bát-nhã: quán thân thông đạt khổ đế, quán thụ thông đạt tập đế, quán tâm thông đạt diệt đế, quán pháp thông đạt đạo đế. Quán thân là thô, quán thân 3 cõi thô là khổ, quán thân Dục giới lạnh nóng v.v… là khổ, quán thân Sắc giới 4 oai nghi là khổ, quán thân Vô sắc giới tâm niệm niệm không trụ là khổ. Quán thụ thông đạt tập đế, là chúng sinh tất cả tham ái duyên thụ nên khởi, vì nếu không thụ thì tham ái không sinh, nên quán thụ thông đạt tập đế. Nếu quán tâm thông đạt diệt đế, là tất cả chúng sinh an lập ngã kiến trong tâm, cho nên chúng sinh chấp ngã kiến thì không tin có diệt. Chỉ do Đà-na thức chấp Lê-da là một là thường cho nên thể của ngã chẳng phải diệt. Quán tâm chẳng phải ngã nên tin có diệt vì xả ngã kiến. Quán nhân pháp 2 vô ngã nên quán tâm thông đạt diệt đế. Quán pháp thông đạt đạo đế, là pháp có 2: 1. Tịnh phẩm. 2. Bất tịnh phẩm. Quán bất tịnh phẩm là khổ tập. Tịnh pháp là diệt đạo. Lại bất tịnh phẩm tức tất cả các hoặc, tịnh phẩm là tất cả trị đạo, cho nên phải thông đạt đạo đế.
Tiếp lược quán khổ 3 thứ, tức quán 3 cõi là khổ. Quán Dục giới là khổ khổ. Quán Sắc giới là hoại khổ. Sinh trụ không dừng, khi cái vui hoại tức là khổ nên hoại khổ. Quán Vô sắc giới là hành khổ. Sinh trụ hoại 3 thời đều khổ. Có điều chúng sinh có 2 đường: đường ác là khổ, đường thiện là vui. Xả nhị biên này gọi là Niết-bàn. Tâm này có hành có động, cho nên vô thường cho nên khổ. Tập có 3, tức 3 độc. Lại 3 thứ thân kiến, giới thủ, nghi. Thân kiến, là chúng sinh chấp trước thân kiến, chấp có thường lạc ngã tịnh nên trụ sinh tử không tu đạo xuất thế. Giới thủ, là không chịu tu chính đạo. Nghi, là nghi ngờ không quyết định diệt đế. Diệt 3 thứ phiền não này tức là 3 diệt đạo. Ba là giới định tuệ.
Tiếp lược quán khổ là 2, là thân, tâm, hay danh, sắc cũng vậy. Tập 2, là trong 12 nhân duyên là vô minh tham ái. Diệt 2 thứ này là 2 thứ diệt. Đạo đế 2, tức đinh, tuệ.
Tiếp lược quán khổ là một, là vô thường là khổ. Tập, là không chính tư duy. Diệt cái tư duy này là diệt. Đạo, là thân niệm xứ, tức quán chung 4 niệm xứ gọi là thân niệm xứ. Lại nghĩa như chính tư duy là đạo đế, bất chính tư duy là tập đế. Muốn khiến thật tuệ phân minh nên làm ra rộng và lược 2 thứ quán. Quán khổ tất cả pháp làm ra 9 phần cho đến 1 phần. Còn 3 đế khác cũng vậy. Ngữ ngôn và phân biệt huân tập có 4 thứ phương tiện xứ. Ngữ ngôn huân tập là từ tên nhẫn cho đến tự tính pháp xứ. Nói xứ, tức tên là sở, và cảnh giới là xứ. Phân biệt huân tập từ tướng đến đệ nhất tất cả pháp tu đắc. Tất cả tu đắc pháp xứ, là từ hạ phẩm cho đến tướng thượng phẩm tướng đệ nhất tất cả là xứ. Nếu người dựa vào tên mà tư duy lựa chọn thì gọi là ngữ ngôn huân tập. Nếu người lìa danh cú v.v… đi thẳng vào nghĩa mà tư duy lựa chọn thì gọi là phân biệt huân tập. Đó là hiển thức hiển thị 2 thức sau. Hai thức là: 1. Bốn thứ ngôn thuyết thức. 2. Tự tha sai biệt thức. Làm rõ 2 thức này ngoài 7 thứ thức khác và phân biệt thức. Tám thứ thức này duyên ngữ ngôn huân tập được khởi. Lại 2 thức là: 1. Thân thức. 2. Thụ giả thức, và tự tha dị thức, 3 thức này duyên thân kiến huân tập được sinh. Lại, thiện ác sinh tử thức duyên hữu phần huân tập được khởi. Như vậy các thức gọi là tất cả 3 cõi duy chỉ có thức.
Luận nói:
Tất cả 3 cõi chỉ có thức
Hỏi: Tất cả pháp chỉ là 3 cõi. Cần gì nói ra làm 2?
Đáp: Có 2 nghĩa: 1. Phân đoạn là tam giới, biến dịch là ngoại giới. Bốn thứ sinh tử là tất cả. 2. Nói rộng là tất cả. Sao gọi là 10 phương? Mười phương không phải 3 cõi. Nói tất cả, là nói 3 cõi. Nay duy chỉ có thức, là 7 thứ chết ở trên duy chỉ có thức hiển hiện, vì lìa thức không có một thể riêng biệt nên nói 3 cõi duy chỉ có thức. Giới là cõi, là nghĩa tự tính. Tự tính có 2: Một là tính có nghĩa không xen tạp, tính của Dục khác với Sắc, Sắc chẳng phải Vô sắc. Hai là tính có nghĩa không đổi không chuyển, Dục là Dục, Sắc là Sắc, Vô sắc là Vô sắc. Thiện ác cũng vậy. Ba tính không đổi là nghĩa. Chỉ có thức, nghĩa là lìa thức không có cảnh nào khác. Do thức thấy tựa như có trần, lìa thức thì trần là vô thể.
Luận nói:
Thức là gì? Đó gọi là 3 cõi.
Giải thích:
Trước nói lìa thức không có 3 cõi. Nay nói lìa 3 cõi không có thức. Lại, trước nói cái dụng của 2 thức.
Luận nói:
Thức có 2 thứ: 1. Hiển thức. 2. Phân biệt thức.
Giải thích:
Một thức đầu tiên gọi là bản thức. Bản thức hiển 6 trần. Một thức tiếp theo là 6 thức. Sáu thức phân biệt đây khác kia. Lại, trước một nói sở duyên. Sau một nói năng duyên. Với hiển thức, có 2 thứ hồi chuyển: 1. Hồi chuyển tạo tác ra 6 trần. 2. Hồi chuyển tạo tác ra 5 căn.
Tiếp phân biệt thức hồi chuyển tạo tác ra mường tượng tựa ngã. Như vậy ý chấp 2 thức cho là ngã. Tức Đà-na với ý thức hợp lại tạo ra ngã kiến. Đà-na chấp bản thức khởi tướng ngã thể. Ý thức phân biệt chấp ngã có nhiều dụng sai biệt. Cho nên tất cả pháp chẳng có chẳng không, do 6 trần có 6 thức, không thể nói nhất định là không. Lìa 6 thức không có 6 trần, không thể nói nhất định là có. Lại tất cả pháp không thể nói nhất định là có, cũng không thể nói nhất định là không. Nhân pháp 2 ngã là không thật cho nên không thể nói là có. Chân thật có nhân pháp 2 không, cho nên không thể nói là không. Lại, nghĩa tất cả pháp quyết định có quyết định không. Nhân pháp quyết định không. Nhân pháp 2 không này là quyết định có. Cả 3 này hiển tục thì đều là có, hiển chân thì đều là không. Hai nói dụng của thức.
Luận nói:
Phân biệt thức này nếu khởi thì an lập sức huân tập trong thức A-lê-da.
Giải thích:
Sức huân tập, là ví như đốt hương xông vào áo, vật thể của hương mất mà mùi hương còn ở trong áo gọi là xông hương cho áo. Hương này không thể nói có, vì vật thể của hương mất rồi. Không thể nói không, vì còn mùi hương. Cho nên gọi là huân, tức là xông ướp. Như 6 thức khởi thiện ác, lưu giữ sức huân tập trong bản thức, có thể được báo vị lai, gọi là chủng tử. Nếu theo nghĩa của Tiểu thừa Chính lượng bộ, gọi là không mất. Ví như khoán ước. Cho nên Phật nói kệ:
Các nghiệp không mất,
Trong vô số kiếp,
Đến khi tu tập
Cho báo chúng sinh.
Ma-ha-tăng-kì kha bộ gọi là nhiếp thức, tức là bất tương ưng hành. Ví như tụng kinh, mới tụng một biến lần đầu chưa được. Tụng biến thứ 2 là có chấp trì lần thứ nhất trước. Như vậy cho đến khi tụng biến thứ 10 thông suốt, tức thông suốt 9 lần trước. Như vậy sơ thức ở trong lần thứ nhất có thể biến đổi khác cho đến trong lần thứ 10 có sự biến đổi của 9 lần trước, tức cái dụng của sự biến đổi lần thứ 10 này gọi là nhiếp thức. Có 9 cái dụng trước nên không mất 9 lần trước, Tát-bà-đa bộ gọi là đồng tùy đắc. Đồng, nghĩa là cùng với những lần khác nơi khác đều bằng nhau. Tùy, nghĩa là với 3 tính không hại nhau, mà được nghĩa là không mất. Đồng cũng không mất, tùy cũng không mất. Ví như Ma-đẩu-lâu, đây gọi là Du hoa, lấy nước ép Lạckha, tức nước ép màu đỏ điểm vào nhụy hoa Ma-đẩu-lâu, nhụy hoa đều có màu đỏ, sau ra quả chín có màu đỏ. Đó gọi là đồng thời tu đắc. Màu đỏ cho đến khi ra quả không mất cho nên gọi là đồng như trước cho ra màu đỏ. Đó là đồng tu đắc. Màu đỏ đến quả không mất nên gọi đồng như trước cho đến sau không mất gọi là tùy. Theo cho đến hiển thị sau cùng nên gọi là đắc. Như vậy Tì-lê bộ gọi là hữu phần thức thì hữu là tam hữu, tức 3 cõi, cũng có hữu là 7 hữu: 1. Trung hữu. 2. Sinh hữu. 3. Nghiệp hữu. 4. Tử hữu, thông với 3 hữu trước thành 7 hữu. Dục, Sắc 2 cõi đủ 4 hữu. Nếu Vô sắc giới thì không có trung hữu. Trung hữu, là chính nói tên là hướng sinh xứ. Xứ, là có nhân duyên gọi là xứ, như 12 nhân duyên. Hữu chi là sự hữu nên gọi là sự hữu, là sự sinh nên gọi là sự sinh. Hữu, là nhân. Nhân có 2: Một là nhân trước, hai là nhân đồng thời. Như hạt quýt nảy mầm là nhân trước. Mầm sinh tức đồng thời có cây quýt là nhân đồng thời. Hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên 6 nhập, 6 nhập duyên xúc, thụ v.v… là đồng thời. Sở dĩ nói là sự hữu cho nên là sự hữu, là để phá cái nghĩa sinh hữu của ngoại đạo. Nghĩa của ngoại đạo nói rằng tất cả chúng sinh từ nơi cái ngã hữu của trời Tự Tại thiên nên sinh tử là hữu, nói nội nghĩa đồng như nhau. Nay phá do nhân trước sinh nên được sinh. Trời Tự tại thiên của ông là vô hữu, chẳng phải sinh sinh tử, vì hữu là sinh nên không được là hữu. Cho nên cái không được là hữu, đó là hữu. Cho nên Phật lập nghĩa, là sự hữu tức hữu sinh. Trời Tự Tại thiên của ông là hữu chẳng phải là sinh. Sinh đó không đồng với nội nghĩa. Cho đến từ thế tính, vi trần v.v… sinh, cũng vậy. Lại, ngoại đạo lập không nhân có quả, quả tự nhiên sinh, cho nên phá ngoại đạo. Vật này có là nhân có nên có quả sự. Sở dĩ nói 2 nghĩa, là nói nhân duyên đầy đủ nên được sinh. Nếu vật này có cho nên vật này có là duyên. Nếu vật này sinh nên vật này sinh, là nói nghĩa của nhân. Hữu phần, là sinh xứ, tức là sinh nhân sinh duyên. Thể của hữu phần thức này là quả báo pháp quyết là tự tính vô ký.
Bốn hữu, là từ thức chi đến 6 tuổi là sinh hữu. Từ 7 tuổi trở lên có thể phân biệt sinh thục khởi tham, đến chưa xả mạng là nghiệp hữu. Tử hữu, là chỉ trong 1 niệm hữu, tức trung ấm. Vào trong nghiệp hữu, 6 thức khởi 3 thứ nghiệp: thiện, bất thiện, bất động. Hữu là hữu vi, hữu phần thức nhiếp trì 6 thức tự tạ diệt, do công dụng sức nhiếp trì của hữu phần thức mà tồn tại.
Hỏi: Vì sao lập hữu phần thức? Trong một thời kỳ sinh thường duyên một cảnh. Nếu sinh cõi người cõi trời thức này thấy lầu quán các việc báo, nếu khởi 6 thức, dùng thô che chướng thì không biết cái dụng của thức này. Nếu sinh ác đạo, thức này chỉ duyên lửa, xe v.v…, nếu báo khởi 6 thức, dùng cường thì không biết thức này duyên. Nếu Dục giới 6 thức duyên dục cảnh, phàm phu không thể biết. Cho đến Vô sắc cũng vậy. Nếu Vô sắc các thức diệt, dùng hữu phần hức này thì hiển, như Lê-da và ý thức vậy.
Nói chủng tử, là cái tương tục này biến đổi khác có thể cảm quả báo vị lai, gọi là chủng tử. Tương tục không biến đổi cũng chẳng phải chủng tử. Nếu chỉ biến đổi không tương tục cũng chẳng phải chủng tử. Tương tục biến đổi không tách rời nhau nên thành chủng tử. Như con ốc với màu trắng chẳng phải một chẳng phải khác. Nếu màu trắng là ốc, thì ốc không có 3 trần. Nếu màu trắng khác ốc thì thấy màu trắng không được ốc. Không thể nói nhất định khác, bởi không khác cho nên gọi là ốc trắng. Tương tục và biến đổi cũng vậy cho nên thành chủng tử. Duyên sức huân tập này bản thức vị lai được sinh.
Giải thích:
Duyên sức huân tập, chủng tử nếu thành, bản thức được sinh. Duyên vị lai hiển thức, vị lai phân biệt 6 thức được sinh. Cho nên sinh tử không trước sau, là nếu lìa nghiệp phiền não thì không được sinh. Nếu sinh tử có phần trước, thì có riêng nơi phần trước chúng sinh khởi nghiệp phiền não cảm nơi phần trước. Đã không có chúng sinh phần trước khởi nghiệp, thì không có sinh tử phần trước. Cho nên biết sinh tử là vô thủy là không có bắt đầu. Bốn nghĩa nói rõ cái không:
1. Chẳng phải gốc. Nếu chúng sinh ban đầu không sau có, thì cái không này không làm có gốc. Có 2 thứ lỗi: 1. Nếu không không thể sinh sau. Nếu có thể sinh có tức chẳng phải không. 2. Lỗi bình đẳng. Nếu hư không sinh ra hoa, thì có thể từ không sinh có.
2. Không thấy chúng sinh lìa dục sinh, cho nên sinh tử không có cái bắt đầu. Nếu sinh tử ban đầu không tham dục v.v… sau mới có tham dục v.v…, thì A-la-hán v.v… không dục cũng phải sinh dục. Bởi La-hán không sinh dục trở lại nên biết sinh tử không có cái bắt đầu.
3. Vi tu hành phạm hạnh vô dụng nên sinh tử không có bắt đầu. Tất cả thánh nhân tu 8 thánh hạnh để diệt khiến không sinh, vì người tu phạm hạnh lìa dục không sinh diệt nữa, nên biết sinh tử không có bắt đầu.
4. Sinh tử có 2 thứ: một là ác báo, hai là thiện đạo. đó là thiện ác do 2 nhân thiện ác, không được không có nhân. Là sinh tử thì bắt dầu là thiện đạo hay ác đạo? Nếu là thiện đạo thì chưa có nhân thiện. Nếu ác đạo thì chưa có nhân ác. Lìa 2 đường thiện ác không có con đường thứ ba, cho nên biết không có bắt đầu.
Hỏi: Ban đầu tự nhiên không dùng nhân duyên, sau phải có nhân duyên.
Nếu vậy không đúng, vì có 2 lỗi. Một là lý không bình đẳng. Hai là nhân quả không giống nhau. Nếu ông nói sinh tử không do nhân, sau mới do nhân là không bình đẳng. Ban đầu hay sau đều là sinh tử, tại sao một thì do nhân một lại không do nhân? Hai là không giống nhau, là quả cũng có nhân, nhân cũng có nhân. Nhân quả đều có nhân cho nên được giống nhau. Nếu giống nhau thì có thể sinh đồng loại. Nếu như ông nói trước không nhân, thì sau cũng phải không nhân. Nếu trước không nhân, sau có nhân, thì không thể sinh. Nếu sinh được thì đậu phải sinh lúa mì, lúa mì cũng phải sinh đậu, mà không như vậy cho nên biết lập luận của ông không thành. Bài kệ Phật nói câu đầu hiển thức tức là Lê-da. Lê-da tức quả báo thức. Phân biệt thức tức là phiền não thức. Đó là từ quả báo thức khởi phiền não thức. Phiền não thức tức Đà-na v.v… Câu tiếp theo nói từ phiền não khởi thức, thức khởi huân tập. Huân tập tức là công năng của nghiệp có thể chuyển biến bản thức thành chủng tử thức. Câu tiếp theo là từ nghiệp khởi quả báo. Câu tiếp theo nữa tổng kết sinh tử luân chuyển. Luân chuyển là vì bất định nên hoặc nhân chuyển thành quả hoặc quả chuyển làm nhân.
Nói huân tập có 2 thứ, dưới đây là hiển 2 nghĩa: 1. Hiển sinh tử phương tiện gọi là tà, cũng gọi là trái nghịch. 2. Hiển Niết-bàn phương tiện gọi là chính., cũng gọi là tùy thuận chấp trước. Tính phân biệt, là tất cá các pháp có 3 thứ tính: 1. Tính phân biệt. 2. Tính y tha. 3. Tính chân thật. Tính phân biệt, là nói hiển thị các pháp bằng danh ngôn. Tính y tha, là hiển thị các pháp bằng đạo lý nhân quả. Tính chân thật, là hiển thị tất cả các pháp bằng tính như như. Phân biệt, thì vô tướng là tính. Y tha thì vô sinh là tính. Nói tính có 5 nghĩa: 1. Tự tính chủng loại nghĩa. Tất cả những thứ như cái bình, cái áo v.v… không tách rời nghĩa loại của 4 đại chủng. Đồng là tính của 4 đại là tự tính nghĩa. 2. Nhân tính nghĩa. Đạo lý sở duyên của tất cả thánh pháp 4 niệm xứ. Duyên đạo lý này có thể sinh thánh pháp cũng là nghĩa của nhân. 3. Sinh nghĩa. Nếu vật không sinh thì không thể thấy cái tính. Thấy được nghĩa của sinh nên tính sinh. Năm phần pháp thân là nghĩa của sinh tính. Như Lai nói chúng sinh tín lạc sinh 3 thứ tín: 1. Tin có đạo lý chân thật. 2. Tin được công đức 5 phần pháp thân. 3. Đức tự lợi lợi tha tu đầy đủ 5 phần thân. Năm phần thân sinh thì hiển thị tính chí đắc. Cho nên 5 phần pháp thân sinh, lấy đó làm nghĩa của tính. 4. Bất hoại nghĩa. Cái tính này ở phàm phu không nhiễm ở thánh không tịnh. Cho nên gọi là bất hoại, nghĩa là không hư hoại. 5. Bí mật tạng nghĩa. Gần gũi thì hành tịnh, trái nghịch thì xa lìa. Pháp này sâu kín khó được nên gọi là bí mật, tức gọi là nghĩa chôn giấu. Sinh có 4 thứ: 1. Xúc sinh. Như nam nữ giao hợp sinh con. 2. Khứu sinh. Như các loại bò dê v.v… con cái con đực có dục tâm, con đực dùng mũi ngửi căn của con cái thì có con. 3. Sa sinh. Như gà, chim sẻ v.v… Con chim sẻ mái có dục tâm, vùi mình dưới đất cát mà có trứng sinh con. 4. Thanh sinh. Như các loài chim hạc chim công v.v… có dục tâm nghe tiếng con trống kêu cũng sinh trứng sinh con. Tất cả trứng ấy đẻ ra không được ăn vì đều có con. Tính phân biệt, là vô hữu không, vì không có pháp phân biệt nào có thể có được. Tính y tha, là bất như không, như thế phá sở chấp. Tính chân thật, là tự tính không. Không có nhân pháp 2 ngã, là tự tính không.
Lại nữa tính phân biệt như không hoa, là cực vô. Tính y tha khác với không hoa, tựa như ảo hóa chẳng phải không hữu vô, vì quán tính y tha không có không không, cho nên có thể đắc đạo thành thánh. Không vô, là đoạn quán, không vô không thể đắc đạo thành thánh. Tất cả phiền não chấp trước tính phân biệt. Tất cả các pháp dục lạc quán tập tính chân thật. Chấp trước và quán tập, 2 cái này thuộc tính y tha. Hai pháp này gọi là huân tập: 1. Huân tập chủng tử phiền não. 2. Huân tập chủng tử đạo. Cái huân tập thứ hai tăng trưởng bản thức vì đồng loại. Bản thức duyên như như khởi tứ báng là hư vọng. Huân tập chủng tử phiền não đồng là hư vọng. Cho nên huân tập có khả năng tăng trưởng bản thức. Ví như vật ngọt có thể làm tăng trưởng cái nhạt. Nhạt cũng là tính ngọt. Đồng tính nên có thể làm tăng trưởng. Đầy đủ các năng lực, là nói nghiệp có 4 thứ: 1. Bị làm, không bị phát triển. Như người có trí gặp ác tri thức, khởi bất thiện nghiệp, đó là làm. Nhưng rồi sau hối hận, đó là không bị phát triển. 2. Bị phát triền, không bị làm. Như người biết xấu hổ, theo người tu hành. Cái thiện này được phát triển, không tự khởi tâm nên không làm. 3. Cũng làm, cũng phát triển. Như người làm thiện nghiệp, lại thường xuyên tập, thiện nghiệp này trở nên rộng lớn. 4. Không làm, không phát triển, tức vô lậu thiện nghiệp. Nếu tăng trưởng báo sinh tử, gọi là tác giả. Vô lậu có thể trừ sinh tử tác giả, cho nên không phát triển. Trước 3 là nghiệp. Sau một phần là chẳng phải. Vào trong 3 cái trước lấy câu thứ 3: Cũng làm cũng phát triển. Cho nên nói là đầy đủ các pháp. Có thể sinh lục thú, là tức có thể được quả báo sinh tử trong 6 nẻo. Sinh nhân của thức A-lê-da, cái nhân của thân sinh tử viên mãn này huân tập phương tiện cho nên thành sinh tử. Cho nên nói nghĩa nhân này là sinh tử viên mãn. Thứ hai, quán tập tính tính chân thật. Quán 3 thứ vô tính, gọi là quán tập tính chân thật. Quán có 4 dụng: 1. Trừ quán. 2. Diệt quán. 3. Chứng quán. 4. Tu quán. Quán như như là khổ đế tính tính, 3 đế cũng vậy. Quán 4 đế như như đủ 4 dụng. Quán như như diệt khổ diệt tập. Quán như như tức chứng diệt. Hiểu như như tức tu đạo, có thể trừ chấp trước. Tính phân biệt, là phân biệt trong cái không làm có. Quán chân thật, là rõ hữu trái nhau vô với tự tính cho nên nói trừ. Tính phân biệt là đệ nhất huân tập. Bị tổn hoại, là hiện tại bị tổn vị lai bị hoại. Nếu tổn tập đế, khổ cũng bị tổn. Thức A-lê-da bị tổn, là vốn có 7 lớp khổ đế. Ba cõi tức là 3 lớp. Ba lớp bị tổn rồi thức A-lê-da thụ quả báo. Vốn tuy không bị hoặc nghiệp dẫn không sinh lại vào 3 cõi, mà ở trong cõi vô lưu nội thụ sinh trong 4 thứ sinh tử. Như vậy cho đến không có sinh tử vị. Lê-da bị tổn cho nên thụ sinh cũng bị tổn. Bởi vì sao? Hiển thức là phân biệt thức. Do hiển thức bị tổn cho nên biết phân biệt thức cũng bị tổn. Cái thức phân biệt nhân ngã và 6 trần v.v… đã diệt hết, đâu chỉ bị tổn. Nay nói bị tổn là căn cứ tịnh phẩm mà nói. Đây với bản thức đều hết là A-lê-da có thể diết trừ./.
HẾT