SỐ 1583/1
KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI
(ƯU BA LY HỎI PHÁP THỌ GIỚI BỒ TÁT)
Hán dịch: Đời Lưu Tống, Sa môn Cầu Na Bạt Ma, người nước Kế Tân
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
Bồ-tát Ma-ha-tát thành tựu giới, thành tựu giới thiện, thành tựu giới tạo lợi ích cho chúng sinh, trước phải học đầy đủ giới Ưu-bàtắc, giới Sa-di, giới Tỳ-kheo. Nếu nói không đầy đủ giới Ưu-bà-tắc nhưng đạt được giới Sa-di thì không có điều đó. Không đủ giới Sa-di mà đạt được giới Tỳ-kheo, cũng không có điều ấy. Không đủ ba giới như vậy mà đạt được giới Bồ-tát, cũng không có việc này. Ví như nhà lầu bốn tầng có thứ lớp, không do tầng thứ nhất để đến tầng thứ hai, thì cũng không có việc này v.v… Bồ-tát đầy đủ ba thứ giới rồi, muốn thọ giới Bồ-tát, phải nên chí tâm không có tham chấp, xả bỏ tất cả vật trong ngoài, nếu không thể xả bỏ, tức không đầy đủ ba giới, trọn không thể đắc giới Bồ-tát.
Bấy giờ, người thọ giới tự quán xét thân mình như quán xét người trí, ở nơi chỗ vắng lặng lễ bái mười phương chư Phật, hướng về trước tượng phía Đông quỳ gối chấp tay thưa: “Đại Đức Phật, Bồ-tát Tăng mười phương xin lắng nghe! Nay con tên v.v…, cầu giới Bồ-tát, con đã đầy đủ giới Ưu-bà-tắc cho đến đầy đủ sự việc của người trí, thế nên con cầu giới Bồ-tát từ mười phương chư Phật, Bồtát Tăng. Nay mười phương chư Phật, Bồ-tát Tăng quán xét tâm con, nếu con có tâm bất tín, phá hủy tâm Bồ-đề, hoặc có tâm ác, tâm hư dối, thì chớ trao giới cho con. Nếu thật sự không có thì nên thương xót trao giới cho con”. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng thưa như vậy, chí tâm im lặng trụ nơi chuyên niệm, rồi nói: “Nay đã trao cho con giới Bồ-tát, con đã đắc giới Bồ-tát. Vì sao? Vì mười phương chư Phật, Bồ-tát đã dùng tha tâm trí quán xét tâm con, con có tâm chân thật, nên biết vì thương xót đã ban giới cho con. Nay con không có thầy, mười phương chư Phật, Bồ-tát là thầy”. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng thưa như vậy. Bấy giờ, mười phương chư Phật, Bồ-tát tức thị hiện tướng, là đã đắc giới.
Mười phương chư Phật, Bồ-tát bảo các đại chúng: “Nơi thế giới có người v.v… chân thật, thọ giới Bồ-tát, nay Ta vì thương xót đã trao giới. Nay người này không có thầy, Ta vì người này nên làm thầy, nay Ta hộ niệm đệ tử Ta”. Lúc ấy, người thọ giới liền đứng dậy đảnh lễ mười phương chư Phật, Bồ-tát. Đấy là tự yết-ma. Nếu có người trí, do kiêu mạn không theo đấy mà thọ, thì không đắc giới Bồ-tát, như là người phá giới. Nếu có người trí, hoặc ở phương xa, hoặc đất nước có loạn, hoặc bị bệnh nặng, hoặc vì lợi ích cho nhiều người, hoặc lại không có xứ thọ. Xuất gia, tại gia, hoặc có thể xả, có thể thí, thâm tâm lập nguyện cầu đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Bấy giờ, nếu người đồng có tâm Bồ-đề, đồng pháp, đồng ý, có thể thuyết, có thể dạy, đây là thiện tri thức. Người muốn thọ giới phải nên đến chỗ người này làm lễ, trịch áo bày vai phải, quỳ gối chấp tay nói: “Đại đức lắng nghe! Tôi nay theo Đại đức xin thọ giới Bồ-tát, giới đại tự tại, giới vô thượng, giới vô thắng. Đại đức! Đối với tôi vì thương xót, nên xin trao giới cho tôi”.
Nếu vị Đại đức này im lặng lắng nghe, người thọ giới nên đứng dậy sửa lại y phục, hướng đến mười phương ba đời chư Phật – Thế Tôn và chư Bồ-tát trụ nơi đại địa, đầu mặt kính lễ, tùy trí lực của mình tán thán công đức của chư Phật và chư Bồ-tát, ở trước Phật chuyên niệm Tam bảo, quỳ xuống chấp tay nói: “Đại đức! Nay con tên v.v… xin thọ giới Bồ-tát, Đại đức vì tâm thương xót nên trao giới Bồ-tát”. Nếu vị Đại đức im lặng lắng nghe, người thọ giới nên chí tâm chuyên niệm Tam bảo, sinh tâm hoan hỷ. Lại suy nghĩ: “Ta nay đã thành tựu được vô lượng vô biên công đức nơi bảo tạng vô thượng, sẽ được thọ trì giới của Bồ-tát”. Lại nên nhất tâm im lặng mà trụ.
Lúc này, người trí nói với người thọ giới: “Này thiện nam! Hãy lắng nghe! Nay ông có phải là Bồ-tát chân thật không? Có chân thật phát tâm Bồ-đề không?”. Người thọ giới đáp: “Đại đức! Đúng thật là vậy”. Người trao giới lại nói: “Ông có đầy đủ ba giới không?”. Đáp: “Đã đầy đủ”. Hỏi: “Có thể xả bỏ của cải trong ngoài không?”. Đáp: “Có thể xả bỏ”. Hỏi: “Có tham tiếc thân mạng và của cải không?”. Đáp: “Không tham tiếc”. Hỏi: “Ông có thể theo ta thọ giới của tất cả Bồ-tát, giới thâu giữ tất cả đạo Bồ-đề, giới tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh. Giới này như giới của mười phương ba đời chư Phật, Bồ-tát. Ông có thể thọ trì không?”. Đáp: “Có thể”. Lần thứ hai, thứ ba hỏi đáp cũng như vậy.
Bấy giờ, người trí nên xướng lời này: “Mười phương chư Phật, chư Bồ-tát, Đại đức Tăng lắng nghe! Nay có người tên v.v… cầu con, theo mười phương chư Phật, Bồ-tát Tăng xin thọ giới Bồ-tát. Đã đầy đủ ba giới, phát tâm Bồ-đề, là Bồ-tát chân thật có thể xả bỏ tất cả vật trong ngoài, không tiếc thân mạng. Nguyện mười phương chư Phật, chư Bồ-tát Tăng, vì thương xót nên ban cho người này giới Bồ-tát. Vì thương xót nên ban cho vô lượng vô biên giới của bảo tạng công đức vô thượng. Vì lợi ích cho chúng sinh. Vì để tăng trưởng pháp của chư Phật và Bồ-tát”. Lần thứ hai, thứ ba cũng nói như vậy.
Lúc này, các phương có gió mát thổi, người trí nên biết đây là mười phương chư Phật, chư Bồ-tát Tăng trao giới cho người này rồi, nên nói với người thọ giới: “Ông hãy lắng nghe! Mười phương chư Phật, chư Bồ-tát Tăng nay trao giới cho ông, như giới của tất cả Bồtát trong ba đời, ông phải chí tâm thọ trì, có thể thọ trì không?”. Đáp: “Có thể”. Lần thứ hai, thứ ba cũng hỏi đáp như vậy.
Bấy giờ, người trí kính lễ mười phương chư Phật, chư Bồ-tát Tăng và lễ tượng Phật, lễ rồi lại xướng: “Mười phương Đại đức chư Phật, Bồ-tát lắng nghe! Nay người thọ giới đã nói ba lần, đã từ mười phương chư Phật và Bồ-tát đắc giới Bồ-tát, người thuyết là con, người thọ tên là v.v…, con vì người này mà làm chứng”. Đại sư: Tức là mười phương vô lượng chư Phật, Bồ-tát Tăng. Tiểu sư: Tức là thân con. Sư gồm có hai: Một là có thể thấy. Hai là không thể thấy. Không thể thấy: Tức là mười phương chư Phật, Bồ-tát Tăng. Có thể thấy: Tức là thân con. Ở một bên vị sư có thể thấy và không thể thấy, người này đã đắc giới. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như vậy. Như thế là yết-ma xong. Yết-ma xong cả hai đều im lặng.
Khi ấy, mười phương thế giới chư Phật và Bồ-tát biết sự tướng này rồi, bảo các đại chúng: “Trong thế giới kia, có người như vậy theo người trí ấy thọ giới Bồ-tát, người như vậy là pháp đệ của Ta, Ta nay chí tâm thương xót hộ niệm. Do mười phương chư Phật, chư Bồtát Tăng thương xót hộ niệm, nên người trao giới và người thọ giới đều tăng trưởng pháp thiện”. Cả hai người im lặng rồi, liền kính lễ mười phương chư Phật, chư Bồ-tát Tăng. Đó gọi là Bồ-tát thọ xong giới Bồ-tát. Là giới nhất thiết, giới vô thượng, giới vô biên, giới tụ công đức, giới tịch tĩnh, giới tâm tịnh, giới phá trừ tất cả phiền não của chúng sinh. Những giới như vậy hơn hẳn tất cả giới của Thanh văn, Duyên giác trong mười phương. Vì sao? Vì có thể độ thoát tất cả chúng sinh. Bồ-tát thọ giới Bồ-tát rồi, phải nên học và đọc tụng tạng pháp của Bồ-tát, tạng luận của Bồ-tát.
Bồ-tát lúc muốn thọ giới Bồ-tát, trước phải quán xét kỹ, nếu người bất tín thì không nên theo họ thọ. Người tham lam, người bỏn sẻn, người không biết đủ, người phá giới, làm nhiễm ô giới, không kính trọng giới, người ưa sân hận, người không nhẫn nhục, người không thể ngăn chận tội lỗi của người khác, người biếng nhác, ưa hưởng sự vui thế gian, ưa nói việc thế gian, cho đến không thể nhất tâm trong giây lát nghĩ đến Tam bảo, nghi ngờ, ngu tối, không thể đọc tụng tạng pháp và tạng luận của Bồ-tát, lại sinh phỉ báng v.v…, những người như vậy không nên theo thọ giới. Đã thọ giới rồi, cũng không nên nói cho người không tin, cũng không nên nói cho người phỉ báng Đại thừa. Vì sao? Vì như người không tin do nhân duyên này nên bị đọa vào địa ngục, vì thế Bồ-tát không nên nói cho họ nghe, nếu nói là đắc tội. Nếu Bồ-tát biết chắc khi nói với người kia có thể phá trừ lời nói ác, nghiệp ác và tâm bất tín cho họ thì nói sẽ không có tội. Bồ-tát đã thọ giới Bồ-tát rồi, vị Sư nên vì Bồ-tát ấy giảng nói pháp phạm và không phạm. Nếu biết Bồ-tát ấy đã chí tâm có thể thọ giới, không vì sự cúng dường nên thọ, không phải bắt chước người khác nên thọ, không vì kiêu mạn nên thọ.
Bấy giờ, vị sư nên thuyết giảng pháp phạm và không phạm cho Bồ-tát ấy nghe: Người thọ giới lắng nghe! Giới Bồ-tát có tám giới trọng, bốn giới trọng như trước đã nói. Nếu Bồ-tát vì tham lợi dưỡng nên tự khen ngợi thân mình là đã đắc giới Bồ-tát, trụ nơi địa Bồ-tát. Bồ-tát thì không như thế. Đó gọi là giới trọng thứ năm của Bồ-tát.
Nếu có người bần cùng thọ các khổ não, hoặc có người bệnh đến cầu xin, Bồ-tát vì tham tiếc, không bố thí, cho đến vật bằng một tiền. Có người cầu pháp cũng keo kiệt không bố thí, cho đến một câu kệ. Bồ-tát thì không như thế. Đó gọi là giới trọng thứ sáu của Bồ-tát.
Bồ-tát nếu sân hận, không nên thêm tâm ác. Nếu dùng tay đánh, hoặc gậy hoặc đá, dùng lời thô ác mắng nhiếc, lăng nhục. Hoặc khi không có sức không thể đánh mắng thì ôm tâm sân hận. Nếu bị người khác đánh mắng, họ cầu sám hối nhưng không nhận lời, nên tăng trưởng tâm sân hận không dứt tâm bất tịnh. Bồ-tát thì không như thế.
Đó gọi là giới trọng thứ bảy của Bồ-tát.
Bồ-tát nếu có người đồng thầy đồng học phỉ báng kinh Đại thừa và tạng pháp của Bồ-tát, theo học những điều tương tợ phi pháp, thì không nên cùng người này ở chung. Nếu biết chắc rồi, không được hướng đến người khác tán thán công đức của người ấy. Đó gọi là giới trọng thứ tám của Bồ-tát.
Bồ-tát có hai loại: Một là tại gia. Hai là xuất gia. Tại gia có sáu giới trọng. Xuất gia có tám giới trọng. Nếu Bồ-tát phạm mỗi mỗi giới hoặc phạm đủ tám giới, tức hiện tại không thể trang nghiêm vô lượng Bồ-đề Vô thượng, hiện tại không thể khiến tâm thanh tịnh. Đấy tức gọi là Bồ-tát danh tự, Bồ-tát phi nghĩa, gọi là Bồ-tát Chiênđà-la, không gọi là Sa-môn, không phải là hàng phạm hạnh, không thể hướng đúng đến đạo quả Bồ-đề Vô thượng.
Tâm Bồ-tát có ba hạng là thượng trung hạ. Như bốn giới trọng sau mà tâm hạ và tâm trung phạm thì không gọi là phạm. Nếu dùng tâm thượng và tâm ác phạm thì gọi là phạm. Thượng tức là ưa làm bốn việc như vậy, tâm không hổ thẹn, không biết sám hối, không thấy phạm tội, lại khen ngợi kẻ phá giới. Đó gọi là tâm thượng ác phạm.
Bồ-tát tuy phạm bốn giới trọng như vậy, nhưng trọn không mất giới Bồ-tát. Nếu Tỳ-kheo phạm bốn giới trọng tức mất giới Ba-lađề-mộc-xoa. Bồ-tát nếu phạm bốn giới trọng của Tỳ-kheo cũng mất giới Ba-la-đề-mộc-xoa, làm ô nhiễm giới Bồ-tát. Người nhiễm ô thì hiện tại không thể làm trang nghiêm Bồ-đề, không đạt được vô lượng Tam-muội phước đức. Đó gọi là nhiễm ô.
Có hai nhân duyên khiến mất giới Bồ-tát: Một là thoái tâm Bồđề. Hai là có tâm ác bậc thượng. Lìa hai nhân duyên này, cho đến đời sau, dù ở trong ba đường ác cũng trọn không mất giới Bồ-tát. Giới Bồ-tát không đồng với giới Ba-la-đề-mộc-xoa. Nếu vào đời sau, Bồ-tát lại thọ giới Bồ-tát, thì không gọi là mới đắc mà gọi là khai thị thêm sáng tịnh.
Nay lại nói về sự khác nhau (Thượng trung hạ) của tướng phạm không phạm khinh trọng nơi giới Bồ-tát.
Bồ-tát thọ giới Bồ-tát rồi, nếu đối với tháp tượng, kinh quyển, hoặc đối với người ngày đêm đọc tụng cả ngàn vạn lời, Bồ-tát không dùng hương hoa cúng dường lễ bái, không thể khen ngợi, tâm không hoan hỷ, cho đến một niệm. Đó gọi là phạm trọng, không gọi là tám pháp trọng. Đó gọi là Bồ-tát có tâm nhiễm, tâm nghi. Nếu mới sai lầm khởi tâm bất tịnh, hoặc có làm việc nhưng tâm không cung kính, vì không tin, vì biếng nhác. Đó gọi là phạm trọng, không gọi là tám pháp trọng. Nếu tâm vô niệm gọi là phạm nhẹ. Không phạm tức là nếu có tâm tịnh thường cầu Bồ-đề. Tâm tịnh tức như Tu-đà-hoàn hiện có bốn tín.
Bồ-tát nếu không biết đủ, không thiểu dục, lại tham đắm lợi dưỡng. Đó gọi là phạm trọng, không gọi là tám pháp trọng. Không phạm, tức nếu có thể biết nhất định dùng sự không biết đủ để điều phục chúng sinh.
Bồ-tát nếu thấy bậc thượng tọa cao đức đồng học đồng thầy, sinh tâm kiêu mạn và tâm ác, không nghinh đón, lễ bái, bày tòa ngồi, không cùng nói chuyện hoặc thăm hỏi, nếu có hỏi việc nghi ngờ cũng không chịu giải nói. Đó gọi là phạm trọng, không gọi là tám pháp trọng. Đó gọi là Bồ-tát có tâm nhiễm ô, tâm nghi. Không phạm tức là khi bệnh, khi ngủ, khi tâm loạn, hoặc lúc chí tâm nghe pháp, cúng dường chư Phật, biên chép đọc tụng, giải nói nghĩa kinh luận.
Nếu Tỳ-kheo vì tìm chỗ phạm tội mà nghe giới Bồ-tát, hoặc người không tin thọ, người không tin lời dạy, không thành tựu giới Ưu-bà-tắc, không thành tựu giới Sa-di, không thành tựu giới Ba-lađề-mộc-xoa, những người như vậy thì không được nghe giới Bồ-tát, nếu nghe tức phạm tội. Nếu Tỳ-kheo phạm tội Ba-dạ-đề, không hổ thẹn, không sinh hối hận mà nghe giới Bồ-tát, thì phạm tội Thâu-lagiá. Nếu Tỳ-kheo phạm tội Thâu-la-giá, không hổ thẹn, không sinh hối hận mà nghe giới Bồ-tát, tức phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu Tỳ-kheo phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa nhưng không hổ thẹn, không sinh hối hận, lại nghe giới Bồ-tát, tức phạm tội Ba-la-di, nghĩa là pháp trọng thứ tám. Nếu có người thuyết, tức là phạm Tăng-già-bàthi-sa. Thế nên trong kinh nói: “Người không tin thì không nên nghe. Người không tin thì không nên nói giảng”.
Có đàn-việt kính tin đến thỉnh Bồ-tát, hoặc tại nhà, hoặc nơi chùa tháp, hoặc nơi thôn xóm, quốc độ, muốn cúng dường những vật cần dùng như y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc thang, Bồ-tát vì kiêu mạn, sân hận nên xem thường không nhận lời, tức phạm tội, tội này do phiền não nên phạm.
Nếu Bồ-tát không có bạn, đi một mình đến nhà bạch y, tức phạm tội sai lầm. Nếu đến nhà bạch y nhưng không thể thuyết pháp, khai thị giáo hóa khiến họ cúng dường Phật Pháp Tăng bảo. Đó gọi là phạm trọng, không gọi là tám pháp trọng. Không phạm tức như khi bệnh, hoặc ám độn, hoặc cuồng, hoặc đường xa sợ nạn, hoặc ở xa thỉnh. Biết không thọ thỉnh sẽ khiến người kia được điều phục. Hoặc trước đã thọ thỉnh. Hoặc lúc siêng tu pháp thiện. Nếu chưa nghe nghĩa, nên muốn được nghe. Người thỉnh tâm không chân thật. Hoặc biết thọ thỉnh của người này, e sợ nhiều người sân hận, như pháp tăng chế.
Nếu có đàn-việt dùng vàng bạc, chân châu, xa cừ, mã não, lưu ly, pha lê, nô tỳ, xe cộ, voi ngựa, các Ni-sư-đàn nhiều sắc cùng dâng lên Bồ-tát, Bồ-tát nên thọ nhận, nếu không nhận tức phạm tội. Tội này do nơi phiền não nên phạm. Không phạm: Tức như khi cuồng. Hoặc biết thọ rồi ắt sinh tham đắm. Hoặc biết thí chủ bố thí rồi sẽ sinh hối hận. Hoặc biết thí chủ thí rồi sẽ phát cuồng. Hoặc biết thọ rồi thí chủ bị nghèo khổ. Hoặc biết vật này là đã hứa cúng cho Tam bảo. Hoặc biết vật này là do cướp đoạt mà có. Hoặc biết thọ rồi có nhiều khổ não như nạn vua, giặc cướp, mất mạng, lao tù, tiếng xấu truyền khắp, bị đuổi ra khỏi nước. Hoặc biết thọ rồi không thể xả để tu phước đức đối với ruộng phước tốt.
Nếu có chúng sinh vì hiểu nghĩa nên muốn được nghe pháp, đến chỗ Bồ-tát học hỏi những điều chưa nghe. Bồ-tát do tâm khinh thường, tâm kiêu mạn, không thuyết giảng tức phạm tội, tội này do phiền não nên phạm. Không phạm: Như là hoặc biết người ấy trước là ác kiến, tà kiến, tìm cầu lỗi lầm. Hoặc bị bệnh, hoặc bệnh mới khỏi, hoặc cuồng. Hoặc biết không giảng nói sẽ khiến người kia được điều phục. Hoặc Phật chưa chế. Hoặc biết người ấy, trước đây đối với Tam bảo không sinh tâm kính trọng, hoặc cử động thô tháo. Hoặc biết căn tánh ám độn khi nghe nghĩa sâu xa sẽ sinh tà kiến. Hoặc biết nghe rồi sẽ nói với người ác khiến phá hoại chánh pháp.
Nếu có người ác có thể làm việc sát hại và hàng Chiên-đà-la, Bồ-tát nếu không gần gũi qua lại, vì họ thuyết giảng chánh pháp tức là phạm tội. Vì sao? Vì Bồ-tát hoặc thấy người trì giới tinh tấn, thân khẩu ý thanh tịnh, không sinh từ bi. Hoặc thấy người ác lại có thể sinh từ bi, cho nên Bồ-tát nếu không vì những người ấy thuyết pháp tức là phạm tội. Không phạm: Như là khi cuồng, hoặc pháp vua ngăn, hoặc Tăng chế, hoặc sợ nhiều người hiềm nghi, hoặc biết không thuyết giảng khiến người kia được điều phục.
Nếu có đàn-việt không phải là bà con, hoặc trưởng giả, hoặc Bà-la-môn dùng các thứ y phụng hiến cho Bồ-tát, Bồ-tát nên thọ nhận. Nếu Bồ-tát tự cầu nhiều mà được cũng nên thọ nhận. Như y, thì bát cũng như vậy. Như y, bát, chỉ may cũng như thế. Bồ-tát nếu đến chỗ đàn-việt cầu xin chỉ sợi, khiến thợ dệt không phải là bà con dệt, bảo họ dệt cho dài rộng, nói ta không tự mặc, ông cùng đàn-việt đều cũng có phước. Nếu đàn-việt nói: Tôi cúng là vì sư, xin nguyện tự mặc. Bồ-tát được y rồi, hoặc vì thân mình nên đến chỗ thợ dệt, bảo họ dệt cho dài rộng, nếu được rồi lại tự mình mặc, tức phạm trọng, không gọi là tám pháp trọng. Nếu không bảo dệt thì không phạm.
Bồ-tát nếu thọ giới Bồ-tát rồi, nên thọ nhận nên chứa phu cụ (Ni-sư-đàn) Kiêu-xa-da cho đến trăm ngàn vạn số. Vàng bạc cũng như thế. Người Thanh văn chỉ vì tự lợi, nên Như Lai không cho thọ nhận và cất chứa. Bồ-tát thì không như vậy, vì tạo lợi ích cho chúng sinh, nên cho cất chứa, không được không thọ. Nếu vì biết đủ, hoặc vì danh dự nên không thọ tức là mắc tội. Nếu Bồ-tát vì nhân duyên biếng nhác nên không thể tạo lợi ích cho chúng sinh, tức là mắc tội. Tội này là do phiền não nên phạm.
Bồ-tát nếu được người khen ngợi nói là bậc thập trụ, hoặc A-lahán đến Tu-đà-hoàn, ít muốn, biết đủ, như vậy mà im lặng thọ nhận tức là mắc tội. Tội này là do phiền não nên phạm.
Bồ-tát nếu vào trong Tăng chúng thấy có người cười giỡn phi pháp nhưng không quở trách tức là mắc tội. Không phạm: Như lúc nghe pháp, vì nhằm điều phục, vì tùy tâm nói pháp, hoặc có thể tạo lợi ích.
Nếu nói Bồ-tát không ưa thích Niết-bàn cũng chẳng phải là không ưa thích, không sợ phiền não cũng chẳng phải là không sợ. Vì sao? Vì còn lưu chuyển trong sinh tử. Nếu Bồ-tát nói lời ấy tức là mắc tội. Vì sao? Vì Bồ-tát ưa thích Niết-bàn, Thanh văn, Duyên giác không thể nhận biết. Thanh văn, Duyên giác ưa thích Niết-bàn, đối với sự ưa thích của Bồ-tát, không có một phần trong trăm ngàn phần, trăm ngàn vạn phần. Bồ-tát quở trách sự sợ hãi đối với phiền não, hàng Thanh văn, Duyên giác không thể nhận biết. Thanh văn, Duyên giác quở trách, sợ nơi phiền não, so với Bồ-tát, trong trăm ngàn phần, trăm ngàn vạn phần, thậm chí không có một phần. Vì sao? Vì Thanh văn, Duyên giác chỉ là tự lợi, không thể lợi tha. Bồ-tát thì có cả tự lợi và lợi tha. Bồ-tát tuy thực hành hữu lậu nhưng vẫn hơn A-la-hán, trọn ngày ở nơi phiền não nhưng không bị nhiễm ô. Thế nên Bồ-tát nói lời trên tức là mắc tội.
Bồ-tát nếu không sợ tiếng xấu, không hộ tiếng xấu, thì mắc tội thất ý. Nếu người không có tiếng xấu mà nói sự xấu của người tức phạm tội ác, tội này do phiền não nên phạm. Nếu vì điều phục mà thêm lời ác thì mắc tội thất ý, không phải là tội ác. Không phạm: Như là quở trách ngoại đạo dối đến thọ giới Bồ-tát. Hoặc tâm vốn không có ác nhưng miệng xuất ra lời ác. Hoặc điên cuồng. Hoặc biết quở trách là có lợi ích lớn. Hoặc biết do sân hận người kia sẽ có lợi ích. Nếu vì hộ giới nên không sinh sân hận tức là mắc tội. Hoặc biết do sân hận, người kia sẽ được chút lợi ích trong hiện tại, không có lợi ích lớn ở đời sau. Nếu Bồ-tát bị người đánh – đánh lại, bị mắng – mắng lại, bị người xúc não – xúc não lại, tức là mắc tội thất ý, tội này nhân nơi phiền não nên phạm.
Nếu có Bồ-tát cùng nhau bàn bạc, chê trách, hoặc thật không thật, Bồ-tát nên khiêm nhường xin lỗi, nếu không thể làm tức là mắc tội. Không thọ nhận việc xin lỗi tức cũng mắc tội do phóng dật. Không xin lỗi tức mắc tội do phóng dật. Không phạm: Như biết người kia trước nay vốn xấu ác thường đến tìm lỗi của người. Hoặc biết không làm sẽ khiến người kia bỏ ác. Nếu Bồ-tát sân hận đối với người khác, thường suy nghĩ: “Nếu khi ta gặp được sẽ đánh, sẽ mắng”. Bồ-tát không thể tự điều phục, tức phạm tội.
Bồ-tát nếu cùng đi một đường với Tỳ-kheo-ni thì không phạm. Nếu có tâm tham tức phạm tội. Không phạm: Như vì nhằm điều phục.
Bồ-tát nếu theo người Ni không phải là bà con để thọ thực thì không phạm. Vì sao? Vì Bồ-tát Ma-ha-tát phát tâm Bồ-đề rồi, đối với các chúng sinh không ai không phải là bà con. Bồ-tát nếu vì tham người hầu hạ, sai khiến nên nuôi nhiều đệ tử, tức là phạm tội. Không phạm: Như vì nhằm điều phục nên nuôi nhiều đệ tử, hoặc vì hộ trì giáo pháp, hoặc vì tạo lợi ích, hoặc không có tâm tham.
Bồ-tát nếu biếng nhác trễ nải, không siêng năng tinh tấn, lại ưa sự ngủ nghỉ, tức là mắc tội. Không phạm: Như là bị bệnh, hoặc bệnh mới khỏi chưa đủ sức lực. Hoặc lúc đi xa, hoặc đọc tụng mệt mỏi.
Hoặc lúc suy nghĩ pháp đối trị.
Bồ-tát nếu cùng nhau nói về việc thế gian, nói lời vô ích, tức là phạm tội. Không phạm: Như có người hỏi, hoặc tùy theo tâm người để điều phục, lúc nói nên chí tâm, không có tăng giảm.
Bồ-tát nếu vì tâm kiêu mạn nên không thăm hỏi thầy, không nghe lời thầy chỉ dạy, tức là mắc tội. Không phạm: Như là bị bệnh, hoặc cuồng, hoặc si, hoặc đại thông minh, đa văn, có trí tuệ vì điều phục chúng sinh. Hoặc lúc nhập định.
Bồ-tát nếu khi tâm dục khởi lên, không quán xét cách đối trị, mau chóng điều phục khiến diệt, tức là mắc tội. Không phạm: Như là có quán xét cách đối trị nhưng phiền não quá mạnh không thể diệt. Hoặc lúc tự thử nghiệm phát tâm dục.
Bồ-tát nếu nói không nên thọ giới Thanh văn, không nên đọc tụng kinh Thanh văn, vì kinh luật của Thanh văn không thể tạo lợi ích cho các chúng sinh. Nếu nói vậy tức phạm trọng, không gọi là tám pháp trọng. Không phạm: Như là vì người tham chấp kinh luật Tiểu thừa.
Bồ-tát nếu không đọc tụng pháp Tạng Bồ-tát, chỉ ưa đọc tụng kinh luật Thanh văn, tức là phạm tội. Không phạm: Như là hoặc không nghe biết có pháp Tạng Bồ-tát.
Bồ-tát nếu không đọc tụng kinh điển của Như Lai, mà đọc tụng sách vở của thế gian, tức là phạm tội. Không phạm: Như là luận nghị để phá tà kiến, hoặc hai phần kinh điển Phật, một phần sách ngoài. Vì sao? Vì biết sách ngoài là pháp hư vọng, pháp Phật là chân thật. Do biết pháp thế gian nên không bị người đời khinh mạn.
Bồ-tát nếu nghe Tạng Bồ-tát, nghe tạng Thanh văn, có những việc không thể nghĩa bàn, nhưng không tin không thọ, nói không phải là Phật thuyết, hoặc tự phỉ báng, hoặc bảo người khác phỉ báng, tức là phạm tội. Bồ-tát nếu nói: Trí lực của mình thấp kém, nhục nhãn không thanh tịnh, không thể thấy cảnh giới thâm diệu của Như Lai, cảnh giới của Như Lai chỉ Phật nhãn mới thấy, chỉ có Đức Phật mới nhận biết, tức pháp giới không phải là nơi chốn mình có thể đạt đến. Nếu có thể suy nghĩ quán xét như vậy tức là hành thật. Bồ-tát nhẫn chịu cùng không nhận chịu, cả hai đều không phạm.
Bồ-tát nếu sinh tâm sân hận, kiêu mạn, tự nói mình trì giới, đa văn, trí tuệ đều hơn người, tức là phạm tội. Tội này do phiền não nên phạm. Không phạm: Như là vì phá tà kiến, vì phá sự khinh miệt đối với pháp Phật, hoặc vì điều phục tâm tự đại của người khác. Vì khiến người chưa tin sinh tâm tin, khiến người đã tin rồi được tăng trưởng.
Bồ-tát nếu nghe nói có nơi chốn thuyết giảng pháp, cho đến một do-tuần nhưng không tới nơi để nghe tức phạm tội. Hoặc khinh chê người thuyết giảng nên không đến nghe, tức phạm tội. Tội này do phiền não nên phạm. Hoặc biếng nhác không đến nghe tức phạm tội thất ý. Không phạm: Như là không nghe, không hay, không biết. Hoặc bệnh vừa khỏi chưa đủ khí lực. Hoặc biết điều thuyết giảng là điên đảo, không phải là chánh pháp. Hoặc lo người thuyết giảng sinh tâm xấu hổ. Hoặc thuyết một pháp lại không có nghĩa khác. Hoặc đang tu pháp thiện. Hoặc đang giáo hóa chúng sinh. Hoặc không hiểu lời người kia nói. Hoặc không thể nhớ nghĩ.
Bồ-tát nếu khinh người thuyết pháp không sinh tâm cung kính, không khen ngợi đức của vị ấy, lại chê cười người thuyết lời nghĩa không chánh tức phạm tội.
Bồ-tát nếu thọ giới Bồ-tát rồi, có chúng sinh hành tác các sự việc nhưng mình không đồng sự tức phạm tội. Nghĩa là lui tới ra vào ủng hộ việc tạo tài vật, hòa hợp mọi sự tranh chấp, làm các việc thiện. Các sự việc trì giới, bố thí, đa văn, nếu không cùng đồng sự tức phạm tội. Không phạm: Như là bệnh hoặc không biết làm. Hoặc tự mưu tính việc lớn. Hoặc trước có hứa giúp đỡ người khác. Hoặc tự tu pháp thiện. Hoặc lo sợ có nhiều người sân hận, hoặc vui, hoặc si, hoặc cuồng. Hoặc biết không cùng chung có thể điều phục họ. Hoặc pháp do tăng chế.
Bồ-tát nếu khinh chê người thuyết pháp, mắng đánh, cười chê lời thuyết, chỉ dựa nơi văn từ, không dựa nơi ý nghĩa, tức phạm tội. Tội này do phiền não nên phạm.
Bồ-tát nếu thọ giới Bồ-tát rồi, nhưng không thể tùy thuận theo tâm chúng sinh, tức phạm tội. Nghĩa là đi, đứng, nằm, ngồi, tu các việc thiện.
Bồ-tát nếu thọ giới Bồ-tát rồi, thấy người bệnh khổ nhưng không săn sóc và cứu giúp là phạm tội. Không phạm: Như là mình bệnh, hoặc người bệnh có nhiều thân tộc. Hoặc đang tu gấp pháp thiện vô thượng. Hoặc trước đã chăm sóc bệnh cho người khác. Hoặc căn tánh ám độn. Như đối với bệnh, đối với kẻ bần cùng khốn khổ cũng lại như vậy.
Bồ-tát nếu thọ giới Bồ-tát rồi, thấy chúng sinh ác tu theo pháp ác, nhưng không thể dẫn dạy quở trách khuyên bỏ, tức phạm tội thất ý. Không phạm: Như biết người này có thiện tri thức, có thể chỉ dạy quở trách. Hoặc biết vì họ giảng nói cũng không nghe, hoặc hiểu sai lầm, hoặc người kia có tâm hại.
Bồ-tát nếu thọ giới Bồ-tát rồi, đem vật cất chứa cho bạch y dùng chung, tức phạm tội thất ý.
Bồ-tát nếu thọ giới Bồ-tát rồi, không nên dùng bát bằng vàng, bạc để thọ nhận thức ăn, cất chứa bát bằng đồng không được giống với hàng bạch y. Đồ bằng gỗ, bằng sừng thì không nên dùng, nếu dùng tức phạm tội. Không phạm: Như là hoặc mất bát cũ, hoặc đi giữa đường có người mời, hoặc bệnh nặng.
Bồ-tát nếu thọ giới Bồ-tát rồi, thọ ân nhưng không nghĩ nhớ tức phạm tội. Tội này là do phiền não nên phạm.
Bồ-tát nếu thọ giới Bồ-tát rồi, thọ ân huệ của người nhưng không thể báo đáp tức phạm tội. Cách báo đáp là phải trì giới, tinh tấn tọa thiền, đọc tụng kinh điển, tùy sự việc khiến tâm thí chủ vui lòng để báo đáp. Không phạm: Như là thí chủ không thọ nhận.
Bồ-tát nếu thọ giới Bồ-tát rồi, thấy có người khổ hoặc chết, hoặc mất của cải do nạn vua quan, giặc cướp, lũ lụt, hỏa hạn, thân thuộc ly biệt, Bồ-tát nên đến nơi ấy nói pháp an ủi, theo chỗ cần dùng của họ và tùy sức mình để cung cấp, nếu không làm tức phạm tội. Không phạm: Như là không được tự tại. Hoặc mình bị bệnh nặng. Hoặc họ không nghe nhận lời mình. Hoặc có nghi nạn. Hoặc pháp do tăng chế.
Bồ-tát nếu thọ giới Bồ-tát rồi, có nuôi chứa đệ tử nhưng không thể theo các đàn-việt tín tâm để xin vật cần dùng, như y phục, thức ăn, ngọa cụ, phòng xá, thuốc thang, tùy thời cung cấp. Lại không tùy thời thuyết pháp, giáo hóa, tức phạm tội. Không phạm: Như biết đệ tử có uy lực lớn, thông minh, phước đức, có nhiều đàn-việt. Hoặc là ngoại đạo dối đến để trộm pháp. Hoặc biết không thể làm tăng trưởng pháp Phật.
Bồ-tát nếu như thọ giới Bồ-tát rồi, thường nên khen ngợi việc thiện của người khác, nếu che giấu công đức của người khác tức phạm tội. Tội này do phiền não nên phạm. Không phạm: Như là có người ngăn trở. Hoặc mê loạn ám độn không biết, hoặc bị bệnh nặng, hoặc sợ người hiềm nghi. Hoặc khó hiểu rõ như quả Am-la.
Bồ-tát nếu thọ giới Bồ-tát rồi, dùng giường ghế cao quá tám đốt tay tức phạm tội. Không phạm: Như là lúc thuyết pháp. Hoặc nhận lời đàn-việt tín tâm thỉnh. Hoặc lúc ngồi trong đền thờ của ngoại đạo.
Bồ-tát nếu thọ giới Bồ-tát rồi, đối với đệ tử đáng sân giận nhưng không sân hận, đáng quở trách nhưng không quở trách, đáng phạt nhưng không phạt, đáng đuổi nhưng không đuổi, tức phạm tội. Tội này do phiền não nên phạm. Không đáng sân mà sân, không đáng trách mà trách, không đáng phạt mà phạt, không đáng đuổi mà đuổi, tức phạm tội. Không phạm: Như là biết đệ tử có thể thiêu đốt chùa tháp, làm việc đại ác. Hoặc giết sư, Hòa thượng, hoặc đồng sư, đồng Hòa thượng, hoặc cha mẹ. Hoặc lúc hầu hạ. Hoặc biết nhất định do nhân duyên này mà phá hoại chúng Tăng. Hoặc biết về sau họ tự sinh hổ thẹn.
Bồ-tát nếu thọ giới Bồ-tát rồi, có được thần thông lớn, thấy người đáng sợ mà không sợ, thấy người có thể sinh tín mà không khiến họ sinh tín, tức phạm tội. Không phạm: Như là biết tất cả tin theo tà kiến, không tin pháp Phật.
Bồ-tát nếu thọ giới Bồ-tát rồi, đạt được đại thần túc, thấy kẻ đáng sợ nhưng không sợ, thấy người có thể sinh tín nhưng không khiến họ sinh tín, là phạm tội. Không phạm: Là nếu biết tất cả là tin theo tà kiến, không tin pháp Phật.
Bồ-tát nếu thọ giới Bồ-tát rồi, phải chí tâm niệm, không khởi tưởng phạm. Nếu có phạm, nên đến trước một người phát lồ sám hối. Đó gọi là người Đại thừa, Tiểu thừa, có thể khéo giải nghĩa, khéo tuyên thuyết. Đó gọi là nhất thiết giới của Bồ-tát. Từ địa thứ nhất của Bồ-tát hiểu rõ sáu Ba-la-mật, cho đến nhất thiết giới, tất cả đều là giới cấm của Bồ-tát. Đó gọi là nhất thiết giới. Trước kia, trong kinh của Thanh văn có những điều Như Lai chưa thuyết, nay ở trong tạng Luận của Bồ-tát lại thuyết. Vì sao gọi là nhất thiết giới? Là do nói chung về giới của hàng xuất gia và tại gia, nên gọi là tất cả giới.
Giới khó hành gồm có ba thứ: Một là Bồ-tát có tự tại lớn, của cải vô lượng, đều có thể xả bỏ để thọ giới Bồ-tát. Đó gọi là giới khó hành. Hai là Bồ-tát vào lúc nạn gấp vẫn không khiến giới có tỳ vết, huống hồ là hủy phạm. Đó gọi là giới khó hành. Ba là Bồ-tát tuy tùy thuận chúng sinh, đi đứng nằm ngồi, nhưng thường giữ gìn giới, không khiến hủy phạm. Đó gọi là giới khó hành.
Nhất thiết tự giới gồm có bốn thứ: Một là thọ. Hai là tánh. Ba là tu. Bốn là phương tiện. Thọ nghĩa là ba lần yết-ma. Tánh nghĩa là cùng với tánh chung hợp Bồ-tát Ma-ha-tát do tánh nhu hòa, nên nghiệp thân khẩu ý thường khéo tu tập. Ở nơi vô lượng chư Phật, Bồtát tu tập các phương tiện. Như chư Bồ-tát dùng bốn nhiếp pháp để thâu giữ chúng sinh, chỉ dạy khiến tu tập thân khẩu ý thiện. Đó gọi là nhất thiết tự giới.
Giới thiện nhân gồm có năm thứ: Một là tự trì giới cấm. Hai là dạy người khiến hành trì. Ba là khen ngợi. Bốn là thấy người ưa hành trì thì hoan hỷ tán thán. Năm là có phạm thì theo pháp sám hối, tâm không gián đoạn. Đó gọi là giới thiện nhân.
Giới nhất thiết hành có mười ba thứ: Một là phát nguyện hồi hướng Niết-bàn. Hai là rộng lớn. Ba là thanh tịnh. Bốn là hoan hỷ. Năm là không phá bỏ. Sáu là không bị dẫn dắt. Bảy là kiên cố. Tám là xem như anh lạc. Chín là chân thật. Mười là có ý nghĩa. Mười một là tín. Mười hai là quý báu. Mười ba là thường. Như địa Thanh văn, giới cấm của Thanh văn, tất cả pháp thiện đều là nhân của đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Đó gọi là giới nhất thiết hành.
Giới trừ diệt có tám thứ. Bồ-tát thường suy nghĩ như vầy: Như ta không ưa chết, tất cả chúng sinh cũng lại như vậy. Thế nên không được giết hại sinh mạng loài vật. Như ta không ưa trộm cướp, dâm dục, nói thô ác, nói dối, nói hai lưỡi, nói lời vô nghĩa, đánh đập, mắng nhiếc, thì tất cả chúng sinh cũng lại như vậy. Cho nên không được cướp đoạt, tham dâm, nói thô ác, nói dối, nói hai lưỡi, nói lời vô nghĩa, đánh đập, mắng nhiếc. Đó gọi là giới trừ diệt. Bồ-tát cho đến bị mất thân mạng trọn không hủy hoại tám giới như vậy.
Giới tự lợi lợi tha, tức là Bồ-tát đối với giới có chỗ ngăn thì ngăn, có chỗ mở thì mở. Nếu nơi chỗ ngăn không ngăn, nơi chỗ mở không mở, tức phạm tội. Bồ-tát nhận biết tất cả chúng sinh có thể thâu phục thì thâu phục, có thể xả thì xả. Giới thân khẩu thanh tịnh, thường cùng hành bố thí Ba-la-mật, cho đến Bát-nhã Ba-la-mật. Như vậy là làm tịnh giới tự lợi lợi tha. Đó gọi là giới tự lợi lợi tha.
Giới tịch tĩnh, tức là từ lúc ban đầu thọ giới đã chí tâm kiên trì, vì bốn quả Sa-môn, vì quả Bồ-đề, không vì thân mạng. Đó gọi là giới tịch tĩnh.
Bồ-tát khi ngồi, nếu thấy vua hoặc các vị trưởng giả mà đứng dậy tức phạm tội. Nếu đang ngồi kiết già thấy vua hoặc các vị trưởng giả liền quỳ tức phạm tội. Hoặc trước đó y không ngay ngắn, khi thấy vua và các vị trưởng giả liền sửa lại y phục tức phạm tội. Nếu khi vua hoặc các vị trưởng giả nói lời ác, theo ý khen ngợi, tức phạm tội. Chỗ không nghi ngờ lại gắng sinh nghi ngờ tức phạm tội. Chỗ nên nghi nhưng không sinh nghi cũng phạm tội.
Giới của Bồ-tát là đầu đêm cuối đêm không được ngủ nghỉ, đầy đủ nguyện thiện, hành thiện, pháp thiện, thành tựu chánh mạng, xa lìa thường kiến, đoạn kiến, thường hành theo trung đạo, lìa năm thứ dục lạc, xa lìa tà kiến, không phá không hoại. Đó gọi là giới tịch tĩnh.
Tụ giới Bồ-tát thành tựu đầy đủ quả vi diệu vô lượng. Do nhân duyên của tụ giới này nên đạt đầy đủ trì giới Ba-la-mật. Người thọ tuy chưa đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng, nhưng đã có đủ năm thứ công đức: Một là thường được chư Phật, Bồ-tát nhớ nghĩ. Hai là thọ nhận thường, lạc, tịnh. Ba là lúc lâm chung không có hối hận. Bốn là sau khi chết được sinh vào thế giới của chư Phật. Năm là trang nghiêm đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Người thọ trì giới Bồ-tát không vì thân mình, chỉ vì lợi tha và trang nghiêm đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Giới Bồ-tát này đều là chỗ thành tựu của hằng hà sa chư Phật, Bồ-tát trong đời quá khứ, hiện tại, vị lai, cho đến mười phương chư Phật, Bồ-tát cũng lại như vậy.
HẾT