SỐ 1580/1
LUẬN THÍCH DU GIÀ SƯ ĐỊA
Tác giả: Luận sư Tối Thắng Tử
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

PHẦN BẢN ĐỊA

Địa 1: NĂM THỨC TƯƠNG ƯNG

Lễ kính Đấng Đại Giác trời, người

Phước đức trí tuệ đều viên mãn

Pháp chân diệu văn nghĩa tột cùng

Chúng Hiền Thánh thọ học chánh tri.

Cúi lạy Đại Từ Tôn Vô Thắng

Khắp vì lợi lạc các hữu tình

Rộng lấy nghĩa chính yếu các kinh

Lược nói năm phần Du Già này.

Quy mạng dòng Pháp lực định diệu

Phát khởi tên công đức Vô Trước

Hay ở biển Thánh giả tối thắng

Sinh ra pháp cam lồ vô thượng.

Nhận lấy mỹ âm tự đầy đủ

Lại vì lợi ích các thế gian

Tuôn mưa hoa tự không cùng tận

Thấm tươi cây Như Ý Mâu-ni.

Luận này thù thắng tựa hoa sen

Cũng như kho báu như biển cả

Nghĩa lớn các thừa hiển bày đủ

Khéo giải văn lý không hề sót.

Ở trong Đại Luận Du Già này

Con nay theo sức giải phần ít

Để khiến chánh pháp luôn còn mãi

Lợi ích an lạc chúng hữu tình.

Nay nói Luận này được thực hiện như thế nào? Nghĩa là có hai duyên nên nói Luận này:

1. Vì muốn cho giáo pháp vô thượng của Như Lai được trụ lâu ở thế gian.

2. Vì tạo lợi ích an lạc bình đẳng cho các hữu tình.

Lại có hai duyên nên nói Luận này:

1. Đối với các Thánh giáo cam lồ của Như Lai đã ẩn mất, thì nhớ nghĩ góp nhặt lại để hiển bày, những Thánh giáo của Như Lai chưa ẩn mất, thì hỏi đáp xét chọn làm hưng thịnh gấp bội.

2. Vì trong hết thảy cõi hữu tình, người có chủng tánh đều nương vào thừa của mình, tu thiện xuất thế, đắc quả ba thừa, vượt ngoài sinh tử. Người không có chủng tánh, nương vào thừa nhân thiên tu thiện thế gian, đắc quả nhân thiên, thoát khỏi nẻo ác.

Lại có hai duyên nên nói Luận này:

1. Hoặc có người đối với các kinh không liễu nghĩa đã nói nhiều về không, nhân đấy chấp trước cho toàn là không, ghét, trái với tất cả giáo pháp hữu. Vì nhằm khiến cho họ tùy theo đấy để hiểu tướng hữu của các pháp, hiểu sâu mật ý trong kinh, xả bỏ kiến chấp về không.

2. Lại có người đối với các kinh không liễu nghĩa đã nói nhiều về hữu, nhân đấy chấp trước nơi hữu, nhàm sợ tất cả giáo pháp không. Vì nhằm khiến cho họ tùy theo đấy để hiểu tướng không của các pháp, hiểu ý sâu kín trong kinh, xả bỏ kiến chấp về hữu.

Lại có hai duyên nên nói Luận này:

1. Vì các hữu tình thành tựu chủng tánh của Bồ-tát chỉ nương vào Đại giáo, đối với văn, nghĩa, hành, quả hiện bày khắp các thừa, sinh trí thiện xảo, đoạn tất cả chướng, tu tất cả thiện, chứng Bồ-đề Phật, đến cùng tận đời vị lai mình và người đều được lợi ích an vui, không có dừng bỏ.

2. Vì các hữu tình thành tựu chủng tánh của Nhị thừa và không có chủng tánh, cũng nương vào Đại giáo, mỗi mỗi đối với văn nghĩa hành quả của thừa mình sinh trí thiện xảo, đoạn trừ chướng phiền não, chế ngự các thứ trói buộc ngăn che, tu tập phần thiện của mình, đắc quả nơi thừa mình, ra khỏi các nẻo ác trong ba cõi.

Lại có hai duyên nên nói Luận này:

1. Hoặc có tập khí của nhiều đời, không hiểu biết, điên đảo, do dự, chấp trước giáo tà của ngoại đạo, Tiểu thừa, vì thế đối với Đại thừa không thể tin hiểu, nên vì họ mà khéo phân biệt pháp tướng của Đại thừa, khiến họ tin hiểu rõ, thông suốt, quyết định xa lìa điên đảo.

2. Lại có người nghe vô số nghĩa lý sâu xa khó hiểu nơi các kinh, tâm họ mê loạn nên hủy báng không tin, do đó vì họ khéo chỉ bày, khiến sinh tin hiểu, đạt lợi ích.

Lại có hai duyên nên nói Luận này:

1. Nhằm đem đến lợi ích an vui, nên lược nói Luận này, khiến người siêng năng tu hành, góp nhặt giáo nghĩa sâu xa trong các kinh phân biệt tóm lược.

2. Nhằm tạo lợi ích an vui, nên rộng nói Luận này, khiến bậc siêng năng thuyết pháp, nơi mỗi mỗi pháp khai thị vô biên nghĩa sai khác.

Lại có hai duyên nên nói Luận này:

1. Hiển bày thật tướng của các pháp, nên hỏi đáp xét định chọn lập chánh luận.

2. Nhằm diệt trừ tất cả vọng chấp, nên hỏi đáp xét định chọn phá luận tà.

Lại có hai duyên nên nói Luận này:

1. Chỉ bày về Biến kế sở chấp, tình có lý không, tánh Y tha khởi và tánh Viên thành thật, lý có tình không, khiến xả bỏ chỗ chấp về tăng ích, tổn giảm.

2. Chỉ bày rõ về đạo lý thế gian, chứng đắc pháp môn sai biệt của thắng nghĩa, khiến tu hai đế, đạt hiểu biết không điên đảo.

Lại có hai duyên nên nói Luận này:

1. Mở bày rộng rõ về hai thứ môn lý là tùy chuyển và chân thật, khiến nhận biết giáo pháp của hai Tạng, ba Tạng không trái nhau.

2. Mở bày rộng rõ về bốn thứ môn lý là nhân duyên, duy thức, vô tướng và chân như, khiến tu hành quán có khác nhau.

Lại có hai duyên nên nói Luận này:

1. Thị hiện cảnh giới có sai biệt, khiến hiểu biết về tự tánh, tướng trạng, phần vị sai khác của các pháp.

2. Thị hiện sự tu hành có sai biệt, khiến nhận biết quả phương tiện căn bản khác nhau của ba thừa.

Những loại như thế là các duyên đã được thực hiện nơi nơi trong Kinh, Luận có vô số sự nêu bày dị biệt, nên biết đây đều là phạm vi bàn đến của Luận này.

Nay nói Luận này, về nguyên do là thế nào? Nghĩa là các hữu tình từ vô thủy đến nay, đối với thật tướng trong tất cả pháp không hiểu biết, nghi hoặc, điên đảo, thiên chấp, nên khởi các phiền não, phát sinh nghiệp hữu lậu, luân hồi trong năm nẻo, chịu ba thứ khổ lớn. Đức Như Lai ra đời thuận theo sự thích hợp, tạo phương tiện vì họ giảng nói về thật tướng trong vô số pháp xứ vi diệu, giúp các hữu tình nhận biết tất cả pháp, không như vậy như vậy nên chẳng phải là , như thế như thế nên chẳng phải là không. Hiểu rõ các pháp chẳng phải là không, chẳng phải là , nên xa lìa nghi hoặc, điên đảo, thiên chấp, thuận theo chủng tánh kia mà khởi hành trung xứ, dần dần tu tập đầy đủ, theo chỗ ứng hợp, vĩnh viễn diệt trừ các chướng, đắc Tam Bồ-đề, chứng vui tịch diệt. Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, ma sự sinh khởi phức tạp, các bộ nổi lên cạnh tranh, phần nhiều chấp trước theo hữu kiến. Bồ-tát Long Mãnh chứng địa Cực hỷ, góp nhặt giáo pháp không, vô tướng trong Đại thừa, làm thành Trung Luận v.v…, diễn xướng rốt ráo giáo nghĩa chân thật để trừ bỏ kiến chấp về hữu . Các vị Đại Luận sư như Thánh Đề Bà tạo bộ Bách Luận v.v…, mở mang nghĩa lớn, vì thế chúng sinh lại chấp trước theo không kiến. Bồ-tát Vô Trước ở quả vị Sơ địa, chứng định pháp quang, đắc đại thần thông, phụng sự bậc Đại Từ Tôn, xin nói Luận này, lý sự đều cùng tận, văn không gì là không giải thích, nghĩa không gì là không giảng giải, không nghi nào là không trừ, không chấp nào là không phá, không hành nào là không tu, không quả nào là không chứng. Chính vì Bồ-tát khiến đối với cảnh, hành, quả v.v… của các thừa đều được thiện xảo, siêng tu hành lớn, chứng Đại Bồ-đề, rộng vì hữu tình, thường giảng nói không điên đảo. Gồm vì thừa khác, khiến nương vào pháp mình, tu hành nơi phần mình, chứng đắc quả mình. Đó là lược nói về nguyên do của Luận này.

Nay nói Luận Du Già Sư Địa, về danh nghĩa như thế nào? Nghĩa là tất cả pháp hiện có như cảnh, hành, quả v.v… trong tất cả thừa đều gọi là Du Già. Tất cả đều có nghĩa phương tiện thiện xảo tương ưng.

Cảnh Du Già: Nghĩa là tất cả cảnh, tánh không điên đảo, tánh không trái nhau, tánh có thể tùy thuận, tánh hướng đến cứu cánh, hợp với giáo lý chân chánh, hành quả tương ưng, nên gọi là Du Già. Cảnh Du Già này, tuy chung cho tất cả, nhưng các Kinh Luận theo chỗ thuận hợp căn cơ, nên nói có nhiều khác nhau: Hoặc nói bốn thứ đạo lý của các pháp, gọi là Du Già. Bốn thứ đạo lý là Quán đãi, Tác dụng, Pháp nhĩ và Chứng thành, thâu tóm chung toàn bộ đạo lý chân chánh. Hoặc nói trong hai mươi bốn hành bất tương ưng, đều gọi là Du Già, nhân quả tương xứng không trái nghịch. Hai thứ này đều như nơi phần Quyết định lựa chọn, xứ xứ đều rộng nói. Hoặc nói thanh tịnh, tạp nhiễm là vô tánh, gọi là Du Già, trừ bỏ trái, hợp với thuận, rất là thù thắng, như trong Khế kinh Đại Phạm Vấn đã thuyết giảng. Các Sư Du Già quán xét không có chút pháp nào có thể khiến sinh cùng có thể khiến diệt, cũng không có chút pháp nào muốn khiến chứng đắc và muốn hiện quán. Nghĩa là đối với tất cả hành trong Du Già tạp nhiễm, vô tánh, quán xét không có chút pháp nào có thể khiến nó sinh và cũng có thể khiến nó diệt. Cho đến đối với tất cả hành trong Du Già thanh tịnh, vô tánh, quán xét không có chút pháp nào muốn khiến chứng đắc và muốn hiện quán. Hoặc nói chân như thanh tịnh rốt ráo, gọi là Du Già, chỗ cao nhất trong lý là tất cả công đức cùng tương ưng, như trong Khế kinh Nhập Lăng Già đã nói. Nếu quán nghĩa chân chánh, trừ bỏ phân biệt, xa lìa lỗi lầm, không có chủ thể giữ lấy, cũng không có đối tượng được giữ lấy, không mở không trói, bấy giờ ở trong định sẽ thấy Du Già, không nên nghi ngờ. Nghĩa lớn trong kinh nói từ một pháp tăng đến trăm pháp, đều gọi là Du Già, pháp môn tuy khác nhưng nghĩa không trái. Nghĩa rộng trong kinh nói uẩn, giới, xứ, duyên khởi, đế v.v… đều gọi là Du Già, thâu tóm tất cả cảnh, thuận với căn cơ. Đối với những thứ như vậy, trong các Kinh Luận nói tất cả cảnh đều gọi là Du Già, gồm đủ bốn tánh, thuận với bốn pháp.

Hành Du Già: Nghĩa là tất cả hành, lại thuận với nhau, xứng hợp với chánh lý, thuận với chánh giáo, đưa đến chánh quả, gọi là Du Già. Hành Du Già này, tuy chung cho các hành, nhưng các Kinh Luận theo tướng tùy căn cơ, nên mỗi mỗi nói khác nhau: Như trong Kinh Biện Du Già Sư Địa, nêu chánh tu các hành gọi là Du Già, thâu tóm chung tất cả hành tương ưng. Trong Kinh Nguyệt Đăng, nêu tu ba mươi bảy phần pháp Bồ-đề, gọi là Du Già. Những thứ này ở trong tất cả hành đều thuận với quả, rất là thù thắng. Ở trong Kinh Đại Phân Biệt Lục Xứ, biện biệt về chỉ, quán, bình đẳng vận hành, gọi là Du Già, như vậy là các hành chủ của chỉ quán. Trong Kinh Hải Tuệ, nói tu Tam-ma-địa, gọi là Du Già, trụ tâm phát khởi hành này là rất mạnh. Luận Hiển Dương v.v… nêu bốn pháp như tín, dục, phương tiện, tinh tấn, gọi là Du Già. Tác ý, hoặc trí, gọi là phương tiện, bốn thứ ấy sinh chung tất cả các hành. Địa do văn tạo thành, biện biệt về chín đạo, gọi là Du Già. Lãnh hội lý, trừ diệt Hoặc, phân biệt quả vị thù thắng, nghĩa là thế gian xuất thế gian, đối với các đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát, thắng tấn, gồm đủ ba phẩm hạ trung thượng. Địa do tu tạo thành, phân xét chung về tu tập các đạo đối trị, gọi là Du Già. Vì người ưa giản lược, nên nói tổng quát về sự tu tập. Có chỗ nói duyên thuộc về các địa, trí không điên đảo, gọi là Du Già. Trí không điên đảo duyên nơi pháp của các địa là sự thù thắng trong hành. Có chỗ lại nói các phương tiện thiện xảo, hoặc chỉ có phương tiện, gọi là Du Già. Tác ý và trí phát khởi hành thù thắng. Hoặc căn cứ theo chỗ trước tiên tỏ ngộ là thù thắng. Trong Khế kinh Công Đức Thật Tánh nói các quán duyên khởi, gọi là Du Già. Trí quán duyên khởi đối với việc ra khỏi sinh tử là quan trọng hơn cả. Trong Kinh Chánh Hạnh nói tám chi Thánh đạo như chánh kiến v.v… gọi là Du Già, vì hướng đến thành Niết-bàn, đây là thù thắng. Kinh Tỳ Nại Da nói tu giới v.v… gọi là Du Già, tức trong nhân của học giới định tuệ là thù thắng. Nơi Kinh Đại Nghĩa nói tu tập tất cả hành thế, xuất thế với phần vị sai khác, đều gọi là Du Già, vì thứ bậc của chánh hành luôn thuận hợp nhau. Như thế đều nói cùng với hành Thanh văn, gọi là Du Già, vì chứng đắc chung trong hành của ba thừa là thù thắng. Trong Khế kinh Tuệ Đáo Bỉ Ngạn nói tác ý quán không, gọi là Du Già, vì phát khởi đại hành, đấy là tối thắng. Như kinh ấy nói, Bồ-tát hiện có Đại Du Già, nghĩa là tác ý không. Bồ-tát do tác ý không này, nên không rơi vào địa Thanh văn, Độc giác, cho đến có thể làm thanh tịnh các cõi Phật. Tức trong kinh kia lại nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa, gọi là Du Già thù thắng, dẫn dắt hành Đại thừa, đây là hơn hết. Như kinh kia nói Bồ-tát hiện có, Du Già tuệ độ là tối thượng tối thắng trong các thứ Du Già, nói rộng cho đến là không gì có thể sánh bằng. Vì sao? Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa như vậy, đúng là pháp Du Già vô thượng. Các chỗ khác nói, tuệ độ này đã thâu tóm định không phân biệt, gọi là Du Già, vì có thể phát sinh tất cả công đức thù thắng. Chỗ khác lại nói, Bồ-tát hiện có tuệ, bi thù thắng cùng hành hóa bình đẳng, gọi là Du Già, vì có thể chứng Đại Niết-bàn vô trụ. Những thuyết như thế về các hành bất cộng, đều gọi là Du Già, vì có thể chứng Bồ-đề Phật Vô thượng. Như thế, trong các Kinh Luận, nói tất cả hành, đều gọi là Du Già, đầy đủ bốn thứ nghĩa như trên đã nói.

Quả Du Già: Nghĩa là tất cả quả thuận với nhau, hợp với chánh lý, thuận với chánh giáo, xứng với chánh nhân, gọi là Du Già. Quả Du Già này, tuy chung cho các quả, nhưng các Kinh Luận căn cứ theo tướng tùy căn cơ, nên mỗi mỗi nói khác nhau: Kinh Phân Biệt Nghĩa nói lực, vô úy, pháp bất cộng của Phật, gọi là Du Già, vì có thể hàng phục các ma, ngăn chận các dị thuyết, hơn hẳn các thừa khác. Trong Kinh Thù Thắng nói Đức Phật chứng đắc Niết-bàn vô trụ, gọi là Du Già, vì tận cùng đời vị lai là vô sở trụ. Kinh Đại Nghĩa nói địa Như Lai, với trí không phân biệt, cho đến đại bi, gọi là Du Già, vì tự lợi lợi tha luôn vô tận. Nơi Kinh Biện Thuyết Du Già Sư Địa nói về công đức của Phật địa, đều gọi là Du Già, vì cùng tận pháp giới, không có đoạn dứt. Kinh Phân Biệt Tam Thừa Công Đức nói quả đức của ba Thừa gọi là Du Già, vì đều cùng tương ưng với chánh lý v.v… Luận Tán Phật nói ba thân, ba đức đều là Du Già, vì tất cả quả đức không lìa nhau. Luận Tập Nghĩa nói quả vị đã thâu tóm các nhóm công đức hữu vi, vô vi, đều là Du Già, vì cùng đạt đến quả vị hòa hợp rốt ráo. Đối với những thứ trong các Kinh Luận như thế, tất cả quả đức đều gọi là Du Già, tức đầy đủ nghĩa nêu trên. Thánh giáo như vậy cũng gọi là Du Già, vì xứng với chánh lý, thuận với chánh hành, dẫn đến chánh quả, có nghĩa là chọn lấy đúng về hành quán của ba thừa, gọi là Du Già, vì luôn luôn tấn tu, hợp lý thuận hành, đắc quả thù thắng. Cảnh quả nơi Thánh giáo là cảnh Du Già, nên quả Du Già, bàn luận về Du Già cũng gọi là Du Già. Như thế, hai chữ Du Già trong Luận này hãy còn khuấy động khắp cả. Thánh giáo như biển lớn, làm sao nói đầy đủ. Địa Du Già Sư, sợ khó thọ trì, nên nói sơ lược. Hành giả của ba Thừa, do văn, tư, tu, theo thứ lớp tu tập hành Du Già như thế, tùy theo phần đầy đủ, lần lượt điều phục giáo hóa các hữu tình, nên gọi là Sư Du Già. Hoặc chư Như Lai chứng Du Già đầy đủ, tùy chỗ thuận hợp, đem Du Già ấy điều phục giáo hóa tất cả Thánh đệ tử v.v… khiến họ lần lượt tu chánh hạnh, gọi là Sư Du Già.

Địa: Nghĩa là cảnh giới, là nghĩa đối tượng nương dựa, đối tượng hành trì, hoặc đối tượng gồm thâu, đó là cảnh giới nơi đối tượng hành trì của Sư Du Già, nên gọi là Địa. Như cảnh giới của ngựa quý, chỉ ở trong ấy mà đi, không ra ngoài. Hoặc Sư Du Già nương vào xứ sở này làm tăng trưởng pháp thiện nên gọi là Địa, như đất trồng lúa. Hoặc trí thuộc về địa của Sư Du Già, nương nơi đấy để hiện hành, nương nơi đấy để tăng trưởng, nên gọi là Địa, như đất có châu báu. Hoặc Sư Du Già, hành ở trong ấy, thọ dụng pháp bạch, nên gọi là Địa, như đất của ngưu vương. Hoặc chư Như Lai gọi là Sư Du Già, có trí bình đẳng, cùng hành ở trong Du Già của Niết-bàn vô trụ nơi tất cả cảnh giới không hý luận, là chỗ thâu tóm của Sư Du Già, nên gọi là Địa. Hoặc mười bảy địa đều thuộc về hết thảy Sư Du Già, như đất của quốc vương nên gọi là Địa của Sư Du Già.

Hỏi đáp xét chọn tánh tướng của các pháp, do đó gọi là Luận. Nhằm khiến chứng đắc Địa của Sư Du Già mà nói Luận này, nên lấy làm tên, như Luận Đối Pháp. Hoặc lại Luận này, biện luận thuận hợp về Du Già Sư Địa, nên dùng phần ấy để xưng tên, như Kinh Thập Địa. Hoặc lại Luận này, nương dựa nơi địa ấy, nên lấy làm tên gọi, như hoa ở dưới nước, trên mặt đất, do đó Luận tên là Du Già Sư Địa.

Nay Thể của Luận này gồm có 5 phần:

1. Phần bản địa: Là phân biệt rộng lược về nghĩa trong mười bảy địa.

2. Phần thâu tóm quyết định lựa chọn: Là lược thâu tóm xét chọn về nghĩa chính yếu sâu kín trong mười bảy địa.

3. Phần giải thích thâu tóm: Là lược giải thích thâu tóm nghi thức của các kinh.

4. Phần thâu tóm môn khác: Là lược thâu tóm về danh nghĩa sai khác của các pháp đã có trong kinh.

5. Phần thâu tóm sự việc: Là lược thâu tóm nghĩa nơi các sự việc quan trọng trong ba Tạng.

Luận này có 5 phần như vậy, vì sao chỉ gọi Du Già Sư Địa? Vì căn cứ vào phần đầu tiên để lập tên, nên không có lỗi. Lại, tất cả pháp đều là Du Già Sư Địa. Do Sư Du Già dùng tất cả pháp làm duyên để nương dựa. Trong đây về giản lược nên nói mười bảy. Lại, mười bảy địa thâu tóm đầy đủ tất cả văn nghĩa. Bốn phần sau đều là giải thích các văn nghĩa quan trọng trong mười bảy địa, cũng không lìa Du Già Sư Địa, do đó Luận này dùng mười bảy địa làm tông yếu. Tuy lại nêu rõ chung về cảnh v.v… của các Thừa, như người giảng nói luận, hỏi đáp xét chọn tánh tướng của các pháp, ý là nói về Bồ-tát, khiến tất cả đều được thiện xảo, tu thành quả Phật, an vui lợi lạc không cùng tận, thế nên Luận này thuộc về A Tỳ Đạt Ma của Tạng Bồ-tát, nhằm khiến Bồ-tát chứng đắc thắng trí.

* Luận viết: Thế nào là Du Già Sư Địa? Nghĩa là mười bảy địa.

* Giải thích: Trước hết hỏi Du Già Sư Địa là thế nào? Đó là hỏi chung về một bộ phận tông yếu của Luận này. Người hỏi, trước nghe các kinh nói về Du Già Sư Địa, nhưng chưa hiểu nghĩa, nên hỏi câu này. Biện biệt về Du Già Sư Địa, trong kinh thường nói, chánh tu Du Già Sư Địa. Nơi Kinh Nguyệt Đăng cũng nói tu tập Du Già Sư Địa. Như vậy không phải là một, như trước đã nói rộng. Hoặc người làm luận, trước thọ thỉnh tất cả, thể của luận gồm năm phần đều ở trong tâm, muốn vì người hậu học phân biệt giải nói, tự tạm phát hỏi, làm nhân cho việc khởi thuyết, nên hỏi Du Già Sư Địa là thế nào. Nếu không như vậy, thì trước không lược nói, không thể bỗng nhiên hỏi địa này là thế nào. Lại, người nêu hỏi, lược có năm loại:

  1. Không hiểu nên hỏi.
  2. Nghi hoặc nên hỏi.
  3. Xét nghiệm nên hỏi.
  4. Vì mới tiếp xúc nên hỏi.
  5. Vì muốn tạo lợi ích an vui cho hữu tình nên hỏi.

Nay chính phần thứ năm, chuyên vì lợi lạc cho các loài hữu tình, nên tạo ra Luận này. Gọi là mười bảy địa: Là tập hợp chung chỗ nói về Du Già Sư Địa, lược có mười bảy, nếu an lập rộng, ngôi thứ của địa là vô biên, trong mỗi một địa, phần vị sai khác, nghĩa cũng vô biên, như vậy là một lượt, hỏi chung và đáp chung.

* Luận viết: Những gì là mười bảy? Tụng nói:

Năm thức tương ưng, ý

Có tầm, tứ là ba

Tam-ma-địa câu phi

Địa có tâm, không tâm

Văn, tư, tu đã lập

Như vậy đủ ba thừa

Hữu y và vô y

Đó gọi mười bảy địa.

* Giải thích: Do duyên nào lại hỏi những gì là mười bảy? Tuy nghe tổng số, nhưng chưa rõ về biệt danh, nên mới hỏi. Ốt-đà-nam là trước làm tụng giản lược để trả lời, lược góp tên địa, cung cấp cho các người học, gọi là Ốt-đà-nam.

Năm thức tương ưng: Nghĩa là địa năm thức thân tương ưng.

Ý: Nghĩa là địa ý.

Có tầm, tứ là ba: Nghĩa là ba địa như địa có tầm có tứ v.v…

Tam-ma-địa câu: Nghĩa là Tam-ma-địa. Câu gọi là địa Tamma-hí-đa. Phi nghĩa là phi Tam-ma-địa. Câu phi nghĩa là phi địa Tam ma hý đa. Đây là căn cứ vào một tướng, nếu chia ra tên địa thì lý nói không cùng tận. Hai tên như thế, xen nhau rộng hẹp. Tên Tamma-địa, chung cho cả định và bất định, nhưng chỉ tại hữu tâm. Tamma-hí-đa, thông cả vị hữu tâm và vị vô tâm, chỉ hạn cuộc ở định như phần sau sẽ nói rộng.

Như vậy đủ ba Thừa: Nghĩa là các địa do văn v.v… tạo như vậy, hoặc do đạt đến các địa trên như vậy, chứng đắc đầy đủ ba thừa và địa Hữu dư y, Vô dư y. Mỗi một tên riêng sau sẽ giải thích rộng.

* Luận viết: (1) Địa năm thức thân tương ưng. (2) Địa ý. (3) Địa có tầm có tứ. (4) Địa không tầm chỉ có tứ. (5) Địa không tầm không tứ. (6) Địa Tam-ma-hí-đa. (7) Địa phi Tam-ma-hí-đa. (8) Địa có tâm. (9) Địa không tâm. (10) Địa do văn tạo thành. (11) Địa do tư tạo thành. (12) Địa do tu tạo thành. (13) Địa Thanh văn. (14) Địa Độc giác. (15) Địa Bồ-tát. (16) Địa Hữu dư y. (17) Địa Vô dư y. Lược nói mười bảy thứ như vậy gọi là Địa Du Già Sư.

* Giải thích: Tiếp theo là liệt kê rộng về tên, lại trả lời câu hỏi trước.

Nói Địa năm thức thân tương ưng: Nghĩa là các căn như nhãn v.v… và các thức như nhãn v.v… không cùng chỗ dựa. Nhãn v.v… không làm chỗ dựa cho các thức khác, lại làm chỗ dựa cho chính mình. Nhãn v.v… có độn có lợi. Thức có sáng có mờ. Lại đồng thời nương dựa, nhất định cùng hiện hữu. Không như ý v.v… là do năm thức dùng các căn như nhãn v.v… Nêu riêng về tên, giống như mầm lúa mạch, cũng như tiếng trống v.v…, nên gọi là năm thức. Do chỗ dựa là căn có hình ngại, lại nhất định không lìa thân sở y (thân là chỗ dựa), nên giống như thân thọ, vì vậy gọi là thân. Lại nữa, thân ấy là dựa nơi thể của nghĩa, nghĩa như sáu thức thân, sáu tư thân v.v… cùng dựa nơi năm thức thân để kiến lập địa này, nên gọi là tương ưng. Như trong Luật nói: Vua bàn luận tương ưng, giặc bàn luận tương ưng. Nghĩa là dựa vào vua và giặc để nêu lên chỗ luận bàn. Đây cũng như vậy. Tuy trong địa này phân biệt nhiều pháp, nhưng năm thức làm chủ, thế nên nói riêng. Lại, năm thức thân tương ưng với các thứ tâm, gọi chung là tương ưng. Do trong địa này, tuy nêu rõ nhiều pháp, nhưng vì tâm và tâm sở thù thắng nên nói riêng. Lại tương ưng là nghĩa thuộc về, tức là trong địa này, nói năm thức tương ưng là chỗ thâu tóm các pháp, tức là bàn về tự tánh, đối tượng nương dựa, đối tượng duyên, trợ bạn và tạo nghiệp, nên gọi là tương ưng. Địa như trước đã nói. Các địa từ đây trở về sau thức thân tương ưng, tùy theo chỗ thích hợp, cũng có phần chung nhưng lược bớt nên không nói.

Nói Địa ý: Thức thứ sáu, thứ bảy và thức A-lại-da cùng nương vào ý căn, lược bỏ ba chữ thức thân tương ưng nên chỉ nói ý. Lại theo môn thật nghĩa, tuy có tám thức, nhưng tùy theo môn nền tảng chỉ có sáu thức. Thức thứ sáu, thứ bảy và thứ tám cùng thuộc về thức thứ sáu, căn cứ vào chỗ dựa để gọi tên nên chỉ nói là ý. Chỗ dựa không phải sắc, hoặc lìa nơi thân, tựa như tâm thọ, nên không nói thân. Tương ưng căn cứ theo trước, do đó lược không nói. Lại thức thứ sáu, thứ bảy và thứ tám, tuy đồng có nghĩa tâm ý thức, tâm pháp, ý xứ, thuộc về thức uẩn, nhưng nghĩa của ý nổi bật nên chỉ nói ý, đều là suy xét lường tính, thuộc về ý căn. Thức thứ tám giữ gìn chủng tử, nghĩa tâm riêng mạnh. Thức thứ sáu phân biệt về cảnh giới hiện bày khắp, nghĩa thức riêng mạnh. Vì thế không nói thức địa, tâm địa. Thân và tương ưng lược không nói. Nghĩa của địa như trước. Vì duyên nào mà năm thức hợp lại lập thành một địa được nói trước? Các thức còn lại lập thành một, nói ở phần thứ hai. Năm thức đồng nghiệp, không nên nói về đối tượng duyên được phân biệt. Chỗ nói ít sự việc nên hợp lập làm một, nêu bày đầu tiên. Ý địa ngược với đây nên lập riêng thành một, nói ở phần thứ hai. Lại, vì năm thức đồng dựa nơi sắc căn, đồng duyên nơi sắc cảnh, nên hợp lập làm một. Các thức còn lại dựa nơi vô sắc, đối tượng duyên không nhất định nên lập riêng làm một. Tự tánh dựa nơi duyên thô tế thứ lớp, nên nói trước sau. Lại, năm thức đồng thuộc về hiện lượng, vì thế hợp lập làm một, nói trước hết. Thức còn lại không nhất định, hoặc thuộc về hiện lượng hoặc tỷ lượng hoặc phi lượng, do đó lập riêng làm một, và nói ở phần thứ hai. Hai địa như vậy, tự tánh, chỗ dựa, duyên, trợ bạn tạo nghiệp, hợp làm thể, thâu tóm tất cả pháp, nên biết trong đây tất cả pháp không lìa thức, dựa nơi thức sinh khởi. Thức làm thể, thức là tối thắng. Trước dựa vào tám thức, kiến lập hai địa, tám thức như thế tự tánh, chỗ dựa, duyên, trợ bạn, tạo nghiệp v.v… sau sẽ nói rộng.

Ba địa như Địa có tầm có tứ v.v…: Tầm nghĩa là tìm cầu. Tứ nghĩa là quán xét, hoặc tư hoặc tuệ đối với cảnh tìm cầu. Ở phần vị thô gọi là tầm, tức là hai loại này. Đối với cảnh quán xét kỹ càng, ở phần vị tế gọi là tứ. Không phải nơi một sát-na hai pháp tương ưng, mỗi loại thô tế trước sau khác nhau. Nay nương vào hai loại này, kiến lập nghĩa Hữu ở ba địa. Ba địa này căn cứ hai loại trước sau tương ưng mà kiến lập. Nghĩa là địa cõi dục và tĩnh lự thứ nhất, tâm thô, tâm sở trước sau nối tiếp, có thể có tầm tứ cùng tương ưng, nên gọi là địa có tầm có tứ. Nơi tĩnh lự trung gian, tâm thô, tâm sở trước sau tương tục, quyết định không có tầm chỉ có thể cùng với tứ tương ưng, nên gọi là địa không tầm chỉ có tứ. Các địa từ tĩnh lự thứ hai trở lên, các tâm, tâm sở trước sau tương tục, quyết định không cùng với tầm, tứ tương ưng, nên gọi là địa không tầm không tứ. Hoặc địa cõi dục, tĩnh lự thứ nhất, tĩnh lự trung gian, tâm tế, tâm sở, không cùng với tầm tứ tương ưng, đến tất cả sắc, bất tương ưng hành, các pháp vô vi không cùng với tầm tứ tương ưng, cũng đều gọi là địa không tầm không tứ. Cho nên phần Luận sau nói: Địa có tầm có tứ, địa không tầm chỉ có tứ, toàn bộ là địa có tâm. Thùy miên không tâm, muộn tuyệt (chết giấc) không tâm, định vô tưởng, sinh vô tưởng, định diệt tận, cùng với cảnh giới Niết-bàn vô dư y gọi là địa có nghĩa không tâm. Ba địa này căn cứ vào phần vị của hai thứ lìa dục để kiến lập. Nghĩa là địa cõi dục và tĩnh lự thứ nhất, các pháp giả, nơi tầm và tứ đều chưa lìa dục, gọi là địa có tầm có tứ. Nơi tĩnh lự trung gian, các pháp giả, tầm đã lìa dục, tứ chưa lìa dục, gọi là địa không tầm chỉ có tứ. Tĩnh lự thứ hai trở lên các địa trên, các pháp giả, ở tầm và tứ đều đã lìa dục, gọi là địa không tầm không tứ. Hoặc ở địa dưới đều đã lìa dục, cũng được gọi là không tầm không tứ, nên phần Luận tiếp sau nói: Trong đây, do lìa dục của tầm tứ, nên nói là địa không tầm không tứ, chẳng phải do không hiện hành. Vì sao? Vì chưa lìa dục nơi cõi dục. Do giáo hóa dẫn dắt tác ý sai khác, ở trong một thời gian cũng có ý không tầm không tứ hiện hành. Đã lìa dục của tầm tứ, cũng có tầm tứ hiện hành, như ra khỏi định kia và sinh vào địa kia. Theo nghĩa như thật: Ba địa này chỉ căn cứ vào địa giới để kiến lập, nghĩa là địa cõi dục và tĩnh lự thứ nhất, các pháp hữu lậu vô lậu trong đó tầm tứ đều có thể đạt được, nên gọi là Địa thứ nhất. Tĩnh lự trung gian, các pháp hữu lậu vô lậu, trong đó không tầm chỉ có tứ, nên gọi là Địa thứ hai. Các địa từ tĩnh lự thứ hai trở lên, các pháp hữu lậu vô lậu, trong đó tầm tứ đều không có, vì thế gọi là Địa thứ ba. Cho nên phần Luận tiếp sau nói: Trong cõi dục và tĩnh lự thứ nhất này, hoặc định hoặc sinh gọi là địa có tầm có tứ. Tĩnh lự trung gian, hoặc định hoặc sinh gọi là địa không tầm chỉ có tứ. Từ tĩnh lự thứ hai trở lên Sắc giới, Vô sắc giới, hoàn toàn gọi là địa không tầm không tứ. Định của tĩnh lự thứ nhất vô lậu hữu vi cũng gọi là địa có tầm có tứ, tức dựa nơi xứ của tầm tứ. Vì pháp duyên nơi chân như làm cảnh, nhập định này, nên không do phân biệt hiện hành. Ngoài ra như trước nói. Nếu căn cứ vào tương ưng và căn cứ vào lìa dục để kiến lập ba địa, thì thâu tóm pháp không cùng tận, cũng rất tạp loạn. Tuy nói địa có tầm có tứ v.v… nhưng chỉ là có tâm. Căn cứ vào một môn này, biện biệt sơ về tướng của địa, ở trong môn này chỉ nói tĩnh lự thứ hai trở lên là địa không tầm không tứ. Định vô tưởng, sinh vô tưởng, định diệt tận, gọi là địa không tâm, ngoài ra tất cả vị gọi là địa có tâm. Sau có bốn môn, lại kiến lập khác, như sau sẽ nói. Tuy trong đây nói do lìa dục của tầm tứ, nên gọi là địa không tầm không tứ, nhưng chỉ nói các địa từ tĩnh lự thứ hai trở lên, tất đã lìa dục của địa tầm tứ. Không nói lìa dục của tầm tứ là các pháp ở địa dưới, cũng được gọi là không tầm không tứ. Nếu như vậy thì chưa lìa dục nơi tầm tứ của địa dưới, các pháp của địa trên cũng nên nói là có tầm có tứ. Kiến lập như thế, trở thành quá lộn xộn, nên ba địa này chỉ căn cứ vào giới, địa trên dưới để kiến lập.

Nói Địa Tam-ma-hí-đa: Nghĩa là địa thắng định, lìa trạo cử, hôn trầm v.v…, chủ thể dẫn bình đẳng, hoặc dẫn bình đẳng, hoặc là bình đẳng nơi đối tượng dẫn phát nên gọi là địa đẳng dẫn có nghĩa. Tên gọi này chỉ thâu tóm tất cả các định có tâm, đều có thể bình đẳng dẫn sinh công đức, không chung với không tâm, vì trong tụng trước nói: Tam-ma-địa câu.

Tam-ma-địa: Là tâm số pháp trong biệt cảnh. Hai định không tâm không thể bình đẳng dẫn sinh các công đức, nên là địa phi đẳng dẫn. Nếu như vậy thì vì sao nói là địa đẳng dẫn? Địa đẳng dẫn này lược có bốn thứ: Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng trì và Đẳng chí. Nói Tĩnh lự nghĩa là bốn tĩnh lự. Nói Giải thoát nghĩa là tám giải thoát. Nói Đẳng trì nghĩa là Đẳng trì không, Đẳng trì vô nguyện, Đẳng trì vô tướng. Nói Đẳng chí nghĩa là năm Đẳng chí hiện kiến, Đẳng chí tám thắng xứ, Đẳng chí mười biến xứ, Đẳng chí bốn vô sắc, Đẳng chí vô tưởng, Đẳng chí diệt tận, những thứ này không có lỗi. Hai định vô tâm là quả đẳng dẫn, nên cùng mang tên, thật sự không phải là đẳng dẫn có nghĩa. Tên gọi này chung cho cả vị có tâm và vị không tâm, là thể của định hiện có. Hoặc định có tâm, bình đẳng có thể dẫn sinh các công đức, cũng dẫn đại chủng của các căn bình đẳng, cùng lìa trạo cử, hôn trầm, giới không hối, phương tiện bình đẳng, là chỗ dẫn phát nên gọi là đẳng dẫn. Hoặc định không tâm tuy không thể dẫn sinh công đức thù thắng, nhưng dẫn căn, đại chủng bình đẳng v.v…, là chỗ dẫn của định bình đẳng này phát khởi nên cũng gọi là đẳng dẫn. Nếu như vậy thì vì sao trong Tụng trước nói Tam-ma-địa câu? Đây không có lỗi. Văn trong tụng lược, lại nói câu, kỳ thật đẳng dẫn không phải là câu, cũng là nói sau đẳng dẫn chung cho không tâm.

Nghĩa như thật: Địa đẳng dẫn gọi là có chung có riêng, có tâm không tâm, hai vị đều thâu tóm, nên gọi là chung. Sau nói định vô tưởng, định diệt tận, cũng là thể của địa đẳng dẫn, nên chỉ ở tại thắng định hữu lậu vô lậu, không có trong tất cả tâm tán loạn nơi cõi dục, nên gọi là giới hạn (riêng). Do sau nói chỉ là tĩnh lự v.v… gọi là địa đẳng dẫn không phải ở nơi cõi dục, tâm tánh một cảnh. Do đẳng dẫn này, chỗ dẫn không hối, hoan hỷ, an vui. Cõi dục thì không như vậy. Căn cứ theo cõi trên này, nếu ở tâm tán loạn cũng không phải là đẳng dẫn, đồng với cõi dục v.v… Do chỗ tương đối ấy nên có thể nêu ra bốn trường hợp:

Hoặc là Đẳng trì câu không phải là địa đẳng dẫn: Nghĩa là cõi dục trong phần vị tâm tán loạn. Tam-ma-địa câu là tâm, tâm sở.

Hoặc là địa đẳng dẫn không phải là Đẳng trì câu: Nghĩa là trong vị định, thể Tam-ma-địa và vị định vô tưởng, định diệt tận, các pháp hiện có.

Hoặc là Đẳng trì câu cũng là địa đẳng dẫn: Nghĩa là các tĩnh lự và các định vị vô sắc có tâm, tâm, tâm sở, trừ Tam-ma-địa.

Hoặc đều không phải: Nghĩa là trừ các vị trên, còn lại là các pháp hiện có.

Lại Tam-ma-địa, Tam-ma-bát-để, Tam-ma-hí-đa, danh có rộng, hẹp. Tam-ma-địa là đẳng trì trong danh mục tâm số, một pháp gồm thâu chung tất cả, trong vị có tâm, tâm tánh một cảnh, chung nơi định vị tán. Nhưng các Kinh Luận căn cứ theo chỗ thù thắng chỉ nói không, vô nguyện v.v… gọi là Tam-ma-địa.

Tam-ma-bát-để là nêu chung về tất cả thể của định hiện có trong phần vị của các định có tâm không tâm. Trong các Kinh Luận căn cứ theo chỗ thù thắng nên chỉ nói các định tương ưng như năm thứ hiện thấy v.v… gọi là đẳng chí.

Địa đẳng dẫn là tên nêu chung cho công đức của tất cả định vị có tâm không tâm, nên trong địa này đã gồm thâu chung tất cả công đức của vị định. Do chỗ chung ấy nên nêu riêng về tên của địa.

Nói Địa phi Tam-ma-hí-đa: Tức là trái ngược với trên là dễ hiểu rõ, không cần giải thích rộng.

Hai địa như thế là gồm thâu chung tất cả các pháp hiện có của vị định phi định.

Nói Địa có tâm – không tâm: Lược căn cứ nơi năm môn kiến lập có khác nhau.

1. Căn cứ theo môn nói chung về địa: Nghĩa là địa năm thức thân tương ưng, địa ý, địa có tầm có tứ, địa không tầm chỉ có tứ. Bốn địa này toàn bộ là địa có tâm. Trong địa không tầm không tứ, trừ định vô tưởng, sinh vô tưởng và định diệt tận, ngoài ra hoàn toàn là địa có tâm. Như vậy, định vô tưởng, sinh vô tưởng và định diệt tận là địa không tâm. Ở trong môn này, ngủ nghỉ không tâm, sầu tuyệt không tâm, cũng gọi là có tâm, vì có thức bảy, tám, chỉ có định vô tưởng, tâm bất tương ưng hành cùng với tâm trái nhau, gọi là địa không tâm.

2. Môn tâm loạn không loạn: Nghĩa là bốn điên đảo. Chỗ tâm bị đảo loạn, gọi là địa không tâm, vì mất bản tánh.

3. Môn tâm sinh không sinh: Nghĩa là nếu đầy đủ các duyên thì tâm này được sinh, gọi là địa có tâm. Nếu duyên không đủ thì tâm đó không sinh, gọi là địa không tâm. Trong môn này, tùy theo tâm ấy sinh gọi là địa có tâm, tâm kia không sinh gọi là địa không tâm.

4. Môn phần vị kiến lập: Nghĩa là trừ sáu vị, số còn lại gọi là địa có tâm. Tức là vị thùy miên không tâm, vị sầu tuyệt không tâm, vị định vô tưởng, vị sinh vô tưởng, vị định diệt tận và vị cảnh giới Niết-bàn vô dư y, gọi là địa không tâm.

5. Môn căn cứ nơi nghĩa chân thật: Nghĩa là chỉ có cảnh giới Niết-bàn vô dư y, trong đó các tâm đều vắng lặng, gọi là địa không tâm. Các vị khác do không có các thức chuyển, giả gọi là không tâm. Do thức thứ tám chưa diệt hết, nên gọi là địa có tâm. Hai địa như vậy, các môn có sai khác, tiến thoái không nhất định.

Địa do văn tạo thành: Nghĩa là từ chỗ nghe sinh ra hiểu biết về văn nghĩa, tuệ và tuệ tương ưng nơi tâm, tâm sở.

Địa do tư tạo thành: Nghĩa là từ suy nghĩ sinh ra hiểu biết về pháp tướng, tuệ và tuệ tương ưng nơi tâm, tâm sở.

Địa do tu tạo thành: Nghĩa là từ chỗ tu tập sinh ra hiểu biết về lý sự, tuệ và tuệ tương ưng nơi tâm, tâm sở.

Văn: Nghĩa là lắng nghe, tức là nhĩ căn phát sinh nhĩ thức, nghe ngôn giáo.

Tư: Nghĩa là suy nghĩ, tức là suy nghĩ thường phát sinh trí tuệ, suy nghĩ chọn lựa pháp.

Tu: Nghĩa là tu tập, tức là định thù thắng, phát sinh trí tuệ, tu tập đối trị.

Từ ba thứ này phát sinh ba tuệ và pháp tương ưng. Đẳng gọi là thể của ba địa. Nghĩa của ba tuệ là rộng lớn, như sau sẽ phân biệt. Ba địa như vậy dùng ba phẩm tuệ, tâm, tâm sở và chỗ chứng đắc quả làm tự tánh, nên phần Luận tiếp sau nói: Địa do tu tạo thành cũng là địa hữu dư, vô dư y.

Địa Thanh văn: Nghĩa là Thánh giáo của Đức Phật, âm thanh là đứng đầu. Từ chỗ thầy bạn nghe lời dạy bảo ấy, lần lượt tu chứng, vĩnh viễn ra khỏi thế gian, hành tiểu, quả tiểu, nên gọi là Thanh văn. Chủng tánh Thanh văn như thế, phát tâm tu hành đắc quả, tất cả nói chung là địa Thanh văn.

Địa Độc giác: Thường ưa thích vắng lặng, không muốn ở lẫn lộn, tu gia hạnh đầy đủ, không có thầy bạn dạy bảo, tự nhiên một mình giác ngộ, vĩnh viễn ra khỏi thế gian, hành trung, quả trung, nên gọi là Độc giác. Hoặc quán duyên đối đãi mà giác ngộ Thánh quả, cũng gọi là Duyên giác. Chủng tánh Độc giác như vậy, phát tâm tu hành đắc quả, tất cả nói chung là địa Độc giác.

Địa Bồ-tát: Mong cầu đại giác, thương xót hữu tình, hoặc cầu Bồ-đề, chí nguyện vững mạnh, thời gian dài tu chứng, vĩnh viễn ra khỏi thế gian, hành đại, quả đại, nên gọi là Bồ-tát. Chủng tánh Bồtát như vậy, phát tâm tu hành đắc quả, tất cả nói chung là địa Bồ-tát. Nghĩa lớn của Tam thừa sau sẽ biện biệt.

Địa hữu dư y: Nghĩa là địa Niết-bàn hữu dư y. Y tức là chỗ dựa của hữu lậu, lược có tám thứ: (1) Y nêu đặt: Nghĩa là năm thủ uẩn, do nương dựa nơi đấy, giả thiết lập, gọi là chủng tánh. (2) Y thâu nhận: Nghĩa là bảy sự thâu tóm, là cha mẹ, vợ con, nô tỳ, người giúp việc, đầy tớ còn nhỏ, bạn bè, bà con. (3) Y trụ trì: Nghĩa là bốn thứ ăn. (4) Y lưu chuyển: Nghĩa là bốn thức trụ, mười hai duyên khởi. (5) Y chướng ngại: Nghĩa là các thiên ma. (6) Y khổ não: Nghĩa là các cõi dục. (7) Y vui thích: Nghĩa là lạc trong các định. (8) Y hậu biên: Nghĩa là các uẩn tương tục của A-la-hán. Nay hoàn toàn lấy một thứ sau cùng là y hậu biên, trừ sáu sự gồm thâu, lưu chuyển, chướng ngại, lấy một phần còn lại.

Lại trong địa này có bốn thứ vắng lặng: (1) Vắng lặng về khổ: Nghĩa là các khổ trong vị lai rốt ráo không sinh. (2) Vắng lặng về Hoặc: Nghĩa là các phiền não hoàn toàn không sinh. (3) Vắng lặng về nghiệp: Nghĩa là không làm ác, tu tập các thiện. (4) Vắng lặng của xả: Nghĩa là sáu thứ hằng trụ nơi sáu căn môn, không vui, không buồn, an trụ trong xả nêu trên, chánh niệm, chánh trí. Bậc A-la-hán v.v… trụ ở địa vô học, đầy đủ bốn thứ vắng lặng, có một ít dư y, cho nên gọi là địa hữu dư y. Địa này tức là Nhị thừa, trong thân vô học, các pháp hữu lậu vô lậu, toàn bộ là tự tánh Như Lai, tuy thân tâm không chân thật là dư y hữu lậu, nhưng có biến hóa tựa như y hữu lậu, do đó căn cứ vào tướng biến hóa cũng được gọi là Địa hữu dư y.

Địa vô dư y: Nghĩa là địa Niết-bàn vô dư y. Tất cả dư y hữu lậu đều xả, hữu vi vô lậu của Nhị thừa cũng xả. Đức Như Lai tuy có hữu vi vô lậu, nhưng không có tất cả dư y hữu lậu, nên cũng gọi là Địa vô dư y. Trong địa này chỉ có chân như thanh tịnh hiển bày công đức sâu xa, lìa các phân biệt, dứt các hý luận, không thể nói là uẩn, xứ, giới v.v… cho đến trời, người v.v… hoặc tức hoặc lìa, hoặc hữu hoặc vô, danh tướng hiện có, đều là nghĩa giả nói có. Địa này chính là dùng trạch diệt chân như vô vi rốt ráo làm tánh, cùng dùng công đức hữu vi vô lậu của Như Lai làm tánh. Công đức của Như Lai sâu xa lìa tướng, không thể nói nêu. Không nói cũng gồm thâu địa năm thức nhưng lý thật cũng thâu tóm nghĩa có. Công đức hữu vi của Như Lai thuộc về hữu dư y. Công đức vô vi của Như Lai thuộc về vô dư y. Cho nên phần Luận sau nói: Địa vô dư y là một phần của năm địa. Nghĩa là Địa không tâm, Địa do tu tạo thành, Địa Thanh văn, Địa Độc giác và Địa Bồ-tát.

HẾT