TRUNG LUẬN
Tác giả: Bồ tát Long Tho
Giải thích: Phạm chí Thanh Mục
Hán dịch: Đời Diêu Tần, Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 4

Phẩm thứ 22: QUÁN VỀ NHƯ LAI

(Gồm 16 kệ)

Hỏi: Các bậc tôn quý trong tất cả thế gian chỉ có Đức Như Lai Chánh Biến Tri hiệu là Pháp vương, bậc Nhất thiết trí tức là thật có chăng?

Đáp: Nay nên suy nghĩ kỹ, nếu có nên giữ lấy. Nếu không có thì giữ lấy gì. Vì sao? Vì Như Lai là:

Không phải ấm, lìa ấm

Đây, kia không tương tại

Như Lai không có ấm

Xứ nào có Như Lai.

Nếu Như Lai thật có, thì năm ấm là Như Lai hay là lìa năm ấm có Như Lai. Hay là trong Như Lai có năm ấm. Hay là trong năm ấm có Như Lai. Hay là Như Lai có năm ấm? Hết thảy đều không đúng.

Năm ấm không phải là Như Lai. Vì sao? Vì năm ấm là tướng sinh diệt. Nếu Như Lai là năm ấm, thì Như Lai tức là tướng sinh diệt. Nếu là tướng sinh diệt thì Như Lai tức có các lỗi như vô thường, đoạn diệt v.v… Lại người thọ là Như Lai, pháp thọ là năm ấm, nếu người thọ và pháp thọ là một thì không đúng. Thế nên Như Lai không phải là năm ấm.

Lìa năm ấm cũng không có Như Lai. Vì sao? Vì nếu lìa năm ấm mà có Như Lai, thì Như Lai không có tướng sinh diệt. Nếu như vậy thì Như Lai có lỗi là thường còn v.v… Lại không thể dùng các căn như mắt, tai v.v… để thấy biết, nhưng việc ấy là không đúng. Vì vậy nên biết lìa năm ấm cũng không có Như Lai.

Lại, trong Như Lai cũng không có năm ấm. Vì sao? Vì nếu trong Như Lai có năm ấm, thì như trong đồ đựng có hoa quả, trong nước có cá, như thế Như Lai và năm ấm khác nhau. Nếu khác nhau thì có lỗi Như Lai là thường như trên. Vì thế nên biết trong Như Lai không có năm ấm.

Lại, trong năm ấm cũng không có Như Lai. Vì sao? Vì nếu trong năm ấm có Như Lai, như trên giường có người, trong đồ đựng có sữa. Như vậy tức có biệt dị, nên cũng có lỗi như trên. Thế nên trong năm ấm không có Như Lai.

Lại, Như Lai cũng không có năm ấm. Vì sao? Vì nếu Như Lai có năm ấm, như có con, như thế tức Như Lai và năm ấm khác nhau. Nếu như vậy thì cũng có lỗi như trên. Do thế nên biết Như Lai không có năm ấm.

Như thế theo năm cách ấy tìm Như Lai không thể thủ đắc, vậy thế nào là Như Lai?

Hỏi: Nghĩa cầu tìm Như Lai như thế là không thể được. Nhưng năm ấm hòa hợp là có Như Lai?

Đáp:

Ấm hợp có Như Lai

Tức không có tự tánh

Nếu không có tự tánh

Sao nhân nơi tha tánh.

Nếu Như Lai do năm ấm hòa hợp mà có, tức là Như Lai không có tự tánh. Vì sao? Vì nhân nơi năm ấm hòa hợp mà có.

Hỏi: Như Lai không do tự tánh mà có thì chỉ nhân nơi tha tánh mà có?

Đáp: Nếu không có tự tánh thì làm sao nhân nơi tha tánh để có. Vì sao? Vì tha tánh cũng không có tự tánh. Lại vì không nhân nơi đối đãi nhau nên tha tánh cũng không thể được. Vì không thể được nên không gọi là tha.

Lại nữa,

Pháp nếu nhân tha sinh

Tức là không phải ngã

Nếu pháp không phải ngã

Sao gọi là Như Lai.

Nếu pháp nhân nơi các duyên sinh tức không có ngã. Như nhân nơi năm ngón nên có nắm tay. Nắm tay ấy không có tự thể. Như vậy nhân nơi năm ấm gọi là ngã, ngã ấy tức không có tự thể. Ngã có nhiều tên gọi. Hoặc gọi chúng sinh, người, trời, Như Lai v.v… Nếu Như Lai nhân nơi năm ấm mà có, tức Như Lai không có tự tánh, không có tự tánh nên không có ngã, nếu không có ngã làm sao nói là Như Lai. Vì thế trong kệ nói: Pháp nếu nhân tha sinh, Tức là không phải ngã, Nếu pháp không phải ngã, Sao gọi là Như Lai.

Lại nữa,

Nếu không có tự tánh

Làm sao có tha tánh

Lìa tự tánh, tha tánh

Gì gọi là Như Lai.

Nếu không có tự tánh thì tha tánh cũng không thể có. Vì nhân nơi tự tánh nên gọi là tha tánh. Cái này không nên cái kia không. Do đấy tự tánh, tha tánh cả hai đều không. Nếu lìa tự tánh, tha tánh thì cái gì là Như Lai?

Lại nữa,

Nếu không nhân năm ấm

Trước đã có Như Lai

Do nay thọ năm ấm

Tức gọi là Như Lai.

Nay thật không thọ ấm

Lại không pháp Như Lai

Nếu do không thọ, không

Nay tức làm sao thọ.

Nếu như chưa có thọ

Chỗ thọ không gọi thọ

Không có pháp không thọ

Mà gọi là Như Lai.

Nếu ở trong một, khác

Như Lai không thủ đắc

Năm cách tìm cũng không

Làm sao trong thọ có.

Lại chỗ thọ năm ấm

Không từ tự tánh có

Nếu không từ tự tánh

Làm sao có tha tánh.

Nếu nói khi chưa thọ năm ấm, trước đã có Như Lai, thì Như Lai ấy nay nên thọ năm ấm, thành Như Lai, nhưng thật sự khi chưa thọ năm ấm, trước không có Như Lai, bây giờ làm sao được thọ. Lại, người không thọ năm ấm thì năm ấm không gọi là thọ, không có không thọ mà gọi là Như Lai. Lại, trong tướng một – khác, tìm cầu Như Lai không thể được. Trong năm ấm theo năm cách tìm cầu Như Lai cũng không thể được. Nếu như vậy làm sao ở trong năm ấm nói là có Như Lai. Lại, năm ấm được thọ không từ tự tánh có. Nếu cho từ tha tánh có, nhưng nếu không từ tự tánh có, làm sao từ tha tánh có được. Vì sao? Vì không có tự tánh nên tha tánh cũng không.

Lại nữa,

Do các nghĩa như vậy

Thọ không, người thọ không

Vì sao lại lấy không

Nói không là Như Lai.

Theo nghĩa ấy suy nghĩ, thọ và người thọ đều không. Nếu đã đều là không, làm sao lấy thọ không ấy để gọi không là Như Lai.

Hỏi: Luận chủ cho thọ không, người thọ không, vậy nhất định là có không ấy chăng?

Đáp: Không đúng. Vì sao?

Không tức không thể nói

Chẳng không không thể nói

 Cùng, chẳng cùng, không nói

Chỉ do giả danh nêu.

Các pháp không tức không thể nói. Các pháp chẳng không cũng không thể nói. Các pháp không và chẳng không cũng không thể nói. Các pháp chẳng phải không chẳng phải chẳng không cũng không thể nói. Vì sao? Vì chỉ để phá sự trái nhau nên giả danh mà nói. Tư duy chánh quán như vậy thì đối với thật tướng của các pháp không nên dùng các vấn nạn để vấn nạn. Vì sao?

Trong tướng tịch diệt không

Bốn tướng thường, vô thường v.v…

Trong tướng tịch diệt không

Bốn tướng biên, vô biên v.v…

Thật tướng của các pháp là tịch diệt vi diệu như thế. Chỉ do nơi đời quá khứ khởi bốn thứ tà kiến, cho thế gian là hữu thường, thế gian là vô thường, thế gian là thường – vô thường, thế gian là không phải thường không phải vô thường, còn trong tịch diệt thì không có việc ấy. Vì sao? Vì thật tướng của các pháp là hoàn toàn thanh tịnh, không thể chấp giữ. Pháp không hãy còn không thọ nhận huống gì là có bốn thứ kiến. Bốn thứ kiến ấy đều nhân nơi thọ sinh. Thật tướng của các pháp không có chỗ nhân nơi thọ. Bốn thứ kiến đều cho kiến giải của mình là hơn, kiến giải của người khác là kém. Thật tướng của các pháp không có phân biệt kia đây. Thế nên trong tịch diệt không có bốn thứ kiến.

Như nhân nơi đời quá khứ có bốn thứ kiến, thì nhân nơi đời vị lai khởi bốn thứ kiến cũng như vậy. Đó là khởi thế gian là hữu biên, thế gian là vô biên, thế gian là hữu biên – vô biên, thế gian là không phải hữu biên không phải vô biên.

Hỏi: Nếu phá Như Lai như vậy thì không có Như Lai chăng?

Đáp:

Người tà kiến sâu dày

Tức nói không Như Lai

Như Lai tướng tịch diệt

Phân biệt có cũng sai.

Tà kiến có hai thứ: (1) Phá an vui của thế gian. (2) Phá đạo Niết-bàn.

Phá an vui của thế gian: Là tà kiến thô, nói không có tội phước, không có quả báo của tội phước, không có Hiền Thánh như Như Lai v.v…, khởi tà kiến ấy bỏ thiện làm ác, tức là phá an vui của thế gian.

Phá đạo Niết-bàn: Là tham chấp nơi ngã, phân biệt có không, khởi thiện diệt ác. Khởi thiện nên được sự vui của thế gian. Phân biệt có không nên không được Niết-bàn. Vì thế nếu nói không có Như Lai đó là tà kiến sâu dày, làm mất sự vui của thế gian, huống gì là được Niết-bàn. Nếu nói có Như Lai cũng là tà kiến. Vì sao? Vì Như Lai là tướng tịch diệt mà lại khởi các thứ phân biệt. Thế nên ở trong tướng tịch diệt phân biệt có Như Lai, cũng là không đúng.

Trong tánh không như thế

Tư duy cũng không thể

Như Lai diệt độ rồi

Phân biệt nơi có không.

Thật tướng của các pháp là tánh không, tức không nên đối với Như Lai sau khi diệt độ tư duy, phân biệt hoặc có, hoặc không, hoặc cũng có cũng không. Như Lai từ trước tới nay rốt ráo là không, huống gì là sau khi diệt độ.

Như Lai vượt hý luận

Nhưng người sinh hý luận

Hý luận phá mắt tuệ

Là đều không thấy Phật.

Hý luận là nhớ nghĩ chấp giữ tướng, phân biệt kia đây, nói Phật diệt độ, không diệt độ v.v… Người ấy vì bị hý luận che khuất mắt tuệ, nên không thấy pháp thân Như Lai. Trong phẩm Như Lai này, ở đầu, giữa, cuối, tư duy tìm tánh định của Như Lai đều không thể được.

Vì thế kệ nói:

Tánh hiện có Như Lai

Tức là tánh thế gian

Như Lai không có tánh

Thế gian cũng không tánh.

Trong phẩm này suy lường cầu tìm thấy tánh của Như Lai tức là tánh của tất cả thế gian.

Hỏi: Thế nào là tánh của Như Lai?

Đáp: Như Lai không có tánh đồng với thế gian không tánh.

 

Phẩm thứ 23: QUÁN VỀ ĐIÊN ĐẢO

(Gồm 24 kệ)

Hỏi:

Từ nhớ tưởng phân biệt

Sinh ra tham, sân, si

Tịnh, bất tịnh điên đảo

Đều từ các duyên sinh.

Kinh nói nhân nơi tịnh bất tịnh điên đảo nhớ tưởng phân biệt sinh ra tham, sân, si. Vì thế nên biết có tham, sân, si chăng?

Đáp:

Nếu nhân tịnh, bất tịnh

Điên đảo sinh ba độc

Ba độc tức vô tánh

Nên phiền não không thật.

Nếu các phiền não nhân nơi điên đảo về tịnh bất tịnh nhớ tưởng phân biệt sinh, tức chúng không có tự tánh. Do đó các phiền não ấy không thật.

Lại nữa,

Ngã, pháp có hay không

Việc ấy trọn không thành

Không ngã, các phiền não

Có, không cũng không thành.

Ngã không có nhân duyên hoặc có hoặc không để có thể thành. Nay không có ngã thì các phiền não làm sao do hoặc có hoặc không để có thể thành. Vì sao?

Ai có phiền não này

Đó tức là không thành

Nếu lìa ngã mà có

Phiền não tức không thuộc.

Phiền não là thứ có thể làm não hại người khác. Kẻ não hại người khác là chúng sinh. Nhưng chúng sinh ấy nơi tất cả xứ suy tìm đều không thể có được. Nếu cho lìa chúng sinh chỉ có phiền não, thì phiền não không có đối tượng thuộc về. Hoặc cho tuy không có ngã, nhưng các phiền não thuộc về tâm thì việc ấy cũng không đúng. Vì sao?

Như thân kiến năm cách

Tìm cầu không thể được

Phiền não nơi tâm cấu

Năm cách tìm không được.

Như thân kiến, trong năm ấm theo năm cách tìm cầu đều không thể có được. Các phiền não cũng như vậy, trong tâm cấu theo năm cách tìm cầu đều không thể có được. Lại theo năm cách tìm cầu tâm cấu trong các phiền não cũng không thể có được.

Lại nữa,

Điên đảo tịnh, bất tịnh

Tức là không tự tánh

Sao nhân hai thứ này

Mà sinh các phiền não.

Điên đảo về tịnh bất tịnh là điên đảo gọi là hư vọng tức không có tự tánh. Không có tự tánh thì không có điên đảo. Nếu không có điên đảo làm sao nhân nơi điên đảo khởi các phiền não?

Hỏi:

Sắc, tiếng, hương, vị, xúc

Và pháp là sáu thứ

Sáu thứ như thế đó

Là gốc của ba độc.

Sáu nhập này v.v… là gốc của ba độc (tham, sân, si). Nhân nơi sáu nhập ấy sinh ra điên đảo về tịnh bất tịnh. Nhân nơi điên đảo về tịnh bất tịnh sinh tham, sân, si?

Đáp:

Sắc, tiếng, hương, vị, xúc

Và pháp Thể sáu thứ

Đều không, như mộng, huyễn

Như thành Càn-thát-bà.

Trong sáu thứ như thế

Có gì tịnh, bất tịnh

 Giống như người huyễn hóa

Cũng như cảnh trong gương.

Sắc, tiếng, hương, vị, xúc, pháp, tự thể của chúng khi chưa hòa hợp với tâm thì không, không có sở hữu, như dợn nắng, như mộng, như người biến hóa, như hình tượng trong gương, chỉ dối gạt tâm, không có tướng định. Như vậy trong sáu nhập đâu có tịnh bất tịnh.

Lại nữa,

Không nhân nơi tướng tịnh

Tức không có bất tịnh

Nhân tịnh có bất tịnh

Vì vậy không bất tịnh.

Nếu không nhân nơi tịnh thì trước đó không có bất tịnh, vậy nhân đâu để nói bất tịnh? Do vậy không có bất tịnh.

Lại nữa,

Không nhân nơi bất tịnh

Tức cũng không có tịnh

Nhân bất tịnh có tịnh

 Vì vậy không có tịnh.

Nếu không nhân nơi bất tịnh, trước đó không có tịnh, vậy nhân nơi gì để nói tịnh? Vì thế không có tịnh.

Lại nữa,

Nếu như không có tịnh

Do đâu mà có tham

Nếu không có bất tịnh

Do đâu mà có sân.

Vì không có tịnh, bất tịnh tức không sinh tham, sân.

Hỏi: Kinh nói có bốn điên đảo như chấp thường v.v… Nếu trong vô thường thấy thường đó gọi là điên đảo. Còn nếu trong vô thường thấy vô thường thì không phải là điên đảo. Ba điên đảo kia cũng như vậy. Vì có điên đảo nên người điên đảo cũng phải có. Vì sao nói hết thảy đều không?

Đáp:

Đối vô thường chấp thường

Đó gọi là điên đảo

Trong không, không có thường

Xứ nào có chấp thường.

Nếu đối với vô thường chấp thường gọi là điên đảo, còn đối với tánh không của các pháp không có thường, vậy trong đó xứ nào có điên đảo chấp thường? Ba điên đảo kia cũng như vậy.

Lại nữa,

Nếu ở trong vô thường

Chấp vô thường, không đảo

Trong không, không vô thường

 Đâu có phi điên đảo.

Nếu chấp vô thường nói là vô thường không gọi là điên đảo. Nhưng trong tánh không của các pháp không có vô thường. Vì vô thường không có nên cái gì là phi điên đảo? Ba điên đảo kia cũng như vậy.

Lại nữa,

Bị chấp, người chấp, chấp

Và pháp dùng chấp trước

Đều là tướng tịch diệt

 Là sao có chấp trước.

Bị chấp gọi là vật. Người chấp là tác giả. Chấp trước là nghiệp. Pháp được dùng chấp trước gọi là việc được dùng. Tất cả đều là tánh không, là tướng tịch diệt, như trong phẩm Quán về Như Lai đã nói. Vì thế không có chấp trước.

Lại nữa,

Nếu không có pháp chấp

Nói tà là điên đảo

Nói chánh không điên đảo

Ai có việc như vậy.

Chấp trước gọi là nhớ tưởng phân biệt về đây – kia, có – không v.v… Nếu không có sự chấp trước ấy, thì ai là tà, điên đảo, ai là chánh, không điên đảo?

Lại nữa,

Có đảo, không sinh đảo

Không đảo, không sinh đảo

Người đảo không sinh đảo

Không đảo cũng chẳng sinh.

Nếu nơi khi điên đảo

Cũng không sinh điên đảo

Ông nên tự quán xét

Ai sinh nơi điên đảo.

Người đã điên đảo tức lại không sinh điên đảo, vì đã điên đảo rồi. Người không điên đảo cũng không điên đảo, do không có điên đảo. Ngay khi điên đảo cũng không điên đảo, vì có hai lỗi. Ông nay nên trừ bỏ tâm kiêu mạn, khéo tự quán xét ai là người điên đảo.

Lại nữa,

Các điên đảo không sinh

Làm sao có nghĩa ấy

Đã không có điên đảo

Sao có người điên đảo.

Vì dùng nhiều thứ nhân duyên để phá điên đảo, nên rơi vào chấp về không sinh. Người kia vì tham chấp về không sinh nên cho không sinh là thật tướng của điên đảo. Thế nên kệ nói: Làm sao gọi không sinh là thật tướng của điên đảo. Cho đến pháp vô lậu hãy còn không gọi là tướng không sinh, huống gì cho điên đảo là tướng không sinh. Do điên đảo không có nên đâu có người điên đảo. Nhân nơi điên đảo mới có người điên đảo.

Lại nữa,

Nếu thường, lạc, ngã, tịnh

Mà chúng là có thật

Thì thường, lạc, ngã, tịnh

Không phải là điên đảo.

Nếu thường, lạc, ngã, tịnh là bốn sự thật có tánh, thì thường lạc ngã tịnh ấy không phải là điên đảo. Vì sao? Do sự nhất định có thật, vì sao nói điên đảo. Nếu cho thường, lạc, ngã, tịnh bốn sự điên đảo là không có, thì vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh là bốn điều nên thật có, tức không gọi là điên đảo. Vì trái với điên đảo, nên nói là không điên đảo, việc ấy là không đúng. Vì sao?

Nếu thường, lạc, ngã, tịnh

Nhưng thật sự không có

Vô thường, khổ, bất tịnh

Tức là cũng nên không.

Nếu thường, lạc, ngã, tịnh là bốn sự thật mà không có, do không có nên bốn sự vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã cũng không thể có. Vì sao? Vì không cùng nhân nơi đối đãi.

Lại nữa,

Điên đảo như vậy diệt

Vô minh tức cũng diệt

Do vì vô minh diệt

Nên các hành cũng diệt.

Như thế, theo nghĩa ấy vì diệt các điên đảo nên vô minh, là căn bản của mười hai nhân duyên cũng diệt. Do vô minh diệt nên ba thứ hành nghiệp cho đến già chết v.v… đều diệt.

Lại nữa,

Nếu tánh phiền não thật

Mà có người hệ thuộc

Làm sao có thể đoạn

Ai đoạn được tánh ấy.

Nếu các phiền não tức là điên đảo mà thật có tánh, thì làm sao có thể đoạn dứt và ai có thể đoạn được tánh đó. Nếu cho các phiền não đều là hư vọng, không có tánh, nên có thể đoạn dứt thì cũng không đúng. Vì sao?

Nếu phiền não hư vọng

Không tánh, không hệ thuộc

Làm sao có thể đoạn

Ai hay đoạn không tánh.

Nếu các phiền não hư vọng không có tánh, tức không có đối tượng thuộc về, làm sao có thể đoạn và ai có thể đoạn pháp không tánh?

Phẩm thứ 24: QUÁN VỀ BỐN ĐẾ

(Gồm 40 kệ)

Hỏi: Phá bốn điên đảo, thông đạt bốn đế, chứng đắc bốn quả Sa-môn.

Nếu tất cả đều không

Không sinh cũng không diệt

Như vậy tức không có

Pháp của bốn Thánh đế.

Do không có bốn đế

Nên thấy khổ, đoạn tập

Chứng diệt và tu đạo

Việc như vậy đều không.

Vì các việc ấy không

Nên không bốn đạo quả

Vì không có bốn quả

Người đắc hướng cũng không.

Nếu không tám Hiền Thánh

Tức không có Tăng bảo

Vì không có bốn đế

Cũng không có Pháp bảo.

Do không Pháp, Tăng bảo

Cũng không có Phật bảo

Như thế người nói “không”

Tức là phá Tam bảo.

Nếu tất cả thế gian đều không, không có gì hết, tức nên không sinh không diệt. Do không sinh không diệt tức không có bốn Thánh đế. Vì sao? Vì từ tập đế sinh khổ đế. Tập đế là nhân, khổ đế là quả. Diệt khổ tập đế gọi là diệt đế. Pháp tu hành có thể đưa đến diệt đế gọi là đạo đế. Đạo đế là nhân, diệt đế là quả. Như vậy bốn đế có nhân có quả. Nếu không sinh không diệt thì không có bốn đế. Bốn đế không có thì không có việc thấy khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo. Việc thấy khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo không có, tức không có bốn quả Sa-môn. Bốn quả Sa-môn không có thì không có bốn hướng bốn đắc quả. Nếu không có tám bậc Hiền Thánh ấy thì không có Tăng bảo. Lại vì bốn đế không có nên Pháp bảo cũng không có. Nếu không có Pháp bảo, Tăng bảo, thì làm sao có Phật bảo. Tỏ ngộ pháp gọi là Phật, không có pháp thì sao có Phật. Vậy ông nói các pháp đều không là phá hoại Tam bảo.

Lại nữa,

Pháp “không” hoại nhân quả

Cũng hủy hoại tội phước

 Cũng lại hủy hoại hết

Tất cả pháp thế gian.

Nếu người thọ pháp không tức phá hoại tội phước và quả báo của tội phước, cũng phá hoại pháp thế gian. Vì có các lỗi như vậy, nên các pháp không thể là không?

Đáp:

Ông nay thật không thể

Biết không, nhân duyên không

Cùng biết về nghĩa không

Nên tự sinh ưu não.

Ông không hiểu thế nào là tướng không, do nhân duyên gì nên nói không, cũng không hiểu về nghĩa không. Vì không thể nhận biết rõ như thật về nghĩa không, nên sinh ra nghi nạn như thế.

Lại nữa,

Chư Phật nương hai đế

Vì chúng sinh thuyết pháp

Một dùng thế tục đế

Hai đệ nhất nghĩa đế.

Nếu người không thể biết

Phân biệt nơi hai đế

Tức nơi pháp Phật sâu

Không biết nghĩa chân thật.

Thế tục đế là tánh không của tất cả pháp, nhưng vì thế gian điên đảo, nên sinh pháp hư vọng, đối với thế gian cho đó là thật. Các Hiền Thánh đã nhận biết đúng về tánh điên đảo, nên biết tất cả pháp đều không, là không sinh. Đối với Thánh nhân thì đệ nhất nghĩa đế ấy gọi là thật. Chư Phật nương nơi hai đế ấy, vì chúng sinh thuyết pháp. Nếu người không thể phân biệt đúng như thật về hai đế, tức đối với pháp Phật thâm diệu không nhận biết về nghĩa thật. Nếu cho hết thảy pháp không sinh là đệ nhất nghĩa đế, không cần thế tục đế thứ hai thì nói như vậy cũng không đúng. Vì sao?

Nếu không nương tục đế

Không đắc nghĩa đệ nhất

Không đắc nghĩa đệ nhất

Thì không đắc Niết-bàn.

Đệ nhất nghĩa đế đều nhân nơi ngôn thuyết. Ngôn thuyết là thế tục. Do vậy, nếu không nương nơi thế tục thì nghĩa đệ nhất không thể nêu bày. Nếu không đạt được nghĩa đệ nhất, thì làm sao đến được Niết-bàn. Vì thế các pháp tuy không sinh nhưng có hai đế.

Lại nữa,

Không thể chánh quán “không”

Kẻ độn căn tự hại

Như không giỏi chú thuật

Không khéo bắt rắn độc.

Nếu người căn độn, không khéo hiểu về pháp không, vì sai lầm đối với không, nên sinh ra tà kiến. Như vì lợi mà bắt rắn độc, nhưng không thành thạo cách thức bắt, trở lại bị rắn hại. Lại như muốn dùng chú thuật nhưng không thể khéo thành thạo, trở lại tự làm hại. Người căn độn quán pháp không cũng như vậy. Lại nữa,

Thế Tôn biết pháp ấy

Tướng sâu xa vi diệu

Độn căn không thể đạt

Vì vậy không muốn nói.

Do pháp sâu xa vi diệu, không phải là đối tượng lãnh hội của hàng căn độn, nên Đức Thế Tôn không muốn nêu giảng.

Lại nữa,

Ông cho tôi chấp không

Mà vì tôi nêu lỗi

Nhưng lỗi nay ông nói

Đối với “không” không có.

Ông cho tôi chấp không nên vì tôi nêu ra lỗi lầm, nhưng tánh không mà tôi nói, thì không ấy cũng lại không, nên không có các lỗi như thế.

Lại nữa,

Do vì có nghĩa “không”

Tất cả pháp được thành

Nếu không có nghĩa không

Tất cả tức không thành.

Do có nghĩa không nên tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian đều thành tựu. Nếu không có nghĩa không thì đều không thành tựu.

Lại nữa,

Nay ông tự có lỗi

Mà đổ lỗi cho tôi

Giống như người cỡi ngựa

Tự quên ngựa mình cỡi.

Ông đối với pháp có, có lỗi nhưng không thể tự nhận biết, lại thấy lỗi nơi pháp không, khác nào người cỡi ngựa lại quên mất con ngựa mình đang cỡi. Vì sao?

Nếu ông thấy các pháp

Quyết định là có tánh

Tức là thấy các pháp

Không nhân cũng không duyên.

Ông nói các pháp có tánh định, nếu như vậy tức là thấy các pháp không nhân không duyên. Vì sao? Vì nếu pháp đã quyết định có tánh, tức nên không sinh không diệt, pháp như vậy đâu cần nhân duyên. Nếu các pháp từ nhân duyên sinh, tức không có tánh. Còn các pháp quyết định có tánh thì không nhân duyên. Vậy nếu cho các pháp quyết định trụ nơi tự tánh là không đúng. Vì sao?

Tức là phá nhân quả

Tạo, người tạo, pháp tạo

Cũng lại phá tất cả

Sinh, diệt của muôn vật.

Nếu các pháp có tánh định thì không có các sự như nhân quả v.v… Như kệ nói:

Nhân duyên sinh các pháp

Tôi nói tức là không

Cũng gọi là giả danh

Cũng là nghĩa Trung đạo.

Chưa từng có một pháp

Không từ nhân duyên sinh

Vì thế tất cả pháp

Chúng thảy đều là không.

Pháp từ nhân duyên sinh, Tôi nói tức là không. Vì sao? Vì phải đầy đủ các duyên hòa hợp thì pháp mới sinh. Pháp ấy thuộc các nhân duyên nên không có tự tánh. Vì không có tự tánh nên là không. Không ấy cũng lại không. Chỉ vì nhằm dắt dẫn chúng sinh nên mượn danh tự để nêu bày. Lìa hai biên có, không nên gọi là trung đạo. Pháp ấy không có tánh nên không được nói là có, cũng không có không nên không được nói là không. Nếu pháp có tánh tướng thì không đợi các duyên mới có, nhưng nếu không đợi các duyên thì không có pháp. Thế nên không có pháp chẳng không. Trên kia ông cho pháp không có lỗi, lỗi ấy nay trở lại nơi ông. Vì sao?

Nếu tất cả chẳng không

Tức không có sinh diệt

Như thế thì không có

Pháp của bốn Thánh đế.

Nếu tất cả các pháp mỗi mỗi thứ đều có tánh chứ chẳng không tức không có sinh diệt. Vì không có sinh diệt tức không có pháp bốn Thánh đế. Vì sao?

Nếu không từ duyên sinh

Làm sao mà có khổ

Vô thường là nghĩa khổ

Tánh định, không vô thường.

Nếu không từ duyên sinh thì không có khổ. Vì sao? Vì kinh nói vô thường là nghĩa khổ. Nếu khổ có tánh định thì làm sao có vô thường, vì nó không bỏ tự tánh.

Lại nữa,

Nếu khổ có tánh định

Do đâu từ tập sinh

Vì vậy không có tập

Vì phá bỏ nghĩa không.

Nếu khổ có tánh định thì không thể lại sinh, vì trước đã có. Nếu như vậy thì không có tập đế, do hủy hoại nghĩa không.

Lại nữa,

Khổ nếu có tánh định

Tức không thể có diệt

Vì ông chấp tánh định

Tức phá nơi diệt đế.

Khổ nếu có tánh định tức không thể diệt. Vì sao? Vì tánh định thì không diệt.

Lại nữa,

Khổ nếu có tánh định

Tức không có tu đạo

Nếu đạo nên tu tập

Tức không có tánh định.

Pháp nếu nhất định có thì không có việc tu đạo. Vì sao? Vì pháp nếu thật có tức là thường. Thường thì không thể tăng thêm. Nếu đạo có thể tu thì đạo tức không có tánh định.

Lại nữa,

Nếu không có khổ đế

Cùng không tập, diệt đế

Đạo có thể diệt khổ

Rốt ráo đến chốn nào.

Các pháp nếu trước đã có tánh định thì không có khổ, tập, diệt đế. Vậy hiện tại con đường diệt khổ, cuối cùng đưa đến chốn diệt khổ nào?

Lại nữa,

Nếu khổ định có tánh

Trước đến giờ không thấy

Nơi nay làm sao thấy

Vì tánh ấy không khác.

Nếu trước đây khi là phàm phu không thể thấy tánh khổ, thì nay cũng không thể thấy. Vì sao? Vì không thấy tánh định.

Lại nữa,

Như thấy khổ không đúng

Đoạn tập cùng chứng diệt

Tu đạo và bốn quả

Là cũng đều không đúng.

Như tánh của khổ đế trước khi tu không thấy, sau khi tu cũng không thể thấy. Như vậy cũng không thể có việc đoạn tập, chứng diệt, tu đạo. Vì sao? Vì tánh của tập đế từ trước giờ không đoạn, nay cũng không thể đoạn, vì tánh ấy cố định không thể đoạn. Diệt đế từ trước giờ không chứng, nay cũng không thể chứng, vì từ trước giờ không chứng. Đạo từ trước giờ không tu, nay cũng không thể tu, vì từ trước giờ không tu. Thế nên, bốn thứ hành thấy, đoạn, chứng, tu của bốn Thánh đế đều không thể có. Vì bốn thứ hành không có nên bốn đạo quả cũng không có. Vì sao?

Tánh của bốn đạo quả

Trước nay không thể đắc

Tánh các pháp nếu định

Nay sao có thể đắc.

Các pháp nếu có tánh định, thì bốn quả Sa-môn trước giờ chưa đắc nay làm sao có thể chứng đắc. Nếu có thể chứng đắc thì tánh của các pháp không định.

Lại nữa,

Nếu không có bốn quả

Thì không người đắc hướng

Vì không có tám Thánh

Tức không có Tăng bảo.

Vì không có bốn quả Sa-môn, nên không có người chứng đắc quả và người hướng đến chứng đắc quả. Do không có tám bậc Hiền Thánh ấy, nên không có Tăng bảo. Nhưng kinh nói tám bậc Hiền Thánh gọi là Tăng bảo.

Lại nữa,

Không có bốn Thánh đế

Cũng không có Pháp bảo

Không Pháp bảo, Tăng bảo

Làm sao có Phật bảo.

Hành bốn Thánh đế chứng đắc pháp Niết-bàn. Nếu không có bốn Thánh đế thì không có Pháp bảo. Nếu không có Tăng bảo, Pháp bảo thì làm sao có Phật bảo? Ông dùng các nhân duyên như thế để nói các pháp có tánh định, tức là hủy hoại Tam bảo.

Hỏi: Luận chủ tuy phá bỏ các pháp, nhưng đạo rốt ráo là quả vị Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng phải có. Nhân nơi đạo ấy nên gọi là Phật chăng?

Đáp:

Ông nói tức không nhân

Bồ-đề mà có Phật

Cũng lại không nhân Phật

Mà có quả Bồ-đề.

Ông nói các pháp có tánh định, thì không thể nhân nơi Bồ-đề có Phật, không nhân nơi Phật có Bồ-đề, vì hai tánh ấy là thường định.

Lại nữa,

Tuy lại siêng tinh tấn

Tu hành đạo Bồ-đề

Nếu trước không Phật tánh

Thì không thể thành Phật.

Do trước không có tánh, như sắt không có tánh vàng, thì tuy dùng đủ cách luyện nấu cũng không thành vàng.

Lại nữa,

Nếu các pháp chẳng không

 Không người tạo tội phước

Chẳng không thì tạo gì

Vì tánh ấy là định.

Nếu các pháp chẳng không, thì trọn không có người tạo tội phước. Vì sao? Vì tánh của tội phước trước đã định, lại không có tác nghiệp và tác giả.

Lại nữa,

Ông ở trong tội phước

Cho không sinh quả báo

 Tức là lìa tội phước

Mà có các quả báo.

Theo ông, đối với nhân duyên của tội phước đều không có quả báo. Vậy có thể lìa nhân duyên của tội phước là có quả báo. Vì sao?

Vì quả báo không đợi phải có nhân mới sinh ra.

Hỏi: Lìa tội phước có thể không có quả báo thiện ác, chỉ từ tội phước nên có quả báo thiện ác chăng?

Nếu cho từ tội phước

Mà sinh ra quả báo

Quả từ tội phước sinh

Vì sao nói chẳng không.

Nếu lìa tội phước không có quả thiện ác, như vậy làm sao nói quả chẳng không. Nếu như vậy thì lìa tác nghiệp, tác giả tức không có tội phước. Thế nên ông trước nói các pháp chẳng không, việc ấy là không đúng.

Lại nữa,

Ông phá tất cả pháp

Các nhân duyên nghĩa không

Tức phá nơi thế gian

Các pháp hiện có khác.

Ông nếu phá nghĩa đệ nhất không của pháp do nhân duyên sinh tức là phá hết thảy pháp thế tục. Vì sao?

Nếu phá nơi nghĩa không

Tức nên không tạo tác

Không tạo mà có tạo

Không tạo gọi tác giả.

Nếu phá nghĩa không thì tất cả quả đều không có tạo tác, không có nhân. Lại không tạo mà có tạo. Lại, tất cả tác giả đều không nên có đối tượng hành tác. Lại, lìa tác giả tức nên có nghiệp, có quả báo, có người thọ quả báo. Nhưng các việc ấy đều không đúng, vì thế không nên phá bỏ không.

Lại nữa,

Nếu có tánh quyết định

Vô số tướng thế gian

Tức chẳng sinh chẳng diệt

Thường trụ không biến hoại.

Nếu các pháp có tánh định, thì vô số tướng của thế gian như trời, người, súc sinh, vạn vật đều nên chẳng sinh chẳng diệt, thường trụ không hoại. Vì sao? Vì đã có thật tánh không thể biến đổi. Nhưng hiện thấy vạn vật mỗi mỗi đều có tướng đổi khác, sinh diệt biến dịch. Thế nên các pháp không thể có tánh định.

Lại nữa,

Nếu không có nghĩa không

Chưa đắc, không thể đắc

Cũng không đoạn phiền não

Cũng không có khổ hết.

Nếu không có pháp không tức đối với các công đức hiện có của thế gian và xuất thế gian, người chưa có được đều không thể có được, cũng không có người đoạn trừ phiền não, cũng không có việc khổ hết. Vì sao? Vì do có tánh định.

Thế nên trong kinh nói

Nếu thấy pháp nhân duyên

Tức có thể thấy Phật

Thấy khổ, tập, diệt, đạo.

Nếu người thấy tất cả pháp từ các duyên sinh, thì người ấy có thể thấy pháp thân Phật, tăng thêm trí tuệ, thấy bốn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Thấy bốn Thánh đế chứng đắc bốn Thánh quả, dứt hết các phiền não. Do thế, không nên phá nghĩa không. Nếu phá nghĩa không tức là phá pháp nhân duyên, phá pháp nhân duyên tức là phá Tam bảo. Nếu phá Tam bảo tức là tự phá mình.

Phẩm thứ 25: QUÁN VỀ NIẾT BÀN

(Gồm 24 kệ) Hỏi:

Nếu các pháp đều “không”

Không sinh cũng không diệt

Thì đoạn gì, diệt gì

Để gọi là Niết-bàn.

Nếu tất cả pháp là không, tức không sinh không diệt. Nếu không sinh không diệt thì đoạn cái gì, diệt cái gì để gọi là Niết-bàn? Thế nên tất cả không thể là không, vì các pháp chẳng không nên mới đoạn các phiền não, diệt năm ấm, gọi là Niết-bàn?

Đáp:

Nếu các pháp “chẳng không”

Thì không sinh không diệt

Vậy đoạn gì, diệt gì

Để gọi là Niết-bàn?

Nếu tất cả thế gian chẳng không, thì không sinh không diệt, vậy đoạn gì, diệt gì để gọi là Niết-bàn? Vì thế hai môn có không đều không phải đưa đến Niết-bàn. Gọi là Niết-bàn, tức:

Không đắc cũng không đến

Không đoạn cũng không thường

Không sinh cũng không diệt

Đó gọi là Niết-bàn.

Không đắc: Là đối với hành, đối với quả không có đối tượng thủ đắc.

Không đến: Là không có nơi chốn có thể đến.

Không đoạn: Là năm ấm từ trước giờ là rốt ráo không, nên khi đắc đạo vào Niết-bàn vô dư cũng không có đối tượng được đoạn.

Không thường: Là nếu có pháp có thể phân biệt thủ đắc tức gọi là thường. Niết-bàn thì vắng lặng không có pháp để có thể phân biệt, nên không gọi là thường. Không sinh không diệt cũng như vậy. Tướng như thế gọi là Niết-bàn.

Lại nữa, kinh nói: Niết-bàn chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải có không, chẳng phải chẳng có chẳng phải chẳng không, không thọ tất cả pháp, bên trong vắng lặng, gọi là Niết-bàn. Vì sao?

Niết-bàn không gọi có

Có tức tướng già chết

Trọn không có pháp có

Lìa nơi tướng già, chết.

Mắt thấy tất cả vạn vật đều sinh diệt, là tướng già chết. Niếtbàn nếu là có tức nên có tướng già chết, việc ấy là không đúng. Thế nên Niết-bàn không gọi là có. Lại không thấy lìa sinh diệt già chết, riêng có pháp định gọi là Niết-bàn. Nếu Niết-bàn là có, tức nên có tướng sinh diệt già chết. Do lìa tướng già chết, nên gọi là Niết-bàn.

Lại nữa,

Nếu Niết-bàn là có

Niết-bàn tức hữu vi

Trọn không có một pháp

Gọi là pháp vô vi.

Niết-bàn không phải là có. Vì sao? Vì tất cả vạn vật từ các duyên sinh đều là pháp hữu vi, không có một pháp gọi là pháp vô vi. Tuy giả gọi pháp thường là vô vi, nhưng dùng lý để suy thì pháp vô thường hãy còn không có huống gì là pháp thường, là pháp không thể thấy, không thể thủ đắc.

Lại nữa,

Nếu Niết-bàn là có

Vì sao gọi không thọ

Các pháp đều từ thọ

Nên gọi là có pháp.

Nếu cho Niết-bàn là pháp có, thì kinh không nên nói: “Không thọ gọi là Niết-bàn”. Vì sao? Vì không có pháp nào là không thọ mà có. Vì thế Niết-bàn không phải là có.

Hỏi: Nếu có không phải là Niết-bàn, vậy không nên là Niếtbàn chăng?

Đáp:

Có còn không Niết-bàn

Huống gì là không có

Niết-bàn không có có

Xứ nào nên có không.

Nếu có không phải là Niết-bàn thì không có làm sao là Niếtbàn. Vì sao? Vì nhân nơi có nên mới có không. Nếu không có làm sao có không. Như kinh nói: “Trước có nay không tức gọi là không”, Niết-bàn thì không như vậy. Vì sao. Vì không phải là pháp có rồi sau biến làm không. Thế nên không có cũng không thành Niết-bàn.

Lại nữa,

Nếu không là Niết-bàn

Vì sao gọi không thọ

Chưa từng có không thọ

 Mà gọi là không pháp.

Nếu cho không có là Niết-bàn, thì kinh không nên nói: “Không thọ gọi là Niết-bàn”. Vì sao? Vì không có cái gì không thọ mà gọi là pháp không có. Do thế nên biết Niết-bàn không phải là không có.

Hỏi: Nếu Niết-bàn chẳng phải là có, chẳng phải là không, vậy những gì là Niết-bàn?

Đáp:

Chấp thọ các nhân duyên

Luân chuyển trong sinh tử

Không thọ các nhân duyên

Đó gọi là Niết-bàn.

Vì không nhận biết như thật về điên đảo nên nhân nơi năm thọ ấm qua lại nơi sinh tử. Nếu nhận biết như thật về điên đảo thì không còn chấp thọ, nhân nơi năm thọ ấm qua lại nẻo sinh tử. Năm ấm không có tánh, không còn nối tiếp, nên gọi là Niết-bàn.

Lại nữa,

Như trong kinh Phật nói

Đoạn hữu đoạn phi hữu

Cho nên biết Niết-bàn

Chẳng có cũng chẳng không.

Hữu là ba hữu, phi hữu là ba hữu đã đoạn dứt. Phật dạy là đoạn hữu, phi hữu ấy gọi là Niết-bàn, nên biết Niết-bàn chẳng phải có cũng chẳng phải không.

Hỏi: Hoặc có hoặc không có đều không phải là Niết-bàn. Nay có không cùng hợp là Niết-bàn chăng?

Đáp:

Nếu cho nơi có không

Cùng hợp là Niết-bàn

Có không tức giải thoát

Việc ấy là không đúng.

Nếu cho nơi có không hợp lại là Niết-bàn, tức hai sự có không hợp lại là giải thoát. Việc ấy là không đúng. Vì sao? Vì hai sự có không là trái nhau, làm sao hợp cùng ở một xứ.

Lại nữa,

Nếu cho nơi có không

Hợp là thành Niết-bàn

Thì Niết-bàn là thọ

 Cả hai từ thọ sinh.

Nếu cho có không hợp lại thành Niết-bàn, thì kinh không nên nói Niết-bàn là không thọ. Vì sao? Vì hai sự có không đều từ nơi thọ sinh, cùng nhân nơi nhau mà có. Do vậy hai sự có không không thể hợp làm Niết-bàn.

Lại nữa,

Có không cùng hợp thành

Sao gọi là Niết-bàn

Niết-bàn là vô vi

Có không là hữu vi.

Hai sự có không hợp chung không thể gọi là Niết-bàn, vì Niếtbàn là vô vi, còn có không là hữu vi. Thế nên có không không phải là Niết-bàn.

Lại nữa,

Hợp hai sự có, không

Sao gọi là Niết-bàn

Hai sự không đồng xứ

Như sáng tối không chung.

Hai sự có không không thể gọi là Niết-bàn. Vì sao? Vì có, không là trái nhau, không thể cùng ở một xứ, như tối và sáng không có cùng một lúc. Vì vậy khi có thì không không, khi không thì không có, làm sao có không cùng hợp gọi là Niết-bàn.

Hỏi: Nếu có không hợp chung không phải là Niết-bàn, thì nay chẳng phải có chẳng phải không nên là Niết-bàn chăng?

Đáp:

Nếu chẳng phải có, không

Gọi đó là Niết-bàn

Chẳng phải có, không này

Lấy gì để phân biệt.

Nếu Niết-bàn là chẳng phải có chẳng phải không, vậy chẳng phải có chẳng phải không ấy nhân vào đâu để phân biệt? Vì thế nói chẳng phải có chẳng phải không là Niết-bàn, việc ấy là không đúng.

Lại nữa,

Phân biệt chẳng có, không

Như vậy là Niết-bàn

Nếu có và không thành

Chẳng có, chẳng không thành.

Ông phân biệt chẳng phải có chẳng phải không là Niết-bàn, việc ấy là không đúng. Vì sao? Vì nếu có và không thành Niết-bàn, vậy sau đấy chẳng phải có chẳng phải không thành Niết-bàn. Nhưng trái với có gọi là không, trái với không gọi là có. Có và không ấy, ngay trong câu kệ thứ ba đã phá. Vì có và không còn không có làm sao có chẳng phải có chẳng phải không. Thế nên Niết-bàn không phải là chẳng phải có, không phải là chẳng phải không.

Lại nữa,

Như Lai sau diệt độ

Chẳng nói có cùng không

Cũng chẳng nói có không

Phi có và phi không.

Như Lai còn tại thế

Chẳng nói có và không

 Cũng chẳng nói có không

Phi có và phi không.

Hoặc sau khi Như Lai diệt độ, hoặc hiện tại, có Như Lai cũng không thọ, không có Như Lai cũng không thọ, cũng có Như Lai cũng không Như Lai cũng không thọ, chẳng phải có Như Lai chẳng phải không Như Lai cũng không thọ. Do không thọ nên không phân biệt Niết-bàn là có, không v.v… Lìa Như Lai thì ai sẽ đắc Niết-bàn, lúc nào, xứ nào? Dùng pháp gì nói là Niết-bàn. Thế nên tìm tướng Niếtbàn trong tất cả lúc, tất cả thứ, đều không thể có được.

Lại nữa,

Niết-bàn cùng thế gian

Không có chút phân biệt

Thế gian cùng Niết-bàn

Cũng không chút phân biệt.

Do nhân duyên năm ấm nối tiếp qua lại nên gọi là thế gian. Nhưng tánh của năm ấm là rốt ráo không, là vắng lặng, không thọ, nghĩa này trước đã nói. Do tất cả pháp chẳng sinh chẳng diệt, nên thế gian cùng Niết-bàn không có phân biệt, Niết-bàn cùng thế gian cũng không có phân biệt.

Lại nữa,

Thật tế của Niết-bàn

Và thật tế thế gian

Hai thật tế như vậy

Không mảy may sai biệt.

Suy tìm rốt ráo thật tế của thế gian và Niết-bàn là thật tế không sinh, vì bình đẳng không thể thủ đắc, nên không có mảy may sai biệt.

Lại nữa,

Có, không sau Phật diệt

Các kiến nương Niết-bàn

Hữu biên như thường đoạn

Nương vị lai, quá khứ.

Sau khi Như Lai diệt độ có Như Lai, không Như Lai, cũng có Như Lai cũng không Như Lai, chẳng phải có Như Lai chẳng phải không Như Lai. Thế gian hữu biên, thế gian vô biên, thế gian cũng hữu biên cũng vô biên, thế gian chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên; thế gian thường, thế gian vô thường, thế gian cũng thường cũng vô thường, thế gian chẳng phải thường chẳng phải vô thường. Trong ba loại mười hai kiến chấp ấy, bốn kiến chấp về sau khi Như Lai diệt độ Như Lai có không v.v… là dựa vào Niết-bàn mà khởi. Bốn kiến chấp về thế gian hữu biên vô biên v.v… là dựa vào đời vị lai mà khởi. Bốn kiến chấp về thế gian thường vô thường v.v… là dựa vào đời quá khứ mà khởi.

Như Lai sau khi diệt độ, là có hay không có v.v… đều không thể thủ đắc, Niết-bàn cũng như vậy. Như thế gian đời trước – đời sau, hữu biên – vô biên, thường – vô thường đều không thể thủ đắc, Niết-bàn cũng như vậy. Do thế nên nói thế gian và Niết-bàn không có sai khác.

Lại nữa,

Tất cả pháp đều không

Sao có biên, không biên

Cũng biên cũng không biên

Phi có phi không biên.

Cái gì là một, khác

Sao có thường, vô thường

Cũng thường cũng vô thường

Phi thường phi vô thường.

Các pháp không thủ đắc

Diệt tất cả hý luận

Không người cũng không xứ

Phật cũng không nói gì.

Tất cả pháp, tất cả thời, tất cả chủng loại, vì từ các duyên sinh nên rốt ráo không, không có tự tánh. Trong pháp như vậy, cái gì là hữu biên, ai là hữu biên, cái gì là vô biên, cũng hữu biên cũng vô biên, chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên, ai là chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên.

Cái gì là thường, ai là thường, cái gì là vô thường, cũng thường cũng vô thường, chẳng phải thường chẳng phải vô thường, ai là chẳng phải thường chẳng phải vô thường.

Cái gì thân tức là thần ngã, cái gì thân khác thần ngã. Sáu mươi hai tà kiến như thế đối với rốt ráo không đều không thể có được. Những gì có sở đắc đều dứt, hý luận đều diệt. Vì hý luận diệt nên thông đạt thật tướng của các pháp, được đạo an ổn.

Từ phẩm Quán nhân duyên đến đây, phân biệt suy tìm các pháp, có cũng không, không có cũng không, vừa có vừa không cũng không, chẳng phải có chẳng phải không cũng không. Đó gọi là thật tướng của các pháp, cũng gọi là Như, Pháp tánh, Thật sự, Niết-bàn. Thế nên Đức Như Lai không lúc nào, không ở xứ nào vì người nói tướng định của Niết-bàn. Do thế, nên nói các thứ có sở đắc đều dứt, hý luận đều diệt.

 

Phẩm thứ 26: QUÁN VỀ MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN

(Gồm 9 kệ)

Hỏi: Ông nói về đạo đệ nhất nghĩa trong giáo pháp Đại thừa. Nay tôi muốn nghe nói về pháp Thanh văn hội nhập đạo đệ nhất nghĩa?

Đáp:

Chúng sinh bị si che

Là sau khởi ba hành

Do khởi các hành ấy

Theo hành đọa sáu nẻo.

Vì nhân duyên các hành

Thức thọ thân sáu đường

Vì có thức chấp trước

Làm tăng trưởng danh sắc.

Do danh sắc tăng trưởng

Nhân đấy sinh sáu nhập

Căn trần thức hòa hợp

Nên sinh ra sáu xúc.

Nhân nơi sáu xúc ấy

Tức sinh ra ba thọ

Do nhân nơi ba thọ

Mà sinh ra khát ái.

Nhân ái có bốn thủ

Nhân thủ mà có hữu

Nếu người thủ không chấp

Tức giải thoát, không hữu.

Do hữu nên có sinh

Từ sinh có già chết

Do già chết nên có

Các lo buồn khổ não.

Các sự việc như vậy

Đều từ sinh mà có

Chỉ do nhân duyên ấy

Kết thành ấm khổ lớn.

Đó gọi là sinh tử

Căn bản của các hành

Kẻ vô minh tạo tác

Người trí thì không tạo.

Do việc này được diệt

Việc này tức không sinh

Thân năm ấm vắng lặng

Như thế là chân diệt.

Hàng phàm phu vì bị vô minh che mờ, nên do nghiệp thân, miệng, ý khởi các hành đưa đến thọ thân sau trong sáu nẻo. Theo các hành đã khởi có thượng, trung, hạ nên thức tùy các hành nhập vào sáu nẻo thọ thân. Do nhân duyên chấp trước của thức nên có danh sắc tích tập. Vì danh sắc tích tập nên có sáu nhập. Vì nhân duyên sáu nhập nên có sáu xúc. Do nhân duyên sáu xúc nên có ba thọ. Vì nhân duyên ba thọ nên sinh khát ái. Do nhân duyên khát ái nên có bốn thủ. Khi bốn thủ chấp giữ thì do nghiệp thân, miệng, ý dấy khởi tội phước khiến cho ba hữu của đời sau nối tiếp. Từ hữu nên có sinh. Từ sinh mà có già chết. Từ già chết nên có ưu bi khổ não, vô số các thứ hoạn nạn, chỉ có tập hợp thân năm ấm đại khổ. Do thế nên biết chính vô trí của kẻ phàm phu là cội gốc dấy khởi các hành nghiệp đưa đến sinh tử. Người trí không dấy khởi hành, vì thấy như thật, tức vô minh diệt. Do vô minh diệt nên các hành cũng diệt. Vì nhân diệt nên quả cũng diệt. Do có trí tu tập quán mười hai nhân duyên sinh diệt như vậy nên sinh diệt diệt. Do sinh diệt diệt nên cho đến năm ấm sinh già chết ưu bi đại khổ đều chánh diệt như thật. Chánh diệt là rốt ráo diệt. Nghĩa sinh diệt của mười hai nhân duyên này như trong Tu-đa-la, A-tỳ-đàm đã nói rộng.

 

Phẩm thứ 27: QUÁN VỀ TÀ KIẾN

(Gồm 31 kệ)

Hỏi: Đã nghe nói pháp Đại thừa phá tà kiến. Bây giờ muốn nghe nói pháp Thanh văn phá tà kiến? Đáp:

Ta nơi đời quá khứ

Là có hay là không

Kiến chấp thế gian thường v.v…

Nương đời quá khứ khởi.

Ta nơi đời vị lai

Có tạo hay không tạo

Các kiến như hữu biên v.v…

Nương đời vị lai khởi.

Ta nơi đời quá khứ, là có hay không, là vừa có vừa không, là chẳng phải có chẳng phải không. Đó là các kiến chấp như chấp thường v.v… dựa nơi sự quán sát đời quá khứ mà khởi. Ta nơi đời vị lai, là có hay không có, là vừa có vừa không có, là chẳng phải có chẳng phải không có. Đó là các kiến chấp như thế gian hữu biên vô biên v.v… do dựa nơi sự quán sát đời vị lai mà khởi. Các kiến chấp như vậy, vì nhân duyên gì gọi là tà kiến? Sự việc ấy nay sẽ nói:

Đời quá khứ có ngã

Việc ấy không thể được

Ngã trong đời quá khứ

Không tạo ngã đời này.

Nếu cho ngã tức là

Nhưng thân có tướng khác

Vậy nếu lìa nơi thân

Xứ nào riêng có ngã.

Lìa thân ngã có không

Việc ấy là đã thành

Nếu cho thân tức ngã

Hoặc đều không có ngã.

Nhưng thân không là ngã

Vì tướng thân sinh diệt

Vậy làm sao do thọ

Để tạo nơi người nhận.

Nếu lìa thân có ngã

Việc ấy tức không đúng

Không thọ mà có ngã

Thật sự không thể được.

Hiện ta không lìa thọ

Cũng chẳng tức là thọ

Mà cũng chính là thọ

Đây tức nghĩa quyết định.

Ngã có mặt nơi đời quá khứ, việc ấy là không đúng. Vì sao? Vì trong đời trước chẳng tức tạo ta trong đời này, vì – nếu ngã nơi đời trước chính là ta của đời nay – thì có lỗi chấp thường. Nếu chấp thường thì có vô lượng lỗi. Vì sao? Ví như người do nhân duyên tu phước nên được sinh nơi xứ trời, sau lại làm người. Nếu ngã nơi đời trước tức là ngã trong đời nay, thì trời tức là người. Lại như người do nhân duyên tạo nghiệp tội nên làm Chiên-đà-la, sau lại làm người Bà-la-môn. Nếu ngã nơi đời trước tức là ngã trong đời nay, thì Chiên-đà-la tức là Bà-la-môn. Ví như Bà-la-môn Đề-bà-đạt ở nước Xá-vệ, đi đến thành Vương-xá cũng gọi là Đề-bà-đạt, không do đi đến thành Vương-xá mà khác trước. Nếu đời trước làm thân trời đời sau làm thân người thì trời tức là người, Chiên-đà-la tức là Bà-la-môn. Sự việc như vậy là không đúng. Vì sao? Vì trời không tức là người, Chiên-đà-la không tức là Bà-la-môn. Có các lỗi về chấp thường như thế.

Nếu cho: Ngã nơi đời trước không tạo ta của đời nay, như người khi giặt áo gọi là người giặt áo, khi cắt cỏ gọi là người cắt cỏ. Nhưng người giặt áo và người cắt cỏ tuy không khác, nhưng người này chẳng tức là người kia. Cũng như vậy, khi ngã thọ thân trời thì gọi là trời. Khi ngã thọ thân người thì gọi là người. Ngã không khác nhưng thân có khác. Việc ấy là không đúng. Vì sao? Vì nếu trời tức là người thì không nên nói trời làm người. Như người giặt áo đối với người cắt cỏ là khác hay không khác. Nếu không khác, thì người giặt áo nên tức là người cắt cỏ. Như vậy trời đời trước tức là người, Chiên-đà-la tức là Bà-la-môn, và ngã cũng có lỗi chấp thường. Nếu khác, thì người giặt áo tức không làm người cắt cỏ. Như thế trời không làm người, vậy ngã cũng vô thường, vô thường là tướng vô ngã. Vì thế không được nói tức là. (Trời tức là người).

Hỏi: Ngã tức là chỉ nhân nơi thọ nên phân biệt là trời là người. Thọ gọi là thân năm ấm. Do nhân duyên của nghiệp nên phân biệt thân năm ấm này là trời, năm ấm kia là người, là Chiên-đà-la, là Bàla-môn. Nhưng thật sự ngã không phải trời, không phải người, không phải Chiên-đà-la, không phải Bà-la-môn. Cho nên không có các lỗi vừa nói chăng?

Đáp: Việc ấy là không đúng. Vì sao? Vì nếu thân làm trời, làm người, làm Chiên-đà-la, làm Bà-la-môn không phải ngã, thì lìa thân riêng có ngã. Hiện tại những việc tội phước sinh tử qua lại đều là thân không phải là ngã. Do nhân duyên tạo tội nên bị đọa vào ba đường ác. Do nhân duyên tu phước nên sinh nơi ba đường thiện. Hoặc các việc khổ, vui, giận, mừng, lo, sợ v.v… đều là thân không phải ngã, thì dùng ngã làm gì. Như trị tội người thế tục thì không can dự tới người xuất gia. Do nhân duyên của năm ấm nối tiếp, tội phước không mất, nên mới có giải thoát. Nếu các việc ấy đều là thân, không phải là ngã, thì dùng ngã làm gì?

Hỏi: Tội phước v.v… đều nương nơi ngã, vì ngã có sự nhận biết, còn thân thì không có sự nhận biết. Người nhận biết nên là ngã. Do nhân duyên khởi nghiệp tạo ra tội phước là pháp tạo tác, nên biết phải có tác giả. Tác giả là ngã. Thân là đối tượng được sử dụng của ngã, cũng là trụ xứ của ngã. Ví như ông chủ nhà, dùng cỏ cây, đất gỗ v.v… làm nhà tự vì thân, nên tùy sự sử dụng của thân mà làm nhà có tốt xấu. Ngã cũng như vậy. Theo nghiệp thiện ác đã tạo mà mang thân tốt xấu. Sáu đường sinh tử đều do ngã tạo tác. Thế nên thân tội phước đều thuộc nơi ngã. Ví như ngôi nhà chỉ thuộc ông chủ, không thuộc người khác.

Đáp: Thí dụ ấy không đúng. Vì sao? Vì ông chủ nhà có thân hình, có xúc chạm, có sức lực nên có thể giữ được nhà. Còn cái ngã của ông nói đó là vô hình, không xúc chạm, không có sức tạo tác, tự không có sức tạo, cũng không thể khiến người khác tạo. Nếu ở thế gian có một pháp vô hình, không có xúc chạm, nhưng có thể có đối tượng tạo tác, thì có thể tin thọ, biết có tác giả. Nhưng việc ấy không đúng. Nếu ngã là tác giả, thì không nên tự tạo việc khổ. Nếu là người nhớ nghĩ thì có thể tham việc an vui không nên quên mất.

Nếu ngã không tự tạo khổ nhưng khổ cứ ép sinh, thì tất cả việc khác đều cũng tự nó sinh không phải là ngã tạo. Nếu sự thấy là ngã, thì mắt có thể thấy sắc, mắt nên là ngã. Nếu mắt thấy nhưng không phải là ngã, thì trái với câu trước nói sự thấy là ngã. Lại, nếu sự thấy là ngã, thì ngã không thể nghe tiếng, ngửi mùi v.v… Vì sao? Vì mắt là sự thấy, nhưng mắt không thể nghe tiếng ngửi mùi v.v… do thế nói ngã là sự thấy, việc ấy là không đúng.

Nếu cho như người cắt cỏ dùng liềm cắt cỏ, ngã cũng như vậy, dùng tay chân nên có thể có sự tạo tác, thì thí dụ ấy không đúng. Vì sao? Vì nay lìa cái liềm có riêng người cắt cỏ, còn lìa thân tâm thì các căn không có sự tạo tác riêng.

Nếu cho tác giả tuy không phải là do mắt, tai tạo được, nhưng cũng có tác giả, thế thì con của thạch nữ cũng có thể tạo tác. Như thế thì tất cả các căn đều nên là vô ngã.

Nếu cho mắt bên phải thấy vật, mắt bên trái nhận biết, nên biết riêng có người thấy, thì việc ấy cũng không đúng. Hiện tại tay bên phải tập luyện, tay bên trái thì không thể. Vậy nên không riêng có tác giả. Nếu riêng có tác giả, thì tuy tay bên phải tập luyện, tay bên trái cũng nên có khả năng, nhưng thật sự là không có, vì thế lại không có tác giả.

Lại nữa, người chấp có ngã nói: Khi thấy người khác ăn quả chua, từ nơi miệng mình nước miếng chảy ra, đó là tướng ngã, thì nói thế cũng không đúng. Vì sao? Vì đó là lực của nhớ nghĩ không phải là lực của ngã. Lại, đây cũng là nhân duyên phá bỏ ngã. Như người ở giữa chúng, hổ thẹn vì nước miếng chảy ra, nhưng nó cứ chảy, không được tự do. Vậy nên biết là không có ngã.

Lại nữa, nếu có tội lỗi điên đảo thì đời trước là cha, đời nay làm con, giữa cha con chỉ thân có khác nhau nhưng ngã là một, như từ nhà này đi đến nhà khác, cha vẫn là cha, không vì đi đến nhà khác nên lại có khác. Nếu có ngã thì cha và con nên là một, như vậy tức có lỗi lớn.

Nếu nói: Không có ngã trong năm ấm nối tiếp, cũng có lỗi, thì việc ấy không đúng. Vì sao? Vì năm ấm tuy nối tiếp, hoặc có khi hữu dụng, hoặc có khi vô dụng. Như nước nho, đối với người xuất gia giữ giới thì được phép uống (hữu dụng), nhưng rượu nho thì không được phép uống (vô dụng). Nếu biến rượu nho thành rượu đắng trị bệnh thì lại được phép uống (hữu dụng). Năm ấm nối tiếp cũng như vậy, hoặc hữu dụng hoặc vô dụng. Như thế, nếu đầu cuối có một, thì có lỗi như vậy, còn năm ấm nối tiếp thì không có lỗi như thế. Song năm ấm hòa hợp giả gọi là ngã, không có quyết định. Như kèo cột hòa hợp nên có nhà, lìa kèo cột thì không riêng có nhà. Như vậy, năm ấm hòa hợp nên có ngã, nếu lìa năm ấm thì thật không riêng có ngã. Thế nên ngã chỉ có danh giả, không có định thật.

Ông trước nói lìa thọ riêng có người thọ, dùng thọ để phân biệt người thọ là trời là người, đó đều không đúng. Nên biết chỉ có pháp thọ, không riêng có người thọ. Nếu nói lìa thọ riêng có ngã là không đúng. Vì nếu lìa thọ riêng có ngã, thì làm sao có thể nói được về tướng ngã ấy. Nếu không có tướng để có thể nêu bày thì lìa thọ không có ngã.

Nếu nói lìa thân không có ngã, thân ấy là ngã, thì cũng không đúng. Vì sao? Vì thân năm ấm có tướng sinh diệt, còn ngã thì không như thế.

Lại nữa, làm sao cho thọ tức là người thọ. Nếu cho lìa thọ có người thọ thì cũng không đúng. Vì nếu không thọ năm ấm mà có người thọ, thì có thể lìa năm ấm có người thọ như các căn mắt v.v… có thể có được, nhưng thật sự là không thể có được, vì thế nên ta không lìa thọ, cũng không tức là thọ, cũng chẳng phải là không thọ, cũng lại chẳng phải là không. Đây là nghĩa định. Vì thế nên biết, ngã có mặt trong đời quá khứ, việc ấy là không đúng. Vì sao?

Ngã quá khứ không tạo

Việc ấy tức không đúng

Ngã trong đời quá khứ

Khác nay cũng không đúng.

Nếu cho là có khác

Lìa kia nên có nay

Ngã trụ đời quá khứ

Mà nay ngã tự sinh.

Như vậy tức đoạn diệt

Mất quả báo của nghiệp

Kia làm nhưng đây nhận

Có những lỗi như thế.

Trước không mà nay có

Trong ấy cũng có lỗi

Ngã tức là pháp tạo

Và cũng là không nhân.

Ngã trong đời quá khứ không tạo ra ngã hiện nay, nói vậy là không đúng. Vì sao? Vì ngã trong đời quá khứ cùng với ngã nơi đời này không khác. Nếu ngã của đời nay cùng với ngã của đời quá khứ là khác, thì có thể lìa ngã kia mà có ngã nay.

Lại, ngã của đời quá khứ cũng có thể trụ nơi thân quá khứ kia, còn thân này tự lại sinh. Nếu như vậy tức rơi vào biên đoạn diệt, mất quả báo của các nghiệp. Lại người kia tạo tội, người này thọ báo. Nên nói ngã đời nay khác ngã đời trước tức có nhiều thứ lỗi lầm như thế.

Lại, nếu nói ngã ấy nên trước không có nhưng nay có là cũng có lỗi. Vì ngã ấy là pháp tạo tác, cũng là không nhân mà sinh.

Thế nên nói: Ngã nơi đời quá khứ không tạo ra ngã đời nay, việc ấy là không đúng.

Lại nữa,

Như trong đời quá khứ

Chấp có ngã, không ngã

Hoặc vừa có, vừa không

Việc ấy đều không đúng.

Như vậy, các tà kiến suy tìm trong đời quá khứ chấp có ngã, không có ngã, cũng có ngã cũng không có ngã, chẳng phải có ngã chẳng phải không có ngã. Những tà kiến như vậy, vì trước nói lỗi nơi nhân duyên nên đều không đúng.

Ngã nơi đời vị lai

Là tạo là không tạo

Các kiến chấp như thế

Đều đồng đời quá khứ.

Ngã nơi đời vị lai là tạo hay là không tạo. Bốn trường hợp như thế đều có lỗi, giống như bốn trường hợp chấp ngã trong đời quá khứ.

Lại nữa,

Nếu trời tức là người

Tức rơi vào thường kiến

Trời tức là không sinh

Vì pháp thường chẳng sinh.

Nếu trời tức là người, thì đó là thường. Nếu trời không sinh trong loài người sao gọi là người? Pháp thường thì không sinh, nên nói thường cũng không đúng.

Lại nữa,

Nếu trời khác với người

Đó tức là vô thường

Nếu trời khác người sinh

Tức là không nối tiếp.

Nếu trời khác với người, thế tức là vô thường. Vô thường thì có lỗi đoạn diệt, như trước đã nói. Nếu trời khác với người thì không có nối tiếp. Nếu có nối tiếp thì không thể nói trời khác với người.

Lại nữa,

Nếu nửa trời, nửa người

Tức rơi vào hai biên

Thường cùng với vô thường

 Việc ấy tức không đúng.

Nếu chúng sinh một nửa thân là trời, một nửa thân là người, như thế thì có cả thường, vô thường. Nửa trời là thường, nửa người là vô thường. Nhưng việc ấy là không đúng. Vì sao? Vì có lỗi một thân có hai tướng.

Lại nữa,

Nếu thường và vô thường

Cả hai đều cùng thành

Như vậy tức nên thành

Không phải thường, vô thường.

Nếu thường và vô thường cả hai đều thành, sau đấy thành không phải là thường không phải là vô thường, vì trái với thường và vô thường. Nhưng nay thật sự là thường và vô thường không thành, nên không phải là thường không phải là vô thường cũng không thành. Lại nữa, nay nói sinh tử vô thỉ thì cũng không đúng. Vì sao?

Nếu pháp định có đến

Cùng quyết định có đi

Sinh tử tức vô thỉ

Nhưng sự ấy thật không.

Nếu pháp quyết định có chỗ từ kia lại đây, có chỗ từ đây đi đến kia, thì sinh tử tức nên vô thỉ. Nhưng dùng trí tuệ suy tìm, không thấy pháp có chỗ từ kia lại đây cùng có chỗ từ đây đi đến kia, nên nói sinh tử là vô thỉ, việc ấy cũng không đúng.

Lại nữa,

Nay nếu không có thường

Làm sao có vô thường

 Cũng thường cũng vô thường

Không phải thường, vô thường.

Nếu như vậy, do trí tuệ suy tìm, không thấy có pháp có thể là thường, vậy làm sao có pháp vô thường, vì nhân nơi thường nên có vô thường. Nếu thường và vô thường đều không có, làm sao có cũng thường cũng vô thường. Nếu không có cũng thường cũng vô thường, làm sao có không phải là thường không phải là vô thường, vì nhân nơi cũng thường cũng vô thường, nên có không phải là thường không phải là vô thường. Vì vậy nương dựa nơi đời quá khứ, khởi bốn trường hợp chấp thường, vô thường v.v…, việc ấy là không đúng. Nương dựa nơi đời vị lai, khởi tà kiến chấp bốn trường hợp ngã và thế giới là hữu biên, vô biên v.v…, việc ấy cũng không được. Nay đây sẽ nói. Vì sao?

Nếu thế gian hữu biên

Làm sao có đời sau

Nếu thế gian vô biên

Làm sao có đời sau.

Nếu thế gian là hữu biên thì không thể có đời sau, nhưng nay thật sự là có đời sau, vậy nên nói thế gian hữu biên là không đúng. Nếu thế gian vô biên thì cũng không thể có đời sau, nhưng thật sự là có đời sau, thế nên nói thế gian vô biên cũng không đúng.

Lại nữa, cả hữu biên, vô biên đều không thể có được. Vì sao?

Năm ấm thường nối tiếp

Cũng như ngọn đèn sáng

Vì vậy nên thế gian

Không hữu biên, vô biên.

Từ năm ấm lại sinh năm ấm. Năm ấm ấy thứ lớp nối tiếp, như từ các duyên hòa hợp có ngọn đèn sáng. Nếu các duyên hết thì đèn cũng tắt. Nếu các duyên không hết thì đèn không tắt. Nếu duyên hết thì đèn tắt. Vì vậy không thể nói thế gian hữu biên, vô biên.

Lại nữa,

Nếu năm ấm trước hoại

Không nhân năm ấm ấy

Là sinh năm ấm sau

Thế gian tức hữu biên.

Nếu ấm trước không hoại

Cũng không nhân ấm ấy

Mà sinh năm ấm sau

Thế gian tức vô biên.

Nếu năm ấm trước hoại, không nhân nơi năm ấm ấy lại sinh năm ấm sau, như vậy thì thế gian là hữu biên. Nếu năm ấm trước hoại rồi, không còn sinh tiếp năm ấm khác, đó gọi là biên. Biên là chỉ cho thân sau cùng. Nếu năm ấm trước không hoại và không nhân nơi năm ấm ấy sinh ra năm ấm sau, thì thế gian là vô biên, vô biên tức là thường. Nhưng thật sự thì không phải như vậy. Vậy nên nói thế gian vô biên là không đúng.

Thế gian có hai thứ: thế gian của quốc độ và thế gian của chúng sinh. Ở đây là nói về thế gian của chúng sinh.

Lại nữa, như trong Tứ Bách Quán nói:

Pháp chân và người nói

Người nghe khó gặp được

Như vậy tức sinh tử

Phi hữu biên vô biên.

Do nhân duyên không đạt được pháp chân nên sinh tử qua lại không có biên vực. Nếu khi được nghe pháp chân đạt đạo, thì không thể nói là vô biên.

Nay sẽ tiếp phá cũng hữu biên cũng vô biên.

Thế gian nửa hữu biên

Thế gian nửa vô biên

Tức là cũng hữu biên

Cũng vô biên, không đúng.

Nếu thế gian một nửa hữu biên, một nửa vô biên, tức nên là cũng hữu biên cũng vô biên. Nếu như vậy là một pháp có hai tướng, việc ấy là không đúng. Vì sao?

Người thọ năm ấm kia

Vì sao phá một phần

Một phần lại không phá

Việc ấy tức không đúng.

Thọ cũng lại như thế

Vì sao phá một phần

Còn một phần không phá

Việc này cũng không đúng.

Người thọ năm ấm vì sao một phần phá (vì vô thường), một phần không phá (vì thường), như vậy là không đúng. Nói cũng thường cũng vô thường cũng không đúng. Đối với năm ấm được thọ cũng như vậy. Vì sao một phần phá một phần không phá. Vì một pháp có hai tướng là thường và vô thường đều có lỗi. Thế nên nói thế gian cũng hữu biên cũng vô biên tức không đúng.

Nay sẽ phá chẳng phải là hữu biên chẳng phải là vô biên.

Vừa hữu biên, vô biên

Cả hai được thành lập

Phi hữu, phi vô biên

Tức là cũng nên thành.

Trái với hữu biên nên có vô biên. Như trái với dài nên có ngắn. Trái với có, không nên có cũng có cũng không. Trái với cũng có cũng không nên có chẳng phải là có chẳng phải là không. Nếu cũng hữu biên cũng vô biên quyết định thành, tức nên có chẳng phải là hữu biên chẳng phải là vô biên. Vì sao? Vì nhân nơi đối đãi nhau mà có. Trên đã phá câu thứ ba là cũng hữu biên cũng vô biên, nay làm sao có câu thứ tư chẳng phải là hữu biên chẳng phải là vô biên, do không có đối đãi nhau.

Lại nữa,

Tất cả pháp rỗng lặng

Vậy xứ nào, thời nào

Ai khởi các kiến chấp

Nói thế gian là thường v.v…

Trên đã dùng pháp Thanh văn phá các tà kiến. Nay trong pháp Đại thừa này thì nói các pháp từ trước đến giờ rốt ráo là tánh không. Ở trong pháp tánh không như vậy, không có người, không có pháp, không thể sinh ra tà kiến, chánh kiến. Xứ là đất đai, thời gian là số ngày tháng năm. Ai là người, đó gọi là thể của các kiến chấp. Nếu quyết định có kiến chấp thường, vô thường v.v… tức phải có người xuất sinh ra kiến chấp ấy. Nay phá ngã nên không có người sinh ra kiến chấp ấy. Phải có nơi chốn, nhưng sắc pháp là thứ hiện thấy được hãy còn có thể phá huống gì là thời gian, phương hướng. Nếu có các kiến chấp thì phải có thật thể nhất định, nếu có thật thể nhất định thì không thể phá. Nhưng từ trước nay đã dùng vô số nhân duyên để phá kiến chấp, vì thế nên biết các kiến chấp không có tự thể nhất định, vậy làm sao sinh ra, như kệ nói: Vậy xứ nào thời nào, Ai khởi các kiến chấp.

Cù Đàm, bậc Đại Thánh

Từ bi nói pháp ấy

Tất trừ mọi kiến chấp

Con nay cung kính lễ.

Tất cả kiến chấp tóm lược có năm kiến (Thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ), nói rộng có sáu mươi hai kiến. Vì để phá trừ các kiến ấy nên Phật thuyết pháp. Đấng Thánh chủ Cù Đàm là bậc trí tuệ vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Thế nên con cung kính đảnh lễ.

HẾT – QUYỂN 4

Pages: 1 2 3 4