TRUNG LUẬN
Tác giả: Bồ tát Long Tho
Giải thích: Phạm chí Thanh Mục
Hán dịch: Đời Diêu Tần, Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 3
Phẩm thứ 15: QUÁN VỀ CÓ, KHÔNG
(Gồm 11 kệ)
Hỏi: Các pháp đều có tánh riêng vì có lực dụng. Như bình có tánh của bình, vải có tánh của vải. Tánh ấy khi các duyên hợp thì xuất hiện chăng?
Đáp:
Trong các duyên có tánh
Việc ấy tức không đúng
Tánh từ các duyên xuất
Tức gọi pháp tạo tác.
Nếu các pháp có tánh thì không thể từ các duyên xuất hiện. Vì sao? Vì nếu từ các duyên xuất hiện tức là pháp tạo tác, không có tánh nhất định.
Hỏi: Nếu tánh của các pháp từ các duyên khởi tác thì có lỗi gì?
Đáp:
Tánh nếu là tác giả
Làm sao có nghĩa ấy
Tánh gọi là vô tác
Không đợi pháp khác thành.
Như vàng lẫn với đồng thì không phải vàng ròng. Như vậy nếu các pháp có tánh thì không cần các duyên. Nếu từ các duyên xuất hiện, nên biết không có tánh chân thật.
Lại, tánh nếu quyết định thì không cần đợi cái khác mới xuất hiện, không phải như dài ngắn, đây kia không có tánh định, nên phải đợi cái khác mới có.
Hỏi: Các pháp nếu không có tự tánh thì nên có tha tánh chăng?
Đáp:
Nếu pháp không tự tánh
Làm sao có tha tánh
Tự tánh nơi tha tánh
Cũng gọi là tha tánh.
Tánh của các pháp từ các duyên khởi tác, cũng nhân nơi đối đãi mới thành, nên không có tự tánh. Nếu vậy, tha tánh đối với tha cũng là tự tánh, cũng từ các duyên sinh, cũng đối đãi nên cũng không có tha tánh. Vì không có tha tánh, làm sao nói các pháp từ tha tánh sinh, vì tha tánh cũng là tự tánh.
Hỏi: Nếu lìa tự tánh, tha tánh mà có các pháp thì có lỗi gì?
Đáp:
Lìa tự tánh, tha tánh
Đâu có được pháp gì
Nếu có tự, tha tánh
Các pháp tức được thành.
Ông cho lìa tự tánh, tha tánh vẫn có pháp, việc ấy là không đúng. Nếu lìa tự tánh, tha tánh tức không có pháp. Vì sao? Vì có tự tánh, tha tánh thì pháp thành. Như thể của bình là tự tánh đối với áo là tha tánh.
Hỏi: Nếu dùng tự tánh, tha tánh phá pháp có thì nay nên có cái không?
Đáp:
Có nếu đã không thành
Không làm sao thành được
Nhân nơi có pháp có
Có hoại gọi là không.
Nếu ông đã nhận pháp có không thành thì cũng nên nhận pháp không cũng không. Vì sao? Vì pháp có hoại diệt nên gọi là không, không ấy nhân nơi có hoại diệt mà có.
Lại nữa,
Nếu người thấy có, không
Thấy tự tánh, tha tánh
Như thế là không thấy
Nghĩa thật của pháp Phật.
Nếu người chấp trước sâu nơi các pháp, tất cần tìm cái có thấy. Nếu phá bỏ tự tánh tức lại thấy tha tánh. Nếu phá bỏ tha tánh tức thấy có. Nếu phá bỏ có tức thấy không. Nếu phá không thì hoang mang ngờ vực. Nếu là người lợi căn tâm chấp trước nhẹ, vì biết diệt hết các kiến chấp nên được an ổn, lại không sinh ra bốn thứ hý luận (Có, không, cũng có cũng không, chẳng có chẳng không), người ấy tức thấy được nghĩa chân thật của pháp Phật. Thế nên nói kệ trên.
Lại nữa,
Phật hay diệt có không
Như hóa Ca-chiên-diên
Trong kinh Ngài đã dạy
Lìa có cũng lìa không.
Trong kinh San Đà Ca Chiên Diên, Phật vì vị ấy nói về nghĩa chánh kiến là lìa có, lìa không. Nếu trong các pháp quyết định có chút ít, thì Phật đã không phá có, không. Nếu chỉ phá có thì người cho là không. Phật thông đạt thật tướng của các pháp, nên nói có và không đều không. Vì thế ông nên bỏ kiến chấp có, không ấy.
Lại nữa,
Nếu pháp thật có tánh
Sau tức chẳng nên khác
Tánh nếu có tướng khác
Việc ấy trọn không đúng.
Nếu các pháp quyết định có tánh thì trọn không nên biến khác. Vì sao? Vì nếu quyết định có tự tánh thì không thể có tướng khác như trên đã nêu dụ về vàng thật. Hiện tại thấy các pháp có tướng khác, nên biết chúng không có tướng nhất định.
Lại nữa,
Nếu pháp thật có tánh
Làm sao có thể khác
Nếu pháp thật không tánh
Làm sao có thể khác?
Nếu pháp quyết định có tánh làm sao có thể biến khác. Nếu pháp không có tánh tức là không có tự thể, làm sao có thể biến khác?
Lại nữa,
Định có tức chấp thường
Định không tức chấp đoạn
Vì vậy người có trí
Không nên chấp có không.
Nếu pháp quyết định có tướng có thì trọn không có tướng không, đó tức là thường. Vì sao? Vì như nói ba đời, trong đời vị lai có tướng pháp, pháp ấy đi đến đời hiện tại, chuyển vào đời quá khứ, trước sau không bỏ tướng gốc, đó tức là thường. Lại nói trong nhân trước có quả, thế cũng là thường. Nếu nói quyết định có pháp không, thì không ấy tất trước có nay không, đó tức là đoạn diệt. Đoạn diệt là không có nhân nối tiếp. Do hai thứ kiến chấp ấy tức xa lìa pháp Phật.
Hỏi: Cớ gì nhân nơi có sinh thường kiến. Nhân nơi không sinh đoạn kiến?
Đáp:
Nếu pháp có tánh định
Chẳng phải không tức thường
Trước có mà nay không
Đó tức là đoạn diệt.
Nếu tánh của pháp quyết định có, tức là tướng có không phải là tướng không, trọn không thể là không. Nếu không tức không phải có, tức là pháp không, lỗi này trước đã nói. Như vậy là rơi vào thường kiến. Nếu pháp trước có, hoại diệt mà thành không, đó gọi là đoạn diệt. Vì sao? Vì có không thể là không. Ông cho có không đều có tướng định. Nếu chấp đoạn, chấp thường, thì phá bỏ các việc của thế gian như cho là không có tội phước. Vì thế nên bỏ hai thứ chấp ấy.
Phẩm thứ 16: QUÁN VỀ BUỘC, MỞ
(Gồm 10 kệ)
Hỏi: Sinh tử không phải hoàn toàn không có cội gốc, ở trong đó nên có chúng sinh qua lại, hoặc các hành qua lại. Vậy ông do nhân duyên gì nói chúng sinh và các hành đều không, không có qua lại?
Đáp:
Nói các hành qua lại
Thường không thể qua lại
Vô thường cũng không thể
Chúng sinh cũng như vậy.
Các hành qua lại trong sáu đường sinh tử, là tướng thường qua lại, hay là tướng vô thường qua lại? Cả hai đều không đúng. Nếu tướng thường qua lại, thì không có sinh tử nối tiếp, do đã quyết định, nên tự tánh dừng trụ. Nếu do tướng vô thường qua lại, thì cũng không có sinh tử qua lại nối tiếp, do không quyết định, do không có tự tánh. Nếu nói chúng sinh qua lại thì cũng có lỗi như vậy.
Lại nữa,
Nếu chúng sinh qua lại
Trong ấm, giới, các nhập
Năm thứ cầu đều không
Thì có ai qua lại.
Sinh tử và năm ấm, mười tám giới, mười hai nhập là một nghĩa. Nếu chúng sinh ở trong ấm, giới, nhập này qua lại thì như trong phẩm Đốt cháy, bị đốt cháy đã nêu. Theo năm cách cầu tìm không thể có được. Vậy ai ở trong ấm, giới, nhập mà có qua lại?
Lại nữa,
Nếu từ thân đến thân
Qua lại tức không thân
Nếu như không có thân
Tức không có qua lại.
Nếu nói chúng sinh qua lại, vậy chúng sinh có thân qua lại hay là không có thân mà qua lại? Cả hai đều không đúng. Vì sao? Vì nếu có thân qua lại, thì từ một thân đến một thân, như vậy thì kẻ qua lại không có thân. Lại, nếu trước đã có thân, thì không thể lại từ thân đi đến thân. Nếu trước không có thân, tức là không có. Nếu không có thì làm sao có sinh tử qua lại?
Hỏi: Kinh nói có Niết-bàn, diệt hết thảy khổ. Diệt đây là các hành diệt hay là chúng sinh diệt?
Đáp: Cả hai đều không đúng. Vì sao?
Các hành nếu bị diệt
Việc ấy trọn không đúng
Chúng sinh nếu bị diệt
Việc ấy cũng không đúng.
Ông nói hoặc các hành diệt, hoặc chúng sinh diệt, việc ấy trước đã đáp rồi. Các hành không có tánh, chúng sinh cũng không có tánh, dùng đủ cách để suy tìm về sinh tử qua lại không thể được. Thế nên các hành không diệt, chúng sinh cũng không diệt.
Hỏi: Nếu như vậy thì không có trói buộc, không có giải thoát, vì căn bản không thể có được?
Đáp:
Tướng sinh diệt các hành
Không buộc cũng không mở
Chúng sinh như trước nói
Không buộc cũng không mở.
Ông cho các hành và chúng sinh có buộc có mở, việc ấy là không đúng. Các hành niệm niệm sinh diệt, tức không thể có buộc mở. Chúng sinh như trước đã nói, theo năm cách suy tìm tướng chúng sinh không thể có được, vậy làm sao có buộc mở?
Lại nữa,
Nếu thân gọi là buộc
Có thân tức không buộc
Không thân cũng không buộc
Vậy nơi nào có buộc.
Nếu cho thân năm ấm gọi là buộc, nhưng nếu chúng sinh trước đã có thân năm ấm thì không thể buộc. Vì sao? Vì một người có hai thân. Không thân cũng không thể buộc. Vì sao? Vì nếu không thân tức không có năm ấm. Không có năm ấm tức là không, làm sao có thể buộc. Như vậy có thân, không thân đều không trói buộc.
Lại nữa,
Nếu bị buộc trước buộc
Tức nên buộc bị buộc
Nhưng trước thật không buộc
Như phẩm Đi Đến đáp.
Nếu cho bị buộc trước có buộc, tức nên buộc, bị buộc. Nhưng thật sự lìa bị buộc, trước không buộc. Thế nên không được nói chúng sinh có buộc. Hoặc nói chúng sinh là bị buộc. Năm ấm là buộc. Hoặc nói các phiền não trong năm ấm là buộc, còn ngoài năm ấm là bị buộc. Việc ấy là không đúng. Vì sao? Vì nếu lìa năm ấm trước có chúng sinh, tức có thể do năm ấm buộc chúng sinh, nhưng thật sự thì lìa năm ấm không có riêng chúng sinh. Hoặc lìa năm ấm có riêng phiền não, thì có thể do phiền não buộc năm ấm. Nhưng thật sự lìa năm ấm không có riêng phiền não.
Lại nữa, như trong phẩm Đi Đến đã nói, đã đi không đi, chưa đi không đi, lúc đi không đi, như vậy chưa buộc không buộc, đã buộc không buộc, khi buộc không buộc.
Lại nữa, cũng không có mở. Vì sao?
Buộc thì không có mở
Không buộc cũng không mở
Khi buộc mà có mở
Buộc mở tức cùng lúc.
Buộc thì không có mở. Vì sao? Vì đã buộc. Không buộc cũng không mở. Vì sao? Vì không có buộc. Nếu cho khi buộc có mở thì buộc và mở cùng một lúc, việc ấy là không đúng. Lại buộc và mở trái nhau.
Hỏi: Có người tu đạo, hiện nhập Niết-bàn được giải thoát, vì sao nói không?
Đáp:
Nếu không thọ các pháp
Ta sẽ đắc Niết-bàn
Nếu người nghĩ như thế
Trở lại bị trói buộc.
Nếu người nào nghĩ: “Ta xa lìa thọ nhận, chứng đắc Niết-bàn”, người ấy tức là thọ nhận sự trói buộc.
Lại nữa,
Không lìa nơi sinh tử
Mà có riêng Niết-bàn
Nghĩa thật tướng như thế
Làm sao có phân biệt.
Trong đệ nhất nghĩa, thật tướng của các pháp không nói lìa sinh tử có riêng Niết-bàn. Như kinh nói: “Niết-bàn tức sinh tử, sinh tử tức Niết-bàn”. Như thế trong thật tướng của các pháp làm sao nói đó là sinh tử, đó là Niết-bàn?
Phẩm thứ 17: QUÁN VỀ NGHIỆP
(Gồm 33 kệ)
Hỏi: Ông tuy dùng đủ thứ lý để phá các pháp, nhưng nghiệp quyết định phải có, vì nó có thể khiến cho tất cả chúng sinh thọ nhận quả báo. Như trong kinh nói: “Hết thảy chúng sinh đều theo nghiệp mà sinh. Người ác vào địa ngục, người tu phước sinh nơi xứ trời, người hành đạo thì được Niết-bàn”. Thế nên tất cả pháp không nên nói không, nghĩa là có nghiệp.
Người hay hàng phục tâm
Lợi ích cho chúng sinh
Đó gọi là từ thiện
Gieo quả báo hai đời.
Con người có ba thứ độc não hại người khác nên sinh hành. Người thiện trước đã tự diệt ác, vì thế nên nói hàng phục tâm mình, tạo lợi ích cho người khác. Tạo lợi ích cho người khác là hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục v.v… không não hại chúng sinh. Đó gọi là tạo lợi ích cho người khác, cũng gọi là từ thiện phước đức, cũng gọi đó gieo hạt giống của quả an vui cho đời này, đời sau.
Lại nữa,
Đại Thánh nói hai nghiệp
Tư và từ Tư sinh
Trong tướng riêng nghiệp ấy
Vô số phân biệt nói.
Đại Thánh lược nói nghiệp có hai thứ: Một là nghiệp tư. Hai là nghiệp từ tư sinh. Hai nghiệp này như trong A-tỳ-đàm đã nói rộng (Gọi là tư nghiệp và tư dĩ nghiệp).
Phật nói về tư nghiệp
Đó gọi là ý nghiệp
Nghiệp từ tư sinh khởi
Tức là nghiệp thân khẩu.
Tư là tâm sở pháp. Trong các tâm sở pháp, tư có khả năng phát khởi sự tạo tác nên gọi là nghiệp. Nhân nơi tư ấy nên khởi nghiệp thân, nghiệp khẩu bên ngoài. Tuy cũng nhân nơi các tâm và tâm sở pháp khác nên có tạo tác, nhưng chỉ tư là gốc của sự tạo tác, nên nói tư là nghiệp. Nghiệp ấy nay sẽ nói về tướng.
Thân nghiệp và khẩu nghiệp
Nghiệp tác, nghiệp không tác
Trong bốn nghiệp như thế
Cũng thiện cũng bất thiện.
Từ dụng sinh phước đức
Sinh tội cũng như vậy
Và Tư là bảy pháp
Rõ tướng của các nghiệp.
Khẩu nghiệp có bốn thứ, thân nghiệp có ba thứ, đó là bảy nghiệp. Bảy thứ nghiệp ấy có hai thứ sai biệt là nghiệp tác và nghiệp vô tác. Khi hành tác gọi là nghiệp tác. Khi đã tạo rồi, nó vẫn luôn theo đuổi phát sinh, gọi là nghiệp vô tác. Hai thứ nghiệp tác và vô tác ấy lại có thiện và bất thiện. Bất thiện là không dứt ác. Thiện là dứt bỏ ác.
Lại có từ dụng sinh phước đức. Như thí chủ bố thí cho người thọ nhận, nếu người thọ thí thọ dụng thì thí chủ được hai thứ phước: Một là phước từ sự bố thí sinh. Hai là phước từ sự thọ dụng sinh. Như người dùng mũi tên bắn vào một người khác, nếu mũi tên giết chết người kia thì bị hai thứ tội: Một là tội từ bắn sinh. Hai là tội từ tác dụng giết chết người kia. Nếu bắn nhưng không giết chết, thì người bắn chỉ mắc một tội bắn, không mắc tội giết, vì bắn không có tác dụng. Thế nên trong kệ nói: Tội phước từ dụng sinh.
Như vậy gọi là sáu thứ nghiệp. Nghiệp thứ bảy là tư. Bảy nghiệp ấy là phân biệt về tướng của nghiệp. Do nghiệp ấy nên có quả báo của đời nay đời sau. Vì thế quyết định có nghiệp có quả báo, các pháp không nên nói là không.
Đáp:
Nghiệp trụ đến thọ báo
Nghiệp ấy tức là thường
Nếu diệt tức không nghiệp
Làm sao sinh quả báo?
Nghiệp nếu trụ cho đến khi thọ nhận quả báo đó tức là thường. Việc ấy là không đúng. Vì sao? Vì nghiệp là tướng sinh diệt, trong một niệm hãy còn không dừng trụ, huống gì là đến khi thọ nhận quả báo.
Nếu cho nghiệp diệt, diệt tức không, làm sao có thể sinh quả báo?
Hỏi:
Như mầm chồi nối tiếp
Đều từ hạt giống sinh
Từ đó mà sinh quả
Lìa hạt không nối tiếp.
Từ hạt có nối tiếp
Từ nối tiếp có quả
Trước hạt sau có quả
Chẳng đoạn cũng chẳng thường.
Như vậy từ tâm đầu
Tâm pháp nối tiếp sinh
Từ đó mà có quả
Lìa tâm không nối tiếp.
Từ tâm có nối tiếp
Từ nối tiếp có quả
Trước nghiệp sau có quả
Chẳng đoạn cũng chẳng thường.
Như từ hạt lúa có mầm, từ mầm có cành lá nối tiếp nhau. Từ sự nối tiếp ấy mà có quả sinh. Lìa hạt lúa thì không có nối tiếp sinh. Thế nên từ hạt lúa có sự nối tiếp, từ sự nối tiếp mà có quả, vì trước là hạt lúa sau là có quả, nên chẳng đoạn cũng chẳng thường. Như dụ về hạt lúa, nghiệp quả cũng như vậy. Tâm ban đầu khởi tội phước cũng như hạt lúa. Nhân nơi tâm ban đầu ấy, các tâm tâm sở pháp khác nối tiếp sinh, cho đến khi thọ nhận quả báo. Do trước nghiệp sau quả nên chẳng đoạn cũng chẳng thường. Nếu lìa nghiệp mà có quả báo tức có đoạn thường.
Nhân duyên và quả báo của nghiệp thiện là:
Tạo thành được phước đức
Là mười nghiệp đạo trắng
Vui năm dục hai đời
Là báo của nghiệp trắng.
Bạch là thiện sạch. Nhân duyên thành tựu phước đức là từ mười nghiệp đạo bạch, là nghiệp không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói thô ác, không nói lời vô ích, không ganh ghét, không sân giận, không tà kiến, đó gọi là thiện. Từ nghiệp thân miệng ý thiện sinh ra quả báo là được danh, lợi của đời này và đời sau sinh nơi chốn giàu sang trong nẻo trời người. Bố thí, cung kính v.v… tuy có vô số phước đức, nhưng lược nói thì gồm thâu trong mười nghiệp đạo thiện?
Đáp:
Nếu như ông phân biệt
Về lỗi tức rất nhiều
Vì thế điều ông nói
Nơi nghĩa tức không đúng.
Nếu vì nghiệp và quả báo nối tiếp mà dùng hạt lúa làm thí dụ, thì lỗi lầm ấy là quá nhiều, nhưng ở đây không nói rộng. Ông nêu dụ về hạt lúa, dụ ấy không đúng. Vì sao? Vì hạt lúa có xúc chạm, có hình tướng, có thể thấy, có nối tiếp. Tôi suy nghĩ về việc ấy hãy còn chưa chấp nhận lời nói đó, huống gì tâm và nghiệp là thứ không có xúc chạm, không có hình tướng, không thể thấy, sinh diệt không dừng trụ, mà muốn cho nó nối tiếp là việc không đúng.
Lại nữa, nếu từ hạt lúa có mầm v.v… nối tiếp, là hạt lúa diệt rồi mới nối tiếp hay là không diệt mà nối tiếp? Nếu hạt lúa diệt rồi nối tiếp, là không có nhân. Nếu hạt lúa không diệt mà nối tiếp, thì từ hạt lúa ấy thường sinh các lúa. Nếu như vậy là một hạt lúa tức sinh ra tất cả lúa trong thế gian, việc ấy là không đúng. Thế nên nói nghiệp và quả báo nối tiếp là không đúng.
Hỏi:
Nay lại nên nói tiếp
Thuận nghĩa quả báo nghiệp
Chư Phật, Phật-bích-chi
Hiền Thánh đều tán thán.
Đó là:
Pháp không mất như khoán
Nghiệp như nợ tài vật
Tánh ấy là vô ký
Phân biệt có bốn thứ.
Kiến đế chưa đoạn được
Chỉ tư duy mới đoạn
Là do pháp không mất
Các nghiệp có quả báo.
Nếu kiến đế đoạn được
Nhưng nghiệp đến tương tợ
Tức nên phá bỏ nghiệp
Là lỗi lầm như thế.
Tất cả các hành nghiệp
Tương tợ, không tương tợ
Một cõi mới thọ nhận
Khi ấy báo riêng sinh.
Hai thứ nghiệp như thế
Thọ quả báo đời này
Hoặc nói thọ báo rồi
Nhưng nghiệp còn như cũ.
Hoặc đạt quả rồi diệt
Hoặc chết rồi mới diệt
Ở trong ấy phân biệt
Hữu lậu và vô lậu.
Pháp không mất: Nên biết như giấy hợp đồng (Khoán). Nghiệp như giữ lấy vật. Pháp không mất này hệ thuộc nơi ba cõi dục, sắc, vô sắc và không hệ thuộc. Nếu phân biệt về ba tánh thiện, bất thiện, vô ký, thì nó chỉ là vô ký. Nghĩa vô ký ấy trong A-tỳ-đàm đã nói rộng.
Tánh vô ký này kiến đế (Kiến đạo) không đoạn được. Từ một quả đến một quả, trong đó, do tư duy (Tu đạo) mới đoạn. Các nghiệp vì vậy do pháp không mất ấy nên có quả sinh. Nếu kiến đế (Kiến đạo) đoạn được thì bị cái lỗi phá nghiệp, vì nghiệp đến khi thọ quả báo tương tợ liền không còn nữa. Việc này trong A-tỳ-đàm đã nói rộng.
Lại nữa, pháp không mất là đối với các nghiệp tương tợ, không tương tợ nơi một cõi, khi mới thọ thân thì quả báo riêng sinh nơi thân hiện tại, vì khi này nghiệp đã hết.
Ở thân hiện tại, từ nghiệp lại sinh nghiệp. Nghiệp ấy có hai thứ nặng nhẹ, tùy nghiệp nặng mà thọ báo. Hoặc có người nói nghiệp thọ báo rồi nhưng nghiệp vẫn còn, vì không phải niệm niệm diệt, nên nếu vượt từ quả này qua quả kia thì diệt, hoặc chết rồi thì diệt. Tuđà-hoàn vượt qua quả rồi diệt. Các phàm phu và A-la-hán thì chết rồi diệt. Trong đó, phân biệt có hữu lậu và vô lậu, các vị Hiền Thánh từ Tu-đà-hoàn trở lên, nên phân biệt hữu lậu và vô lậu.
Đáp: Nghĩa vừa nói đều không tránh khỏi lỗi chấp đoạn chấp thường. Vì thế không nên chấp giữ.
Hỏi: Nếu như vậy thì không có nghiệp và quả báo?
Đáp:
Tuy không cũng chẳng đoạn
Tuy có cũng chẳng thường
Quả báo nghiệp không mất
Đó là lời Phật dạy.
Ý nghĩa được nói ở Luận này là lìa nơi đoạn thường. Vì sao? Vì nghiệp rốt ráo là không, là tướng tịch diệt, tự tánh lìa có không, thì có pháp gì để đoạn, có pháp gì để mất. Do nhân duyên điên đảo, có sinh tử qua lại cũng vô thường. Vì sao? Vì nếu pháp từ điên đảo khởi thì hư vọng không thật, không thật nên chẳng phải thường.
Lại nữa, vì tham chấp điên đảo không nhận biết tướng thật. Nói nghiệp không mất đó là lời Phật nói.
Lại nữa:
Các nghiệp vốn không sinh
Do không có tánh định
Các nghiệp cũng không diệt
Do vì chúng không sinh.
Nếu như nghiệp có tánh
Thì gọi đó là thường
Không tạo cũng gọi nghiệp
Thường thì không thể tạo.
Nếu có nghiệp chẳng tạo
Chẳng tạo mà có tội
Không đoạn nơi phạm hạnh
Nhưng có lỗi bất tịnh.
Như vậy phá tất cả
Pháp ngôn ngữ thế gian
Tạo tội và làm phước
Cũng không có sai khác.
Nếu nói nghiệp quyết định
Mà tự có tánh ấy
Thì thọ quả báo rồi
Tức nên lại thọ nữa.
Nếu các nghiệp thế gian
Từ nơi phiền não sinh
Phiền não ấy không thật
Nên nghiệp đâu có thật.
Trong đệ nhất nghĩa thì các nghiệp không sinh. Vì sao? Vì nghiệp không có tánh. Do nhân duyên không sinh tức nên không diệt, không phải do thường nên không diệt. Nếu không như vậy thì tánh của nghiệp nên quyết định có. Nếu nghiệp quyết định có tánh tức là thường. Nếu thường thì không tạo nghiệp. Vì sao? Vì pháp thường là không thể tạo tác.
Lại nữa, nếu có nghiệp không tạo tác, thì người khác tạo tội, người này chịu quả báo. Lại người kia đoạn bỏ phạm hạnh mà người này có tội. Như vậy thì phá bỏ pháp thế gian. Nếu trước đã có tự tánh, thì mùa đông không nên nghĩ đến việc mùa xuân, mùa xuân không nên nghĩ đến việc mùa hạ. Tức có các lỗi như vậy.
Lại nữa, làm phước và tạo tội tức không có sai khác. Khởi các hành bố thí, giữ giới v.v… gọi là làm phước. Khởi các hành sát sinh, trộm cắp v.v… gọi là tạo tội. Nếu không tạo tác mà có nghiệp thì không có phân biệt.
Lại nữa, nghiệp ấy nếu quyết định có tánh, tức trong một lúc thọ quả báo rồi lại nên thọ nữa. Thế nên ông nói do pháp không mất nên có nghiệp báo tức có các lỗi như vậy.
Lại nữa, nếu nghiệp từ phiền não khởi, phiền não ấy không có quyết định, chỉ từ tưởng nhớ phân biệt mà có. Nếu phiền não không thật thì nghiệp làm sao có thật. Vì sao? Vì nhân (phiền não) không có tánh, nên nghiệp cũng không tánh.
Hỏi: Nếu các phiền não và nghiệp không tánh, không thật, vậy quả báo nơi thân hiện có phải là thật?
Đáp:
Các phiền não và nghiệp
Là nhân duyên của thân
Phiền não các nghiệp không
Huống gì nơi các thân.
Các bậc Hiền Thánh nói phiền não và nghiệp là nhân duyên có thân. Trong ấy ái có thể làm tươi nhuần sinh. Nghiệp có thể tạo ra quả báo ba bậc thượng trung hạ tốt xấu, sang hèn. Nay mỗi mỗi suy tìm về phiền não và nghiệp không có quyết định, huống gì là các thân quả có quyết định, vì quả theo nhân duyên.
Hỏi: Ông tuy dùng các nhân duyên để phá nghiệp và quả báo, nhưng kinh nói có người khởi nghiệp, vì có người khởi nghiệp nên có nghiệp có quả báo?
Như nói:
Bị vô minh che lấp
Bị kiết ái trói buộc
Nhưng nơi tác giả gốc
Chẳng một cũng chẳng khác.
Trong Kinh Vô Thỉ nói: Chúng sinh vì vô minh che lấp, kiết ái trói buộc nên qua lại trong sinh tử từ vô thỉ thọ vô số khổ vui. Người thọ nhận hôm nay đối với người tạo nghiệp trước kia chẳng tức là cũng chẳng khác. Nếu tức là thì người tạo tội phải thọ làm thân bò, nhưng người không làm bò, bò không làm người. Nếu khác thì mất hết quả báo của nghiệp, rơi vào không nhân, không nhân tức đoạn diệt. Thế nên người thọ quả báo hôm nay đối với người tạo nghiệp trước kia chẳng một cũng chẳng khác?
Đáp:
Nghiệp không từ duyên sinh
Không từ phi duyên sinh
Vì vậy tức không có
Chủ thể sinh khởi nghiệp.
Không nghiệp, không tác giả
Sao có nghiệp sinh quả
Nếu như không có quả
Đâu có người thọ quả.
Nếu không có nghiệp, không có người tạo nghiệp, thì đâu có từ nghiệp sinh quả báo. Nếu không có quả báo làm sao có người thọ quả báo?
Nghiệp có ba thứ (Là thiện, bất thiện, vô ký. Hoặc tội, phước và nghiệp bất động), trong năm ấm giả gọi đó là người, là tác giả, do nghiệp ấy nên sinh vào xứ thiện ác, gọi là quả báo. Nếu người khởi nghiệp hãy còn không có, huống gì là có nghiệp, có quả báo và người thọ quả báo.
Hỏi: Ông tuy dùng vô số cách để phá nghiệp, quả báo và người khởi nghiệp, nhưng hiện tại thấy chúng sinh tạo nghiệp thọ quả báo, việc ấy như thế nào?
Đáp:
Như Phật dùng thần thông
Hóa ra người biến hóa
Người biến hóa như thế
Lại biến tạo người hóa.
Như người biến hóa đầu
Đó gọi là tác giả
Người biến hóa đã tạo
Do tức gọi là nghiệp.
Các phiền não và nghiệp
Tác giả và quả báo
Đều như huyễn và mộng
Như dợn nắng, tiếng vang.
Như lực thần thông của Phật tạo ra người biến hóa. Người biến hóa ấy lại biến hóa ra người biến hóa khác. Các người biến hóa như vậy không có thật sự, nhưng mắt có thể thấy. Lại người biến hóa ấy nghiệp khẩu nói pháp, nghiệp thân bố thí v.v…, nghiệp ấy tuy không thật nhưng mắt có thể thấy. Như vậy thân sinh tử, tác giả và nghiệp cũng nên biết như thế.
Các phiền não gọi là ba độc, phân biệt có chín mươi tám sử (tùy miên), chín kiết, mười triền, sáu cấu v.v… tức vô lượng các phiền não như thế. Nghiệp gọi là nghiệp thân miệng ý, đời nay đời sau phân biệt nghiệp có thiện, bất thiện, vô ký. Quả báo khổ, quả báo vui, quả báo không khổ không vui. Có nghiệp hiện báo (chịu quả báo nơi đời hiện tại), nghiệp sinh báo (chịu quả báo nơi đời sau), nghiệp hậu báo (chịu quả báo trong đời sau nữa), vô lượng tác giả như thế v.v… là người khởi tạo các nghiệp phiền não và người thọ quả báo.
Quả báo là thân năm ấm vô ký từ nghiệp thiện bất thiện sinh. Các nghiệp như vậy đều không, không có tánh, như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như dợn nắng.
Phẩm thứ 18: QUÁN VỀ PHÁP
(Gồm 12 kệ)
Hỏi: Nếu các pháp đều rốt ráo không, không sinh không diệt, gọi là thật tướng của các pháp, vậy làm sao ngộ nhập?
Đáp: Diệt tâm chấp ngã và ngã sở, nên được trí tuệ nhận biết hết thảy pháp là không, không có ngã, đó gọi là ngộ nhập.
Hỏi: Làm sao nhận biết các pháp vô ngã?
Đáp:
Nếu ngã là năm ấm
Ngã tức là sinh diệt
Nếu ngã khác năm ấm
Không phải tướng năm ấm.
Nếu như không có ngã
Thì đâu có ngã sở
Vì diệt ngã, ngã sở
Gọi được trí vô ngã.
Người được trí vô ngã
Tức gọi là thật quán
Người được trí vô ngã
Người ấy là hy hữu.
Trong ngoài ngã, ngã sở
Diệt hết không còn gì
Nên các thọ cũng diệt
Thọ diệt tức thân diệt.
Do nghiệp, phiền não diệt
Gọi đó là giải thoát
Nghiệp, phiền não không thật
Nhập không, hý luận diệt.
Chư Phật hoặc nói ngã
Hoặc nói về vô ngã
Trong thật tướng các pháp
Không ngã, không vô ngã.
Thật tướng của các pháp
Tâm hành, ngôn ngữ dứt
Không sinh cũng không diệt
Tịch diệt như Niết-bàn.
Tất cả thật chẳng thật
Cũng thật cũng chẳng thật
Chẳng thật chẳng chẳng thật
Đó gọi pháp chư Phật.
Tự biết không theo người
Tịch diệt không hý luận
Không khác không phân biệt
Đó tức là tướng thật.
Nếu pháp từ duyên sinh
Chẳng tức, chẳng khác nhân
Thế nên gọi thật tướng
Chẳng đoạn cũng chẳng thường.
Chẳng một cũng chẳng khác
Chẳng thường cũng chẳng đoạn
Đó gọi chư Thế Tôn
Giáo hóa vị cam lồ.
Nếu Phật không xuất thế
Pháp Phật đã diệt tận
Trí chư Phật-bích-chi
Từ nơi xa lìa sinh.
Có người nói thần ngã có hai thứ: Hoặc năm ấm tức là ngã. Hoặc lìa năm ấm có ngã. Nếu năm ấm tức là ngã, thì ngã ấy tức là tướng sinh diệt, như trong kệ nói: Nếu ngã là năm ấm, Tức là tướng sinh diệt. Vì sao? Vì sinh rồi hoại diệt. Do tướng sinh diệt nên năm ấm là vô thường. Như năm ấm vô thường, thì hai pháp sinh diệt cũng là vô thường. Vì sao? Vì sinh diệt cũng sinh rồi hoại diệt, nên vô thường. Ngã nếu là năm ấm, vì năm ấm vô thường nên ngã cũng tức là vô thường theo tướng sinh diệt. Nhưng chỉ là việc ấy không đúng.
Nếu lìa năm ấm có ngã, thì ngã tức không có tướng năm ấm. Như trong kệ nói: Nếu ngã khác năm ấm, Thì không tướng năm ấm. Nhưng lìa năm ấm lại không có pháp. Nếu lìa năm ấm có pháp, thì do tướng gì pháp gì mà có? Nếu cho ngã như hư không, lìa năm ấm mà có, thì cũng không đúng. Vì sao? Như trong phẩm Quán sáu chủng đã phá về tướng hư không. Không có pháp nào mới gọi là hư không.
Nếu cho do có tin nên có ngã, việc ấy cũng không đúng. Vì sao? Vì tin có bốn thứ:
1. Việc hiện trước mắt đáng tin.
2. Do so sánh nhận biết nên đáng tin. Như thấy khói nhận biết là có lửa.
3. Do thí dụ nên đáng tin. Như đất nước không có thâu thạch thì dùng vàng để dụ.
4. Lời của Hiền Thánh nói đáng tin. Như nói có địa ngục, có trời, có châu Uất-đơn-việt (Châu Bắc-câu-lô) tuy không trông thấy nhưng tin lời Thánh nên biết có.
Còn ngã này đều không nằm trong bốn thứ tin kia. Nơi sự việc hiện thấy không có. Trong so sánh nhận biết cũng không có. Vì sao? Vì so sánh nhận biết là trước đã thấy sau mới so sánh nhận biết. Như người trước thấy lửa có khói, nên sau chỉ thấy khói tức biết có lửa. Còn nghĩa của ngã thì không như vậy. Có ai trước thấy ngã cùng với năm ấm hợp, sau nhân thấy năm ấm nên biết có ngã.
Hoặc cho có ba cách so sánh để nhận biết: (1) Như gốc. (2) Như phần tàn dư. (3) Cùng trông thấy.
Như gốc: Là như trước thấy lửa có khói, nay thấy khói nhận biết như gốc là có lửa.
Như phần tàn dư: Là như nấu cơm, một hạt chín, nên biết các hạt còn lại cũng chín.
Cùng trông thấy: Là như mắt thấy người từ chỗ này đi đến chỗ kia, cũng thấy người ấy đi. Mặt trời cũng như thế. Từ phương Đông hiện ra đi đến phương Tây, tuy không thấy nó đi, nhưng do người có tướng đi nên biết mặt trời cũng có đi. Như vậy những tri giác khổ vui, ưa ghét, cũng phải có chỗ nương dựa, như thấy dân chúng thì biết tất là nương dựa nơi vua.
Ba cách so sánh ấy đối với ngã đều không đúng. Vì sao? Vì như ông nói cùng nhau tin: Vì trước thấy người hợp với pháp đi nên đến được phương khác, nên sau thấy mặt trời từ Đông sang Tây nên biết mặt trời có đi. Nhưng thực tế không có ai vì trước thấy năm ấm cùng với ngã hợp, nên sau nhân thấy năm ấm nên biết có ngã? Vì thế theo cách so sánh cùng nhận biết cũng không có ngã. Trong lời Thánh nhân nói cũng không có ngã. Vì sao? Vì lời Thánh nhân nói đều trước do mắt thấy sau mới nói. Lại, các Thánh nhân nói những việc khác đáng tin, nên biết như nói về địa ngục v.v… cũng đáng tin, nhưng về ngã thì không như vậy. Không có việc trước thấy ngã rồi sau nói về ngã. Do đó tìm ngã theo trong các thứ tin như bốn trường hợp nêu trên đều không thể có được. Vì tìm ngã không thể có được nên ngã không có, vì thế lìa năm ấm không riêng có ngã.
Lại nữa, trong phẩm Quán sáu căn đã nói: Thấy, người thấy, vật được thấy, đều bị phá, nên ngã cũng bị phá bỏ như vậy.
Lại, mắt thấy pháp thô hãy còn không được, huống gì là những nhớ tưởng hư vọng v.v… mà thấy có ngã. Vì thế nên biết là không có ngã. Nhân có ngã nên có ngã sở, nếu không có ngã thì không có ngã sở. Do tu tập tám Thánh đạo phần diệt trừ nhân duyên của ngã và ngã sở, nên được trí tuệ quyết định không có ngã, ngã sở.
Lại, không có ngã, ngã sở, đối với đệ nhất nghĩa cũng không thể có được. Người có trí nhận biết không có ngã, ngã sở, nên có thể thấy các pháp đúng thật. Hàng phàm phu do bị ngã, ngã sở ngăn che mắt tuệ, nên không thể thấy chân thật. Nay Thánh nhân không có ngã, ngã sở nên các phiền não cũng diệt. Các phiền não diệt nên có thể thấy thật tướng của các pháp. Ngã, ngã sở bên trong, bên ngoài diệt, nên các thọ cũng diệt. Các thọ diệt nên vô lượng thân sau đều diệt. Đó gọi là Niết-bàn vô dư.
Hỏi: Thế nào là Niết-bàn hữu dư?
Đáp: Các phiền não và nghiệp diệt nên gọi là tâm được giải thoát. Các phiền não nghiệp ấy đều từ nhớ tưởng phân biệt sinh, không có thật. Các nhớ tưởng, phân biệt đều từ hý luận sinh. Đạt được thật tướng của các pháp rốt ráo không thì các hý luận tức diệt. Đó gọi là nói về Niết-bàn hữu dư.
Pháp thật tướng như vậy, Phật dùng Nhất thiết trí quán xét căn cơ của chúng sinh, mỗi mỗi vì họ thuyết giảng. Có khi nói có ngã, có khi nói vô ngã. Nếu đối với người tâm chưa thuần thục, chưa có phần Niết-bàn, không nhận biết sợ tội, thì Phật vì họ nói có ngã. Hoặc đối với người đắc đạo, nhận biết các pháp không, chỉ giả gọi là ngã, thì Đức Phật nói ngã, cũng không có lỗi.
Lại, đối với người có phước đức như bố thí, trì giới v.v… biết chán lìa khổ não của sinh tử, nhưng sợ Niết-bàn tịch diệt vĩnh viễn, thì Phật vì họ giảng nói các pháp vô ngã, chỉ do nhân duyên hòa hợp, khi sinh là không sinh, khi diệt là không diệt. Thế nên vì họ nói vô ngã, chỉ giả danh nói có ngã.
Lại, đối với người đắc đạo nhận biết vô ngã, không rơi vào đoạn diệt, nên nói vô ngã, cũng không có lỗi. Vì vậy trong kệ nói: Chư Phật nói có ngã, Cũng nói về vô ngã. Nếu ở trong chân thật thì không nói ngã, phi ngã.
Hỏi: Nếu vô ngã là thật, chỉ do thế tục nên nói có ngã, thì có lỗi gì?
Đáp: Nhân phá pháp ngã nên có vô ngã, chứ ngã quyết định không thể có được, huống gì là vô ngã. Nếu quyết định có vô ngã tức là đoạn diệt, sinh khởi tham chấp. Như trong Kinh Bát Nhã nói: “Bồtát không hành nơi hữu ngã, không hành nơi vô ngã”.
Hỏi: Nếu không nói ngã, phi ngã, không, chẳng không, thì pháp Phật nói cái gì?
Đáp: Phật nói thật tướng của các pháp. Trong thật tướng thì không có đường ngôn ngữ diệt các tâm hành. Tâm do duyên giữ tướng sinh, vì quả báo của nghiệp đời trước nên có, tâm ấy không thể thấy các pháp như thật, thế nên nói tâm hành diệt.
Hỏi: Nếu tâm của các phàm phu không thể thấy đúng thật, nhưng tâm Thánh nhân thì có thể thấy được thật tướng. Vì sao nói tất cả tâm hành diệt?
Đáp: Thật tướng của các pháp tức là Niết-bàn. Niết-bàn gọi là diệt. Diệt ấy là hướng tới Niết-bàn nên cũng gọi là diệt. Nếu tâm là thật đâu cần tu ba môn giải thoát là không, vô tướng, vô nguyện, và trong các thiền định vì sao cho định diệt tận là bậc nhất? Lại cuối cùng cũng quy về Niết-bàn vô dư. Do thế nên biết tất cả tâm hành đều là hư dối, vì hư dối nên diệt. Thật tướng của các pháp là vượt ngoài các tâm số pháp, không sinh không diệt, tướng tịch diệt như Niết-bàn.
Hỏi: Trong kinh nói các pháp từ xưa nay tướng tịch diệt tức là Niết-bàn, vì sao đây lại nói là như Niết-bàn?
Đáp: Người chấp trước pháp phân biệt pháp có hai thứ: Là pháp thế gian và pháp Niết-bàn. Nói Niết-bàn là tịch diệt chứ không nói thế gian là tịch diệt. Trong Luận này nói tánh của tất cả pháp là không, là tướng tịch diệt. Vì người chấp trước pháp không hiểu rõ nên lấy Niết-bàn làm dụ. Như ông nói tướng Niết-bàn là không, là vô tướng, tịch diệt, không hý luận, thì hết thảy pháp thế gian cũng như vậy.
Hỏi: Nếu Phật không nói ngã, phi ngã, các tâm hành diệt, đường ngôn ngữ dứt, thì làm sao khiến mọi người nhận biết được thật tướng của các pháp?
Đáp: Chư Phật có vô lượng diệu lực phương tiện nhận biết các pháp không có tướng quyết định, nhưng vì hóa độ chúng sinh nên hoặc nói tất cả thật, hoặc nói tất cả không thật, hoặc nói tất cả thật không thật, hoặc nói tất cả không phải thật không phải không thật.
Tất cả thật: Là suy tìm đạt đến thật tánh của các pháp, đều hội nhập nơi đệ nhất nghĩa, một tướng bình đẳng đó là vô tướng. Như các dòng nước, màu sắc, mùi vị khác nhau, khi vào biển cả thì đồng một sắc một vị.
Tất cả không thật: Là các pháp khi chưa hội nhập nơi thật tướng, phân biệt quán xét mỗi mỗi pháp đều không thật có, chỉ do các duyên hòa hợp nên có.
Tất cả thật không thật: Là chúng sinh có ba hạng trên, giữa, dưới. Hạng trên xem tướng của các pháp không phải thật không phải không thật. Hạng giữa xem tướng của các pháp tất cả thật, tất cả không thật. Hạng dưới trí lực cạn nên xem tướng của các pháp một ít thật một ít không thật. Xem Niết-bàn là pháp vô vi không hoại nên thật. Xem sinh tử là pháp hữu vi hư giả nên không thật.
Tất cả không phải thật không phải không thật: Là vì phá thật không thật, nên nói chẳng phải thật chẳng phải không thật.
Hỏi: Ở các xứ khác, Đức Phật nói là xa lìa không phải có không phải không. Sao ở đây nói không phải có không phải không là lời Phật dạy?
Đáp: Ở xứ khác vì phá bốn lớp tham chấp nên nói như thế. Còn trong Luận này thì bốn câu ấy không có hý luận, nghe Phật nói thì đắc đạo. Thế nên nói không phải thật không phải không thật.
Hỏi: Nhận biết Phật vì nhân duyên nên nói bốn câu ấy. Lại, người nhận biết được thật tướng của các pháp là do tướng gì để có thể nhận biết? Lại, thế nào là thật tướng?
Đáp: Là nếu có thể không theo người khác. Không theo người khác là tuy nếu gặp ngoại đạo hiện thần thông nói: Đây là đạo lý, đây là phi đạo, thì tự tin nơi tâm mình không theo lời họ. Cho đến thấy họ biến hiện thân, tuy không nhận biết đó không phải là Phật, nhưng vì đã khéo hiểu rõ về thật tướng nên tâm không xoay chuyển.
Trong đây, không có pháp có thể lấy, có thể bỏ, nên gọi là tướng tịch diệt. Vì tướng tịch diệt nên không hý luận và không có đối tượng hý luận.
Hý luận có hai: Một là ái luận. Hai là kiến luận. Ở đây không có hai thứ hý luận ấy. Hai thứ hý luận không có, nên không có nhớ tưởng phân biệt. Không có tướng khác theo nhớ tưởng phân biệt, đó gọi là thật tướng.
Hỏi: Nếu các pháp đều không há không rơi vào đoạn diệt chăng? Lại, nếu chẳng sinh chẳng diệt thì hoặc rơi vào thường kiến chăng?
Đáp: Không phải vậy. Trên đã nói thật tướng là không hý luận, tâm tướng tịch diệt, dứt đường ngôn ngữ. Ông nay còn tham vướng chấp giữ tướng, đối với pháp thật tướng còn có lỗi thấy đoạn, thường. Người tỏ ngộ được thật tướng nói các pháp từ các duyên sinh, không tức là nhân cũng không khác nhân. Vì vậy là không đoạn vô thường. Nếu quả khác với nhân tức là đoạn. Nếu quả không khác với nhân là thường.
Hỏi: Nếu hiểu như vậy thì có lợi ích gì?
Đáp: Nếu người hành đạo có thể thông đạt được nghĩa ấy, tức đối với tất cả pháp không thấy một, không thấy khác, không thấy đoạn, không thấy thường. Được như vậy thì có thể diệt các phiền não hý luận, thường được sự an vui nơi Niết-bàn. Do vậy nói chư Phật dùng vị cam lồ giáo hóa chúng sinh. Như thế gian nói được uống nước cam lồ của trời thì không bị già bệnh chết, không có các sự suy não. Pháp thật tướng này là vị cam lồ đích thật. Phật nói thật tướng có ba loại: Nếu đạt được thật tướng của các pháp, dứt trừ các phiền não, gọi là pháp Thanh văn. Nếu sinh tâm đại bi phát tâm vô thượng, gọi là Đại thừa. Hoặc vào thời kỳ không có Phật ra đời và gặp thời không có pháp Phật, hàng Phật-bích-chi nhân ưa chuộng cảnh giới tịch tĩnh nên phát sinh trí. Hoặc Phật độ chúng sinh rồi vào Niết-bàn vô dư, pháp để lại cũng diệt tận, đời trước nếu có người đắc đạo nên được đạo, do quán chút ít về nhân duyên chán lìa, một mình đi vào rừng núi, xa lìa cảnh giới ồn náo mà đắc đạo, đó gọi là Phật-bích-chi.
Phẩm thứ 19: QUÁN VỀ THỜI
(Gồm 6 kệ)
Hỏi: Phải có thời gian, vì nhân nơi đối đãi nên thành. Nhân có thời quá khứ tức có thời hiện tại, vị lai. Nhân nơi thời hiện tại nên có thời quá khứ, vị lai. Nhân nơi thời vị lai nên có thời quá khứ, hiện tại. Các pháp trên, giữa, dưới, một và khác cũng nhân nơi đối đãi nên có?
Đáp:
Nếu nhân thời quá khứ
Có vị lai, hiện tại
Vị lai và hiện tại
Phải có trong quá khứ.
Nếu nhân nơi thời quá khứ nên có thời hiện tại, vị lai, tức ở trong thời quá khứ phải có thời hiện tại, vị lai. Vì sao? Vì tùy theo xứ của đối tượng nhân mà có pháp thành. Xứ ấy phải có pháp ấy. Như nhân nơi đèn nên có ánh sáng thành, tùy xứ có đèn phải có ánh sáng. Như vậy nhân nơi thời quá khứ mà thành thời hiện tại, vị lai, tức trong thời quá khứ phải có thời hiện tại vị lai. Nếu trong thời quá khứ đã có thời hiện tại vị lai, thì cả ba thời đều gọi là thời quá khứ. Vì sao? Vì thời hiện tại vị lai có trong thời quá khứ. Nếu tất cả thời đều là quá khứ thì không có thời hiện tại vị lai, vì đều là quá khứ. Nếu không có thời hiện tại vị lai thì cũng tức không có thời quá khứ. Vì sao? Vì thời quá khứ nhân nơi thời hiện tại vị lai nên có, gọi là thời quá khứ. Như nhân nơi thời quá khứ nên thành thời hiện tại vị lai, như vậy cũng có thể nhân nơi thời hiện tại vị lai mà thành thời quá khứ. Nay đây vì không có thời hiện tại vị lai, nên thời quá khứ cũng không có. Do đó trước nói, nhân nơi thời quá khứ nên thành thời hiện tại vị lai, việc ấy là không đúng. Nếu cho trong thời quá khứ không có thời hiện tại vị lai, nhưng lại nói nhân nơi thời quá khứ nên thành thời hiện tại vị lai, việc ấy là không đúng. Vì sao?
Nếu trong thời quá khứ
Không vị lai, hiện tại
Thời vị lai, hiện tại
Làm sao nhân quá khứ.
Nếu thời hiện tại vị lai không có ở trong thời quá khứ, thì làm sao nói nhân nơi thời quá khứ nên thành thời hiện tại vị lai. Vì sao?
Vì nếu ba thời đều có tướng khác thì không thể nhân nơi cùng đối đãi mà thành. Như áo, bình v.v… mỗi vật tự thành riêng, không cùng nhân nơi đối đãi. Nhưng nay không nhân nơi thời quá khứ thì thời hiện tại vị lai không thành. Không nhân nơi thời hiện tại thì thời quá khứ vị lai không thành. Không nhân nơi thời vị lai thì thời quá khứ hiện tại không thành. Ông trước nói trong thời quá khứ tuy không có thời hiện tại vị lai, nhưng nhân nơi thời quá khứ mà thành thời hiện tại vị lai, việc ấy là không đúng.
Hỏi: Nếu không nhân nơi thời quá khứ mà vẫn thành thời hiện tại vị lai thì có lỗi gì?
Đáp:
Không nhân thời quá khứ
Tức không thời vị lai
Cũng không thời hiện tại
Thế nên không hai thời.
Không nhân nơi thời quá khứ thì không thành thời hiện tại vị lai. Vì sao? Vì nếu không nhân nơi thời quá khứ mà có thời hiện tại, thì ở xứ nào có thời hiện tại? Vị lai cũng như vậy. Nếu không nhân nơi thời quá khứ mà có thời vị lai, vậy ở xứ nào có thời vị lai? Thế nên không nhân nơi thời quá khứ thì không có thời hiện tại, vị lai. Như vậy, vì chúng cùng đối đãi mà có nên thật không có thời.
Do nghĩa lý như vậy
Tức biết hai thời kia
Trên, giữa, dưới, một khác
Các pháp ấy đều không.
Do nghĩa như vậy nên biết hai thời hiện tại vị lai kia cũng tức không có, và các pháp trên, giữa, dưới, một, khác v.v… cũng đều không có. Như nhân nơi trên nên có giữa dưới, lìa trên thì không có giữa dưới. Nếu lìa trên mà có giữa dưới, thì không phải cùng nhân đối đãi nhau. Nhân nơi một nên có khác. Nhân nơi khác nên có một. Nếu một là thật có thì không cần nhân nơi khác mà có. Nếu khác thật có thì không cần nhân nơi một mà có. Các pháp như thế cũng nên phá như thế.
Hỏi: Như vì có năm tháng ngày giờ phút giây sai biệt nên biết có thời chăng?
Đáp:
Thời trụ không thể đạt
Thời đi cũng không đạt
Nếu thời không thể đạt
Làm sao nói tướng thời.
Nhân vật nên có thời
Lìa vật đâu có thời
Vật hãy còn không có
Huống gì lại có thời.
Thời nếu không trụ thì không thể thủ đắc. Thời trụ cũng không. Nếu thời không thể có được làm sao nói tướng của thời? Nếu không có tướng của thời tức không có thời. Chỉ nhân nơi vật sinh nên gọi là thời. Vậy nếu lìa vật thì không có thời.
Trên đây đã dùng nhiều nhân duyên để phá các vật. Vật không có nên đâu có thời.
Phẩm thứ 20: QUÁN VỀ NHÂN QUẢ
(Gồm 24 kệ)
Hỏi: Các nhân duyên hòa hợp hiện có quả sinh, nên biết quả ấy từ các duyên hòa hợp mà có?
Đáp:
Nếu các duyên hòa hợp
Mà có quả sinh ra
Trong hòa hợp đã có
Đâu cần hòa hợp sinh.
Nếu cho các nhân duyên hòa hợp nên có quả sinh, thì quả ấy tức trong hòa hợp đã có mà lại từ hòa hợp sinh, việc ấy là không đúng. Vì sao? Vì quả trước đã có thể định rõ thì không phải từ hòa hợp sinh.
Hỏi: Trong các duyên hòa hợp tuy không có quả, nhưng quả từ các duyên sinh thì có lỗi gì?
Đáp:
Nếu các duyên hòa hợp
Trong ấy không có quả
Làm sao từ các duyên H
òa hợp để sinh quả.
Nếu từ các duyên hòa hợp tức quả sinh, thì trong hòa hợp ấy không có quả nhưng từ hòa hợp sinh, việc ấy là không đúng. Vì sao? Vì nếu vật không có tự tánh, vật ấy trọn không sinh.
Lại nữa,
Nếu các duyên hòa hợp
Trong ấy đã có quả
Trong hòa hợp nên có
Nhưng thật không thể được.
Nếu từ trong các duyên hòa hợp đã có quả, vậy nếu quả ấy là sắc nên mắt có thể thấy, nếu quả ấy là phi sắc nên ý có thể nhận biết. Nhưng thật sự trong hòa hợp, quả không thể có được, nên mắt và ý không thể thấy biết. Thế nên trong các duyên hòa hợp có quả, việc ấy là không đúng.
Lại nữa,
Nếu các duyên hòa hợp
Trong đó không có quả
Thế thì các nhân duyên
Đồng với phi nhân duyên.
Nếu trong các nhân duyên hòa hợp không có quả, vậy các nhân duyên tức đồng với phi nhân duyên. Như sữa là nhân duyên của lạc, nếu trong sữa không có lạc, trong nước cũng không có lạc, như vậy sữa và nước đồng nhau, tức không nên nói lạc từ sữa mà ra. Vì thế nói trong các duyên hòa hợp không có quả, việc ấy là không đúng.
Hỏi: Nhân vì quả tạo nhân xong thì diệt, nhưng có nhân quả mới sinh, nên không có lỗi như vậy?
Đáp:
Nhân làm nhân cho quả
Tạo nhân rồi thì diệt
Nhân ấy có hai Thể
Một cùng, một tức diệt.
Nếu nói nhân cùng với quả tạo nhân xong thì diệt, thì nhân ấy tức có hai thể: Một là làm nhân cho quả. Hai là nhân diệt. Việc ấy là không đúng, vì một pháp mà có hai thể. Vậy nên nói nhân cùng với quả tạo nhân xong rồi diệt là không đúng.
Hỏi: Nếu cho nhân không cùng với quả tạo nhân xong rồi diệt, nhưng cũng có quả sinh, thì có lỗi gì?
Đáp:
Nếu nhân không cùng quả
Tạo nhân xong rồi diệt
Nhân diệt mà quả sinh
Quả ấy tức không nhân.
Nếu nhân ấy không cùng với quả tạo nhân xong rồi diệt, nhân diệt nhưng có quả sinh, thì quả ấy tức không có nhân. Việc ấy là không đúng. Vì sao? Vì hiện thấy hết thảy quả, không quả nào là không có nhân. Vì thế ông nói nhân không cùng với quả tạo nhân xong rồi diệt, nhưng cũng có quả sinh là không đúng.
Hỏi: Khi các duyên hợp mà có quả sinh thì có lỗi gì?
Đáp:
Nếu khi các duyên hợp
Mà có quả sinh thì
Sinh ấy cùng được sinh
Tức là một lúc có.
Nếu khi các duyên hợp có quả sinh, thì chủ thể sinh và vật được sinh cùng có trong một lúc, việc ấy là không đúng. Vì sao? Vì như cha con không thể cùng trong một lúc sinh. Vì vậy nói khi các duyên hợp có quả sinh, việc ấy là không đúng.
Hỏi: Nếu trước có quả sinh sau các duyên hợp thì có lỗi gì?
Đáp:
Nếu trước có quả sinh
Rồi sau các duyên hợp
Đây tức lìa nhân duyên
Gọi là quả không nhân.
Nếu các duyên chưa hợp, trước đã có quả sinh, việc ấy là không đúng. Vì quả ấy lìa nhân duyên, tức gọi là quả không nhân. Vì thế ông nói các duyên chưa hợp, trước đã có quả sinh thì việc ấy là không đúng.
Hỏi: Cho nhân diệt biến làm quả thì có lỗi gì?
Đáp:
Nếu nhân biến làm quả
Nhân tức đi đến quả
Đó là nhân sinh trước
Đã sinh rồi lại sinh.
Nhân có hai thứ: Một là nhân sinh trước. Hai là nhân cùng sinh. Nếu nhân diệt biến làm quả là nhân sinh trước, nên trở lại sinh nữa, chỉ là việc không đúng. Vì sao? Vì vật đã sinh không thể lại sinh nữa. Nếu cho nhân ấy tức biến làm quả, thì cũng không đúng. Vì sao? Vì nếu nhân tức là quả, thì không gọi là biến. Nếu biến thì không gọi tức là.
Hỏi: Nhân không diệt hết, chỉ diệt trên danh tự, nhưng thể của nhân biến làm quả, như nắm đất biến làm bình, chỉ mất tên nắm đất mà tên bình sinh ra chăng?
Đáp: Nắm đất diệt trước mà có bình sinh ra thì không gọi là biến. Lại thể của nắm đất không chỉ riêng sinh ra mỗi bình, mà bồn, chậu v.v… cũng đều từ nắm đất sinh ra. Nếu nắm đất chỉ có tên thì không thể biến làm bình. Biến là như sữa biến làm lạc. Thế nên ông nói tên của nhân tuy diệt nhưng biến làm quả, việc ấy là không đúng.
Hỏi: Nhân tuy diệt mất nhưng có thể sinh quả, thế nên có quả tức không có lỗi như vậy chăng?
Đáp:
Làm sao nhân diệt mất
Mà có thể sinh quả
Lại nếu nhân tại quả
Làm sao nhân sinh quả.
Nếu nhân diệt mất rồi làm sao sinh quả. Nếu nhân không diệt mà cùng với quả hợp thì làm sao có thể lại sinh quả.
Hỏi: Nhân ấy có khắp nơi quả nên quả sinh?
Đáp:
Nếu nhân có khắp quả
Còn sinh những quả gì
Nhân thấy, không thấy quả
Cả hai đều không sinh.
Nhân ấy nếu không thấy quả hãy còn không thể sinh quả, huống gì là thấy. Nếu nhân tự không thấy quả thì không thể sinh quả. Vì sao? Vì nếu không thấy quả, quả tức không tùy theo nhân. Lại, trong nhân trước chưa có quả làm sao sinh quả. Nếu nhân trước thấy quả thì không thể lại sinh nữa, vì quả đã có.
Lại nữa,
Nếu nói nhân quá khứ
Đối với quả quá khứ
Quả vị lai, hiện tại
Tức là trọn không hợp.
Nếu nói nhân vị lai
Đối với quả vị lai
Quả hiện tại quá khứ
Tức là trọn không hợp.
Nếu nói nhân hiện tại
Đối với quả hiện tại
Quả vị lai quá khứ
Tức là trọn không hợp.
Quả quá khứ không cùng với nhân quá khứ hiện tại vị lai hợp. Quả vị lai không cùng với nhân vị lai hiện tại quá khứ hợp. Quả hiện tại không cùng với nhân hiện tại vị lai quá khứ hợp. Như vậy ba thứ quả trọn không cùng với nhân quá khứ hiện tại vị lai hợp.
Lại nữa,
Nếu như không hòa hợp
Nhân làm sao sinh quả
Nếu như có hòa hợp
Nhân làm sao sinh quả.
Nếu nhân quả không hòa hợp thì không có quả. Nếu không có quả làm sao nhân có thể sinh quả. Nếu cho nhân quả hòa hợp thì nhân có thể sinh quả là cũng không đúng. Vì sao? Vì nếu quả ở trong nhân tức trong nhân đã có quả, làm sao lại sinh quả.
Lại nữa,
Nếu nhân không, không quả
Nhân sao thể sinh quả
Nếu nhân chẳng không, quả
Nhân sao thể sinh quả.
Nếu trong nhân không quả, vì không có quả nên nhân ấy là không, làm sao nhân ấy sinh quả. Như người không mang thai làm sao có thể sinh con. Nếu trong nhân trước đã có quả, quả đã có nên không thể lại sinh.
Lại nữa, nay sẽ nói về quả:
Quả chẳng không chẳng sinh
Quả chẳng không chẳng diệt
Do vì quả chẳng không
Nên chẳng sinh chẳng diệt.
Quả không nên chẳng sinh
Quả không nên chẳng diệt
Do vì quả là không
Nên chẳng sinh chẳng diệt.
Quả nếu chẳng không thì không thể sinh, không thể diệt. Vì sao? Vì quả nếu trước đã quyết định có ở trong nhân thì không cần phải sinh nữa. Vì sinh không nên không diệt. Như thế vì quả chẳng không nên không sinh không diệt. Nếu cho vì quả không nên có sinh có diệt là cũng không đúng. Vì sao? Vì quả nếu không, không gọi là không hiện có, làm sao có sinh diệt. Do thế nói vì quả không nên không sinh không diệt.
Lại nữa, nay dùng một và khác để phá nhân quả.
Nhân và quả là một
Việc ấy trọn không đúng
Nhân và quả nếu khác
Việc ấy cũng không đúng.
Nếu nhân quả là một
Sinh và được sinh một
Nếu nhân quả là khác
Nhân tức đồng phi nhân.
Nếu quả định có tánh
Nhân làm sao được sinh
Nếu quả định không tánh
Nhân làm sao được sinh.
Nhân không sinh ra quả
Tức không có tướng nhân
Nếu không có tướng nhân
Thì cái gì sinh quả.
Nếu từ các nhân duyên
Mà có hòa hợp sinh
Hòa hợp tự không sinh
Làm sao sinh ra quả.
Vì thế quả không từ
Duyên hợp, không hợp sinh
Nếu như không có quả
Xứ nào có pháp hợp.
Pháp hòa hợp là các duyên, không thể sinh ra từ tự Thể. Tự Thể không nên làm sao có thể sinh quả. Vì thế quả không từ duyên hợp sinh, cũng không từ không hợp sinh. Nếu không có quả thì xứ nào có pháp hòa hợp.
Phẩm thứ 21: QUÁN VỀ THÀNH HOẠI
(Gồm 20 kệ)
Hỏi: Tất cả việc thế gian hiện rõ là tướng hoại diệt. Thế nên có hoại chăng?
Đáp:
Lìa thành và cùng thành
Trong đó không có hoại
Lìa hoại và cùng hoại
Trong đó không có thành.
Hoặc có thành hoặc không thành đều không có hoại. Hoặc có hoại hoặc không hoại đều không có thành. Vì sao?
Nếu như lìa nơi thành
Làm sao mà có hoại
Như lìa sinh có tử
Việc ấy tức không đúng.
Nếu thành hoại cùng có
Thì sao có thành hoại
Như sinh tử thế gian
Cùng lúc đều không đúng.
Nếu như lìa nơi hoại
Làm sao nên có thành
Vô thường chưa từng có
Lúc nào rời khỏi pháp.
Nếu lìa thành thì không có hoại. Vì sao? Vì nếu lìa thành mà có hoại thì không nhân nơi thành có hoại, hoại ấy tức không nhân. Lại, không có pháp thành mà có thể hoại. Vì sao? Vì thành là do các duyên hợp, hoại là do các duyên tan. Nếu lìa thành có hoại, vậy không thành thì cái gì sẽ hoại. Như không có bình thì không thể nói là bình vỡ. Thế nên lìa thành không có hoại.
Nếu cho chung với thành có hoại thì cũng không đúng. Vì sao? Vì pháp trước thành riêng mà sau có hợp, pháp hợp không lìa khác. Nếu hoại lìa khác thì hoại ấy không có nhân. Vì vậy chung với thành cũng không có hoại.
Nếu lìa hoại chung với hoại không có thành, hoặc lìa hoại có thành, thì thành ấy là thường, thường thì không có tướng hoại. Nhưng thật sự thì không thấy có pháp nào thường, không có tướng hoại. Vậy nên lìa hoại không có thành.
Nếu cho chung với hoại có thành thì cũng không đúng. Vì thành và hoại trái nhau, làm sao trong một lúc cùng có. Như người không thể cùng một lúc vừa có tóc vừa không có tóc. Thành và hoại cũng như vậy. Do thế chung với hoại có thành, việc ấy là không đúng. Vì sao? Vì nếu cho người phân biệt pháp nói trong thành luôn có hoại, việc ấy là không đúng. Vì sao? Vì nếu trong thành luôn có hoại, thì không thể có pháp trụ. Nhưng thật sự là có trụ. Thế nên nếu lìa hoại chung với hoại thì không thể có thành.
Lại nữa,
Thành hoại chung, không thành
Lìa cũng không có thành
Cả hai đều không thể
Làm sao mà có thành.
Nếu thành và hoại chung nhau cũng không có thành. Lìa nhau cũng không có thành. Nếu chung nhau thành, thì hai pháp trái nhau làm sao một lúc cùng có. Nếu lìa nhau thì không nhân, hai môn đều không thành, làm sao sẽ có thành, nếu có thì nên nói.
Hỏi: Hiện có pháp của tướng tận diệt, pháp của tướng tận diệt ấy cũng nói là tận, cũng nói là không tận. Như thế tức nên có thành, hoại chăng?
Đáp:
Tận tức không có thành
Không tận cũng không thành
Tận tức không có hoại
Không tận cũng không hoại.
Các pháp trong ngày đêm niệm niệm luôn diệt tận, trôi qua như dòng nước không dừng trụ, đó tức gọi là tận. Việc ấy không thể chấp giữ, không thể nói nêu, như dợn nắng (Dương diệm) không có tánh quyết định có thể thủ đắc. Như vậy, diệt tận không có tánh quyết định làm sao phân biệt được để nói là có thành. Vì thế nói tận cũng không thành. Thành không có nên không có hoại. Do vậy nói tận cũng không có hoại.
Lại, niệm niệm sinh diệt luôn nối tiếp không dứt, nên gọi là không tận. Như thế pháp quyết định thường trụ không dứt làm sao phân biệt được để nói nay là lúc thành. Vì thế nói không tận cũng không có thành. Do thành không có nên không có hoại. Do thế nói không tận cũng không có hoại.
Suy tìm như vậy thật sự là không thể thủ đắc, nên không có thành hoại.
Hỏi: Xin gác lại việc thành hoại. Chỉ khiến có pháp thì có lỗi gì?
Đáp:
Nếu lìa nơi thành hoại
Là cũng không có pháp
Nếu lại lìa nơi pháp
Cũng không có thành hoại.
Lìa thành hoại không có pháp: Nếu pháp không thành không hoại, thì pháp ấy hoặc là không có, hoặc là thường. Nhưng ở thế gian không có pháp thường, nên ông nói lìa thành hoại có pháp là không đúng.
Hỏi: Nếu lìa pháp, chỉ có thành hoại, thì có lỗi gì?
Đáp: Lìa pháp mà có thành hoại là cũng không đúng. Vì sao? Vì nếu lìa pháp thì cái gì thành cái gì hoại.
Lại nữa,
Nếu tánh pháp là không
Cái gì có thành hoại
Nếu như tánh chẳng không
Cũng không có thành hoại.
Nếu tánh của các pháp là không, đã không thì đâu có thành hoại. Nếu tánh của các pháp chẳng không, đã chẳng không thì quyết định có, cũng không thể có thành hoại.
Lại nữa,
Nếu thành hoại là một
Việc ấy tức không đúng
Thành hoại nếu là khác
Việc ấy cũng không đúng.
Suy tìm thành hoại là một tức không thể được. Vì sao? Vì có tướng khác, vì có vô số phân biệt. Lại, thành hoại là khác cũng không thể được. Vì sao? Vì không có riêng biệt, vì cũng không có nhân.
Lại nữa,
Nếu cho do mắt thấy
Mà có sinh có diệt
Thì đó là si vọng
Mà thấy có sinh diệt.
Nếu cho do mắt thấy có sinh diệt, thì vì sao dùng ngôn thuyết để phá? Việc ấy là không đúng. Vì sao? Vì mắt thấy có sinh diệt, tức là do ngu si điên đảo. Phải thấy tánh của các pháp là không, không có quyết định, như huyễn như mộng. Nhưng phàm phu do nhân duyên điên đảo đời trước chiêu cảm có mắt ấy, đời nay do nhân duyên nhớ tưởng phân biệt, nên nói mắt thấy có sinh diệt. Trong đệ nhất nghĩa thật không có sinh diệt. Việc này đã luận phá và nói rộng trong phẩm Tướng.
Lại nữa,
Từ pháp không sinh pháp
Cũng không sinh phi pháp
Từ phi pháp không sinh
Pháp cùng với phi pháp.
Từ pháp không sinh pháp: Là nếu pháp trước đi đến sinh pháp sau, hoặc pháp trước diệt mất pháp sau sinh, cả hai đều không đúng. Từ pháp sinh pháp, hoặc đi đến, hoặc diệt mất, tức là không có nhân. Không có nhân thì rơi vào chấp đoạn thường.
Nếu nói pháp trước đi đến, nên gọi là từ pháp sinh pháp. Vì pháp ấy đến rồi mà gọi là sinh, thế tức là thường. Lại sinh rồi lại sinh. Lại cũng là không có nhân mà sinh. Việc ấy là không đúng.
Nếu nói pháp trước đã diệt mất, nên gọi là từ pháp sinh pháp, tức là mất nhân là pháp sinh không có nhân. Thế nên từ pháp trước diệt mất cũng không sinh pháp sau.
Từ pháp không sinh phi pháp: Phi pháp gọi là không có gì. Pháp gọi là có. Làm sao từ có tướng sinh ra không tướng. Do thế từ pháp không sinh phi pháp.
Từ phi pháp không sinh pháp: Phi pháp gọi là không có gì. Không có làm sao sinh ra có. Nếu từ không sinh có, tức là không có nhân. Không nhân là có lỗi lớn. Thế nên không từ phi pháp sinh pháp.
Không từ phi pháp sinh phi pháp: Phi pháp gọi là không có gì. Làm sao từ không có gì sinh ra không có gì. Như sừng thỏ không sinh lông rùa. Vì vậy không từ phi pháp sinh phi pháp.
Hỏi: Pháp và phi pháp tuy có vô số phân biệt nên không sinh, chỉ pháp có thể sinh pháp chăng?
Đáp:
Pháp không từ tự sinh
Cũng không tha sinh
Không từ tự, tha sinh
Làm sao mà có sinh.
Pháp khi chưa sinh thì không hiện có. Lại tức tự nó không sinh, nên pháp không tự sinh. Nếu pháp chưa sinh tức cũng không có tha (cái khác). Không có cái khác nên không thể nói từ tha sinh. Lại pháp chưa sinh thì không có tự, không có tự nên cũng không có tha, cộng chung thì cũng không sinh. Nếu cả ba cách đều không sinh thì làm sao nói từ pháp có pháp sinh?
Lại nữa,
Nếu có người thọ pháp
Tức rơi nơi đoạn thường
Nên biết pháp được thọ
Là thường là vô thường.
Người thọ pháp là người phân biệt cho đó là thiện, là bất thiện, là thường, là vô thường v.v… Người ấy tất rơi vào hoặc thường kiến, hoặc đoạn kiến. Vì sao? Vì pháp được thọ có hai thứ là thường hoặc vô thường. Cả hai đều không đúng. Vì sao? Vì nếu thường tức rơi vào biên thường. Nếu vô thường tức rơi vào biên đoạn.
Hỏi:
Người thọ pháp hiện có
Không rơi nơi đoạn thường
Vì nhân quả nối tiếp
Không đoạn cũng không thường.
Có người tuy tín thọ, phân biệt nói các pháp nhưng không rơi vào đoạn thường. Như kinh nói năm ấm là vô thường, khổ, không, vô ngã nhưng không rơi vào đoạn diệt. Tuy nói tội phước vô lượng kiếp số không mất, nhưng không phải chấp thường. Vì sao? Vì pháp ấy là nhân quả thường sinh diệt nối tiếp nên qua lại không dứt. Vì sinh diệt nên không thường, vì nối tiếp nên không đoạn.
Đáp:
Nếu nhân quả sinh diệt
Nối tiếp mà không đoạn
Vì diệt lại không sinh
Nhân tức là đoạn diệt.
Ông cho các pháp vì là nhân quả nối tiếp nên không đoạn không thường. Nhưng nếu pháp diệt thì nó đã diệt rồi, không còn sinh nữa, tức là nhân đã đoạn. Nếu nhân đã đoạn thì làm sao có nối tiếp, vì pháp đã diệt không sinh.
Lại nữa,
Pháp trụ nơi tự tánh
Không nên có có không
Niết-bàn diệt nối tiếp
Tức rơi vào đoạn diệt.
Khi pháp quyết định ở trong tướng có của nó, bấy giờ không có tướng không. Như bình quyết định tại tướng bình, khi ấy không có tướng hoại mất. Tùy lúc có bình thì không có tướng hoại mất. Lúc không có bình cũng không có tướng hoại mất. Vì sao? Vì không có bình thì không có gì để hoại. Do nghĩa ấy nên tướng hoại diệt không thể có. Nhưng lìa diệt cũng không có sinh. Vì sao? Vì sinh và diệt nhân đối đãi nhau nên có. Lại có các cái lỗi như chấp thường v.v… Do thế không thể nơi một pháp mà có cả có, không.
Lại ông trước nói, vì nhân quả sinh diệt nối tiếp nên tuy thọ các pháp nhưng không rơi vào chấp đoạn chấp thường. Việc ấy là không đúng. Vì sao? Vì ông nói nhân quả nối tiếp nên có ba hữu nối tiếp. Diệt sự nối tiếp ấy gọi là Niết-bàn. Nếu như vậy thì khi đạt Niết-bàn là rơi vào đoạn diệt, do diệt ba hữu nối tiếp.
Lại nữa,
Nếu hữu đầu đã diệt
Tức không có hữu sau
Hữu đầu nếu không diệt
Cũng không có hữu sau.
Hữu đầu là sinh mạng của đời này. Hữu sau là sinh mạng của đời vị lai. Nếu hữu đầu diệt tiếp có hữu sau, tức là hữu sau ấy không có nhân, nên việc ấy là không đúng. Vì thế không thể nói hữu đầu diệt là có hữu sau. Nếu hữu đầu không diệt cũng không thể có hữu sau. Vì sao? Vì nếu hữu đầu chưa diệt mà có hữu sau, tức là trong một lúc có hai hữu, việc ấy là không đúng. Thế nên hữu đầu không diệt không có hữu sau.
Hỏi: Hữu sau không do hữu đầu diệt mà sinh, chẳng do không diệt mà sinh, thì chỉ sinh trong khi diệt chăng?
Đáp:
Nếu khi hữu đầu diệt
Mà hữu sau được sinh
Khi diệt là một hữu
Khi sinh là một hữu.
Nếu khi hữu đầu diệt, hữu sau sinh, tức là hai hữu cùng có nơi một lúc, một hữu là khi diệt, một hữu là khi sinh.
Hỏi: Khi diệt khi sinh đều có hai hữu là không đúng. Nhưng hiện thấy hữu đầu khi diệt có hữu sau sinh thì thế nào?
Đáp:
Nếu nói về sinh diệt
Mà cho cùng một lúc
Thì nơi ấm này chết
Tức nơi ấm này sinh.
Nếu khi sinh khi diệt một lúc không có hai hữu, mà cho khi hữu đầu diệt có hữu sausinh, thế thì hiện nay có thể tùy nơi thân năm ấm nào chết tức ở nơi thân năm ấm đó sinh, không thể ở nơi thân năm ấm khác sinh. Vì sao? Vì người chết tức là người sinh. Như thế chết và sinh là hai pháp trái nhau, không thể cùng có trong một lúc một xứ. Thế nên ông trước nói khi sinh khi diệt, trong một lúc không có hai hữu, chỉ hiện chỉ thấy khi hữu đầu diệt có hữu sau sinh, việc ấy là không đúng.
Lại nữa,
Trong ba đời tìm hữu
Nối tiếp không thể được
Nếu trong ba đời không
Sao có hữu nối tiếp.
Ba hữu là dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu. Trong sinh tử vô thỉ, do không có trí chân thật nên luôn có ba hữu nối tiếp. Nay ở trong ba đời suy tìm kỹ không thể thủ đắc. Nếu trong ba đời không có ba hữu, thì ở nơi xứ nào có ba hữu nối tiếp. Nên biết có ba hữu nối tiếp đều do từ ngu si điên đảo nên có, trong chân thật không có.
HẾT – QUYỂN 3