SỐ 1561/5
LUẬN A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ THẬT NGHĨA SỚ
Tác giả: Tôn giả Tất Địa La Mạt Để (An Huệ)
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ 1
QUYỂN 1
Kính lạy Thế Tôn: Núi các đức
Kính lạy Chánh pháp: Biển trí lớn
Kính lạy Tăng già: Chúng hòa hợp
Kính lạy Luận chủ cùng Thầy con.
Con đem đom đóm giúp ánh dương
Tùy sức rộng nêu Tạng Đối Pháp
Để pháp trụ lâu lợi quần sinh
Nguyện dùng uy thần hiện hộ trì.
Phẩm thứ 1: PHÂN BIỆT GIỚI
Phần thứ nhất Phân Biệt Giới có bảy nghĩa: (1) Trí viên mãn. (2) Đoạn viên mãn. (3) Lợi tha viên mãn. (4) Phương tiện viên mãn. (5) Ứng cúng viên mãn. (6) Tâm kỳ vọng viên mãn. (7) Lập danh viên mãn.
Do tôn kính pháp nên thường ưa thích nghe. Do lắng nghe nên phát sinh văn tuệ. Do văn tuệ nên phát sinh tư tuệ, phát khởi tu tuệ sinh tuệ vô lậu. Do tuệ vô lậu nên có thể đoạn trừ các Hoặc. Do đoạn trừ các Hoặc nên liền chứng đắc Bồ-đề. Vì thế gọi là lợi ích của sự hành hóa.
Bảy nghĩa: Là như tụng viết: Bậc Nhất thiết chủng diệt các tối: Là nghĩa Trí viên mãn. Các diệt: Là nghĩa Đoạn viên mãn. Cứu chúng sinh khỏi bùn sinh tử: Là nghĩa Lợi tha viên mãn. Kính lễ như thế: Là nghĩa Ứng cúng viên mãn. Sư như lý: Là nghĩa Phương tiện viên mãn. Do Đức Thế Tôn có phương tiện thù thắng thuyết giáo như lý tạo lợi lạc cho hữu tình. Luận (Như thế) con sẽ nói: Là nghĩa Tâm kỳ vọng viên mãn, là ý muốn tạo luận. Đối pháp tạng: Là nghĩa Lập danh viên mãn. Để gồm thâu bảy nghĩa này, tụng viết:
Trí đoạn cùng Lợi tha
Phương tiện muốn tạo luận
Lập danh, Tạng Đối pháp
Thâu bảy nghĩa nên biết.
Sắc pháp, tâm pháp, tâm sở hữu pháp, bất tương ưng pháp và vô vi pháp, trong cảnh nơi đối tượng nhận biết của năm pháp này, thế gian đều không thể hiểu rõ, chỉ riêng Đức Phật tỏ ngộ vì đã vĩnh viễn đoạn trừ các Hoặc. Thời gian rất xa: Nghĩa là ngoài ba A-tăng-kỳ kiếp quá khứ, vị lai, các hàng Thanh văn, Độc giác không thể nhận biết. Làm sao biết được điều ấy? Như xưa có một người đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-tử cầu xin xuất gia. Lúc ấy, Tôn giả quán xét người ấy trong hai A-tăng-kỳ kiếp không có căn thiện xuất gia nên không chấp nhận. Người ấy bèn đến chỗ Đức Phật cầu xuất gia, Đức Thế Tôn quán xét thấy ngoài hai A-tăng-kỳ kiếp, người ấy có chút căn thiện, nên thuận cho và nói kệ:
Hạt giống giải thoát kia
Ta quán thấy rất nhỏ
Cũng như trong các quặng
Vàng thật ẩn nơi ấy.
Đức Mục Liên quán xét mẹ mình không biết xứ sinh, nên đến hỏi Đức Phật. Phật bảo: Mẹ ông sinh nơi thế giới Ma-lợi-chi, cách đây ba ngàn thế giới.
Như thế, trong nhiều thứ phân biệt, trí của hàng Thanh văn v.v… đều không thấu đạt.
Quả đạt được do tu phước và trí đều là lợi tha, không phải là tự lợi, như ánh trăng trong sáng soi chiếu mười phương. Bi nguyện của Đức Thế Tôn cũng như thế. Lại có tụng viết:
Phước thí hồi hướng cùng lợi mình
Tự tu hai phước đức, hồi thí
Lại nhân lợi lạc các hữu tình
Rất nhiều tụ phước trí như trên.
Quả tự chứng đắc chẳng phải ai
Phước hạnh nguyện, phước thí hồi hướng
Tự tha cùng lợi chẳng uổng công.
Như thế tuy nói tự lợi theo nhân và quả, cũng có thể tạo lợi ích cho người khác. Có tụng viết:
Sữa mẹ ngọt ngon dùng nuôi thân
Vì con được an chẳng vì mình
Phật tu phước trí, hướng Bồ-đề
Vốn vì lợi sinh chẳng vì mình.
Tụng viết:
Lúc mưa tuy tuôn khắp
Không giống, mầm chẳng sinh
Phật tuy độ thế gian
Duyên thiếu không được quả.
Lại có tụng viết:
Thiện tri thức là ai?
Là Phật khiến trí sinh
Lìa phóng dật hành ác
Trái đây tức bỏ lìa.
Đối pháp nên như tuệ sinh đắc, làm nhân cho văn tuệ. Văn tuệ làm nhân cho tư tuệ. Tư tuệ làm nhân cho tu tuệ. Tu tuệ làm nhân cho tuệ vô lậu. Tuệ vô lậu làm nhân cho Niết-bàn. Do nghĩa này nên được gọi là Đối pháp. Vì có công năng làm tăng trưởng các tuệ như văn tuệ v.v… hoặc các thứ hữu vi thảy đều xả bỏ, chỉ vui thích Niết-bàn, nên gọi là thù thắng. Khổ, tập, đạo đế làm tuệ của Niết-bàn. Phật dạy: Dựa nơi pháp, không dựa nơi người. Tụng viết:
Nếu lìa trạch pháp thì nhất định
Không phương tiện hơn diệt các Hoặc
Do Hoặc, thế gian trôi biển
Hữu Nhân đức ấy Phật nói Đối pháp.
Luận nêu: “Nếu lìa trạch pháp, không có phương tiện thù thắng nào có thể diệt trừ các Hoặc”. Phật bảo Tôn giả A-nan: “Ta còn tại thế, nương dựa nơi Ta. Ta diệt độ, không còn chỗ nương dựa riêng khác, nên nương dựa nơi kinh, chớ khiến quên mất”.
Phật nói: “Già nua xuất gia, thọ trì ba Tạng của Ta là rất khó được”. Ba Tạng là Kinh, Luật và Tạp Tạng (Luận).
Xưa, vào thời Đức Phật Ca Diếp, có một vị Bí-sô thông minh, học rộng, xem đủ Tam tạng, thường dùng ngữ nghiệp chê mắng những người xuất gia, tại gia, nói họ là các loài cầm thú, như chó, cá, chim cú, chim ưng v.v… Sau khi mạng chung, nhân theo nghiệp báo ấy, Bí-sô này bị đọa làm thân một loại cá lớn ở biển, hình tướng rất lớn, có mười tám đầu, chịu đủ các thứ khổ. Đến khi Đức Thế Tôn xuất thế cũng chưa thoát khổ.
Sau, có những người đánh cá, số đến một ngàn, vây bủa lưới bắt cá này. Cá mắc lưới kéo mãi không lên, phải hợp cả ngàn người cùng kéo mới lên bờ, nhìn thấy hình dạng khác loại nhiều đầu rất đáng sợ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn quán xét thấy biết quả báo của cá kia đã hết, bèn dẫn đại chúng đi đến bờ biển, trải tòa ngồi, rồi nói với cá: “Này Tam tạng! Ông há chẳng phải là Bí-sô Tam Tạng ở thời Phật quá khứ sao?”. Cá nghe rồi thì lệ rơi đầy mắt. Lúc ấy, Phật vì cá giảng nói nhân duyên đời trước. Cá nghe xong, sinh hối cải, lại không ăn uống, nhân đấy mạng chung được sinh lên cõi trời. Lúc này, trong chúng hội nghe Phật giảng nói, đều ở nơi Tự Thừa đạt được pháp lợi lớn.
Năm uẩn không thể gồm thâu tất cả pháp, thế nên không nương dựa nơi năm uẩn để nói trước có nhiễm, sau phải có tịnh. Do làm thanh tịnh nhiễm kia nên trước nói pháp hữu lậu, sau nói pháp vô lậu, vô vi.
Tụng viết:
Bí-sô ý tịch tĩnh
Nơi sự vĩnh viễn đoạn
Trừ hết nẻo sinh tử
Nên không thọ Hữu sau.
HẾT – QUYỂN 1