SỐ 1556/1
LUẬN TÁT BÀ ĐA TÔNG NGŨ SỰ
Hán dịch: Sa môn Pháp Thành (Đạo tràng chùa Tu Đa ở Cam Châu nước Đại Phiên)
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ.

 

Pháp có năm thứ: (1) Sắc pháp. (2) Tâm pháp. (3) Tâm sở hữu pháp. (4) Tâm bất tương ưng hành pháp. (5) Vô vi pháp.

Thế nào là Sắc pháp? Nghĩa là tất cả thứ sắc kia đều từ bốn đại chủng, tức do bốn đại tạo sinh ra các sắc.

Những gì là bốn đại? Đó là giới đất, giới nước, giới lửa, giới gió (Địa giới, thủy giới, hỏa giới và phong giới).

Thế nào là sắc tạo? Nghĩa là các nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn. Các sắc, các thanh, các hương, các vị, một phần xúc cùng vô biểu sắc.

Thế nào là Tâm pháp? Nghĩa là tâm, ý, thức. Tâm pháp ấy lại là thế nào? Nghĩa là sáu thức thân: Nhãn thức, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức.

Thế nào là Tâm sở hữu pháp? Nghĩa là các pháp cùng với tâm tương ưng. Pháp kia lại là thế nào? Tức là thọ, tưởng, tư, xúc, tác ý, dục, thắng giải, tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ, tầm, tứ, phóng dật, bất phóng dật, căn thiện, căn bất thiện, căn vô ký, các kiết, hệ phược, ẩn, rộng, các tùy phiền não, triền nhiễu an trụ, nhận biết (trí), kiến, hiện quán hiện có. Lại có pháp khác cùng với tâm tương ưng. Những loại như vậy gọi là tâm sở hữu pháp.

Thế nào là Tâm bất tương ưng hành pháp? Nghĩa là có các pháp cùng với tâm không tương ưng. Pháp kia lại là thế nào? Đó là đắc, đẳng chí vô tướng, đẳng chí diệt tận, vô tướng sở hữu, mạng căn, chúng đồng phận, đắc xứ sở, đắc sự, đắc xứ, sinh, lão, trụ, vô thường tánh, danh thân, cú thân và văn thân. Lại có pháp khác cùng với tâm không tương ưng. Các loại như vậy gọi là tâm bất tương ưng hành pháp.

Thế nào là Vô vi pháp? Đó là ba thứ vô vi: Hư không, phi trạch diệt và trạch diệt. Đây gọi là vô vi pháp.

*

Thế nào là giới đất (Địa giới)? Là tánh cứng chắc. Thế nào là giới nước (Thủy giới) ? Là tánh thấm nhuần. Thế nào là giới lửa (Hỏa giới)? Là tánh nóng, ấm. Thế nào là giới gió (Phong giới)? Là tánh nhẹ động.

Thế nào là nhãn căn? Nghĩa là nhãn thức dựa vào sắc thanh tịnh. Thế nào là nhĩ căn? Nghĩa là nhĩ thức dựa vào sắc thanh tịnh. Thế nào là tỷ căn? Nghĩa là tỷ thức dựa vào sắc thanh tịnh. Thế nào là thiệt căn? Nghĩa là thiệt thức dựa vào sắc thanh tịnh. Thế nào là thân căn? Nghĩa là thân thức dựa vào sắc thanh tịnh.

Thế nào là các sắc? Nghĩa là các sắc đẹp, sắc không đẹp, các sắc ở giữa hai sắc đó và hiển sắc v.v…

Một thức đầu tiên là nhãn thức nhận biết. Nhãn thức đã thọ nhận, ý thức có thể nhận biết. Thế nên các sắc do hai thức là nhãn thức, ý thức nhận biết rõ.

Thế nào là các thanh? Thanh có hai thứ: Chấp thọ nhân đại chủng sinh và không chấp thọ nhân đại chủng sinh.

Một thức đầu tiên là nhĩ thức nhận biết. Nhĩ thức đã thọ nhận, ý thức có thể nhận biết. Thế nên các thanh do hai thức là nhĩ thức, ý thức nhận biết rõ.

Thế nào là các hương? Đó là hương tốt, hương xấu, hương bình đẳng liễu (Hương trung bình).

Một thức đầu tiên là tỷ thức nhận biết. Tỷ thức đã thọ nhận, ý thức có thể nhận biết. Thế nên các hương do hai thức là tỷ thức, ý thức nhận biết rõ.

Thế nào là các vị? Đó là vị nếm vừa ý, không vừa ý và bình thường.

Một thức đầu tiên là thiệt thức nhận biết. Thiệt thức đã thọ nhận, ý thức có thể nhận biết. Thế nên các vị do hai thức là thiệt thức, ý thức nhận biết rõ.

Thế nào là một phần xúc? Là tánh trơn, nhám, nhẹ, nặng, lạnh, đói, khát v.v…

Một thức đầu tiên là thân thức nhận biết. Thân thức đã thọ nhận, ý thức có thể nhận biết. Thế nên một phần xúc do hai thức là thân thức, ý thức nhận biết rõ.

Những gì gọi là các vô biểu sắc? Nghĩa là sắc thuộc về pháp xứ.

Nơi tất cả thời chỉ một ý thức nhận biết rõ.

*

Thế nào là nhãn thức? Là dựa vào nhãn căn phân biệt nhận biết sắc.

Thế nào là nhĩ thức? Là dựa vào nhĩ căn phân biệt nhận biết thanh. Thế nào là tỷ thức? Là dựa vào tỷ căn phân biệt nhận biết hương. Thế nào là thiệt thức? Là dựa vào thiệt căn phân biệt nhận biết vị. Thế nào là thân thức? Là dựa vào thân căn phân biệt nhận biết xúc.

Thế nào là ý thức? Là dựa vào ý căn phân biệt nhận biết pháp.

*

Thế nào là thọ? Là tánh lãnh nạp. Thọ này có ba thứ: Khổ, vui và không khổ không vui. Thế nào là tướng (Tưởng)? Là tánh nhận biết khắp. Tướng này có ba thứ: nhỏ, lớn và vô lượng. Thế nào là tư? Là tâm tạo hành, ý tạo nghiệp. Nghiệp này có ba thứ: Thiện, bất thiện và vô ký. Thế nào là xúc? Là ba sự hòa hợp. Xúc này gồm có ba thứ: Thọ lạc, thọ khổ, thọ bất khổ bất lạc.

Thế nào là tác ý? Là tâm sở chuyển biến. Tâm sở này có ba thứ: Học, vô học, phi học phi vô học. Thế nào là dục? Là tánh ưa thích tạo tác. Thế nào là thắng giải? Là tâm sở ưa vui, tánh ưa hành tác.

Thế nào là tín? Là tâm rất tịnh. Thế nào là tinh tấn? Là tâm vui mừng thích thú. Thế nào là niệm? Là tánh ghi nhớ rõ của tâm. Thế nào là định? Là tánh một cảnh của tâm. Thế nào là tuệ? Là quyết định lựa chọn pháp.

Thế nào là tầm? Tâm tra xét là tánh. Thế nào là tứ? Tâm vi tế là tánh.

Thế nào là phóng dật? Là không tu các pháp thiện. Thế nào là bất phóng dật? Là tu các pháp thiện.

Các căn thiện: Là ba căn thiện: Căn thiện không tham, căn thiện không sân, căn thiện không si.

Căn bất thiện: Là ba căn bất thiện: Căn bất thiện tham, căn bất thiện sân, căn bất thiện si.

Căn vô ký: Là bốn căn vô ký: Vô ký ái, vô ký kiến, vô ký mạn, vô ký vô minh. Thế nào là vô ký ái? Là năm thứ của cõi sắc, vô sắc đã tạo. Thế nào là vô ký kiến? Là thân kiến và biên kiến đã hành trong cõi dục. Năm kiến đã hành trong cõi sắc, vô sắc. Thế nào là vô ký mạn? Là năm thứ đã hành ở cõi sắc, vô sắc. Thế nào là vô ký vô minh? Là thân kiến đã hành trong cõi dục và vô minh tương ưng với biên kiến, năm thứ đã hành trong cõi sắc, vô sắc.

Nói các kiết: Là chín thứ kiết: Kiết tham, kiết sân, kiết mạn, kiết vô minh, kiết kiến, kiết thắng chấp, kiết nghi, kiết tật, kiết xan.

Thế nào là kiết tham? Là tham trong ba cõi.

Thế nào là kiết sân? Là dựa vào tánh giận dữ của các hữu tình làm tánh.

Thế nào là kiết mạn? Là bảy thứ mạn gọi là kiết mạn: Mạn, quá mạn, mạn quá mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn, ty mạn, tà mạn.

Thế nào là mạn? Là đối với kẻ thua kém cho là hơn, ngang đồng cho là đồng. Dùng chấp ấy làm nhân, giữ tánh kiêu mạn, tâm tự đề cao, cố chấp. Đó gọi là mạn.

Thế nào là quá mạn? Là đối với người ngang bằng mình cho là mình hơn. Hoặc đối với người hơn cho là mình bằng. Đó gọi là quá mạn.

Thế nào là mạn quá mạn? Là đối với người hơn mình cho là mình hơn họ, lấy điều ấy làm nhân, giữ lấy tánh khinh mạn, tâm kiêu ngạo, cố chấp. Đó gọi là mạn quá mạn.

Thế nào là ngã mạn? Nghĩa là ở nơi năm thủ uẩn, tùy theo quán làm ngã, hoặc làm ngã sở, lấy điều ấy làm nhân, giữ lấy tánh khinh mạn, ỷ thị, tâm tự đề cao, cố chấp. Đó gọi là ngã mạn.

Thế nào là tăng thượng mạn? Chưa chứng được quả thù thắng trên hết nhưng cho là mình đã chứng được, hoặc chưa xúc chứng, cũng chưa hiện tiền, luôn lấy đó làm nhân, giữ lấy tánh khinh mạn, kiêu ngạo, tâm tự đề cao, cố chấp. Đó gọi là tăng thượng mạn.

Thế nào là ty mạn? Nghĩa là đối với hàng hơn hẳn mình nhiều phần chấp cho mình chỉ thua kém phần ít, lấy điều ấy làm nhân, giữ lấy tánh khinh mạn, tâm tự đề cao, kiêu ngạo, cố chấp. Đó gọi là ty mạn.

Thế nào là tà mạn? Nghĩa là mình không có đủ đức nhưng chấp cho mình có đủ đức, lấy đó làm nhân, giữ lấy tánh khinh mạn, tâm tự đề cao, cố chấp. Đó gọi là tà mạn.

Bảy thứ mạn trên đây gọi là kiết mạn.

Thế nào là kiết vô minh? Là không hiểu biết về ba cõi. Đó gọi là kiết vô minh.

Thế nào là kiết kiến? Là ba thứ kiết gọi là kiết kiến. Ba thứ đó là: (1) Thân kiến. (2) Biên chấp kiến. (3) Tà kiến.

Thế nào là thân kiến? Là ở nơi năm thủ uẩn, tùy theo quán cho là ngã, hoặc cho là ngã sở, lấy đó làm nhân, nhận vui theo tuệ quán và đối tượng nhận biết. Đó gọi là thân kiến.

Thế nào là biên chấp kiến? Là ở nơi năm thủ uẩn, tùy theo quán đoạn thường, lấy đó làm nhân, nhận vui theo tuệ quán và đối tượng nhận biết. Đó gọi là biên chấp kiến.

Thế nào là tà kiến? Là hủy báng nhân quả và các tác dụng hủy hoại hiện hữu, lấy đó làm nhân, nhận vui theo tuệ quán và đối tượng nhận biết. Đó gọi là tà kiến.

Ba thứ kiến này gọi là kiết kiến.

Thế nào là kiết thắng chấp? Là hai thứ thắng chấp, gọi là kiết thắng chấp. Đó là: (1) Kiến thắng chấp. (2) Giới cấm thắng chấp.

Thế nào là kiến thắng chấp? Là ở nơi năm thủ uẩn, tùy theo quán cho là cao, là hơn hết, lấy đó làm nhân, nhận vui theo tuệ quán và đối tượng nhận biết. Đó gọi là kiến thắng chấp.

Thế nào là giới cấm thắng chấp? Là dựa nơi năm thủ uẩn, tùy theo quán cho là tịnh, là giải thoát, là xuất ly, lấy đó làm nhân, nhận vui theo tuệ quán và đối tượng nhận biết. Đó gọi là giới cấm thắng chấp.

Hai thứ thắng thủ này gọi là kiết thắng chấp.

Thế nào là kiết nghi? Là đối với các đế khởi do dự làm tánh.

Thế nào là kiết tật? Là tâm tán loạn làm tánh.

Thế nào là kiết xan? Là tâm chấp trước làm tánh, thế nên nói là các kiết.

Nói trói buộc (Hệ phược): Đã nói về các kiết. Các kiết ấy cũng gọi là sự trói buộc (Phược). Nhưng sự trói buộc có ba thứ: (1) Tham trói buộc. (2) Sân trói buộc. (3) Si trói buộc.

Nói ẩn rộng: Là bảy thứ ẩn rộng: (1) Tham ẩn rộng. (2) Sân ẩn rộng. (3) Hữu dục ẩn rộng. (4) Mạn ẩn rộng. (5) Vô minh ẩn rộng. (6) Kiến ẩn rộng. (7) Nghi ẩn rộng.

Thế nào là tham ẩn rộng? Năm thứ ẩn rộng gọi là tham ẩn rộng. Năm thứ đó là: Tham dục hiện có thuộc cõi dục do kiến khổ đoạn trừ. Tham dục hiện có thuộc cõi dục do kiến tập, kiến diệt, kiến đạo, cùng do tu đạo đoạn trừ. Năm thứ ẩn rộng này gọi là tham ẩn rộng.

Thế nào là sân ẩn rộng? Năm thứ ẩn rộng gọi là sân ẩn rộng. Là sân hận hiện có thuộc cõi dục do kiến khổ đoạn trừ. Sân hận hiện có thuộc cõi dục do kiến tập, kiến diệt, kiến đạo cùng do tu đạo đoạn trừ. Năm thứ ẩn rộng này gọi là sân ẩn rộng.

Thế nào là hữu dục ẩn rộng? Mười thứ ẩn rộng này gọi là hữu dục ẩn rộng. Trong đó, năm thứ thuộc cõi sắc, năm thứ thuộc cõi vô sắc. Thế nào là hữu tham ẩn rộng? Thuộc cõi sắc có năm thứ. Nghĩa là hữu tham hiện có thuộc cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ. Hữu tham hiện có thuộc cõi sắc do kiến tập, kiến diệt, kiến đạo cùng do tu đạo đoạn trừ. Như năm thứ thuộc cõi sắc, năm thứ thuộc cõi vô sắc cũng lại như vậy. Mười thứ ẩn rộng này gọi là hữu dục ẩn rộng.

Thế nào là mạn ẩn rộng? Mười lăm thứ ẩn rộng này gọi là mạn ẩn rộng. Trong đó, năm thứ thuộc cõi dục, năm thứ thuộc cõi sắc và năm thứ thuộc cõi vô sắc. Năm thứ mạn ẩn rộng thuộc cõi dục: Nghĩa là các mạn hiện có thuộc cõi dục do kiến khổ đoạn trừ. Các mạn hiện có thuộc cõi dục do kiến tập, kiến diệt, kiến đạo cùng do tu đạo đoạn trừ. Như năm thứ thuộc cõi dục, năm thứ thuộc cõi sắc và năm thứ thuộc cõi vô sắc cũng lại như vậy. Mười lăm thứ ẩn rộng này gọi là mạn ẩn rộng.

Thế nào là vô minh ẩn rộng? Mười lăm thứ ẩn rộng này gọi là vô minh ẩn rộng. Trong đó, cõi dục có năm thứ, cõi sắc có năm thứ và cõi vô sắc có năm thứ. Năm thứ vô minh ẩn rộng thuộc cõi dục: Là các vô minh hiện có thuộc cõi dục do kiến khổ đoạn trừ. Các vô minh hiện có thuộc cõi dục do kiến tập, kiến diệt, kiến đạo cùng do tu đạo đoạn trừ. Như năm thứ thuộc cõi dục, năm thứ thuộc cõi sắc và năm thứ thuộc cõi vô sắc cũng lại như vậy. Mười lăm thứ ẩn rộng này gọi là vô minh ẩn rộng.

Thế nào là kiến ẩn rộng? Có ba mươi sáu thứ kiến ẩn rộng. Trong ấy: Mười hai thứ thuộc cõi dục, mười hai thứ thuộc cõi sắc và mười hai thứ thuộc cõi vô sắc.

Mười hai thứ kiến ẩn rộng thuộc cõi dục: Nghĩa là thân kiến, biên kiến thuộc cõi dục cùng những tà kiến, kiến thủ hiện có thuộc cõi dục do kiến khổ đoạn trừ. Và các tà kiến, kiến thủ hiện có thuộc cõi dục do kiến diệt đoạn trừ. Những tà kiến cùng kiến thủ, chấp cấm giới thủ thuộc cõi dục do kiến tập, kiến đạo đoạn trừ. Như mười hai thứ thuộc cõi dục, mười hai thứ thuộc cõi sắc và mười hai thứ thuộc cõi vô sắc cũng lại như vậy. Ba mươi sáu thứ ẩn rộng này gọi là kiến ẩn rộng.

Thế nào là nghi ẩn rộng? Nghi ẩn rộng có mười hai thứ. Trong đó, cõi dục có bốn thứ, cõi sắc có bốn thứ và cõi vô sắc có bốn thứ. Thế nào là bốn nghi ẩn rộng thuộc cõi dục? Là nghi thuộc cõi dục do kiến khổ đoạn trừ. Nghi thuộc cõi dục do kiến tập, kiến diệt, kiến đạo đoạn trừ. Như thuộc cõi dục có bốn thứ, cõi sắc và cõi vô sắc mỗi cõi đều có bốn thứ cũng lại như vậy. Mười hai thứ ẩn rộng này gọi là nghi ẩn rộng.

Nói các tùy phiền não: Là các thứ ẩn rộng hiện có, chúng tức gọi là các tùy phiền não. Có thứ là tùy phiền não không phải là ẩn rộng. Nghĩa là trừ ẩn rộng ấy, tâm còn lại đã sinh hành uẩn nhiễm ô.

Thế nào là vây buộc an trụ? Có tám thứ vây buộc an trụ: (1) Hôn trầm. (2) Thùy miên. (3) Trạo cử. (4) Ố tác. (5) Tật đố (Ganh ghét). (6) Xan lận (Keo kiệt). (7) Vô tàm (Không hổ). (8) Vô quý (Không thẹn). Thế nên gọi là vây buộc an trụ.

Nói nhận biết: Là mười thứ trí: (1) Pháp trí. (2) Tùy loại trí. (3)

Tha tâm trí. (4) Thế tục trí. (5) Khổ trí. (6) Tập trí. (7) Diệt trí. (8) Đạo trí. (9) Tận trí. (10) Vô sinh trí.

Thế nào là pháp trí? Là các trí vô lậu nhận biết các hành thuộc cõi dục. Các trí vô lậu nhận biết nhân của hành thuộc cõi dục. Các trí vô lậu nhận biết hành diệt thuộc cõi dục. Các trí vô lậu nhận biết hành đoạn do đạo thuộc cõi dục. Lại nữa, pháp trí là các trí vô lậu trong địa của pháp trí. Đó gọi là pháp trí.

Thế nào là tùy loại trí? Là các trí vô lậu nhận biết các hành thuộc cõi sắc, vô sắc. Các trí vô lậu nhận biết các hành hiện bày thuộc cõi sắc, vô sắc. Các trí vô lậu nhận biết hành diệt thuộc cõi sắc, vô sắc. Các trí vô lậu nhận biết hành đoạn do đạo thuộc cõi sắc, vô sắc. Lại nữa, tùy loại trí là các trí vô lậu trong địa của tùy loại trí. Đó gọi là tùy loại trí.

Thế nào là tha tâm trí? Là trí từ tu sinh, là quả của pháp đã tu tập. Dựa vào pháp đã tu đạt được trí không thoái chuyển. Do trí tuệ kia nên nhận biết rõ về tâm tâm pháp của người khác tương tợ trong các hành thuộc cõi dục, cõi sắc, chứng được một phần pháp vô lậu hiện tiền. Những thứ ấy gọi là tha tâm trí.

Thế nào là thế tục trí? Là trí hữu lậu. Đó gọi là thế tục trí.

Thế nào là khổ trí? Là trí vô lậu do tác ý sinh, ở nơi năm thủ uẩn nhận biết rõ tánh vô thường, tánh khổ, tánh không, tánh vô ngã. Đó gọi là khổ trí.

Thế nào là tập trí? Là trí vô lậu do tác ý ở nơi nhân hữu lậu sinh khởi nhân tập sinh duyên. Đó gọi là tập trí.

Thế nào là diệt trí? Là trí vô lậu do tác ý ở trong diệt khởi diệt tĩnh diệu ly. Đó gọi là  diệt trí.

Thế nào là đạo trí? Là trí vô lậu do tác ý ở trong đạo khởi đạo như hành xuất. Đó gọi là đạo trí.

Thế nào là tận trí? Nghĩa là tự nhận biết rõ về khổ. Tự nhận biết về đoạn tập. Tự nhận biết về chứng diệt. Tự nhận biết về tu đạo. Lấy đó làm nhân, nên giác tuệ tri kiến nhận biết phân minh, chứng đắc hiện tiền. Đó gọi là tận trí.

Thế nào là vô sinh trí? Nghĩa là tự nhận biết rõ khắp các khổ, lại trí không còn nhận biết nữa. Tự đoạn trừ tập, lại trí không còn đoạn trừ nữa. Tự chứng đắc diệt, lại trí không còn chứng đắc nữa. Tự tu đạo, lại trí không còn tu nữa. Lấy đó làm nhân, nên giác tuệ tri kiến nhận biết phân minh, chứng đắc hiện tiền. Đó gọi là vô sinh trí.

Nói kiến: Tuy tức là các trí kia, các trí ấy cũng là kiến. Nhưng cũng lại có kiến không phải là trí. Tức là tám thứ nhẫn từ hiện quán biên sinh. Là tri khổ pháp nhẫn, tri khổ tùy loại nhẫn, tri tập pháp nhẫn, tri tập tùy loại nhẫn, tri diệt pháp nhẫn, tri diệt tùy loại nhẫn, tri đạo pháp nhẫn, tri đạo tùy loại nhẫn. Nên tám thứ nhẫn này gọi là kiến.

Nói hiện quán hiện có: Tức những thấy biết kia cũng là hiện quán, thế nên gọi là hiện quán.

*

Thế nào là đắc? Là các pháp đã đạt được.

Thế nào là đẳng chí vô tưởng? Là đã lìa dục của cõi Biến tịnh, chưa lìa dục của cõi trên, do tác ý của tưởng xuất ly là trước hết, lấy tâm tâm pháp diệt làm tánh.

Thế nào là đẳng chí diệt tận? Là đã lìa dục của vô sở hữu xứ, do ngừng dứt tác ý của tưởng là trước hết, lấy tâm tâm pháp diệt làm tánh.

Thế nào là vô tưởng sở hữu? Là hữu tình sinh nơi trời Vô tưởng, lấy tâm tâm pháp diệt làm tánh.

Thế nào là mạng căn? Là thọ mạng của ba cõi.

Thế nào là chúng đồng phận? Là tự loại giống nhau của các hữu tình.

Thế nào là đắc xứ sở? Là đạt được các cảnh.

Thế nào đắc sự? Là đạt được các uẩn.

Thế nào là đắc xứ? Là đạt được các xứ trong, ngoài.

Thế nào là sinh? Là thành tựu uẩn.

Thế nào là lão? Là các uẩn chín muồi.

Thế nào là trụ? Là các hành không hoại.

Thế nào là tánh vô thường? Là các hành hư hoại.

Thế nào là danh thân? Là tăng ngữ kia.

Thế nào là cú thân? Là văn đầy đủ.

Thế nào là văn thân? Là chữ thân kia gọi là văn thân.

*

Thế nào là xứ không? Là nhân của đối tượng hành, tức là hư không, không có chướng ngại. Chủng loại của các sắc không thể che khắp được. Đó gọi là hư không.

Thế nào là phi trạch diệt? Là diệt không phải lìa.

Thế nào là trạch diệt? Là diệt cũng lìa.

*

Thế nên nói là pháp có năm thứ: (1) Sắc pháp. (2) Tâm pháp. (3) Tâm sở hữu pháp. (4) Tâm bất tương ưng hành pháp. (5) Vô vi pháp.

HẾT