SỐ 1554/2
LUẬN NHẬP A TỲ ĐẠT MA
Tác giả: A la hán Tắc Kiến Đà La
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN THƯỢNG
Kính lạy Nhất thiết trí
Vầng Phật nhật vô cấu
Lời sáng mở người trời
Bản tâm ngăn nẻo ác.
Các lý do đối pháp
Trừ diệt tướng pháp ngu
Con đảnh lễ như đây
Tạng Nhất thiết trí nói.
Tuệ kém vọng nêu tối
Che lấp lời Phật dạy
Chiếu soi do đèn sáng
Kính lạy Bậc thắp đèn.
Người thông tuệ có thể thọ trì đủ các văn nghĩa giáo huấn tôn quý của đấng Mâu-ni, nhưng do câu nệ nơi sự nghiệp nên có khi chưa được lại thoái chuyển. Người trí tuệ kém nghe danh nghĩa trong đối pháp như rừng rậm liền sinh sợ hãi. Nhưng những người ấy đều luôn có tâm tìm cầu hiểu rõ. Vì muốn khiến những người đó đối với nơi chốn sâu thẳm trong biển pháp tướng của A-tỳ-đạt-ma, được vui thích dễ vào, nên tôi tạo ra bộ Luận này.
Nói là Tông Thiện Thệ có tám cú nghĩa: (1) Sắc. (2) Thọ. (3) Tưởng. (4) Hành. (5) Thức. (6) Hư không. (7) Trạch diệt. (8) Phi trạch diệt. Đây là gồm chung hết thảy nghĩa.
Sắc có hai thứ: Đại chủng và sắc được tạo.
Đại chủng có bốn thứ: Đất, nước, lửa, gió. Giới có thể gìn giữ tướng riêng, tướng chung, hoặc các sắc được tạo, nên gọi là giới. Bốn đại chủng này, như thứ lớp của chúng, lấy tánh chất cứng chắc, ẩm ướt, ấm áp, lay động làm tự tánh, dùng sự giữ gìn, thâu tóm, thành thục, tăng trưởng làm nghiệp. Vì đại mà là chủng nên gọi là đại chủng. Do đấy hư không không thuộc về đại chủng. Vì có thể sinh ra quả của mình là nghĩa chủng. Vì sắc được tạo hiện có cùng khắp nên gọi là đại. Như vậy đại chủng chỉ có bốn thứ. Lại, vì không có công dụng khác, vì không thể kham nhận, như chân của giường tòa.
Sắc được tạo có mười một thứ: (1) Mắt. (2) Tai. (3) Mũi. (4) Lưỡi. (5) Thân. (6) Sắc. (7) Âm thanh. (8) Hương. (9) Vị. (10) Một phần xúc. (11) Vô biểu sắc. Vì ở nơi đại chủng có, nên gọi là được tạo, tức là nghĩa nương dựa nơi đại chủng để khởi.
Trong đây, mắt là chỗ dựa của nhãn thức, do trông thấy sắc là dụng sắc tịnh là thể. Tai, mũi, lưỡi, thân căn cứ theo đấy để nói.
Sắc có hai thứ: Hiển sắc và hình sắc. Như Đức Thế Tôn nói: “Hiển xấu thì hình xấu”. Hiển sắc có mười hai thứ: Xanh, vàng, đỏ, trắng, mây khói, bụi, sương mù, bóng sáng, ánh sáng, bóng tối. Hình sắc có tám thứ: Dài, ngắn, vuông, tròn, cao, thấp, ngay, không ngay.
Ở đây: Sương mù là hơi của đất, nước. Ánh sáng mặt trời gọi là ánh sáng. Mặt trăng, tinh tú, lửa, thuốc, ngọc báu, ánh chớp v.v… các thứ ánh sáng ấy gọi là sáng. Che ngăn ánh sáng của mặt trời, các thứ sáng ấy sinh ở trong đó. Các sắc khác có thể trông thấy, gọi là bóng sáng. Trái với bóng sáng này gọi là bóng tối. Vuông là giới vuông. Tròn là vòng tròn. Hình bằng nhau gọi là ngay. Hình không bằng nhau gọi là không ngay. Vì các màu sắc khác dễ hiểu, nên nay không giải thích.
Hai mươi thứ này đều là cảnh riêng của nhãn thức và ý thức được dẫn theo để phân biệt.
Âm thanh có hai thứ: Có chấp thọ và không chấp thọ. Đại chủng làm nhân vì có sai biệt, nên gắn với tự thể, gọi là có chấp thọ, là nghĩa có giác. Cùng trái với nghĩa này gọi là không chấp thọ. Pháp được sinh trước gọi là có chấp thọ. Đại chủng làm nhân nghĩa là âm thanh như của lời nói, tay chân v.v… Pháp được sinh sau gọi là không chấp thọ. Đại chủng làm nhân nghĩa là âm thanh như gió, rừng cây v.v…
Ở đây, danh hữu tình, danh phi hữu tình sai biệt có bốn: Tiếng nói trong âm thanh trước gọi là danh hữu tình, âm thanh khác gọi là danh phi hữu tình. Tiếng nói giáo hóa trong âm thanh sau gọi là danh hữu tình, âm thanh khác gọi là danh phi hữu tình.
Trong ấy, lại có vừa ý và không vừa ý sai biệt thành tám. Tám thứ như vậy đều là cảnh riêng của nhĩ thức và ý thức được dẫn theo để phân biệt.
Hương có ba thứ: (1) Hương tốt. (2) Hương xấu. (3) Hương bình đẳng. Nghĩa là có thể nuôi lớn đại chủng của các căn, gọi là hương tốt. Nếu có thể gây tổn hại cho đại chủng của các căn gọi là hương xấu. Nếu cùng trái với hai thứ trên gọi là hương bình đẳng. Ba thứ như vậy đều là cảnh riêng của tỷ thức và ý thức được dẫn theo để phân biệt.
Vị có sáu thứ: Ngọt, chua, mặn, cay, đắng, lạt sai biệt. Sáu thứ như vậy đều là cảnh riêng của thiệt thức và ý thức được dẫn theo để phân biệt.
Một phần xúc có bảy thứ: Tánh chất trơn, nhám, nặng, nhẹ cùng lạnh, đói, khát. Mềm mại gọi là trơn, là nghĩa của ý xúc. Thô cứng gọi là nhám. Có thể cân đo gọi là nặng, trái lại là nhẹ. Do chỗ bức bách ở đây nhân muốn ấm gọi là lạnh. Nhân muốn ăn gọi là đói. Nhân muốn uống gọi là khát. Những thứ này đều từ nơi nhân để đặt tên quả, nên nói như thế. Như nói: “Chư Phật xuất hiện đem đến an vui v.v…”.
Trong nhóm đại chủng do nước, lửa tăng nên có tánh trơn. Vì đất, gió tăng nên có tánh nhám. Vì đất, nước tăng nên có tánh nặng. Vì lửa, gió tăng nên có tánh nhẹ. Vì nước, gió tăng nên có tánh lạnh. Vì gió tăng nên có cảm giác đói. Vì lửa tăng nên có cảm giác khát.
Vô biểu sắc: Nghĩa là có thể tự biểu lộ về các tâm tâm sở chuyển biến có sai biệt, nên gọi là biểu. Cùng với kia đồng loại nhưng không thể biểu lộ, nên gọi là vô biểu. Đó là do ở nơi chỗ tương tợ để lập lời nói phủ định. Như đối với Sát-đế-lợi v.v… nói không phải là Bà-lamôn v.v…
Vô biểu tướng: Nghĩa là do biểu lộ về tâm đại chủng có sai biệt. Vào lúc ngủ thức, tâm tán loạn, không tán loạn, và ở phần vị vô tâm có sắc thiện, bất thiện chuyển biến nối tiếp, không thể chứa nhóm, là có thể kiến lập nhân như Bí-sô v.v… đó là vô biểu tướng. Nếu không có tướng này thì không nên kiến lập có Bí-sô v.v… Như Đức Thế Tôn nói: “Do có dựa vào nghiệp phước nên phước kia thường xuyên tăng trưởng”. Như vậy, vô biểu nói chung có ba thứ: Luật nghi, bất luật nghi, và đều cùng thuộc về trái nhau.
Luật nghi có ba thứ: Luật nghi biệt giải thoát, luật nghi tĩnh lự và luật nghi vô lậu.
Luật nghi biệt giải thoát có tám thứ: (1) Luật nghi Bí-sô. (2) Luật nghi Bí-sô-ni. (3) Luật nghi Cần sách (Sa-di). (4) Luật nghi
Chánh học. (5) Luật nghi Cần sách nữ (Sa-di-ni). (6) Luật nghi Cận sự nam. (7) Luật nghi Cận sự nữ. (8) Luật nghi Cận trụ. Tám thứ như vậy chỉ thuộc cõi dục.
Luật nghi tĩnh lự: Nghĩa là Tam-ma-địa của cõi sắc chuyển theo sắc. Luật nghi này chỉ thuộc cõi sắc.
Luật nghi vô lậu: Nghĩa là Tam-ma-địa vô lậu chuyển theo sắc. Luật nghi này chỉ có không hệ thuộc.
Bất luật nghi: Nghĩa là các hạng đồ tể, các thợ săn thú, bắt chim, cá, trộm cướp, giữ ngục, trói rồng, nấu chó, đặt bẫy, làm nem thịt thái. Vô biểu sắc bất thiện trong các thân này được nối tiếp chuyển.
Phi luật nghi, phi bất luật nghi: Nghĩa là tạo lập Tỳ-ha-la, Tốtđổ-ba, Tăng-già-la-ma v.v… cùng lễ nơi tháp miếu, đốt hương, rải hoa, tán tụng, chú nguyện v.v… và đánh đập khởi ra các thứ vô biểu sắc thiện, bất thiện nối tiếp chuyển. Cũng có vô biểu chỉ trong một sát-na. Vì dựa vào chủng loại chung nên nói là nối tiếp.
Luật nghi biệt giải thoát do thệ nguyện thọ nhận được bảy thứ luật nghi trước, cho đến mạng chung, thọ nhận luật nghi thứ tám trong một ngày, đêm. Lại xả bảy thứ luật nghi trước do bốn duyên: (1) Vì xả giới mình đã học. (2) Vì mạng chung. (3) Vì đoạn căn thiện.
(4) Vì sinh hai hình.
Luật nghi thứ tám, tức xả do bốn duyên trước và xả do đêm đã tàn.
Luật nghi tĩnh lự do được tâm thiện của cõi sắc nên được. Vì bỏ tâm thiện của cõi sắc nên xả, do thuộc về tâm kia. Luật nghi vô lậu được xả cũng như vậy. Vì tùy tâm vô lậu mà được, xả. Được bất luật nghi do tạo ra và thọ nhận.
Do bốn duyên nên xả bất luật nghi: (1) Thọ nhận luật nghi. (2) Mạng chung. (3) Hai hình sinh. (4) Pháp như thế nên được.
Vô biểu trong xứ tâm thiện của cõi sắc, hoặc do tạo ra mà được, là tâm tịnh ân cần, phiền não mạnh mẽ, nhạy bén, lễ tán tháp miếu và đánh đập v.v… Hoặc do thọ nhận mà được, nghĩa là khởi suy nghĩ như thế này: “Nếu không vì Đức Phật tạo ra Mạn-đồ-la thì trọn không ăn trước”. Lời nguyện như thế hoặc do xả nên được, nghĩa là xây cất chùa, tăng xá, tọa cụ, vườn rừng, bố thí cho Bí-sô v.v… Xả vô biểu này là do tâm cùng khởi và việc đã làm vì đều cùng có tâm đoạn trừ.
Vô biểu như vậy và như trước đã nói năm căn như nhãn v.v… chỉ là cảnh của ý thức đã phân biệt rõ. Ngang với đây được gọi là nghĩa câu sắc ban đầu. Nhưng các pháp tướng tóm tắt có ba thứ: (1) Tự cộng tướng. (2) Phần cộng tướng. (3) Biến cộng tướng
Tự cộng tướng: Nghĩa là như vì biến đổi, hư hoại, hoặc vì đổi thay, trở ngại, nên nói gọi là sắc. Như vậy, tức nói về nghĩa có thể gây khổ não, hư hoại. Như bậc Pháp vương đã nói: “Bí-sô nên biết! Do biến đổi, hư hoại, nên gọi là sắc thủ uẩn”.
Cái gì có thể biến đổi, hư hoại ? Là vì tay tiếp xúc, tức nên biến đổi hư hoại, cho đến nói rộng. Như vì có thể đi nhanh, nên gọi là ngựa. Do có thể đi chậm, nên nói là bò, trâu v.v…
Phần cộng tướng: Nghĩa là như tánh vô thường và tánh khổ v.v…
Biến cộng tướng: Như tánh vô ngã và tánh không v.v… Do khuôn khổ này tức đối với tất cả pháp, nên biết là ba tướng.
Nghĩa thọ cú: Nghĩa là ba thứ thọ nhận: (1) Vui. (2) Khổ. (3) Không khổ không vui. Đây tức là sự nhận lãnh ba thứ nghĩa theo chỗ tiếp xúc, từ đấy sinh ra yêu thích, không yêu thích, hoặc không phải cả hai. Vì phần vị của thân tâm sinh ra tiếp xúc khác nhau, nên đối với cảnh sinh vui, buồn, không phải cả hai, làm tướng hay có thể làm nhân cho ái, nên gọi là thọ. Như Đức Thế Tôn nói: “Xúc duyên thọ, thọ duyên ái”.
Thọ này lại tùy theo sự sai biệt của thức nên có sáu, như nhãn tiếp xúc sinh ra thọ, cho đến ý tiếp xúc sinh ra thọ. Năm thức đều cùng sinh gọi là thân thọ. Ý thức đều cùng sinh gọi là tâm thọ.
Do căn có sai biệt nên kiến lập năm thứ: Là lạc căn, khổ căn, hỷ căn, ưu căn, xả căn. Các thân nhận lấy vui vẻ và tâm tĩnh lự thứ ba. Nhận lấy sự vui vẻ gọi là lạc căn. Sự vui vẻ là thuộc về nghĩa lợi ích.
Các thân nhận lấy sự không vui, gọi là khổ căn. Sự không vui là nghĩa tổn não. Trừ tĩnh lự thứ ba, tâm khác nhận lấy sự vui vẻ, gọi là hỷ căn. Các tâm nhận lấy sự không vui gọi là ưu căn. Các thân và tâm nhận lấy không phải vui, không phải không vui, gọi là xả căn. Phân biệt rộng về các căn này, như xứ căn v.v…
Nghĩa tưởng cú: Nghĩa là có thể giả hợp danh nghĩa của tướng để hiểu, tức là đối với các màu sắc xanh, vàng, dài, ngắn…, tiếng ốc, tiếng trống… mùi hương trầm, hương xạ… vị mặn, đắng… tiếp xúc vật cứng, mềm… pháp tướng như nam, nữ… là giả hợp trong danh nghĩa mà hiểu.
Vì là nhân của tầm, tứ nên gọi là tưởng. Tưởng này tùy theo thức sai biệt có sáu thứ như thọ.
Sự sai biệt của lớn nhỏ, vô lượng có ba thứ: Nghĩa là duyên nơi cảnh ít, nên gọi là tưởng nhỏ. Vì duyên nơi cảnh của các pháp lớn, như duyên nơi Diệu cao v.v… nên gọi là tưởng lớn. Tùy theo xứ không vô biên v.v… nên gọi là tưởng vô lượng. Hoặc tùy theo ba cõi để lập ba tên gọi này.
Hành có hai thứ: Hành tương ưng và hành bất tương ưng.
Hành tương ưng: Nghĩa là tư, xúc, dục, tác ý, thắng giải, niệm, định, tuệ, tầm, tứ, tín, tinh tấn, tàm, quý, không phóng dật, khinh an, bất hại, xả, hận, yếm, bất tín, giải đãi, phóng dật, căn thiện, căn bất thiện, căn vô ký, kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não, triền, lậu, bộc lưu, ách, thủ, thân hệ, cái và trí nhẫn v.v… Các pháp tâm sở này đều cùng với tâm có đủ năm nghĩa: Chỗ dựa, đối tượng duyên, hành tướng, thời gian, sự… nên gọi là tương ưng. Cùng trái với tương ưng này gọi là bất tương ưng. Nghĩa là đắc, phi đắc, định vô tưởng, định diệt tận, vô tưởng sự, mạng căn, chúng đồng phận, sinh, trụ, lão, vô thường, danh thân, cú thân, văn thân…
Như vậy, hành tương ưng, bất tương ưng, gọi chung là hành uẩn. Vì thế nên bậc Đại Tiên nói: “Hành uẩn tụ tập như thân cây chuối”.
Tư: Là có thể khiến tâm có tạo tác, tức là ý nghiệp, cũng là nghĩa khiến tâm vận động. Do ở đây thiện, bất thiện, vô ký khác nhau, nên có ba thứ tư sai biệt.
Xúc: Là căn, cảnh, thức hòa hợp sinh khiến tâm tiếp xúc với cảnh, do có thể nuôi sống tâm là tướng. Thuận theo lạc thọ v.v… có sai biệt, nên có ba thứ.
Dục: Là mong cầu, tạo sự việc thuận với tinh tấn, nghĩa là ta nên hành tác sự việc như thế.
Tác ý: Là có thể khiến tâm cảnh giác, tức là nghĩa dẫn tâm hướng đến cảnh, cũng là sự nhớ giữ, đã từng là cảnh của thọ… Tác ý này có ba thứ: Học, vô học, phi học phi vô học. Tác ý vô lậu trong thân bảy hữu học, gọi là học. Tác ý vô lậu trong thân A-la-hán, gọi là vô học. Tác ý của tất cả hữu lậu gọi là phi học phi vô học.
Thắng giải: Nghĩa là có thể đối với cảnh đã chấp thuận, tức là nghĩa khiến tâm ở nơi cảnh của đối tượng duyên không khiếp nhược.
Niệm: Là khiến tâm ở nơi cảnh ghi nhớ rõ không quên, là nghĩa đã tạo ra các sự việc chánh đáng.
Định: Là khiến tâm chuyên chú nơi một cảnh, là nghĩa chế ngự tâm như vượn, khỉ, chỉ ở nơi một cảnh chuyển. Phái Tỳ-bà-sa nói như vầy: “Như rắn ở trong ống thì bò thẳng không cong. Tâm nếu ở nơi định thì luôn chuyển ngay thẳng”.
Tuệ: Là đối với pháp có thể chọn lựa phân biệt, tức là nghĩa ở nơi sự thành tựu quả của các nhân duyên đã gồm thâu tương ưng.
Trong tám thứ pháp của tự tướng, cộng tướng, tùy theo chỗ ứng hợp của chúng mà quán sát.
Tầm: Là đối với cảnh khiến tâm thô làm tướng, cũng gọi là tư duy phân biệt thuộc về gió tưởng, chuyển theo thô động. Pháp này tức là nhân chuyển của năm thức.
Tứ: Là ở nơi cảnh, khiến tâm vi tế làm tướng. Pháp này tức là nhân chuyển của ý thức tùy thuận đối với cảnh.
Tín: Là khiến tâm đối với cảnh lắng sạch. Tức ở nơi tướng nhân quả của Tam bảo, vì thuộc về tánh có v.v…, hiện tiền thừa nhận nên gọi là tín. Tín này có thể loại trừ pháp cấu uế của tâm, như ngọc báu Thanh Thủy đặt trong ao, liền khiến nước đục nhơ trở thành trong lặng. Như vậy viên ngọc tín đặt trong ao tâm, các thứ nhơ đục của tâm đều được trừ bỏ.
Tin Phật chứng Bồ Đề. Tin Pháp là thuyết thiện. Tin Tăng có đủ hành diệu. Cũng tin về chỗ mê lầm của hết thảy ngoại đạo. Pháp tánh duyên khởi là hành nghiệp của tín.
Tinh tấn: Là ở trong sự sinh diệt của pháp thiện, bất thiện, lấy sự dũng mãnh làm tánh. Tức là nghĩa như kẻ đang chìm đắm trong vũng bùn sinh tử, có thể thúc đẩy, dốc tâm, cố sức khiến mình nhanh chóng ra khỏi.
Tàm (Hổ): Là tùy thuận nơi pháp bạch của chánh lý tăng thượng, sinh khởi tánh tự tại của tâm đẳng lưu trái với ái. Do uy lực này, đối với các công đức và người có đức luôn cung kính mà trụ.
Quý (Thẹn): Là tu tập công đức làm đầu, trái với đẳng lưu si, chê trách pháp yếu kém. Do uy lực này nên đối với tội lỗi luôn thấy sợ hãi.
Không phóng dật: Nghĩa là tu các pháp thiện. Trái với hại, phóng dật tức luôn gìn giữ tâm tánh. Tâm có thể nhận giữ tánh gọi là khinh an. Trái với hại, hôn trầm, tùy thuận nơi pháp thiện. Tâm vững chắc nơi thiện gọi là bất hại. Do uy lực này, nên không gây tổn não cho người khác. Có thể trái với kẻ khác ưa thích làm việc tổn hại, tâm tánh bình đẳng, gọi là xả. Vì xả bỏ phi lý cùng hướng đến lý. Do uy lực này khiến tâm đối với lý và phi lý, không hướng, không bỏ, bình đẳng mà trụ, như nắm giữ cán cân.
Hân: Là vui thích ham chuộng phẩm hoàn diệt, thấy công đức rồi khiến tâm hân hoan, mến mộ, tùy thuận tu thiện. Tâm có điều ấy nên vui thích Niết bàn. Cùng với pháp này tương ưng nên gọi là hân tác ý.
Yếm: Là nhàm chán các thứ tai hại nơi phẩm lưu chuyển. Thấy lỗi lầm rồi khiến tâm chán lìa, tùy thuận lìa nhiễm. Tâm có pháp ấy nên chán ghét sinh tử. Cùng với pháp ấy tương ưng gọi là yếm tác ý.
Tâm không lắng sạch gọi là Bất tín, như trước đã nói, là trái với tín.
Tâm không dũng mãnh vượt lên gọi là Giải đãi (Biếng nhác), trái với tinh tấn đã nói ở trước.
Không tu pháp thiện gọi là Phóng dật, trái với tánh không phóng dật đã nói ở trước, tức là nghĩa không thể gìn giữ tâm.
Như vậy là đã nói ba thứ như Bất tín v.v… Chúng không lập tùy miên và triền cấu, vì lỗi lầm nhẹ, vì dễ trừ bỏ.
Căn thiện có ba thứ: Vô tham là trái với pháp tham. Vô sân là trái với pháp sân. Vô si là trái với pháp si, tức là lấy trí tuệ làm tự tánh như trước đã nói.
Ba pháp như vậy là tự tánh của thiện, cũng có thể làm căn sinh pháp thiện khác, nên gọi là căn thiện. Nghĩa an ổn là nghĩa của thiện, vì có thể dẫn đến hữu đáng yêu thích và mầm mống của giải thoát. Hoặc là đã tập học, trở thành nghĩa của phương tiện khéo léo, là nghĩa của thiện. Do pháp thiện này có thể tạo thành sắc tượng vi diệu, như họa sư tô màu bức tranh vẽ, tạo ra sắc tượng tươi đẹp, thế gian khen là thiện.
Căn bất thiện có ba thứ, tức là tham, sân, si cần đối trị, đối lại với ba thứ trước. Tham là năm bộ tham của cõi dục. Sân là năm bộ sân. Si là ba mươi bốn vô minh của cõi dục, trừ hữu thân kiến và vô minh tương ưng với biên chấp kiến.
Ba pháp như vậy là tự tánh của bất thiện, cũng có thể làm căn sinh ra các bất thiện khác, nên gọi là căn bất thiện. Nghĩa không an ổn là nghĩa của bất thiện, vì có thể dẫn đến mầm mống của các hữu không yêu thích. Hoặc là chưa tập học, không phải là nghĩa của phương tiện khéo léo, là nghĩa của bất thiện. Do bất thiện này có thể tạo thành sắc tượng xấu ác, như họa sư tạo ra bức tranh không đẹp, thế gian gọi là bất thiện.
Căn vô ký có bốn thứ: Ái, kiến, mạn, vô minh. Ái: Là nơi cõi sắc, vô sắc đều có năm bộ tham. Kiến: Là nơi cõi sắc, vô sắc đều có mười hai kiến và hữu thân kiến, biên chấp kiến của cõi dục. Mạn: Là nơi cõi sắc, vô sắc đều có năm bộ mạn. Vô minh: Là tất cả vô minh của cõi sắc, vô sắc và hữu thân kiến, biên chấp kiến của cõi dục tương ưng với vô minh. Bốn căn vô ký này là tự mình đã thừa nhận.
Người tu tĩnh lự có ba loại khác nhau: (1) Loại người ái đối với tĩnh lự cõi trên. (2) Loại người kiến đối với tĩnh lự cõi trên. (3) Loại người mạn đối với tĩnh lự cõi trên. Ba loại người này đều nhân nơi sức của vô minh để dấy khởi. Phái Tỳ-bà-sa lập căn vô ký chỉ có ba thứ: Vô ký ái, vô minh, tuệ. Nghi thì không trụ vững chắc. Mạn thì tánh tự cao, không phải là pháp của căn. Do đối với nghĩa thiện, bất thiện đều không ghi nhận, nên gọi là vô ký.
Lại do không thể ghi nhận quả ái, phi ái, nên gọi là vô ký, cũng là do không thể chiêu cảm quả dị thục. Tánh vô ký này cũng có thể sinh pháp vô ký nhiễm khác, hoặc các pháp vô ký, nên gọi là căn vô ký
Kiết có chín thứ: Kiết ái, kiết sân, kiết mạn, kiết vô minh, kiết kiến, kiết thủ, kiết nghi, kiết tật và kiết xan.
Kiết ái: Là tham của ba cõi, là tướng nhiễm vướng, như keo sơn hòa tán nên gọi là ái. Vì ái tức là kiết, nên gọi là kiết ái.
Kiết sân: Là năm bộ sân. Đối với sự an vui của hữu tình v.v… đều khiến tổn hại, tướng không tạo lợi ích, như hạt giống cay đắng, nên gọi là sân. Vì sân tức là kiết, nên gọi là kiết sân.
Kiết mạn: Là mạn của ba cõi. Do tự cho là khác với đức độ của người khác, nên tâm khởi tướng ý thị đề cao gọi là mạn. Như kẻ kiêu ngạo lấn át khinh miệt người khác. Mạn này lại có bảy thứ: (1) Mạn. (2) Quá mạn. (3) Mạn quá mạn. (4) Ngã mạn. (5) Tăng thượng mạn. (6) Ty mạn. (7) Tà mạn.
Nghĩa là nhân nơi những sự việc về dòng họ, tài sản, địa vị, sắc lực, giữ giới, học rộng, công xảo, nên đối với người thua kém thì cho mình là hơn. Hoặc đối với kẻ ngang hàng thì cho mình là ngang đồng. Do đấy nên khiến tâm tự đề cao gọi là Mạn. Nếu đối với người ngang đồng cho là mình hơn, hoặc đối với những người hơn lại cho là mình bằng, do đấy nên khiến tâm tự đề cao, gọi là Quá mạn. Nếu đối với người hơn mình cho là mình hơn, do ý nghĩ này nên khiến tâm tự đề cao, gọi là Mạn quá mạn.
Nếu ở nơi năm thủ uẩn chấp ngã và ngã sở, do sự chấp này khiến tâm tự đề cao, gọi là Ngã mạn. Nếu chưa chứng được các đức thù thắng trong quả Dự lưu mà cho là mình đã chứng được, do đấy khiến tâm thêm tự đề cao, gọi là Tăng thượng mạn. Nếu đối trong tộc họ phần nhiều là vượt hơn, cho mình là thua kém, do đó đã khiến tâm tự đề cao, gọi là Ty mạn. Nếu thật sự không có đức, cho là mình có đức, do đấy khiến tâm tự đề cao, gọi là Tà mạn.
Bảy mạn như thế gọi chung là kiết mạn
Kiết vô minh: Nghĩa là nơi ba cõi không hiểu biết, lấy sự không hiểu rõ làm tướng, như kẻ đui mù. Vì trái diệt đối với minh, nên gọi là vô minh. Lời nói phủ định này là dựa vào nghĩa đối trị, như nói không phải là bạn thân, không thật v.v… tức nói oán gia, lời nói hư dối v.v… Vì vô minh tức là kiết, nên gọi là kiết vô minh.
Kiết kiến: Là ba kiến, tức hữu thân kiến, biên chấp kiến và tà kiến. Trong năm thủ uẩn không có ngã, ngã sở nhưng chấp là thật có tướng của ngã, ngã sở, tuệ nhiễm ô này gọi là hữu thân kiến. Do thân là nghĩa tụ tập, vì có mà là thân, nên gọi là hữu thân. Tức năm thủ uẩn, ở đấy khởi lên kiến chấp, gọi là hữu thân kiến. Tức năm thủ uẩn không phải là đoạn, không phải là thường, qua đấy lại chấp có hai tướng đoạn, thường. Tuệ nhiễm ô này gọi là biên chấp kiến, vì chấp cả hai bên. Nếu quyết định cho là không có nghiệp, không có quả của nghiệp, không có giải thoát, không có người được đạo giải thoát, bác bỏ cho là không có sự thật thì tuệ nhiễm ô này gọi là tà kiến. Ba kiến như vậy gọi là kiết kiến.
Kiết thủ: Là hai thủ, tức kiến thủ, giới cấm thủ. Nghĩa là ba kiến trước và năm thủ uẩn, thật sự không phải là hơn mà chấp cho là hơn hẳn. Tuệ nhiễm ô này gọi là kiến thủ. Thủ là nghĩa suy cầu và chấp cứng chắc. Giới: Là xa lìa các thứ phá giới xấu ác. Cấm: Là thọ trì các giới của quạ, gà, nai, chó. Hoặc lõa thể, nhổ tóc, bỏ ăn, nằm trên tro. Hoặc đối với các thứ kia vọng chấp là sinh phước, diệt tội. Hoặc thường xuyên tắm gội trong ao, sông. Hoặc ăn rễ, trái cây, cỏ, rau cải, vật thuốc để tự nuôi sống mạng mình. Hoặc lấy tro bôi trét vào thân, để búi tóc trên đầu v.v… đều gọi là cấm. Cả hai thứ này đều cùng không phải là đạo có thể đạt thanh tịnh mà vọng chấp cho là đạo có thể đạt thanh tịnh. Tuệ nhiễm ô ấy gọi là giới cấm thủ. Các Bà-la-môn có người học rộng, phần nhiều chấp pháp này cho là đạo tịnh nhưng họ không thể đạt được tịnh rốt ráo. Hai thủ như vậy gọi là kiết thủ.
Kiết nghi: Là đối với bốn Thánh đế khiến tâm do dự. Như đến khoảng đường rẽ, trông thấy một người đang bó cỏ thì do dự không quyết định. Như vậy, đối với khổ tâm sinh nỗi do dự, không biết là phải hay là trái, cho đến nói rộng. Vì nghi tức là kiết, nên gọi là kiết nghi.
Kiết tật: Nghĩa là đối với những sự việc vượt hơn của người khác khiến tâm không thừa nhận. Tức đối với người khác được cung kính, cúng dường, có nhiều tài sản, địa vị, hiểu biết rộng và các pháp vượt hơn khác, tâm sinh ganh ghét là nghĩa không nhận chịu. Do ganh tị (tật) tức là kiết, nên gọi là kiết tật.
Kiết xan: Nghĩa là về của cải, pháp của mình, khiến tâm keo kiệt, luyến tiếc, cho những thứ ta có đừng đến với người khác. Vì keo kiệt (xan) tức là kiết, nên gọi là kiết xan.
Nghĩa của kiết là nghĩa trói buộc. Như Đức Thế Tôn nói: “Không phải mắt buộc lấy sắc, không phải sắc buộc lấy mắt. Ở đây dục tham nói là kiết. Như không phải bò đen buộc với bò trắng, cũng không phải bò trắng buộc với bò đen, cho đến nói rộng”.
Kiết đã nói ở trước cũng tức là trói buộc, vì chính nghĩa kiết là nghĩa trói buộc. Tuy nhiên trong Khế kinh lại nói có ba sự trói buộc:
Trói buộc của tham: Nghĩa là tất cả tham. Như nói về tướng của kiết ái.
Trói buộc của sân: Là tất cả giận. Như nói về tướng của kiết giận. Trói buộc của si: Là tất cả si. Như nói về tướng của kiết vô minh
Tùy miên có bảy thứ: (1) Dục tham. (2) Sân. (3) Hữu tham. (4) Mạn. (5) Vô minh. (6) Kiến. (7) Nghi. Về tướng riêng của bảy tùy miên này đã nói trong kiết. Nhưng nên dựa vào bộ riêng của hành tướng nơi cõi. Tức phân biệt bảy thứ tùy miên như vậy. Nghĩa là tham nơi các dục, nên gọi là dục tham. Vì dục tham này tức là tùy miên, nên gọi là tùy miên dục tham. Tùy miên dục tham này chỉ có năm bộ của cõi dục là năm thứ, do kiến khổ đoạn trừ, cho đến do tu đạo đoạn trừ.
Tùy miên sân cũng chỉ có năm bộ của cõi dục tức là năm thứ. Tùy miên hữu tham chỉ có nơi cõi sắc, vô sắc, mỗi cõi đều có năm bộ là mười thứ. Do môn trong chuyển, do ngăn che tưởng giải thoát của tĩnh lự vô sắc, nên nói tham của hai cõi gọi là hữu tham.
Tùy miên mạn chung cho ba cõi, mỗi cõi đều có năm bộ thành mười lăm thứ. Tùy miên vô minh cũng như vậy.
Tùy miên kiến chung cho ba cõi, mỗi cõi đều có mười hai thứ thành ra ba mươi sáu thứ. Nghĩa là nơi cõi dục do kiến khổ đoạn trừ, đủ năm kiến. Kiến tập, diệt đoạn trừ chỉ có hai là tà kiến và kiến thủ. Kiến đạo đoạn trừ chỉ có ba thứ là tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tổng cộng là mười hai thứ. Hai cõi trên cũng như vậy là ba mươi sáu thứ.
Tùy miên nghi chung cho ba cõi, mỗi cõi đều có bốn bộ thành mười hai thứ, là do kiến khổ, tập, diệt, đạo đoạn trừ.
Trong đây, tùy miên dục tham, tùy miên sân chỉ có bộ riêng, không có hành tướng của cõi riêng biệt. Tùy miên hữu tham, nghi, mạn, vô minh có bộ của cõi riêng, không có hành tướng riêng. Tùy miên kiến có đủ bộ của cõi, hành tướng riêng, hành tướng riêng nghĩa là ngã và ngã sở.
Hành tướng chuyển gọi là hữu thân kiến. Hành tướng đoạn, thường chuyển gọi là biên chấp kiến. Không có hành tướng chuyển gọi là tà kiến. Hành tướng hơn hẳn chuyển gọi là kiến thủ. Hành tướng tịnh chuyển gọi là giới cấm thủ.
Nghĩa vi tế là nghĩa của tùy miên, vì lúc chúng hiện khởi thì khó nhận biết. Hoặc nghĩa tùy buộc là nghĩa của tùy miên, tức là tùy theo sự tiếp nối của thân tâm mà chuyển. Như đi trên khoảng không, thì bóng nơi dưới nước tức đi theo. Hoặc nghĩa theo đuổi là nghĩa của tùy miên, như dầu ở trong hạt mè, chất nhờn trong nắm tay. Hoặc nghĩa tùy tăng là nghĩa của tùy miên, nghĩa là đối với năm thủ uẩn, do tương ưng với đối tượng duyên nên tùy tăng. Nói tùy tăng nghĩa là tùy theo đối tượng duyên và môn tương ưng mà tăng trưởng.
Bảy thứ tùy miên như vậy đều do nơi cõi, hành tướng, bộ có sai biệt, nên thành chín mươi tám tùy miên.
Nghĩa là cõi dục do kiến khổ đoạn trừ đủ mười tùy miên, tức hữu thân kiến, biên chấp kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, nghi, tham, sân, mạn, vô minh. Kiến tập đoạn trừ có bảy tùy miên, trừ hữu thân kiến, biên chấp kiến, giới cấm thủ trong mười tùy miên ở trước. Kiến diệt đoạn trừ có bảy tùy miên cũng như vậy. Kiến đạo đoạn trừ có tám tùy miên, tức bảy tùy miên trước cộng thêm giới cấm thủ. Tu đạo đoạn trừ có bốn tùy miên, tức là tham, sân, mạn, vô minh.
Như vậy, ở cõi dục có ba mươi sáu tùy miên. Cõi sắc có ba mươi mốt tùy miên. Nghĩa là trừ năm bộ sân trong ba mươi sáu tùy miên của cõi dục. Cõi vô sắc cũng như vậy. Như thế nên có chín mươi tám tùy miên. Trong ấy tám mươi tám thứ do kiến đoạn trừ, mười thứ do tu đoạn trừ.
Có ba mươi ba tùy miên là biến hành. Nghĩa là trong mỗi mỗi cõi do kiến khổ, tập đoạn trừ các thứ kiến, nghi và vô minh bất cộng tương ưng với chúng. Số tùy miên còn lại đều không phải là biến hành.
Mười tám tùy miên là duyên nơi vô lậu. Nghĩa là trong mỗi mỗi cõi do kiến diệt, đạo đoạn trừ tà kiến, nghi và vô minh bất cộng tương ưng với chúng. Vì mười tám thứ này duyên nơi diệt, đạo, nên gọi là duyên nơi vô lậu, ngoài ra đều duyên nơi hữu lậu.
Ở đây, duyên nơi hữu lậu nghĩa là do tương ưng với đối tượng duyên nên tùy tăng. Duyên nơi vô lậu chỉ ở tụ mình, do tương ưng nên tùy tăng.
Có chín thứ là duyên nơi vô vi. Nghĩa là trong mỗi mỗi cõi, do kiến diệt đoạn trừ tà kiến, nghi và vô minh bất cộng tương ưng với chúng. Vì duyên nơi diệt đế nên gọi là duyên nơi vô vi. Ngoài ra đều là duyên nơi hữu vi.
Mười thứ tùy miên theo thứ lớp sinh khởi. Nghĩa là trước do vô minh nên đối với đế không hiểu rõ. Tức đối với khổ không mong muốn, cho đến đối với đạo cũng không mong muốn. Do không hiểu rõ nên thứ đến là dẫn sinh nghi. Nghĩa là vừa nghe hai phẩm tà chánh là mang tâm do dự, là khổ hay không phải khổ, cho đến là đạo hay không phải đạo. Từ do dự này dẫn sinh tà kiến. Nghĩa là gặp phải bạn ác, do nghe, suy nghĩ tà, nên sinh quyết định tà, cho là không có bố thí, không có yêu thích, không có cúng tế, cho đến nói rộng. Từ tà kiến này sinh hữu thân kiến, tức bác bỏ cho không có lý khổ trong năm thủ uẩn, nên chấp là có ngã, hoặc có ngã sở. Từ thân kiến, biên chấp kiến sinh, tức là chấp ngã có đoạn, có thường. Từ biên chấp kiến, giới cấm thủ sinh, cho biên chấp này là có thể tịnh. Từ giới cấm thủ dẫn sinh kiến thủ, cho có thể tịnh là hơn hết. Từ kiến thủ này dẫn sinh tham, nghĩa là từ trong kiến chấp ấy có tình yêu tiếc sâu nặng. Theo tham ái này, sau đấy thì dẫn sinh mạn. Nghĩa là từ trong kiến đã chấp trước sâu đậm rồi, thì ỷ thị sinh cao ngạo, khinh miệt người khác. Từ mạn ấy tiếp sau dẫn sinh giận dữ. Tức cậy vào kiến chấp của mình, đối với kiến chấp của người khác, tình không thể chấp nhận tất nên giận ghét. Hoặc ở nơi kiến chấp của mình trong phần vị lấy bỏ đã sinh khởi giận ghét. Mười thứ tùy miên theo thứ lớp như vậy.
Do ba nhân duyên khởi các phiền não: (1) Chưa đoạn trừ tùy miên. (2) Tác ý phi lý. (3) Cảnh giới hiện ở trước.
Do nhân nơi ba sức của cảnh giới gia hạnh nên phiền não hiện ở trước. Đây là nói đủ: Nghĩa là cũng có trường hợp chỉ dựa vào sức của cảnh giới mà phiền não khởi. Do làm não loạn khắp thân tâm cứ nối tiếp, nên gọi là phiền não. Đây tức là tùy miên.
Tùy phiền não: Tức các phiền não cũng gọi là tùy phiền não. Lại có tùy phiền não. Nghĩa là tâm sở nhiễm ô thuộc về tất cả hành uẩn khác, cùng với các phiền não đều thuộc về uẩn.
Đây lại là thế nào? Nghĩa là có vô lượng thứ, như: Cuống, kiêu, hại, não, hận, siểm v.v… như Thánh giáo đã nói.
Cuống: Là mê hoặc người khác.
Kiêu: Là nhiễm chấp nơi tự thân hiện có về sắc lực, dòng họ, tịnh giới, học rộng, biện tài v.v… rồi khiến tâm kiêu ngạo, tánh không biết suy xét nhìn quanh.
Hại: Là đối với kẻ khác có thể tạo bức bách, do đấy có thể hành những việc đánh, mắng.
Não: Chấp chặt những sự việc có tội, do đó không nhận lời can gián như lý.
Hận: Là ở trong sự việc của đối tượng duyên đã sinh tức giận , thường xuyên tìm xét, kết oán không bỏ.
Siểm: Là tâm cong vạy.
Sáu thứ như vậy đều từ phiền não sinh. Tướng cấu uế, thô gọi là cấu uế của phiền não. Trong sáu thứ cấu uế của phiền não này, hai thứ cuống, kiêu là đẳng lưu của tham, là chủng loại tham. Hai thứ hại và hận là đẳng lưu của sân, là chủng loại sân. Cấu uế của não là đẳng lưu của kiến thủ. Vì chấp kiến thức của mình là hơn nên gây não loạn mình và người khác. Cấu uế của siểm là đẳng lưu của các kiến. Do các kiến gia tăng là đa phần dua nịnh, tà vạy (siểm khúc). Như nói: “Dua nịnh tà vạy là các ác kiến”.
Những cấu uế này và triền cùng các nhiễm ô khác thuộc về hành uẩn. Các tâm sở pháp vì từ phiền não sinh, nên đều gọi là tùy phiền não.
Triền có mười thứ: Hôn trầm, thùy miên, trạo cử, ố tác, tật, xan, vô tàm, vô quý, phẫn, phú.
Thân tâm nối tiếp nhau, không có tánh gắng nhận, gọi là hôn trầm. Là nghĩa tối tăm, nặng nề, không thể nhận giữ. Thân tâm nối tiếp nhau khiến tâm tối tăm, yếu ớt, gọi là thùy miên. Thùy miên này được gọi là triền, vì chỉ dựa vào nhiễm ô.
Trạo cử: Là khiến tâm không vắng lặng. Tự thể ghét bỏ điều đã làm gọi là ố tác. Có tâm sở riêng duyên nơi ố tác sinh, nên lập tên ố tác, là nghĩa nhớ lại, hối hận. Ở đây thể của quả tạm đặt tên nhân. Như duyên nơi hư không gọi là không, duyên nơi bất tịnh gọi là bất tịnh.
Thế gian cũng lấy xứ sở để nói. Dựa nơi xứ, như nói: Tất cả thôn, ấp đến…. Ở đây, được lập tên triền cũng chỉ dựa vào nhiễm ô.
Hai tướng tật và xan, như đã nói trong kiết.
Đối với các công đức và người có đức, khiến tâm không cung kính, gọi là vô tàm (không hổ), tức là pháp đối ngược với cung kính.
Ở trong các tội không thấy sợ hãi gọi là vô quý (không thẹn). Có thể chiêu cảm nẻo ác, bị thiện tri thức quở trách nói là tội.
Trừ sân và hại, đối với tình, phi tình, khiến tâm phát khởi giận dữ, gọi là phẫn.
Che giấu tội lỗi của mình, gọi là phú.
Mười điều này trói buộc thân tâm nối tiếp nhau, nên gọi là triền.
Ở đây, hôn trầm, thùy miên, vô quý là đẳng lưu của vô minh. Ố tác là đẳng lưu của nghi. Vô tàm, xan, trạo cử là đẳng lưu của tham. Tật, phẫn là đẳng lưu của sân. Phú là đẳng lưu của vô minh và tham.
Hành tướng của các tâm sở pháp là vi tế. Mỗi mỗi nối tiếp, phân biệt hãy còn khó, huống chi nơi một sát-na cùng thời mà có. Người trí tinh tế, vi diệu, dựa vào lời Đức Phật đã nói, quán quả có sai biệt để nhận biết tánh của chúng khác nhau, rồi vì các người học tuyên nói không điên đảo. Người có trí tuệ yếu kém, chưa tự mình thực hiện công việc giải thích thuận hợp những lời Phật đã giảng nói, thế nên tâm bị mê muội, rồi bài bác, hoặc nói chỉ có ba thứ, hoặc cho là hoàn toàn không có.
Lậu có ba thứ: Dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Phiền não và triền của cõi dục, trừ vô minh, gọi là dục lậu. Có bốn mươi mốt thứ là ba mươi mốt tùy miên và mười triền. Phiền não và triền của cõi sắc, vô sắc, trừ vô minh, gọi là hữu lậu. Có năm mươi bốn thứ là ở hai cõi trên, mỗi cõi có hai mươi sáu tùy miên và hôn trầm, trạo cử, vì đồng là vô ký, vì ở nơi môn trong chuyển và vì dựa vào địa của định. Hai cõi kết hợp lập một tên là hữu lậu. Vô minh của ba cõi gọi là vô minh lậu, có mười lăm thứ. Do vô minh là gốc của các hữu nên lập riêng lậu. Do giữ lại khiến hữu tình trụ lâu nơi ba cõi. Do ngăn trở hướng đến sự giải thoát, nên gọi là lậu. Hoặc khiến lưu chuyển từ trời Hữu đảnh đến ngục Vô gián, nên gọi là lậu. Hoặc hữu lậu kia tiếp nối nhau ở sáu thứ cửa ngỏ bất tịnh tiết ra không cùng, nên gọi là lậu.
Bộc lưu có bốn thứ: Dục, hữu, kiến, vô minh. Trong dục lậu trừ kiến, gọi là bộc lưu dục, có hai mươi chín thứ. Trong hữu lậu trừ kiến, gọi là bộc lưu hữu, có ba mươi thứ. Các kiến của ba cõi gọi là bộc lưu kiến, có ba mươi sáu thứ. Vô minh bất cộng tương ưng với ba cõi gọi là bộc lưu vô minh, có mười lăm thứ làm trôi nổi, cướp đoạt các sự tốt đẹp của tất cả hữu tình, nên gọi là bộc lưu. Tức như nước nơi thác nước.
Ách có bốn thứ, như nói về bộc lưu. Hòa hợp hữu tình khiến ở nơi các nẻo, các loài, ở các địa thọ nhận khổ, nên gọi là ách. Là nghĩa hòa hợp, khiến thọ nhận vô số thứ khổ nhẹ, nặng.
HẾT QUYỂN THƯỢNG