LUẬN NHẬP A TỲ ĐẠT MA
Tác giả: A la hán Tắc Kiến Đà La
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN HẠ

Thủ có bốn thứ: (1) Dục thủ. (2) Kiến thủ. (3) Giới cấm thủ. (4) Ngã ngữ thủ.

Tức bộc lưu dục thêm vô minh, gọi là dục thủ. Có ba mươi bốn thứ là tham, sân, mạn, vô minh, mỗi thứ đều có năm, nghi có bốn, triền có mười. Bộc lưu hữu thêm vô minh, gọi là ngã ngữ thủ. Có bốn mươi thứ là tham, mạn, vô minh, mỗi thứ có mười, nghi có tám thứ và hôn trầm, trạo cử. Trong các kiến, trừ giới cấm thủ, số còn lại gọi là kiến thủ, có năm mươi thứ. Giới cấm thủ gọi là giới cấm thủ, có sáu thứ. Do nơi xứ riêng này là oán đối của Thánh đạo. Do cùng dối gạt cả hai chúng tại gia, xuất gia, nên ở trong năm kiến đã lập riêng thủ. Nghĩa là chúng tại gia do sự dối gạt này, nên chấp tự nhịn đói, chỉ hớp không khí và từ đỉnh núi cao gieo mình xuống v.v… là thiên đạo. Các chúng xuất gia, do sự dối gạt ấy nên chấp cho bỏ cảnh đáng yêu thích, được công đức của khổ hạnh, là được đạo tịnh.

Nghĩa củi là nghĩa của thủ. Tức có thể khiến lửa nghiệp đốt cháy nối tiếp nhau mà sinh trưởng. Như vì có củi nên lửa mới được cháy bùng. Như vậy, vì có phiền não nên nghiệp của hữu tình mới được sinh trưởng.

Lại, nghĩa mãnh liệt là nghĩa của thủ. Hoặc nghĩa buộc gói chặt là nghĩa của thủ. Như con tằm ở nơi kén tự trói buộc rồi chết.

Như vậy, hữu tình bị bốn thủ buộc chặt, trôi lăn trong sinh tử, mất hết tuệ mạng.

Sự trói buộc thân có bốn thứ: (1) Tham dục trói buộc thân. (2) Giận dữ trói buộc thân. (3) Giới cấm thủ trói buộc thân. (4) Chấp thân này có thật trói buộc thân. Năm bộ tham của cõi dục, gọi là sự trói buộc thân thứ nhất (Tham dục trói buộc thân). Năm bộ sân gọi là sự trói buộc thân thứ hai. Sáu giới cấm thủ gọi là sự trói buộc thân thứ ba. Mười hai kiến thủ gọi là sự trói buộc thân thứ tư. Các thứ triền trói buộc hữu tình, vì tự trói buộc lấy mình, nên gọi là trói buộc thân. Đây là nghĩa như lưới giăng vây buộc thân hữu tình.

Cái có năm thứ: (1) Cái tham dục. (2) Cái sân hận. (3) Cái hôn trầm thùy miên. (4) Cái trạo cử ố tác. (5) Cái nghi.

Năm bộ tham của cõi dục, gọi là cái thứ nhất. Năm bộ sân, gọi là cái thứ hai. Hôn trầm và thùy miên bất thiện của cõi dục, gọi là cái thứ ba. Trạo cử và ố tác bất thiện, gọi là cái thứ tư. Bốn bộ nghi của cõi dục, gọi là cái thứ năm. Do ngăn che Thánh đạo cùng lìa dục nhiễm và hai thứ căn thiện gia hạnh này, nên gọi là cái.

Trước đã nói các cõi, các nẻo, các sinh, các địa. Về sự việc thọ nhận khổ nên nói.

Thế nào là cõi (Giới), nẻo (Thú) sinh (Loài), địa?

Cõi có ba thứ: Cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc.

Cõi dục có hai mươi xứ: Là tám địa ngục lớn: (1) Đẳng hoạt. (2) Hắc thằng. (3) Chúng hợp. (4) Hào khiếu. (5) Đại hào khiếu. (6) Viêm nhiệt. (7) Đại Viêm nhiệt. (8) Vô gián. Cùng với bàng sinh, quỷ giới là mười. Người có bốn châu: (1) Thiệm bộ châu. (2) Thắng thân châu. (3) Ngưu hóa châu. (4) Câu lô châu. Có sáu trời Dục: (1) Tứ Đại vương chúng thiên. (2) Tam Thập Tam thiên. (3) Dạ Ma thiên. (4) Đỗ Sử Đa thiên. (5) Lạc Biến Hóa thiên. (6) Tha Hóa Tự Tại thiên. Hợp chung là hai mươi xứ.

Cõi sắc có mười sáu xứ: Tĩnh lự thứ nhất có hai xứ: Phạm Chúng thiên, Phạm Phụ thiên. Tĩnh lự thứ hai có ba tầng trời: (1) Thiểu Quang thiên. (2) Vô Lượng Quang thiên. (3) Cực Quang Tịnh thiên. Tĩnh lự thứ ba có ba tầng trời: (1) Thiểu Tịnh thiên. (2) Vô Lượng Tịnh thiên. (3) Biến Tịnh thiên. Tĩnh lự thứ tư có tám tầng trời: (1) Vô Vân thiên. (2) Phước Sinh thiên. (3) Quảng Quả thiên. (4) Vô Phiền thiên. (5) Vô Nhiệt thiên. (6) Thiện Hiện thiên. (7) Thiện Kiến thiên. (8) Sắc Cứu Cánh thiên. Hợp chung là mười sáu xứ.

Vì Đại Phạm, Vô Tưởng không có xứ sở riêng, nên không phải là mười tám.

Cõi vô sắc tuy không có xứ sở trên dưới nhưng có bốn thứ xứ sinh khác nhau: (1) Không vô biên xứ. (2) Thức vô biên xứ. (3) Vô sở hữu xứ. (4) Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Nẻo (Thú) có năm thứ: (1) Nại lạc ca (Địa ngục). (2) Bàng sinh. (3) Quỷ giới. (4) Trời. (5) Người.

Sinh (Loài) có bốn thứ: (1) Noãn sinh. (2) Thai sinh. (3) Thấp sinh. (4) Hóa sinh.

Địa có mười một thứ: Cõi dục, tĩnh lự vị chí, tĩnh lự trung gian, bốn tĩnh lự, bốn vô sắc, là mười một địa. Cõi dục và Hữu đảnh hoàn toàn là hữu lậu. Chín địa kia thì chung cả hữu lậu và vô lậu. Cõi, nẻo, sinh nói trước hoàn toàn là hữu lậu.

Trí có mười thứ: Pháp trí, loại trí, thế tục trí (Đẳng trí), tha tâm trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí và vô sinh trí.

Các hành của cõi dục và nhân của các hành kia diệt. Đạo gia hạnh, đạo thắng tấn, đạo vô gián, đạo giải thoát và trí vô lậu hiện có trong địa pháp trí, gọi là pháp trí. Từ thời vô thỉ đến nay, thường mang tâm chấp ngã, nay mới được thấy pháp, nên gọi là Pháp trí.

Các hành của cõi sắc, vô sắc và nhân của các hành ấy diệt. Đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát, thắng tấn và trí vô lậu hiện có trong địa loại trí, gọi là loại trí. Vì tùy theo pháp trí sinh khởi nên gọi là Loại trí.

Các tuệ hữu lậu gọi là Thế tục trí. Trí này phần nhiều ở nơi các sự việc của thế tục, như bình, áo v.v… chuyển, nên gọi là thế tục trí. Thế tục trí có hai thứ, là nhiễm ô, không nhiễm ô.

Nhiễm ô lại có hai thứ : (1) Tánh kiến. (2) Phi tánh kiến. Tánh kiến có năm loại: Hữu thân kiến, biên chấp kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ. Phi tánh kiến: Là tuệ tương ưng với nghi, tham, sân, mạn, vô minh, phẫn, hại v.v…

Không nhiễm ô cũng có hai thứ: (1) Thiện. (2) Vô phú vô ký. Vô phú vô ký: Nghĩa là không phải kiến, vì không suy lường, nên là tuệ và trí. Thiện: Như năm thức đều cùng có, cũng không phải kiến nên là tuệ và trí. Nếu ý thức đều cùng có, là chánh kiến thế tục, cũng là tuệ, cũng là trí.

Các định phát sinh trí, có thể nhận biết rõ về người khác hệ thuộc cõi dục, cõi sắc. Một phần vô lậu hiện tại giống như tâm tâm sở pháp gọi là Tha tâm trí. Trí này có hai thứ: (1) Hữu lậu. (2) Vô lậu. Hữu lậu: Là có thể nhận biết rõ tâm tâm sở pháp của kẻ khác hệ thuộc cõi dục, cõi sắc. Vô lậu có hai thứ: (1) Phẩm pháp trí. (2) Phẩm loại trí. Phẩm pháp trí: Nhận biết tâm tâm sở pháp của phẩm pháp trí. Phẩm loại trí: Nhận biết tâm tâm sở pháp của phẩm loại trí. Trí này không nhận biết sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành và quá khứ, vị lai thuộc về cõi vô sắc. Tất cả tâm tâm sở thù thắng của Bổ-đặc-già-la nơi căn địa đều không thể nhận biết.

Ở phần quả của năm thủ uẩn có trí vô lậu, tạo nên hành tướng vô thường, khổ, không, vô ngã chuyển, gọi là Khổ trí.

Về phần nhân của năm thủ uẩn, có trí vô lậu, tạo hành tướng nhân tập sinh duyên chuyển, gọi là Tập trí.

Ở nơi diệt kia có trí vô lậu, tạo hành tướng diệt, tịnh, diệu, ly chuyển gọi là Diệt trí.

Ở nơi đối trị kia được đạo Niết bàn, có trí vô lậu tạo hành tướng đạo như hành xuất chuyển, gọi là Đạo trí.

Có trí vô lậu dấy khởi suy nghĩ: Khổ ta đã nhận biết. Tập ta đã đoạn. Diệt ta đã chứng. Đạo ta đã tu. Cùng với hết thảy hành tướng chuyển gọi là Tận trí.

Có trí vô lậu dấy khởi suy nghĩ: Khổ ta đã nhận biết, không còn nhận biết nữa. Cho đến đạo ta đã tu, không còn phải tu nữa. Cùng với hành tướng vô sinh chuyển, gọi là Vô sinh trí.

Hai trí sau vì không suy lường, nên không phải là tánh kiến. Tha tâm trí chỉ là tánh kiến. Sáu trí còn lại là chung cả tánh kiến và phi tánh kiến. Thế tục trí chỉ là hữu lậu. Tha tâm trí chung cả hữu lậu, vô lậu. Tám trí còn lại chỉ là vô lậu. Diệt trí chỉ duyên nơi vô vi. Tha tâm trí, khổ, tập, đạo trí chỉ duyên nơi hữu vi. Năm trí còn lại duyên chung nơi hữu vi, vô vi. Khổ, tập trí chỉ duyên nơi hữu lậu. Diệt, đạo trí chỉ duyên nơi vô lậu. Sáu trí còn lại duyên chung nơi hữu lậu, vô lậu.

Pháp trí ở nơi sáu địa, là bốn tĩnh lự, tĩnh lự vị chí và trung gian. Loại trí ở nơi chín địa, là sáu địa trước và ba vô sắc dưới. Tha tâm trí ở nơi bốn địa là bốn tĩnh lự. Thế tục trí ở nơi tất cả địa. Phẩm pháp trí và sáu trí còn lại là ở nơi sáu địa. Phẩm loại trí thì ở nơi chín địa.

Nhẫn có tám thứ: Pháp trí nhẫn khổ, tập, diệt, đạo và loại trí nhẫn khổ, tập, diệt, đạo. Tám nhẫn này có thể dẫn sinh trí quyết định và tuệ thù thắng. Do nhẫn có thể đạt được lý của bốn Thánh đế như khổ v.v… nên gọi là nhẫn. Trong các nhẫn, tám nhẫn này chỉ là nhẫn quán sát pháp, là kiến và tuệ, không phải là tự tánh của trí.

Nghĩa quyết định là nghĩa của trí. Ý lạc suy lường của tám nhẫn này chưa dứt. Vì chưa có thể thẩm định, quyết đoán, nên không gọi là trí. Khổ pháp trí nhẫn cùng với mười tùy miên của cõi dục do kiến khổ đoạn trừ được cùng diệt thì khổ pháp trí được cùng sinh với sự đoạn trừ kia.

Nhẫn là đạo vô gián, trí là đạo giải thoát, cùng đối trị mười thứ tùy miên ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ. Như có hai người: Một người ở trong nhà đuổi giặc ra. Một người thì đóng cửa lại không cho chúng vào nữa. Khổ loại trí nhẫn cùng với mười tám thứ tùy miên của cõi sắc, vô sắc do kiến khổ đoạn trừ được cùng diệt, thì khổ loại trí cùng với sự đoạn trừ kia được cùng sinh. Phần còn lại như trước đã nói.

Bốn tâm như vậy có thể ở nơi khổ đế của ba cõi hiện quán. Nơi tập, diệt, đạo đều có bốn tâm, nên biết cũng như vậy. Mười sáu tâm này có thể ở nơi bốn đế của ba cõi hành hiện quán đoạn trừ tám mươi tám kiết do kiến đạo đoạn trừ đắc quả Dự lưu. Mười thứ tùy miên còn lại do tu đạo đoạn trừ. Nghĩa là cõi dục có bốn thứ, cõi sắc, cõi vô sắc, mỗi cõi có ba thứ, thành mười. Bốn thứ của cõi dục ví như bó lau được phân ra làm chín, nghĩa là từ thượng thượng cho đến hạ hạ. Đạo đối trị kia là vô gián, giải thoát cũng có chín phẩm. Tức là đạo của phẩm hạ hạ có thể đối trị tùy miên của phẩm thượng thượng. Cho đến đạo của phẩm thượng thượng có thể đối trị tùy miên của phẩm hạ hạ. Lúc sáu phẩm tùy miên đoạn hết là được quả Nhất lai. Khi chín phẩm tùy miên đoạn hết là được quả Bất hoàn.

Như cõi dục có bốn thứ được phân ra làm chín phần, cũng có chín phẩm là đạo vô gián, đạo giải thoát đều là chủ thể đối trị. Cõi sắc, vô sắc đều có bốn địa, trong mỗi mỗi địa chủ thể đối trị, đối tượng được đối trị đều có chín phẩm, nên biết cũng như vậy. Lần lượt đoạn trừ tùy miên của tám địa kia, cho đến khi đoạn hết phẩm hạ hạ của cõi Hữu đảnh là được quả A- la-hán. Ở giữa bốn quả, các đạo hiện có và kiến đạo ở trước, gọi là bốn hướng. Tùy theo ở nơi quả nào trước, gọi là hướng của quả đó.

Như vậy có tám Bổ-đặc-già-la là hành bốn hướng và trụ bốn quả. Như thế hướng quả là do phần riêng biệt của chủng tánh nên có sáu thứ, là chủng tánh của phàm phu độn căn, lợi căn. Nếu nhập nơi mười lăm khoảnh tâm của kiến đạo, gọi là Tùy tín hành và Tùy pháp hành, tức hai thứ này đã đến vị tu đạo. Nghĩa là từ tâm thứ mười sáu cho đến định kim cang dụ, gọi là Tín thắng giải và Kiến chí, tức hai thứ này đã đến vị vô học. Từ tận trí ban đầu, cho đến tâm sau cùng, gọi là Thời giải thoát và Bất thời giải thoát v.v… Đó là những chủng loại sai biệt của tâm sở nên có vô lượng thứ.

Vì dựa vào tâm mà có, nên gọi là tâm sở pháp, cũng như ngã sở. Tâm sở như vậy gọi là hành tương ưng.

Hành bất tương ưng là cùng với hành tương ưng này trái nhau. Nghĩa là các đắc v.v… Đắc là xưng nói pháp có, tức pháp của nhân có ba thứ: (1) Tịnh. (2) Bất tịnh. (3) Vô ký. Tịnh nghĩa là tín v.v… Bất tịnh nghĩa là tham v.v… Vô ký nghĩa là tâm biến hóa v.v… Nếu thành lập pháp này gọi là pháp có. Tức xưng nói pháp này là nhân nhất định, gọi là đắc được thành tựu. Nếu đắc không có thì lúc phiền não như tham v.v… hiện khởi ở trước, hàng hữu học đã không có tâm vô lậu, nên không phải là Thánh. Nếu phàm phu khởi tâm thiện, vô ký, bấy giờ nên gọi là kẻ đã lìa nhiễm. Lại, các Thánh so với các phàm phu không có đắc của Niết bàn, vì cùng giống nhau nên cùng gọi là phàm phu, hoặc cùng gọi là Thánh. Như bậc Pháp vương nói: “Khởi đắc thành tựu mười pháp vô học, nên gọi là Thánh, vĩnh viễn đoạn năm chi”, cho đến nói rộng.

Lại, như Đức Thế Tôn nói: “Bí-sô nên biết! Nếu có người thành tựu pháp thiện, bất thiện, Ta nhận thấy các loại hữu tình như vậy, pháp thiện, bất thiện trong tâm họ cùng nối tiếp được (Đắc) tăng trưởng vô biên”. Và Ngài còn nói như vầy: “Các ông Bí-sô, không nên so sánh về chỗ sự hơn, kém của hữu tình. Không nên vọng chấp về lượng cạn sâu nơi đức của các Bổ-đặc-già-la”, cho đến nói rộng.

Thế nên biết ngoài pháp nhất định có đắc thật. Đắc này có hai thứ: (1) Chưa được, đã mất, nay được. (2) Được rồi không mất, nay thành tựu.

Nên biết phi đắc là trái với đây. Vậy có đắc, phi đắc ở trong pháp nào? Tức ở nơi sự nối tiếp của mình và trong hai diệt thì có đắc, phi đắc, không phải là sự nối tiếp của người khác, vì không có pháp thành tựu ở thân người khác. Không phải là ở nơi không nối tiếp, vì không có sự thành tựu pháp phi tình. Cũng không phải là hư không, vì không có sự thành tựu hư không. Do đắc kia không có thì phi đắc cũng không có.

Đắc có ba loại: (1) Đắc như bóng theo hình. (2) Đắc như bò chúa dẫn đi trước. (3) Đắc như nghé con theo sau.

Pháp đắc thứ nhất phần nhiều như pháp vô phú vô ký. Pháp đắc thứ hai phần nhiều như lúc ở địa trên mất, sinh nơi cõi dục, lúc kiết sinh, đắc pháp thiện của cõi dục. Pháp đắc thứ ba phần nhiều như tuệ do văn, tư tạo thành v.v… trừ đắc cùng sinh và đắc còn lại.

Trong đây, nên nêu tóm tắt về Tỳ-bà-sa. Nghĩa là sắc thiện, bất thiện thuộc cõi dục, không có đắc của đời trước, chỉ có đắc cùng sinh và đắc theo sau, trừ thông tuệ của mắt, tai và tâm có thể biến hóa, cùng trừ phần ít, hoặc là đường oai nghi, hoặc là xứ công xảo, người thường xuyên hành tập. Tất cả pháp vô phú vô ký khác và biểu sắc của hữu phú vô ký chỉ có đắc cùng sinh. Vì uy lực yếu kém nên không có đắc trước sau. Các pháp khác, mỗi mỗi pháp đều có đắc trước sau và cùng sinh.

Đắc của pháp thiện chỉ là thiện. Đắc của pháp bất thiện chỉ là bất thiện. Đắc của pháp vô ký chỉ là vô ký. Đắc của pháp cõi dục chỉ là cõi dục. Đắc của pháp cõi sắc chỉ là cõi sắc. Đắc của pháp cõi vô sắc chỉ là cõi vô sắc. Đắc của pháp vô lậu thì chung cho cả ba cõi và pháp vô lậu. Pháp vô lậu nghĩa là đạo đế, ba vô vi, đều cùng không hệ thuộc. Đắc của đạo đế chỉ là vô lậu. Đắc của phi trạch diệt là chung cả ba cõi. Đắc của trạch diệt tức đạo lực của cõi sắc, cõi vô sắc khởi lên, là gắn liền với cõi đó. Sức của đạo vô lậu khởi lên là vô lậu.

Đắc của pháp vô lậu nói chung có bốn thứ. Đắc của pháp học chỉ là học. Đắc của pháp vô học chỉ là vô học. Đắc của pháp phi học phi vô học có ba thứ pháp phi học phi vô học, nghĩa là các hữu lậu và hữu lậu vô vi cùng đắc của phi trạch diệt chỉ có phi học phi vô học. Đắc của trạch diệt do sức của đạo học khởi, chỉ là học. Sức của đạo vô học khởi chỉ là vô học. Sức của đạo thế gian chỉ là phi học phi vô học. Đắc của pháp do kiến đoạn trừ chỉ là kiến đoạn trừ. Đắc của pháp do tu đoạn trừ chỉ là tu đoạn trừ. Đắc của pháp không đoạn trừ có hai thứ: Là do tu đoạn trừ và không đoạn trừ. Pháp không đoạn trừ nghĩa là đạo đế và vô vi.

Đắc của đạo đế chỉ là không đoạn trừ. Đắc của phi trạch diệt chỉ là tu đoạn trừ, vì không nhiễm ô, vì là hữu lậu. Đắc của trạch diệt là sức của đạo thế gian khởi, chỉ là tu đạo đoạn. Sức của đạo vô lậu khởi chỉ là không đoạn.

Tất cả phi đắc đều chỉ thuộc về tánh vô phú vô ký, không phải như đắc trước có nghĩa sai biệt. Nhưng pháp quá khứ, vị lai, mỗi mỗi pháp đều có phi đắc của ba đời. Pháp hiện tại không có phi đắc của hiện tại, vì tánh đắc cùng với tánh phi đắc là trái nhau. Không có pháp hiện tại có thể thành tựu mà không thành tựu. Nhưng có phi đắc của quá khứ, vị lai. Cõi dục, sắc, vô sắc và pháp vô lậu, mỗi mỗi thứ đều có phi đắc của ba cõi.

Không có phi đắc là vô lậu, do trong phi đắc có tánh phàm phu. Như nói: Thế nào là tánh phàm phu? Nghĩa là không được Thánh pháp. Không được tức là tên khác của phi đắc. Lại, các phi đắc chỉ là tánh vô ký, nên không phải là vô lậu. Đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư, nên tâm tâm sở của địa nơi tĩnh lự thứ tư diệt, có pháp bất tương ưng gọi là định vô tưởng. Tuy diệt tất cả tâm tâm sở pháp nhưng khởi định này, chuyên là trừ tưởng, nên gọi là vô tưởng. Như tha tâm trí, định vô tưởng này là thiện, thuộc về tĩnh lự thứ tư, chỉ không phải là Thánh. Trong sự nối tiếp đã khởi tưởng cầu giải thoát, nên khởi hiện định này. Bậc Thánh đối với định ấy, như tưởng về nẻo ác, thâm tâm chán lìa. Ở đây, chỉ là thuận định thọ. Nghĩa là thuận theo thứ sinh thọ, là gia hạnh đắc, không phải là lìa nhiễm đắc.

Định diệt nghĩa là đã lìa nhiễm của vô sở hữu xứ, tâm tâm sở pháp của Hữu đảnh diệt, có pháp bất tương ưng có thể khiến cho đại chủng bình đẳng nối tiếp, nên gọi là định diệt, là thuộc về gia hạnh thiện của địa Hữu đảnh. Hoặc thuận theo thứ sinh thọ, hoặc thuận theo hậu thứ thọ, hoặc thuận theo bất định thọ. Khởi hiện định này rồi, chưa được dị thục liền nhập Niết bàn, nên là bất định thọ.

Định này có thể chiêu cảm dị thục của bốn uẩn trong địa Hữu đảnh, vì cõi kia là vô sắc. Thánh giả có thể khởi hiện không phải là các phàm phu, tức do sức của Thánh đạo mới khởi định ấy. Thánh giả vì cầu được hiện pháp lạc trụ nên khởi định này. Phàm phu đối với định ấy thì sợ hãi về đoạn diệt, do không có sức của Thánh đạo, nên không thể khởi. Thánh giả đối với định này do gia hạnh đắc, không phải là lìa nhiễm đắc. Chỉ có Đức Phật Thế Tôn đối với định diệt này gọi là lìa nhiễm đắc. Lúc được tận trí đầu, đã ở nơi định này có thể khởi tự tại, nên gọi là đắc. Công đức của chư Phật không do gia hạnh mà tùy theo tâm mong muốn, tức thì khởi hiện ở trước. Nếu sinh trong cõi trời vô tưởng hữu tình, có pháp có thể khiến tâm tâm sở diệt, gọi là sự vô tưởng, là vật thực có, là quả dị thục của định vô tưởng, gọi là dị thục sinh, thuộc về tánh vô ký. Tức trong trời quảng quả có một xứ thù thắng như tĩnh lự trung gian, gọi là Vô tình thiên, lúc sinh, lúc chết đều cùng có tâm tưởng. Vì trung gian không có, nên lập tên Vô tưởng. Lúc vị trời kia sắp chết, như giấc ngủ lâu khi thức day thì trở lại khởi tâm tưởng. Khởi rồi không lâu thì mạng chung, sinh ở cõi dục. Người sắp sinh nơi cõi dục kia tất có thuận với nghiệp quyết định của hậu thứ thọ thuộc cõi dục. Như người sắp sinh ở châu Bắc-câu-lô kia tất có thể chiêu cảm nghiệp sinh lên cõi trời.

Nghiệp trước đã dẫn phát nhân của sáu xứ nối tiếp không gián đoạn. Dựa vào nay nên thiết lập bốn thứ sinh trong năm nẻo. Đó gọi là mạng căn, cũng gọi là thọ mạng, nên Đối pháp nói: Thế nào là mạng căn? Nghĩa là thọ mạng của ba cõi. Thọ mạng này có thật thể, có thể duy trì noãn, thức. Như Già-tha nói:

Thọ, noãn cùng với thức

Lúc ba pháp bỏ thân.

Đã bỏ thân cứng ngã

Như cây không suy biết.

Khế kinh cũng nói: Thọ nhận dị thục rồi gọi là Na-lạc-ca, cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, nên biết cũng như thế. Nếu mạng căn khác thì không có pháp riêng, mà thuộc về căn tánh ở khắp cả ba cõi. Trong một thời kỳ nối tiếp không gián đoạn, có thể dựa vào sự thiết lập bốn sinh trong năm nẻo. Sinh nơi cõi vô sắc, khởi từ tâm thiện nhiễm ô của địa trên, hoặc khi khởi tâm vô lậu của địa dưới, thì dựa vào sự thiết lập nào? Hóa sinh nơi nẻo trời, lúc khởi thiện, nhiễm ô, tức nên gọi là chết? Nếu khởi vô ký, tức nên gọi là sống? Bác bỏ cho không có mạng căn tức có lỗi lớn này.

Các loại hữu tình đồng tạo sự nghiệp, đồng là nhân của sự ưa muốn, nên gọi là Chúng đồng phận. Chúng đồng phận này lại có hai thứ: (1) Không sai biệt. (2) Có sai biệt. Không sai biệt: Nghĩa là các hữu tình đều có ngã ái, đồng nhờ vào thức ăn, sự ưa muốn giống nhau. Nhân bình đẳng này được gọi là chúng đồng phận. Bên trong mỗi mỗi thân đều riêng có một. Có sai biệt: Nghĩa là các hữu tình nơi cõi, địa, nẻo, sinh, chủng tánh, nam nữ, cận sự, Bí-sô, học, vô học v.v…, theo chủng loại có sai biệt, trong mỗi mỗi thân đều có đồng sự nghiệp, cùng với nhân ưa muốn nhất định gọi là chúng đồng phận. Nếu không có chúng đồng phận này thì Thánh không phải là Thánh, cùng như ngôn thuyết của thế tục nên đều tạp loạn.

Các tánh phàm phu và đồng phận phàm phu có gì sai biệt? Vì đồng nhân ưa muốn v.v… nên gọi phàm phu kia là đồng phận.

Tánh phàm phu: Nghĩa là có thể tạo tất cả nhân không có nghĩa lợi. Như Khế Kinh nói: Bí-sô nên biết! Ta nói ngu phu không đồng với phàm phu. Không có phần ít nghiệp ác bất thiện nào mà chúng không thể gây tạo. Lại như Đức Thế Tôn nói: Nếu đến trong người thì được đồng phận của người không phải là tánh phàm phu, do nơi lúc chết, sống có nghĩa bỏ và được. Vì vậy, tánh phàm phu khác với đồng phận.

Lúc các pháp sinh là đã có lực của nhân bên trong, khiến pháp kia đạt được đều có công năng riêng. Tức nhân bên trong này gọi là tướng sinh. Nghĩa là nhân sinh pháp, gồm có hai thứ: (1) Trong. (2) Ngoài. Trong là tướng sinh. Ngoài là sáu nhân, hoặc là tánh của bốn duyên. Nếu không có tướng sinh thì các pháp hữu vi tức nên như hư không v.v…, tuy có đủ nhân duyên bên ngoài cũng không có nghĩa sinh. Hoặc tức nên hư không v.v… cũng có nghĩa có thể sinh, thành tánh hữu vi, là lỗi lầm lớn. Do đó nên biết, có tướng sinh riêng, có thể dẫn đến quả riêng.

Tạm thời trụ nơi nhân gọi là tướng trụ. Nghĩa là nơi pháp hữu vi lúc tạm trụ đều có uy lực, có thể dẫn đến quả riêng khiến tạm thời trụ. Nhân bên trong của uy lực dẫn đến quả riêng này gọi là tướng trụ. Nếu không có tướng trụ ấy, thì các pháp hữu vi trong lúc tạm trụ, tức nên cũng không thể dẫn đến quả riêng. Do vậy nên biết có tướng trụ riêng.

Lão, nghĩa là sự suy tổn nơi công năng dẫn đến quả, khiến cho công năng kia không thể lần nữa dẫn đến quả riêng. Nghĩa là pháp hữu vi nếu không có tưởng khác thì công năng bị suy tổn, do duyên gì mà không thể dẫn đến quả riêng, rồi lại không dẫn nữa? Đã dẫn rồi, lại dẫn nữa, tức nên thành vô cùng. Nếu như vậy lại nên không phải là tánh sát-na. Do đấy nên biết riêng có tướng khác.

Vô thường, nghĩa là công năng gây tổn hại rồi, tức khiến pháp hiện tại nhập nơi nhân quá khứ. Nghĩa là có pháp riêng gọi là tướng diệt, khiến từ hiện tại rơi vào quá khứ. Nếu không có tướng diệt này, thì pháp tức nên không diệt. Hoặc hư không v.v… cũng có nghĩa diệt. Tướng hữu vi của bốn hữu vi ấy, nếu có bốn tướng hữu vi này nên gọi là hữu vi, không phải là hư không v.v… Nhưng Đức Thế Tôn nói: Có tướng hữu vi của ba hữu vi. Hữu vi sinh khởi cũng có thể nhận biết rõ. Tận, trụ, dị cũng có thể nhận biết rõ. Vì được hóa sinh nên nhàm chán hữu vi. Như chỉ rõ hắc nhĩ cùng với cát tường kết hợp. Hai tướng trụ, dị hợp lại nói là một. Thế nên nhất định có bốn tướng hữu vi. Không phải tức đối tượng tướng là thể của pháp hữu vi. Vì nếu tức đối tượng tướng là thể của pháp hữu vi, tất như thể của đối tượng tướng cùng với chủ thể tướng là một, và chủ thể tướng cũng nên lần lượt không khác. Nếu như vậy thì khi các pháp diệt tức nên sinh, lúc sinh tức nên diệt, hoặc hoàn toàn không sinh.

Bốn tướng gốc này là hữu vi, như pháp của đối tượng tướng có bốn tùy tướng là sinh sinh, cho đến diệt diệt. Nhưng không phải là vô cùng, do bốn tướng gốc này, mỗi tướng đều có tám pháp tùy tướng của tướng gốc. Vì chỉ có thể mỗi tướng sinh một. Nghĩa là lúc pháp sinh thì cùng với chín pháp tự thể kia đều khởi. Tự thể là một tướng và tám tùy tướng. Trong tướng gốc sinh, trừ tự thể kia, tức sinh ra tám pháp còn lại. Trong tùy tướng sinh thì ở trong chín pháp chỉ sinh ra từ sinh gốc, vì uy lực yếu kém. Tướng trụ, dị, diệt, nên biết cũng như vậy. Tướng gốc dựa vào pháp, tùy tướng dựa nơi tùy tướng. Vì pháp nhân nơi tướng, nên có được tác dụng. Tướng nhân nơi tùy tướng nên có được tác dụng.

Thế nào là tác dụng? Nghĩa là sinh, trụ, dị, diệt.

Đối tượng sinh: Nghĩa là công năng dẫn đến quả, nên thể của pháp hữu vi tuy luôn có nhưng dụng thì không thường còn. Chỉ tạm nhờ sức của nhân trong ngoài của bốn tướng ấy mà dụng đươc thành, nên gọi là danh thân, cú thân, văn thân v.v… Nghĩa là dựa vào ngôn ngữ sinh khởi như trí mang theo nghĩa và ảnh tượng để hiện bày. Chủ thể giải giảng (Năng thuyên) về tự nghĩa gọi là danh cú văn, tức là đề mục khác của tưởng chương tự. Như nhãn thức v.v… dựa vào mắt v.v… sinh, là nghĩa mang theo sắc v.v… và ảnh tượng để hiện bày. Danh v.v… của chủ thể phân biệt rõ về tự cảnh cũng như vậy. Không phải tức ngôn âm gần nơi nghĩa của chủ thể giảng giải. Đừng cho khi nói lửa liền bị cháy ở miệng. Tức cần dựa vào lời nói thì tên gọi như lửa v.v… mới sinh, do tên gọi như lửa v.v… giải thích rõ về nghĩa của lửa v.v…

Thuyên, nghĩa là có thể ở nơi nghĩa làm rõ khiến sinh tuệ hiểu biết của người khác, không phải cùng với nghĩa, vì âm thanh có chất ngại.

Các nhà Ký luận chấp âm thanh là thường còn. Vì lý không thành, tức không nên lìa ngoài ba thứ: Danh, cú, văn này để có thể chấp có pháp là chủ thể giảng giải về nghĩa. Nhưng chỗ giống nhau của bốn thứ pháp là đồng một tướng: (1) Âm thanh. (2) Danh. (3)Nghĩa. (4) Trí.

Trong đây, danh là tưởng như sắc v.v…  là nghĩa rốt ráo của chủ thể giảng giải. Như nói: Bài tụng: “Các ác chớ làm v.v…”. Thế gian cũng nói: “Đề-bà-đạt-đa lùa bò trắng đến, vắt lấy hết sữa v.v…”.

Văn tức là hợp nhất các chữ lại v.v… Ba thứ này đều tập hợp riêng theo đồng loại, nói là Thân. Như bậc Đại Tiên nói: “Bí-sô nên biết! Như Lai xuất hiện ở thế gian nên có danh thân, cú thân, văn thân, có thể nhận biết rõ. Nghĩa là ý nói uẩn, xứ, giới của đế thật. Các pháp như quả Sa-môn duyên khởi v.v… là danh, cú, văn thân”.

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Như Lai đã được các thứ danh, cú, văn thân kia”. Nghĩa là ý nói Như Lai đạt được các thứ pháp bất cộng của Phật như danh, cú, văn thân v.v… kia. Tức nghĩa loại có sai biệt trong đây, là cú nghĩa của các hành, đều như đây nên biết.

Cú nghĩa của thức: Tức phân biệt nhận biết chung về sự việc nơi cảnh như sắc v.v… gọi là thức. Nghĩa là ở trong sáu thứ cảnh như sắc v.v…, do sự giúp đỡ của các căn như mắt v.v… nên khởi tác dụng hiện tại. Chỉ phân biệt chung về sự cảnh như sắc v.v…, gọi là thức. Nếu có thể phân biệt về tướng sai biệt, tức gọi là các tâm sở pháp như thọ v.v… Thức không có dụng kia, chỉ làm nơi nương dựa. Dụng của thức chỉ ở nơi đời hiện tại có một khoảnh sát-na để có thể phân biệt nhận biết. Thức này cũng gọi ý, cũng gọi là tâm, cũng là nêu đặt bản sự của hữu tình, ở nơi cảnh như sắc v.v… phân biệt nhận biết, là dụng.

Do căn cảnh riêng khác nên thiết lập sáu thức, gọi là nhãn thức cho đến ý thức. Trong kinh Đức Phật đã tự nói về tướng của thức kia. Nghĩa là do có thể phân biệt nhận biết nên lập tên thức. Vì vậy nên biết, phân biệt nhận biết là tướng.

Trước ở trong phần xét chọn tướng hữu vi đã nói về nhân của pháp sinh gồm có hai thứ: (1) Trong. (2) Ngoài. Trong là tướng sinh, ngoài là sáu nhân. Hoặc là tánh của bốn duyên. Nay nên xét chọn.

Thế nào là nhân duyên? Nhân có sáu thứ: (1) Nhân tương ưng. (2) Nhân câu hữu. (3) Nhân đồng loại. (4) Nhân biến hành. (5) Nhân dị thục. (6) Nhân năng tác.

Tâm tâm sở pháp lần lượt tương ưng với nhau, đồng nhận lấy một cảnh, gọi là Nhân tương ưng. Như tâm cùng với thọ v.v… Thọ v.v… cùng với thọ v.v.. Thọ v.v… lại cùng với tâm. Đều trừ tự tánh của chúng.

Các pháp hữu vi lại cùng làm quả lẫn nhau. Hoặc đồng một quả, gọi là Nhân câu hữu, như chủ thể tướng, đối tượng tướng của các đại chủng. Tâm tâm tùy chuyển lại cùng hướng về nhau.

Hai nhân riêng: Như các thương nhân, nhờ ra sức hỗ trợ nhau, nên có thể vượt qua chặng đường nguy hiểm, đó là Nhân câu hữu. Các thức ăn uống đều lần lượt được dùng là nghĩa đồng, là Nhân tương ưng.

Tâm tùy chuyển: Nghĩa là các tâm sở và các tĩnh lự, luật nghi vô lậu, các tướng hữu vi, vì những pháp ấy đều cùng có với tâm, gắn vào một đời, một khởi, một trụ, một diệt, một quả, một đẳng lưu, một dị thục, đồng nhân thiện, bất thiện, vô ký. Do mười nhân này nên gọi là tâm tùy chuyển. Các pháp của đời trước thuộc tự bộ, tự địa, như pháp chủng tử cùng với pháp sau tương tợ là Nhân đồng loại. Các pháp biến hành của đời trước kia thuộc tự địa, cùng với pháp nhiễm của đời sau, là Nhân biến hành. Tất cả pháp bất thiện, thiện hữu lậu cùng với dị thục của mình làm Nhân dị thục. Lúc các pháp sinh, trừ tự tánh của chúng, lấy tất cả pháp làm Nhân năng tác, hoặc chỉ là không chướng ngại, hoặc có thể sinh.

Sáu nhân như vậy đều lấy tất cả pháp hữu vi làm quả, vì là đối tượng sinh. Nghĩa là nhân tương ưng, nhân câu hữu được quả Sĩ dụng. Do uy lực này, nên quả kia được sinh. Đây gọi là sĩ dụng, kia gọi là quả.

Nhân đồng loại, nhân biến hành được quả Đẳng lưu. Vì quả giống với nhân, nên nói là đẳng. Vì từ nhân sinh nên lại nói là lưu. Quả tức đẳng lưu, nên gọi là quả Đẳng lưu.

Nhân dị thục được quả Dị thục. Vì quả không giống nhân nên nói là dị thục. Nghĩa là vì thành thục, có thể thọ dụng. Quả tức dị thục nên gọi là quả dị thục, chỉ thuộc về số hữu hình, là tánh vô phú vô ký.

Nhân năng tác được quả tăng thượng. Do sức tăng thượng này nên quả kia được sinh. Như nhãn căn v.v… đối với nhãn thức v.v… và như nông phu v.v… đối với sự việc gieo cấy thu hoạch v.v… Do tăng thượng trước pháp sau được sinh. Quả của tăng thượng gọi là quả tăng thượng.

Trạch diệt vô vi gọi là quả Ly hệ. Quả này do đạo đạt được, không phải từ đạo sinh. Quả tức lìa mọi hệ thuộc (Ly hệ), gọi là quả Ly hệ.

Duyên có bốn thứ: Nhân duyên, Đẳng vô gián duyên, Sở duyên duyên và Tăng thượng duyên.

Ngoại trừ nhân năng tác, năm nhân còn lại gọi là Nhân duyên. Tâm tâm sở pháp trong quá khứ, hiện tại, trừ tâm sau cùng v.v… của A-la-hán, gọi là Đẳng vô gián duyên. Tất cả pháp gọi là Sở duyên duyên. Tánh của nhân năng tác gọi là Tăng thượng duyên.

Dung chứa vật có chướng ngại là tướng của hư không. Nhờ ở sức tăng thượng này nên vật kia được sinh, khả năng có đối tượng dung nạp là tánh của hư không. Nếu không có tánh này thì các vật có chướng ngại, tức nên không được sinh, vì không có chỗ dung chứa. Như Đức Thế Tôn nói: Phạm chí nên biết! Gió dựa vào hư không. Bà-la-môn nói: Hư không dựa vào đâu? Đức Phật lại bảo: Ông hỏi phi lý. Vì hư không không sắc, không thấy, không đối, thì nên dựa vào chỗ nào? Nhưng có hư không sáng tỏ, có thể hiểu được, nên biết là thật có hư không vô vi. Thể này nếu không có thì gió dựa vào đâu để trụ? Như nói vô sắc v.v… thì lời nói dựa vào đâu? Nhân có sáng tỏ thì phân biệt nhận biết những thứ gì? Nhận biết rõ về lông rùa v.v… vì không nhân nơi gì để so sánh.

Các khổ vĩnh viễn đoạn trừ gọi là trạch diệt. Thế nào là các khổ? Là các sự sống, chết. Như Đức Thế Tôn nói: “Bí-sô nên biết! Các hữu nếu sinh tức nói là khổ”. Các hữu tức là tên riêng của sinh tử. Hữu nếu không sinh, gọi là khổ vĩnh viễn đoạn trừ. Như đê ngăn nước, như vách tường chắn gió, khiến khổ không sinh, gọi là trạch diệt.

Trạch nghĩa là lựa chọn, tức là tuệ thiện thù thắng, là ở nơi bốn Thánh đế thường xuyên lựa chọn, phân biệt. Vì khổ kia đã được diệt, nên lập tên Trạch diệt. Trạch diệt này tùy theo thể của đối tượng đoạn có vô lượng, do số lượng của pháp nơi đối tượng đoạn là vô biên. Nếu thể là một, thì đạo ban đầu đã đạt được, tu các đạo sau tức trở nên vô dụng. Nếu nói lần đầu chứng đắc phần ít, không phải toàn phần, tức một thể diệt, nên có nhiều phần. Một thể có nhiều phần là trái với lý. Tùy theo pháp hữu lậu nên có từng ấy số lượng. Trạch diệt vô vi nên biết cũng như vậy.

Nói như vậy là tốt, vì hợp với chánh lý. Ở đây tùy thuận nơi đạo nên lập riêng tám mươi chín thứ. Tùy theo đoạn biến tri để lập thì có chín thứ. Nếu tùy theo năm bộ để lập tức có năm thứ.

Lại nữa, tùy theo quả có sai biệt lập chung bốn thứ, nghĩa là Dự lưu v.v… Do giới (cõi) đoạn, lìa, diệt, nên lập riêng ba thứ. Do đoạn trừ khổ, tập và hữu dư y, vô dư y có sai khác mà lập chung hai thứ. Căn cứ theo sinh tử được đoạn trừ lập chung là một.

Như vậy, trạch diệt có nhiều tên khác, nghĩa là tận, ly, diệt, Niết-bàn v.v… Như Nhân Kinh nói: Bí-sô nên biết! Bốn uẩn vô sắc và nhãn, sắc v.v…, gọi chung là người. Trong đó, giả tưởng nói là hữu tình, cũng gọi là ý sinh, cũng gọi là người, Ma-nạp-bà v.v… Nơi số người ấy tự cho là mắt của Ta v.v… trông thấy sắc v.v… rồi phát khởi vô số ngôn luận của thế tục. Nghĩa là Tôn giả này có tên như vậy, tộc họ như vậy, cho đến nói rộng.

Bí-sô nên biết! Điều ấy chỉ có tưởng, chỉ có ngôn thuyết. Các pháp như vậy đều là vô thường, hữu vi, duyên sinh, do đấy nên khổ. Nghĩa là lúc sinh khổ, trụ v.v… cũng khổ. Ở đây các khổ đã vĩnh viễn đoạn trừ rốt ráo. Tức trừ bỏ, nhổ sạch, lìa hết nhiễm, hoàn toàn vắng lặng, ẩn mất. Các pháp khác không nối tiếp khởi nữa, gọi là vĩnh viễn không sinh. Đây là sự tĩnh diệu tột cùng, nghĩa là tất cả chỗ nương dựa đều đã trừ bỏ, ái hết là Niết-bàn lìa diệt.

Nói tất cả chỗ nương dựa đã trừ bỏ: Nghĩa là trong diệt này là đã vĩnh viễn lìa xả bỏ tất cả khổ của năm thủ uẩn.

Nói ái hết: Tức là trong diệt này đã diệt hết các ái. Được diệt này là vĩnh viễn lìa bỏ pháp nhiễm, nên gọi là lìa. Chứng diệt này rồi, thì các khổ đều dứt hết, nên gọi là diệt. Chứng diệt này xong, tức tất cả tai họa nơi lửa phiền não đều dập tắt, nên gọi là Niết-bàn.

Phi trạch diệt: Nghĩa là có pháp riêng hoàn toàn ngăn ngại pháp vị lai sinh, đây chỉ do thiếu duyên, không phải do lựa chọn mà được. Như mắt cùng với ý lúc chuyên chú vào một sắc, tức các thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc v.v… khác đều từ bỏ. Năm thức thân v.v… khi duyên nơi cảnh giới kia cũng như thế. Do đạt được sự diệt này nên có thể vĩnh viễn ngăn chận, trụ nơi đời vị lai là hoàn toàn không sinh. Duyên thiếu cũng do uy lực diệt này, nên phi trạch diệt quyết định là thật có. Như Đức Thế Tôn nói: “Nếu nơi bấy giờ, lạc thọ hiện ở trước, thì hai thọ kia liền diệt”.

Pháp kia nói là diệt: Nghĩa là nếu trừ sự diệt này thì là gì? Nhất định không phải là vô thường và trạch diệt.

Lại như nơi Khế kinh nói: Bí-sô nên biết! Nếu đắc quả Dự lưu thì đã diệt hết địa ngục, đã diệt hết quỷ giới và đã diệt hết bàng sinh. Nói diệt hết ở đây là phi trạch diệt. Vì bấy giờ pháp dị thục chưa được trạch diệt.

Vì người mới tu tập nên yêu thích siêng học, lìa các thứ hỏi đáp, nên lược tạo ra Luận này. Những người chưa nhận biết khắp tướng sâu kín của A-tỳ-đạt-ma, đã theo ý mình, gom góp các nhóm hý luận đặt để ở trước, vọng tạo dựng các vấn nạn sai lạc nhằm cùng hủy báng. Những người kia tức đã hủy báng chánh giáo của Đức Phật đã giảng nói. Như Đức Thế Tôn nói: “Có hai hạng người hủy báng chánh giáo của Phật: (1) Không tin sinh ra ganh ghét. (2) Tuy tin nhưng vẫn thọ trì pháp ác”.

HẾT – QUYỂN HẠ

Pages: 1 2