LUẬN A TỲ ĐÀM CAM LỘ VỊ
Tác giả: Tôn giả Cù Sa (Diệu Âm)
Hán dịch: Dịch vào đời Tào Ngụy (Mất tên người dịch)
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ.

 

QUYỂN HẠ

Phẩm thứ 11: TRÍ

Mười trí: Pháp trí, vị tri trí (Loại trí), đẳng trí, tri tha nhân tâm trí (Tha tâm trí), khổ trí, tập trí, tận trí, đạo trí, diệt trí, và vô sinh trí.

Thế nào là pháp trí? Là trí vô lậu trong các hành khổ thuộc cõi dục. Trí vô lậu trong các hành tập thuộc cõi dục. Trí vô lậu trong các hành tận (Diệt) thuộc cõi dục. Vì các hành đạo đoạn trừ phiền não thuộc cõi dục, là trí vô lậu trong đạo và trí vô lậu trong địa của pháp trí. Đó gọi là pháp trí.

Thế nào là vị tri trí? Là trí vô lậu trong các hành khổ thuộc cõi sắc, vô sắc. Trí vô lậu trong các hành tập thuộc cõi sắc, vô sắc. Trí vô lậu trong các hành tận thuộc cõi dục. Vì các hành đạo đoạn trừ phiền não thuộc cõi sắc, vô sắc, là trí vô lậu trong đạo và trí vô lậu trong địa của vị tri trí. Đó gọi là vị tri trí.

Thế nào là đẳng trí? Tất cả trí tuệ hữu lậu hoặc là thiện, bất thiện, vô ký. Đó gọi là đẳng trí.

Thế nào là tri tha nhân tâm trí? Do sức tư duy trong thiền nên nhận biết được tâm tâm số pháp của người khác nơi cõi dục. Đó gọi là tri tha nhân tâm trí

Thế nào là khổ trí? Là trí vô lậu quán về vô thường, khổ, không, phi ngã (vô ngã) trong năm thọ ấm. Đó gọi là khổ trí.

Thế nào là tập trí? Là trí vô lậu quán về tập nhân hữu duyên của năm thọ ấm. Đó gọi là tập trí.

Thế nào là tận trí? Là trí vô lậu quán về tận, chỉ, diệu, xuất nơi diệt đế. Đó gọi là tận trí.

Thế nào là đạo trí? Là trí vô lậu quán về đạo, ứng, trụ, xuất của bát trực đạo (Bát chánh đạo). Đó gọi là đạo trí.

Thế nào là diệt trí? Là trí vô lậu quán về kiến khổ, đoạn tập, chứng diệt, tư duy (tu) đạo trong bốn pháp. Đó gọi là diệt trí.

Thế nào vô sinh trí? Là trí vô lậu quán về: Ta đã thấy khổ, không còn thấy nữa. Ta đã đoạn tập, không còn đoạn nữa. Ta đã tác chứng diệt, không còn tác chứng nữa. Ta đã tư duy (tu) đạo, không còn tư duy nữa, trong bốn pháp. Đó gọi là trí vô sinh.

Trong mười trí này, có hai trí hành mười sáu hành, là pháp trí, vị tri trí.

Đẳng trí trong pháp noãn đảnh nhẫn hành mười sáu hành. Đẳng trí trong pháp đệ nhất thế gian hành bốn hành. Phần còn lại không hành.

Tri tha nhân tâm trí vô lậu hành bốn hành, như đạo trí. Tri tha nhân tâm trí hữu lậu là không hành.

Khổ trí hành bốn hành. Tập trí hành bốn hành. Tận trí hành bốn hành. Đạo trí hành bốn hành.

Diệt trí, vô sinh trí, mỗi trí này đều hành mười bốn hành, trừ hành không, vô ngã.

Thiền vị đáo và thiền địa trung gian có chín trí, trừ tri tha nhân tâm trí. Trong bốn thiền còn lại có đủ mười trí. Định vô sắc có tám trí, trừ pháp trí và tri tha nhân tâm trí. Tâm vô lậu thứ nhất thành tựu một đẳng trí. Tâm vô lậu thứ hai thành tựu ba trí là đẳng trí, pháp trí và khổ trí. Tâm vô lậu thứ ba vượt qua. Tâm vô lậu thứ tư thành tựu bốn trí: Đẳng trí, pháp trí, khổ trí và vị tri trí. Tâm vô lậu thứ năm vượt qua. Tâm vô lậu thứ sáu thành tựu năm trí: Đẳng trí, pháp trí, khổ trí, vị tri trí và tập trí. Tâm vô lậu thứ bảy vượt qua. Tâm vô lậu thứ tám cũng vượt qua. Tâm vô lậu thứ chín thành tựu sáu trí: Đẳng trí, pháp trí, khổ trí, vị tri trí, tập trí và tận trí. Tâm vô lậu thứ mười, thứ mười một vượt qua. Tâm vô lậu thứ mười hai thành tựu bảy trí: Đẳng trí, pháp trí, khổ trí, vị tri trí, tập trí, tận trí và đạo trí. Nếu đã lìa dục, là từng được tri tha nhân tâm trí.

Có hai thứ tu trí là tu đắc và tu hành. Trước chưa được công đức, nay được, đó gọi là tu đắc. Trước đã được công đức, hiện nhập ở trước, đó gọi là tu hành.

Tu hiện ở trước trong đạo kiến đế, tu ấy tức tu vị lai. Như vậy tu các nhẫn hiện ở trước cũng là tu vị lai.

Khổ vị tri trí, tập vị tri trí, tận vị tri trí là tu đẳng trí trong ba vị tri trí. Trong đạo vị tri trí hoặc tu sáu trí hoặc tu bảy trí. Nếu chưa lìa dục thì tu sáu trí, đã lìa dục thì tu bảy trí.

Tri tha nhân tâm trí vượt qua quả Tu-đà-hoàn. Trong mười bảy tâm tu bảy trí, trừ diệt trí, vô sinh trí và tri tha nhân tâm trí, là tín giải thoát lúc được lợi căn trong mười bảy tâm. Trong hai đạo vô ngại và đạo giải thoát tu sáu trí, trừ tha tâm trí, đẳng trí, diệt trí và vô sinh trí, được quả A-na-hàm. Trong đạo giải thoát tu tám trí, trừ diệt trí, vô sinh trí. Như vậy, lúc bảy địa lìa dục, trong đạo giải thoát tu tám trí, trừ diệt trí, vô sinh trí. Đó gọi là trong đạo vô ngại tu bảy trí, trừ tri tha nhân tâm trí, diệt trí và vô sinh trí.

Lúc ở xứ hữu tưởng vô tưởng lìa dục, trong tám đạo giải thoát tu bảy trí, trừ đẳng trí, diệt trí, và vô sinh trí. Trong chín đạo vô ngại tu sáu trí, trừ đẳng trí, tri tha tâm trí, diệt trí và vô sinh trí.

Trong tâm vô học ban đầu tu các căn thiện hữu lậu, vô lậu. Tâm vô học ban đầu này tương ưng với khổ vị tri trí. Có thuyết cho là tương ưng với tập vị tri trí. Vì sao? Vì nơi xứ hữu tưởng vô tưởng tương ưng với sinh duyên. Tâm vô học ban đầu kiến đế, do tám nhẫn cầu tìm, nên gọi là kiến, không phải là trí. Diệt trí, vô sinh trí là trí, không phải là kiến. Ngoài ra, tuệ vô lậu cũng là tuệ, cũng là kiến, cũng là trí, trừ tuệ hữu lậu thiện tương ưng với ý thức và năm tà kiến. Tuệ hữu lậu còn lại cũng là trí, cũng là tuệ, không phải là kiến.

Pháp trí duyên nơi chín trí, trừ vị tri trí. Vị tri trí duyên nơi chín trí, trừ pháp trí. Đạo trí duyên nơi chín trí, trừ đẳng trí. Khổ trí, tập trí duyên nơi tất cả pháp hữu lậu. Các trí còn lại duyên nơi mười trí và đẳng trí, tha tâm trí, diệt trí và vô sinh trí.

Hai trí là tận pháp trí và đạo pháp trí có thể diệt trừ kiết của ba cõi.

Sáu thông, bốn thông là đẳng trí. Thân thông, nhĩ thông, nhãn thông, túc mạng thông và tha tâm thông là năm trí, tức pháp trí, vị tri trí, đạo trí, đẳng trí và tha tâm trí. Lậu tận thông là chín trí vô lậu, trừ đẳng trí.

Bốn ý chỉ (Bốn niệm xứ): Thân ý chỉ có tám trí, trừ tha tâm trí, tận trí. Thống (thọ) ý chỉ, tâm ý chỉ có chín trí, trừ tận trí. Pháp ý chỉ có mười trí.

Bốn biện: Pháp biện, từ biện là đẳng trí. Ứng biện, nghĩa biện đều có mười trí. Nguyện trí có bảy trí, trừ tha tâm trí, diệt trí, vô sinh trí.

Trong mười lực: Lực thứ nhất có mười trí nhận biết. Lực thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu có chín trí nhận biết, trừ tận trí. Lực thứ bảy có mười trí nhận biết. Lực thứ tám, thứ chín có một trí nhận biết là đẳng trí. Lực thứ mười có chín trí nhận biết, trừ đẳng trí.

Pháp vô úy thứ nhất có mười trí nhận biết. Pháp vô úy thứ hai có chín nhận biết, trừ đẳng trí. Pháp vô úy thứ ba có tám trí nhận biết, trừ đạo trí, tận trí. Pháp vô úy thứ tư có tám trí nhận biết, trừ khổ trí và tập trí.

 

Phẩm thứ 12: THIỀN ĐỊNH

Được thiền định nhất tâm, tâm không phân tán, nên trí tuệ thanh tịnh. Ví như đèn dầu đặt để lìa nơi có gió thì ánh sáng thanh tịnh.

Thế nào là thiền định? Là tám thứ thiền định, tức là bốn thiền, bốn định vô sắc.

Bốn thiền: Thiền thứ nhất, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư, là các thiền định. Có ba thiền là có vị, tịnh và vô lậu. Tương ưng với ái, đó gọi là có vị. Thiền hữu lậu thiện, đó gọi là tịnh. Không có phiền não, đó gọi là vô lậu.

Trong Hữu đảnh có hai thứ định: Là có vị và tịnh, không có vô lậu là pháp thiện của định. Ở nơi xứ tĩnh lặng, trống trải, thư thả, hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc nằm, hoặc đi, hoặc bước đi với ý, trí định, tin sâu trong tâm thiện xảo. Người có tâm như vậy nên nhập thiền định.

Dục, tinh tấn, niệm, tuệ, nhất tâm tương ưng với thiền. Các pháp thiện này hướng đến định của thiền thứ nhất lìa dục, lìa pháp ác bất thiện, có giác có quán, lìa dục sinh đắc hỷ lạc. Đó gọi là thiền thứ nhất.

Nhiễm vướng nơi ngoại nhập, đó gọi là tham dục. Sân hận, thùy miên, điệu, hý, nghi, các thứ cái này là pháp ác bất thiện. Đoạn trừ hai thứ pháp ác trong ngoài ấy, đó gọi là lìa. Tâm duyên chuyển xoay lại, đó gọi là giác. Tâm thọ hành tư duy, đó gọi là quán. Đoạn trừ pháp ác, bất thiện, do lực nên được thiền, đó gọi là lìa dục. Tâm sinh vui vẻ, đó gọi là hỷ. Thân tâm an ổn, đó gọi là lạc. Buộc tâm trong duyên, đó gọi là nhất tâm. Đây là năm chi của thiền thứ nhất. Dâm dục là tội khổ lớn, không vui, vì lìa khỏi lực, an ổn.

Tư duy về dục v.v… như thế thì các pháp thiện sinh khởi trong tâm. Đó gọi là được đạo của thiền thứ nhất. Tương ưng với ba thọ căn này là hỷ, lạc, hộ căn. Lạc căn tương ưng với ba thức thân là nhãn, nhĩ, thân thức. Hỷ căn tương ưng với ý thức. Hộ căn (xả căn) tương ưng với bốn thức.

Thiền thứ nhất này có thân riêng, tưởng riêng. Có thân riêng một tưởng. Bốn tâm nơi thiền thứ nhất là nhãn, nhĩ, thân, ý. Đó gọi là các giác quán của thiền thứ nhất. Diệt, nội tịnh, nhất tâm, không giác không quán, định sinh đắc hỷ lạc tương ưng. Đó gọi là các giác quán của thiền thứ hai, như trước đã nói.

Đoạn trừ hẳn, đó gọi là diệt. Các địa tin là không cấu uế, đó gọi là nội tịnh. Ý thức buộc nơi duyên không phân tán, đó gọi là nhất tâm. Về chi hỷ, lạc như trước đã nói.

Tương ưng với hai thọ căn này là hỷ căn, hộ căn. Một tưởng của thân riêng tương ưng với hỷ căn. Căn bản gần địa tương ưng với hộ căn. Trừ diệt cấu uế của giác quán, trừ diệt công năng của tư duy, là con đường đi đến thiền thứ hai, vì lìa cấu uế của hỷ.

Hành xả thọ thân lạc dưới nơi người vô lậu là nói về lạc. Xả niệm về lạc dưới nhập thiền thứ ba lìa hỷ, như trước đã nói.

Tâm xả, buông bỏ lạc cùng hai thứ thọ lạc không phiền não, là hành niệm được giữ gìn trong thân lạc. Lạc này khó nhận biết pháp thật, thế nên vô lậu nói là lạc, cũng hành xả dục cùng các pháp thiện, là con đường đi đến thiền thứ ba.

Quán hỷ, ghét bỏ tội, không hỷ lạc là quán thiền. Chỉ lạc, xả niệm, trí, nhất tâm, đó gọi là năm chi như trước đã nói. Đây là thiền thứ ba đoạn trừ lạc khổ. Trước là diệt ưu căn, hỷ căn, xả niệm tịnh nhập thiền thứ tư. Dục cùng các pháp thiện cũng lại quán cấu uế của lạc, khổ, không khổ không lạc, thiện chỉ là con đường đi vào thiền thứ tư.

Bốn chi là xả niệm, trí, thiện, nhất tâm, sức của thiền và diệt hơi thở. Đó gọi là thiền thứ tư, là tất cả chi thiền thiện. Địa của thiền vị đáo có giác có quán. Thiền trung gian không giác có quán. Hai địa này tương ưng với xả căn. Địa của thiền vị đáo có hai thứ là tịnh, vô lậu, không phải là vị. Trong bốn thiền có đủ ba thứ là vị, tịnh và vô lậu. Đó gọi là thiền pháp.

Lìa nhớ nghĩ về sắc, cũng quán vô lượng không, nhập định không. Quán cấu uế của sắc nơi không xứ đạt thiện chỉ. Quán này là con đường hướng đến định không.

Nhớ nghĩ về vô lượng thức, nhập thức xứ. Quán cấu uế của không xứ nơi thức xứ đạt thiện chỉ. Quán là con đường hướng đến định thức.

Hành vô lượng thức, đó là khổ. Nhớ nghĩ về hành bất dụng xứ, nhập định bất dụng. Quán cấu uế của vô lượng thức xứ nơi bất dụng xứ đạt thiện chỉ. Quán là con đường hướng đến định bất dụng.

Xứ hữu tưởng là bệnh, xứ vô tưởng là si. Tư duy như vậy, nhập định hữu tưởng vô tưởng. Quán cấu uế của bất dụng xứ nơi hữu tưởng vô tưởng đạt thiện chỉ. Quán là con đường hướng đến định hữu tưởng vô tưởng. Đó gọi là định hữu tưởng vô tưởng.

Đạo hướng đến Niết-bàn có hai thứ: (1) Quán thân bất tịnh. (2) Niệm sổ tức.

Trong thân ý chỉ (Thân niệm xứ) có hai giải thoát thứ nhất, thứ hai, bốn trừ nhập đã nói rộng về pháp bất tịnh. Nhập định sổ tức, từ một, hai, cho đến mười niệm, giữ gìn hơi thở ra vào như người giữ cửa ngõ. Quán tất cả pháp khởi, diệt. Tự tướng của hai tướng này có sáu thứ phân biệt. Quán thân vô thường, khổ, không, phi ngã (vô ngã).

Tất cả các pháp quán như thế về sự sợ hãi nơi thế giới, dần dần diệt hết cấu uế, hành theo pháp thiện, hướng đến Niết-bàn.

Địa của thiền vị đáo, địa của thiền trung gian, địa của bốn thiền, địa của ba định vô sắc có hai thứ: Hữu lậu, vô lậu. Tất cả hữu lậu của Hữu đảnh gồm có mười tưởng: Tưởng vô thường, khổ, khổ – vô ngã, quán thức ăn, tất cả thế gian không thể vui, bất tịnh, chết, đoạn trừ, không có dục và tận.

Nhớ nghĩ về các hành vô thường, đó gọi là tưởng vô thường. Nhớ nghĩ về các thứ khổ như sinh, lão v.v… đầy khắp thế gian, đó gọi là tưởng khổ. Nhớ nghĩ về trong ngoài đều vô thường, khổ, không tự tại, trống không, đó gọi là tưởng khổ – vô ngã.

Nhớ nghĩ về nhiều sự khổ nhọc mới được thức ăn, khi ăn là bất tịnh, đó gọi là tưởng quán thức ăn. Nhớ nghĩ về những sự sợ hãi như sinh, già, bệnh, chết v.v… nơi vô số phiền não đầy khắp thế giới, đó gọi là tưởng tất cả thế gian không thể vui.

Quán những thứ chứa đựng trong tự thân, đó gọi là tưởng bất tịnh. Nhớ nghĩ về hết thảy sự sinh đều phải chết, đó gọi là tưởng chết. Nhớ nghĩ về sự diệt trừ tất cả phiền não, đạt thiện chỉ, đó gọi là tưởng đoạn trừ.

Nhớ nghĩ về những sự không thường còn và lìa dục, đó gọi là tưởng không có dục. Nhớ nghĩ về năm thọ ấm không còn sinh, là tận chỉ diệu ly nơi Niết-bàn, đó gọi là tưởng tận.

Mười tưởng này thường xuyên nhớ nghĩ, đoạn trừ hết biên vực khổ.

 

Phẩm thứ 13: TẠP ĐỊNH

Tam muội v.v… chung cho tất cả ấm, nhập, trí giải thoát thiền.

Ba tam muội là tam muội không, tam muội vô nguyện và tam muội vô tướng. Vì buộc giữ tâm nơi duyên vô lậu, đó gọi là tam muội. Nhất tâm quán năm thọ ấm là không, vô thường, phi ngã, đó gọi là tam muội không. Nhập tam muội này, không mong muốn dâm, nộ, si (tham sân si) còn có sinh ra, đó gọi là tam muội vô nguyện. Tam muội này duyên nơi pháp lìa mười tướng. Thế nào là mười tướng? Là năm trần như sắc v.v…, nam, nữ, sinh, lão, vô thường. Đó gọi là tam muội vô tướng.

Tam muội không có hai hành là hành không và hành vô ngã. Tam muội vô nguyện có mười hành: hành vô thường, khổ, cũng là hành tập, đạo. Tam muội vô tướng cùng đủ bốn hành.

Bốn đẳng (Bốn vô lượng): Là từ, bi, hỷ, hộ (Xả). Tự mình được sự diệu lạc, nhớ nghĩ đem cho tất cả chúng sinh là có ba thứ tâm. Trước là bà con, thân thuộc. Kế đến là người trung bình. Về sau là các loại oán đối.

Nhất tâm tư duy về tất cả thân của chúng sinh trong ba cõi cùng các oán đối đều bình đẳng, không khác biệt, trừ giận dữ bên trong, là thọ, tưởng, hành, thức tương ưng với từ v.v… Có thể khởi chánh ngữ, chánh nghiệp, cũng là các hành không tương ưng. Đó gọi là Từ đẳng (Từ vô lượng).

Nhất tâm tư duy về thân tâm của chúng sinh trong ba cõi, đã gieo trồng sự khổ não, mong muốn được cứu giúp. Tư duy như vậy, có thể trừ bỏ các thứ khổ bên ngoài, là thọ, tưởng, hành, thức tương ưng với bi v.v… Có thể khởi chánh ngữ, chánh nghiệp, cũng là các hành không tương ưng. Đó gọi là Bi đẳng (Bi vô lượng).

Nhất tâm tư duy về chúng sinh của ba cõi đều hoan hỷ, được an vui, có thể diệt trừ ưu khổ, là thọ, tưởng, hành, thức tương ưng với hỷ v.v… Có thể khởi chánh ngữ, chánh nghiệp, cũng là các hành không tương ưng. Đó gọi là Hỷ đẳng (Hỷ vô lượng).

Nhất tâm tư duy về lạc, khổ, hỷ, phóng xả của chúng sinh trong ba cõi, có thể trừ dục, sân, là thọ, tưởng, hành, thức tương ưng với xả v.v… Có thể khởi chánh ngữ, chánh nghiệp, cũng là các hành không tương ưng. Đó gọi là Xả đẳng (Xả vô lượng).

Sáu thông: Là thần túc, thiên nhãn, thiên nhĩ, thức túc mạng, tri tha tâm, lậu tận thông. Trừ thông thứ sáu (Lậu tận), các thứ kia hàng phàm phu cũng đạt được.

Thế nào là thần túc thông? Thần túc thông này có ba thứ: (1) Bay đi. (2) Biến hóa. (3) Thần thông của Thánh nhân. Có ba thứ bay đi: a. Tự thân bay đi, ví như chim bay. b. Ở nơi cõi này bỗng nhiên biến mất và hiện đến phương khác. c. Sức của tâm tự tại như co duỗi cánh tay. Đó gọi là thần thông của chư Phật, không phải là của các đạo khác.

Thần thông thường quán sự rỗng lặng của thân, học cất mình lên một cách nhẹ nhàng là con đường hướng đến thần thông. Có thể biến hóa thành lớn, nhỏ. Có thể hóa nhiều thành ít, hóa ít ra nhiều. Có thể chuyển tạo thành các thứ vật dụng. Đó gọi là thần thông biến hóa.

Người phàm phu biến hóa đến bảy ngày, không quá bảy ngày thì diệt. Đức Phật và đệ tử Phật thì biến hóa tự tại. Lúc biến hóa quán thế gian tịnh thành bất tịnh, bất tịnh thành tịnh, trừ niệm tịnh, bất tịnh, tâm niệm xả. Đó gọi là thần thông của Thánh nhân.

Ba thứ thông này từ diệu lực của bốn thần túc sinh khởi. Tất cả duyên nơi sắc, dần dần được cất mình lên không thật nhẹ nhàng. Chư Phật đều trong một lúc đạt được.

Thiên nhãn thông: Là từ nơi mắt mình, bốn đại tạo cõi sắc thanh tịnh, sinh khởi được thiên nhãn, nhìn thấu suốt cả gần xa, từ tự địa đến địa dưới, thấy tất cả sắc rất vi tế, nhớ nghĩ về mặt trời, mặt trăng, các vì sao, lửa, minh châu, là con đường hướng đến thiên nhãn thông.

Thiên nhĩ thông: Là từ nơi tai mình, bốn đại tạo cõi sắc thanh tịnh, sinh khởi được thiên nhĩ, nhớ nghĩ nhận biết các thứ tiếng nói của các nẻo trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, là con đường hướng đến thiên nhĩ thông.

Thức túc mạng thông: Là nhớ nghĩ về các sự việc của đời trước, những nơi chốn mình đã sinh trải qua, là con đường hướng đến túc mạng thông.

Tri tha tâm thông: Là thường nhớ nghĩ về tâm thanh tịnh và tâm nhiễm ô của người khác, đều nhận biết. Tự tâm sinh diệt, có thể phân biệt nhận biết, là con đường hướng đến tri tha tâm thông.

Lậu tận thông: Là tất cả lậu của ba cõi, ta đều dứt hết. Như vậy là nhớ nghĩ, nhận biết về năm thọ ấm là vô thường v.v…, là con đường đạt được lậu tận thông.

Túc mạng thông và thiên nhãn thông hoàn toàn là minh. Túc mạng thông nhận biết nhân duyên nơi thứ lớp của đời, đó gọi là minh. Thiên nhãn thông nhận biết về nhân duyên như hành nghiệp được báo, đó gọi là minh. Lậu tận thông là lậu của ba cõi dục, sắc, vô sắc đã đoạn hết, “Ta đã diệt hết các lậu”, đó gọi là minh.

Mười nhất thiết nhập (Biến xứ): Là nhớ nghĩ về tất cả địa, không phải nhớ nghĩ thứ khác. Đó gọi là nhất thiết nhập của địa, cho đến nhất thiết nhập của thức cũng như vậy.

Tám giải thoát: Trong có tưởng sắc, ngoài quán sắc. Trong không có tưởng sắc, ngoài quán sắc, tịnh giải thoát, tác chứng bốn định vô sắc, định diệt tận. Đó gọi là tám giải thoát.

Duyên nơi quán chuyển tâm được giải thoát, đó gọi là giải thoát. Quán sắc bên trong bất tịnh và quán sắc bên ngoài, đó gọi là giải thoát thứ nhất. Không quán sắc bên trong, quán sắc bên ngoài bất tịnh, là giải thoát thứ hai. Phân biệt quán sắc trong ngoài, tất cả sắc tịnh, là giải thoát thứ ba.

Bốn định vô sắc, bốn giải thoát, giải thoát diệt tận. Bên trong có tưởng sắc, ngoài quán một ít sắc tốt xấu, là duyên nơi tri kiến thù thắng, là Trừ nhập (Thắng xứ) thứ nhất. Bên trong có tưởng sắc, bên ngoài quán vô lượng sắc tốt xấu, là duyên nơi tri kiến thù thắng, là trừ nhập thứ hai. Bên trong không có tưởng sắc, ngoài quán một ít sắc tốt xấu, là duyên nơi tri kiến thù thắng, là trừ nhập thứ ba. Bên trong không có tưởng sắc, ngoài quán vô lượng sắc tốt xấu, là duyên nơi tri kiến thù thắng, là trừ nhập thứ tư. Bên trong không có tưởng sắc, ngoài quán sắc màu xanh, là duyên nơi tri kiến thù thắng, là trừ nhập thứ năm. Các sắc vàng, đỏ, trắng cũng như vậy.

Bên trong không loại trừ tưởng sắc, bên ngoài quán một ít sắc tịnh là: (1) Duyên vô lượng. (2) Bên trong trừ tưởng sắc, bên ngoài quán một ít sắc tịnh. (3) Duyên vô lượng. (4) Nhớ nghĩ đến các sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, khác.

Vì duyên thù thắng của bốn thứ trừ nhập tịnh, nên nói là trừ nhập.

Sắc đẹp hình dáng đoan nghiêm, vì trừ bỏ cấu uế, nên là giải thoát. Đó gọi là trừ nhập, gọi riêng là Ba giải thoát, Bốn trừ nhập.

Tám nhất thiết nhập (Biến xứ) thuộc về giải thoát tịnh. Mười trí như trước đã nói. Ba đẳng tâm là từ, bi, xả và năm thông, trong bốn thiền căn bản có. Pháp trí trong sáu địa là thiền vị đáo, thiền trung gian, bốn thiền căn bản có. Hỷ đẳng nơi giải thoát thứ nhất, giải thoát thứ hai có. Bốn trừ nhập đầu trong thiền thứ nhất, thiền thứ hai có. Những trừ nhập còn lại, giải thoát tịnh, tám nhất thiết nhập (tám biến xứ) trong thiền thứ tư đều có. Các giải thoát còn lại, hai nhất thiết nhập thuộc về tên của mình.

Giải thoát diệt tận thuộc trong Hữu đảnh. Ba tam muội, bảy trí, lậu tận thông thuộc trong chín địa, trừ đẳng trí trong Hữu đảnh.

Trong mười địa có ba giải thoát của cõi vô sắc, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu. Ba giải thoát khác, tám trừ nhập, mười nhất thiết nhập là hữu lậu, tất cả hữu lậu trong Hữu đảnh, do chậm kém, không nhanh nhẹn, nên là hữu lậu. Vì định diệt tận không có trí tuệ, nên là hữu lậu. Trong năm thông, đa số là tâm vô ký. Bốn đẳng tâm (Bốn tâm vô lượng) vì duyên nơi chúng sinh, nên là hữu lậu.

Ái dục chưa hết, kiết sử của ba cõi đã thành. Ái dục đã hết, kiết sử của cõi sắc, vô sắc đã thành. Ái cõi sắc hết, kiết sử của cõi vô sắc đã thành. Ái của cõi vô sắc hết, kiết sử của ba cõi không thành. Ái cõi dục hết, vô lậu tịnh nơi thiền thứ nhất được thành. Như vậy, vô lậu của Thánh nhân trong tất cả địa đều thành tựu. Thánh nhân sinh ở địa trên hay địa dưới đều thành tựu vô lậu. Cầu được năm thông, bốn đẳng tâm, cấu uế của kiết ở địa dưới không thành.

Đạo thế tục dựa vào địa của thiền vị đáo, lìa dục của địa dưới. Như vậy, đạo vô lậu của tất cả địa đều dựa vào địa của thiền căn bản. Tự địa cũng lìa dục của địa trên. Vì tất cả địa đều như vậy, nên phàm phu không thể lìa dục trong Hữu đảnh. Các pháp noãn, đảnh, nhẫn, pháp đệ nhất thế gian đều lìa dục. Người tu thiền định hữu lậu trong hai thời hiện tại, vị lai là tu khổ, tập, tận trong đạo kiến đế, tu trí vô lậu hiện ở trước trong vị tri trí.

Vị lai có hai thứ trí là hữu lậu, vô lậu. Vô lậu của vị lai, vô lậu hiện ở trước trong những tâm còn lại.

Đệ tử của Đức Thế Tôn nếu lìa dục ái, dựa vào địa của thiền vị đáo, ở hiện tại tu đạo hữu lậu và ở vị lai tu đạo hữu lậu, vô lậu. Đạo giải thoát thứ chín, tu đạo hữu lậu trong hiện tại, tu hữu lậu, vô lậu ở vị lai. Thiền thứ nhất cùng thiền vị đáo tu đạo vô lậu. Nếu dựa vào thiền vị đáo để tu đạo vô lậu trong hiện tại, thì ở vị lai tu đạo hữu lậu, vô lậu. Nếu tu đạo vô lậu ở hiện tại trong đạo giải thoát thứ chín, thì ở vị lai tu đạo hữu lậu, vô lậu.

Về thiền thứ nhất, đệ tử của Đức Thế Tôn nếu đã lìa ái dục của thiền thứ nhất, dựa vào địa của thiền thứ hai và thiền vị đáo hiện ở trước tu đạo vô lậu, vị lai tu đạo hữu lậu, vô lậu. Trong đạo giải thoát thứ chín, ở hiện tại thì tu đạo hữu lậu, ở vị lai thì tu ba thứ vô lậu.

Thiền thứ nhất cùng tu tịnh, vô lậu nơi thiền thứ hai. Nếu lìa ái của thiền thứ nhất, dựa vào đạo vô lậu, hướng đến thiền thứ hai. Tu đạo vô lậu ở tự địa, tu đạo hữu lậu, vô lậu ở địa khác.

Trong đạo giải thoát thứ chín, ở hiện tại tu đạo vô lậu, vị lai tu ba thứ vô lậu. Thiền thứ nhất và tịnh vô lậu nơi thiền thứ hai. Cho đến Bất dụng xứ lìa dục cũng lại như vậy.

Trong Hữu đảnh lúc lìa dục thì tu tất cả thiền định vô lậu. Hiện tại tu đạo vô lậu trong đạo giải thoát thứ chín, ở vị lai tu vô lậu và tu hai mươi ba thứ định của căn thiện thuộc ba cõi.

Có vị tám, tịnh tám, vô lậu bảy. Tất cả vô lậu nơi bảy địa là nhân tự nhiên vô lậu nơi vô lậu của tự địa. Vô lậu của tự địa có ba thứ nhân: Nhân tương ưng, nhân cộng hữu và nhân tự nhiên. Vị định của đệ nhất hữu là nhân của vị định nơi đệ nhất hữu, không phải là nhân khác.

Tịnh định thứ nhất là nhân của tịnh định thứ nhất, không phải là nhân khác. Vô lậu định thứ nhất theo thứ lớp khởi sáu thứ định: Thiền thứ nhất có hai thứ là tịnh, vô lậu. Thiền thứ hai, thiền thứ ba cũng như vậy.

Vô lậu nơi thiền thứ hai theo thứ lớp sinh tám địa: Tự địa có hai, địa trên có bốn, địa dưới có hai. Vô lậu nơi thiền thứ ba, thiền thứ tư, định không xứ, theo thứ lớp sinh mười địa: Địa trên có bốn, địa dưới có bốn và tự địa có hai.

Vô lậu nơi định thức xứ theo thứ lớp sinh chín địa: Địa trên có ba, địa dưới có bốn, tự địa có hai. Vô lậu nơi định bất dụng xứ theo thứ lớp sinh bảy địa: Địa trên có một, địa dưới có bốn, tự địa có hai.

Định vô sắc thứ tư theo thứ lớp sinh sáu địa: Địa dưới có bốn, tự địa có hai. Tịnh nơi thiền cũng như thế. Có vị theo thứ lớp sinh hai thứ. Tự địa có vị cũng lại tịnh.

Như vậy, tịnh, vô lậu của tất cả địa nơi các thiền định, duyên nơi tất cả, là duyên nơi tất cả pháp. Có vị nơi tự địa, có vị của tự địa duyên cũng lại là tịnh. Duyên nơi có vị không thể duyên các tịnh, vô lậu. Vô lậu nơi định vô sắc không duyên nơi địa hữu lậu. Có vị nơi định vô sắc duyên nơi có vị của tự địa và duyên nơi tịnh, không thể duyên nơi vô lậu.

Bốn đẳng, tám trừ nhập, ba giải thoát, tám nhất thiết nhập, tất cả các pháp này đều duyên nơi cõi dục. Năm thông duyên nơi cõi dục, cõi sắc. Tất cả thiền huân, thiền vô lậu, huân tập thiền hữu lậu, được người của bốn thiền, trước huân tu thiền thứ tư, sau huân tu ba thiền dưới, được báo của năm Tịnh cư.

A-la-hán của pháp không động đạt được tất cả thiền định, là có thể được Đảnh thiền, có thể trụ nơi thọ mạng, cũng có thể xả bỏ thọ mạng. Nguyện trí từ tâm nguyện nhận biết hết các pháp quá khứ, vị lai và hiện tại, đa số là nhận biết pháp vị lai.

Bốn biện tài: Pháp biện, từ biện, ứng biện, nghĩa biện, khiến tâm người khác không khởi giận. Đó gọi là vô tránh, thuộc trong bốn thiền. Cũng lại là nguyện trí của cõi dục thuộc thiền thứ tư. Cũng lại là pháp biện, từ biện của cõi dục thuộc cõi dục và hai biện tài còn lại trong cõi Phạm thiên thuộc về chín địa, là cõi dục, bốn thiền, bốn vô sắc, về tịnh thiền có hai thời: Lúc được lìa dục và lúc được sinh. Có vị nơi thiền có hai thời: Lúc bị thoái chuyển và lúc được sinh. Vô lậu nơi thiền có hai thứ được: Hoặc lúc thoái chuyển được, hoặc khi lìa dục được, đều thuộc chín địa. Vô lậu có thể đoạn trừ kiết sử.

Biến hóa có mười bốn tâm: Mười tâm của cõi sắc, bốn tâm của cõi dục. Thiền thứ nhất có hai tâm biến hóa: Thiền thứ nhất có một, cõi dục có một. Thiền thứ hai có ba tâm biến hóa: Thiền thứ hai có một, thiền thứ nhất có một, cõi dục có một. Thiền thứ ba có bốn tâm biến hóa: Thiền thứ ba có một, thiền thứ hai có một, thiền thứ nhất có một, cõi dục có một. Thiền thứ tư có năm tâm biến hóa: Thiền thứ tư có một, thiền thứ ba có một, thiền thứ hai có một, thiền thứ nhất có một, cõi dục có một.

Những thiền nào thành tựu quả này? Là tâm biến hóa của địa dưới thành tựu trụ địa của thiền thứ ba. Thức của cõi Phạm thiên hiện ở trước, có thể thấy nghe, bấy giờ thì thành tựu. Liền diệt, bấy giờ thì không thành tựu.

 

Phẩm thứ 14: BA MƯƠI BẢY PHẨM

Ý chỉ, ý đoạn, thần túc, căn, lực, giác, đạo, là bảy pháp dẫn đến Niết-bàn. Trong ấy bảy giác là vô lậu, sáu thứ còn lại nên phân biệt: Hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu.

Có thuyết nói: Bảy giác ý, tám trực đạo, tất cả đều vô lậu. Những thứ còn lại nên phân biệt. Bốn ý chỉ (Bốn niệm xứ) có trong thiền định của tất cả địa, gồm thâu bốn thứ trí thường niệm giữ. Đó gọi là niệm chỉ (Niệm xứ). Ba thứ hành trí tuệ trong niệm thân, đó gọi là thân niệm chỉ. Như vậy, thọ, tâm, pháp niệm chỉ, đó gọi là bốn niệm chỉ. Vì sao không nói ba niệm chỉ hoặc năm niệm chỉ? Vì muốn phá trừ bốn điên đảo, nên nói bốn niệm chỉ (Bốn niệm xứ).

Thế nào là thân niệm chỉ? Vì diệt trừ sự điên đảo của tưởng tịnh. Quán tướng thật của thân có ba mươi sáu thứ bất tịnh. Nếu chết thì trùng sinh ra, thân thể hôi thối, rữa nát, còn trơ lại xương v.v… Quán thân như vậy là diệt trừ tưởng tịnh điên đảo về thân. Đó gọi là thân niệm chỉ.

Thế nào là thọ niệm chỉ? Quán sinh trụ diệt của thọ nơi các hữu là khổ. Sử dâm dục trong lạc thọ, sử sân hận trong khổ thọ và sử vô minh trong thọ không khổ không lạc. Quán vô thường, khổ, không, vô ngã. Đó gọi là thọ niệm chỉ.

Thế nào là tâm niệm chỉ? Là quán tâm nhiễm ô, tâm không nhiễm ô. Hoặc nhất tâm, hoặc tâm phân tán, quán về khổ, vô thường v.v… Đó gọi là tâm niệm chỉ.

Thế nào là pháp niệm chỉ? Là quán pháp bên trong, quán pháp bên ngoài cùng quán pháp bên trong và bên ngoài. Hoặc quán pháp quá khứ, vị lai. Hoặc quán các kiết sử, có bao nhiêu thứ đoạn trừ, bao nhiêu thứ không đoạn trừ? Hoặc quán khổ, vô thường, quán nhân duyên của tập, quán sự ngừng dứt của tận (diệt). Đó gọi là pháp niệm chỉ.

Thế nào là bốn ý đoạn (Bốn chánh cần)? Trong tâm đã sinh pháp ác bất thiện, nhằm trừ bỏ nên siêng năng tinh tấn chế ngự tâm, trụ nơi pháp thiện. Lúc pháp ác bất thiện chưa sinh, chớ khiến cho chúng sinh, nên siêng năng tinh tấn, ngăn giữ tâm, trụ nơi pháp thiện. Pháp thiện chưa phát sinh, muốn khiến cho sinh, nên siêng năng tinh tấn, trụ nơi pháp thiện. Pháp thiện đã sinh, nhớ giữ lại đừng để cho mất, càng làm cho lớn rộng thêm, nên siêng năng tinh tấn, trụ nơi pháp thiện. Đó gọi là bốn ý đoạn.

Thế nào là bốn thần túc? Là dục định, tinh tấn định, tâm định và tuệ định, từ các định này được tất cả công đức. Đó gọi là bốn thần túc.

Dục định đoạn trừ các hành, thành tựu thần túc thứ nhất, muốn làm, là dục. Tâm không phân tán, là định. Dục, tinh tấn, niệm, tuệ, hỷ, ỷ (khinh an), là các hành kết hợp với dục định. Như vậy, tâm tinh tấn, tuệ dục, đại dục, đạt được định, là dục định. Tâm tuệ tinh tấn như vậy, đó gọi là bốn thần túc.

Tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ, đó gọi là năm căn. Trong bốn tín không hoại có tín, là tín căn. Bốn ý tinh tấn, là tinh tấn căn. Niệm không quên trong bốn niệm chỉ, là niệm căn. Nhất tâm trong bốn thiền định, là định căn. Tuệ trong bốn đế, là tuệ căn. Căn nhạy bén, nhanh nhẹn thứ nhất, là nghĩa của căn.

Năm lực như tín v.v… Pháp ác, bất thiện không thể hủy hoại được, đó gọi là lực. Nhỏ là căn, lớn là lực.

Niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, ỷ (Khinh an), định, hộ (xả), đó gọi là bảy giác ý.

Thế nào là niệm? Là nhớ nghĩ đến các thứ tội sinh, diệt của pháp hữu vi và Niết-bàn là cực diệu, đó gọi là niệm giác. Trong ấy tư duy phân biệt là trạch pháp giác. Ở đây tư duy, siêng năng, tinh tấn, đó gọi là tinh tấn giác. Nếu đạt được vui vẻ nơi vị của pháp thiện, đó gọi là hỷ giác. Hoặc tư duy về thân tâm nhẹ nhàng, an ổn tùy theo định, đó gọi là ỷ giác (khinh an). Nhân duyên ở đây thâu giữ tâm trụ không loạn, đó gọi là định giác. Nếu buông bỏ tâm, dứt dừng, không nghĩ, không muốn, đó gọi là xả giác.

Các thứ trí tuệ được sức của thiền định trừ diệt tất cả phiền não, là quả của bảy giác. Bảy pháp như niệm v.v… đoạn trừ hết thảy phiền não, đó gọi là giác.

Trực kiến (chánh kiến), trực tư (chánh tư duy), trực ngữ (chánh ngữ), trực nghiệp (chánh nghiệp), trực mạng (chánh mạng), trực niệm (chánh niệm), trực phương tiện (chánh tinh tấn) và trực định (chánh định), đó gọi là tám trực đạo (Tám chánh đạo).

Trí tuệ thật trong bốn đế, đó gọi là trực kiến (chánh kiến). Trong đây, ba thứ giác, quán thiện, không giận, không não hại, đó gọi là trực tư (chánh tư duy). Đoạn trừ bốn thứ lời nói bất chính, đó gọi là trực ngữ (chánh ngữ). Đoạn trừ ba thứ nghiệp tà, đó gọi là trực nghiệp (chánh nghiệp). Trừ bỏ tà mạng bất thiện, đó gọi là trực mạng (chánh mạng). Tại đây tư duy siêng năng, tinh tấn, đó gọi là trực phương tiện (chánh tinh tấn). Hoặc tư duy nhớ nghĩ không quên, đó gọi là trực niệm (chánh niệm). Hoặc luôn nhất tâm trụ, đó gọi là trực định (chánh định).

Đó là tám trực đạo (Tám chánh đạo) hướng đến Niết-bàn.

Tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ, hỷ, ỷ (khinh an), xả, tư, giới, mười pháp này phân biệt nói là ba mươi bảy pháp tín. Đó là tín căn, tín lực, tinh tấn, tinh tấn căn, tinh tấn lực, bốn ý đoạn, tinh tấn giác ý, trực phương tiện, niệm căn, niệm lực, niệm giác ý, trực niệm, hỷ, hỷ giác, tuệ, tuệ căn, tuệ lực, bốn niệm chỉ, trạch pháp giác, trực kiến, ỷ (khinh an), ỷ giác, định, định căn, định lực, bốn thần túc, định giác, trực định, xả, xả giác, tư, trực tư, giới, trực ngữ, trực nghiệp, trực mạng, và trực nhân duyên.

Trụ trong bốn thứ trí tuệ, đó gọi là niệm chỉ. Trực tinh tấn, đó gọi là ý đoạn. Nhất tâm trụ trong duyên không phân tán, đó gọi là bốn thần túc. Sinh trong tâm của người độn căn, đó gọi là năm căn. Sinh trong tâm của người lợi căn, đó gọi là năm lực. Ở trong đạo kiến đế, đó gọi là tám trực đạo (Tám chánh đạo). Ở trong đạo tư duy, đó gọi là bảy giác, là mười pháp gồm thâu ba mươi bảy phẩm.

Địa của thiền vị đáo có ba mươi sáu phẩm, trừ hỷ giác. Địa của thiền thứ hai cũng có ba mươi sáu phẩm, trừ trực tư duy (chánh tư duy). Các thiền thứ ba, thứ tư và thiền trung gian có ba mươi lăm phẩm, trừ hỷ giác, trực tư duy (chánh tư duy). Thiền thứ nhất có ba mươi bảy phẩm. Ba định không có ba mươi hai phẩm, trừ hỷ giác, trực tư duy (chánh tư duy), trực ngữ (chánh ngữ), trực nghiệp (chánh nghiệp), trực mạng (chánh mạng). Trong Hữu đảnh có hai mươi hai phẩm, trừ bảy giác, tám đạo. Cõi dục cũng có hai mươi hai phẩm, trừ bảy giác, tám đạo.

 

Phẩm thứ 15: BỐN ĐẾ

Bốn đế: Khổ đế, Tập đế, Tận đế (Diệt đế), Đạo đế.

Thế nào là Khổ đế? Một thứ tướng não là khổ. Hai thứ là thân khổ, tâm khổ. Ba thứ là khổ khổ, biệt ly khổ (Hoại khổ), hành vô thường khổ (Hành khổ). Bốn thứ là khổ trong ngoài của thân, khổ trong ngoài của tâm. Năm thứ là khổ của năm thạnh ấm. Sáu thứ là khổ của ba cõi, khổ của ba độc. Bảy thứ là khổ của bảy thức xứ. Tám thứ là khổ của sinh, già, bệnh, chết, oán ghét gặp nhau, ân ái biệt ly, mong cầu không được. Như thế, tất cả các thứ khổ đó gọi là Khổ đế.

Thế nào là Tập đế? Năm thọ ấm là nhân của vô số các thứ khổ, đó gọi là Tập đế.

Thế nào là Tận đế (Diệt đế)? Khổ tập hoàn toàn dứt hết, trí duyên tận, đó gọi là Tận đế.

Thế nào là Đạo đế? Hành tám trực đạo (Tám chánh đạo), đó gọi là Đạo đế.

Bốn đế này theo thứ lớp nên nhận biết, đoạn trừ, tu chứng. Tự tư duy về thật tướng, người tu tập chắc chắn được quả. Không hư dối, đó gọi là đế. Vì nhận biết về thô, nên theo thứ lớp khổ đế là thô dễ nhận biết. Do đấy nên trước nói Khổ đế. Biết khổ, suy tìm nhân của khổ, từ trong tập sinh, nên Tập đế đứng thứ hai. Khổ đế này ở xứ nào diệt hết để được giải thoát? Nên tư duy trong Niết-bàn. Vì vậy Diệt đế đứng thứ ba. Làm sao được diệt ấy? Phải tư duy hành tám trực đạo (Tám chánh đạo), đoạn hết kiết sử, được Tận đế. Thế nên Đạo đế đứng thứ tư.

Lúc năm thọ ấm nhận quả báo, đó gọi là Khổ đế. Lúc năm thọ ấm làm nhân duyên, đó gọi là Tập đế, cũng gọi là Khổ đế. Ví như một người cũng gọi là con, cũng gọi là cha. Tập đế đa số là kiết sử. Là những thứ kiết sử nào? Có chín kiết là kiết ái, kiết sân, kiết kiêu mạn, kiết vô minh, kiết nghi, kiết kiến, kiết thất nguyện, kiết xan, kiết tật.

Tham dục của ba cõi là kiết ái. Tâm phẫn nộ trong chúng sinh, khởi động nhanh điều xấu ác là kiết sân. Bảy thứ mạn là kiết mạn. Ngu si trói buộc khắp ba cõi là kiết vô minh. Ba kiến là kiết kiến. Hai kiến là kiết thất nguyện (kiết thủ). Trong bốn đế không quyết định rõ là kiết nghi. Tâm luyến tiếc, bỏn sẻn là kiết xan (keo kiệt). Ganh ghét người khác, ôm lòng tức giận, là kiết tật (ganh ghét).

Tận đế (Diệt đế) có hai thứ: (1) Đạo hữu lậu đoạn trừ hết kiết sử. (2) Đạo vô lậu đoạn trừ hết kiết sử. Hai thứ này là các thứ pháp tịnh.

Bốn biện tài: Pháp, từ, ứng, nghĩa. Nhận biết thật tướng của tất cả danh, tự, là pháp biện. Trí của tất cả lời nói, luận đàm, là từ biện. Biết rõ thật tướng của tất cả pháp, là ứng biện. Thông trí của tất cả trí tuệ, ngôn ngữ, thiền định, là nghĩa biện.

Bốn tín không hoại của Tu-đà-hoàn: Tín Phật không hoại. Tín Pháp không hoại. Tín Tăng không hoại. Tín tịnh giới không hoại.

Quả A-la-hán gồm thâu các pháp vô học, tín vô lậu trong vô số công đức lớn của Phật, đó gọi là tín Phật không hoại.

Vô lậu trong Niết-bàn và pháp học, vô học trong đế vô lậu, là tín tịnh vô lậu trong công đức thật của Bồ-tát, đó gọi là tín Pháp không hoại.

Tín đạt được đạo quả vô lậu, có tất cả công đức của bốn hướng bốn quả (Tứ song bát bối), là tín trong chúng đệ tử của Phật, không phải xứ khác, đó gọi là tín Tăng không hoại.

Giới vô lậu không giáo (vô biểu), tín vô lậu trong đấy, đó gọi là tín giới không hoại.

Trí tuệ tịnh thật, cùng hợp tín, nên không gì có thể vượt hơn là giới vô lậu, vì thế tín không hoại. Đó gọi là bốn tín không hoại.

Có bốn sự tu định: Tu định được sống an vui trong hiện pháp. Tu định được trí kiến. Tu định được tuệ phân biệt. Tu định được các điều thiện, đoạn trừ hết lậu.

Thiền thứ nhất có thể đạt được sống an vui trong hiện tại (Hiện pháp lạc trụ). Trí thông sinh tử, đó gọi là trí kiến. Phương tiện cầu công đức là công đức của văn tư tu nơi giới vô giáo (vô biểu) ở cõi dục, tất cả pháp của cõi sắc, vô sắc, tất cả pháp hữu vi, vô lậu, đó gọi là tuệ phân biệt. Định kim cang dụ nơi bốn thiền là tâm học sau cùng, cùng tương ưng với lậu tận, đó gọi là tu định được lậu tận thuộc về thiền thứ tư.

Bốn đạo: Là khổ khó nhận biết, khổ dễ nhận biết, vui khó nhận biết và vui dễ nhận biết. Tùy tín hành là độn căn, đối với pháp vô lậu là khổ khó nhận biết. Tùy tín hành là lợi căn, đối với pháp vô lậu là khổ dễ nhận biết. Trong bốn thiền căn bản, pháp lợi căn cùng độn căn gọi là lạc đạo. Vì sao? Vì đạo chỉ quán cùng song hành. Do trong địa khác chỉ quán hoặc nhiều ít, nên nói là khổ. Hai xứ thiền vị đáo, thiền trung gian, đạo chỉ ít, đạo quán nhiều. Trong định vô sắc thì đạo quán ít, đạo chỉ nhiều. Đó gọi là đạo khổ khó được.

Có bảy thức trụ: (1) Các trời trong cõi dục và loài người, trời Phạm chúng của cõi sắc, trừ trời mới sinh, là thân khác, tưởng khác. (2) Trời Phạm chúng mới sinh, thân khác, tưởng một. (3) Sinh lên trời thuộc thiền thứ hai, thân một, tưởng khác. (4) Sinh lên trời thuộc thiền thứ ba, thân một, tưởng một. (5) Sinh lên trời không xứ. (6) Sinh lên trời thức xứ. (7) Sinh lên trời bất dụng xứ (Vô sở hữu xứ).

Đó gọi là bảy thức trụ. Vì sao? Vì thức không hoại. Nơi nẻo ác, do khổ thọ đã hủy hoại thức, nên không lập thức trụ. Thiền thứ tư và định vô tưởng đã hủy hoại thức, nên cũng không lập thức trụ. Xứ phi tưởng phi phi tưởng và định diệt tận, thức bị hoại, nên cũng không lập thức trụ.

Chín xứ chúng sinh: Là bảy thức trụ này và chúng sinh nơi trời Vô tưởng, chúng sinh nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng, đó gọi là chín xứ cư trú của chúng sinh. Các chúng sinh đã cư ngụ trong đó.

Y phục, thức ăn uống, giường nằm, do sức của duyên tư duy ưa đoạn kiết sử đạt được đạo, nên nói là bốn Thánh chủng. Hoặc tốt đẹp, hoặc không tốt đẹp, các thứ y phục, thức ăn uống, giường nằm có được đều biết đủ, là ba Thánh chủng. Khổ của mong cầu, giữ gìn, mất mát, ba khổ này làm mất đạo thiện. Vì không ăn thì thân mạng không sống, do đó nên khi nhận được thì tri túc, lìa dục, được an vui hoan hỷ trong tâm. Đó gọi là Thánh chủng thứ tư.

Một trăm lẻ tám thứ thọ: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý sinh ra cánh lạc (xúc), đó gọi là sáu cánh lạc (xúc). Có ba thứ: Mắt trông thấy sắc, ưu, hỷ, xả. Cho đến ý niệm pháp, ưu, hỷ, xả. Trong ấy có thiện, bất thiện: Thiện có mười tám thứ. Bất thiện có mười tám thứ. Đó là ba mươi sáu thứ, nhân với ba thứ (ba thời) thành một trăm lẻ tám thứ. Ba mươi sáu thứ ở quá khứ, ba mươi sáu thứ ở vị lai và ba mươi sáu thứ ở hiện tại.

Vì năm thức không thể phân biệt, nên không có ưu (lo), hỷ (mừng). Trong ý hành tâm số pháp nối tiếp nhau không gián đoạn. Thường nhớ nghĩ là niệm. Nhân duyên nhớ nghĩ tùy thuận nơi pháp ấy. Nhân duyên nhớ nghĩ lần nữa, do sức của thức nhớ nghĩ mạnh, nên không quên pháp quá khứ. Nhân duyên của tâm, tâm số pháp nơi người ngủ nằm mộng thấy có không nhân, không duyên nơi những gì đã thấy trong mộng. Cảnh mộng này hoặc là đời quá khứ, hoặc là đời vị lai. Hoặc mộng thấy nơi đầu người mọc sừng. Là do trước kia người ấy trông thấy sừng bò, tư duy mạnh mẽ: Vì sao con người không mọc sừng? Suy niệm như vậy rồi, người ấy nằm mộng thấy nơi đầu người mọc sừng.

Tâm phân tán, rối loạn, đó gọi là si. Hoặc vì thân bệnh nên si. Hoặc vì bị quỷ mị mê hoặc nên si. Hoặc do nhân duyên của đời trước nên si.

Ba chi: Là chi giới, chi định, chi tuệ.

Thế nào là chi giới? Giới có giáo (hữu biểu), không giáo (vô biểu) của cõi dục. Giới không giáo (vô biểu) trong cõi sắc.

Thế nào là chi định? Là tu mười bốn thứ định.

Thế nào là chi tuệ? Là ba thứ tuệ: Văn, tư và tu. Cõi dục có hai thứ là văn và tư. Cõi sắc có hai thứ là văn và tư. Cõi vô sắc chỉ có một thứ là tu.

Hai thứ luật nghi: (1) Luật nghi tình. (2) Luật nghi giới.

Thế nào là luật nghi tình? Không được khởi tưởng dâm với mẹ mình v.v… Hoặc có tưởng dâm với chị gái, em gái mình. Trông thấy người nữ, không nên nhớ nghĩ, không sinh tưởng nhớ nghĩ đến nữ căn, vì từ tưởng này gây nên rất nhiều tội lỗi, khổ não. Quán thân tâm xa lìa, đó gọi là luật nghi tình.

Loại trừ hẳn các thứ pháp bất thiện của dâm dục. Không hủy hoại giới, hành không nhiễm ô, tâm không chút cấu uế, là trừ bỏ hẳn hoàn toàn bảy thứ dâm dục. Đó gọi là luật nghi giới.

Phiền não, nghiệp ác và báo của nghiệp ác là có ba chướng. Nghiệp trái nghịch, phiền não rất nặng và báo của ba nẻo ác. Nếu có một trong ba việc này thì không được thọ Thánh pháp, nên nói là chướng. Giác quán bất thiện có ba thứ là dâm dục, giận dữ, não hại. Ba thứ này hủy hoại ba thứ giác quán thiện là không dâm, không giận, không não hại.

Có ba thứ bệnh: Dâm, nộ, si (Tham sân si). Bệnh này có ba thứ thuốc trị: (1) Quán thân bất tịnh. (2) Tâm từ luôn nhớ nghĩ đến chúng sinh. (3) Quán mười hai nhân duyên. Đó gọi là ba thứ thuốc trị.

Tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ. Pháp này không thọ nhận tất cả báo ác, hoặc thọ nhận một ít báo. Hoặc đời này, đời sau thọ nhận một ít báo.

Thế nào là tu thân? Là quán vô số các thứ là vô thường v.v…

Thế nào là tu giới? Là giữ giới, không phạm, thường thủ hộ.

Thế nào là tu tâm? Là trừ bỏ giác quán ác, hành giác quán thiện.

Thế nào là tu tuệ? Là phân biệt các thứ pháp thiện, làm tăng trưởng trí tuệ. Người hành thiện dễ được đường tốt đẹp. Kẻ hành bất thiện dễ gặp phải đường ác. Hoặc có người thiện bị đọa vào đường ác. Hoặc có kẻ ác sinh vào đường tốt, vì nhân duyên của lực lớn nơi đời trước và báo dư chưa hết. Hoặc đến khi chết, tâm sau cùng của họ có thiện, bất thiện. Vì thế nên người thiện bị đọa vào đường ác, kẻ bất thiện sinh vào đường tốt.

 

Phẩm thứ 16: TẠP

Bốn quả Sa môn. Sáu pháp. Năm ấm. Trí duyên tận. Đó gọi là phân biệt về bốn quả.

Quả A-la-hán thuộc về chín địa, trừ địa trong Hữu đảnh. Quả thứ ba thuộc về sáu địa, trừ bốn vô sắc, vì không có pháp trí. Quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm thuộc về địa của thiền vị đáo, vì là thân của người chưa lìa dục.

Có bốn thứ điên đảo: Vô thường có tưởng thường, là tâm điên đảo, tưởng điên đảo, kiến điên đảo. Khổ có tưởng vui, bất tịnh có tưởng tịnh, phi ngã (vô ngã) có tưởng ngã, là tâm điên đảo, tưởng điên đảo, kiến điên đảo. Tất cả điên đảo đều do kiến khổ đế đoạn trừ. Vì sao? Vì hành duyên nơi xứ khổ thuộc về ba kiến gồm thâu điên đảo, là thân kiến, biên kiến, trộm kiến (kiến thủ).

Tất cả sáu mươi hai kiến thuộc về năm tà kiến.

Trong năm ấm ngã không thật nhưng thấy có ngã thật, là thân kiến. Thường, đoạn dựa vào nhân duyên quả báo nhưng không nhận biết, là biên kiến. Đối với pháp chân thật của đế, cho là không có đời này, đời sau, không có Niết-bàn và bốn đế v.v… là tà kiến. Không phải lạc, tịnh chân thật mà quán có lạc tịnh. Ví như cây bị chặt gốc vẫn còn đứng, trong đêm từ xa trông thấy cho là con người, là trộm kiến (kiến thủ). Không phải nhân thấy là nhân, không phải đạo thấy là đạo, là trộm giới (giới cấm thủ).

Thân kiến do kiến khổ đế đoạn trừ, vì trong năm ấm chấp ngã. Tưởng thường, tưởng đoạn, do kiến khổ đế đoạn trừ, vì duyên nơi năm ấm hiện tại. Tà kiến hoặc hủy báng khổ thì do kiến khổ đoạn trừ. Như vậy, hủy báng tập, diệt, đạo thì do kiến tập, kiến diệt, kiến đạo đoạn trừ. Trộm kiến (kiến thủ) nếu trong khổ đế chấp có lạc, tịnh v.v… thì do kiến khổ đoạn trừ. Như vậy, trong tập, diệt, đạo chấp có lạc, tịnh v.v…, thì do kiến tập, kiến diệt, kiến đạo đoạn trừ. Trộm giới theo không phải đạo để cầu Niết-bàn, không phải là nhân mà thấy nhân là trộm giới (Giới cấm thủ), do kiến khổ, kiến đạo đoạn trừ.

Sáu tu: Tu đắc, tu hành, tu đoạn, tu trừ, tu phân biệt và tu luật nghi.

Thế nào là tu đắc? Là chưa từng được công đức của pháp thiện mà được. Được rồi thì các công đức khác cũng được.

Thế nào là tu hành? Là đã từng được các công đức, hiện đang hành.

Thế nào là tu đoạn? Là dùng pháp thiện đoạn trừ các kiết sử.

Thế nào là tu trừ? Là có thể trừ bỏ các pháp bất thiện.

Thế nào là tu phân biệt? Là quán phân biệt về thật tướng của thân.

Thế nào là tu luật nghi? Là duyên vượt hơn hẳn đối với sáu căn nhiễm ô nơi cảnh.

Năm căn: Thiền thứ nhất diệt hết ưu căn. Thiền thứ hai diệt hết khổ căn. Thiền thứ ba diệt hết hỷ căn. Thiền thứ tư diệt hết lạc căn. Tam muội vô tướng diệt hết xả căn.

Ba cõi: Là cõi đoạn, cõi vô dục và cõi tận. Trừ kiết ái, các phiền não khác đều đoạn trừ, đó gọi là cõi đoạn. Kiết ái đã đoạn trừ, đó gọi là cõi vô dục. Các pháp khác được đoạn trừ, đó gọi là cõi tận.

Diệt dâm dục được tâm giải thoát. Diệt ngu si được tuệ giải thoát. Nhập trong ngoài không hệ thuộc nhau. Dâm dục là chủ thể trói buộc. Ví như hai con bò bị buộc vào chiếc ách. Do đó nên trong trần (cảnh) có ái, không ái, tâm nên xả, tâm không nên có ái, sân hận.

Mười pháp: Cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, vô lậu, tương ưng, không tương ưng, thiện, vô vi, vô ký, vô vi. Đó gọi là mười pháp.

Năm pháp: Pháp trí duyên nơi năm pháp: Là pháp tương ưng, không tương ưng thuộc cõi dục. Pháp tương ưng, không tương ưng với vô lậu và pháp vô vi thiện. Đó gọi là năm pháp.

Vị tri trí duyên nơi bảy pháp. Là pháp tương ưng, không tương ưng thuộc cõi sắc. Pháp tương ưng, không tương ưng thuộc cõi vô sắc. Pháp tương ưng, không tương ưng với vô lậu và pháp vô vi thiện.

Tha tâm trí duyên nơi ba pháp: Là pháp tương ưng thuộc cõi dục, pháp tương ưng thuộc cõi sắc và pháp tương ưng với vô lậu.

Đẳng trí duyên nơi mười pháp: Là pháp tương ưng, không tương ưng thuộc cõi dục. Pháp tương ưng, không tương ưng thuộc cõi sắc.

Pháp tương ưng, không tương ưng thuộc cõi vô sắc. Pháp tương ưng, không tương ưng với vô lậu và pháp vô vi thiện, pháp vô vi vô ký.

Khổ trí, tập trí, mỗi trí đều duyên nơi sáu pháp: Là pháp tương ưng, không tương ưng thuộc ba cõi. Đó gọi là sáu pháp.

Tận trí duyên nơi một pháp, là pháp vô vi thiện. Đạo trí duyên nơi hai pháp là pháp tương ưng, pháp không tương ưng với vô lậu.

Diệt trí, vô sinh trí duyên nơi chín pháp, là mười pháp trừ pháp vô vi vô ký.

Phiền não của tự địa bị sử của tự địa sai khiến. Sử nhất thiết biến là nhất thiết biến trong địa mình và địa khác. Ngoài ra đều bị sử của tự địa sai khiến.

Có hai thứ pháp: Pháp tương ưng và không tương ưng. Thế nào là pháp tương ưng? Là các tâm, tâm số pháp. Thế nào là pháp không tương ưng? Là mười bảy pháp như đắc v.v…

Mười bảy pháp: (1) Thành tựu. (2) Định vô tưởng. (3) Định diệt tận. (4) Xứ vô tưởng. (5) Mạng căn.  (6) Chủng loại (Chúng đồng phận). (7) Xứ đắc. (8) Vật đắc. (9) Nhập đắc. (10) Sinh. (11) Lão. (12) Trụ. (13) Vô thường. (14) Danh chúng (Danh thân). (15) Tự chúng (Cú thân).  (16) Vị chúng (Văn thân). (17) Tánh phàm phu.

Khi đắc các pháp, pháp không tương ưng với tâm đều đắc, đó gọi là thành tựu.

Tưởng ưa chuộng Niết-bàn, nhàm chán sinh tử, lúc lực của bốn thiền nhiều ít đã diệt mất tâm tâm số pháp, đó gọi là định vô tưởng.

Tưởng chán lìa khó nhọc nên ngừng dứt, lúc sức của định hữu tưởng, vô tưởng nhiều ít đã diệt mất tâm tâm số pháp, đó gọi là định diệt tận.

Sinh trong Vô tưởng thiên, tâm tâm số pháp không hành và đoạn dứt, đó gọi là xứ vô tưởng.

Các căn v.v… của bốn đại nối tiếp nhau không hoại, đó gọi là mạng căn.

Vô số các xứ sinh, thân tâm, lời nói của chúng sinh khác cùng giống nhau, đó gọi là chủng loại của chúng sinh (Chúng đồng phận).

Đến nơi chốn khác mà đạt được, đó gọi là xứ đắc. Vật xen tạp của các hành, đó gọi là vật đắc. Đắc các nhập trong ngoài, đó gọi là nhập đắc.

Các hành khởi là sinh. Hành chín muồi là lão. Hành này chưa diệt là trụ. Hành diệt là vô thường.

Kết hợp chữ nghĩa lại là danh chúng (Danh thân). Hợp danh để nói sự là cú chúng (Cú thân). Hợp để nói rộng là ngữ chúng (Văn thân). Chưa được đạo vô lậu Thánh là tánh phàm phu.

Đó gọi là mười bảy pháp.

Trong các pháp tâm bất tương ưng này, có bao nhiêu thứ là thiện, bao nhiêu thứ là bất thiện và bao nhiêu thứ là vô ký? Có hai thiện, bảy vô ký và tám nên phân biệt.

Định vô tưởng, định diệt tận, là thiện.

Xứ vô tưởng, chủng loại, danh chúng, cú chúng, ngữ chúng, mạng căn, tánh phàm phu, là vô ký.

Thành tựu, sinh, lão, trụ, vô thường, trong thiện là thiện, trong bất thiện là bất thiện, trong vô ký là vô ký. Xứ đắc, vật đắc, nhập đắc có thiện, bất thiện, vô ký.

Mười bảy pháp, trong ấy có bao nhiêu thứ thuộc cõi dục, bao nhiêu thứ thuộc cõi sắc, bao nhiêu thứ thuộc cõi vô sắc và bao nhiêu thứ không hệ thuộc? Có ba thứ thuộc cõi dục. Hai thứ thuộc cõi sắc. Một thứ thuộc cõi vô sắc. Mười một thứ nên phân biệt: Hoặc thuộc cõi dục, hoặc thuộc cõi sắc, hoặc thuộc cõi vô sắc, hoặc không hệ thuộc.

Danh chúng, cú chúng, ngữ chúng là thuộc cõi dục. Định vô tưởng, xứ vô tưởng là thuộc cõi sắc. Định diệt tận là thuộc cõi vô sắc.

Thành tựu, mạng căn, chủng loại, xứ đắc, vật đắc, nhập đắc, tánh phàm phu là thuộc ba cõi. Sinh, lão, trụ, vô thường trong pháp thuộc cõi dục thì thuộc cõi dục, trong pháp thuộc cõi sắc thì thuộc cõi sắc, trong pháp thuộc cõi vô sắc thì thuộc cõi vô sắc, trong pháp không hệ thuộc thì không hệ thuộc.

Mười bảy pháp, trong ấy có bao nhiêu thứ là hữu lậu, bao nhiêu thứ là vô lậu? Mười ba thứ là hữu lậu, bốn thứ nên phân biệt: Sinh, lão, trụ, vô thường: Là trong hữu lậu thì hữu lậu, trong vô lậu thì vô lậu.

Khi được tâm vô lậu đầu tiên, lúc ấy là xả bỏ tánh phàm phu. Lúc sinh nơi cõi khác, cũng xả bỏ tánh phàm phu, được tánh phàm phu của cõi khác. Khi lìa dục thì trong đạo giải thoát thứ chín đã đoạn trừ.

Thế nào là ba vô vi? Là trí duyên tận, phi trí duyên tận và hư không.

Thế nào là trí duyên tận? Là sức của trí tuệ hữu lậu, vô lậu, đoạn trừ các kiết sử, được giải thoát. Đó gọi là trí duyên tận (Trạch diệt).

Thế nào là phi trí duyên tận? Là nhân của vị lai tức nên sinh lại không sinh. Đó gọi là phi trí duyên tận (Phi trạch diệt).

Thế nào là hư không? Là xứ vô sắc không đối, không thể thấy. Đó gọi là hư không.

Nhân cộng y, nhân tương ưng và nhân cộng hữu trước sinh tự giống nhân, làm nhân của các pháp sau chưa sinh.

Như vậy, nhân biến cũng là thứ đệ duyên, là nhân báo trong chúng sinh. Tất cả pháp hữu vi, quả của pháp hữu vi cũng là quả của Niết-bàn. Vì sao? Vì nhân duyên của tất cả pháp hữu vi sinh ra đạo quả Niết-bàn. Các pháp tương ưng trong một duyên một thời cùng hành, cùng duyên nơi tâm tâm số pháp trong tướng khác không phải trong tự tướng, không xứ sở, không phương chốn. Vì sao? Vì duyên nơi tất cả xứ. Lúc đạo sinh thì các kiết sử sắp diệt, thế nên lúc đạo sắp sinh là được giải thoát. Lúc đạo diệt, đạo vô ngại thì sắp diệt đoạn trừ kiết sử. Đạo giải thoát sắp sinh là được giải thoát.

Ba thứ ái: Dục ái, hữu ái, bất hữu ái. Tìm cầu các sự vật, đó gọi là dục ái. Lúc được thì tham tiếc, đó gọi là hữu ái. Do kiến đoạn trừ, mong cầu đoạn trừ, đó gọi là bất hữu ái.

Do tư duy đoạn trừ trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo, trừ trực tư, trực ngữ, trực nghiệp, trực mạng, ỷ (khinh an), xả, các pháp còn lại là pháp của căn.

Bốn niệm chỉ, mỗi mỗi niệm chỉ đều hiện ở trước. Vì sao? Vì phân biệt duyên nơi các pháp. Các pháp tương ưng với cái khác, không tương ưng với chính mình. Trong duyên nơi các pháp, kiết sử nên lìa. Đó gọi là đoạn. Có đoạn nhưng chưa lìa.

Thế nào là đoạn nhưng chưa lìa? Là được khổ trí, chưa được tập trí, do tập đế đã đoạn. Khổ đế đã đoạn. Duyên trong ba đế được hai tín không hoại. Là duyên trong khổ đế, tập đế, diệt đế, được tín pháp không hoại và tín giới không hoại. Duyên trong đạo đế thì được bốn tín không hoại. Tất cả tâm số pháp đều hiện hành tùy theo tâm, vì cùng một duyên.

Như vậy, giới vô giáo là sinh, trụ, lão, hư hoại, đều tùy theo tâm hành.

Tất cả pháp hữu lậu nên đoạn trừ. Vì sao? Vì là cấu uế của tội. Tất cả pháp hữu lậu, vô lậu nên nhận biết. Vì sao? Vì trí duyên nơi tất cả pháp. Các pháp quá khứ, vị lai là xa. Vì sao? Vì không thực hiện các sự việc. Các pháp hiện tại là gần. Vì sao? Vì đang thực hiện các công việc. Vô vi cũng gần. Vì sao? Vì nhanh chóng đạt được. Kiến xứ của tất cả pháp hữu lậu, khi duyên nơi năm kiến thì thành tựu hoặc rất nhiều hay rất ít trong mười chín căn không hoại.

Có hai căn cũng lại là người kiến đế, căn không hoại nhưng chưa lìa dục. Đó gọi là mười chín. Ít nhất là tám căn đoạn bỏ căn thiện, dần đến mạng chung, có thân căn còn lại. Cũng lại là cánh lạc (Xúc) của phàm phu ở cõi vô sắc, có ba sự việc hợp với tình (Căn), duyên nơi thức là năm thứ cánh lạc (xúc): Có đối, tăng ngữ, minh, vô minh, phi minh phi vô minh. Tương ưng với năm thức, đó gọi là xúc có đối. Tương ưng với ý thức, đó gọi là xúc tăng ngữ. Cánh lạc (xúc) nhiễm ô, đó gọi là xúc vô minh. Cánh lạc vô lậu, đó gọi là xúc minh. Cánh lạc hữu lậu không nhiễm ô, đó gọi là xúc phi minh phi vô minh. Có hai đạo được quả: (1) Đoạn trừ kiết sử. (2) Được giải thoát.

Báo của A-la-hán là tâm bát Niết-bàn, vì tất cả pháp đều buông xả.

Bốn hữu: Là sinh hữu, tử hữu, bản hữu, trung hữu. Mới sinh được năm ấm, đó gọi là sinh hữu. Năm ấm lúc chết, đó gọi là tử hữu. Trừ năm ấm sinh tử, ở khoảng giữa là bản hữu. Sau khi chết, năm ấm có thể đến các nẻo khác, đó gọi là trung hữu.

Trí nhẫn của khổ, tập đế duyên nơi các pháp, đó gọi là chán lìa. Chán lìa duyên nơi sự vật. Các trí nhẫn trong bốn đế là lìa dục nên dục diệt.

Ba hữu lậu: Dục, hữu, vô minh. Nơi cõi dục trừ vô minh, các phiền não còn lại, đó gọi là dục hữu lậu. Nơi cõi sắc, vô sắc, trừ vô minh, các phiền não còn lại, đó gọi là hữu hữu lậu. Si hệ thuộc ba cõi là vô minh hữu lậu. Tất cả các lậu này đều diệt hết, lúc ấy tất cả khổ được diệt hết, đắc vị cam lộ của bậc Nhất thiết trí. (Thánh nhân đắc đạo tên là Cù Sa tạo).

Trang: 1 2