SỐ 1520
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA LUẬN ƯU BA ĐỀ XÁ
Tác giả: Bồ tát Bà Tẩu Bàn Đậu
Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Đại sư Lặc Na Ma Đề cùng Tăng Lãng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

Phẩm 1: MỞ ĐẦU

Kinh nói:Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ngụ tại núi Kỳ-xà-quật, thuộc thành Vươngxá, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một vạn hai ngàn người hội đủ, đều là bậc A-la-hán, các lậu đã hết, không còn phiền não, tâm được tự tại, khéo đạt được tâm giải thoát, khéo đạt được tuệ giải thoát, tâm khéo điều phục, là bậc Đại Long nơi loài người, việc nên làm đã làm, mọi sự tạo tác đã hoàn thành, lìa các gánh nặng, đạt được tự lợi, dứt hết các kiết sử, khéo đạt chánh trí, tâm giải thoát, hết thảy tâm đều được tự tại, đạt tới bờ giác bậc nhất.

Chúng Đại Bồ-tát gồm tám vạn người, đều không thoái chuyển nơi đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đều chứng đắc pháp Đà-la-ni, lạc thuyết đại biện tài, chuyển pháp luân không thoái chuyển, từng cúng dường vô lượng trăm ngàn chư Phật, ở nơi trụ xứ của chư Phật gieo trồng các căn thiện, thường được chư Phật khen ngợi, dùng đại từ bi để tu tập thân tâm, khéo hội nhập nơi tuệ Phật, thông đạt về trí lớn, đến nơi bờ giác, tiếng tốt vang khắp vô lượng thế giới, có thể hóa độ vô số trăm ngàn chúng sinh”.

Giải thích: Trong pháp môn này, nơi phẩm thứ nhất nêu rõ về 7 thứ công đức thành tựu. Những gì là bảy? Đó là:

  1. Thành tựu về phần mở đầu.
  2. Thành tựu về chúng hội.
  3. Thành tựu về thời gian thích hợp để Đức Như Lai thuyết pháp.
  4. Thành tựu về chỗ dựa nơi pháp được nêu giảng với oai nghi tùy thuận an trụ.
  5. Thành tựu về chỗ nương dựa nói về nhân.
  6. Thành tựu về đại chúng hiện tiền muốn nghe pháp.
  7. Thành tựu về việc Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp lại.

*

1. Thành tựu về phần mở đầu: Nơi pháp môn này chỉ rõ về 2 thứ thắng nghĩa được thành tựu. Những gì là hai?

  1. Chỉ rõ trong tất cả các pháp môn đây là thành tựu tối thắng.
  2. Chỉ rõ về thành tựu công đức tự tại.

Như thành Vương-xá: Là thù thắng so với tất cả thành xá khác. Núi Kỳ-xà-quật: Là thù thắng so với các núi khác. Như kinh nói: “Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Phật ngụ tại núi Kỳ-xà-quật, thuộc thành Vương-xá v.v…”.

*

2. Thành tựu về chúng hội:4 thứ nghĩa chỉ rõ sự thành tựu.

Những gì là bốn?

  1. Thành tựu về số lượng.
  2. Thành tựu về hành.
  3. Thành tựu về sự thâu tóm công đức.
  4. Thành tựu về oai nghi như pháp trụ.

1. Thế nào là Thành tựu về số lượng? Tức các đại chúng là vô số.

2 . Thế nào là Thành tựu về hành?4 thứ:

1. Hành của các Thanh văn tu Tiểu thừa.

2. Hành của các Bồ-tát tu Đại thừa.

3. Các Bồ-tát tùy thời thị hiện, có khả năng hành Đại thừa. Như nhóm mười sáu vị của Bồ-tát Bạt-đà-bà-la, gồm đủ sự việc không thể nghĩ bàn của bậc Bồ-tát, có thể thị hiện đủ thứ loại hình tướng Ưubà-tắc, Ưu-bà-di, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni.

4. Các vị Thanh văn xuất gia, uy nghi nhất định, không giống với Bồ-tát.

“Đều là bậc A-la-hán v.v…”: Gồm 16 câu, chỉ rõ về sự thành tựu công đức của hàng Thanh văn.

“Đều không thoái chuyển nơi đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng v.v…”: Gồm 13 câu, chỉ rõ về sự thành tựu công đức của bậc Bồ-tát.

* Thành tựu công đức của bậc A-la-hán: 16 câu ấy chỉ rõ về ba thứ môn thâu tóm nghĩa, nên biết. Những gì là ba môn?

Môn 1: Môn thượng thượng khởi.

Môn 2: Môn tổng tướng, biệt tướng.

Môn 3: Môn thâu giữ sự việc.

Môn 1: Môn thượng thượng khởi: Tức các lậu đã hết nên gọi là A-la-hán. Do tâm được tự tại nên gọi là các lậu đã hết. Do tâm không còn phiền não sinh khởi nên gọi là tâm được tự tại. Do khéo đạt được tâm giải thoát, khéo đạt được tuệ giải thoát, nên gọi là tâm được tự tại. Do xa lìa chủ thể nhận thấy, đối tượng được nhận thấy, nên gọi là không còn phiền não. Do khéo đạt được tâm giải thoát, khéo đạt được tuệ giải thoát, nên gọi là tâm khéo điều phục.

Là bậc Đại Long nơi loài người: Tức đi nơi các đường ác như đi nơi đường bằng phẳng, không chút trở ngại. Chỗ nên đi đã đi, chốn nên đến đã đến, việc nên làm đã làm, là bậc Đại Long trong loài người đã có thể đối trị, hàng phục các thứ phiền não oán địch.

Mọi sự tạo tác đã hoàn thành: Tức không còn thọ sinh ở đời sau, như sự việc tương ưng đã thành tựu.

Lìa các gánh nặng: Tức việc nên làm đã làm, mọi sự tạo tác đã hoàn thành, nên đã lìa bỏ gánh nặng của đời sau.

Đạt được tự lợi: Tức đã bỏ gánh nặng, chứng đắc Niết-bàn.

Dứt hết các kiết sử: Đã đạt được tự lợi, đoạn trừ các nhân của phiền não.

Khéo đạt chánh trí, tâm giải thoát: Tức các lậu đã hết.

Hết thảy tâm được tự tại: Tức khéo nhận biết về trí kiến đạo, trí tu đạo.

Đạt tới bờ giác bậc nhất: Tức khéo đạt chánh trí, tâm được giải thoát, khéo đạt thần thông, Tam-muội Vô tránh v.v… với các thứ công đức.

Đại A-la-hán v.v…: Tức tâm được tự tại, đến nơi bờ giác.

Được nhiều người nhận biết: Tức được các bậc vua chúa, vương tử, đại thần, dân chúng, Đế thích, Phạm Thiên vương v.v… đều nhận biết. Lại nữa, các hàng Thanh văn, Bồ-tát, chư Phật, là bậc thắng trí, nên các hàng kia đối với bậc thắng trí đều khéo nhận biết, do đó gọi là Được nhiều người biết đến.

Môn 2: Môn tổng tướng, biệt tướng: Đều là bậc A-la-hán v.v…: Gồm 16 câu, câu đầu là chung, các câu còn lại là riêng. Danh hiệu A-la-hán ấy có 15 thứ nghĩa, nên biết.

1. Ứng hợp: Thọ nhận sự cung kính cúng dường các thức ăn uống, đồ nằm ngồi.

2. Ứng hợp: Dẫn dắt đại chúng, giáo hóa tất cả.

3. Ứng hợp: Đi vào các làng xóm, thành ấp.

4. Ứng hợp: Hàng phục các thứ ngoại đạo.

5. Ứng hợp: Dùng trí tuệ mau chóng quán xét các pháp.

6. Ứng hợp: Không nhanh, không chậm nêu giảng pháp như pháp tương ưng, không hề mệt mỏi.

7. Ứng hợp: Tĩnh tọa nơi chốn thanh vắng. Các thứ thức ăn uống, y phục, vật dụng cho đời sống đều không tích tụ, sống theo hạnh thiểu dục, tri túc.

8. Ứng hợp: Hoàn toàn hành thiện, hành các pháp thiền không vướng mắc.

9. Ứng hợp: Hành theo hành Thánh không.

10. Ứng hợp: Hành theo hành Thánh vô tướng.

11. Ứng hợp: Hành theo hành Thánh vô nguyện.

12. Ứng hợp: Hàng phục tâm thiền định của thế gian.

13. Ứng hợp: Dấy khởi công đức thù thắng của các thông.

14. Ứng hợp: Chứng đắc công đức của đệ nhất nghĩa.

15. Ứng hợp: Nhận biết đúng như thật về chúng đồng sinh đạt các công đức, tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Môn 3: Môn thâu giữ sự việc: 15 câu này thâu giữ 10 thứ công đức, chỉ rõ về quả có thể nêu bày, quả không thể nêu bày.

1. Thâu giữ công đức đạt được, gồm hai câu chỉ rõ. Như kinh nói: “Các lậu đã hết, không còn phiền não sinh khởi”.

2. Thâu giữ các công đức, gồm ba câu: Một câu nêu việc thâu giữ công đức thế gian, như kinh nói: “Tâm được tự tại”. Hai câu nêu việc thâu giữ công đức của bậc Hữu học xuất thế gian, như kinh nói: “Khéo đạt được tâm giải thoát, khéo đạt được tuệ giải thoát”.

3. Thâu giữ công đức không chống trái, thuận theo sự chỉ dạy, hành hóa của Như Lai. Như kinh nói: “Tâm khéo điều phục”.

4. Thâu giữ công đức thù thắng. Như kinh nói: “Là bậc Đại Long nơi loài người”.

5. Thâu giữ công đức thù thắng của chỗ nên làm. Chỗ nên làm tức dựa nơi pháp, cung kính cúng dường, tôn trọng Như Lai. Như kinh nói: “Việc nên làm đã làm”.

6. Thâu giữ công đức đầy đủ: Tức đầy đủ nơi Học địa. Như kinh nói: “Mọi sự tạo tác đã hoàn thành”.

7. Thâu giữ công đức vượt quá: Gồm ba câu: Một là sự thọ nhận vượt quá. Hai là cầu đạt sự cung kính cúng dường về thọ mạng vượt quá. Ba là vượt quá cảnh giới trên dưới, đã vượt quá Học địa. Như kinh nói: “Lìa các gánh nặng, đạt được tự lợi, dứt hết các kiết sử”.

8. Thâu giữ công đức thượng thượng. Như kinh nói: “Khéo đạt chánh trí, tâm giải thoát”.

9. Thâu giữ công đức nên tạo lợi ích cho chúng sinh. Như kinh nói: “Hết thảy tâm đều được tự tại”.

10. Thâu giữ công đức thượng thủ. Như kinh nói: “Đạt tới bờ giác bậc nhất”.

* Thành tựu công đức của bậc Bồ-tát: 13 câu ấy nói về sự thành tựu công đức của bậc Bồ-tát, chỉ rõ về 2 môn thâu tóm nghĩa, nên biết:

Môn 1: Môn chi thượng chi hạ.

Môn 2: Môn thâu giữ sự việc.

Môn 1: Môn chi thượng chi hạ: Đó là tướng chung, tướng riêng, nghĩa này nên biết. Đều không thoái chuyển nơi đạo quả Bồđề Vô thượng: Là tướng chung. Các câu còn lại: Là tướng riêng. Chỗ không thoái chuyển kia có 10 thứ chỉ rõ:

1. Trụ nơi nghe pháp không thoái chuyển. Như kinh nói: “Đều chứng đắc pháp Đà-la-ni”.

2. Ưa thích giảng nói không thoái chuyển. Như kinh nói: “Lạc thuyết đại biện tài”.

3. Thuyết giảng không thoái chuyển. Như kinh nói: “Chuyển pháp luân không thoái chuyển”.

4. Nương dựa nơi bậc thiện tri thức không thoái chuyển: Do nghiệp của thân tâm dựa nơi sắc thân để thâu giữ. Như kinh nói: “Từng cúng dường vô lượng trăm ngàn chư Phật, ở nơi trụ xứ của chư Phật gieo trồng các căn thiện”.

5. Đoạn trừ hết thảy các nghi không thoái chuyển. Như kinh nói: “Thường được chư Phật khen ngợi”.

6. Vì những sự việc gì để thuyết pháp, nhập vào mỗi mỗi các pháp kia không thoái chuyển. Như kinh nói: “Dùng đại từ bi để tu tập thân tâm”.

7. Nhập vào cảnh giới như thật của Nhất thiết trí không thoái chuyển. Như kinh nói: “Khéo hội nhập nơi tuệ Phật”.

8. Dựa nơi ngã không, pháp không, không thoái chuyển. Như kinh nói: “Thông đạt về trí lớn”.

9. Vào cảnh giới như thật không thoái chuyển. Như kinh nói: “Đến nơi bờ giác”.

10. Nên tạo tác chỗ cần tạo tác, trụ trì không thoái chuyển. Như kinh nói: “Có thể hóa độ vô lượng trăm ngàn chúng sinh”.

Môn 2: Môn thâu giữ sự việc: Tức chỉ rõ về các Bồ-tát trụ nơi những Địa thanh tịnh nào, dùng những phương tiện nào, ở những cảnh giới nào để tạo tác nơi cần tạo tác?

Địa thanh tịnh: Tức tám địa trở lên là ba địa với hành vô tướng tịch tĩnh, thanh tịnh.

Phương tiện:4 thứ:

1. Phương tiện thâu giữ pháp diệu, trụ trì pháp diệu: Dùng lực dụng của lạc thuyết vì muôn người mà nêu giảng.

2. Phương tiện thâu giữ thiện tri thức: Dùng việc dựa nơi các bậc thiện tri thức để tạo tác chỗ cần tạo tác.

3. Phương tiện thâu giữ chúng sinh: Do không xả bỏ chúng sinh.

4. Phương tiện thâu giữ trí: Do giáo hóa chúng sinh khiến nhập nơi trí ấy.

Cảnh giới: Dễ hiểu.

Lại có môn thâu giữ sự việc: Chỉ rõ việc thâu giữ công đức thù thắng của các Địa, không giống với công đức của hàng Nhị thừa. Nơi Địa thứ tám, trí không dụng công không giống với Địa dưới, trên. Không giống với Địa dưới: Tức hành dụng công của Địa dưới không thể làm lay động. Không giống với Địa trên: Tức hành vô tướng của Địa trên không thể làm lay động, chỉ tự nhiên mà hành. Nơi Địa thứ chín, đạt được môn Đà-la-ni thắng tấn, đầy đủ bốn vô ngại tự tại. Trong Địa thứ mười, pháp luân không thoái chuyển, được thọ nhận quả vị nơi Phật, như vương tử của Chuyển luân Thánh vương, do có thể cùng thâu tóm công đức.

3. Thế nào là Thành tựu về sự thâu tóm công đức? Tức chỉ rõ dựa vào: Xứ nào? Tâm nào? Trí nào? Cảnh giới nào để hành? Những gì để có thể thực hiện?

Dựa vào xứ nào? Tức dựa vào các bậc thiện tri thức.

Dựa nơi tâm nào? Là dựa nơi tâm của chúng sinh để giáo hóa, tạo lợi ích trọn vẹn cho hết thảy chúng sinh.

Dựa nơi trí nào? Dựa nơi 3 thứ trí: (1) Trí được thọ ký bí mật. (2) Trí của các thông. (3) Trí chân thật.

Dựa vào những cảnh giới nào để hành? Dựa vào những gì để có thể thực hiện? Tức là dựa vào ba thứ trí để thâu tóm, nên biết.

4. Thế nào là Thành tựu về oai nghi như pháp trụ?4 thứ được chỉ rõ:

  1. Bốn chúng vây quanh.
  2. Trước sau.
  3. Cung kính cúng dường.
  4. Tôn trọng tán thán.

Như kinh nói: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn với bốn chúng vây quanh, cung kính cúng dường, tôn trọng tán thán”.

*

3. Thành tựu về thời gian thích hợp để Đức Như Lai thuyết pháp: Tức vì các Bồ-tát thuyết giảng kinh thuộc Đại thừa. Tu-đa-la thuộc Đại thừa này có 17 thứ tên gọi, hiển thị công đức hết sức sâu xa, nên biết.

1. Gọi là Kinh Vô Lượng Nghĩa: Tức thành tựu về nghĩa của chữ, dùng pháp môn này để nêu giảng về pháp của cảnh giới thâm diệu hết mực kia.

2. Gọi là Kinh Tối Thắng: Tức thành tựu Tạng vi diệu tối thắng trong ba Tạng.

3. Gọi là Đại Phương Quảng: Tức vô lượng môn Đại thừa tùy nơi căn trí của chúng sinh để trụ trì thành tựu.

4. Gọi là Pháp giáo hóa Bồ-tát: Tức nhằm giáo hóa các Bồ-tát căn trí thuần thục, thuận theo pháp khí để thành tựu.

5. Gọi là Được Phật hộ niệm: Tức dựa nơi Phật Như Lai để có pháp ấy.

6. Gọi là Pháp bí mật của tất cả chư Phật: Tức pháp thâm diệu ấy chỉ có Phật – Như Lai nhận biết.

7. Gọi là Kho tàng của tất cả Phật: Tức kho tàng Tam-muội, công đức của Như Lai ở nơi kinh này.

8. Gọi là Mật xứ của hết thảy chư Phật: Tức các chúng sinh căn trí chưa thuần thục, không phải là pháp khí thì không trao cho.

9. Gọi là Có thể xuất sinh tất cả chư Phật: Tức lãnh hội pháp môn này thì có thể thành tựu đạo quả Bồ-đề của Phật.

10. Gọi là Đạo tràng của hết thảy chư Phật: Tức nghe được pháp môn này, tất có thể thành tựu quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, không phải là Tu-đa-la khác.

11. Gọi là Pháp luân được chuyển của tất cả chư Phật: Tức pháp môn này có thể phá trừ các thứ chướng ngại.

12. Gọi là Xá-lợi kiên cố của hết thảy chư Phật: Tức là Pháp thân chân như của Như Lai, ở nơi kinh này không bị hủy hoại.

13. Gọi là Kinh theo phương tiện thiện xảo lớn của tất cả chư Phật: Tức dựa nơi pháp môn này để thành tựu Đại Bồ-đề rồi, vì chúng sinh nêu giảng pháp của hàng trời, người, Nhị thừa.

14. Gọi là Kinh giảng nói về một Thừa: Tức pháp môn này hiển bày chỉ rõ về thể rốt ráo nơi đạo quả Bồ-đề Vô thượng của Như Lai, vì hai Thừa chẳng phải là cứu cánh.

15. Gọi là An trụ nơi đệ nhất nghĩa: Vì pháp môn này là trụ xứ rốt ráo của Pháp thân Như Lai.

16. Gọi là Diệu Pháp Liên Hoa:2 thứ nghĩa: Nghĩa ra khỏi nước: Do hàng Tiểu thừa không thể xuất ly hoàn toàn đối với vùng nước bùn đục nơi sinh tử. Lại có nghĩa dụ như hoa sen kia ra khỏi nơi nước bùn, du cho các Thanh văn đi vào an tọa trong đại chúng của Như Lai, như các Bồ-tát an tọa trên các hoa sen, nghe thuyết giảng về cảnh giới thanh tịnh của trí tuệ vô thượng, chứng đắc tạng mật của Như Lai. Nghĩa hoa nở: Do các chúng sinh đối với pháp Đại thừa tâm sinh khiếp nhược, không thể tin tưởng. Thế nên vì họ mở bày, chỉ rõ về Pháp thân thanh tịnh, vi diệu của Như Lai, khiến sinh tâm tin tưởng.

17. Gọi là Pháp môn tối thượng: Tức thâu tóm những thành tựu. Thâu tóm những thành tựu tức thâu giữ vô lượng Danh, Cú, Tự, Thân, Tần-bà-la, kệ A-súc-bà.

Mười bảy câu nơi pháp môn này là chung. Các câu còn lại là riêng. Như kinh nói: “Vì các Bồ-tát thuyết giảng kinh Đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa v.v…”.

*

4. Thành tựu về chỗ dựa nơi pháp được nêu giảng với oai nghi tùy thuận an trụ: Tức chỉ rõ là dựa nơi những pháp nào để nêu giảng? Dựa nơi 3 thứ pháp:

1. Dựa nơi Tam-muội thành tựu. Do Tam-muội thành tựu chỉ rõ về 2 thứ: (1) Thành tựu diệu lực tự tại, thân tâm không động. (2) Lìa tất cả các thứ chướng ngại, tùy nơi diệu lực tự tại. Diệu lực tự tại ấy có 2 loại: Một là vì nhằm tùy thuận chúng sinh nên chỉ rõ sự đối trị, thâu giữ nhận biết các pháp phần Bồ-đề. Hai là vì để đối trị các thứ phiền não bị chấp giữ chặt nơi vô lượng đời đến nay. Như kinh nói: “Thuyết giảng phần kinh này xong, Đức Thế Tôn bèn ngồi kiết già, nhập Tam-muội Vô lượng nghĩa xứ”.

2. Dựa nơi khí thế gian.

3. Dựa nơi thế gian của chúng sinh. Làm chấn động các thế giới, cùng nhận biết về sự việc nơi vô lượng kiếp thời quá khứ. Như kinh nói: “Khi ấy, trời mưa xuống hoa Mạn-đà-la, thứ lớp cho đến: Hoan hỷ chấp tay nhất tâm chiêm ngưỡng Phật”.

*

5. Thành tựu về chỗ nương dựa nói về nhân: Vì các đại chúng kia hiện thấy tướng khác lạ với các sự việc không thể nghĩ bàn, đều cho Đức Như Lai nên vì mình mà giảng nói, đều khao khát ngưỡng mộ, muốn nghe, sinh tâm cho là điều ít có, nên gọi là: “Thành tựu về chỗ nương dựa nói về nhân”. Do đó, phóng ra ánh sáng lớn, chỉ rõ trong các thế giới có vô số các sự việc.

Trước hết là chỉ rõ về sự việc bên ngoài, có sáu thứ chấn động. Tiếp theo là chỉ rõ pháp môn này, bên trong chứng đắc pháp sâu xa, bí mật.

Lại dựa nơi khí thế gian và thế gian của chúng sinh, với số lượng đủ thứ loại, gồm đủ phiền não sai biệt, thanh tịnh sai biệt, Phật, pháp, đệ tử sai biệt, chỉ rõ về Tam bảo.

Lại nhân nơi sai biệt mà có thế giới có Phật, có thế giới không Phật, khiến chúng sinh trông thấy có người tu hành chưa đạt quả, có người tu hành đạt đạo đã chứng đắc quả. Như kinh nói: “Những người tu hành đạt đạo”.

Đủ thứ loại về số: Tức chỉ rõ về vô số thứ loại quán xét. Lược nêu bốn thứ quán xét: Một là tiếp nhận. Hai là nghe pháp. Ba là tu hành. Bốn là vui thích. Như kinh nói: “Bấy giờ, từ nơi tướng bạch hào giữa chặng mày, Đức Phật phóng ra ánh sáng, thứ lớp cho đến: Đem Xá-lợi của Phật, khởi công xây dựng tháp bảy báu để thờ”.

Hành đạo Bồ-tát: Tức là giáo hóa chúng sinh dựa nơi bốn Nhiếp pháp làm phương tiện để thâu giữ. Như kinh nói: “Trong chỗ nêu giảng nên tự thâu giữ”.

*

6. Thành tựu về đại chúng hiện tiền muốn nghe pháp: Thưa hỏi nơi một người: Nhiều người muốn nghe pháp, sinh tâm hy hữu, do đó chỉ thưa hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Như vậy là chỉ rõ đệ tử của Đức Thế Tôn luôn tùy thuận nơi pháp, không chống trái.

Nay, Phật – Thế Tôn hiện bày tướng thần biến: Là vì những ý nghĩa nào? Là vì sẽ nêu giảng pháp lớn, nên hiện bày tướng lớn là dùng làm nhân cho sự giảng nói.

Hiện bày tướng lớn: Vì nêu giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa nên hiện bày tướng điềm lành lớn. Nhằm nêu giảng pháp vi diệu do Như Lai chứng đắc, với những chương, câu, văn tự không thể nghĩ bàn. Có 2 thứ pháp nên tôn kính Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: (1) Hiện thấy rõ các pháp. (2) Lìa các nhân duyên, chỉ tự nơi tâm thành tựu pháp ấy.

Thị hiện vô số các tướng điềm lành: Là nhằm chỉ rõ về các sự việc kia. Như các sự việc ấy cùng hiện bày, ẩn mất, trụ, diệt, nên biết. Do Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi có thể ghi nhớ các sự việc ấy. Do Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã thành tựu về chỗ tạo tác, thành tựu về nhân quả, nên hiện thấy rõ các pháp kia.

Thành tựu về chỗ tạo tác:2 thứ: (1) Thành tựu về công đức. (2) Thành tựu về trí tuệ.

Thành tựu về nhân: Tức thành tựu về Nhất thiết trí.

Nhân duyên: Là tướng.

Quả: Là nêu giảng về pháp lớn.

Vô số quốc độ của Phật: Tức chỉ rõ trong quốc độ kia có vô số sự sai biệt, nên biết.

Quốc độ thanh tịnh vi diệu: Tức là trụ xứ của chúng sinh không còn phiền não. Như kinh nói: “Soi chiếu nơi phương Đông, một vạn tám ngàn thế giới, thứ lớp cho đến: Đều thấy cảnh giới trang nghiêm nơi cõi Phật kia”.

Như Lai là bậc thượng thủ: Tức chỉ cho các Bồ-tát cùng dựa nơi Như Lai để an trụ. Do Đức Như Lai ở trong tất cả đại chúng nơi quốc độ kia luôn được tự tại. Như kinh nói: “Lại thấy chư Phật hiện tại nơi cõi kia v.v…”.

*

7. Thành tựu về việc Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp lại: Từ đoạn này trở xuống: Là nêu rõ về bậc Thánh: Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi dùng trí túc mạng, hiện thấy về tướng nhân quả của quá khứ, thành tựu mười thứ sự như nơi hiện tại, do đó có thể đáp lại câu hỏi của Bồ-tát Di-lặc.

Hiện thấy tướng nhân của quá khứ: Tức tự thấy thân mình, ở trong quốc độ của chư Phật kia, tu tập, hành trì vô số sự việc.

Hiện thấy tướng quả của quá khứ: Là Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi tự thấy thân mình là Bồ-tát Diệu Quang nơi thời quá khứ, nơi trụ xứ của Phật kia, được nghe pháp môn này rồi, vì các chúng sinh thuyết giảng.

Thành tựu mười sự việc. Đó là:

1. Hiện thấy về nhân của ý nghĩa lớn thành tựu.

2. Hiện thấy về nhân của ý nghĩa thâm diệu nơi chương câu văn tự theo thế gian thành tựu.

3. Hiện thấy về nhân hy hữu thành tựu.

4. Hiện thấy về nhân thắng diệu thành tựu.

5. Hiện thấy về nhân lớn nơi sự thọ dụng thành tựu.

6. Hiện thấy về nhân thâu giữ tất cả việc chuyển pháp luân của chư Phật thành tựu.

7. Hiện thấy về nhân chuyển pháp luân của Như Lai là thiện đích thật, vững chắc, thành tựu.

8. Hiện thấy về nhân có thể tăng tiến, hội nhập thành tựu.

9. Hiện thấy về nhân nhớ nghĩ thành tựu.

10. Hiện thấy về nhân của sự việc nơi tự thân từng trải qua thành tựu.

a. Hiện thấy về nhân của ý nghĩa lớn thành tựu: Chỉ rõ nơi câu, nên biết.

  1. Sắp chuyển pháp luân lớn.
  2. Sắp tuôn xuống trận mưa pháp lớn.
  3. Sắp khua vang trống pháp lớn.
  4. Sắp kiến lập ngọn cờ pháp lớn.
  5. Sắp thắp sáng đèn pháp lớn.
  6. Sắp thổi lên loa pháp lớn.
  7. Nhằm không làm gián đoạn trống pháp lớn.
  8. Sắp nêu giảng pháp lớn.

Tám câu này chỉ rõ về việc Đức Như Lai sắp thuyết giảng pháp lớn. Những gì là tám thứ nghĩa lớn? Đó là:

Kẻ hồ nghi: Nhằm đoạn trừ nghi hoặc.

Người đã đoạn trừ nghi: Khiến tăng trưởng trí thân thuần thục.

Căn thành thục: Vì họ nêu giảng hai thứ cảnh giới mật: Cảnh giới mật của Thanh văn và cảnh giới mật của Bồ-tát.

Hai câu nói về trống pháp lớn: Chỉ rõ việc nghe pháp từ xa.

Vào cảnh giới mật: Tức khiến tăng tiến, chọn lấy nghĩa thanh tịnh tối thượng.

Chọn lấy nghĩa thanh tịnh tối thượng: Tức tăng tiến, chọn lấy Nhất thiết trí hiện thấy.

Chọn lấy Nhất thiết trí hiện thấy: Tức vì tất cả pháp kiến lập ý nghĩa nơi danh tự, chương, câu.

Kiến lập ý nghĩa nơi danh tự chương câu: Là khiến hội nhập nơi trí chứng đắc không thể nêu bày theo hành chuyển pháp luân.

1. Hiện thấy về nhân của ý nghĩa thâm diệu nơi chương câu văn tự theo thế gian thành tựu: Như kinh nói: “Tôi ở nơi chư Phật thời quá khứ từng thấy điềm lành này, thứ lớp cho đến: Nên hiện bày điềm lành ấy”.

2. Hiện thấy về nhân hy hữu thành tựu: Do vô lượng thời gian không thể thủ đắc.

Không thể nghĩ bàn, không thể nêu xưng, không thể lường tính: Tức chỉ rõ chỗ vượt quá số lượng A-tăng-kỳ kiếp không thể thủ đắc.

Lại còn chỉ rõ về năm thứ kiếp: Đêm, ngày, tháng, mùa, năm. Chỉ rõ về vô lượng vô biên kiếp kia. Như kinh nói: “Như về thời quá khứ vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp, bấy giờ có Đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, thứ lớp cho đến: Chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng thành tựu Nhất thiết chủng trí”.

3. Hiện thấy về nhân thắng diệu thành tựu: Tức chỉ rõ về tự thọ dụng của chư Phật, Bồ-tát. Như kinh nói: “Tiếp theo lại có Đức Phật cũng hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, thứ lớp cho đến: Pháp được nêu giảng các phần đầu, giữa, sau đều thiện”.

4. Hiện thấy về nhân lớn của sự thọ dụng thành tựu: Thời ấy, vương tử thọ nhận sự an lạc thắng diệu, đều bỏ nhà, xuất gia. Lại nữa, đại chúng kia, vào bấy giờ, tâm không chút mệt mỏi. Như kinh nói: “Đức Phật sau cùng kia, lúc chưa xuất gia, thứ lớp cho đến: Phật thọ ký rồi, liền ngay vào giữa đêm ấy nhập Niết-bàn vô dư”.

5. Hiện thấy về nhân thâu giữ tất cả hành chuyển pháp luân của chư Phật thành tựu: Tức pháp luân không bị đoạn mất. Như kinh nói: “Sau khi Phật diệt độ, Bồ-tát Diệu Quang giữ lấy kinh Diệu Pháp Liên Hoa trải qua đủ tám mươi tiểu kiếp, vì mọi người diễn nói”.

6. Hiện thấy về nhân chuyển pháp luân của Như Lai là thiện đích thật, vững chắc, thành tựu: Tức sau khi Phật diệt độ, trải qua vô lượng thời gian thuyết giảng chánh pháp. Như kinh nói: “Tám người con của Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều thờ Bồ-tát Diệu Quang làm thầy, thứ lớp cho đến: Đều khiến tâm kiên định nơi đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng”.

7. Hiện thấy về nhân có thể tăng tiến hội nhập thành tựu: Tức chỉ cho các vị vương tử kia chứng đắc Đại Bồ-đề. Như kinh nói: “Các vị vương tử ấy, thứ lớp cho đến: Đều thành tựu Phật đạo”.

8. Hiện thấy về nhân nhớ nghĩ thành tựu: Tức vì người khác thuyết giảng giáo pháp, tạo lợi ích cho muôn người. Như kinh nói: “Người thành Phật sau cùng tên là Nhiên Đăng, thứ lớp cho đến: Tôn trọng, tán thán”.

9. Hiện thấy về nhân của sự việc nơi tự thân từng trải qua, thành tựu: Do nơi tự thân thọ nhận diệu lạc thù thắng. Như kinh nói: “Bồ-tát Di-lặc nên biết, thứ lớp cho đến: Được Phật hộ niệm”.

Ông chính là Cầu danh: Tức chỉ rõ việc nhận biết các sự việc quá khứ. Lại chỉ rõ việc đạt được pháp ấy đầy đủ.

***

Phẩm 2: PHƯƠNG TIỆN

Kinh nói:Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhập Tam-muội hết mực thâm diệu, chánh niệm không động, dùng trí như thật để quán xét. Rồi từ nơi Tam-muội an nhiên ra khỏi định, nói với Xá-lợi-phất: Này Tôn giả Xálợi-phất! Trí tuệ của chư Phật là hết sức sâu xa, vô lượng. Môn trí tuệ ấy là khó thấy, khó hiểu, khó biết, khó lãnh hội, khó vào. Chỗ chứng đắc của Như Lai, hết thảy hàng Nhị thừa đều không thể nhận biết. Vì sao? Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như Lai, bậc Ứng Chánh Biến Tri, đã từng gần gũi cúng dường vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha Phật, nơi trụ xứ của chư Phật, hành trì trọn vẹn theo con đường tu tập các pháp của chư Phật, cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như Lai đã ở nơi vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha kiếp tinh tấn, dũng mãnh, mọi sự tạo tác đều thành tựu, tiếng tốt vang khắp.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như Lai đã thành tựu đầy đủ các pháp ít có. Pháp khó lãnh hội, Như Lai đều có thể nhận biết. Pháp khó lãnh hội ấy, chư Phật – Như Lai đều tùy chỗ thích hợp để thuyết giảng, ý nghĩa sâu xa khó hiểu, hết thảy hàng Nhị thừa đều không thể nhận biết. Vì sao? Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Vì chư Phật – Như Lai luôn tự tại nói về nhân thành tựu. Như Lai đã thành tựu vô số các thứ phương tiện, vô số các loại tri kiến, vô số các loại niệm quán, vô số các thứ ngôn từ.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như Lai từ khi thành Phật đến nay, nơi mỗi mỗi xứ kia đã luôn diễn nói rộng về giáo pháp, dùng vô số các phương tiện để dẫn dắt chúng sinh, đối với các nơi chốn vướng chấp đều khiến được giải thoát.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tri kiến của Như Lai theo phương tiện đến nơi bờ giác. Tri kiến của Như Lai rộng lớn, sâu xa, không chướng ngại, gồm các lực, vô sở úy, pháp bất cộng, căn, lực, pháp Bồ-đề phần, thiền định, giải thoát, Tam-muội, Tam-ma-bạt-đề, đều đã đầy đủ.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nẻo vào sâu của chư Phật – Như Lai là không biên vực, thành tựu các thứ pháp chưa từng có. Như Lai có thể phân biệt về vô số thứ loại, khéo giảng nói về các pháp với ngôn từ dịu dàng, hòa ái, làm vui lòng mọi người.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Hãy dừng lại ở đây, không nên nói nữa! Pháp hy hữu bậc nhất, khó lãnh hội mà Phật đã thành tựu, chỉ có Phật với Phật mới có thể giảng nói. Chư Phật – Như Lai có thể nhận biết về thật tướng rốt ráo của pháp kia. Chỉ có Phật – Như Lai mới nhận biết rõ về tất cả các pháp. Chỉ có Phật – Như Lai mới có thể thuyết giảng về tất cả các pháp: Những pháp nào? Pháp như thế nào? Pháp tương tợ ra sao? Pháp có tướng như thế nào? Thể nơi pháp ra sao? Hết thảy các pháp như vậy, Như Lai đều hiện thấy, không phải là không hiện thấy”.

Luận nêu:

* Từ đây trở xuống: Chỉ rõ về tướng nhân quả nơi pháp được thuyết giảng, nên biết. Như kinh nói: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhập Tam-muội hết mực thâm diệu, chánh niệm không động, dùng trí như thật để quán xét. Rồi từ nơi Tam-muội an nhiên ra khỏi định, nói với Xá-lợi-phất”: Tức chỉ rõ Như Lai đạt được diệu lực tự tại. Như Lai nhập định, không thể vì sợ hãi mà thức giấc.

Vì sao chỉ nói với Tôn giả Xá-lợi-phất, không nói với các vị Thanh văn khác? Là vì tùy theo trí tuệ của vị ấy sâu xa, tương ưng với Như Lai.

Vì sao không nói với các vị Bồ-tát?5 thứ nghĩa:

  1. Vì sự việc ứng hợp với các Thanh văn.
  2. Vì nhằm khiến cho các Thanh văn xoay chuyển hướng đến Đại Bồ-đề.
  3. Giúp đỡ đối với các Thanh văn tâm khiếp nhược, sợ hãi.
  4. Vì khiến cho những người khác khéo suy niệm.
  5. Vì các Thanh văn không khởi tâm: “Mọi sự tạo tác đã hoàn thành”.

“Trí tuệ của chư Phật là hết mực sâu xa, vô lượng”: Tức vì muốn các đại chúng sinh tâm tôn trọng, hoàn toàn muốn nghe Đức Như Lai thuyết giảng.

Nói hết sức sâu xa: Tức hiển bày 2 thứ nghĩa hết sức sâu xa.

  1. Chứng đắc hết sức sâu xa: Tức trí tuệ của chư Phật là hết sức sâu xa vô lượng.
  2. Giáo pháp (A-hàm) hết sức sâu xa: Tức môn trí tuệ hết sức sâu xa vô lượng.

Hết sức sâu xa: Là tướng chung. Phần còn lại: Là tướng riêng.

Chứng đắc hết sức sâu xa:5 thứ:

  1. Nghĩa vô cùng sâu xa. Tức dựa vào những ý nghĩa thâm diệu nào.
  2. Thật thể vô cùng sâu xa.
  3. Nội chứng vô cùng sâu xa.
  4. Chỗ nương dựa vô cùng sâu xa.
  5. Sự sâu xa hết mực ấy là vô thượng.

Cái gì là vô cùng sâu xa? Tức là Đại Bồ-đề. Đại Bồ-đề tức là đối tượng được chứng đắc của Như Lai, là đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Vô cùng sâu xa như thế nào? Tức là hết thảy hàng Nhị thừa đều không thể nhận biết.

Nói trí tuệ: Tức là nghĩa trí Nhất thiết chủng Nhất thiết trí. Như kinh nói: “Trí tuệ của chư Phật là hết sức sâu xa vô lượng”.

Giáo pháp (A-hàm) vô cùng sâu xa: Chỉ rõ có 8 thứ:

1. Thọ trì, đọc tụng vô cùng sâu xa. Như kinh nói: “Như Lai, bậc Ứng Chánh Biến Tri, đã từng gần gũi cúng dường vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha Phật”.

2. Tu hành vô cùng sâu xa. Như kinh nói: “Nơi trụ xứ của chư Phật, hành trì trọn vẹn theo con đường tu tập các pháp của chư Phật, cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng”.

3. Quả hành vô cùng sâu xa. Như kinh nói: “Như Lai đã ở nơi vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha kiếp tinh tấn dũng mãnh, mọi sự tạo tác đều thành tựu”.

4. Tâm nơi công đức tăng trưởng vô cùng sâu xa. Như kinh nói: “Tiếng tốt vang khắp”.

5. Tâm đạt sự thích thú vi diệu vô cùng sâu xa. Như kinh nói: “Như Lai đã thành tựu đầy đủ các pháp ít có”.

6. Sự sâu xa vô cùng là vô thượng. Như kinh nói: “Pháp khó lãnh hội, Như Lai đều có thể nhận biết”.

7. Hội nhập vô cùng sâu xa: Tức về danh, tự, chương, câu, ý nghĩa đều khó đạt được, tự tại trụ trì không giống với ngoại đạo. Nói về pháp nhân duyên, nên gọi là vô cùng sâu xa. Như kinh nói: “Pháp khó lãnh hội ấy, chư Phật – Như Lai đều tùy chỗ thích hợp để thuyết giảng, ý nghĩa sâu xa khó hiểu”.

8. Chỗ tạo sự trụ trì là vô cùng sâu xa, không cùng với hàng Nhị thừa. Như kinh nói: “Hết thảy hàng Nhị thừa đều không thể nhận biết”.

Như vậy là đã nói xong phần công đức của pháp vi diệu.

* Tiếp theo: Nói về sự thành tựu công đức nơi bậc Pháp sư của Như Lai: Như kinh nói: “Vì sao? Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Vì chư Phật – Như Lai luôn tự tại nói về nhân thành tựu”. Như Lai đã thành tựu 4 thứ công đức, nên có thể hóa độ chúng sinh. Những gì là bốn?

1. Thành tựu về trụ: Như kinh nói: “Như Lai đã thành tựu vô số các thứ phương tiện”. Vô số các thứ phương tiện tức từ trời Đâusuất giáng thần v.v… cho đến thị hiện nhập Niết-bàn.

2. Thành tựu về giáo hóa: Như kinh nói: “Thành tựu vô số các loại tri kiến”. Vô số các loại tri kiến tức chỉ rõ các nhân nhiễm, tịnh.

3. Thành tựu về công đức rốt ráo: Như kinh nói: “Thành tựu vô số các loại niệm quán”. Vô số các loại niệm quán tức nhân duyên thành tựu của việc nêu giảng pháp kia, như pháp tương ưng.

4. Thành tựu về sự thuyết giảng: Như kinh nói: “Thành tựu vô số các thứ ngôn từ”. Vô số các thứ ngôn từ tức dùng bốn trí vô ngại, dựa vào những danh, tự, chương, câu nào, tùy theo những chúng sinh nào có thể thọ nhận để vì họ mà nêu giảng.

Lại còn có nghĩa: Vô số các thứ phương tiện: Tức chỉ rõ về các pháp tà của ngoại đạo, với đủ các thứ lỗi lầm như vậy như vậy. Lại chỉ rõ về chánh pháp của chư Phật, với vô số các thứ công đức như vậy như vậy. Như kinh nói: “Như Lai từ khi thành Phật đến nay, nơi mỗi mỗi xứ kia đã luôn diễn nói rộng về giáo pháp, dùng vô số các phương tiện để dẫn dắt chúng sinh, đối với các nơi chốn vướng chấp đều khiến được giải thoát”. Lại có vô số các thứ phương tiện: Tức là dùng phương tiện khiến nhập nơi các pháp thiện. Lại nữa, phương tiện: Là đoạn trừ các thứ nghi. Lại nữa, phương tiện: Là khiến hội nhập nơi trí thù thắng tăng thượng. Lại nữa, phương tiện: Là dựa nơi bốn Nhiếp pháp để thâu giữ các chúng sinh, khiến họ được giải thoát.

Các nơi chốn vướng chấp: Tức vướng mắc nơi các chốn, xứ kia. Hoặc chấp nơi các cõi, hoặc chấp nơi các địa, hoặc chấp nơi các phần, hoặc chấp nơi các thừa. Chấp nơi các cõi: Tức chấp vướng nơi ba cõi: Dục, Sắc, Vô sắc. Chấp nơi các địa: Tức chấp nơi các cảnh giới, giữ lấy Tam-muội, thiền định, cho đến địa của Phi phi tưởng và định diệt tận. Chấp nơi các phần: Tức như chấp về phần tại gia, xuất gia. Chấp nơi phần tại gia: Tức chấp mình với đồng loại tạo tác vô số các thứ nghiệp theo tà kiến. Chấp nơi phần xuất gia: Tức chấp về tiếng khen, lợi dưỡng, về vô số các thứ giác ngộ phiền não. Chấp nơi các thừa: Tức chấp về thừa Thanh văn, thừa Bồ-tát. Chấp về thừa Thanh văn: Tức ưa thích thọ trì giới Tiểu thừa, cầu đạt bốn quả: Tuđà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Chấp về Đại thừa: Tức chấp về lợi dưỡng, cung kính cúng dường. Chấp phân biệt về quán xét vô số pháp tướng, cho đến Phật địa.

Vô số các loại tri kiến: Tức tự thân thành tựu cảnh giới không thể nghĩ bàn, cùng với hàng Thanh văn, Bồ-tát. Như kinh nói: “Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tri kiến của Như Lai theo phương tiện đến nơi bờ giác”. Đến nơi bờ giác: Tức thù thắng so với tất cả các Bồ-tát khác.

Vô số các loại niệm quán: Như kinh nói: “Này Tôn giả Xá-lợiphất! Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, không chướng ngại, gồm các lực, vô sở úy, pháp bất cộng, căn, lực, pháp Bồ-đề phần, thiền định, giải thoát, Tam-muội, Tam-ma-bạt-đề, đều đã đầy đủ”.

Lại nữa: Thành tựu thứ nhất: Là có thể hóa độ chúng sinh, dựa nơi các bậc thiện tri thức để thành tựu.

Thành tựu thứ hai: Đối với chúng sinh căn trí đã thuần thục, khiến được giải thoát.

Thành tựu thứ ba: Là nơi chốn của diệu lực tự tại, hàng phục, đạt thanh tịnh.

Thành tựu thứ tư:7 thứ:

1. Vô số các thứ thành tựu: Như kinh nói: “Này Tôn giả Xálợi-phất! Nẻo vào sâu của chư Phật – Như Lai là không biên vực, thành tựu các thứ pháp chưa từng có”.

2. Ngôn từ thành tựu: Tức đạt được năm thứ âm thanh, ngôn ngữ hay đẹp, để thuyết pháp. Như kinh nói: “Như Lai có thể phân biệt về vô số các thứ loại, khéo giảng nói về các pháp với ngôn từ dịu dàng, hòa ái, làm vui lòng mọi người”.

3. Tướng thành tựu: Như kinh nói: “Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Hãy dừng lại ở đây, không nên nói nữa!”. Tức có chúng sinh là pháp khí, tâm đã đầy đủ.

4. Gắng nhận lãnh thành tựu: Tức tất cả chúng sinh có thể hóa độ đều nhận biết Như Lai đã thành tựu công đức hy hữu bậc nhất, có thể thuyết pháp. Như kinh nói: “Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Pháp hy hữu bậc nhất, khó lãnh hội mà Phật đã thành tựu”.

5. Vô lượng chủng loại thành tựu: Nêu bày không thể hết. Như kinh nói: “Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Chỉ có Phật với Phật mới có thể giảng nói. Chư Phật – Như Lai có thể nhận biết về thật tướng rốt ráo của pháp kia”. Nói thật tướng: Tức là thể bất biến của Pháp thân, Như Lai tạng.

6. Nhận biết về thể thành tựu: Hết thảy các pháp do Như Lai nêu giảng là do Như Lai tự chứng đắc. Như kinh nói: “Này Tôn giả Xálợi-phất! Chỉ có Phật – Như Lai mới nhận biết rõ về tất cả các pháp”.

7. Tùy thuận nơi tâm ý của chúng sinh, vì họ thuyết giảng pháp tu tập thành tựu. Như kinh nói: “Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Chỉ có Phật – Như Lai mới có thể thuyết giảng về tất cả các pháp”.

Thứ nhất: Là dùng vô số các pháp môn để thâu giữ chúng sinh. Thứ hai: Là khiến chúng sinh an trụ, không tán loạn. Thứ ba: Là khiến chọn lấy. Thứ tư: Là khiến được giải thoát. Thứ năm: Là khiến tu hành thành tựu, đạt được pháp đối trị. Thứ sáu: Là có thể khiến tu tập tăng tiến thành tựu. Thứ bảy: Là khiến tu tập đạt được không mất. Bảy thứ pháp này là các chúng sinh tự thân tạo tác, khéo thành tựu.

Lại cùng giáo hóa khiến thành tựu: Tức dựa nơi pháp chứng đắc. Lại thuyết giảng thành tựu: Là dựa nơi pháp được thuyết giảng. Hai thứ pháp ấy như vừa trình bày ở trước. Dựa nơi hai thứ pháp đó, có những thứ lớp nào để có thể tu tập? Tức nơi phần văn trước, đã được nhắc lại, nên biết.

Lại nữa: Dựa nơi pháp chứng đắc có 5 thứ:

  1. Những pháp gì?
  2. Pháp như thế nào?
  3. Pháp tương tợ ra sao?
  4. Tướng của pháp như thế nào?
  5. Thể nơi pháp ra sao?

Những pháp gì? Tức là pháp của hàng Nhị thừa, pháp của Phật. Pháp như thế nào? Tức là dấy khởi vô số các sự việc để nêu giảng. Pháp tương tợ ra sao? Tức dựa nơi ba thứ môn để đạt thanh tịnh.

Tướng của pháp như thế nào? Tức là ba thứ nghĩa về pháp một tướng.

Thể nơi pháp ra sao? Tức là không có hai thể. Không có hai thể tức nơi vô lượng thừa chỉ có một Phật thừa, không có hai Thừa.

Lại còn có nghĩa: Những pháp gì? Tức là pháp hữu vi, pháp vô vi.

Pháp như thế nào? Tức là pháp nhân duyên, pháp không phải là nhân duyên.

Pháp tương tợ ra sao? Tức như pháp thường, pháp vô thường v.v…

Tướng của pháp như thế nào? Tức là pháp có ba tướng như sinh v.v… Pháp có ba tướng như không sinh v.v…

Thể nơi pháp ra sao? Tức là thể của năm ấm. Thể của chẳng phải năm ấm.

Lại nữa: Pháp tương tợ ra sao? Tức là pháp vô thường, pháp hữu vi, pháp nhân duyên.

Tướng của pháp như thế nào? Tức pháp có thể thấy tướng v.v…

Thể nơi pháp ra sao? Đó là năm Ấm, là chủ thể giữ lấy, có thể giữ lấy. Do năm Ấm là thể của Khổ, Tập. Lại nữa, năm Ấm là thể của Đạo đế.

Lại có nghĩa khác: Dựa nơi pháp được thuyết giảng mà nói.

Những pháp gì? Tức như danh, cú, tự, thân.

Pháp như thế nào? Tức dựa nơi pháp do Như Lai thuyết giảng.

Pháp tương tợ ra sao? Tức chủ thể giáo hóa, có thể giáo hóa chúng sinh.

Tướng của pháp như thế nào? Là dựa nơi âm thanh để giữ lấy, nên dựa nơi âm thanh để giữ lấy pháp ấy.

Thể nơi pháp ra sao? Tức nghĩa giả danh là thể tướng nơi các pháp.

* Từ đây trở xuống: Là dựa nơi 3 thứ nghĩa để chỉ rõ:

  1. Nghĩa quyết định.
  2. Nghĩa hồ nghi.
  3. Nghĩa dựa nơi sự việc gì để hồ nghi?

Nghĩa quyết định: Tức có bậc Thanh văn dùng phương tiện chứng đắc pháp sâu xa, tạo tâm quyết định. Hoặc ở trong đạo Thanh văn, đạt được phương tiện chứng đắc Niết-bàn. Như vậy hai thứ pháp chứng đắc là chỉ rõ về pháp hữu vi, vô vi. Như kinh nói: “Bấy giờ, trong đại chúng có các Thanh văn, là bậc A-la-hán dứt sạch các lậu, thứ lớp cho đến: Cũng được pháp này nơi Niết-bàn”.

Nghĩa hồ nghi: Tức chỉ cho hàng Nhị thừa, do không thể nhận biết nên sinh hồ nghi. Như kinh nói: “Nhưng nay không nhận biết chỗ hướng tới của nghĩa ấy”.

Nghĩa dựa nơi sự việc gì để hồ nghi: Tức nghe Đức Như Lai nêu giảng: Giải thoát của hàng Thanh văn cùng với giải thoát của Phật không khác, do đấy sinh nghi. Sinh nghi tức là sinh nghi trong nhân. Sự việc này như thế nào? Ở đây, do Như Lai luôn giảng nói về cảnh giới hết sức sâu xa, trước sau đều nêu giảng hết sức sâu xa, không đồng với Thanh văn, vì thế nên sinh nghi. Như kinh nói: “Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất nhận biết về tâm nghi hoặc của bốn chúng, thứ lớp cho đến: Nói kệ v.v…”.

* Từ đoạn này trở đi: Là dựa nơi 4 thứ sự việc để nêu bày.

Những gì là bốn?

  1. Tâm quyết định.
  2. Nhân nơi thọ ký.
  3. Nhận lấy thọ ký.
  4. Trao cho thọ ký.

Thế nào là Tâm quyết định? Tức là các người đã sinh sợ hãi thì khiến họ đoạn trừ, vì tạo lợi ích cho hai loại người, do đấy Như Lai có tâm quyết định. Những người sợ hãi này có 5 thứ, nên biết:

1. Sợ hãi vì tổn giảm: Nghĩa là các chúng sinh theo Tiểu thừa, lãnh hội âm thanh được nêu giảng, chấp giữ cho là thật, hủy báng cho không có Đại thừa, nói như vầy: “Như Lai nêu giảng nói quả A-la-hán là Niết-bàn rốt ráo. Chúng ta hoàn toàn chọn lấy Niết-bàn như vậy”. Do đó nghe nói A-la-hán không nhập Niết-bàn thì theo đấy mà sợ hãi.

2. Sợ hãi vì nhiều việc: Tức chỉ cho chúng sinh nơi Đại thừa, nghe nói đạo Bồ-tát với số lượng kiếp hành trì lâu xa, cùng vô số các thứ hạnh khổ, nên sinh tâm như vầy: “Phật đạo lâu xa! Chúng ta ở trong vô lượng vô biên kiếp hành trì hạnh Bồ-tát phải nhận chịu nhiều khổ cực”. Nghĩ như vậy nên sinh tâm sợ hãi, chọn lấy thừa khác.

3. Sợ hãi vì điên đảo: Nghĩa là tâm phân biệt có ngã, ngã sở, vô số các pháp bất thiện nơi thân kiến, như vậy nên sợ hãi.

4. Sợ hãi vì tâm hối tiếc: Tức như Đại đức Xá-lợi-phất v.v… khởi tâm như vầy: “Ta không nên tu tập, chứng đắc pháp Tiểu thừa như vậy”. Đã có tâm hối tiếc như thế nên tự dừng dứt. Tức tâm hối tiếc ấy gọi là sợ hãi. Nghĩa ấy nên biết.

5. Sợ hãi vì dối gạt: Tức chỉ hàng Thanh văn tăng thượng mạn khởi tâm như vầy: Vì sao Như Lai dối gạt chúng ta? Như thế nên sợ hãi.

Thế nào là Nhân nơi thọ ký? Như kinh nói: “Thôi, thôi! Này Tôn giả Xá-lợi-phất không nên nói nữa! Nếu nói sự việc ấy thì hết thảy hàng trời, người ở thế gian đều sinh sợ hãi”. Việc nhân nơi thọ ký sinh sợ hãi có 3 thứ nghĩa:

1. Muốn khiến cho các đại chúng kia tìm cầu cảnh giới sâu xa.

2. Nhằm khiến cho các đại chúng sinh tâm tôn trọng, hoàn toàn muốn nghe Như Lai thuyết pháp.

3. Nhằm khiến cho các Thanh văn tăng thượng mạn lìa khỏi pháp tòa, đứng dậy ra đi.

Thưa thỉnh lần hai: Tức chỉ rõ vô lượng chư Phật thời quá khứ đã giáo hóa chúng sinh. Như kinh nói: “Vô số các chúng hội ấy, thứ lớp cho đến: Nghe Phật thuyết giảng tức có thể kính tin”.

Thưa thỉnh lần ba: Tức chỉ rõ về Phật hiện tại giáo hóa chúng sinh. Như kinh nói: “Nay trong pháp hội này, ví như chúng ta, thứ lớp cho đến: Suốt trong đêm dài sinh tử luôn được an ổn, đạt nhiều lợi ích”.

Thế nào là Nhận lấy thọ ký? Do như Tôn giả Xá-lợi-phất v.v… muốn được thọ ký. Như kinh nói: “Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợiphất: Ông đã ba lần thưa thỉnh, Như Lai há không giảng nói? Ông phải nên lắng nghe v.v…”.

Thế nào là Trao cho thọ ký?6 thứ, nên biết:

  1. Chưa nghe, khiến nghe.
  2. Nêu giảng.
  3. Dựa vào những nghĩa nào?
  4. Khiến an trụ.
  5. Dựa nơi pháp.
  6. Nhằm ngăn chận.

Chưa nghe, khiến nghe: Như kinh nói: “Này Tôn giả Xá-lợiphất! Pháp vi diệu như vậy, chư Phật – Như Lai lúc này mới giảng nói. Như hoa Ưu-đàm-bát v.v…”.

Nêu giảng: Như kinh nói: “Như Lai đã dùng vô số các phương tiện, vô số các thứ nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để giảng nói về pháp”. Vô số các thứ nhân duyên tức chỉ cho ba Thừa. Ba Thừa ấy chỉ có danh tự, chương câu, ngôn thuyết, không phải là có thật nghĩa. Do thật nghĩa ấy là không thể nêu bày.

Dựa vào những nghĩa nào? Như kinh nói: “Này Tôn giả Xálợi-phất! Chư Phật Thế Tôn chỉ do một nhân duyên đại sự nên xuất hiện ở đời”. Một đại sự ấy dựa nơi 4 thứ nghĩa nên biết:

1. Nghĩa vô thượng: Chỉ trừ Như Lai là bậc Nhất thiết trí nhận biết, lại không có sự việc nào khác. Như kinh nói: “Vì nhằm mở bày tri kiến của Phật, khiến chúng sinh nhận biết, đạt được thanh tịnh, nên xuất hiện ở đời”. Tri kiến của Phật: Tức Như Lai có thể chứng đắc, do nhận biết đúng như thật về nghĩa sâu xa kia.

2. Nghĩa đồng: Tức Pháp thân của Phật và Pháp thân của hàng Nhị thừa là bình đẳng. Như kinh nói: “Nhằm chỉ rõ cho chúng sinh về tri kiến của Phật, nên xuất hiện ở đời”. Pháp thân bình đẳng: Tức Pháp thân Phật tánh không sai khác.

3. Nghĩa không nhận biết: Do hết thảy hàng Nhị thừa đều không thể nhận biết về nơi chốn chân thật kia. Không nhận biết về nơi chốn chân thật: Tức không nhận biết cứu cánh chỉ là một Phật thừa. Như kinh nói: “Nhằm khiến cho chúng sinh tỏ ngộ về tri kiến của Phật, nên xuất hiện ở đời”.

4. Nghĩa vì khiến chứng đắc quả vị không thoái chuyển: Tức chỉ rõ là trao cho vô lượng trí nghiệp. Như kinh nói: “Nhằm khiến cho chúng sinh hội nhập nơi tri kiến của Phật nên xuất hiện ở đời”.

Lại còn chỉ rõ: Tức vì các Bồ-tát có tâm nghi, khiến nhận biết đúng như thật để tu tập.

Lại còn tỏ ngộ, hội nhập: Tức người chưa phát tâm Bồ-đề thì khiến phát tâm. Đã phát tâm rồi thì khiến hội nhập nơi pháp.

Lại còn tỏ ngộ: Tức khiến cho chúng sinh ngoại đạo phát sinh giác ngộ.

Lại hội nhập: Là khiến cho người đã đạt được quả Thanh văn hội nhập nơi Đại Bồ-đề.

Khiến an trụ: Như kinh nói: “Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như Lai chỉ dùng một Phật thừa, vì các chúng sinh mà thuyết pháp”.

Dựa nơi pháp: Như kinh nói: “Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Chư Phật thời quá khứ đã dùng vô lượng vô số các phương tiện, vô số các thứ thí dụ, nhân duyên, phương tiện niệm quán để thuyết pháp. Pháp ấy đều là một Phật thừa”.

Nói thí dụ: Tức như dựa nơi bò thì có được sữa, lạc, sinh tô, thục tô, đề hồ. Nơi năm vị ấy thì đề hồ là bậc nhất. Tiểu thừa như sữa. Đại thừa như đề hồ. Thí dụ này chính là nêu rõ: Đại thừa là vô thượng. Các hàng Thanh văn cũng đồng với nghĩa vô thượng của Đại thừa.

Thanh văn đồng: Tức chỉ rõ về tánh đồng nơi Pháp thân của chư Phật – Như Lai. Pháp thân của hàng phàm phu, Nhị thừa đều bình đẳng không có sai biệt. Thí dụ này chỉ rõ về nhân duyên, như trước đã nói.

Niệm quán: Tức trong đế của Tiểu thừa, chỉ cho người là vô ngã. Còn trong đế của Đại thừa thì có vô số các thứ quán: Người vô ngã, pháp vô ngã, chân như, pháp giới, thật tế.

Phương tiện: Tức trong Tiểu thừa quán về ấm, giới, nhập, chán khổ, lìa khổ, đạt giải thoát. Còn trong Đại thừa thì tu tập các pháp Ba-la-mật, dùng bốn Nhiếp pháp để thâu giữ tự thân, tha thân, pháp tạo lợi ích, đối trị.

Nhằm ngăn chận: Như kinh nói: “Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Trong mười phương thế giới hãy còn không có hai Thừa, huống hồ là ba Thừa”.

Không có hai Thừa: Tức không có hai Thừa với đối tượng được chứng đắc là Niết-bàn. Chỉ có Như Lai chứng đắc Đại Bồ-đề, đầy đủ rốt ráo tất cả trí tuệ, gọi là Đại Niết-bàn, chẳng phải là hàng Nhị thừa có pháp Niết-bàn, vì chỉ có một Phật thừa.

Một Phật thừa: Là dựa nơi bốn thứ nghĩa để nói, nên biết.

Như Lai đã dựa nơi sáu thứ ấy để thọ ký, nên trước đã nói: Những pháp gì? Pháp như thế nào? Pháp tương tợ ra sao? Tướng nơi pháp như thế nào? Thể nơi pháp ra sao? Đều chỉ rõ như thế.

Những pháp gì? Tức pháp chưa từng nghe.

Pháp như thế nào? Tức vô số các thứ ngôn từ, thí dụ để nói rõ.

Pháp tương tợ ra sao? Tức chính là một đại sự.

Tướng nơi pháp như thế nào? Tức là tùy nơi căn trí của chúng sinh mà thuyết giảng các pháp Phật.

Thể nơi pháp ra sao? Tức chỉ có thể của một Thừa. Thể của một Thừa đó là Pháp thân bình đẳng của chư Phật – Như Lai. Hàng Nhị thừa chẳng phải là thể của Pháp thân bình đẳng ấy, do hành quán về nhân quả không đồng.

* Từ đoạn này trở xuống: Là Như Lai nêu giảng pháp, vì đoạn trừ 4 thứ tâm nghi. Những gì là bốn?

  1. Nghi: Thuyết giảng vào lúc nào?
  2. Nghi: Làm sao nhận biết những người kia tăng thượng mạn?
  3. Nghi: Làm sao để có thể nêu giảng?
  4. Nghi: Làm sao Như Lai không trở thành vọng ngữ?

Thuyết giảng vào lúc nào? Chư Phật – Như Lai vào những thời gian nào, khởi vô số các thứ phương tiện để thuyết pháp? Nhằm đoạn trừ nghi ấy, như kinh nói: “Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Chư Phật – Như Lai xuất hiện ở đời năm trược xấu ác v.v…”.

Làm sao nhận biết những người kia tăng thượng mạn? Như Lai không vì những người tăng thượng mạn mà thuyết pháp. Làm sao để nhận biết những người kia là tăng thượng mạn? Nhằm đoạn trừ nghi ấy, như kinh nói: “Nếu có Tỳ-kheo thật sự chứng đắc A-la-hán mà không tin nơi pháp này, thì không có điều ấy”.

Làm sao để có thể nêu giảng? Theo Phật, nghe pháp mà khởi tâm hủy báng Như Lai, nên là người không thể nhận lấy việc nêu giảng. Làm thế nào để không trở thành hạng người ấy? Nhằm đoạn trừ nghi ấy, như kinh nói: “Chỉ trừ sau khi Phật diệt độ, hoặc hiện tiền không có Phật”.

Làm sao Như Lai không trở thành vọng ngữ? Do Như Lai trước giảng nói pháp khác, nay giảng nói pháp khác. Làm sao Như Lai không trở thành vọng ngữ? Nhằm đoạn trừ nghi ấy, như kinh nói: “Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Các ông phải nên nhất tâm tin hiểu, thọ trì lời Phật giảng nói. Lời nói của chư Phật – Như Lai không hề hư vọng: Không có thừa nào khác, chỉ có một Phật thừa”.

Cho đến các đồng tử vui đùa đắp cát làm tháp Phật, những người như vậy đều đã thành tựu Phật đạo: Tức là phát tâm Bồ-đề, hành hạnh Bồ-tát, với mọi căn thiện đã tạo có thể chứng đắc Bồ-đề.

Không phải là các phàm phu và hàng Thanh văn quyết định, xưa nay chưa phát tâm Bồ-đề, có thể đạt được. Như vậy cho đến chỉ mỗi chút cúi đầu cung kính đều cũng như vậy.

***

Phẩm 3: THÍ DỤ

Kinh nói: Tôn giả Xá-lợi-phất nói kệ:

Sắc vàng ròng, ba hai

Mười lực, các giải thoát

Cùng chung trong một pháp

Nhưng không đạt việc ấy.

Tám mươi thứ vẻ đẹp

Mười tám pháp bất cộng

Các công đức như vậy

Mà con đều đã mất”.

Giải thích:

* Kệ này chỉ rõ về nghĩa gì? Tôn giả Xá-lợi-phất tự chê trách về thân, nói: “Con không thấy chư Phật, không đến trụ xứ của Phật để nghe pháp, không cung kính cúng dường chư Phật, không tạo lợi ích cho chúng sinh, nên đối với pháp chưa được, bị thoái chuyển”. Tôn giả Xá-lợi-phất đã tự chê trách về mình như thế.

Không thấy chư Phật: Tức không thấy tướng đại nhân của chư Phật – Như Lai, nên không sinh tâm cung kính cúng dường.

Đi đến chỗ chư Phật: Là chỉ rõ về diệu lực giáo hóa chúng sinh.

Phóng ra ánh sáng màu vàng ròng: Là chỉ rõ việc thấy tự thân, thân khác của Phật, đạt được vô lượng công đức.

Nghe thuyết pháp: Là có thể tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Diệu lực: Là chỉ rõ chúng sinh có hồ nghi, tức dựa nơi mười lực để đoạn trừ.

Cúng dường: Tức chỉ rõ về lực dụng giáo hóa chúng sinh.

Mười tám pháp bất cộng: Là chỉ rõ việc xa lìa các chướng ngại.

Cung kính: Chỉ rõ việc làm phát sinh vô lượng phước đức, dựa nơi sự giáo hóa của Như Lai, đạt được giải thoát.

Do người, pháp đều vô ngã, nên tất cả pháp bình đẳng. Vì thế, Tôn giả Xá-lợi-phất tự chê trách về thân, nói: “Con chưa đạt được pháp như vậy, nên đối với pháp chưa được, bị thoái chuyển”.

* Từ đây trở xuống: Là nói về 7 thứ chúng sinh tánh gồm đủ phiền não cấu nhiễm. Nói về 7 thứ thí dụ để đối trị 7 thứ tâm tăng thượng mạn. Nghĩa ấy nên biết.

Lại nữa, tiếp theo là nói về 3 thứ nhiễm mạn nơi ba thứ người không phiền não, là các thứ nhiễm mạn như kiến chấp về Tam-muội, giải thoát. Đối trị điều này nên nói về 3 thứ bình đẳng. Nghĩa ấy nên biết. Những gì là 7 thứ chúng sinh tánh gồm đủ phiền não cấu nhiễm?

  1. Người cầu đạt thế lực.
  2. Người cầu đạt Thanh văn giải thoát.
  3. Người cầu Đại thừa.
  4. Người có định.
  5. Người không định.
  6. Người tích tập công đức.
  7. Người không tích tập công đức.

Những gì là 7 thứ tâm tăng thượng mạn? Thế nào là 7 thứ thí dụ để đối trị?

1. Tâm tăng thượng mạn, điên đảo cầu các công đức: Nghĩa là trong thế gian, các thứ phiền não càng tăng thượng dữ dội, mà cầu đạt quả báo hữu lậu nơi cảnh giới thắng diệu của hàng trời, người. Đối trị điều này nên nói thí dụ về nhà lửa.

2. Tâm tăng thượng mạn của hàng Thanh văn hoàn toàn quyết định: Tự nói thừa mình cùng với thừa của Như Lai không có sai biệt, lại chấp giữ điên đảo như vậy. Đối trị điều này nên nói thí dụ về người con nghèo khổ.

3. Tâm tăng thượng mạn của hàng Đại thừa hoàn toàn quyết định: Khởi ý cho là không có sai biệt với hàng Nhị thừa, lại chấp giữ điên đảo như thế. Đối trị điều này nên nói thí dụ về mây, mưa.

4. Tâm tăng thượng mạn của kẻ thật không mà cho là có: Do nơi thế gian có kẻ hành Tam-muội, Tam-ma-bạt-đề, thật không có Niết-bàn mà sinh tưởng về Niết-bàn, lại chấp giữ điên đảo như vậy. Đối trị việc này nên nói thí dụ về hóa thành.

5. Tâm tăng thượng mạn của kẻ tán loạn: Thật sự không có định. Quá khứ tuy có căn thiện Đại thừa nhưng không nhận biết. Do không nhận biết nên không cầu đạt Đại thừa. Nơi tâm hẹp kém, sinh sự hiểu biết hư vọng cho là đệ nhất thừa, lại chấp giữ điên đảo như vậy. Đối trị điều này nên nói thí dụ về ngọc báu buộc giấu kỹ.

6. Tâm tăng thượng mạn của kẻ thật có công đức: Nghe pháp Đại thừa cho là không phải Đại thừa, rồi chấp giữ điên đảo như vậy. Đối trị điều này nên nói thí dụ về Luân vương cởi búi tóc của mình, trong ấy có ngọc minh châu và ban cho.

7. Tâm tăng thượng mạn của kẻ thật sự không có công đức: Đối với đệ nhất thừa chẳng từng tích tập các căn thiện. Nghe giảng nói về đệ nhất thừa, tâm không cho đấy là đệ nhất thừa, lại chấp giữ điên đảo như thế. Đối trị điều này nên nói thí dụ về y sư.

Người thứ nhất: Do trong thế gian với vô số các thứ Tam-muội, căn thiện, công đức, phương tiện khiến đạt hoan hỷ, sau đấy khiến nhập Niết-bàn. Người thứ hai: Do lấy ba làm một nên khiến nhập nơi Đại thừa. Người thứ ba: Khiến nhận biết về vô số các thừa, chư Phật – Như Lai bình đẳng thuyết pháp, tùy theo chủng tử nơi căn thiện của các chúng sinh làm sinh khởi mầm. Người thứ tư: Dùng phương tiện khiến nhập thành Niết-bàn. Thành Niết-bàn: Đó là các thành Tam-muội, Thiền định. Vượt qua các thành ấy rồi, sau đó khiến nhập nơi thành Đại Niết-bàn. Người thứ năm: Chỉ rõ về các căn thiện hiện có nơi đời quá khứ, khiến nhớ nghĩ, sau đấy mới chỉ dạy khiến nhập nơi Tam-muội. Người thứ sáu: Giảng nói về pháp Đại thừa, cho pháp môn ấy đồng với mười Địa, hành trì viên mãn, được chư Phật – Như Lai mật trao thọ ký. Người thứ bảy: Căn chưa thuần thục nên khiến thuần thục, chỉ rõ việc đạt được lượng Niết-bàn như thế.

Do ý nghĩa ấy, nên Đức Như Lai nói về 7 thứ thí dụ.

Thế nào gọi là 3 thứ nhiễm mạn nơi ba thứ người không phiền não? Đó là 3 thứ tin điên đảo. Những gì là ba?

  1. Tin nơi các thứ thừa khác.
  2. Tin thế gian, Niết-bàn khác nhau.
  3. Tin thân đây, kia khác nhau.

Vì đối trị 3 thứ nhiễm mạn này, nên nói về 3 thứ bình đẳng.

Thế nào gọi là 3 thứ bình đẳng? Đối trị ra sao?

1. Thừa bình đẳng: Tức cùng với Thanh văn thọ ký Bồ-đề. Do chỉ có Đại thừa, không có hai Thừa.

2. Thế gian, Niết-bàn bình đẳng: Do Như Lai Đa Bảo nhập Niết-bàn, nên thế gian, Niết-bàn đây kia đều bình đẳng.

3. Thân bình đẳng: Như Lai Đa Bảo đã nhập Niết-bàn, lại thị hiện về Pháp thân của tự thân, tha thân đều bình đẳng không sai biệt.

Như vậy, ba thứ người không phiền não, do tâm nhiễm mạn nên thấy thân có đây kia với chỗ tạo tác sai biệt, không biết là Pháp thân, Phật tánh của đây kia thảy đều bình đẳng. Nghĩa là, tức như người kia, cho là ta đã chứng đắc pháp này, còn người kia không đạt được. Đối trị điều ấy, nên cùng với các Thanh văn thọ ký, nên biết.

Hỏi: Các Thanh văn kia là thật sự thành Phật nên được thọ ký, hay là không thành Phật mà được thọ ký? Nếu thật sự thành Phật thì do đâu các Bồ-tát phải ở trong vô lượng kiếp tu tập vô lượng các thứ công đức? Nếu Thanh văn không thành Phật thì vì sao lại trao cho thọ ký hư vọng?

Đáp: Các Thanh văn kia cùng được thọ ký: Tức đạt được tâm quyết định, chẳng phải cho là Thanh văn đã thành tựu pháp tánh, nên Như Lai dựa vào ba thứ bình đẳng kia mà nói về pháp Nhất thừa. Do Pháp thân của Phật, Pháp thân của Thanh văn bình đẳng không khác nên cùng thọ ký, chẳng phải cho là đã tu hành đầy đủ công đức. Do đó, Bồ-tát thì công đức đầy đủ, còn các Thanh văn thì công đức chưa đầy đủ.

Thọ ký: Tức chỉ rõ về sáu nơi chốn: Năm là Phật ký, một là Bồ-tát ký.

Như Lai ký: Tức như Tôn giả Xá-lợi-phất, Đại Ca-diếp v.v… nhiều người đều biết, danh hiệu không đồng, nên riêng trao thọ ký. Năm trăm người như Tôn giả Phú-lâu-na v.v…, một ngàn hai trăm người cùng đồng một danh hiệu nên cùng lúc được thọ ký. Các bậc Hữu học, Vô học v.v… đều đồng một hiệu. Lại còn các vị, chẳng phải là hàng được nhiều người biết đến, nên cùng lúc được thọ ký.

Thọ ký cho Đề-bà-đạt-đa: Chỉ rõ Như Lai không có oán ác.

Thọ ký cho Tỳ-kheo-ni cùng các Thiên nữ: Chỉ rõ về nữ nhân, tại gia, xuất gia, tu hạnh Bồ-tát, đều chứng đắc quả vị Phật nên cùng được thọ ký.

Bồ-tát ký: Như nơi phần sau, trong phẩm Bồ-tát Bất Khinh sẽ chỉ rõ, nên biết. Bồ-tát ấy luôn lễ bái tán thán, nói như vầy: “Tôi không dám khinh các ông. Các ông đều sẽ được làm Phật”. Các ông đều sẽ được làm Phật: Tức chỉ rõ chúng sinh đều có Phật tánh.

Thanh văn được thọ ký: Thanh văn có 4 thứ:

  1. Thanh văn quyết định.
  2. Thanh văn tăng thượng mạn.
  3. Thanh văn thoái tâm Bồ-đề.
  4. Thanh văn ứng hóa.

Hai loại Thanh văn được Như Lai thọ ký là Thanh văn ứng hóa và Thanh văn thoái chuyển đã phát tâm Bồ-đề trở lại. Còn hai loại kia, căn chưa thuần thục nên Như Lai không thọ ký.

Bồ-tát được thọ ký: Tức dùng phương tiện để khiến phát tâm Bồ-đề. Lại dựa nơi nghĩa nào, Như Lai nói ba Thừa gọi là một Thừa? Tức dựa nơi nghĩa đồng nên thọ ký cho các Thanh văn đạo quả Đại Bồ-đề.

Nghĩa đồng: Do Pháp thân của Phật, Pháp thân của Thanh văn, đây kia đều bình đẳng không sai biệt. Do các thừa của hàng Nhị thừa không đồng nên có sai biệt. Do hai Thừa ấy không phải là Đại thừa, nên Như Lai nói “Không lìa ngã thân là nghĩa vô thượng”. Nơi pháp của hai Thừa kia không nêu bày về nghĩa ấy, do người của hai Thừa không thể lãnh hội đúng như thật. Vì ý nghĩa đó, nên các Bồ-tát hành trì hạnh Bồ-tát không phải là hư vọng.

Nghĩa vô thượng: Tự nơi phần kinh văn khác đã nêu rõ về nghĩa vô thượng. Nghĩa vô thượng lược có mười thứ, nghĩa này nên biết. Những gì là mười?

1. Chỉ rõ về chủng tử vô thượng: Nên nói thí dụ về mưa. Nẻo hành hóa của các ông là đạo Bồ-tát. Tức phát tâm Bồ-đề, thoái chuyển rồi trở lại phát tâm, chỗ căn thiện được tu tập ở trước không mất, cùng với phần sau đạt được quả.

2. Chỉ rõ về hành vô thượng: Nên nói về bản sự của Đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng.

3. Chỉ rõ về diệu lực tăng trưởng vô thượng: Nên nói thí dụ về thương chủ.

4. Chỉ rõ về chỗ khiến hiểu biết vô thượng: Nên nói thí dụ về ngọc báu được buộc giấu.

5. Chỉ rõ về cõi nước thanh tịnh vô thượng: Nên thị hiện tháp của Như Lai Đa Bảo.

6. Chỉ rõ về sự thuyết giảng vô thượng: Nên nói thí dụ về ngọc minh châu nơi búi tóc.

7. Chỉ rõ về việc giáo hóa chúng sinh là vô thượng: Nên từ trong đất vọt lên vô lượng Đại Bồ-tát.

8. Chỉ rõ về việc thành tựu Đại Bồ-đề Vô thượng: Nên chỉ rõ về 3 thứ Bồ-đề của Phật:

Chỉ rõ về Bồ-đề của Phật ứng hóa: Tùy chỗ nên thấy, theo đó mà thị hiện. Như kinh nói: “Đều cho là Như Lai từ nơi cung điện của giòng họ Thích ra đi, cách thành Già Da không xa, an tọa nơi đạo tràng, chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng”.

Chỉ rõ về Bồ-đề của Phật báo thân: Mười Địa hành hóa gồm đủ, chứng đắc Niết-bàn thường tại. Như kinh nói: “Này thiện nam! Ta thật sự thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp”.

Chỉ rõ về Bồ-đề của Phật pháp thân: Tức là Như Lai tạng, Niết-bàn tánh tịnh, thường hằng, mát mẻ, không biến đổi. Như kinh nói: “Như Lai thấy biết đúng như thật về tướng của ba cõi thứ lớp cho đến: Chẳng như nơi ba cõi thấy về ba cõi”.

Tướng của ba cõi: Nghĩa là cảnh giới của chúng sinh tức là cảnh giới của Niết-bàn. Không lìa cảnh giới của chúng sinh để có Như Lai tạng.

Không có sinh tử, hoặc thoái chuyển hoặc ra khỏi: Tức nghĩa thường hằng, thanh tịnh, không biến đổi.

Cũng không tại thế hoặc diệt độ: Nghĩa là thể của chân như, của Như Lai tạng, chẳng tức là cảnh giới của chúng sinh, chẳng lìa cảnh giới của chúng sinh.

Chẳng phải là thật, chẳng phải là hư, chẳng phải là như, chẳng phải là khác: Tức là lìa bốn thứ tướng. Có bốn thứ tướng: Là vô thường v.v…

Chẳng như ba cõi thấy biết về ba cõi: Tức chỉ Phật – Như Lai có thể thấy, có thể chứng đắc về chân như, Pháp thân, hàng phàm phu không thể thấy biết. Do đó, kinh nói: “Như Lai luôn thấy rõ, không có nhầm lẫn”.

Ta từ xưa hành đạo Bồ-tát, nay cũng chưa đầy đủ: Là do bản nguyện. Cảnh giới của chúng sinh chưa hết thì nguyện không trọn vẹn. Nói chưa đầy đủ, chẳng phải cho là Bồ-đề không đầy đủ.

Chỗ thành tựu về thọ mạng, số lượng lại tăng gấp bội: Câu văn này chỉ rõ về thọ mạng của Như Lai thường có phương tiện thiện xảo, hiển bày nhiều số lượng. Vượt quá số lượng trên là không thể tính biết.

Tịnh độ của Ta không bị hủy hoại mà nhiều kẻ thấy cháy hết: Tức chỉ cõi tịnh chân thật của Phật – Như Lai nơi báo thân, thuộc về đệ nhất nghĩa đế.

1. Chỉ rõ về Niết-bàn vô thượng: Nên nói thí dụ về y sư.

2. Chỉ rõ về diệu lực thù thắng vô thượng: Tự nơi phần kinh văn khác đã nêu rõ, nên biết.

Tháp của Như Lai Đa Bảo hiển bày tất cả cõi Phật thanh tịnh: Tức chỉ rõ về cảnh giới thật tướng của chư Phật, trong ấy có đủ thứ loại báu xen kẽ, tạo vẻ trang nghiêm. Sự thị hiện có 8:

  1. Tháp.
  2. Lượng.
  3. Lược nêu.
  4. Trụ trì.
  5. Thị hiện vô lượng Phật.
  6. Xa lìa uế tạp.
  7. Nhiều báu.
  8. Đồng an tọa nơi một tháp.

Tháp: Là chỉ rõ về Xá-lợi trụ trì của Như Lai.

Lượng: Là theo phương tiện thị hiện tất cả cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm, sinh từ căn thiện vô lậu xuất thế gian, không phải từ căn thiện hữu lậu nơi thế gian sinh ra.

Lược nêu: Tức chỉ rõ về thân Phật Đa Bảo, một thể, thâu giữ tất cả Pháp thân của chư Phật.

Trụ trì: Là chỉ rõ về diệu lực tự tại nơi Pháp thân của chư Phật – Như Lai.

Thị hiện vô lượng Phật: Tức chỉ rõ về chỗ tạo các nghiệp nơi đây kia không sai biệt.

Xa lìa uế tạp: Tức chỉ rõ các cõi nước của chư Phật đều bình đẳng, thanh tịnh.

Nhiều báu: Là chỉ rõ hết thảy cõi nước của chư Phật đồng tánh báu.

Cùng an tọa nơi một tháp: Tức chỉ rõ về Phật biến hóa, không phải Phật ứng hóa, Phật pháp thân, Phật báo thân, đều nhằm thành tựu đại sự.

* Từ đây trở xuống: Là chỉ rõ về lực pháp, lực trì, lực tu hành, nên biết.

Lực pháp: Tức chỉ rõ về 5 môn:

  1. Chứng đắc.
  2. Tin tưởng.
  3. Cúng dường.
  4. Nghe pháp.
  5. Đọc tụng, thọ trì, nêu giảng.

Nơi phẩm Bồ-tát Di-lặc chỉ rõ về bốn môn. Trong phẩm Bồ-tát Thường Tinh Tấn chỉ rõ về một môn.

Bốn pháp môn trong phẩm Bồ-tát Di-lặc: Môn chứng đắc: Như kinh nói: “Ta nói Đức Như Lai ấy thọ mạng dài lâu. Khi đó có sáu trăm tám mươi vạn ức na-do-tha hằng hà sa chúng sinh đạt được pháp Nhẫn vô sinh”. Ở đây, nói pháp nhẫn vô sinh: Tức là chứng đắc trí của Địa thứ nhất. Tám đời cho đến một đời, chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng: Tức là chứng đắc pháp Bồ-đề của Địa thứ nhất. Tám đời, một đời: Tức các hàng phàm phu quyết định có thể chứng đắc Địa thứ nhất, tùy theo lực, tùy nơi phần, tám đời cho đến một đời đều chứng đắc Địa thứ nhất. Nói Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng: Tức do lìa phần đoạn sinh tử nơi ba cõi, tùy theo phần có thể thấy rõ về pháp tánh, chân như, gọi là đạt được Bồ-đề, không phải cho là Niết-bàn phương tiện của Như Lai đã hoàn toàn đầy đủ.

Môn tin tưởng: Như kinh nói: “Lại có các chúng sinh nhiều như số vi trần trong tám thế giới đều phát tâm Bồ-đề cầu đạt đạo quả Chánh giác Vô thượng”.

Môn cúng dường: Như kinh nói: “Khi các Đại Bồ-tát ấy đạt được lợi ích của pháp lớn, ở trong hư không mưa xuống hoa Mạnđà-la v.v…”.

Môn nghe pháp: Như nơi phẩm Tùy Hỷ đã nêu.

Một pháp môn nơi phẩm Bồ-tát Thường Tinh Tấn: Tức môn thứ năm: Đọc tụng, thọ trì, nêu giảng, biên chép, đạt được sáu căn thanh tịnh. Như kinh nói: “Nếu thiện nam, thiện nữ, thọ trì kinh Pháp Hoa, hoặc đọc tụng, giải thích, nêu giảng, biên chép, thì người ấy sẽ đạt được tám trăm mắt công đức, thứ lớp cho đến một ngàn hai trăm ý công đức”. Ở đây:

Đạt được sáu căn thanh tịnh: Tức chỉ cho các phàm phu, do diệu lực của kinh này nên đạt được lực dụng của thắng căn, chưa nhập vào chánh vị của Bồ-tát Địa thứ nhất. Như kinh nói: “Nhục nhãn do cha mẹ sinh ra được thanh tịnh, thấy khắp ba ngàn đại thiên thế giới v.v…”.

Lại nữa, sáu căn thanh tịnh: Tức ở trong mỗi mỗi căn đều có thể đạt đầy đủ về thấy sắc, nghe tiếng, phân biệt mùi vị, rõ xúc, biết pháp. Các căn cùng hiển bày lực dụng, nghĩa ấy nên biết.

Đối tượng nhận thấy của mắt: Tức ngửi hương có thể nhận biết. Như kinh nói: “Thích-đề-hoàn-nhân ở nơi thắng điện, vui thích với năm dục, cho đến thuyết pháp v.v…”.

Ngửi hương nhận biết: Đây là nhận biết về cảnh, dùng tỷ căn để nhận biết.

Lực trì: Có ba thứ pháp môn chỉ rõ về lực trì, như nơi các phẩm Pháp Sư, phẩm An Lạc Hạnh, phẩm Khuyến Trì cùng nêu bày rộng, như phần kinh nói về lực pháp, nên biết. Tâm ấy quyết định nhận biết về nước tất gần: Tức thọ trì kinh này đạt được Phật tánh nơi nước, thành tựu đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Lực tu hành: Chỉ rõ về 5 môn:

  1. Lực nêu giảng.
  2. Lực hành khổ hạnh.
  3. Lực hộ trì chúng sinh nơi các nạn.
  4. Lực công đức thù thắng.
  5. Lực hộ trì chánh pháp.

Lực nêu giảng: Có ba pháp môn, nơi phẩm Thần Lực đã chỉ rõ: Hiện bày tướng lưỡi dài rộng, khiến nhớ nghĩ. Dùng âm thanh khe khẽ để nói kệ, khiến nghe, nghe rồi thì tu hành đúng như thật, không buông lung. Dùng âm thanh búng ngón tay để làm thức tỉnh chúng sinh, khiến người tu hành đạt được giác ngộ.

Lực hành khổ hạnh: Như nơi phẩm Bồ-tát Dược Vương chỉ rõ. Lại nữa, lực hành khổ hạnh: Như nơi phẩm Bồ-tát Diệu Âm chỉ rõ việc giáo hóa chúng sinh.

Lực hộ trì chúng sinh nơi các nạn: Như nơi các phẩm Bồ-tát Quan Thế Âm, phẩm Đà-la-ni đã chỉ rõ

Lực công đức thù thắng: Như nơi phẩm Diệu Trang Nghiêm chỉ rõ: Hai đồng tử dựa vào các căn thiện nơi công đức đời quá khứ nên có được diệu lực như vậy.

Lực hộ trì chánh pháp: Như nơi các phẩm Bồ-tát Phổ Hiền và phẩm sau đã chỉ rõ.

Lại nói: Thọ trì danh hiệu Bồ-tát Quan Thế Âm cùng với việc thọ trì sáu mươi hai ức hằng hà sa danh hiệu chư Phật, thì phước đức như nhau: Có 2 thứ nghĩa:

  1. Diệu lực tin tưởng.
  2. Nhận biết rốt ráo.

Diệu lực tin tưởng:2 thứ: (a) Cầu thân mình như thân Bồtát Quan Thế Âm không khác, hoàn toàn tin tưởng. (b) Sinh tâm cung kính. Như công đức của Bồ-tát, mình cũng hoàn toàn đạt được như vậy.

Nhận biết rốt ráo: Tức có thể quyết định nhận biết về pháp giới.

Pháp giới: Tức gọi là pháp tánh.

Pháp tánh: Là Pháp thân bình đẳng của tất cả chư Phật, Bồ-tát.

Pháp thân bình đẳng: Là Pháp thân nơi chân như, Bồ-tát ở Địa thứ nhất mới chứng nhập. Do đó, thọ trì sáu mươi hai ức hằng hà sa danh hiệu chư Phật, tức có thể thọ trì danh hiệu Bồ-tát Quan Thế Âm, chỗ công đức đạt được không sai khác.

Phẩm thứ nhất: Mở Đầu: Là chỉ rõ về bảy thứ công đức thành tựu. Phẩm thứ hai: Phương Tiện: Tức có năm phần chỉ rõ, mở ra hai, biện minh một. Các phẩm khác: Như vừa nêu bày, dễ lãnh hội.

HẾT