KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Ðà
Hoà Thượng Tuyên Hóa giảng giải
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm Thứ Nhất
“Phẩm” : Tức là phẩm loại. Phẩm nầy nói về chủ thế gian và chủ xuất thế gian, đủ loại cảnh giới trang nghiêm vi diệu, trang nghiêm cõi nước, trang nghiêm cõi Phật không thể nghĩ bàn.
“Thế” : Tức là thế giới.
“Chủ” : Tức là chủ nhân. Chủ nhân của thế giới là Ðức Phật. Ngài không những là chủ thế gian, mà còn là chủ xuất thế gian. Chủ thế gian tức là tất cả Chuyển Luân Thánh Vương, tức cũng là : Kim Chuyển Luân Vương, Ngân Chuyển Luân Vương, Ðồng Chuyển Luân Vương, và Thiết Chuyển Luân Vương. Bốn vị Luân Vương nầy, chỉ làm được chủ thế gian mà không làm được chủ xuất thế gian.
“Diệu” : Thì không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời nói để bàn luận, nghĩa là nghĩ không đến, nói không ra.
“Nghiêm” : Tức là trang nghiêm. Sự trang nghiêm nầy chẳng phải một số người có thể biết được, thấy được.
“Thứ nhất” : Nghĩa là bắt đầu, phẩm nầy thuộc về phẩm thứ nhất, cho nên gọi là Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm Thứ Nhất.
Tôi nghe như vầy.
Bốn chữ “Tôi Nghe Như Vầy” rất là quan trọng. Phàm là bắt đầu Kinh của Ðức Phật nói, đều có bốn chữ nầy. Dùng bốn chữ “Tôi Nghe Như Vầy” để mở đầu Kinh. Có sáu ý nghĩa :
1. Khác với ngoại đạo: Tức là chẳng giống như ngoại đạo. Vì Kinh của ngoại đạo mở đầu thì dùng hai chữ “Ẩu”. A là không, Ẩu là có. Pháp nói ra chẳng phải có thì là không, cho nên dùng Ẩu hai chữ để mở đầu Kinh. Phật pháp thì chẳng phải như thế. Phật pháp thì chẳng có chẳng không, chẳng không chẳng có, chẳng rơi vào có, chẳng rơi vào không. Ngoại đạo cho rằng có tức là có, không có thì là không, đó là “hai bên”. Phật pháp thì không rơi về hai bên, cho nên dùng bốn chữ “Tôi Nghe Như Vầy”, để đại biểu mở đầu Kinh.
Hai chữ “Như Vầy” là chỉ lời văn của Pháp. “Tôi Nghe”: Nghĩa là lãnh nạp. Thế nào là chỉ lời văn của pháp ? “Như Vầy”: Tức là pháp nầy, không “Như Vầy” thì chẳng phải pháp nầy. Pháp nầy là pháp gì ? Tức là pháp trung đạo liễu nghĩa. Thế nào gọi là lãnh nạp ? “Tôi Nghe”, tức là Tôn Giả A Nan nghe pháp, nghe được pháp nầy, nghĩa là lãnh thọ tiếp nạp.
2. Dứt tranh luận : Tranh tức là tâm háo thắng, là trái với đạo, sinh ra bốn tướng : tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, và tướng thọ mạng, làm sao đắc được tam muội ! Tranh những gì ? Tranh đệ nhất, tức là bây giờ chúng sinh đều muốn tranh đệ nhất, cho nên có tranh luận. Bốn chữ “Tôi Nghe Như Vầy” là biểu thị bộ Kinh nầy chẳng phải Tôn giả A-Nan tự nói, mà là nghe được từ Ðức Phật. Vì đây là Ðức Phật nói, cho nên đại chúng không có gì để nói, do đó mà chẳng còn tranh luận nữa.
3. Không tăng giảm : Từ “Tôi Nghe Như Vầy” về sau, nhất thời, Phật tại xứ nào ? với đại chúng bao nhiêu ? nói Kinh gì ? Tất cả đệ tử không dám sửa đổi, không thể nhuận sắc, tức là Kinh văn không thể tăng một chữ, cũng không thể giảm một chữ.
4. Dứt sự nghi ngờ của đại chúng : Vì Tôn Giả A-Nan ở trong đại chúng, Ngài là người trẻ tuổi nhất, đương nhiên đạo đức không đủ để cảm hoá người, nhưng Ðức Phật đem Tạng Pháp truyền trao cho Ngài, dạy Ngài kết tập Kinh điển. Khi Tôn giả A-Nan lên pháp toà, thì đại chúng sinh ra ba điều nghi hoặc.
A: Nghi hoặc Ðức Phật Thích Ca không vào Niết Bàn ? Còn trở lại thuyết pháp cho chúng ta. Vì Ngài A-Nan cũng có 32 tướng tốt trang nghiêm giống như Ðức Phật, chỉ thân thấp hơn thân của Phật một chút mà thôi.
B: Nghi hoặc mười phương chư Phật đến thuyết pháp?
C: Nghi hoặc Tôn giả A-Nan đột nhiên chứng được quả vị Phật ? Vì tướng tốt của Tôn giả rất trang nghiêm. Khi Tôn Giả A Nan mở miệng nói :”Tôi Nghe Như Vầy”, thì đầu não của các vị đại A La Hán tỉnh lại, không mê hoặc nữa.
5. Sinh tín tâm : Khiến cho tất cả chúng sinh sinh tín tâm, vì pháp “Như vầy” là đáng tin, pháp “không như vầy” thì không đáng tin. Cho nên nói “Như vầy” là chỉ lời văn của pháp.
6. Thuận đồng : Ðều thuận đồng với chư Phật ba đời, vì ba đời chư Phật mở đầu Kinh điển, đều nói bốn chữ “Tôi Nghe Như Vầy”, cho nên Kinh của Phật câu thứ nhất mở đầu là : “Tôi Nghe Như Vầy”.
Khi Ðức Phật sắp vào Niết Bàn thì Ngài A Nan chưa chứng quả A La Hán, cũng chưa đoạn dục khử ái, cho nên đau đớn khóc lóc rơi lệ bi ai đến cực điểm, chẳng còn nhớ đến việc gì. Lúc đó, Tôn Giả A Nậu Lâu Ðà đến nói với Tôn giả A Nan :”A Nan ! Ðừng quá bi ai, Phật đem tất cả Tạng Pháp truyền cho Ngài, Ngài là người tương lai kết tập Kinh điển, trách nhiệm trọng đại, bây giờ nên đi thưa hỏi Ðức Phật, việc tương lai phải làm như thế nào ?” Tôn Giả A Nan nói : Phật vào Niết Bàn rồi, tương lai còn có việc gì nữa mà hỏi ? Chẳng còn việc gì nữa.” Tôn Giả A Nậu Lâu Ðà nói :”Phật vào Niết Bàn rồi, việc quan trọng trong tương lai là hoằng dương Phật pháp, phải mau đến hỏi Ðức Phật !” Tôn Giả A Nan hỏi lại :”Vậy tôi phải hỏi Ðức Phật về vấn đề gì ?” Tôn Giả A Nậu Lâu Ðà nói :”Có bốn vấn đề vô cùng quan trọng, không hỏi không được”.
1. Khi Ðức Phật còn ở đời thì chúng ta nương theo Phật, khi Phật vào Niết Bàn rồi thì chúng ta nương theo ai ? Tôn Giả A Nan cảm thấy vấn đề nầy rất có đạo lý, tương lai chúng ta đi ở đâu ? điều nầy nên hỏi.
2. Khi Ðức Phật còn ở đời thì chúng ta nương Phật làm thầy, khi Phật vào Niết Bàn rồi thì chúng ta nương theo ai làm thầy ? Tôn Giả A Nan nghĩ nếu không có Phật thì làm sao tu hành ? Vấn đề nầy không hỏi không được.
3. Khi Ðức Phật còn ở đời thì những Tỳ Kheo ác tánh, Phật có thể hàng phục, khi Ðức Phật vào Niết Bàn rồi thì do ai điều phục ? Làm sao điều phục ? Tôn Giả A Nan cảm thấy vấn đề nầy cũng nghiêm trọng, càng nên hỏi.
4. Khi kết tập Kinh điển thì mở đầu Kinh văn phải dùng chữ gì ? Tôn Giả A Nan nghĩ vấn đề nầy càng nên hỏi Ðức Phật. Do đó, Tôn Giả A Nan đến bên cạnh Ðức Phật, hỏi bốn vấn đề nầy. Phật trả lời cho Ngài A Nan :”Khi ta vào Niết Bàn rồi thì y theo Bốn Niệm Xứ mà trụ”, đó là câu trả lời thứ nhất. “Khi ta vào Niết Bàn rồi thì phải lấy giới làm thầy”, đây là câu trả lời thứ hai. “Khi ta vào Niết Bàn rồi, nếu có Tỳ Kheo ác tính không giữ giới luật, thì đừng nói năng gì với họ”, đó là câu trả lời thứ ba. “Khi kết tập Kinh điển thì mở đầu Kinh dùng :”Tôi Nghe Như Vầy”, đó là câu trả lời thứ tư.
Bốn Niệm Xứ là gì ? Tức là:
- Thân niệm xứ
- Thọ niệm xứ
- Tâm niệm xứ
- Pháp niệm xứ.
Y chiếu theo Bốn Niệm Xứ nầy để tu hành, thì có thể chứng quả, có thể giải thoát. Tại sao chúng ta chẳng chứng quả ? Tại sao không thể thoát khỏi luân hồi ? Vì không:
Quán thân bất tịnh
Quán thọ là khổ,
Quán tâm vô thường
Quán pháp vô ngã.
Chấp trước cái ta, đây là của ta. Nhà là của ta, đợi đến khi hơi thở không còn nữa, thì gì cũng chẳng phải của ta. Cho nên có câu :
“Cá nhảy trong nước,
Người nào ở nhân gian,
Chẳng biết gieo phước lành,
Tâm cứ tạo tội nghiệp,
Vàng bạc chất thành núi,
Nhắm mắt bỏ lại hết,
Tay không chầu Diêm Vương
Hối hận quá muộn màng”.
Bây giờ giải thích đại ý về Bốn Niệm Xứ :
1. Quán thân bất tịnh : Thân thể của chúng ta vốn chẳng sạch sẽ, chín cái lỗ thường chảy ra những thứ bất tịnh dơ dáy, như mắt thì có ghèn, lỗ tai có cức váy, mũi thì có nước mũi, miệng thì có đàm, thêm vào đại và tiểu tiện. Ðã biết thân thể bất tịnh, là túi da hôi thối thì không nên chấp trước nó. Nếu không chấp trước thì sẽ đắc được giải thoát, không bị thân thể làm phiền luỵ. Lão Tử biết được ý nầy cho nên nói :
“Sở dĩ ta có đại hoạn vì ta có thân,
Nếu ta không có thân nầy thì sao có hoạn ?”
Lão Tử hiểu được lý quán bất tịnh.
2. Quán thọ là khổ : Tất cả những gì tiếp thọ đều là khổ. Khổ có ba thứ khổ, tám thứ khổ, vô lượng thứ khổ. Ba thứ khổ là gì ? Tức là:
- Khổ khổ
- Hoại khổ
- Hành khổ.
1. Khổ khổ: Tức là khổ trong sự khổ, khổ lại thêm khổ. Ví như có người vốn chẳng có nhà để ở, lại gặp ngày trời mưa. Hoặc là không có quần áo mà gặp phải thời tiết lạnh. Hoặc là vốn không có cơm ăn lại sinh bệnh. Sinh bệnh không có tiền đi khám bác sĩ, không có tiền mua thuốc uống, đó là khổ trong sự khổ của kẻ nghèo.
2. Hoại khổ: Người nghèo thì có khổ khổ, còn người giàu thì có hoại khổ. Hoại khổ là gì ? Người giàu thì ở lầu cao cửa rộng, trang hoàng đẹp đẽ, chẳng may bị cháy nhà, thiêu trụi nhà cửa, hoặc là người có vàng bạc châu báu bị người trộm cắp, hoặc là bị tai nạn như chiến tranh, nạn gió, nạn nước, đó đều là hoại khổ.
3. Hành khổ: Tức là con người từ khi sinh ra, lớn lên trưởng thành, rồi già nua và chết đi, luôn luôn biến đổi không ngừng, đó là hành khổ. Trong cuộc đời tuy nhiên không có khổ khổ, không có hoại khổ, nhưng có hành khổ. Những thứ khổ nầy, bất cứ ai cũng đều phải chịu, không có ai tránh khỏi được. Ðức Phật lúc tám mươi tuổi còn phải thị hiện vào Niết Bàn. Tám sự khổ là gì ? Tức là : Sinh, già, bệnh, chết, thương yêu xa lìa, ghét mà gặp nhau, cầu mong không được, năm ấm xí thạnh.
4. Sinh là khổ: Khi con người sinh ra thì giống như ở giữa hai hòn núi đè ép sinh ra, cho nên trẻ con mới sinh ra thì khóc lên, đó là biểu thị sự khổ, bắt đầu tiếp thọ sự khổ.
5. Già là khổ: Con người đến tuổi già thì tứ chi không linh hoạt, cử động rất bất tiện, mắt loà, tai điết, tóc bạc, răng rụng, luôn luôn không được tự tại, do đó có câu :”Tâm có thừa mà sức chẳng đủ”.
6. Bệnh là khổ: Ðất nước gió lửa không đều hoà thì sinh bệnh, bệnh có đủ sự thống khổ khó mà tả được.
7. Chết là khổ: Bệnh khổ qua rồi thì chết khổ lại đến. Ðến lúc chết thì sự thống khổ giống như bò sống lột da, như rùa lột mai, thứ khổ nầy chẳng cách chi mà hình dung được.
8. Khổ về thương yêu xa lìa: Sự khổ nhất của đời người là sinh ly tử biệt. Vì có ái, ái là vực thẳm tạo nghiệp, nếu đoạn dục khử ái thì nghiệp chướng sẽ nhẹ bớt. Nếu tình ái quá nặng thì nghiệp chướng sẽ nặng thêm. Do đó có câu:
“Nghiệp sạch tình không là Phật
Nghiệp nặng tình mê là phàm phu”.
Phàm phu vì tình mà mê, nhìn không thấu được ái tình, buông chẳng đặng ái tình, cho nên mới có khổ. Ái là một thứ chấp trước lớn nhất, thứ chấp trước nầy không dễ gì buông bỏ đặng. Khổ về thương yêu xa lìa, tức là vốn chẳng muốn từ bỏ, nhưng nhất định phải từ bỏ, là bị bắt buộc cưỡng bách mà từ bỏ, tình trạng nầy rất là thống khổ. Như vợ chồng thì có khổ xa lìa của vợ chồng, con cái thì có khổ xa lìa của con cái, bạn bè thì có khổ xa lìa của bạn bè. Tóm lại có ái thì khi xa lìa sẽ khổ.
9. Khổ về ghét gặp nhau: Thương cũng có sự khổ, ghét cũng có sự khổ. Người mà ta ghét không muốn gặp nhưng lại gặp, đó cũng là một thứ khổ.
10. Khổ về cầu mong không được: Cầu danh không được danh, cầu lợi không được lợi, cầu con trai, con gái không được mãn nguyện, cầu giàu sang không được giàu sang. Tóm lại, những gì mong muốn mà không thành công cũng là một thứ khổ.
11. Khổ về năm ấm xí thạnh: Năm ấm tức là: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức năm ấm nầy chẳng không thì khổ, cũng giống như bị núi năm ấm đè, một chút tự do cũng không có, không có tự do tức là khổ. Thứ khổ nầy giống như lửa thiêu ở trong tâm.
Vô lượng khổ là gì? Ở trên đã nói qua ba sự khổ và tám sự khổ, nếu phân tích tỉ mỉ thì trong mỗi thứ khổ lại có vô lượng khổ, trong vô lượng khổ lại có vô lượng khổ. Khổ vô cùng vô tận, cho nên gọi là vô lượng khổ.
12. Quán tâm vô thường: Tức là tâm quá khứ, tâm hiện tại và tâm vị lai, ba tâm không thể bắt lấy, là vô thường, cũng có thể nói :”Các pháp do nhân duyên sinh, các pháp do nhân duyên diệt”, chẳng hằng thường bất biến, cho nên gọi là vô thường. Quán sát tâm người là vô thường, chân tâm mới là thường. Tại sao nói tâm người vô thường ? Vì tâm người khéo biến đổi, giống như sóng vậy, chẳng khi nào ngừng nghỉ. Tâm niệm nầy sinh thì tâm niệm kia diệt, niệm niệm liên tục không ngừng. Lại giống như hạt bụi trong hư không, hốt lên hốt xuống, hốt đông hốt tây, không có nhất định, đó là tâm vô thường. Gì là thường ? Tức là thường trụ chân tâm, tính tịnh minh thể. Ðây là đạo lý quán tâm vô thường.
13. Quán pháp vô ngã : Tức là quán sát : Sắc, thọ, tưởng, hành, thức năm uẩn chẳng có “cái ta”(ngã). Nếu như có “cái ta” thì có chấp “cái ta”(ngã chấp). Nếu lại chấp trước nơi pháp thì có pháp chấp. Như thế thì chẳng được tự tại, chẳng được giải thoát. Nếu quán pháp vô ngã, hai pháp đều không, người cũng chẳng có ngã, pháp cũng chẳng có ngã, thì phá được người và pháp hai chấp. Ðó là đạo lý quán pháp vô ngã.
14. Sắc pháp : Phàm là thấy được hình tướng, nói ra được danh từ thì tất cả hết thảy đều gọi là sắc pháp. Thứ pháp nầy nhìn không thủng, buông chẳng đặng, thì chẳng đắc được tự tại. Thứ sắc pháp nầy có nội sắc và ngoại sắc. Ngoại sắc tức là có hình chất. Tức nhiên sắc bên ngoài có hình chất, bên trong thì có bóng. Nội sắc tức là bóng. Có bóng thì có vọng tưởng về sắc, thì không thể vô ngã, bạn ái trước sắc nầy là vì có cái ta (ngã), bạn chấp trước sắc nầy cũng là vì bạn có cái ta (ngã). Nếu chẳng có cái ta thì không có gì để chấp trước, thì chẳng có chướng ngại, đó là nhìn xuyên thủng. Nhìn xuyên thủng được thì buông bỏ được. Buông bỏ được thì sẽ đắc được tự tại.
15. Thọ pháp : Phàm là tiếp xúc cảnh giới bên ngoài ban đầu có sự lãnh thọ. Nếu không có cái ta thì chẳng có xúc trần, không có xúc trần thì đắc được tự tại. Ngược lại, nếu có cái ta tồn tại thì không được tự tại.
16. Tưởng pháp : Tức là vọng tưởng. Tại sao bạn chẳng đối trị được vọng tưởng ? Tức là vì có cái ta. Nếu không có cái ta, thì vọng tưởng gì cũng chẳng có, liền đắc được cảnh giới vô sở tưởng.
17. Hành pháp : Nghĩa là liên tục. Niệm niệm biến đổi không ngừng. Giống như nước chảy, đó là hành uẩn. Muốn nhìn xuyên thủng hành uẩn thì phải đừng có cái ta.
18. Thức pháp : Tức là : mắt, tai mũi, lưỡi, thân, ý, Mạt na, A lại da tám thức. Tám thức nầy cũng ở trong chân và vọng. Chỉ một cái biến thì biến thành Ðại viên cảnh trí. Không biến thì là tám thức. Chuyển tám thức thành bốn trí, thì chẳng còn cái ta (vô ngã). Quán pháp năm uẩn vô ngã được, thì đó là quán pháp vô ngã.
Tại sao đức Phật dạy đệ tử lấy giới làm thầy ? Vì giới là sinh thiện diệt ác. Nương giới làm thầy thì sẽ sinh ra các điều lành. Nương giới làm thầy thì sẽ diệt trừ các điều ác.
Tôi Nghe Như Vầy là gì ? Cái gì là tôi ? Phàm phu có sự chấp trước về cái tôi (ngã), chấp trước hết thảy đều là sở hữu của tôi. Ngoại đạo có cái ngã. Bậc A La Hán và Bồ Tát có cái giả ngã. Tôn giả A Nan đã đắc được quả vị Thánh nhân, thì chẳng còn cái ta (ngã) nữa. Chữ “tôi ” nầy là giả danh làm “tôi”, trên thực tế thì chẳng phải tôi. Tại sao phải có “tôi” giả danh ? Vì nếu nói không có cái tôi, thì tất cả chúng sinh đều sinh tâm sợ sệt. Họ nghĩ tức nhiên chẳng có cái tôi, thì hà tất phải tu đạo ? Tu hành cái gì ? Bèn sinh tâm sợ sệt. Cho nên thuận theo thế tục nói giả danh là ngã, đó là cái tôi của Tôn giả A Nan.
“Tôi Nghe”. Tôi làm sao nghe ? Nghe là lỗ tai nghe, thân thể con người mỗi bộ phận đều có tên của nó, đầu thì có tên đầu, tay thì có tên tay, chân thì có tên chân, mỗi bộ phận đều có tên của nó, nhưng tìm cái tôi không thể được. Bây giờ tại sao lại nói có cái tôi ? Vì cái tôi nầy là tổng quát toàn thân, tên là tôi. Vì tôi là tổng quát thân thể, cho nên tôi nghe.
“Như” là bất biến. “Vầy” là vô phi. Dùng hằng thường bất biến làm “như”, quyết định không có chẳng phải làm “vầy”. “Như” là chỉ lời văn của pháp, pháp như vầy tức là như vầy. Pháp không như vầy tức là không như vầy. Ðịnh như vầy, huệ như vầy, tĩnh như vầy, động như vầy. Tức là định huệ động tĩnh. Pháp như vầy là tôi A Nan nghe từ Ðức Phật.
Một thời, Ðức Phật ở tại nước Ma Kiệt Ðề, trong A lan nhã pháp bồ đề tràng.
“Một thời” : Tức là một thời, một thời nầy là thời nào ? Là thời mà Tôn giả A Nan nghe Ðức Phật thuyết pháp. Vậy vào năm nào ? Tháng nào ? Ngày nào ? Giờ nào ? Tại sao chẳng có ngày tháng chính xác ? Vì sự dùng lịch ở Ấn Ðộ và Trung Quốc chẳng giống nhau, giống như bây giờ có âm lịch và dương lịch. Nếu đem ngày tháng của Ấn Ðộ dịch thành ngày tháng của Trung Quốc, thì phải tìm tòi tính toán khảo chứng, cần thời gian, kết quả chẳng có đại dụng là bao. Hơn nữa, vì Phật pháp thì có chư Thiên và chúng sinh, trong mười phương thế giới đều đến nghe pháp, càng không cách chi nhớ ngày tháng chính xác, hơn nữa vì bộ Kinh nầy có lúc nói ở nhân gian, có lúc nói ở trên cung trời. Do đó, trong Kinh chẳng nói năm nào tháng nào ngày nào giờ nào, mà dùng “Một thời” để đại biểu cho ngày tháng.
Một thời tức là “thời thành tựu” ở trong sáu thành tựu. Sáu thành tựu là:
- Tin thành tựu.
- Nghe thành tựu.
- Thời thành tựu.
- Chủ thành tựu.
- Xứ thành tựu.
- Chúng thành tựu.
1. Tin thành tựu: Như vầy là tin thành tựu. Pháp như vầy là đáng tin, là chánh tri chánh kiến.
2. Nghe thanh tựu: Tôi nghe là nghe thành tựu. Tôi A Nan nghe được pháp nầy, y pháp tu hành thì sẽ thành tựu đạo nghiệp.
3. Thời thành tự : Một thời là thời thành tựu, tức là lúc Ðức Phật thuyết pháp.
4. Chủ thành tựu: Ðức Phật là chủ thuyết pháp. Trong Kinh Hoa Nghiêm có lúc Bồ Tát là chủ thuyết pháp.
5. Xứ thành tựu: Ðạo tràng là xứ thành tựu. Ðức Phật thuyết pháp ở dưới cội bồ đề, đây là đạo tràng.
6. Chúng thành tựu: Những người nghe pháp là chúng thành tựu. Các đại Bồ Tát và đại A La Hán đều nghe Ðức Phật thuyết pháp.
Ðức Phật ở tại nước Ma Kiệt Ðề. Phật là nửa chữ Phạn, gọi đầy đủ là Phật Ðà Gia, còn gọi là Bố Ðạt Gia. Phật nghĩa là bậc giác ngộ. Phật giác ngộ có ba nghĩa tức là : Tự giác, giác tha, giác mãn. Do đó có câu :”Ba giác tròn, vạn đức đầy”, cho nên xưng là Phật. Tự giác khác với phàm phu, phàm phu tuy nhiên có bổn giác, nhưng không giác ngộ, vẫn hồ đồ, lấy phải làm trái, lấy trái làm phải, một đời bận rộn ở trong danh lợi. Cho nên Phật giác và tự giác của phàm phu chẳng giống. Giác tha khác với tiểu thừa. Người tiểu thừa chỉ tự giác mà không giác tha, mình minh bạch đạo lý sinh tử mà không đi giáo hoá chúng sinh, khiến cho chúng sinh cũng minh bạch đạo lý sinh tử. Cho nên giác tha chẳng giống với tiểu thừa. Giác mãn khác với Bồ Tát. Bồ Tát thì tự giác rồi lại giác ngộ kẻ khác, nhưng không giác mãn. Phật thì giác hạnh viên mãn, cho nên giác mãn chẳng giống Bồ Tát.
Làm thế nào để giác hạnh viên mãn ? Ðó là:
“Ba A Tăng Kỳ tu phước huệ,
Trăm ngàn ức kiếp trồng tướng tốt”.
Ðức Phật ở trong ba đại A Tăng Kỳ kiếp tu phước tu huệ, trong trăm đại kiếp tu công đức tướng tốt. Cho nên Ðức Phật ba giác đều viên mãn, vạn đức đầy đủ, nên đã thành Phật.
Nước Ma Kiệt Ðề ở tại hướng đông Ấn Ðộ, dịch là “không độc hại”, vì dân chúng của nước nầy đều có tinh thần từ bi hỷ xả, ai cũng chẳng độc hại ai, ai cũng chẳng làm thương hại đến ai, đều biết bỏ ác hướng thiện, cho nên Phật lựa chọn nơi nầy để thành Phật.
“Trong A Lan Nhã Pháp Bồ Ðề Tràng”. A Lan Nhã dịch là “nơi vắng lặng”, là nơi không có ồn náo. Tại Tùng Lâm trong núi là đạo tràng tu hạnh Ðầu đà (khổ hạnh), tuy nhiên ở trong Tùng Lâm cũng khởi vọng tưởng. Nếu thanh tịnh thì dù ở thành thị cũng chẳng có vọng tưởng, đó tức là nơi A Lan Nhã.
Pháp : Là phương pháp, là tu phương pháp vắng lặng. Phải minh bạch phương pháp tu hành, mới không bị cảnh giới làm lay chuyển, ngược lại chuyển được cảnh giới, do đó “Người chuyển được cảnh giới, cảnh giới không chuyển được ngưới”. Ðó tức là A Lan Nhã Pháp.
Bồ Ðề Tràng : Tức là nơi Ðức Phật giác ngộ. Lúc trước, khi Phật chưa thành Phật thì cũng là chúng sinh. Sau khi thành Phật rồi là chúng sinh “đại giác viên mãn”, cho nên nói là đạo tràng giác ngộ. Ai giác ngộ ? Là chúng sinh giác ngộ. Ðạo tràng chúng sinh giác ngộ, cho nên thành Phật. Do đó :
“Giác là Phật, mê là chúng sinh”.
Ðức Phật tu khổ hạnh sáu năm tại núi Tuyết, mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè. Sau đó mới đến dưới cội bồ đề, phát nguyện nếu không thành đạo thì ngồi chỗ nầy, quyết không đứng dậy. Ngài tĩnh toạ bốn mươi chín ngày, đêm cuối cùng thấy sao mai mọc mà ngộ đạo. Ngộ đạo gì ? Biết được sinh từ đâu đến ? Chết rồi đi về đâu ? Sau khi giác ngộ Ngài nói :”Lành thay ! Tất cả chúng sinh đều có trí huệ đức tướng của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước nên không chứng đắc”!
Ban đầu thành Chánh giác.
Vì đức Phật tu nhân hoa vạn hạnh, nên thành tựu quả vị Phật vô thượng. Tu nhân tròn thì kết quả đầy, cho nên thành Phật, vị Phật nầy là ai ? Tức là Ðức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni, giáo chủ thế giới Ta Bà nầy. (Thích Ca dịch là Năng Nhân là họ của Ðức Phật. Mâu Ni dịch là tịch mặc, là tên của Ðức Phật.
Năng Nhân biểu thị thiện, hay ban hành nhân từ. Tịch mặc biểu thị tịch nhiên bất động). Sau khi Ðức Phật thành đạo, Ngài suy tư chư Phật quá khứ sau khi thành Phật, trước hết đều nói Kinh Hoa Nghiêm. Chư Phật hiện tại sau khi thành Phật, trước hết cũng nói Kinh Hoa Nghiêm. Chư Phật vị lai sau khi thành Phật cũng sẽ nói Kinh Hoa Nghiêm. Tóm lại, trước hết chư Phật đều nói Kinh Hoa Nghiêm, mới kiến lập được cơ sở của pháp, cho nên Kinh Hoa Nghiêm là gốc rễ của tất cả các pháp.
Khi đức Phật ban đầu thành chánh giác thì nói bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy. Thời gian hai mươi mốt ngày, thì nói xong bộ Kinh nầy. Thời nói Kinh Hoa Nghiêm là thời thành tựu, ban đầu thành chánh giác là chủ thành tựu. Nước Ma Kiệt Ðề trong A Lan Nhã Pháp Bồ Ðề Tràng là xứ thành tựu.
Mặt đất kiên cố, do kim cang làm thành.
Chỗ của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ban đầu thành chánh giác, là ở tại nước Ma Kiệt Ðề dưới cội bồ đề. Lúc đó đất ở bốn phía chung quanh cây bồ đề, đều biến thành rất kiên cố, đất nầy chẳng phải đất mà là do đá kim cương làm thành. Ðá kim cương là vật cứng chắc nhất. Có ba thứ tác dụng đó là : Cứng chắc, sáng, và sắc bén.
- Cứng chắc: Là biểu thị chí nguyện của con người phải kiên cố, bất cứ vật gì cũng không thể phá hoại được.
- Sáng: Tức là quang minh, biểu thị trí huệ của con người phải sáng suốt.
- Sắc bén: Là biểu thị sự tinh tấn của con người, phải nhanh chóng như sự sắc bén của thanh kiếm.
Phía trên có bánh xe báu tốt đẹp, có vô số hoa báu và châu ma ni thanh tịnh dùng để nghiêm sức.
Phía trên nhất có bánh xe báu không thể nghĩ bàn, và có rất nhiều thứ hoa báu anh lạc, còn có châu ma ni báu thanh tịnh dùng để nghiêm sức đạo tràng. Bánh xe báu và hoa báu rất mỹ lệ, lại thêm châu ma ni báu thanh tịnh, càng làm cho trang nghiêm thêm.
Các biển màu sắc tướng, hiển hiện vô biên.
Châu Ma ni là một thứ báu, màu sắc của nó đặc biệt rất đẹp, có rất nhiều màu sắc ánh sáng vạn tía ngàn hồng, vì màu sắc rất nhiều tướng, giống như biển, nhìn rất trang nghiêm phi thường, đặc biệc đẹp đẽ, cho nên nói các biển màu sắc. Màu sắc và sự trang nghiêm nầy, hiển hiện ra vô lượng vô biên để trang nghiêm đạo tràng.
Châu ma ni dùng làm tràng, thường phóng ánh sáng, luôn vang ra âm thanh hay, các mành lưới báu có hương thơm, hoa xinh đẹp, chuỗi anh lạc rất đẹp giăng bủa khắp nơi.
Dùng ma ni báu làm thành tràng, lọng, vì dùng ma ni báu kiến tạo, cho nên tại mỗi châu ma ni đều phóng ra ánh sáng, không những phóng ra vô lượng ánh sáng mà còn có vô lượng âm thanh rất hay. Ánh sáng đó hơn hẳn ánh sáng của mặt trời mặt trăng. Thứ âm thanh hay đó hơn hẳn tất cả âm nhạc ở nhân gian và trên trời. Do rất nhiều thứ báu chế thành mành lưới La võng để trang nghiêm Bồ đề đạo tràng. Lưới La võng báu nầy có hương thơm ngào ngạt, hoa đẹp, chuỗi anh lạc rất đẹp, giăng bủa khắp chung quanh đạo tràng, khiến cho tất cả chúng sinh ngửi được thứ hương nầy, thấy được thứ hoa nầy và thứ chuỗi anh lạc nầy, đều gieo xuống hạt giống bồ đề, tương lai sẽ thành Phật quả.
Châu ma ni vương báu biến hiện tự tại, mưa xuống châu báu vô tận, và các thứ hoa xinh đẹp rải khắp mặt đất.
Ở trong các mành lưới báu có châu ma ni vương báu, nghĩ cái gì thì có cái đó, toại tâm như ý, cho nên biến hiện tự tại, lại mưa xuống châu báu vô tận và các thứ hoa xinh đẹp, rải khắp mặt đất chung quanh đạo tràng.
Các cây báu thẳng hàng, cành lá sum sê tươi tốt.
Các cây báu do các thứ báu làm thành, có thứ tự từng hàng từng hàng, từ bốn phía nhìn lại đều thẳng tắp. Các thứ cây báu đó dùng vàng làm thân cây, dùng mã não làm cành, dùng chuỗi anh lạc làm lá. Màu sắc các thứ báu có ngàn vạn thứ. Cành lá các cây báu đó, không những phóng ra ánh sáng, mà còn rất rực rỡ sum sê tươi tốt.
Do thần lực của đức Phật, khiến cho Ðạo tràng tất cả đều trang nghiêm ảnh hiện.
Cảnh giới đó là do thần thông oai lực của Ðức Phật mà có được. Thần thông oai lực của Ðức Phật do từ đâu mà có ? Nhiều thứ lưới báu, nhiều châu ma ni vương, nhiều cây báu .v.v… đều là do Ðức Phật tại nhân địa nghiêm trì giới luật, tơ hào cũng không phạm giới.
1. Giới sát sinh: Không những tay không giết hại, mà tâm cũng không sinh tâm niệm giết hại, từ bi thương sót tất cả chúng sinh.
2. Không trộm cắp: Không những thân không trộm cắp, mà tâm cũng không khởi ý niệm trộm cắp, nghiêm hành tu trì giới luật.
3. Giới dâm: Cũng lại như thế, càng không khởi ý niệm dâm dục, đời nầy tuy kết hôn, song chỉ trên danh nghĩa mà thôi.
4. Giới nói dối: Thấy thì nói thấy, không thấy nói không thấy, biết thì nói biết, cũng không sinh ý niệm nói dối.
5. Giới rượu: Phàm là chất có sự kích thích đều không uống, không riêng gì rượu.
Ðức Phật giữ năm giới căn bản nầy, cho nên mới có thần thông oai lực như thế, dùng các thứ báu để trang nghiêm đạo tràng. Công đức của Phật viên mãn, mới có thần thông oai lực, làm cho đạo tràng trang nghiêm long trọng. Ở trong đạo tràng nầy ảnh hiện ra cảnh giới không thể nghĩ bàn nầy.
Cây bồ đề cao lớn hiển hiện lạ thường.
Vì Ðức Phật thành Phật dưới cội bồ đề nầy, cho nên cây bồ đề nầy cũng biến thành cao lớn, chẳng giống những cây bồ đề khác, cho nên nói cao lớn hiển hiện lạ thường.
Thân cây làm bằng kim cang, gốc bằng lưu ly, các thứ báu đẹp xen tạp dùng làm cành lá. Các lá báu chen nhau phủ che như mây.
Thân cây bồ đề đó do kim cang làm thành, lưu ly báu làm gốc cây bồ đề. Lại dùng rất nhiều thứ báu đẹp làm cành lá, giữa lá và lá chen nhau, cành cây thòng rũ xuống, lá cây che rợp, giống như lọng bằng mây che trong hư không.
Có các hoa báu nhiều màu, trổ ra các cành bày ảnh la liệt. Lại dùng châu ma ni làm quả, đều chói sáng rực rỡ như lửa ngọn xen lẫn trong hoa.
Hoa báu có trăm ngàn thứ màu sắc, trổ ra các cành bày ảnh la liệt rất nghiêm đẹp. Lại dùng châu ma ni làm quả bồ đề. Quả nầy đều phát ra ánh sáng rực rỡ chiếu soi. Ánh sáng rực rỡ như lửa ngọn đều xen lẫn trong hoa.
Khắp chung quanh cây bồ đề đều phóng quang minh, ở trong quang minh mưa xuống châu ma ni báu, trong ma ni báu, có các Bồ Tát đông nhiều như mây, đồng thời xuất hiện.
Khắp ba bên bốn phía cây bồ đề nầy đều phóng ra ánh sáng của Phật, ở trong ánh sáng lại mưa châu ma ni báu, trong châu ma ni báu lại có rất nhiều Bồ Tát, đông nhiều như mây, đồng thời cùng nhau xuất hiện.
Lại nhờ thần thông oai lực của Như Lai, mà cây bồ đề luôn vang ra âm thanh rất hay, diễn nói các pháp không cùng tận.
Cảnh giới nầy có đủ thứ quang minh, đủ thứ ánh sáng, đủ thứ hoa, đủ thứ màu sắc, phối hợp với nhau làm thành đạo tràng trang nghiêm tốt đẹp mỹ lệ, khiến cho đạo tràng thù thắng. Ðó là do đại oai thần lực của Ðức Phật. Cây bồ đề nầy không những cao hiển lạ thường, mà còn phát ra âm thanh rất hay, khiến cho người nghe đều đắc được đủ loại tam muội. Cây bồ đề nầy luôn luôn phát ra âm thanh rất hay, trong âm thanh hay đó, lại nói đủ thứ các pháp, không khi nào hết được, tức cũng là không khi nào nói hết được, luôn luôn đều nói, thời khắc đều nói, suốt thuở vị lai đều nói pháp không gián đoạn.
Chỗ của Như Lai ngồi là cung điện lầu các, rộng lớn trang nghiêm mỹ lệ đầy khắp mười phương.
Vì đức Phật thành chánh giác dưới cội bồ đề, cho nên gọi là Như Lai, là một trong mười hiệu của Phật. Những gì là mười hiệu :
- Như Lai.
- Ứng Cúng.
- Chánh Biến Tri.
- Minh Hạnh Túc.
- Thiện Thệ Thế Gian Giải.
- Vô Thượng Sĩ.
- Ðiều Ngự Trượng Phu.
- Thiên Nhân Sư.
- Phật.
- Thế Tôn.
Khi nói bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy thì đức Như Lai hiện thân Lô Xá Na cao ngàn trượng, cho nên cung điện đương nhiên phải cao ba ngàn trượng. Cảnh giới nầy là do đại oai thần lực của Như Lai biến hoá hiện ra. Cung điện lầu các nầy rất rộng lớn phi thường, vừa trang nghiêm vừa mỹ lệ, không những đầy khắp một phương mà đầy khắp mười phương.
Dùng các màu sắc châu ma ni tạo thành. Ðủ loại hoa báu dùng để trang nghiêm.
Toà cung điện lầu các nầy, dùng rất nhiều các màu sắc châu ma ni báu làm thành, dùng đủ loại hoa báu để trang nghiêm toà cung điện nầy. Sau khi Ðức Phật thành đạo rồi, dùng đại oai thần lực để trang nghiêm đạo tràng, hiện thân Lô Xá Na ngàn trượng để diễn nói Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật nầy. Một số phàm phu tục tử nghe rồi, cảm thấy sự trang nghiêm đạo tràng nầy, có vẻ chẳng có gì quan trọng. Thật tế thì sự trang nghiêm nầy là biểu pháp. Biểu thị Phật lúc tại nhân địa tu đủ thứ hạnh môn, thực hành đủ thứ sự khổ hạnh khó làm. Bây giờ thành Phật mới có đủ thứ sự trang nghiêm nầy.
Những đồ trang nghiêm, đều phóng ánh sáng như mây. Từ trong cung điện lầu các, hoa ảnh làm thành tràng. Có vô số Bồ Tát, và chúng hội đạo tràng, đều vân tập đến. Chư Phật đều phóng quang minh, trong quang minh có âm thanh vi diệu không thể nghĩ bàn, lại có châu ma ni vương báu làm thành lưới.
Tất cả hoa báu trang nghiêm đều phóng quang minh, giống như các loại mây báu, trong cung điện có khoảng không gian, thứ quang ảnh nầy tụ hội thành hình tràng báu, trong tràng báu nầy có vô lượng vô biên Bồ Tát, không những có vô lượng vô biên Bồ Tát, mà mỗi vị Bồ Tát đều đem chúng sinh trong đạo tràng của mình, đều suất lãnh đến Bồ đề đạo tràng. Khi chư Bồ Tát đến đạo tràng của Ðức Phật, thì xuất hiện quang minh của chư Phật chiếu soi với nhau. Trong quang minh của Phật cũng phát ra âm thanh vi diệu không thể tả, lại có châu ma ni vương báu làm lưới báu.
Do thần thông oai lực tự tại của Như Lai, khiến cho tất cả cảnh giới đều xuất hiện trong đạo tràng.
Vì Như Lai đắc được thần thông oai lực tự tại, tất cả các thứ âm thanh hay, các thứ ánh sáng, các thứ cảnh giới, đều từ trong đạo tràng hiện ra. Cho nên trong Bồ đề đạo tràng, có cảnh giới không thể nghĩ bàn nầy.
Nhà cửa phòng xá, chỗ ở của tất cả chúng sinh, đều hiện ra hình bóng ở trong đó.
Sức thần thông tự tại của Như Lai, biến hiện cảnh giới không thể nghĩ bàn, ở trong cảnh giới giống như lưu ly, như hư không, tất cả chúng sinh ở trong hư không, nơi ăn chốn ở đều hiện ra hình bóng trong cảnh giới nầy.
Vì vậy, cho nên trong Kinh Kim Cang có nói : “Tất cả chúng sinh, có những tâm gì, Như Lai đều biết”, nghĩa là tất cả tâm niệm và hành vi của chúng sinh, không biết có bao nhiêu thứ tâm ? Như Lai đều biết đều thấy. Vì đều không ra ngoài phạm vi bốn trí của Như Lai. Bốn trí là gì ? Tức là :
Thành sở tác trí.
Diệu quán sát trí.
Bình đẳng tánh trí.
Ðại viên cảnh trí.
Bốn trí nầy là từ tám thức của phàm phu biến ra. Mục đích chúng ta tu đạo là chuyển thức thành trí.
Lại nhờ thần lực của chư Phật gia trì, trong khoảng một niệm bao khắp pháp giới. Tòa sư tử cao lớn tốt đẹp.
Tòa của đức Phật ngồi gọi là tòa sư tử, vì sư tử là chúa của loài thú, khi sư tử hống lên, thì tất cả loài thú đều sợ hãi. Cho nên Phật nói pháp dụ như sư tử hống, thiên ma ngoại đạo nghe được, thì sinh tâm sợ hãi mà hàng phục được chúng, do đó tòa ngồi của đức Phật gọi là tòa sư tử. Tòa sư tử nầy cao lớn tốt đẹp lạ thường.
Ðài làm bằng châu ma ni, lưới bằng hoa sen, châu báu đẹp thanh tịnh dùng viềng chung quanh, các loại hoa đẹp nhiều màu kết thành chuỗi anh lạc.
Tòa sư tử nầy dùng châu ma ni báu làm đài, dùng các loại hoa sen nhiều màu để làm lưới, lại dùng châu báu đẹp thanh tịnh viềng chung quanh, thứ châu báu đẹp thanh tịnh nầy lại gọi là “tị trần châu”. Thứ châu báu nầy để ở chỗ nào, thì chỗ đó chẳng dính một hạt bụi. Thứ châu báu nầy do đâu mà thành tựu ? Là do trì giới thanh tịnh, mà cảm ứng châu báu đẹp hiện ra. Lại dùng đủ loại hoa nhiều màu để làm chuỗi anh lạc.
Cung điện lầu các, cửa nẻo thềm bực thảy đều trang nghiêm. Cây báu cành lá bông trái chen nhau la liệt.
Cung điện lầu các, cửa nẻo thềm bực, tất cả đều tốt đẹp trang nghiêm, có mười thứ mỹ lệ trang hoàng không thể nghĩ bàn, khiến cho ai thấy thì đều sinh tâm bồ đề và tâm thanh tịnh. Người trên thế giới nầy tại sao có tâm ô nhiễm ? có tư tưởng không thanh tịnh ? Vì nghiệp chướng của chúng ta không thanh tịnh, cho nên hiển hiện ra thế giới không thanh tịnh. Nếu nghiệp thanh tịnh thì sẽ cảm hiện ra thế giới cũng thanh tịnh. Dùng bảy thứ báu để trang nghiêm cành lá và trái thật. Cây báu nầy ở ba bên bốn phía tòa sư tử, xen nhau la liệt.
Châu ma ni tuông ra ánh sáng như mây, hổ tương chiếu soi lẫn nhau.
Châu ma ni báu tuông ra ánh sáng như mây, ánh sáng nầy chiếu ánh sáng kia, ánh sáng kia chiếu ánh sáng nọ, hổ tương chiếu soi lẫn nhau.
Mười phương chư Phật, hoá hiện châu vương.
Lúc bấy giờ, mười phương chư Phật đến bên tòa sư tử, hóa hiện châu vương (nghĩa là lý tròn giải đầy), phàm là khi mới thành Phật, đều có tất cả chư Phật hiện hình quán đảnh, tất cả Bồ Tát thân cận kính ngưỡng.
Báu đẹp từ trong búi tóc của tất cả Bồ Tát, đều phóng ánh sáng chiếu sáng đạo tràng.
Báu đẹp từ trong búi tóc của vô số Bồ Tát trong mười phương, đều phóng ra ánh sáng chiếu sáng đạo tràng.
Lại nhờ oai thần lực của chư Phật gia trì, các Bồ Tát đều diễn nói cảnh giới rộng lớn của Như Lai, âm thanh rất hay, chẳng có chỗ nào mà không nghe được.
Lại nhờ oai đức thần thông của tất cả mười phương chư Phật gia trì, các Bồ Tát đều diễn nói diệu pháp của Như Lai. Cảnh giới rộng lớn nầy dùng âm thanh hay, thông đạt bốn phương, chẳng có chỗ nào mà không nghe được âm thanh hay nầy, tức là ở trong một hạt bụi cũng nghe được, vì đều đang chuyển bánh xe pháp.
Bấy giờ, Ðức Thế Tôn ngồi trên toà sư tử, ở trong tất cả các pháp, Ðức Phật là tối Chánh giác. Trí huệ của Phật nhập vào ba đời, thảy đều bình đẳng.
Lúc đó, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi trên tòa sư tử, ở trong tất cả các pháp, đức Phật là tối chánh giác. Bồ Tát có thể nói là chánh giác, nhưng chưa đạt được tối chánh giác. Hàng nhị thừa có thể nói là giác, không thể nói là chánh giác. Ngoại đạo và phàm phu thì không giác, không giác mà cho rằng tự giác, đó là tà tri tà kiến, không giác tức là ngu si. Người ngu si cho rằng mình làm gì cũng đều đúng, chẳng có gì không đúng, cho nên mới gọi là không giác.
Trí huệ của Phật nhập vào được ba đời, biết được quá khứ trồng nhân gì ? đời hiện tại kết quả gì ? đời bây giờ trồng nhân gì ? đời vị lai kết quả gì ? Ðức Phật không những biết chính mình, mà cũng biết tất cả chúng sinh. Ðời quá khứ cũng bình đẳng, đời hiện tại cũng bình đẳng, đời vị lai cũng bình đẳng.
Ba đời là gì ? Tức là quá khứ, hiện tại và vị lai. Quá khứ là kiếp trước, hiện tại là đời nầy, vị lai là đời sau, đó là ba đời. Lúc nầy có người nói :”Tôi không tin, tôi một đời còn chưa hiểu làm sao tin ba đời ? ” Bạn nói rất có lý ! Tuy nhiên bạn không minh bạch một đời, đương nhiên không thể minh bạch ba đời. Không tin ba đời là có thể, nhưng bạn có tin có ngày hôm qua chăng ? có ngày hôm nay chăng ? có ngày mai chăng ? Việc hôm qua, ngày hôm nay đã quên mất, việc ngày mai càng không biết. Sự việc ba ngày nầy còn không nhớ rõ, hà huống là sự việc ba đời làm sao nhớ được ?
Thân Ðức Phật đầy khắp tất cả thế gian. Âm thanh của Ðức Phật, vang đến tất cả cõi nước trong mười phương.
Thân của đức Phật không những đầy khắp tất cả thế giới, mà còn đầy khắp pháp giới. Do đó :
“Thân Phật đầy khắp trong pháp giới,
Hiện khắp trước tất cả chúng sinh”.
Âm thanh của Phật lại thông đạt đến khắp các cõi nước trong mười phương, do đó :
“Phật dùng một diệu âm,
Nghe khắp trong mười phương”.
Ví như hư không bao trùm hết thảy vạn vật, mà trong các cảnh giới chẳng có phân biệt.
Pháp thân của Phật giống như hư không, bao dung tất cả sum la vạn tượng, mà hư không đối với tất cả cảnh giới chẳng có phân biệt, không phân biệt đó đây.
Lại như hư không cùng khắp tất cả bình đẳng, mà vào trong các cõi nước.
Pháp thân Phật lại giống như hư không, cùng khắp tất cả chỗ. Ở cõi nước lớn thì có hư không lớn, ở cõi nước nhỏ thì có hư không nhỏ, tóm lại cõi nước lớn bao nhiêu, thì hư không lớn bấy nhiêu, là bình đẳng, không có lớn có nhỏ.
Thân Ðức Phật thường ngự khắp tất cả đạo tràng. Trong tất cả đạo tràng có vô số Bồ Tát, oai đức quang minh như mặt trời mọc, chiếu sáng thế giới.
Pháp thân của Phật thường đầy khắp pháp giới, ngồi khắp tất cả đạo tràng. Ở trong đạo tràng có vô số Bồ Tát, oai đức quang minh như ánh sáng mặt trời giữa trưa, chiếu sáng làm cho mắt không thể mở được, lại giống như mặt trời vừa mới mọc lên, chiếu khắp thế giới.
Ðức Phật ở trong ba đời tu hành, phước báu như biển cả, hoàn toàn thanh tịnh.
Ðức Phật trong ba đời tích lũy phước báu nhiều như biển cả, đã hoàn toàn thanh tịnh không ô nhiễm. Phước báu mà chúng ta tu, chẳng phải tu trong một đời một kiếp, mà là tu trong nhiều đời nhiều kiếp. Tu phước thì tương lai sẽ có phước báo. Tu huệ thì tương lai sẽ có trí huệ. Tốt nhất là phước huệ đều tu, thì tương lai phước huệ đều song toàn, nên nhớ :
“Ðừng cho rằng việc thiện nhỏ mà không làm,
Ðừng cho rằng việc ác nhỏ mà làm”.
Việc thiện tuy nhỏ cũng phải làm, việc thiện nhiều là do tích tập từ ít mà thành. Việc ác tuy nhỏ cũng đừng làm, việc ác lớn là từ việc ác nhỏ tích tập mà thành. Nên chú ý ! Phải luôn luôn tu phước tu huệ, mới có phước báu như biển cả. Ở trong phước có tu phước thanh tịnh, có tu phước ô nhiễm. Phật và Bồ Tát tu phước đều là thanh tịnh, nghĩa là Hằng hà sa số phiền não đều đã đoạn sạch.
Các Bồ Tát thường thị hiện sinh vào cõi nước của các đức Phật, có vô lượng vô biên tướng tốt, quang minh viên mãn, chiếu khắp pháp giới, không có phân biệt.
Bồ Tát thường thị hiện trăm ngàn ức hóa thân, trong các cõi nước chư Phật mười phương. Tướng tốt trang nghiêm nhiều không có bờ mé. Thân Bồ Tát có quang minh viên mãn. Quang minh nầy chiếu khắp tất cả pháp giới. Quang minh nầy ở trong pháp giới, đều giống nhau chẳng có gì phân biệt.
Diễn nói tất cả các pháp, như vầng mây lớn giăng che. Trong mỗi đầu sợi lông, đều dung chứa tất cả các thế giới, mà không chướng ngại.
Ở trong pháp giới diễn nói tất cả diệu pháp, giống như vầng mây lớn giăng bày ở trong hư không, khiến cho thân tâm chúng sinh đều được mát mẻ.
Trên mỗi đầu sợi lông của đại Bồ Tát và chư Phật đều dung nạp tất cả thế giới. Sợi lông tuy nhỏ nhưng dung chứa được thế giới. Thế giới tuy lớn, nhưng không ra ngoài đầu sợi lông. Do đó :”Nơi đầu sợi lông hiện cõi Bảo vương”, chẳng phải một đầu sợi lông hiện được cõi Bảo vương, mà là mỗi đầu sợi lông đều hiện được cõi Bảo vương. “Ngồi trong hạt bụi chuyển pháp xe pháp”, ngồi ở trong một hạt hạt bụi mà chuyển bánh xe pháp, giáo hóa chúng sinh, có vô lượng vô biên chúng sinh ở trong một hạt bụi, nghe Ðức Phật thuyết pháp. Ðầu sợi lông nhỏ như thế, làm sao dung chứa được thế giới ? Cảnh giới nầy chẳng có cách chi có thể giải thích, chỉ có thể nói không có chướng ngại.
Các Bồ Tát đều hiện vô lượng sức thần thông, để giáo hóa điều phục tất cả chúng sinh.
Tại sao trong nhỏ dung được lớn ? Lớn lại ở trong nhỏ ? Ðó là đạo lý gì ? Thật làm cho người bối rối không hiểu được. Cảnh giới nầy là các Bồ Tát đều hiện sức thần thông. Các Ngài hiện cảnh giới nầy, là khiến cho chúng sinh tiêu diệt tri kiến của mình, phải học Phật pháp, giáo hóa chúng sinh, điều phục chúng sinh, khiến cho chúng sinh đừng thấy cái thấy của mình, khiến cho chúng sinh phải có tâm hổ thẹn. Không hổ không thẹn là buộc chân vào đá mà học Phật pháp, vĩnh viễn không thể thành tựu.
Thân Phật đầy khắp mười phương mà không đến đi. Trí hụê của Phật vào tất cả các tướng, thấu rõ các pháp vắng lặng.
Thân của các đức Phật là khắp cùng mười phương, cho nên chẳng có đến, cũng chẳng có đi. Ví như một ly nước đã đầy rồi, còn đựng gì được nữa ? Lúc chưa đầy thì có thể đựng thêm nước, đó là đến. Uống nước rồi, đó là đi. Bây giờ ly nước nầy đầy, không có ai đến uống, không có ai đến thêm vào, cho nên không có đến đi.
Bây giờ đầy khắp rồi, từ đâu đến ? Ði đến nơi nào ? Làm sao đầy ? Ðó là một thứ thần thông diệu dụng của các đức Phật. Ai chứng được cảnh giới nầy thì người đó chẳng đến đi.
Trí huệ tùy thuận được tất cả tướng, thấu rõ được pháp vốn là vắng lặng. Vì tính tĩnh cho nên là tịch, vì vô tướng cho nên là không.
Tất cả thần thông biến hóa của chư Phật ba đời, đều thấy rõ ở trong quang minh, tất cả sự trang nghiêm của tất cả cõi Phật, trải qua kiếp số không thể nghĩ bàn, thảy đều hiển hiện ra.
Những vị đại Bồ Tát nầy, thấy được tất cả thần thông biến hóa, của hết thảy ba đời chư Phật ở trong quang minh. Lại thấy được tất cả cõi Phật, chẳng có cách chi tính được kiếp số trong quá khứ, tất cả sự trang nghiêm của các đức Phật ba đời đều hiển hiện ra, những vị đại Bồ Tát nầy đều biết, làm sao biết được ? Vì trí huệ nhập vào các tướng.
Có các vị đại Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười Phật thế giới, cùng nhiễu quanh Ðức Phật.
Bồ Tát nói đầy đủ là Bồ Ðề Tát Ðỏa. Bồ đề dịch là “giác”, Tát Ðoả dịch là “hữu tình”, vì gọi tắc cho nên gọi là Bồ Tát. Có các đại Bồ Tát (pháp thân Ðại Sĩ, từ bát địa trở lên), số đông nhiều như số hạt bụi mười Phật thế giới, hết thảy đều cùng nhau nhiễu quanh toà sư tử của Ðức Phật.l
Tại sao Kinh Hoa Nghiêm dùng số mục mười ? Vì mười là một vòng, số tròn đầy. Ví như mười lần một là mười, mười lần mười là trăm, mười lần trăm là ngàn, mười lần ngàn là vạn, như thế mà tính thì sẽ được số vô lượng. Biểu thị trùng trùng vô tận, vì Kinh Hoa Nghiêm là nói đạo lý trùng trùng vô tận. Cho nên dùng mười. Mười Phật thế giới tức là vô lượng vô biên thế giới của Phật, nghĩa là không cách chi hình dung biết được số lượng.
Danh hiệu của các Ngài là : Ðại Bồ Tát Phổ Hiền. Ðại Bồ Tát Phổ Ðức Tối Thắng Ðăng Quang Chiếu. Ðại Bồ Tát Phổ Quang Sư Tử Tràng. Ðại Bồ Tát Phổ Bảo Diệm Diệu Quang. Ðại Bồ Tát Phổ Âm Công Ðức Hải Tràng. Ðại Bồ Tát Phổ Trí Quang Chiếu Như Lai Cảnh. Ðại Bồ Tát Phổ Bảo Kế Hoa Tràng. Ðại Bồ Tát Phổ Giác Duyệt Ý Thanh. Ðại Bồ Tát Phổ Thanh Tịnh Vô Tận Phước Quang. Ðại Bồ Tát Phổ Quang Minh Tướng.
Vị đại Bồ Tát thứ nhất danh hiệu là Bồ Tát Phổ Hiền. Ngài là thượng thủ trong chúng nầy. Ðức tính của Ngài là phổ khắp, địa vị là Ðẳng giác. Ngài là Ðẳng giác Bồ Tát. Ðức Phật là Diệu giác Bồ Tát. Cho nên gần kề địa vị với Phật. Nguyện lực của vị đại Bồ Tát nầy, vượt hơn các Bồ Tát khác. Hạnh lực cũng hơn các Bồ Tát khác, từ bi cũng hơn các Bồ Tát khác, trí huệ cũng hơn Bồ Tát khác, cho nên gọi là đại Bồ Tát. Bồ Tát là nửa chữ Phạn, đầy đủ gọi là “Bồ đề tát đoả”, tức là giác hữu tình, lại gọi là hữu tình giác. Sao gọi là giác hữu tình ? Dùng đạo lý giác ngộ để giáo hóa tất cả hữu tình. Khiến cho tất cả hữu tình đều đắc được giác ngộ, cho nên gọi là giác hữu tình. Sao gọi là hữu tình giác ? Vì Bồ Tát là người giác ngộ ở trong hữu tình, cho nên gọi là hữu tình giác.
Bồ Tát vốn chẳng có danh hiệu gì ? Nhưng nếu không có danh hiệu, thì không thể biểu hiện được đức hạnh, hạnh môn, hạnh nguyện của các Ngài, cho nên mới dựa theo những đức tính trên, mà ban cho các Ngài danh hiệu.
Thể tính cùng khắp là Phổ, tùy duyên thành đức là Hiền, đó là nguồn gốc danh hiệu của Bồ Tát Phổ Hiền.
Vị đại Bồ Tát thứ hai là Phổ Ðức Tối Thắng Ðăng Quang Phổ Chiếu. Vì công đức của Ngài viên mãn cùng khắp, vượt qua đăng quang chiếu khắp mọi nơi. Cho nên được tên nầy.
Vị đại Bồ Tát thứ ba là Phổ Quang Sư Tử Tràng. Vì âm thanh của Ngài thuyết pháp, giống như tiếng hống của sư tử, còn quang minh thì chiếu khắp như lưới tràng, cho nên có tên nầy.
Vị đại Bồ Tát thứ tư là Phổ Bảo Diệm Diệu Quang. Vì hạnh môn của Ngài tu, vô cùng thanh tịnh, trí huệ của Ngài như bảo diệm diệu quang, cho nên có tên nầy.
Vị đại Bồ Tát thứ năm là Phổ Âm Công Ðức Hải Tràng. Vì âm thanh vi diệu của Ngài, khắp cùng pháp giới, vạn hạnh công đức của Ngài như biển cả, như tràng báu. Cho nên có tên nầy.
Vị đại Bồ Tát thứ sáu là Phổ Trí Quang Chiếu Như Lai Cảnh. Vì trí huệ quang minh của Ngài chiếu khắp cảnh giới Như Lai. Cảnh giới của Như Lai chẳng phải một số Bồ Tát biết được, thế mà vị đại Bồ Tát nầy thấu rõ cảnh giới của Như Lai.
Vị đại Bồ Tát thứ bảy là Phổ Bảo Kế Hoa Tràng. Vì kế hoa của Ngài cao như tràng báu, cho nên có tên nầy.
Vị đại Bồ Tát thứ tám là Phổ Giác Duyệt Ý Thanh. Vì âm thanh của Ngài vô cùng êm tai, khiến giác ngộ khắp cùng, sinh tâm khoái lạc, cho nên chúng sinh muốn thưởng thức diệu âm của Ngài. Do đó có tên nầy.
Vị đại Bồ Tát thứ chín là Phổ Thanh Tịnh Vô Tận Phước Quang. Vì phước đức của Ngài thanh tịnh khắp hết thảy, làm cho pháp giới thanh tịnh, phước đức của Ngài vô cùng vô tận, trong phước đức nầy sinh ra quang minh, cho nên có tên nầy.
Vị đại Bồ Tát thứ mười là Phổ Quang Minh Tướng. Vì tướng hảo quang minh của Ngài cũng khắp cùng pháp giới, cho nên có tên nầy.
Mười vị Bồ Tát nầy là đại Bồ Tát trong các Bồ Tát. Ðức Phật bắt đầu giảng Kinh Hoa Nghiêm, thì mười vị đại Bồ Tát nầy, xuất lãnh quyến thuộc của các Ngài, đến bồ đề đạo tràng, trợ giúp đức Phật để hoằng dương diệu pháp Hoa Nghiêm.
Ðại Bồ Tát Hải Nguyện Quang Ðại Minh. Ðại Bồ Tát Vân Âm Hải Quang Vô Cấu Tạng. Ðại Bồ Tát Công Ðức Bảo Kế Trí Sinh. Ðại Bồ Tát Công Ðức Tự Tại Vương Ðại Quang. Ðại Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh Liên Hoa Kế. Ðại Bồ Tát Phổ Trí Vân Nhật Tràng. Ðại Bồ Tát Ðại Tinh Tấn Kim Cang Tề. Ðại Bồ Tát Hương Diệm Quang Tràng. Ðại Bồ Tát Ðại Minh Ðức Thâm Mỹ Âm. Ðại Bồ Tát Ðại Phước Quang Trí Sinh.
Trong pháp hội của Phật thuyết pháp, có mười bộ chúng đến nghe pháp. Mười bộ chúng là :
1. Chúng ảnh hưởng.
2. Chúng thường theo.
3. Chúng hộ pháp.
4. Chúng nghiêm hộ.
5. Chúng cúng dường.
6. Chúng phát tâm.
7. Chúng đương cơ.
8. Chúng biểu pháp.
9. Chúng chứng pháp.
10. Chúng hiển pháp.
1. Chúng ảnh hưởng: Tức là các đại Bồ Tát trong mười phương, vốn đã nghe qua pháp của đức Phật nói, không những đã nghe qua một vị Phật nói, mà là mười phương chư Phật nói pháp, các Ngài đều đã nghe qua, cũng hiểu rõ, còn nhớ rõ nữa, căn bản không cần nghe nữa, nhưng các Ngài vẫn đến nghe pháp. Tại sao ? Vì làm chúng ảnh hưởng. Khi Phật nói bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, thì những vị đại Bồ Tát nầy, có vị từ dưới đất vọt lên, có vị từ trên trời xuống, có vị từ mười phương hạt bụi cõi nước mà đến, có vị từ hư không mà đến, đến Bồ đề đạo tràng để nghe pháp. Tại sao ? Vì hướng dẫn đại chúng đến nghe diệu pháp, làm ảnh hưởng đại chúng tinh tấn nghiên cứu diệu pháp, cho nên gọi là chúng ảnh hưởng.
2. Chúng thường theo: Tức là một ngàn hai trăm năm mươi vị đệ tử, thường theo Ðức Phật nghe pháp. Phật đi đến đâu thuyết pháp, thì các vị đó đều theo Phật đến đó nghe pháp. Ðức Phật ban đầu nói Kinh Hoa Nghiêm, tuy nhiên không có đệ tử kế bên, nhưng có mười phương chư Phật đến làm thường tùy chúng, luôn luôn không rời khỏi pháp hội Hoa Nghiêm.
3. Chúng hộ pháp: Tức là bảo hộ người thuyết pháp an toàn. Phật đã thành Phật, lại có thần thông diệu dụng, tại sao còn phải bảo hộ ? Phật tuy nhiên có thần thông, nhưng đệ tử phải tận hết trách nhiệm của mình, muốn làm chúng hộ pháp.
4. Chúng nghiêm hộ: Tức là đại chúng trang nghiêm pháp hội, dùng tràng phan bảo cái đến trang nghiêm đạo tràng. Ðó là sự trang nghiêm hữu hình, dùng tín giải hạnh chứng để trang nghiêm pháp hội, đó là trang nghiêm vô hình.
5. Chúng cúng dường: Trong pháp hội không thể không có người cúng dường, cho nên phải có chúng cúng dường.
6. Chúng phát tâm: Phải có thiện nam tín nữ phát tâm đến hộ trì pháp hội, cho nên gọi là chúng phát tâm.
7. Chúng đương cơ: Tức là Phật vì những chúng sinh nầy mà thuyết pháp, khiến cho họ y pháp phụng hành, đó gọi là chúng đương cơ.
8. Chúng biểu pháp: Tức là chúng sinh đại biểu cho pháp nầy.
9. Chúng chứng pháp: Nghe pháp rồi chứng được sơ quả, nhị quả, tam quả, hoặc tứ quả A La Hán.
10. Chúng hiển pháp: Tức là chúng sinh làm cho Phật pháp hiển lộ ra. Do đó có mười bộ chúng đến thành tựu pháp hội.
Dưới đây là mười vị đại Bồ Tát đến Bồ Ðề Ðạo Tràng, làm chúng ảnh hưởng trong pháp hội Hoa Nghiêm, vì những vị Bồ Tát nầy có sức lực hiệu chiêu. Các Ngài đều đến thì những chúng sinh khác, tự nhiên cũng đều đến nghe Phật nói diệu pháp Hoa Nghiêm. Mười vị Bồ Tát nầy là đại Bồ Tát trong các Bồ Tát.
Vị đại Bồ Tát thứ nhất là Hải Nguyệt Quang Ðại Minh. Trí huệ quang minh của Ngài lớn như biển, lại sáng như mặt trăng, cho nên đựơc tên nầy.
Vị đại Bồ Tát thứ hai tên là Vương Âm Hải Quang Vô Cấu Tạng. Âm thanh của Ngài thuyết pháp như tiếng sấm sét lớn, ở trong hư không phát ra âm thanh ầm ầm, kẻ điết nghe rồi thì hết điết, người ngủ nghe rồi thì tỉnh dậy. Kẻ điết là ai ? Tức là người không thích nghe Phật pháp. Kẻ ngủ là ai ? Tức là người không muốn xem Kinh Phật. Vị đại Bồ Tát nầy dùng tiếng sấm sét lớn để chấn tỉnh họ, không muốn nghe cũng nghe được, không muốn xem cũng xem được. Hải quang là hải ấn phát quang, đem sâm la vạn tượng đều ấn ở trong biển. Vô cấu tạng tức là thanh tịnh, cho nên được tên nầy.
Vị đại Bồ Tát thứ ba là Công Ðức Bảo Kế Trí Sinh. Công đức của Ngài lớn vô cùng, như bảo kế (búi tóc báu) trên đỉnh của Phật, trong bảo kế nầy sinh ra vô lượng trí huệ quang, chảy ra vô lượng bảo tạng, cho nên được tên nầy.
Vị đại Bồ Tát thứ tư là Công Ðức Tự Tại Vương Ðại Quang. Công đức của Ngài rất lớn, cũng đắc được đại tự tại, đại quang minh, cho nên được tên nầy.
Vị đại Bồ Tát thứ năm là Thiện Dũng Mãnh Liên Hoa Kế. Ngài là dũng mãnh hoá sinh, nhưng không nhiễm tướng của sự biến hóa, thuyết pháp huyền diệu giống như mưa, lại giống như châu giải liên hoa kế cho nên được tên nầy.
Vị đại Bồ Tát thứ sáu là Phổ Trí Vân Nhật Tràng : Mây từ bi (vân) và trí huệ mặt trời (nhựt) của Ngài trợ giúp nương với nhau, hổ tương chiếu soi. Trong vô lượng kiếp khắp cùng tương ưng, cao lớn như tràng, do đó đựơc tên nầy.
Vị đại Bồ Tát thứ bảy là Ðại Tinh Tấn Kim Cang Tề. Ngài có trí huệ kiên cố sắc bén, dũng mãnh tinh tấn, không giải đãi, cho nên gọi là đại. Kim cang tề tức là trí huệ thọ mạng vô lượng, như kim cang không bao giờ hủy diệt, do đó được tên nầy.
Vị đại Bồ Tát thứ tám là Hương Diệm Quang Tràng. Ngài trì giới rất tinh nghiêm, không bao giờ phạm giới, cho nên trên thân phóng ra hương diệm quang. Ðạo đức trí quang của Ngài rất cao vô cùng giống như tràng, cho nên được tên nầy.
Vị Bồ Tát thứ chín là Ðại Minh Ðức Thâm Mỹ Âm. Trí huệ quang minh của Ngài chiếu khắp, là đại minh đức. Âm thanh của Ngài cao thâm ưu mỹ vô cùng êm tai, khiến cho người nghe phát bồ đề tâm, cho nên được tên nầy.
Vị đại Bồ Tát thứ mười là Ðại Phước Quang Trí Sinh. Trí huệ quang của Ngài chiếu khắp cảnh giới của Phật. Phước của Ngài cũng lớn, cho nên được tên nầy.
Có các đại Bồ Tát, số đông như hạt bụi mười Phật thế giới đều làm thượng thủ.
Ở trên đã giảng qua hai mươi vị Bồ Tát, các Ngài đều là thượng thủ trong chúng đại Bồ Tát. Thượng thủ tức là lãnh tụ, là người đại biểu trong chúng Bồ Tát. Tổng cộng hết thảy có các Bồ Tát, số đông nhiều như số hạt bụi mười Phật thế giới. Số hạt bụi trong mỗi Phật thế giới, cứ mỗi hạt bụi lại thành một thế giới, rồi mỗi hạt bụi trong thế giới nầy lại thành một thế giới. Vậy có bao nhiêu hạt bụi thì có bấy nhiêu thế giới. Bổn lai số lượng nầy không thể tính ra được. Dù Bồ Tát dùng pháp nhãn (con mắt pháp) cũng không biết được số mục chính xác là bao nhiêu ? Chỉ dùng Phật nhãn quán sát, mới biết thế giới có nhiều như thế ? Ðức Phật không nói dối, có bao nhiêu thì nói bấy nhiêu, phải tin lời nói của Phật là thiên chân vạn quyết, không thể sinh tâm hoài nghi. Ðức Phật có ba thân, bốn trí, năm nhãn, sáu thông, mười lực, mười tám pháp bất cộng, cho nên đức Phật quán sát vũ trụ rõ như chỉ trong bàn tay.
Trong quá khứ, các vị Bồ Tát nầy, với Tỳ Lô Giá Na Như Lai, cùng tu tập căn lành, tu hành hạnh Bồ Tát. Ðều từ biển căn lành của Như Lai sinh ra.
Tỳ Lô Giá Na dịch là “biến nhất thiết xứ”(khắp tất cả mọi nơi). Là pháp thân của Phật Thích Ca Mâu Ni (tướng tâm chân thật sở hiện, chân thường bất biến). Bồ Tát số đông như hạt bụi trong mười phương thế giới, trong vô lượng kiếp về trước, đều cùng với Phật Tỳ Lô Giá Na tu tập căn lành, trong cùng một pháp hội, mỗi người tu lục độ vạn hạnh của mỗi người. Siêng tu công đức lành, dứt hẳn mọi điều tội ác, đó gọi là đồng tu căn lành. Hạnh Bồ Tát tức là lợi ích chúng sinh, tức cũng là lợi người lợi mình, giác mình giác người, độ mình độ người. Những căn lành nầy đều từ trong Tỳ Lô Giá Na Phật, giống như từ biển cả sinh ra. Vì căn lành của những Bồ Tát nầy giống như sông ngòi, còn căn lành của Phật giống như biển cả. Tuy nhiên mỗi vị Bồ Tát tự tu tập căn lành, nhưng đều phải chảy vào trong biển của Như Lai, đó gọi là từ trong biển căn lành của Như Lai sinh ra.
Các hạnh Ba la mật đều đã viên mãn.
Những vị Bồ Tát nầy đều tu đầy đủ các pháp môn Ba La Mật, đã hoàn toàn đạt đến cảnh giới viên mãn không thiếu khuyết. Ba La Mật dịch là “đến bờ kia”. Bờ kia tức là không sinh không diệt, cảnh giới Niết Bàn. Pháp môn Ba La Mật tức là lục độ.
1. Bố thí Ba La Mật: Tức là thí xả. Môn nầy gồm có ba loại, muốn nói tỉ mỉ thì có tám vạn bốn ngàn loại, mỗi một thứ loại có tám vạn bốn ngàn pháp môn, phân tích ra thì nhiều vô cùng, bây giờ chỉ nói ba loại.
a) Bố thí tài: Bố thí tài không dễ gì làm được. Tục ngữ có câu “xả tài như lóc thịt”, hơn nữa làm sao bỏ được thành quách vợ con, đầu mắt tủy não. Có đủ tinh thần như vầy, mới chân thật hành Bồ Tát đạo.
b) Bố thí pháp: Ðem Phật pháp bố thí cho tất cả chúng sinh, kết pháp duyên với chúng sinh. Do đó :”Thí tài như lóc thịt, thí pháp như mất mạng”. Bố thí pháp thì cứu được huệ mạng của người, nhưng bố thí ra thì mình hao khí lực, khí lực tức là mạng sống. Giảng Kinh phải dùng khí lực, thuyết pháp phải dùng khí lực, đem ý nghĩa mỗi câu mỗi chữ tống vào trong đầu não của người nghe pháp, giống như đem mạng sống bố thí không khác.
c) Bố thí không sợ hãi: Tức là khi chúng sinh gặp tai nạn rủi ro, hồn phi phách tán thì phải an ủi họ, khuyên họ “đừng sợ, chư Phật Bồ Tát sẽ bảo hộ bạn, bạn niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì nhất định sẽ được cứu”, đó là trị bằng tâm lý. Thực ra chẳng phải chư Phật Bồ Tát, từ vô lượng vô biên cõi nước, bay đến đây để gia hộ cho bạn, mà là bạn không sợ sệt, Phật tánh của bạn bình an, đó là thừa mông chư Phật Bồ Tát bảo hộ. Hoặc là có người sợ sệt thì bạn làm bằng mọi cách cho họ hết sợ, đó là vô úy thí.
2. Trì giới Ba La Mật: Giới là quy luật, cũng là con đường tu hành, cho nên tu hành phải nghiêm trì giới luật. Người trì giới luật thì sẽ có lợi ích, mỗi người giữ năm giới, thì gia đình hạnh phúc, xã hội yên ổn, thế giới hoà bình. Giới có năm giới lớn căn bản, tức là : Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, (kể cả không hút thuốc, không hút xì ke ma túy), lại có tám giới (Bát Quan Trai), giới Bồ Tát có mười giới trọng bốn mươi tám giới khinh, Sa Di có mười giới, Tỳ Kheo có hai trăm năm mươi giới, Tỳ Kheo Ni có ba trăm bốn mươi tám giới.
3. Nhẫn nhục Ba La Mật: Tức là nhẫn chịu sự khi nhục, nhẫn những gì người không thể nhẫn. Nhẫn có ba thứ.
a) Sinh nhẫn: Tức là phải nhẫn chịu đối với tất cả chúng sinh. Có người mắng bạn, phỉ báng bạn, thậm chí đánh bạn, đều phải nhẫn chịu. Tu hành tức là tu nhẫn nhục, nhẫn được thì không nóng giận. Không nóng giận thì không có vô minh. Không có cô minh thì trí tuệ hiện tiền.
b) Pháp nhẫn: Tức là phải nhẫn chịu đối với tất cả các pháp. Phải nhẫn nóng lạnh, đói khát, tiếp thọ mọi sự khảo nghiệm.
c) Vô sinh pháp nhẫn: Sinh nhẫn được thì người không, pháp nhẫn được thì pháp không. Hơn nữa, nhẫn được thì chẳng có chút pháp sinh, cũng chẳng có chút pháp diệt, tức là trung đạo. Người không, pháp không thì đắc được trung đạo liễu nghĩa, tức là vô sinh pháp nhẫn.
4. Tinh tấn Ba La Mật: Tức là không lười biếng, không giải đãi, không phóng dật. Tinh tấn có hai:
a) Thân tinh tấn: Tức là ngày đêm sáu thời tinh tấn hành đạo.
b) Tâm tinh tấn: Niệm niệm cầu vô thượng đạo, niệm niệm tu vô thượng đạo, niệm niệm ngộ vô thượng đạo, niệm niệm chứng vô thượng đạo.
5. Thiền định Ba La Mật: Ở trong thiền định đắc được công phu, thì tùy thời tùy lúc, ở trong định đắc được thiền định tam muội, mới có thể đến được bờ kia.
6. Bát nhã Ba La Mật: Bát Nhã dịch là trí hụê. Bát Nhã có ba thứ:
a) Văn tự Bát Nhã: Tức là văn tự Tam Tạng mười hai bộ, văn tự giống như thuyền qua sông, qua sông rồi, đừng chấp thuyền.
b) Quán chiếu Bát Nhã: Tức là tự tu huệ. Có trí huệ quán sát giác chiếu rồi, thì sẽ đoạn trừ được kiến tư hoặc, trần sa hoặc và vô minh hoặc.
c) Thật tướng Bát Nhã: Thật tướng là tướng chân thật, tức cũng là vô tướng, tướng không hư vọng. Thường quán như thế, thì sẽ không bị vô minh che đậy, mà hiển lộ ra đại quang minh tạng.
Mắt huệ thấu triệt, thấy hết thảy ba đời. Nói các môn Tam muội đều đầy đủ thanh tịnh. Biện tài như biển, rộng lớn vô tận.
Người có con mắt trí huệ (huệ nhãn), thì thấu triệt được thật tướng của các pháp. Vì người đầy đủ năm nhãn, thì quán sát thời gian ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai đều là giả danh mà thôi, cho nên quán sát ba đời đều bình đẳng, tức cũng biết rõ hôm qua và hôm nay là giống nhau, hôm nay và ngày mai cũng chẳng có gì khác biệt. Quán sát bình đẳng có ích lợi gì ? Là dạy bạn đừng có tâm phân biệt, không có tâm phân biệt thì quán sát được ba đời đều bình đẳng.
Bất cứ tu môn tam muội gì, đều phải đầy đủ viên mãn thanh tịnh. Tu thiền định thì đắc được thiền định tam muội, tu nhẫn nhục thì đắc được nhẫn nhục tam muội, tu niệm Phật thì đắc được niệm Phật tam muội, tu quán tưởng thì đắc được quán tưởng tam muội. Tóm lại, tu pháp môn gì thì đắc được tam muội pháp môn đó.
Biện tài tức là khéo biện luận. Những vị đại Bồ Tát nầy, biện luận với bất cứ người biện luận nào, cũng đều là người thắng lợi, biện tài giống như biển cả, rộng lớn không có ngằn mé, cho nên nói vô tận biện tài.
Có bốn vô ngại biện.
- Pháp vô ngại biện: Nói rõ được các pháp, ở trong giáo pháp không có gì mà chẳng hiểu biết, nhưng không chấp trước.
- Nghĩa vô ngại biện: Biết được nghĩa lý sai biệt của giáo pháp, mà thông đạt vô ngại.
- Từ vô ngại biện: Từ vô ngại biện : Nói được ngôn ngữ của các nước, thông đạt tự tại. Ở trong một lời gồm có nhiều thứ nghĩa lý.
- Lạc thuyết vô ngại biện: Có pháp, nghĩa ,từ ba trí huệ vô ngại biện, vì chúng sinh ưa thích, mà khéo léo thuyết pháp.
Ðầy đủ công đức của Phật, tôn nghiêm đáng kính. Biết rõ căn tánh của chúng sinh, theo đó mà giáo hóa điều phục. Nhập vào pháp giới tạng, trí vô sai biệt. Chứng được giải thoát của Phật, sâu rộng quảng đại.
Những vị đại Bồ Tát nầy, đều đầy đủ công đức của Phật, cho nên tất cả chúng sinh đều cung kính các Ngài. Không những phải cung kính mười phương chư Phật và Bồ Tát, mà các bậc A La Hán đại Thánh nhân, cũng phải cung kính.
Chúng sinh cung kính các Ngài, các Ngài cũng biết căn tánh của họ lợi hay là độn. Nếu lợi căn thì nói pháp thật tướng, nếu độn căn thì nói pháp phương tiện hoặc pháp ví dụ, khiến cho họ thấu rõ khai ngộ. Vì những vị Bồ Tát nầy biết căn tánh của họ, cho nên biết được nên dùng pháp gì để hóa độ họ, điều phục họ, khiến cho họ có tâm kính sợ.
Trí huệ của các vị Bồ Tát nầy, với pháp giới hợp mà làm một, đắc được trí vô sai biệt, mới chứng được giải thoát. Sự giải thoát nầy lìa tất cả chấp trước, chẳng có chấp người, cũng chẳng có chấp pháp, do đó “người không, pháp không”.
Xưa kia có vị Sa Di nhỏ tuổi, giảng pháp giảng đến chỗ : chẳng còn pháp để giảng thì lén trốn bỏ đi. Người cầu pháp đợi rất lâu, mà chẳng nghe nói gì nữa, bèn ngẩng đầu lên nhìn, thì chẳng thấy người thuyết pháp nữa. Lúc đó bèn đốn ngộ đạo lý “người không pháp không”.
Những vị đại Bồ Tát nầy, đều chứng được giải thoát của Phật. Buông xả đặng, thì đắc được tự tại, tự tại tức là giải thoát. Cảnh giới nầy sâu như biển cả, rộng như pháp giới. Các Ngài trong quá khứ, đã từng làm thầy của Phật Thích Ca Mâu Ni, bây giờ lại làm đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni. Cho nên nói cảnh giới nầy, sâu rộng quảng đại, chẳng giống như phàm phu chúng ta, có tâm chấp trước, các Ngài chẳng có tâm chấp trước.
Tùy phương tiện nhập vào một bậc, mà dùng sở trì của tất cả biển nguyện, thường cùng với trí huệ, suốt thuở vị lai thấu rõ được cảnh giới, rộng lớn bí mật hiếm có của chư Phật, khéo biết tất cả các pháp bình đẳng của chư Phật.
Những vị Bồ Tát nầy tùy thuận pháp phương tiện, mà nhập vào tất cả các bậc. Pháp phương tiện chẳng dễ gì thực hành, xem ra là phương tiện, nhưng thực hành thì chẳng phương tiện. Ðịa vị Bồ Tát thực hành thì phương tiện, nhưng địa vị phàm phu thực hành, thì chẳng tự tại chút nào. Bồ Tát tu hành thì phải phát hạnh nguyện, nguyện phải lớn, hạnh phải chân thật. Nếu phát nguyện không lớn thì có lúc sẽ sinh tâm thối chuyển. Cho nên tín, nguyện, hạnh như đỉnh ba chân, thiếu một thì không được.
1. Tín tâm : Trước hết phải sinh tâm tin. Cho nên :
“Tin là nguồn gốc mẹ công đức,
Dưỡng lớn tất cả các căn lành”.
Tin pháp do chính đức Phật nói ra, tin Kinh điển là pháp của Phật nói.
2. Nguyện lực: Sinh tâm tin rồi, thì phải phát nguyện rộng lớn, rộng như biển cả, như thế thì mới sinh ra được sức lực, để giáo hóa chúng sinh.
3. Hành: Phát nguyện mà không thực hành, thì như hoa nở trong hư không, chẳng kết được quả thật, chẳng có ích gì. Dùng nguyện lực để chi trì, và trợ giúp thì thường cùng với trí huệ. Có trí huệ thì thường sinh chánh tri chánh kiến, không có trí huệ thì sinh tà tri tà kiến. Chánh tri chánh kiến, thì đi trên con đường của Phật, tà tri tà kiến thì đi vào địa ngục. Nếu muốn không đọa địa ngục, thì phải có chánh tri chánh kiến.
Bồ Tát suốt kiếp thuở vị lai, mới biết rõ cảnh giới, rộng lớn vô biên không thể nghĩ bàn, hy kỳ ít có của chư Phật. Các Ngài đều biết sự thực hành của chư Phật, là pháp bình đẳng, những gì chư Phật nói, là pháp bình đẳng, pháp chứng đắc của chư Phật, cũng là pháp bình đẳng. Do đó :”Phật Phật đạo đồng”, thể tính bình đẳng, pháp thân không hai. Trí huệ bình đẳng, tức không tăng không giảm, trong ngoài bình đẳng, bi nguyện ứng khắp.
Ðã đạt được bậc phổ quang minh của Như Lai. Nhập vào biển Tam muội vô lượng môn. Ðều tùy loại mà hiện thân khắp tất cả chỗ. Ðồng với thế gian mà thật hành pháp thế gian.
Những vị Bồ Tát nầy, đã đạt đến bậc phổ quang minh của Phật. Bậc phổ quang minh tức là bậc trí huệ. Vì các Ngài cung hành thực tiễn pháp của Phật dạy, cho nên mới đắc được trí huệ chân thật của Phật. Ðịnh lực của các Ngài như biển cả, cho nên các Ngài nhập vào biển Tam muội vô lượng môn.
Những vị Bồ Tát nầy trong tất cả thời, tất cả chỗ đều tùy thuận chúng sinh, mà hoá hiện thân tướng của họ. Tất cả những việc làm của pháp thế gian, các Ngài dùng công việc giống nhau, mà hiện ra ở trước họ. Chúng sinh làm gì ? Thì các Ngài làm như vậy, dùng bốn Pháp Nhiếp đả thành một phiến với chúng sinh. Khiến cho chúng sinh sinh ra cảm tình, rồi mới thuyết pháp cho họ, giáo hóa họ, khiến cho họ lìa khổ được vui. Nay giải thích đơn giản Bốn Pháp Nhiếp.
1. Bố thí: Ban cho chúng sinh những gì cần thiết, sau đó tiếp dẫn cảm hóa họ.
2. Ái ngữ: Dùng lời hay tốt khuyên họ, để hóa độ họ đạt được mục đích.
3. Lợi hành: Thân miệng ý khéo làm lợi ích cho chúng sinh
4. Ðồng sự: Tức là làm cùng việc, cùng nghề với chúng sinh để cảm hóa họ.
Tổng trì rộng lớn, tích tập tất cả biển pháp, biện tài khéo léo, chuyển bánh xe pháp bất thối. Công đức của tất cả Như Lai, rộng lớn như biển cả, đều nhập vào thân các Ngài. Tất cả cõi nước của chư Phật, các Ngài đều phát nguyện đi đến.
Những vị Bồ Tát nầy đều “tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa”, rộng lớn vô cùng. Các Ngài đem tám vạn bốn ngàn pháp môn đều tích tập vào thân. Biện tài vô ngại của các Ngài, và phương tiện khéo léo vô tận, các Ngài chuyển bánh xe pháp, vĩnh viễn không thối chuyển, tu đạo chỉ tiến về trước mà không thối lùi về sau.
Tất cả biển công đức của tất cả Như Lai, đều nhập vào trong một thân của Bồ Tát. Tất cả cõi nước của mười phương chư Phật, đều tùy theo nguyện lực của Bồ Tát mà vãng sinh.
Các Ngài đã từng cúng dường tất cả các đức Phật, trải qua không biết bao nhiêu số kiếp, luôn luôn hoan hỉ không biết nhàm mỏi. Chỗ của tất cả Như Lai chứng được bồ đề, các Ngài thường ở trong đó thân căn không rời, luôn đem biển hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền đã chứng được, khiến cho tất cả chúng sinh đều đầy đủ trí thân, mà thành tựu vô lượng công đức như vậy.
Những vị Bồ Tát nầy trong đại kiếp, nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết (không thể nói không thể nói) về trước, đã từng cúng dường hết thảy tất cả chư Phật, khen ngợi Phật, luôn luôn hoan hỉ mà không biết nhàm mỏi.
Tất cả chỗ chư Phật khai ngộ, chứng được quả vị Phật, các vị Bồ Tát nầy đều đến Bồ Ðề Ðạo Tràng, thân cận gần gũi thường làm chúng ảnh hưởng, chúng thường đi theo, chúng hộ pháp, chúng nghiêm hội, chúng cúng dường, chúng phát tâm, chúng đương cơ, chúng biểu pháp, thường ở trong đạo tràng ủng hộ pháp hội. Những vị Bồ Tát nầy, thường dùng biển đại hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, khiến cho tất cả chúng sinh, chứng đắc được thân trí huệ.
Những vị Bồ Tát nầy, thành tựu được vô lượng vô biên công đức như vậy.
Những gì đã giảng ở trên là “đồng sinh chúng” (chúng sinh giống nhau), hai mươi vị đại Bồ Tát nầy xuất lãnh vô lượng quyến thuộc, đồng đến Bồ Ðề Ðạo Tràng ở trong pháp hội. Pháp hội Hoa Nghiêm chia làm mười bộ chúng bây giờ đã giảng xong.
Bây giờ bắt đầu giảng “dị sinh chúng” (chúng sinh khác nhau). Dị sinh chúng phân làm ba bộ phận lớn.
1. Tạp loại chư Thần chúng.
2. Bát bộ Tứ Vương chúng.
3. Dục giới, sắc giới chư thiên chúng.
Ở trong các Thần chúng tạp loại, có mười chín chúng, trong bát bộ Tứ Vương chúng có tám chúng, trong dục giới, sắc giới chư Thiên chúng có mười hai chúng. Tổng cộng có ba mươi chín chúng. Ở trong mỗi chúng lại có mười vị làm thượng thủ, tổng cộng có ba trăm chín mươi vị dị sinh chúng. Các Ngài cũng xuất lãnh vô lượng quyến thuộc đến Bồ Ðề Ðạo Tràng làm thiện thần hộ pháp.
Lại có các vị Thần Chấp Kim Cang, số đông như hạt bụi Phật thế giới.
Lại có Thần Chấp Kim Cang, số đông như hạt bụi Phật thế giới. Thần Chấp Kim Cang tức là hộ pháp thiện thần, tay cầm chày kim cang. Các Ngài chuyên hàng phục thiên ma ngoại đạo, làm cho chúng không nhiễu loạn thân tâm của người tu hành. Khiến cho người tu hành, thân tâm thanh tịnh, một lòng một dạ tham thiền đả tọa.
Người tại gia cư sĩ đều là người hộ pháp, hộ trì Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, thân cận thừa sự Tam Bảo, cư sĩ đều có trách nhiệm hộ pháp, phải ủng hộ Tam Bảo, trang nghiêm Tam Bảo, không thể phá hoại Tam Bảo, phỉ báng Tam Bảo. Tam Bảo là gì ? Tức là:
1. Phật bảo,
2.Pháp bảo,
3. Tăng bảo.
Phải cung kính, phải lễ bái, kiền thành cảm ứng đạo giao, mới đắc được lợi ích của Tam Bảo.
Những vị Thần Chấp Kim Cang là : Thần Chấp Kim Cang Diệu Sắc Na La Diên. Thần Chấp Kim Cang Nhật Luân Tốc Tật Tràng. Thần Chấp Kim Cang Tu Di Hoa Quang. Thần Chấp Kim Cang Thanh Tịnh Vân Âm. Thần Chấp Kim Cang Chư Căn Mỹ Diệu. Thần Chấp Kim Cang Khả Ái Lạc Quang Minh. Thần Chấp Kim Cang Ðại Thụ Lôi Âm. Thần Chấp Kim Cang Sư Tử Vương Quang Minh. Thần Chấp Kim Cang Mật Diệm Thắng Mục. Thần Chấp Kim Cang Liên Hoa Quang Ma Ni Kế.
Vị Thần Chấp Kim Cang thứ nhất tên là Diệu Sắc Na La Diên. Vị nầy thấy tướng tốt trang nghiêm của Như Lai vĩnh viễn không hoại, do đó vị nầy cũng chứng được pháp bất hoại nầy. Cho nên gọi là Na la diên, dịch là “kiên cố”.
Vị Thần Chấp Kim Cang thứ hai là Nhật Luân Tốc Tật Tràng. Vị nầy thấy quang minh của Như Lai, như ánh sáng mặt trời, hiện đủ loại tia sáng, cấp tốc tiêu diệt phiền não chướng ngại. Vị nầy chứng được pháp tràng trang nghiêm, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chấp Kim Cang thứ ba là Tu Di Hoa Quang. Vị nầy thấy thân của Như Lai phóng quang chiếu khắp tất cả, giống như núi Tu Di, hiển hiện như biển cả. Thần thông của vị nầy như hoa sen phóng quang minh, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chấp Kim Cang thứ tư là Thanh Tịnh Vân Âm. Âm thanh của vị nầy, thanh tịnh phi thường, vang dội trong mây, giống như sấm sét, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chấp Kim Cang thứ năm là Chư Căn Mỹ Diệu. Vị nầy hiện làm chủ thế gian, dùng các căn : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý mỹ diệu, khiến cho tất cả chúng sinh đều khai ngộ, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chấp Kim Cang thứ sáu là Khả Ái Lạc Quang Minh. Vị nầy dùng trí huệ quang minh để diễn nói Phật pháp, khiến cho người nghe, sinh tâm vui thích tin nhận, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chấp Kim Cang thứ bảy là Ðại Thụ Lôi Âm. Vị nầy dùng bảy báu nghiêm sức diệu tướng. Dùng hoa báu để trang nghiêm cây, phương tiện cảnh cáo chúng sinh, không thể sinh tâm thối chuyển, âm thanh của vị nầy như sấm, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chấp Kim Cang thứ tám là Sử Tử Vương Quang Minh. Phước báu của vị nầy sâu dày phi thường, tướng mạo của vị nầy, cũng tốt đẹp phi thường, như sư tử vương, không sợ sệt bất cứ chỗ nào, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chấp Kim Cang thứ chín là Mật Diệm Thắng Mục. Mắt từ bi của vị nầy, có tia sáng lửa ngọn cát tường, mật hiện ở trước chúng sinh, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chấp Kim Cang thứ mười là Liên Hoa Quang Ma Ni Kế. Vị nầy có quang minh hoa sen, và có diệu kế ma ni báu, cho nên được tên nầy.
Có số đông Thần Chấp Kim Cang, nhiều như hạt bụi Phật thế giới như vậy làm thượng thủ.
Những vị Thần Chấp Kim Cang nầy, đều là thượng thủ trong chúng Thần Kim Cang. Nếu nói tỉ mỉ tên các vị Thần Kim Cang thì nhiều như số hạt bụi Phật thế giới, nói không hết được.
Kinh Hoa Nghiêm bất cứ nói pháp môn gì, cũng đều nói mười. Vì sao ? Vì mười là biểu thị mười lần mười thành trăm, mười lần trăm thành ngàn, mười lần ngàn thành vạn. Mười là số đại biểu trăm ngàn vạn ức. Nếu nói số trăm ngàn vạn ức thì quá nhiều, cho nên chỉ dùng mười.
Kinh Hoa Nghiêm được cất giữ ở dưới Long Cung, cộng hết thảy có ba quyển : Thượng, trung và hạ. Bây giờ chúng ta đang giảng, là quyển hạ của Kinh Hoa Nghiêm. Số Thần Kim Cang nói ở trong quyển thượng dùng số ức làm đơn vị. Số Thần Kim Cang nói ở trong quyển trung, dùng số vạn làm đơn vị. Số Thần Kim Cang nói ở trong quyển hạ nầy, dùng số mười làm đơn vị. Mười nầy là biểu thị vô lượng. Vì chúng ta phàm phu không nhớ hết số vị Thần nhiều như thế, cho nên dùng mười để tượng trưng.
Các vị Thần này, ở trong vô lượng kiếp quá khứ, thường phát nguyện lớn. Nguyện thường gần gũi cúng dường chư Phật. Theo hạnh nguyện mà thực hành, thảy đều đã viên mãn, đến được bờ bên kia.
Những vị Thần Chấp Kim Cang nầy, rất lâu xa trong quá khứ, vô lượng kiếp về trước, thường phát nguyện lực rất lớn. Nguyện lực gì ? Tức là phát nguyện luôn luôn cùng với chư Phật, gần gũi chư Phật, cúng dường chư Phật. Chư Phật đi đến đâu, các Ngài đều theo đến đó. Vì các Ngài phát đủ thứ nguyện lớn, thường theo học Phật. Những lời nguyện nầy, và hạnh môn đã viên mãn, cho nên đến được bờ bên kia.
Các Ngài tích tập vô biên phước nghiệp thanh tịnh. Cảnh giới thực hành ở trong các Tam muội đều đã thông đạt. Ðắc được thần thông lực, theo ở với Như Lai, nhập vào cảnh giới giải thoát không nghĩ bàn. Oai đức và quang minh của các Ngài, đặc biệt thông đạt trong chúng hội. Tùy loại chúng sinh mà hiện thân để giáo hóa điều phục. Tất cả các hóa Phật ở chỗ nào, thì các Ngài đều hóa theo ở chỗ đó. Tất cả chỗ Như Lai ở, các Ngài thường xuyên hộ vệ.
Những vị Thần Chấp Kim Cang nầy, đều tích tập vô lượng vô biên phước nghiệp thanh tịnh. Ở trong tất cả thiền định, đắc được Tam muội gì, thì có thứ cảnh giới đó. Các Ngài đều thấu rõ thông đạt vô ngại.
Những vị Thần Chấp Kim Cang nầy, đều đắc được đủ loại thần thông lực, thường theo ở với Phật, hộ trì Tam Bảo, còn đắc được cảnh giới giải thoát không thể nghĩ bàn.
Những vị Thần Chấp Kim Cang nầy, ở trong đại chúng hội, đều có oai quang đặc biệt, đều thông đạt, chẳng giống quang minh của một số Hộ Pháp thiện thần khác. Các Ngài tùy theo loại chúng sinh, mà hiện thân để giáo hóa điều phục, khiến cho tất cả chúng sinh, thấy các Ngài thì liền phát bồ đề tâm, trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh.
Những vị Thần Chấp Kim Cang nầy, đều theo nguyện lực của các Ngài, đã phát trong quá khứ, để hóa hiện vào trong cõi nước, mà chư Phật hóa hiện, phàm là chỗ các Như Lai ở, các Ngài luôn luôn bảo hộ chư Phật, không để cho thiên ma nhiễu loạn. Ở trên là chúng thứ nhất Thần Chấp Kim Cang.
Lại có Thần Thân Chúng số đông như hạt bụi Phật thế giới. Tên của các Ngài là : Thần Thân Chúng Hoa Kế Trang Nghiêm. Thần Thân Chúng Quang Chiếu Thập Phương. Thần Thân Chúng Hải Âm Ðiều Phục. Thần Thân Chúng Tịnh Hoa Nghiêm Kế. Thần Thân Chúng Vô Lượng Oai Nghi. Thần Thân Chúng Vô Lượng Quang Nghiêm. Thần Thân Chúng Tịnh Quang Hương Vân. Thần Thân Chúng Thủ Hộ Nhiếp Trì. Thần Thân Chúng Phổ Hiện Nhiếp Thủ. Thần Thân Chúng Bất Ðộng Quang Minh.
Vị Thần Thân Chúng thứ nhất là, Hoa Kế Trang Nghiêm. Vì vị nầy dùng hoa kế để trang nghiêm, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Thân Chúng thứ hai là, Quang Minh Thập Phương. Vì quang minh của vị nầy chiếu khắp mười phương thế giới, cho nên được tên này
Vị Thần Thân Chúng thứ ba là, Hải Âm Ðiều Phục. Vì âm thanh của vị nầy, như tiếng hải triều, khiến cho tất cả chúng sinh, nghe được âm thanh nầy, thì cải ác hướng thiện, phát bồ đề tâm, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Thân Chúng thứ tư là, Tịnh Hoa Nghiêm Kế. Vì vị nầy dùng hoa sen thanh tịnh, để trang nghiêm bảo kế, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Thân Chúng thứ năm là, Vô Lượng Oai Nghi. Vì vị nầy thường hiện vô lượng vô biên oai nghi, đi đứng nằm ngồi đều hợp pháp, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Thân Chúng thứ sáu là, Tối Thượng Hoa Nghiêm. Vì vị nầy thường phát ra quang minh tối thượng, để trang nghiêm đạo tràng, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Thân Chúng thứ bảy tên là, Tịnh Quang Hương Vân. Vì vị nầy không những có quang minh thanh tịnh, mà còn có mây thanh hương. Cho nên được tên nầy.
Vị Thần Thân Chúng thứ tám là, Thủ Hộ Nhiếp Trì. Vì vị nầy thường thủ hộ đạo tràng, nhiếp trì chúng sinh, khiến cho chúng sinh cải ác hướng thiện, sửa lỗi làm mới, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Thân Chúng thứ chín là, Phổ Hiện Nhiếp Thủ. Vì vị nầy có thể hiện khắp trước chúng sinh, để nhiếp thủ họ, khiến cho họ phát bồ đề tâm, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Thân Chúng thứ mười là, Bất động Quang Minh. Vì vị nầy có định lực tâm bất động, lại có quang minh, cho nên được tên nầy.
Có số đông Thần Thân Chúng, nhiều như hạt bụi Phật thế giới như vậy làm thượng thủ. Trong quá khứ, các vị Thần này, đều thành tựu nguyện lớn, cúng dường thừa sự tất cả chư Phật.
Mười vị Thần Thân Chúng nầy, làm lãnh tụ ở trong các Thần Thân Chúng, ngoài ra còn có vô lượng vô biên Thần Thân Chúng, nhiều như số hạt bụi Phật thế giới.
Những vị Thần Thân Chúng nầy, trong quá khứ đều phát nguyện lớn. Phát nguyện lớn gì ? Các vị Thần nầy phát nguyện cúng dường tất cả chư Phật, cung kính thừa sự tất cả chư Phật. Trên đây là chúng thứ hai Thần Thân Chúng.
Lại có Thần Túc Hành số đông như hạt bụi Phật thế giới. Ðó là : Thần Túc Hành Bảo Ấn Thủ. Thần Túc Hành Liên Hoa Quang. Thần Túc Hành Thanh Tịnh Hoa Kế. Thần Túc Hành Nhiếp Chư Thiện Kiến. Thần Túc Hành Diệu Bảo Tinh Tràng. Thần Túc Hành Lạc Thổ Diệu Âm. Thần Túc Hành Chiên Ðàn Thụ Quang. Thần Túc Hành Liên Hoa Quang Minh. Thần Túc Hành Vi Diệu Quang Minh. Thần Túc Hành Tích Tập Diệu Hoa.
Lại có Thần Túc Hành số đông như hạt bụi Phật thế giới. Thần Túc Hành tức là thần thủ hộ đường xá, vì các vị thần nầy ngưỡng mộ đức của Như Lai, cho nên theo dấu chân Như Lai.
Vị Thần Túc Hành thứ nhất là Bảo Ấn Thủ. Vì trong tay của vị nầy cầm giữ bảo ấn để hộ trì chúng sinh, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Túc Hành thứ hai là Liên Hoa Quang. Vì liên hoa phóng quang, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Túc Hành thứ ba là Thanh Tịnh Hoa Kế. Vì vị nầy có hoa kế thanh tịnh, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Túc Hành thứ tư là Nhiếp Chư Thiện Kiến. Vì khi chúng sinh thấy vị nầy, liền phát tâm bồ đề, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Túc Hành thứ năm là Diệu Bảo Tinh Tràng. Vì diệu bảo của vị nầy phóng quang giống như tinh tràng, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Túc Hành thứ sáu là Lạc Thổ Diệu Âm. Vì âm thanh ca xướng của vị nầy, vi diệu phi thường, rất êm tai, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Túc Hành thứ bảy là Chiên Hành Thụ Quang. Vì quang minh của vị nầy, phóng ra giống như hương cây chiên đàn, khiến cho tất cả chúng sinh ngửi được mùi hương nầy, thì khai mở trí huệ quang, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Túc Hành thứ tám là Liên Hoa Quang Minh. Vì quang minh của vị nầy phóng ra thanh tịnh như hoa sen, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Túc Hành thứ chín là Vi Diệu Quang Minh. Vì vị nầy phóng quang minh, vi diệu không thể nghĩ bàn, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Túc Hành thứ mười là Tích Tập Diệu Hoa. Vì vị nầy tích tập tất cả diệu bảo hoa, cho nên được tên nầy.
Có các vị Thần Túc Hành, nhiều như số hạt bụi Phật thế giới làm thượng thủ. Các vị Thần Túc Hành nầy, ở trong vô lượng kiếp quá khứ, đều gần gũi Như Lai, theo đuổi tu hành không muốn lìa xa.
Mười vị Thần Túc Hành nầy, làm lãnh tụ trong các Thần Túc Hành mà làm thượng thủ, quyến thuộc Thần Túc Hành của các vị nầy, nhiều như số hạt bụi Phật thế giới.
Những vị Thần Túc Hành nầy, trong vô lượng kiếp quá khứ, đều gần gũi Như Lai, cúng dường Như Lai, theo đuổi tu hành, không muốn rời bỏ. Trên đây là chúng thứ ba Thần Túc Hành.
Lại có Thần Ðạo Tràng số đông như hạt bụi Phật thế giới. Ðó là : Thần Ðạo Tràng Tịnh Trang Nghiêm Tràng. Thần Ðạo Tràng Tu Di Bảo Quang. Thần Ðạo Tràng Lôi Âm Tràng Tướng. Thần Ðạo Tràng Vũ Hoa Diệu Nhẫn. Thần Ðạo Tràng Hoa Anh Quang Kế. Thần Ðạo Tràng Vũ Bảo Trang Nghiêm. Thần Ðạo Tràng Dũng Mãnh Hương Nhãn. Thần Ðạo Tràng Kim Cang Thể Vân. Thần Ðạo Tràng Liên Hoa Quang Minh. Thần Ðạo Tràng Diệu Quang Chiếu Diệu.
Lại có Thần Ðạo Tràng nhiều như số hạt bụi Phật thế giới. Thần Ðạo Tràng tức là thần giữ gìn đạo tràng. Phàm là chỗ nào có người tu hành, thì gọi là đạo tràng. Những vị thần nầy, đều là thiện thần hộ pháp, khiến cho người tu hành được thanh tịnh, không bị thiên ma ngoại đạo làm nhiễu loạn.
Vị Thần Ðạo Tràng thứ nhất là Tịnh Trang Nghiêm Tràng. Vì vị nầy thường hộ trì đạo tràng, khiến cho đạo tràng thanh tịnh, trang nghiêm như tràng, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Ðạo Tràng thứ hai là Tu Di Bảo Quang. Vì vị nầy thường hộ trì, thường phóng bảo quang, quang minh như núi Tu Di, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Ðạo Tràng thứ ba là Lôi Âm Tràng Tướng. Vì vị nầy có âm thanh giống như sấm, lại có tướng bảo tràng, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Ðạo Tràng thứ tư là Vũ Hoa Diệu Nhãn. Vì vị nầy luôn luôn mưa hoa báu, mà được diệu nhãn thanh tịnh, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Ðạo Tràng thứ năm là Hoa Anh Quang Kế. Vì hoa anh kế của vị nầy phóng quang minh, chiếu khắp chúng sinh trong đạo tràng, khiến cho tâm của họ thanh tịnh, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Ðạo Tràng thứ sáu là Vũ Bảo Trang Nghiêm. Vì vị nầy mưa bảy báu để trang nghiêm đạo tràng, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Ðạo Tràng thứ bảy là Dũng Mãnh Hương Nhãn. Vì sức dũng mãnh của vị nầy hàng phục được ma quân, lại có hương con mắt quan sát được hành vi của ma quân, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Ðạo Tràng thứ tám là Kim Cang Thể Vân. Vì kim cang quang minh của vị nầy chiếu soi đạo tràng, hình thành vạn đạo mây hào quang rực rỡ, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Ðạo Tràng thứ chín là Liên Hoa Quang Minh. Vì vị nầy thường hiện ra hoa sen, lại có quang minh, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Ðạo Tràng thứ mười là Diệu Quang Chiếu Diệu. Vì quang minh vi diệu của vị nầy phóng ra chiếu sáng hư không, cho nên được tên nầy.
Có số đông các vị Thần Ðạo Tràng, nhiều như hạt bụi Phật thế giới làm thượng thủ. Trong quá khứ các Ngài đã gặp vô lượng chư Phật, thành tựu nguyện lực, thường cúng dường chư Phật.
Mười vị Thần Ðạo Tràng nầy, làm lãnh tụ trong các Thần Ðạo Tràng mà làm thượng thủ. Ngoài ra Thần Ðạo Tràng còn có vô lượng vô biên, nhiều như số hạt bụi Phật thế giới.
Những vị Thần Ðạo Tràng nầy, trong kiếp quá khứ, đã gặp vô lượng chư Phật. Các vị nầy đã thành tựu nguyện lực, luôn luôn cúng dường mười phương chư Phật. Những vị thần nầy chẳng phải là thần bình thường, mà là đại Bồ Tát thị hiện, cho nên sức thần thông của các Ngài không thể nghĩ bàn, nguyện lực của các Ngài cũng không thể nghĩ bàn. Hộ pháp lực của các Ngài càng không thể nghĩ bàn. Ở trên là chúng thứ tư Thần Ðạo Tràng.
Lại có Thần Chủ Thành số đông như hạt bụi Phật thế giới. Ðó là : Thần Chủ Thành Bảo Phong Quang Diệu. Thần Chủ Thành Diệu Nghiêm Cung Ðiện. Thần Chủ Thành Thanh Tịnh Hỉ Bảo. Thần Chủ Thành Ly Ưu Thanh Tịnh. Thần Chủ Thành Hoa Ðăng Diệm Nhãn. Thần Chủ Thành Diệm Tràng Minh Hiện. Thần Chủ Thành Thịnh Phước Quang Minh. Thần Chủ Thành Thanh Tịnh Quang Minh. Thần Chủ Thành Hương Kế Trang Nghiêm. Thần Chủ Thành Diệu Bảo Quang Minh.
Lại có Thần Chủ Thành nhiều như số hạt bụi Phật thế giới. Thần Chủ Thành tức là thần hộ trì người thành thị, làm cho người trong thành được bình an, chẳng có tai hại, đó là trách nhiệm củ Thần Chủ Thành.
Vị Thần Chủ Thành thứ nhất là Bảo Phong Quang Diệu. Vì vị nầy có thần thông bảo phong, luôn luôn phóng quang, chiếu sáng hư không, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chủ Thành thứ hai là Diệu Nghiêm Cung Ðiện. Vì vị nầy làm cho tất cả cung điện, đặc biệt trang nghiêm tốt đẹp, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chủ Thành thứ ba là Thanh Tịnh Hỉ Bảo. Vì quang minh của vị nầy phóng ra rất thanh tịnh, trong quang minh lại hiện ra màu bảy báu, khiến cho người thấy sinh tâm hoan hỷ, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chủ Thành thứ tư là Ly Ưu Thanh Tịnh, vì vị nầy thường bảo hộ thành ấp, khiến cho chúng sinh hết ưu sầu, trong tâm thanh tịnh, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chủ Thành thứ năm là Hoa Ðăng Diệm Nhãn. Vì hai chân của vị nầy đứng trên hoa sen, hai tay của vị nầy nâng hai cái đèn nhỏ, trong hai con mắt của vị nầy, phóng ra quang minh lửa ngọn, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chủ Thành thứ sáu là Diệm Tràng Minh Hiện. Vì trên đỉnh đầu của vị nầy phóng ra quang minh lửa ngọn, quang minh giống như tràng báu, làm cho thiên ma ngoại đạo sinh tâm sợ sệt, lập tức bỏ chạy, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chủ Thành thứ bảy là Thịnh Phước Quang Minh. Vì huệ phước của vị nầy luôn luôn phóng quang minh, bất cứ ai thấy vị nầy thì tăng phước tăng thọ tăng trí huệ, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chủ Thành thứ tám là Thanh Tịnh Quang Minh. Vị nầy thường phóng quang minh thanh tịnh, chẳng có nhiễm ô. Do đó :
“Quang thanh tịnh không dơ,
Mặt trời huệ phá tối,
Hàng phục nạn gió lửa,
Chiếu sáng khắp thế gian”.
Nghĩa là : quang minh thanh tịnh chẳng có dơ bẩn, giống như tia sáng của mặt trời, phá trừ tất cả đen tối. Quang minh mát mẻ nầy, hàng phục được tất cả tai nạn, chiếu sáng thế gian, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chủ Thành thứ chín là Hương Kế Trang Nghiêm. Vì bảo kế của vị nầy toả ra hương thơm, tất cả chúng sinh ngửi được hương thơm nầy, thì tiêu tai sống lâu, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chủ Thành thứ mười là Diệu Bảo Quang Minh. Vì vị nầy có bảo châu rất đẹp, thường phóng quang minh. Dùng quang minh nầy, để quản lý chúng sinh trong thành, khiến cho họ tín ngưỡng Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, trang nghiêm Tam Bảo, cho nên được tên nầy.
Có số đông các vị Thần Chủ Thành, như hạt bụi Phật thế giới làm thượng thủ. Các vị Thần Chủ Thành nầy, trải qua kiếp số vô lượng không thể nghĩ bàn, luôn trang nghiêm thanh tịnh cung điện của Như Lai ở.
Mười vị Thần Chủ Thành nầy làm đại biểu cho các Thần Chủ Thành. Ngoài ra còn có vô lượng Thần Chủ Thành, nhiều như số hạt bụi Phật thế giới.
Những vị Thần Chủ Thành nầy trải qua số kiếp, nhiều vô lượng không thể nghĩ bàn, trang nghiêm thanh tịnh cung điện của Như Lai ở. Các Ngài Không những bảo hộ cung điện, mà còn quản lý cung điện, ở trên là chúng thứ năm Thần Chủ Thành.
Lại có Thần Chủ Ðất số đông như hạt bụi Phật thế giới. Ðó là : Thần Chủ Ðất Phổ Ðức Tịnh Hoa. Thần Chủ Ðất Kiên Phước Trang Nghiêm. Thần Chủ Ðất Diệu Hoa Nghiêm Thụ. Thần Chủ Ðất Phổ Tán Chúng Bảo. Thần Chủ Ðất Tịnh Mục Quán Thời. Thần Chủ Ðất Diệu Sắc Thắng Nhãn. Thần Chủ Ðất Hương Mao Phát Quang. Thần Chủ Ðất Duyệt Ý Âm Thanh. Thần Chủ Ðất Diệu Hoa Toàn Kế. Thần Chủ Ðất Kim Cang Nghiêm Thể.
Lại có Thần Chủ Ðất nhiều như số hạt bụi Phật thế giới. Thần Chủ Ðất tức là thần quản lý đất đai. Thần Chủ Ðất có vô lượng vô biên, bây giờ cử ra mượi vị Thần Chủ Ðất làm đại biểu.
Vị Thần Chủ Ðất thứ nhất là Phổ Ðức Tịnh Hoa. Vì đức hạnh quang minh của vị nầy, chiếu khắp chúng sinh trong đạo tràng, kết duyên với chúng sinh, hoa quang của vị nầy thanh tịnh, chiếu soi chúng sinh, khiến cho họ phát tâm đại bồ đề. Tâm đại bồ đề tức là :
“Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.
Cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chủ Ðất thứ hai là Kiên Phước Trang Nghiêm. Vì phước của vị nầy vừa kiên cố vừa trang nghiêm, ai thấy được vị nầy, thì người đó phước báo cũng sẽ kiên cố trang nghiêm, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chủ Ðất thứ ba là Diệu Hoa Nghiêm Thụ. Vì vị nầy trang nghiêm diệu hoa cây bồ đề, khiến cho cây bồ đề phóng đại quang minh, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chủ Ðất thứ tư là Phổ Tán Chúng Bảo. Vì vị nầy rải bảy báu khắp nơi, khiến cho chúng sinh phát bồ đề tâm, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chủ Ðất thứ năm là Tịnh Mục Quán Thời. Vì vị nầy có mắt thanh tịnh như hoa sen, thời quán thấy làm cho tất cả tai nạn chuyển biến thành cát tường, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chủ Ðất thứ sáu là Diệu Sắc Thắng Nhãn. Vì vị nầy dùng hoa cỏ cây cối trang nghiêm đất đai, có diệu sắc thù thắng, khiến cho chúng sinh hoan hỉ thưởng thức cảnh đẹp tự nhiên, mà sinh ra mắt thanh tịnh không nhiễm, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chủ Ðất thứ bảy là Hương Mao Phát Quang. Vì vị nầy quảng lý đất đai, để sinh trưởng hương mao đặc biệt của hoa. Hoa nầy không những thơm khắp nơi, mà còn có quang minh, phát ra và phân tán khắp trong bồ đề đạo tràng, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chủ Ðất thứ tám là Duyệt Ý Âm Thanh. Vì vị nầy thường phát ra một thứ âm thanh êm tai, giống như tiếng hót của chim Bạch hạc, Khổng tước, Anh vũ, Xá lợi, Ca lăng tần già, khiến cho tất cả chúng sinh nghe rồi, đều sinh tâm hoan hỉ, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chủ Ðất thứ chín là Diệu Hoa Toàn Kế. Vì vị nầy có hoa sen đẹp trên đầu quay liệng, giống như bảo kế, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Chủ Ðất thứ mười là Kim Cang Nghiêm Thể. Vì vị nầy dùng kim cang để trang nghiêm thân thể, bất cứ thiên ma ngoại đạo nào, cũng không thể phá hoại được thân thể của vị nầy, cho nên được tên nầy.
Có các vị Thần Chủ Ðất, số đông như hạt bụi Phật thế giới làm thượng thủ. Trong quá khứ, các vị Thần Chủ Ðất này, đều phát đại nguyện rộng lớn sâu dày. Nguyện thường gần gũi chư Phật Như Lai, cùng tu phước nghiệp.
Mười vị Thần Chủ Ðất nầy là lãnh tụ trong Thần Chủ Ðất, ngoài ra còn có vô lượng vô biên Thần Chủ Ðất, số đông nhiều như hạt bụi Phật thế giới.
Những vị Thần Chủ Ðất nầy, trong quá khứ đều phát nguyện lớn sâu nặng, luôn luôn gần gũi chư Phật, Bồ Tát và A La Hán. Tóm lại, gần gũi các vị Thánh nhân chứng quả, đều cùng tu phước tu huệ. Tu phước thì trang nghiêm tướng tốt, tu huệ thì trí huệ như biển. Tại sao chúng ta ngu si ? Tại sao bần cùng ? Vì không biết tu phước tu huệ, trên đây là chúng thứ sáu Thần Chủ Ðất.
Lại có vô lượng Chủ Thần Núi. Ðó là : Chủ Thần Núi Bảo Phong Khai Hoa. Chủ Thần Núi Hoa Lâm Diệu Kế. Chủ Thần Núi Cao Tràng Phổ Chiếu. Chủ Thần Núi Ly Trần Tịnh Kế. Chủ Thần Núi Quang Chiếu Thập Phương. Chủ Thần Núi Ðại Lực Quang Minh. Chủ Thần Núi Oai Quang Phổ Thắng. Chủ Thần Núi Vi Mật Quang Luân. Chủ Thần Núi Phổ Nhãn Hiện Kiến. Chủ Thần Núi Kim Cang Mật Nhãn.
Vị Chủ Thần Núi thứ nhất là Bảo Phong Khai Hoa. Vì vị nầy tu Bảy Bồ Ðề Phần, bảy báu trang nghiêm diệu cao phong, thường khai nở hoa sen lớn, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Núi thứ hai là Hoa Lâm Diệu Kế. Vì công đức của vị nầy viên mãn, hoa sen nở rộ tươi tốt như rừng cây, diệu kế của vị nầy phóng quang minh mà trang nghiêm, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Núi thứ ba là Cao Tràng Phổ Chiếu. Vì tràng báu của vị nầy rất cao, chiếu khắp thế giới, cứu độ vô lượng chúng sinh, lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Núi thứ tư là Ly Trần Tịnh Kế. Vì vị nầy từ bỏ được bụi trần phiền não, mà thanh tịnh bảo kế, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Núi thứ năm là Quang Chiếu Thập Phương. Vì quang minh của vị nầy chiếu khắp mười phương thế giới, chúng sinh nào được quang minh nầy chiếu đến, thì đều phát tâm bồ đề, tương lai có cơ hội thành Phật, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Núi thứ sáu là Ðại Lực Quang Minh. Vì sức lực của vị nầy rất lớn, lại phóng quang minh mãnh liệt, chiếu khắp thế giới, khiến cho quỷ lị mị, vọng lượng, không dám xuất hiện, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Núi thứ bảy là Oai Quang Phổ Thắng. Vì vị nầy có quang minh oai mãnh, chiếu khắp mà thù thắng, quang minh của các vị thần khác không thể sánh bằng, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Núi thứ tám là Vi Mật Quang Luân. Vì quang luân của vị nầy vi diệu kế mật, phát ra được quang minh thanh tịnh, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Núi thứ chín là Phổ Nhãn Hiện Kiến. Vì vị nầy dùng huệ nhãn quán sát, xuất hiện ra đời, khiến cho chúng sinh thấy được vị nầy, liền phát tâm bồ đề, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Núi thứ mười là Kim Cang Mật Nhãn. Vì vị nầy có mật mắt kim cang bất hoại, quán sát được mười phương thế giới, cho nên được tên nầy.
Có vô lượng Chủ Thần Núi như vậy làm thượng thủ. Các vị Chủ Thần Núi này, ở trong các pháp đắc được mắt thanh tịnh.
Mười vị Chủ Thần Núi nầy là thượng thủ trong chúng Chủ Thần Núi, ngoài ra còn có vô lượng vô biên Chủ Thần Núi, chẳng có cách chi tính đếm được.
Những vị Chủ Thần Núi nầy, ở trong các pháp, đắc được mắt chọn pháp (trạch pháp nhãn) thanh tịnh, mắt trí huệ thanh tịnh, nhận rõ được các pháp. Ở trên là chúng thứ bảy Chủ Thần Núi.
Lại có Chủ Thần Rừng số đông không thể nghĩ bàn. Ðó là : Chủ Thần Rừng Bố Hoa Như Vân. Chủ Thần Rừng Trạch Cán Thư Quang. Chủ Thần Rừng Sinh Nha Phát Diệu. Chủ Thần Rừng Cát Tường Tịnh Diệp. Chủ Thần Rừng Thùy Bố Diệm Tạng. Chủ Thần Rừng Thanh Tịnh Quang Minh. Chủ Thần Rừng Khả Ý Lôi Âm. Chủ Thần Rừng Quang Hương Phổ Biến. Chủ Thần Rừng Diệu Quang Hồi Diệu. Chủ Thần Rừng Hoa Quả Quang Vị.
Vị Chủ Thần Rừng thứ nhất tên là Bố Hoa Như Vân. Vì vị nầy giăng hoa nhiều như mây, khiến cho hoa sen từ không trung rơi xuống tấp nập, đầy khắp mặt đất, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Rừng thứ hai tên là Trạc Cán Thư Quang. Vì vị nầy đề bạt thân cây mà thư triển quang minh, chiếu soi tất cả, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Rừng thứ ba tên là Sinh Nha Phát Diệu. Vì bồ đề của vị nầy sinh mầm, phát quang chiếu soi tùng lâm, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Rừng thứ tư tên là Cát Tường Tịnh Diệp. Vì vị nầy có tướng cát tường, Ngài ở tùng lâm nào thì tùng lâm đó cát tường, chẳng có quỷ đến tác quái, cho nên cành và lá của cây cối đều thanh tịnh, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Rừng thứ năm tên là Thùy Bố Diệm Tạng. Vì tất cả cây cối do vị nầy quảng lý giống như lọng dù, che ánh sáng lửa ngọn, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Rừng thứ sáu tên là Thanh Tịnh Quang Minh. Vì những tùng lâm vị nầy quảng lý, đều thanh tịnh không có bụi bặm dơ bẩn, mà luôn luôn phóng quang minh, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Rừng thứ bảy tên là Khả Ý Lôi Âm. Vì vị nầy khiến cho tất cả chúng sinh thấy rừng cây đều sinh tâm hoan hỉ, vị nầy còn có oai đức lôi âm, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Rừng thứ tám là Quang Hương Phổ Biến. Vì quang minh và hương thơm của vị nầy, chiếu khắp mọi nơi, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Rừng thứ chín là Diệu Quang Hồi Diệu. Vì diệu quang minh của vị nầy chiếu sáng thế giới, khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được lợi ích, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Rừng thứ mười là Hoa Quả Quang Vị. Vì tất cả hoa và quả của vị nầy quảng lý, đều có ánh sáng đẹp lạ và hương vị ngọt, cho nên được tên nầy.
Có số đông Chủ Thần Rừng không thể nghĩ bàn như vậy làm thượng thủ. Các vị Chủ Thần Rừng này, đều có vô lượng quang minh đáng ưa thích.
Mười vị Chủ Thần Rừng nầy, là lãnh tụ trong các Chủ Thần Rừng, còn có số đông Chủ Thần Rừng không thể nghĩ bàn.
Những vị Chủ Thần Rừng nầy, đều có vô lượng vô biên quang minh đáng ưa thích. Vì những vị đại Bồ Tát nầy phát nguyện, đến làm Chủ Thần Rừng hành Bồ Tát đạo. Ở trên là chúng thứ tám Chủ Thần Rừng.
Lại có vô lượng Chủ Thần Dược. Ðó là : Chủ Thần Dược Cát Tường. Chủ Thần Dược Chiên Ðàn Lâm. Chủ Thần Dược Thanh Tịnh Quang Minh. Chủ Thần Dược Danh Xưng Phổ Văn. Chủ Thần Dược Mao Khổng Quang Minh. Chủ Thần Dược Phổ Trị Thanh Tịnh. Chủ Thần Dược Ðại Phát Hống Thanh. Chủ Thần Dược Tế Nhật Quang Tràng. Chủ Thần Dược Minh Kiến Thập Phương. Chủ Thần Dược Ích Khí Minh Mục.
Vị Chủ Thần Dược thứ nhất tên là Cát Tường. Vì vị nầy chủ quản lý cam thảo, vị thuốc nầy giải được trăm thứ bệnh. Bất cứ trúng độc gì, uống cam thảo thì sẽ khỏi, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Dược thứ hai là Chiên Ðàn Lâm. Vì vị nầy trị bệnh tim đặc biệt hiệu nghiệm. Thứ gỗ chiên đàn nầy, lại có thể chế thành hương, nóng thì khiến cho tim gan của người mát mẻ, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Dược thứ ba là Thanh Tịnh Quang Minh. Vì vị nầy thanh tịnh lại quang minh, khiến cho chúng sinh không sinh bệnh nhiệt não, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Dược thứ tư tên là Danh Xưng Phổ Văn. Vì vị nầy chủ quản nhân sâm. Vị thuốc nầy là thuốc bổ dưỡng, có bệnh thì trị bệnh, không có bệnh thì thân thể khoẻ mạnh, do đó vang danh khắp nơi, mọi người đều biết, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Dược thứ năm tên là Mao Khổng Quang Minh. Vì mỗi lỗ chân lông của vị nầy đều phóng một luồng hào quang, chiếu đến người bệnh thì được khoẻ mạnh, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Dược thứ sáu tên là Phổ Trị Thanh Tịnh. Vì vị nầy trị được trăm bệnh, giải nhiệt tan độc, làm cho bệnh nhân thân tâm thanh tịnh, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Dược thứ bảy tên là Ðại Phát Hống Thanh. Vì tiếng hống của vị nầy, trị được tất cả bệnh nan y và tạp chứng, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Dược thứ tám tên là Tế Nhật Quang Tràng. Vì Ngài che được ánh sáng mặt trời, giống như tràng báu cao lớn, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Dược thứ chín tên là Minh Kiến Thập Phương. Vì vị nầy có con mắt thấu thị, thấy rõ được căn bệnh của tất cả bệnh nhân như thế nào ? và uống thuốc vào thì hết bệnh, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Dược thứ mười tên là Ích Khí Minh Mục. Vì vị nầy biết nhân sâm bổ khí, hoa cúc bổ mắt, khiến cho bệnh nhân dùng hai thứ thuốc nầy, thì hiệu dụng không thể nghĩ bàn, cho nên được tên nầy.
Có vô lượng số Chủ Thần Dược như vậy làm thượng thủ. Các vị thần này, tánh đều lìa cấu bẩn nhiễm ô, nhân từ lợi ích muôn vật.
Mười vị Chủ Thần Dược nầy, là thượng thủ trong chúng Chủ Thần Dược, ngoài ra còn có vô lượng số Chủ Thần Dược như vậy.
Những vị Chủ Thần Dược nầy đã tu đến mức không còn ô nhiễm, đều có tâm nhân từ, giúp đỡ chúng sinh, lợi ích chúng sinh, cho nên đều là đại Bồ Tát hóa thân. Ở trên là chúng thứ chín Chủ Thần Dược.
Lại có vô lượng Chủ Thần Ngũ Cốc. Ðó là : Chủ Thần Ngũ Cốc Nhu Nhuyến Thắng Vị. Chủ Thần Ngũ Cốc Thời Hoa Tịnh Quang. Chủ Thần Ngũ Cốc Sắc Lực Dũng Kiện. Chủ Thần Ngũ Cốc Tăng Trưởng Tinh Khí. Chủ Thần Ngũ Cốc Phổ Sinh Căn Quả. Chủ Thần Ngũ Cốc Diệu Nghiêm Hoàn Kế. Chủ Thần Ngũ Cốc Nhuận Trạch Tịnh Hoa. Chủ Thần Ngũ Cốc Thành Tựu Diệu Hương. Chủ Thần Ngũ Cốc Kiến Giả Ái Lạc. Chủ Thần Ngũ Cốc Ly Cấu Tịnh Quang.
Lại có vô lượng vô biên Chủ Thần Ngũ Cốc. Chủ Thần Ngũ Cốc tức là thần quản lý ngũ cốc. Ngũ cốc tức là các thứ rau trái, do con người trồng trọt. Mỗi loại cây đều có một vị thần quản lý.
Vị Chủ Thần Ngũ Cốc thứ nhất tên là Nhu Nhuyến Thắng Vị. Vì tất cả cây cối do vị nầy cai quản, đều là chất mềm mại, có vị đạo thù thắng và hương thơm đặc biệt cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ngũ Cốc thứ hai tên là Thời Hoa Tịnh Quang. Vì ngũ cốc tạp loại do vị nầy cai quản, đúng thời thì hoa nở, còn phóng quang minh thanh tịnh, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ngũ Cốc thứ ba tên là Sắc Lực Dũng Kiện. Vì ngũ cốc do vị nầy cai quản, làm cho người ăn rồi thì thân thể kiện khang, và còn có sức dũng mãnh, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ngũ Cốc thứ tư là Tăng Trưởng Tinh Khí. Vì ngũ cốc do vị nầy cai quản, ăn rồi thì sẽ tăng thêm tinh thần và thể lực, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ngũ Cốc thứ năm tên là Phổ Sinh Căn Quả. Vì ngũ cốc do vị nầy cai quản, ăn rồi thì khiến cho căn lành sinh trưởng, được sinh vào nhà Phật, đắc được quả vị Phật, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ngũ Cốc thứ sáu tên là Diệu Nghiêm Hoàn Kế. Vì ngũ cốc do vị nầy cai quản, ăn rồi thì sinh bảo kế hình tròn, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ngũ Cốc thứ bảy tên là Nhuận Trạch Tịnh Hoa. Vì ngũ cốc do vị nầy cai quản, ăn rồi thì làm cho da thấm nhuần, thanh tịnh như hoa sen, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ngũ Cốc thứ tám là Thành Tựu Diệu Hương. Vì ngũ cốc do vị nầy cai quản đều có hương thơm vi diệu, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ngũ Cốc thứ chín là Kiến Giả Ái Lạc. Vì ngũ cốc do vị nầy cai quản, làm cho người thấy rồi thì vui vẻ và khoái lạc, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ngũ Cốc thứ mười tên là Ly Cấu Tịnh Quang. Vì ngũ cốc do vị nầy cai quản, ăn rồi thì thân tâm thanh tịnh, xa lìa trần cấu, chẳng có vọng tưởng nhiễm ô, cho nên được tên nầy.
Có vô lượng số Chủ Thần Ngũ Cốc như vậy làm thượng thủ. Các vị Thần này đều đắc được đại hỉ thành tựu.
Mười vị Chủ Thần Ngũ Cốc nầy, làm thượng thủ trong các Chủ Thần Ngũ Cốc. Ngoài ra còn có vô lượng vô biên Chủ Thần Ngũ Cốc.
Những vị Chủ Thần Ngũ Cốc nầy, đều đắc được đại hỉ thành tựu. Mỗi năm đến mùa thu thì thu hoạch được dồi dào, người trồng trọt đều hoan hỉ vui mừng, đều đắc được đại hoan hỉ thành tựu. Trên đây là chúng thứ mười Chủ Thần Ngũ Cốc.
Lại có vô lượng Chủ Thần Sông. Ðó là : Chủ Thần Sông Phổ Phát Tấn Lưu. Chủ Thần Sông Phổ Khiết Tuyền Giản. Chủ Thần Sông Ly Trần Tịnh Nhãn. Chủ Thần Sông Thập Phương Biến Hống. Chủ Thần Sông Cứu Hộ Chúng Sinh. Chủ Thần Sông Vô Nhiệt Tịnh Quang. Chủ Thần Sông Phổ Sinh Hoan Hỉ. Chủ Thần Sông Quảng Ðức Thắng Tràng. Chủ Thần Sông Quang Chiếu Phổ Thế. Chủ Thần Sông Hải Ðức Quang Minh.
Lại có vô lượng vô biên Chủ Thần Sông. Chủ Thần Sông tức là thần quản lý sông hồ. Bất cứ sông ngòi, ao hồ, biển cả, đều có thần đến quản lý cá rùa tôm cua, khiến cho chúng không dám tác quái, không được hại người.
Vị Chủ Thần Sông thứ nhất tên là Phổ Phát Tấn Lưu. Vì vị nầy làm cho nước chảy mau, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Sông thứ hai tên là Phổ Khiết Tuyền Giản. Vì vị nầy làm cho nước suối và sông, đều trong sạch thanh khiết, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Sông thứ ba tên là Ly Trần Tịnh Nhãn. Vì vị nầy khử trừ cấu bẩn tất cả nước sông, khiến cho trong sạch phi thường, như con mắt, chẳng có chút hạt bụi nào, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Sông thứ tư tên là Thập Phương Biến Hống. Vì vị nầy làm cho âm thanh của nước sông, giống như âm thanh của thú dữ, chấn động mười phương, khắp mọi nơi, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Sông thứ năm tên là Cứu Hộ Chúng Sinh. Vì trong quá khứ vị nầy đã phát nguyện, nếu có chúng sinh rớt vào trong sông, thì vị nầy nhất định đi cứu họ trước, không để cho sinh mạng của họ nguy hiểm, cho nên được tên nầy
Vị Chủ Thần Sông thứ sáu tên là Vô Nhiệt Tịnh Quang. Vì vị nầy có quang minh thanh tịnh mát mẻ, chiếu soi chúng sinh khiến cho họ không có nhiệt não, cho nên đựơc tên nầy.
Vị Chủ Thần Sông thứ bảy tên là Phổ Sinh Hoan Hỉ. Vì vị nầy khiến cho tất cả chúng sinh, đều sinh tâm hoan hỉ, cho nên đựơc tên nầy.
Vị Chủ Thần Sông thứ tám tên là Quảng Ðức Thắng Tràng, vì đức đức tính của vị nầy, rất thù thắng như tràng báu, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Sông thứ chín tên là Quang Chiếu Phổ Thế. Vì quang minh của vị nầy chiếu khắp tất cả thế giới, cho nên đựơc tên nầy.
Vị Chủ Thần Sông thứ mười tên là Hải Ðức Quang Minh. Vì đức tính quang minh của vị nầy như biển, cho nên được tên nầy.
Có vô lượng số Chủ Thần Sông như vậy làm thượng thủ. Các vị Thần này, luôn phát tâm lợi ích chúng sinh.
Ðây là mười vị Chủ Thần Sông, làm thượng thủ trong các Chủ Thần Sông, ngoài ra còn có vô lượng biên Chủ Thần Sông.
Những vị Chủ Thần Sông nầy, luôn luôn phát tâm làm lợi ích chúng sinh. Trên đây là chúng thứ mười một Chủ Thần Sông.
Lại có vô lượng Chủ Thần Biển. Ðó là : Chủ Thần Biển Xuất Hiện Bảo Quang. Chủ Thần Biển Thành Kim Cang Tràng. Chủ Thần Biển Viễn Ly Trần Cấu. Chủ Thần Biển Phổ Thủy Cung Ðiện. Chủ Thần Biển Cát Tường Bảo Nguyệt. Chủ Thần Biển Diệu Hoa Long Kế. Chủ Thần Biển Phổ Trì Quang Vị. Chủ Thần Biển Bảo Diệm Hoa Quang. Chủ Thần Biển Kim Cang Diệu Kế. Chủ Thần Biển Hải Triều Lôi Âm.
Lại có vô lượng vô biên Chủ Thần Biển. Chủ Thần Biển tức là thần quản lý biển cả, bây giờ cử ra mười vị làm tượng trưng.
Vị Chủ Thần Biển thứ nhất tên là Xuất Hiện Bảo Quang. Vì vị nầy hiện ra rất nhiều quang minh báu, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Biển thứ hai tên là Thành Kim Cang Tràng, vì vị nầy thành tựu công đức, giống như kim cang tràng, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Biển thứ ba là Viễn Ly Trần Cấu. Vì vị nầy xa lìa tất cả bụi trần dơ bẩn, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Biển thứ tư là Phổ Thủy Cung Ðiện. Vì vị nầy làm cho trong nước đều có cung điện, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Biển thứ năm là Cát Tường Bảo Nguyệt. Vì vị nầy có sự cát tường giống như trăng tròn, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Biển thứ sáu tên là Diệu Hoa Long Kế. Vì vị nầy có bảo kế như diệu hoa long, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Biển thứ bảy tên là Phổ Trì Quang Vị. Vì vị nầy có quang minh và hương vị giữ được lâu, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Biển thứ tám tên là Bảo Diệm Hoa Quang. Vì vị nầy có quang minh bảo diệm hoa, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Biển thứ chín tên là Kim Cang Diệu Kế. Vì vị nầy có bảo kế kim cang kỳ diệu, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Biển thứ mười là Hải Triều Lôi Âm. Vì vị nầy có diệu âm hải triều giống như sấm, cho nên được tên nầy.
Có vô số Chủ Thần Biển như vậy làm thượng thủ. Các vị Thần này, đều dùng biển công đức của Như Lai, sung mãn thân mình.
Mười vị Chủ Thần Biển nầy, đều là thượng thủ trong Chủ Thần Biển, còn có vô lượng vô biên Chủ Thần Biển. Ở trên là chúng thứ mười hai Chủ Thần Biển.
Những vị Chủ Thần Biển nầy, hoàn toàn dùng biển công đức của Như Lai để sung mãn trong thân của các Ngài.
Lại có vô lượng Chủ Thần Nước. Ðó là : Chủ Thần Nước Phổ Hưng Vân Tràng. Chủ Thần Nước Hải Triều Vân Âm. Chủ Thần Nước Diệu Sắc Luân Kế. Chủ Thần Nước Thiện Xảo Tuyền Phục. Chủ Thần Nước Ly Cấu Hương Tích. Chủ Thần Nước Phước Kiều Quang Âm. Chủ Thần Nước Tri Túc Tự Tại. Chủ Thần Nước Tịnh Hỉ Thiện Âm. Chủ Thần Nước Phổ Hiện Oai Quang. Chủ Thần Nước Hống Âm Biến Hải.
Lại có vô lượng vô biên Chủ Thần Nước. Chủ Thần Nước tức là thần quản lý nước. Nay cử ra mười vị làm đại biểu.
Vị Chủ Thần Nước thứ nhất tên là Phổ Hưng Vân Tràng. Vì vị nầy nổi mây khắp nơi, để tạo tràng báu cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Nước thứ hai tên là Hải Triều Vân Âm. Vì vị nầy có âm thanh giống như tiếng hải triều, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Nước thứ ba tên là Diệu Sắc Luân Kế. Vì kế của vị nầy có diệu sắc luân quang, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Nước thứ tư tên là Thiện Xảo Tuyền Phục. Vì vị nầy dùng thần lực khéo léo, làm cho nước chảy lại, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Nước thứ năm tên là Ly Cấu Hương Tích. Vì vị nầy lìa khỏi tất cả pháp nhiễm ô, làm cho nước trong sạch, mà tích tụ hương vị, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Nước thứ sáu tên là Phước Kiều Quang Âm. Vì vị nầy bố thí làm phước cho chúng sinh, công đức đủ như kiều lương. Vị nầy phóng quang minh, trong quang minh thuyết pháp, khiến cho chúng sinh được lợi ích, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Nước thứ bảy tên là Tri Túc Tự Tại. Vì tất cả nước do vị nầy quản lý, đều rất trong sạch, ngọt ngào, chúng sinh uống rồi, thì tự nhiên đắc được tri túc tự tại, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Nước thứ tám tên là Tịnh Hỷ Thiện Âm. Vì tất cả nước do vị nầy quản lý, là nước cam lồ, uống rồi thì sinh tâm thanh tịnh hoan hỉ, âm thanh diệu hòa êm tai, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Nước thứ chín là Phổ Hiện Oai Quang. Vì vị nầy có oai quang hiện khắp tất cả, khiến cho chúng sinh thấy được rồi, thì sinh tâm cung kính tín ngưỡng, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Nước thứ mười tên là Hống Âm Biến Hải. Vì nước do vị nầy quản lý, thường phát ra tiếng hống khắp biển cả, bất cứ chúng sinh nơi nào, nghe được thì đều sinh bồ đề tâm, cho nên được tên nầy.
Có vô lượng Chủ Thần Nước như vậy làm thượng thủ. Các vị Thần này, luôn luôn cứu hộ và làm lợi ích cho chúng sinh.
Mười vị Chủ Thần Nước nầy, đều làm thượng thủ trong Chủ Thần Nước, và còn có vô lượng vô biên Chủ Thần Nước. Những vị Chủ Thần Nước nầy, luôn luôn lấy sự cứu hộ chúng sinh, làm trách nhiệm của mình, làm cho tất cả chúng sinh, đều đắc được lợi ích, trên đây là chúng thứ mười ba Chủ Thần Nước.
Lại có vô số Chủ Thần Lửa. Ðó là : Chủ Thần Lửa Phổ Quang Diệm Tạng. Chủ Thần Lửa Phổ Tập Quang Tràng. Chủ Thần Lửa Ðại Quang Phổ Chiếu. Chủ Thần Lửa Chúng Diệu Cung Ðiện. Chủ Thần Lửa Vô Tận Quang Kế. Chủ Thần Lửa Chủng Chủng Diệm Nhãn. Chủ Thần Lửa Thập Phương Cung Ðiện. Chủ Thần Lửa Oai Quang Tự Tại. Chủ Thần Lửa Quang Minh Phá Ám. Chủ Thần Lửa Lôi Âm Ðiện Quang.
Lại có vô lượng Chủ Thần Lửa. Chủ Thần Lửa là thần quản lý lửa, trong vô lượng Chủ Thần Lửa chỉ đưa ra mười vị tượng trưng.
Vị Chủ Thần Lửa thứ nhất tên là Phổ Quang Diệm Tạng. Vì quang diệm của vị nầy biến khắp rộng lớn, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Lửa thứ hai tên là Phổ Tập Quang Tràng. Vì vị nầy có hỏa quang phổ tập giống như tràng báu, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Lửa thứ ba tên là Ðại Quang Phổ Chiếu. Vì quang minh của vị nầy chiếu khắp tất cả, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Lửa thứ tư tên là Chúng Diệu Cung Ðiện. Vì vị nầy dùng các thứ báu vi diệu để trang nghiêm cung điện, khiến cho cung điện phóng quang, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Lửa thứ năm tên là Vô Tận Quang Kế. Vì vị nầy có bảo kế phóng ra vô lượng vô tận quang minh, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Lửa thứ sáu tên là Chủng Chủng Diệm Nhãn. Vì vị nầy có đủ loại diệm nhãn, phát ra hào quang lửa ngọn vạn trượng, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Lửa thứ bảy tên là Thập Phương Cung Ðiện. Vì vị nầy làm cho tất cả cung điện trong mười phương, nguy nga trang nghiêm như núi Tu Di, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Lửa thứ tám tên là Oai Quang Tự Tại. Vì oai lực của vị nầy, vừa quang minh vừa tự tại, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Lửa thứ chín tên là Quang Minh Phá Ám. Vì quang minh của vị nầy, có oai lực phá trừ tất cả đen tối, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Lửa thứ mười tên là Lôi Âm Ðiện Quang. Vì âm thanh của vị nầy như sấm, quang minh của vị nầy như điện, cho nên được tên nầy.
Có các vị Chủ Thần Lửa, nhiều không thể nói hết được như vậy làm thượng thủ. Các vị Thần này, đều thị hiện đủ loại quang minh, khiến cho phiền não của tất cả chúng sinh đều tiêu trừ.
Mười vị Chủ Thần Lửa nầy làm thượng thủ trong Chủ Thần Lửa, ngoài ra còn có rất nhiều Chủ Thần Lửa không thể tính đếm hết được.
Những vị Chủ Thần Lửa nầy đều thị hiện đủ loại quang minh, làm cho bệnh nhiệt não của chúng sinh đều đoạn trừ tiêu diệt.
Chúng ta cũng không biết tại sao lại sinh ra tà tri tà kiến ? Cũng không biết tại sao lại sinh ra tư tưởng không trong sạch ? Cũng không biết tại sao mình không tự làm chủ được ? Ðó đều là do quá khứ, đã gieo trồng gốc rễ tội nghiệp quá nhiều, quá sâu, cho nên mới như thế. Vậy phải làm sao ? Phải diệt trừ gốc rễ vô minh, thì sẽ tiêu trừ nhiệt não. Tu hành tức là phải phá vô minh, có vô minh thì có sinh tử, không còn vô minh, thì chẳng còn sinh tử nữa. Ở trong mười hai nhân duyên nói rất rõ ràng. Ở trên là chúng thứ mười bốn Chủ Thần Lửa.
Lại có vô lượng Chủ Thần Gió. Ðó là : Chủ Thần Gió Vô Ngại Quang Minh. Chủ Thần Gió Phổ Hiện Dũng Nghiệp. Chủ Thần Gió Phiêu Kích Vân Tràng. Chủ Thần Gió Tịnh Quang Trang Nghiêm. Chủ Thần Gió Lực Năng Kiệt Thủy. Chủ Thần Gió Ðại Thanh Biến Hống. Chủ Thần Gió Thụ Diểu Thùy Kế. Chủ Thần Gió Sở Hành Vô Ngại. Chủ Thần Gió Chủng Chủng Cung Ðiện. Chủ Thần Gió Ðại Quang Phổ Chiếu.
Lại có vô lượng vô biên Chủ Thần Gió. Chủ Thần Gió tức là thần quản lý gió. Gió có nhiều loại hình thái, như gió nhẹ, gió mạnh. Cuồng phong thổi rất là lợi hại.
Vị Chủ Thần Gió thứ nhất tên là Vô Ngại Quang Minh. Vì quang minh của vị nầy không có chướng ngại, chiếu khắp thế giới, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Gió thứ hai tên là Phổ Hiện Dũng Nghiệp. Vì oai phong của vị nầy, dũng mãnh phi thường, phổ hiện khắp nơi, thổi tan ma quân, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Gió thứ ba tên là Phiêu Kích Vân Tràng. Vì oai lực của vị nầy càng lợi hại, phiêu kích vân tràng, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Gió thứ tư tên là Tịnh Quang Trang Nghiêm. Vì quang minh của vị nầy, vừa thanh tịnh vừa trang nghiêm, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Gió thứ năm tên là Lực Năng Kiệt Thủy. Vì sức lực của vị nầy, có thể thổi khô cạn biển cả, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Gió thứ sáu tên là Ðại Thanh Biến Hống. Vì oai lực phong thanh của vị nầy, Kinh thiên động địa, như tiếng hống của loài thú, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Gió thứ bảy là Thụ Diểu Thùy Kế. Vì bảo kế của vị nầy, như cành cây rũ xuống, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Gió thứ tám là Sở Hành Vô Ngại. Vì vị nầy thổi gió đến đâu, cũng chẳng có chướng ngại, cho nên được tên nầy. Vị Chủ Thần Gió thứ chín tên là Chủng Chủng Cung Ðiện. Vì vị nầy có rất nhiều loại cung điện chẳng giống nhau, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Gió thứ mười là Ðại Quang Phổ Chiếu. Vì đại quang minh của vị nầy chiếu soi khắp tất cả, cho nên được tên nầy.
Có vô lượng Chủ Thần Gió như vậy làm thượng thủ. Các vị Thần này, đều tinh tấn diệt trừ tâm ngã mạn.
Mười vị Chủ Thần Gió nầy, làm thượng thủ trong Chủ Thần Gió. Ngoài ra còn có vô lượng vô biên Chủ Thần Gió.
Những vị Chủ Thần Gió nầy, đều tinh tấn tiêu trừ tâm ngã mạn. Ngã mạn là gì ? Tức là tự mình kiêu căn ngạo mạn, xem thiên hạ chẳng ra gì. Cho rằng mình giỏi hơn bất cứ ai. Tóm lại, ai cũng chẳng bằng mình.
Người học Phật ! Nên nhớ ! Ðừng có tâm ngã mạn. Nếu có cái ngã tức là ngã mạn. Ðừng dạy mọi người phải tôn kính mình, nếu dạy người phải tôn kính mình cũng là ngã mạn. Vậy thì dạy người khinh mình chăng ? Cũng chẳng phải. Tức là không cần phải kính trọng hoặc khinh thường, tự mình tu cho mình, tự mình hành cho mình, đừng dạy người khác tôn kính, mà là tự mình tôn kính mình. Phải hỏi lương tâm mình còn tâm tham chăng ? Còn tâm sân chăng ? Còn tâm si chăng ? Nếu ba thứ tâm nầy không đoạn trừ, thì căn bản là người ngu si.
C
húng ta là người tu đạo, phải luôn luôn hồi quang phản chiếu, xem mình như thế nào ? Có sinh tâm cống cao ngã mạn chăng ? Nếu có thì phải mau sửa đổi. Phải trở lại cầu chính mình, luôn luôn đề cao cảnh giác, phản tỉnh những gì làm trong ngày, thiện thì khỏi, ác thì phải sửa đổi. luôn luôn kiểm điểm như thế, thì không thể sinh tâm cống cao ngã mạn.
Lại có vô lượng Chủ Thần Không. Ðó là : Chủ Thần Không Tịnh Quang Phổ Chiếu. Chủ Thần Không Phổ Du Thâm Quảng. Chủ Thần Không Sinh Cát Tường Phong. Chủ Thần Không Ly Chướng An Trụ. Chủ Thần Không Quảng Bộ Diệu Kế. Chủ Thần Không Vô Ngại Quang Diệm. Chủ Thần Không Vô Ngại Thắng Lực. Chủ Thần Không Ly Cấu Quang Minh. Chủ Thần Không Thâm Viễn Diệu Âm. Chủ Thần Không Quang Biến Thập Phương.
Lại có vô lượng vô biên Chủ Thần Không. Chủ Thần Không tức là thần quản lý không (khoảng không), tức là gì cũng chẳng có, nhưng gì cũng đều có. Nghĩa là gì ? Giống như chúng ta ở trong (khoảng) không, lại giống như phòng xá ở trong (khoảng) không, đó gọi là khoảng không mà chẳng không, tức là diệu hữu, hữu mà phi hữu (có mà chẳng có), lại là chân không. Cho nên nói một vật mà có được chẳng phải là bao bọc ở khoảng không chăng ? Nếu nói về không, có khoảng không nào chẳng phải là hàm tàng ở trong hữu (có) chăng.
Thân thể của chúng ta, giống như làm chật đầy một khoảng không. Thật ra, thân thể của chúng ta cũng là không, bất quá có hình tướng mà thôi. Vì có một chướng ngại vật bèn cảm thấy có. Thực ra, có tức là không, không tức là có. Chân không chẳng ngại diệu hữu, diệu hữu chẳng ngại chân không, cho nên nói chân không chẳng không, diệu hữu phi hữu. Chân không chẳng không, cho nên gọi diệu hữu, diệu hữu phi hữu, cho nên gọi chân không.
Khoảng không chẳng có dụng gì, nhưng dụng gì cũng đều từ trong khoảng không sinh ra. Ví như chúng ta ngồi thiền thì quán không, bên trong thì quán tâm, tâm chẳng có tâm, bên ngoài thì quán hình, hình chẳng có hình, ở xa thì quán vật, vật chẳng có vật. Ba thứ đều không. Trong chẳng có thâm tâm, ngoài chẳng có thế giới. Lúc nầy, còn có cái gì ? Tức có cái không. Nhưng tuy nhiên nói là không, thế mà tất cả chúng sinh đều tồn tại ở trong không. Nói nó là không, nó lại là có, nói nó là có, nó lại là không.
Không chẳng có bờ mé, tất cả đều không. Chẳng có ai quản lý, cho nên tìm thần lại quản lý. Bạn có không của bạn, tôi có không của tôi, không của bạn không thể phá hoại không của tôi, không của tôi không thể phá hoại không của bạn, không và không đều viên dung vô ngại.
Vị Chủ Thần Không thứ nhất tên là Tịnh Quang Phổ Chiếu. Vì vị nầy có quang minh thanh tịnh, chiếu khắp tất cả, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Không thứ hai tên là Phổ Du Thâm Quảng. Vì vị nầy du hành khắp hư không, quán tất cả pháp rất sâu rộng, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Không thứ ba tên là Sinh Cát Tường Phong. Vì gió do vị nầy sinh ra đều cát tường, ai gặp phải gió cát tường thì sẽ cát tường, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Không thứ tư tên là Ly Chướng An Trụ. Vì vị nầy lìa khỏi chướng ngại, an trụ nơi bậc bất động, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Không thứ năm tên là Quảng Bộ Diệu Kế. Vì vị nầy đi bộ rất nhanh, lại có kế diệu quang, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Không thứ sáu tên là Vô Ngại Quang Diệm. Vì quang diệm (quang minh lửa ngọn) của vị nầy chiếu khắp, tơ hào chẳng có chướng ngại, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Không thứ bảy tên là Vô Ngại Thắng Lực. Vì sức lực của vị nầy thắng hết tất cả mà không chướng ngại, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Không thứ tám tên là Ly Cấu Quang Minh. Vì vị nầy đã lìa khỏi trần cấu, cho nên hiện ra quang minh, do đó được tên nầy.
Vị Chủ Thần Không thứ chín tên là Thâm Viễn Diệu Âm. Vì âm thanh của vị nầy, không những rất hay, mà còn vang rộng sâu xa, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Không thứ mười tên là Quang Biến Thập Phương. Vì quang minh của vị nầy chiếu khắp mười phương, cho nên được tên nầy.
Có vô lượng Chủ Thần Không như vậy làm thượng thủ. Các vị Thần nầy, tâm đều xa lìa trần cấu, tâm lượng rộng lớn, quang minh trong sáng.
Mười vị Chủ Thần Không nầy làm thượng thủ trong chúng Chủ Thần Không.
Những vị Chủ Thần Không nầy tâm đều xa lìa trần cấu nhiễm ô, cho nên tâm lượng rộng lớn, phóng quang minh trong sáng. Ở trên là chúng thứ mười sáu Chủ Thần Không.
Lại có vô lượng Chủ Thần Phương Hướng. Ðó là : Chủ Thần Phương Hướng Biến Trụ Nhất Thiết. Chủ Thần Phương Hướng Phổ Hiện Quang Minh. Chủ Thần Phương Hướng Quang Hành Trang Nghiêm. Chủ Thần Phương Hướng Chu Hành Bất Ngại. Chủ Thần Phương Hướng Vĩnh Ðoạn Mê Hoặc. Chủ Thần Phương Hướng Phổ Du Tịnh Không. Chủ Thần Phương Hướng Ðại Vân Tràng Âm. Chủ Thần Phương Hướng Kế Mục Vô Loạn. Chủ Thần Phương Hướng Phổ Quán Thế Nghiệp. Chủ Thần Phương Hướng Chu Biến Du Lãm.
Lại có vô lượng vô biên Chủ Thần Phương Hướng. Chủ Thần Phương Hướng tức là thần quảng lý về phương hướng. Phương có mười phương, trong mười phương lại có thể phân ra làm trăm ngàn vạn phương. Nhưng có năm phương chủ yếu tức là : Ðông, tây, nam, bắc và giữa. Năm phương nầy thuộc về ngũ hành. Phương đông thuộc mộc, phương nam thuộc hỏa, phương tây thuộc kim, phương bắc thuộc thủy, chính giữa thuộc thổ. Một năm bốn mùa thịnh vượng ở năm phương và ngũ hành. Mùa xuân thuộc mộc, thịnh vượng hướng đông, mùa hạ thuộc hỏa, thịnh vượng hướng nam, mùa thu thuộc kim, thịnh vượng hướng tây, mùa đông thuộc thủy, thịnh vượng hướng bắc, thổ thịnh vượng chính giữa, chính giữa là tứ thông bát đạt, cho nên thịnh vượng suốt bốn mùa.
Phương đông Giáp ất mộc, thuộc về màu xanh, thần quảng lý phương đông gọi là Thanh đế. Phương nam Bính đinh hỏa thuộc màu đỏ, thần quảng lý phương nam gọi là Xích đế. Phương tây Canh tân kim thuộc màu trắng, thần quảng lý phương tây gọi là Bạch đế. Phương bắc Nhâm quý thủy, thuộc màu đen, thần quảng lý phương bắc gọi là Hắc đế. Chính giữa Dậu kỷ thổ thuộc màu vàng, thần quảng lý chính giữa gọi là Huỳnh đế. Những vị thần năm phương nầy mỗi vị đều có chức vụ riêng.
Vị Chủ Thần Phương Hướng thứ nhất tên là Biến Trụ Nhất Thiết. Vì vị nầy trụ ở bất cứ mọi phương, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Phương Hướng thứ hai tên là Phổ Hiện Quang Minh. Vì vị nầy hiện quang minh khắp tất cả, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Phương Hướng thứ ba tên là Quang Hạnh Trang Nghiêm. Vì vị nầy dùng quang minh để trang nghiêm, dùng hạnh để trang nghiêm, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Phong Thần thứ tư tên là Chu Hành Bất Ngại. Vì vị nầy đến bất cứ nơi nào, cũng đều không chướng ngại, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Phương Hướng Thứ năm tên là Vĩnh Ðoạn Mê Hoặc. Vì vị nầy vĩnh viễn đoạn trừ mê hoặc của chính mình, và còn giúp cho chúng sinh, vĩnh viễn đoạn trừ mê hoặc, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Phương Hướng thứ sáu tên là Phổ Du Tịnh Không. Vì vị nầy ở trong hư không, có thể đến bất cứ nơi nào, làm cho không khí thanh tịnh mà không ô nhiễm, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Phương Hướng thứ bảy tên là Ðại Vân Tràng Âm. Vì vị nầy có âm thanh đại vân tràng, vang rộng khắp mười phương thế giới, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Phương Hướng thứ tám tên là Kế Mục Vô Loạn. Vì bảo kế của vị nầy rất ngay ngắn, mắt của vị nầy rất sáng suốt, không tán loạn, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Phương Hướng thứ chín tên là Phổ Quán Thế Nghiệp. Vì vị nầy quán sát khắp hết tất cả nghiệp thế gian, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Phương Hướng thứ mười tên là Chu Biến Du Lãm. Vị vị nầy đi du lãm tất cả mọi nơi, cho nên được tên nầy.
Có vô lượng Chủ Thần Phương Hướng như vậy làm thượng thủ. Các vị Thần nầy, đều dùng phương tiện phóng đại quang minh, thường chiếu sáng khắp tất cả mười phương liên tục không dứt.
Mười vị Chủ Thần Phương Hướng nầy, làm thượng thủ trong chúng Chủ Thần Phương Hướng. Ngoài ra còn có vô lượng vô biên Chủ Thần Phương Hướng.
Những vị Chủ Thần Phương Hướng nầy, đều dùng phương tiện, luôn luôn phóng quang minh, chiếu khắp tất cả mười phương, chẳng có đen tối, quang minh nầy liên tục không đoạn tuyệt. Ở trên là chúng thứ mười bảy Chủ Thần Phương Hướng.
Lại có vô lượng Chủ Thần Ban Ðêm. Ðó là : Chủ Thần Ban Ðêm Phổ Ðức Tịnh Quang. Chủ Thần Ban Ðêm Hỉ Nhãn Quán Thế. Chủ Thần Ban Ðêm Hộ Thế Tinh Khí. Chủ Thần Ban Ðêm Tịch Tịnh Hải Âm. Chủ Thần Ban Ðêm Phổ Hiện Cát Tường. Chủ Thần Ban Ðêm Phổ Phát Thụ Hoa. Chủ Thần Ban Ðêm Bình Ðẳng Hộ Dục. Chủ Thần Ban Ðêm Du Hí Khoái Lạc. Chủ Thần Ban Ðêm Chư Căn Thường Hỉ. Chủ Thần Ban Ðêm Xuất Sinh Tịnh Phước.
Lại có vô lượng vô biên Chủ Thần Ban Ðêm. Chủ Thần Ban Ðêm là thần quảng lý ban đêm. Thần ban đêm là dương trong âm. Vì đêm là đen tối. Ðen tối thuộc âm. Thần Ban Ðêm ở trong đen tối, thường phóng quang minh. Quang minh thuộc về dương, cho nên nói Chủ Thần Ban Ðêm là dương trong âm.
Vị Chủ Thần Ban Ðêm thứ nhất tên là Phổ Biến Tịnh Quang. Vì đức hạnh của vị nầy biến khắp, mà quang minh của vị nầy thanh tịnh, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ban Ðêm thứ hai tên là Hỷ Nhãn Quán Thế. Vì vị nầy dùng con mắt hoan hỉ, để quán sát tất cả nhân duyên thế gian, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ban Ðêm thứ ba tên là Hộ Thế Tinh Khí. Vì vị nầy hộ trì tất cả tinh khí của tất cả chúng sinh thế gian, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ban Ðêm thứ tư tên là Tịch Tĩnh Hải Âm. Vì vị nầy ở trong động tĩnh hộ trì chúng sinh, khiến cho họ đắc được định lực, không có vọng tưởng cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ban Ðêm thứ năm tên là Phổ Hiện Cát Tường. Vì vị nầy hiện ra khắp cảnh giới cát tường như ý, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ban Ðêm thứ sáu tên là Phổ Phát Thụ Hoa. Vì vị nầy quảng lý tất cả cây cỏ, nở hoa khắp tất cả, phóng đại quang minh, cho nên được tên nầy.
Vị Thần Ban Ðêm thứ bảy tên là Bình Ðẳng Hộ Dục. Vì vị nầy đối đãi với tất cả chúng sinh đều bình đẳng, không phân biệt đó đây, bảo hộ chúng sinh, giáo hóa chúng sinh, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ban Ðêm thứ tám tên là Du Hí Khoái Lạc. Vì vị nầy thích du hí, khiến cho tất cả chúng sinh đắc được hoan hỉ và khoái lạc cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ban Ðêm thứ chín tên là Chư Căn Thường Hỉ. Vì sáu căn của vị nầy thường hoan hỉ, khiến cho chúng sinh thấy được, đều sinh tâm hoan hỉ mà không ưu sầu cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ban Ðêm thứ mười tên là Xuất Sinh Tịnh Phước. Vì vị nầy khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được phước báu thanh tịnh, trợ giúp cho chúng sinh lìa khổ được vui, cho nên được tên nầy.
Có vô lượng Chủ Thần Ban Ðêm như vậy làm thượng thủ. Các vị Thần nầy, đều tinh tấn tu tập lấy pháp làm vui.
Mười vị Chủ Thần Ban Ðêm nầy làm thượng thủ trong chúng Chủ Thần Ban Ðêm. Ngoài ra còn có vô lượng vô biên Chủ Thần Ban Ðêm.
Những vị Chủ Thần Ban Ðêm nầy đều tinh tấn tu hành, không giải đãi, lấy sự tu tập Phật pháp làm khoái lạc, cũng khiến cho chúng sinh lấy Phật pháp làm vui. Ở trên là chúng thứ mười tám Chủ Thần Ban Ðêm.
Lại có vô lượng Chủ Thần Ban Ngày. Ðó là : Chủ Thần Ban Ngày Thị Hiện Cung Ðiện. Chủ Thần Ban Ngày Phát Khởi Huệ Hương. Chủ Thần Ban Ngày Lạc Thắng Trang Nghiêm. Chủ Thần Ban Ngày Hương Hoa Diệu Quang. Chủ Thần Ban Ngày Lạc Tác Hỉ Mục. Chủ Thần Ban Ngày Phổ Hiện Chư Phương. Chủ Thần Ban Ngày Ðại Bi Quang Minh. Chủ Thần Ban Ngày Thiện Căn Quang Chiếu. Chủ Thần Ban Ngày Diệu Hoa Anh Lạc.
Lại có vô lượng vô biên Chủ Thần Ban Ngày. Chủ Thần Ban Ngày là thần quảng lý ban ngày ở thế gian. Thần Ban Ngày là dương trong dương, vì ban ngày có ánh sáng, ánh sáng thuộc về dương, Thần Ban Ngày ở trong ánh sáng lại phóng ánh sáng, cho nên là dương trong dương.
Vị Chủ Thần Ban Ngày thứ nhất tên là Thị Hiện Cung Ðiện. Vì vị nầy thị hiện cung điện nhiều loại hình dáng, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ban Ngày thứ hai tên là Phát Khởi Hụê Hương. Vì vị nầy phát ra hương trí hụê, khiến cho chúng sinh ngửi được bèn sinh trí hụê, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ban Ngày thứ ba tên là Lạc Thắng Trang nghiêm. Vì vị nầy thích thú trang nghiêm, tất cả chỗ ở của chúng sinh, khiến cho chúng sinh đắc được phòng xá thù thắng, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ban Ngày thứ tư tên là Hương Hoa Diệu Quang. Vì vị nầy thường tỏa ra mùi thơm hương hoa, lại có màu sắc quang minh vi diệu, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ban Ngày thứ năm tên là Phổ Tập Diệu Dược. Vì vị nầy thường tụ tập khắp hết tất cả cỏ thuốc, để chữa trị bệnh cho chúng sinh, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ban Ngày thứ sáu tên là Lạc Tác Hỉ Mục. Vì vị nầy muốn làm cho chúng sinh khoái lạc, khiến cho chúng sinh mắt thường hoan hỉ, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ban Ngày Thứ bảy tên là Phổ Hiện Chư Phương. Vì vị nầy thường thị hiện khắp tất cả mọi nơi, khiến cho chúng đều thấy được, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ban Ngày thứ tám tên là Ðại Bi Quang Minh. Vì vị nầy có tâm đại bi, phổ độ chúng sinh, thường phóng quang minh, gia bị cho chúng sinh, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ban Ngày thứ chín tên là Thiện Căn Quang Chiếu. Vì vị nầy có quang minh, chiếu soi chúng sinh có căn lành, chúng sinh không có căn lành, thì làm cho họ sinh căn lành, chúng sinh đã có căn lành, thì khiến cho họ được thành thục, căn lành thành thục, thì khiến cho giải thoát, cho nên được tên nầy.
Vị Chủ Thần Ban Ngày thứ mười tên là Diệu Hoa Anh Lạc. Vì vị nầy dùng một thứ diệu hoa làm thành chuỗi, không những rất đẹp, mà còn phóng quang, cho nên được tên nầy.
Có vô lượng Chủ Thần Ban Ngày như vậy làm thượng thủ. Các vị Thần nầy, đều sinh tâm tin hiểu, ở trong diệu pháp. Luôn luôn cùng siêng năng tinh tấn, nghiêm sức cung điện.
Mười vị Chủ Thần Ban Ngày nầy, làm thượng thủ trong Chủ Thần Ban Ngày, ngoài ra còn có vô lượng vô biên Chủ Thần Ban Ngày.
Những Chủ Thần Ban Ngày nầy đều ở trong diệu pháp sinh ra tâm tin hiểu, không những tin mà còn hiểu rõ. Các Ngài thường tu hành nghiên cứu với nhau, dũng mãnh tinh tấn không giải đãi. Các Ngài cùng trang nghiêm tất cả cung điện, trên đây là chúng thứ mười chín Chủ Thần Ban Ngày.
Ở trên đã giảng xong mười chín chúng tạp loại, bây giờ ở dưới đây bắt đầu giảng tám chúng Bát bộ Tứ Vương.
Lại có vô lượng A Tu La Vương. Ðó là : A Tu La Vương La Hầu. A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða La. A Tu La Vương Xảo Huyễn Thuật. A Tu La Vương Ðại Quyến Thuộc. A Tu La Vương Ðại Lực. A Tu La Vương Biến Chiếu. A Tu La Vương Kiên Cố Hạnh Diệu Trang Nghiêm. A Tu La Vương Quảng Ðại Nhân Huệ. A Tu La Vương Xuất Hiện Thắng Ðức. A Tu La Vương Diệu Hảo Âm Thanh.
Bây giờ giải thích chúng Bát bộ Tứ Vương (tám bộ bốn vua), Bát bộ tức là :
1. A Tu La Vương.
2. Ca Lâu La Vương.
3. Khẩn Na La Vương.
4. Ma Hầu La Già Vương.
5. Dạ Xoa Vương.
6. Long Vương.
7. Cưu Bàn Trà Vương.
8. Càn Thát Bà Vương.
Tứ Vương tức là:
1. Phương bắc Ða Văn Thiên Vương.
2. Phương tây Quảng Mục Thiên Vương.
3. Phương nam Tăng Trưởng Thiên Vương.
4. Phương đông Trì Quốc Thiên Vương.
Mỗi vị thống lãnh hai bộ chúng.
Lại có vô lượng A Tu La Vương. A Tu La dịch là “phi thiên”. Vì chúng có phước trời, mà chẳng có đức trời. Tại sao chẳng có đức trời ? Vì trong quá khứ chúng chuyên môn hiềm kỵ người khác, tức là tâm không ngay thẳng, dùng tâm giả dối đi ca ngợi người khác, khiến cho họ hoan hỷ, cho nên chẳng có đức trời.
A Tu La còn dịch là “không đoan chánh”. Vì tướng mạo của chúng không đoan chánh. Người nam thì tướng mạo xấu xí, người nữ thì tướng mạo xinh đẹp.
A Tu La còn dịch là “vô tửu” (không có rượu) người nam rất thích uống rượu, thích đấu tranh, nếu có rượu thì phát sinh chiến tranh, cho nên chẳng có rượu để uống. A Tu La có bốn thứ đó là :
1. A Tu La ở trên trời. Thường tác chiến với chư thiên. Vì A Tu La Vương muốn làm chủ Trời Ðạo Lợi. Tay của vị này có thể lay động núi Tu Di, làm cho cung điện của trời Ðế Thích, chấn động không được yên. Trời Ðế Thích mới xuất lãnh Tứ Thiên Vương làm tiên phong, giao chiến với nhau, nhưng thường đánh không thắng, mới cầu cứu Ðức Phật. Ðức Phật mới dạy niệm câu : “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật”, do đó mới thắng được A Tu La Vương. Con gái của Vua A Tu La dâng cho trời Ðế Thích làm vợ, hai bên hòa đàm với nhau.
2. A Tu La ở trong loài người. Chúng chuyên đố kỵ, rất cao hứng đối với bất cứ việc gì, đều có tâm tranh cường háo thắng, thắng thì vui, thua thì sân hận, nổi gió làm sóng, thường xảy ra chiến tranh.
3. A Tu La ở trong loài súc sinh. Thích đấu tranh ỷ mạnh hiếp yếu, lấy lớn khinh nhỏ.
4. A Tu La ở trong loài ngạ quỷ. Cũng lại như thế. Bất cứ trong loài nào, cũng đều có tâm đấu tranh, tâm thắng phụ, tức là có tâm tranh cường luận thắng.
Cung điện của A Tu La tại núi Kim Cang, tuy nhiên là ma, nhưng mỗi ngày ba thời, phải chịu khổ hình đao bén từ không trung bay vào trong cung, nếu không tránh thì sẽ bị giết hại, cho nên muốn làm chủ Trời Ðao Lợi.
Vị A Tu La Vương thứ nhất tên là La Hầu. Dịch là “nhiếp não”. Vì vị này có thể dùng hai tay che mặt trời, mặt trăng, làm cho đen tối, khiến cho chư thiên oán nộ, cho nên được tên này.
Vị A Tu La Vương thứ hai tên là Tỳ Ma Chất Ða La. Tỳ Ma dịch là “ti” (sợi tơ). Chất Ða La dịch là “đủ thứ”, vì vị này dùng một sợi tơ, biến ra đủ thứ hình tướng vật thể chẳng giống nhau, cho nên được tên này.
Vị A Tu La Vương thứ ba tên là Xảo Huyễn Thuật. Vì vị này dùng huyễn thuật xảo diệu tự có hóa không, tự không hóa có, lúc thì hiện hòn núi cao, khi thì hiện biển lớn, còn có thể dời núi lấp biển, làm cho mặt trời mặt trăng biến đổi lẫn nhau, thiên biến vạn hóa như vậy, làm cho người sinh ra huyễn giác, cho nên được tên này.
Vị A Tu La Vương thứ tư tên là Ðại Quyến Thuộc. Vì vị này thích nhất là quyến thuộc, càng nhiều càng tốt, cho nên được tên này.
Vị A Tu La Vương thứ năm tên là Ðại Lực. Vì khí lực của vị này lớn vô cùng, một tay có thể nâng núi Tu Di lên, cho nên được tên này.
Vị A Tu La Vương thứ sáu tên là Biến Chiếu. Vì vị này có một loại quang minh, sáng hơn so với ánh sáng mặt trời, chiếu khắp mười phương cho nên được tên này.
Vị A Tu La Vương thứ bảy tên là Kiên Cố Hạnh Diệu Trang Nghiêm. Vì hạnh nguyện của vị này kiên cố, mà còn trang nghiêm tốt đẹp, cho nên được tên này.
Vị A Tu La Vương thứ tám tên là Quảng Ðại Nhân Huệ. Vì vị này lúc còn ở tại nhân đîa, thì tu trí huệ rộng lớn, cho nên được tên này.
Vị A Tu La Vương thứ chín tên là Xuất Hiện Thắng Ðức. Vì vị này có đức hạnh đặc biệt thù thắng, luôn luôn hiển hiện, làm cho chúng sanh thấy được, thì biết là vị này có đức hạnh, cho nên được tên này.
Vị A Tu La Vương thứ mười tên là Diệu Hảo Âm Thanh. Vì âm thanh của vị này rất hay, êm tai vô cùng, làm cho người nghe đều sinh tâm vui vẻ, cho nên được tên này.
Có vô lượng A Tu La Vương như vậy làm thượng thủ. Các vị đó đều siêng năng tinh tấn, phá trừ ngã mạn và các phiền não.
Mười vị A Tu La Vương này, làm thượng thủ trong vô lượng vô biên A Tu La Vương, ngoài ra còn nhiều không thể tính đếm được.
Các A Tu La Vương đều có tâm ngã mạn. Nhưng những vị A Tu La Vương này, họ rất tinh tấn siêng tu Phật đạo, y giáo phụng hành, theo pháp tu học, cho nên dẹp phá được tập khí ngã mạn, dập tắt vô minh. Chẳng còn vô minh, tất cả phiền não cũng theo đó mà dứt trừ. Trên đây là chúng thứ nhất A Tu La Vương.
Lại có vô số Ca Lâu La Vương không thể nghĩ bàn. Ðó là : Ca Lâu La Vương Ðại Tốc Tật Lực. Ca Lâu La Vương Vô Năng Hoại Bảo. Ca Lâu La Vương Thanh Tịnh Tốc Tật. Ca Lâu La Vương Tâm Bất Thối Chuyển. Ca Lâu La Vương Ðại Hải Xứ Nhiếp Trì Lực. Ca Lâu La Vương Kiên Cố Tịnh Quang. Ca Lâu La Vương Xảo Nghiêm Quan Kế. Ca Lâu La Vương Phổ Tiệp Thị Hiện. Ca Lâu La Vương Phổ Quán Hải. Ca Lâu La Vương Phổ Âm Quảng Mục.
Lại có vô số Ca Lâu La Vương không thể nghĩ bàn. Ca Lâu La dịch là “kim sí” (chim cánh vàng). Vì cánh của loài chim này, sáng chói giống như vàng thật. Lại dịch là “diệu sí”, cánh của nó dùng đủ loại sắc đẹp để trang nghiêm, ở trong ánh sáng mặt trời phản xạ xuống, phóng ra vạn luồng ánh sáng vàng. Lại dịch là “đại tố hạng”, loài chim này khi ăn vật gì thì đều đem con mồi để vào trong bụng, để đó từ từ tiêu hóa.
Loài chim này gọi là Ðại Bàng Kim Sí Ðiểu (chim Ðại Bàng cánh vàng), to lớn cỡ nào ? Thân thể của nó lớn như tòa núi lớn. Cánh của nó xòe ra khoảng, ba trăm ba mươi đại do tuần (một do tuần dài tám mươi dặm). Khi nó quạt cánh, thì nước biển rẽ làm hai bắt rồng ăn. Loài chim này chuyên môn ăn rồng. Mỗi ngày phải ăn một con rồng lớn, năm trăm con rồng nhỏ. Khi nó ăn rồng thì trước hết nuốt đuôi rồng vào trong bụng, từ từ tiêu hóa.
Long Vương (vua rồng) rất lo âu, vì quyến thuộc của loài rồng càng ngày càng bớt đi, sẽ diệt chủng, cho nên đi các nơi cầu cứu, nhưng ai nấy đều bó tay. Có người nói với ông ta nên đi gặp Ðức Phật. Long Vương bèn đến chốn Phật, cầu Phật từ bi, che chở cho rồng con, rồng cháu, để khỏi tuyệt chủng loài rồng.
Ðức Phật nói với Long Vương : ‘’Nếu các nhà ngươi giữ được Bát Quan Trai giới, thì chim Ðại Bàng không ăn các ngươi nữa.’’ Do đó Long Vương dẫn quyến thuộc đến chốn Phật, thọ Bát Quan Trai giới. Thọ giới rồi, Phật cho mỗi con rồng một sợi tơ áo Cà Sa cột vào thân. Từ đó về sau, chim Ðại Bàng không còn cách chi ăn rồng được nữa.
Nhưng chim Ðại Bàng không có vật thực để ăn. Y cũng đến chốn Phật khẩn cầu nói : ‘’Chúng tôi hôm nay lấy gì để ăn ? ‘’ Ðức Phật nói : ‘’Ta sẽ dạy đệ tử của ta, khi đến bữa trưa ăn cơm, thì trước hết đem ít cơm thí cho các ngươi.’’ Cho nên bây giờ các Chùa khi cúng ngọ, thì đều đem ít cơm thí cho chúng. Ðó là lòng từ bi của Phật, độ hóa loài rồng và chim Ðại Bàng sống hòa bình với nhau.
Chim và rồng đều có bốn thứ sinh, chim sinh bằng trứng không thể ăn rồng hóa sinh, cũng không thể ăn rồng sinh bằng thai, thấp sinh (sinh bằng ẩm ướt), chỉ ăn được rồng sinh bằng trứng.
Chim hóa sinh mới ăn được rồng sinh bằng : thai, thấp, hóa, noãn.
Chim đại bàng ở tại núi Kim Cang, cung điện của chúng dùng bảy báu để trang nghiêm. Khi chúng muốn chết thì không thể ăn rồng, tại sao ? Vì thân thể rồng có chất độc. Bình thường chim Ðại Bàng ăn rồng, thì không sợ chất độc, nhưng khi chúng gần chết, thì thân rồng phóng ra chất độc bắn vào mắt, khiến cho mắt không thể mở được, thì không thể bắt rồng để ăn. Bị đói thật khó mà chịu được, bèn nghỉ ngơi trên cây Thiết Thụ. Ðến khi không thể chịu được nữa thì lại bay đến biển tìm rồng để ăn, rồng lại phóng chất độc, y lại chạy đi, cứ như thế đến bảy lần, cuối cùng thể lực kiệt sức, chất độc phát ra mà chết.
Lúc bấy giờ, thi thể của chim Ðại Bàng bị lửa độc thiêu, giống như hỏa diệm sơn bộc phát, thiêu hết tất cả chất cứng chảy ra thành nước. Long Vương Nan Ðà sợ Bảo Sơn (núi báu) bị hủy hoại, bèn làm xuống một trận mưa lớn, hạt mưa lớn như bánh xe để dập tắt ngọn lửa. Bây giờ toàn thân của chim Ðại Bàng đã thành tro, chỉ còn quả tim không bị thiêu hủy, trở thành hạt châu báu, ánh sáng màu lưu ly óng ánh rất đẹp. Vua Chuyển Luân Thánh Vương được hạt châu này, gọi là châu Như Ý, vua Trời Ðế Thích được châu này gọi là Dạ Minh châu.
Trong phẩm Xuất Hiện có bài kệ rằng :
“Bồ Tát Ca Lâu La,
Như ý vi kiên túc,
Phương tiện dũng mãnh sí,
Từ bi thanh tịnh nhãn,
Trụ nhất thiết trí thụ,
Quán tam hữu đại hải,
Bạt tróc thiên nhân long,
Án chí Niết Bàn ngạn”.
Qua bài kệ này đủ thấy, chim Ðại Bàng cũng là Bồ Tát thị hiện, để điều phục tất cả chúng sinh. Cho nên ý nghĩa bài kệ trên mới nói : Bồ Tát Ðại Bàng Kim Sí Ðiểu, toại tâm như ý, bay lượn trong không trung, chân rất kiên cố phi thường, cánh phương tiện rất dũng mãnh, cặp mắt rất từ bi và trong sáng. Tuy nhiên chuyên ăn rồng, nhưng chỉ ăn rồng sắp chết. Trước mắt thì bị chim Ðại Bàng ăn, nhưng thực tế thì hóa độ rồng, khiến cho chúng không còn thọ khổ trong luân hồi nữa, mà thẳng đến bờ bên kia. Cây của chim Ðại Bàng ở gọi là cây Trí Huệ. Y quán sát dục giới, sắc giới và vô sắc giới ba cõi biển cả, bắt rồng ở trên trời hoặc rồng ở nhân gian, độ chúng đến bờ Niết Bàn bên kia.
Cảnh giới này chẳng phải phàm phu chúng ta biết được, người không chứng quả thì không thể tin đạo lý này, đợi khi chứng quả rồi mới biết là như thế. Ðức Phật là người chứng được vô thượng chánh đẳng chánh giác, tuyệt đối không nói dối, cảnh giới này là ngàn chân vạn thật.
Vị Ca Lâu La Vương thứ nhất tên là Ðại Tốc Tật Lực. Vì sức lực của vị này không những mạnh mà còn rất nhanh. Vị này ở trên núi Kim Cang, cây Thiết Thụ, xem thấy rồng trong biển xuất hiện, thì vỗ cánh quạt nước biển rẽ ra, bắt lấy rồng, rồi trở về cây Thiết Thụ, nước biển vẫn chưa hòa hợp lại, do đó được tên này.
Vị Ca Lâu La Vương thứ hai tên là Vô Năng Hoại Bảo Kế. Vì bảo kế của vị này rất kiên cố, chẳng có cách chi phá hoại được, càng không có sức để phá hoại, do đó được tên này.
Vị Ca Lâu La Vương thứ ba tên là Thanh Tịnh Tốc Tật. Vì thân thể của vị này thanh tịnh, bay đi rất nhanh, trong một sát na bay hơn mười vạn tám ngàn dặm, do đó được tên này.
Vị Ca Lâu La Vương thứ tư tên là Tâm Bất Thoái Chuyển. Vì vị này đắc được pháp vĩnh viễn không thối chuyển A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề, đắc được : Niệm bất thối, hạnh bất thối, vị bất thối, do đó được tên này.
Vị bất thối : Ðã chứng được vị đại Bồ Tát, thì không thể thối về vị A La Hán. Ðã phát bồ đề tâm, thì không thể thối về vị A La Hán hoặc là vị phàm phu.
Niệm bất thối : Chuyên tâm nhất ý tu thiền định, tư tưởng không thối chuyển. Chẳng giống chúng ta suốt ngày đến tối, chuyên khởi vọng tưởng, thấy lạ muốn đổi, hôm nay tu thiền, mai tu tịnh, mốt tu giáo, hoặc tu luật, thậm chí tu mật, kết quả chẳng có pháp nào thành tựu. Cho nên tu hành phải chuyên nhất.
Hành bất thối : Phải dũng mãnh tinh tấn tu hành, càng ngày càng tiến bộ, tức là tu hành càng tu hành, tinh tấn càng tinh tấn, đó là tu hành không thối chuyển.
Vị Ca Lâu La Vương thứ năm tên là Ðại Hải Xứ Nhiếp Trì Lực. Vì vị này có thể nhiếp trì tất cả nước sông ngòi ao hồ, chảy vào biển cả, lại có thể ở trong không trung, thu nhiếp rồng vào trong miệng, do đó được tên này.
Vị Ca Lâu La Vương thứ sáu tên là Kiên Cố Tịnh Quang. Vì thân thể của vị này cứng chắc phi thường, và có quang minh thanh tịnh, quang minh này có thể chiếu thấu trong biển, nhìn thấy chỗ của rồng ở, do đó được tên này.
Vị Ca Lâu La Vương thứ bảy tên là Xảo Nghiêm Quan Kế. Vì quan kế của vị này rất trang nghiêm tốt đẹp, quan kế của các Vua Ca Lâu La kia chẳng thể sánh được, do đó được tên này.
Vị Ca Lâu La Vương thứ tám tên là Phổ Tiệp Thị Hiện. Vì vị này có thể thị hiện tất cả các nơi, mà còn nhanh nhẹn khắp cùng, do đó được tên này.
Vị Ca Lâu La Vương thứ chín tên là Phổ Quán Hải. Vì vị này có mắt từ bi và thanh tịnh, quán sát được trong ba cõi biển cả, rồng lớn ở đâu, rồng nhỏ ở đâu ? Nhìn thấy rất rõ ràng, do đó được tên này.
Vị Ca Lâu La Vương thứ mười tên là Phổ Âm Quảng Mục. Vì âm thanh của vị này như sấm sét, rồng ở trong biển mà nghe được tiếng hống này, thì hồn phi phách tán, không dám động đậy, vì sợ bị bắt ăn. Cặp mắt của vị này đặc biệt to lớn, thân ở núi Kim Cang, mà mắt quán sát rồng trong bốn biển, do đó được tên này.
Có vô số Ca Lâu La Vương không thể nghĩ bàn như vậy làm thượng thủ. Các vị Ca Lâu La Vương này, đã thành tựu sức đại phương tiện, cứu độ nhiếp hết thảy tất cả chúng sinh.
Mười vị Ca Lâu La Vương này làm thượng thủ, đại biểu cho vô lượng Ca Lâu La Vương, số nhiều vô lượng không thể nghĩ bàn.
Những vị Ca Lâu La Vương này, đã hoàn toàn thành tựu sức đại phương tiện, đều là đại Bồ Tát thị hiện. Một số Bồ Tát chẳng có sức đại phương tiện như thế. Chúng bắt rồng ăn là hóa độ rồng, ăn voi là hóa độ voi, ăn ngựa là hóa độ ngựa, ăn cá là hóa độ cá, tóm lại ăn loài gì thì hóa độ loài đó, dùng phương tiện ăn để hóa độ chúng sinh. Thực ra chẳng phải ăn mà là cứu độ, là nhiếp trì. Tại sao ? Vì đáng chết cho nên mới ăn, tức là có thể đến bờ Niết Bàn. Ở trên là chúng thứ hai Ca Lâu La Vương.
Lại có vô lượng Khẩn Na La Vương. Ðó là : Khẩn Na La Vương Thiện Huệ Quang Minh Thiên. Khẩn Na La Vương Diệu Hoa Tràng. Khẩn Na La Vương Chủng Chủng Trang Nghiêm. Khẩn Na La Vương Duyệt Ý Hống Thanh. Khẩn Na La Vương Bảo Thụ Quang Minh. Khẩn Na La Vương Kiến Giả Hân Lạc. Khẩn Na La Vương Tối Thắng Quang Trang Nghiêm. Khẩn Na La Vương Vi Diệu Hoa Tràng. Khẩn Na La Vương Ðộng Ðịa Lực. Khẩn Na La Vương Nhiếp Phục Ác Chúng.
Lại có vô lượng vô biên Khẩn Na La Vương. Khẩn Na La Vương dịch là “phi nhân”. Vì tướng mạo của chúng giống như người, ngũ quan đoan chánh, nhưng trên đầu sinh ra một cái sừng, cho nên chẳng phải người. Lại dịch là “nghi thần”. Vì trên đầu có sừng, làm cho người thấy sinh nghi, cho rằng là thần. Lại dịch là “ca Thần”. Chúng là Thần tấu âm nhạc cho trời Ðế Thích, trên cung trời có pháp hội, thì hai nách của chúng tự động chảy mồ hôi, liền biết là trời Ðế Thích muốn tấu âm nhạc, bèn lên cung trời vì chư thiên đàn tấu âm nhạc khúc điệu trang nghiêm.
Những vị Khẩn Na La Vương này, cũng là Bồ Tát thị hiện, đến tất cả các pháp hội ca xướng tấu nhạc, khiến cho người nghe sinh tâm niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng mà ngộ đạo.
Vị Khẩn Na La Vương thứ nhất tên là Thiện Huệ Quang Minh. Vì vị này khéo độ tất cả chúng sinh, làm cho chúng sinh khai mở đại trí huệ, đắc được quang minh, cho nên được tên này.
Vị Khẩn Na La Vương thứ hai tên là Diệu Hoa Tràng. Vì vị này có tràng hoa sen vi diệu, rất trang nghiêm cho nên được tên này.
Vị Khẩn Na La Vương thứ ba tên là Chủng Chủng Trang Nghiêm. Vì vị này dùng đủ thứ bảy báu để nghiêm sức cho nên được tên này.
Vị Khẩn Na La Vương thứ tư tên là Duyệt Ý Hống Thanh. Vì âm thanh của vị này như tiếng hống, khiến cho người nghe đều vừa ý cho nên được tên này.
Vị Khẩn Na La Vương thứ năm tên là Bảo Thụ Quang Minh. Vì bảo thụ của vị này phóng ra quang minh giác cho nên được tên này.
Vị Khẩn Na La Vương thứ sáu tên là Kiến Giả Hân Lạc. Vì tướng mạo từ bi cát tường của vị này rất trang nghiêm, ai thấy cũng đều sinh tâm hoan hỷ, cho nên được tên này.
Vị Khẩn Na La Vương thứ bảy tên là Tối Thắng Quang Trang Nghiêm. Vì vị này dùng quang minh tối thù thắng để trang nghiêm tất cả mọi nơi, cho nên được tên này.
Vị Khẩn Na La Vương thứ tám tên là Vi Diệu Hoa Tràng. Vì vị này có tràng hoa sen vi diệu không thể nghĩ bàn, cho nên được tên này.
Vị Khẩn Na La Vương thứ chín tên là Ðộng Ðịa Lực. Vì mỗi cử chỉ hành động của vị này, khiến cho đại địa chấn động, cho nên được tên này.
Vị Khẩn Na La Vương thứ mười tên là Nhiếp Phục Ác Chúng. Vì vị này nhiếp phục được tất cả chúng sinh ác tính, khiến cho họ cải tà quy chánh, cho nên được tên này.
Có vô lượng Khẩn Na La Vương như vậy làm thượng thủ. Các vị Khẩn Na La Vương này, đều siêng năng tinh tấn, quán tất cả các pháp, tâm luôn luôn khoái lạc du hí tự tại.
Mười vị Khẩn Na La Vương này, đều làm thượng thủ trong vô lượng vô biên Khẩn Na La Vương, ngoài ra còn có vô lượng nhiều không thể tính đếm được.
Những vị Khẩn Na La Vương này, đều rất dũng mãnh tinh tấn, không giải đãi mà luôn luôn quán sát tất cả các pháp, trong tâm luôn khoái lạc, đem tất cả Phật pháp mình đã hiểu giáo hóa cho họ cũng hiểu. Chẳng có tâm đố kỵ, đó là du hí tự tại. Ở trên là chúng thứ ba Khẩn Na La Vương.
Lại có vô lượng vô biên Ma Hầu La Già Vương. Ðó là : Ma Hầu La Già Vương Thiện Huệ. Ma Hầu La Già Vương Thanh Tịnh Oai Âm. Ma Hầu La Già Vương Thắng Huệ Trang Nghiêm Kế. Ma Hầu La Già Vương Diệu Mục Chủ. Ma Hầu La Già Vương Như Ðăng Tràng Vi Chúng Sở Quy. Ma Hầu La Già Vương Tối Thắng Quang Minh Tràng. Ma Hầu La Già Vương Sư Tử Ức. Ma Hầu La Già Vương Chúng Diệu Trang Nghiêm Âm. Ma Hầu La Già Vương Tu Di Kiên Cố. Ma Hầu La Già Vương Khả Ái Lạc Quang Minh.
Lại có vô lượng vô biên Ma Hầu La Già Vương. Ma Hầu La Già Vương dịch là “đại phục hành”. Vì chúng chẳng có chân, chỉ dùng bụng để đi, tức cũng là đại mãng xà. Chúng đều là Bồ Tát thị hiện, cố ý hiện ra đại phục hành. Ðó là biểu thị sự từ bi của Bồ Tát, vì hạnh môn lợi kẻ khác mà thị hiện, không chấp trước hình tướng của mình. Cho nên hiện ra hình tướng Bát bộ.
Ðại phục hành còn gọi là “địa long”, chúng chẳng có thần thông, nhưng độc hại người. Tuy nhiên hại người, nhưng chịu cảm hóa của Phật pháp mà làm thần hộ pháp. Phàm là người có tâm đố kỵ, đời sau sẽ chiêu cảm làm loài này. Hoàng hậu của vua Lương Võ Ðế, vì sinh tâm đố kỵ, cho nên sau khi chết đọa làm đại mãng xà.
Vị Ma Hầu La Già Vương thứ nhất tên là Thiện Huệ. Vì vị này có trí huệ thiện, lại có tri thức thiện, nên được tên này.
Vị Ma Hầu La Già Vương thứ hai tên là Thanh Tịnh Oai Âm. Vì âm thanh của vị này không những có oai lực mà còn thanh tịnh, cho nên được tên này.
Vị Ma Hầu La Già Vương thứ ba tên là Thắng Huệ Trang Nghiêm Kế. Vì vị này có trí huệ thù thắng, lại có diệu kế trang nghiêm nhiều thứ báu, cho nên được tên này.
Vị Ma Hầu La Già Vương thứ tư tên là Diệu Mục Chủ. Vì mắt của vị này rất vi diệu và trang nghiêm mỹ lệ, thành chủ của ngũ quan, cho nên được tên này.
Vị Ma Hầu La Già Vương thứ năm tên là Như Ðăng Tràng Vi Chúng Sở Quy. Vì vị này thường phóng quang minh, giống như đèn sáng mà thành tràng, làm chỗ quy y và ngưỡng vọng cho đại chúng, cho nên được tên này.
Vị Ma Hầu La Già Vương thứ sáu tên là Tối Thắng Quang Minh Tràng. Vì vị này có tràng báu thù thắng nhất và sáng nhất. Tràng báu này giống như lưới La Tràng cung điện trời Ðế Thích, ánh sáng này chiếu ánh sáng kia, lỗ này thông với lỗ kia, trùng trùng vô tận cho nên được tên này.
Vị Ma Hầu La Già Vương thứ bảy tên là Sư Tử Ức. Vì tâm của vị này khoan hồng đại lượng, như tấm lòng của sư tử, nhẫn được việc khó nhẫn, cho nên được tên này.
Vị Ma Hầu La Già Vương thứ tám tên là Chúng Diệu Trang Nghiêm Âm. Vì âm thanh của vị này thanh tao hòa nhã, rất êm tai, dùng tất cả diệu báu để trang nghiêm, cho nên được tên này.
Vị Ma Hầu La Già Vương thứ chín tên là Tu Di Kiên Cố. Vì thân thể của vị này rất cao, kiên cố như núi Tu Di, cho nên được tên này.
Vị Ma Hầu La Già Vương thứ mười tên là Khả Ái Lạc Quang Minh. Vì trên thân của vị này phóng ra một thứ quang minh, khiến cho người thấy được sinh tâm vui thích đáng ưa, cho nên được tên này.
Có vô lượng Ma Hầu La Già Vương như vậy làm thượng thủ. Các vị này đều siêng năng tu tập, phương tiện rộng lớn, khiến cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn cắt đứt lưới ngu si.
Mười vị Ma Hầu La Già Vương này, làm thượng thủ trong chúng Ma Hầu La Già Vương, ngoài ra còn có vô lượng vô biên Ma Hầu La Già Vương không thể tính đếm được.
Những vị Ma Hầu La Già Vương này, đều siêng năng tu tập pháp phương tiện rộng lớn. Khiến cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn cắt đứt lưới ngu si, không còn bị trói buộc, mà đắc được trí huệ tự tại. Ở trên là chúng thứ tư Ma Hầu La Già Vương.
Lại có vô lượng Dạ Xoa Vương. Ðó là : Dạ Xoa Vương Tỳ Sa Môn. Dạ Xoa Vương Tự Tại Âm. Dạ Xoa Vương Nghiêm Trì Khí Trượng. Dạ Xoa Vương Ðại Trí Huệ. Dạ Xoa Vương Diệm Nhãn Chủ. Dạ Xoa Vương Kim Cang Nhãn. Dạ Xoa Vương Dũng Kiện Tý. Dạ Xoa Vương Dũng Ðịch Ðại Quân. Dạ Xoa Vương Phú Tư Tài. Dạ Xoa Vương Lực Hoại Cao Sơn.
Phương Bắc Thiên Vương tên là Tỳ Sa Môn dịch là “đa văn”. Vì phước đức của vị này danh truyền khắp bốn phương, cho nên được tên này. Vị này quản lý hai bộ chúng, một là Dạ Xoa (quỷ nam) hai là La Sát (quỷ nữ).
Dạ Xoa là tên của loài quỷ dịch là “tiệp khoái”, vì hành động của chúng rất cấp tốc, mau chóng. Lại dịch là “khổ hoạt”, vì sự sinh hoạt của chúng rất khổ sở. Dạ Xoa có rất nhiều loại, như : Dạ Xoa đi trên không, Dạ Xoa đi dưới đất .v.v.
Dạ Xoa không hành (đi trên không) có hai cánh dài, bay được ở trong không trung, thiên biến vạn hóa, có khi hiện màu đỏ, có khi hiện màu lam, có khi hiện màu vàng, bất cứ là màu gì, cũng đều có một thứ ánh sáng đen tối, thứ ánh sáng này rất lợi hại. Thân thể của chúng có khi biến làm thân người đầu thú, hoặc đầu trâu, bò, ngựa .v.v., làm cho người sợ hãi. Chúng rất thích làm nhiễu loạn người.
Dạ Xoa đi dưới đất, càng làm cho người khiếp sợ. Ðầu tóc của chúng màu lửa ngọn, cao mấy trượng. Mắt thì một con ở trên đảnh môn, một con ở dưới lông mày, hình thù rất quái dị, hoặc là hình tam giác, hoặc là hình bán nguyệt. Còn lỗ mũi thì một lỗ hướng lên trời, một lỗ hướng xuống đất, giống như xúc giác của con sên, có khi duỗi ra có khi rụt vào. Còn lỗ tai thì một lỗ ở trước, một lỗ ở sau, hình thù thật là khiếp sợ, khiến cho người thấy phải khiếp vía. Chúng chẳng thích giúp đỡ người, chuyên môn muốn hại người.
La Sát cũng là tên của loài quỷ. La Sát dịch là “đáng sợ”. Vì chúng thường làm cho người phá giới, làm tổn hại huệ mạng, cho nên được tên này. La Sát có hai loài, một loài gọi là Ái La Sát, một loài gọi là Kiến La Sát.
Sự tác quái của Ái La Sát ví như người muốn tu hành, căn bản cũng có chánh tri chánh kiến. Nhưng mê tình quá sâu nặng, bị nước ái trói buộc, vì sức mạnh của ái trói buộc, cho nên ý niệm trước thì muốn tu hành, ý niệm sau thì muốn kết hôn ; trong một niệm khởi, một niệm diệt. Vì bị sức mạnh của ái tình trói buộc quá lợi hại, do đó mà phá giới. Ðó là Ái La Sát tác quái, làm cho người tu đạo chẳng có định lực.
Kiến La Sát là tà tri tà kiến, không đúng cũng nói đúng, không thừa nhận chỗ sai lầm, phạm giới lại nói không phạm. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói rằng : Tỳ Kheo Ni Bảo Liên Hương nói dâm dục chẳng phải sát sinh, chẳng phải trộm cắp, chẳng có nghiệp báo, sau bị đọa vào địa ngục vô gián. Thứ tư tưởng này giống như La Sát thật đáng sợ.
Lại có vô lượng vô biên Dạ Xoa Vương, loài Dạ Xoa này bay trên không ăn người, cho nên Bồ Tát thị hiện làm vua của chúng, quản lý Ái La Sát và Kiến La Sát không cho hại pháp thân huệ mạng của người.
Vị Dạ Xoa Vương thứ nhất tên là Tỳ Sa Môn. Vì vị này quản lý những Dạ Xoa không giữ quy cụ, cấm Dạ Xoa gây tai họa cho người, cho nên được tên này.
Vị Dạ Xoa Vương thứ hai tên là Tự Tại Âm. Vì âm thanh của vị này rất tự tại phi thường, bất cứ âm điệu gì cũng đều có thể biểu diễn được cho nên được tên này.
Vị Dạ Xoa Vương thứ ba tên là Nghiêm Trì Khí Trượng. Vì vị này rất trang nghiêm và cầm giữ vũ khí và nghi trượng, cho nên được tên này.
Vị Dạ Xoa Vương thứ tư tên là Ðại Trí Huệ. Vì vị này có đại trí huệ, quán sát được vọng tưởng của Da Xoa và La Sát đang hại người, cấm chúng hành động, nên được tên này.
Vị Dạ Xoa Vương thứ năm tên là Diệm Nhãn Chủ. Vì con mắt của vị này phát ra ánh sáng như lửa ngọn, khiến cho Dạ Xoa và La Sát sinh tâm sợ hãi, cho nên được tên này.
Vị Dạ Xoa Vương thứ sáu tên là Kim Cang Nhãn. Vì mắt của vị này phóng quang giống như đá kim cang, thứ ánh sáng này rất sáng vô cùng, cho nên được tên này.
Vị Dạ Xoa Vương thứ bảy tên là Dũng Kiện Tý. Vì sức mạnh cánh tay của vị này mạnh nhất, có thể dời núi lấp biển, cho nên được tên này.
Vị Dạ Xoa Vương thứ tám tên là Dũng Ðịch Ðại Quân. Vì vị này không những dũng cảm mà còn có trí thao lược, bất cứ có bao nhiêu ma quân đều chống lại được. Vị này biết người biết ta, bách chiến bách thắng, cho nên được tên này.
Vị Dạ Xoa Vương thứ chín tên là Phú Tư Tài. Vì vị này là đại phú ông, có rất nhiếu tiền tài châu báu và vật chất, cho nên được tên này.
Vị Dạ Xoa Vương thứ mười tên là Lực Hoại Cao Sơn. Vì sức lực của vị này lớn vô cùng, một quyền có thể đánh xập núi hoặc chẻ làm hai, cho nên được tên này.
Có vô lượng Dạ Xoa Vương như vậy làm thượng thủ. Các vị Dạ Xoa Vương này, siêng năng bảo hộ tất cả chúng sinh.
Mười vị Dạ Xoa Vương này làm thượng thủ trong chúng Dạ Xoa Vương, ngoài ra còn có vô lượng vô biên, không thể tính đếm được.
Những vị Dạ Xoa Vương này, không những không gây phiền não cho chúng sinh, mà còn bảo hộ chúng sinh, khiến cho chúng sinh được bình an. Vì chúng đều là Bồ Tát thị hiện, cho nên chẳng giống những Dạ Xoa khác. Ở trên là chúng thứ năm Dạ Xoa Vương.
Lại có vô lượng các Ðại Long Vương. Ðó là : Long Vương Tỳ Lâu Bác Xoa. Long Vương Sa Kiệt La. Long Vương Vân Âm Diệu Tràng. Long Vương Diệm Khẩu Hải Quang. Long Vương Phổ Cao Vân Tràng. Long Vương Ðức Xoa Ca. Long Vương Vô Biên Bộ. Long Vương Thanh Tịnh Sắc. Long Vương Phổ Vận Ðại Thanh. Long Vương Vô Nhiệt Não.
Lại có vô lượng vô số Ðại Long Vương. Long (rồng) thuộc về đường súc sinh, nhưng chúng có thần thông, biến lớn, biến nhỏ ; lớn thì trấn đầy biển cả ; nhỏ thì ẩn tàng ở trong hạt bụi. Lúc ẩn lúc hiện, khi ẩn thì nhìn chẳng thấy, khi hiển thì hiện ra. Chúng có bản lãnh biến hóa vô cùng như vậy, lại có oai lực không thể sánh được. Ðáng lý ra chúng phải sung sướng khoái lạc ! Nhưng chúng cũng có bốn thứ thống khổ :
1. Khổ về làm thức ăn cho chim Ðại Bàng : Thứ chim này chuyên ăn rồng, ngoài mười vạn tám ngàn dặm có thể thấy rồng dưới nước (tức là rồng sắp chết), lập tức bay đến bắt ăn.
2. Hành dâm thì khổ. : Rồng đực rồng cái giao hợp, đuôi thì phải hiện ra hình thể con rắn, sự biến hóa này phải chịu đủ thứ thống khổ.
3. Khổ về trùng : Ở trong da rồng có rất nhiều con trùng nhỏ ăn thịt uống máu, rất ngứa ngáy khó chịu, đó cũng là khổ.
Phương Tây Thiên Vương tên là Tỳ Lâu Bác Xoa, dịch là “quảng mục”, vì cặp mắt của vị này có đủ thứ màu, thấy rộng bốn phương cho nên được tên này. Vị Thiên Vương này quản hạt hai bộ, một là rồng, hai là Phú Ðơn Na.
4. Khổ về cát nóng đốt thân: Vì trong da có trùng, rồng bèn đến bãi cát nóng, dùng cát chà lăn cho hết ngứa, nhưng cát bị ánh nắng mặt trời, do đó cát rất nóng, khiến cho rồng cũng khó mà chịu được, đó cũng là khổ.
Rồng có bốn thứ sinh: Sinh bằng thai, bằng trứng, bằng biến hóa và sinh bằng ẩm thấp. Biến hóa thành rồng có năm loài
:
1. Voi hóa rồng.
2. Rắn hóa rồng.
3. Ngựa hóa rồng.
4. Cá hóa rồng.
5. Ếch hóa rồng.
Voi hình rồng, Long Vương Thiện Trụ là chủ. Rắn hình rồng, Long Vương Nan Ðà là chủ. Ngựa hình rồng, Long Vương A Na Bà Ðạt Ða là chủ. Ếch hình rồng, Long Vương Ma Na Tư là chủ. Năm vị Long Vương đại biểu năm hình rồng.
Tâm sân loài rồng rất nặng, thích nóng giận, chuyên phóng chất độc hại người. Vì quá khứ chúng siêng tu pháp đại thừa, cho nên có thần thông, nhưng không giữ giới luật, do đó bị đọa làm súc sinh. Nhiệm vụ của chúng là giữ cung điện cõi trời, nổi mây làm mưa bảo hộ Phật pháp.
Phú Ðơn Na là tên của loài quỷ, dịch là “xú ngạ quỷ”. Trên thân của chúng bay ra một thứ mùi hôi thối, thứ mùi hôi này, nếu người nào hít vào thì sẽ bị sốt nặng, mất tự chủ, mất trí. Chúng dùng pháp thuật này để hại người, cho nên gọi là nhiệt tật quỷ.
Lại có vô lượng vô biên Ðại Long Vương. Những đại Long Vương này đều là đại Bồ Tát thị hiện, để quản lý rồng độc không giữ quy cụ, không để cho chúng nổi gió làm sóng hại người, càng không để cho chúng phun chất độc hại người.
Vị Ðại Long Vương thứ nhất tên là Tỳ Lâu Bác Xoa. Dịch là “quảng mục” là một trong bốn vị Thiên Vương, thống lãnh phương tây. Vì vị này quản lý rồng không giữ giới luật, cho nên được tên này.
Vị Ðại Long Vương thứ hai tên là Sa Kiệt La. Dịch là “hải”. Vì vị này là Hải Long Vương, quản lý tất cả rồng trong biển, cho nên được tên này.
Vị Ðại Long Vương thứ ba tên là Vân Âm Diệu Tràng. Vì vị này phát ra một thứ âm thanh, ở trong hư không biến thành mây hình bảo tràng, cho nên được tên này.
Vị Ðại Long Vương thứ tư tên là Diệm Khẩu Hải Quang. Vì trong miệng của vị này phun ra lửa ngọn, lại ở trong biển phóng quang, cho nên được tên này.
Vị Ðại Long Vương thứ năm tên là Phổ Cao Vân Tràng. Vì vị này hiện ra mây cao khắp hết, giống như tràng báu, cho nên được tên này.
Vị Ðại Long Vương thứ sáu tên là Ðức Xoa Ca. Ðức Xoa dịch là “năng hại”. Ca dịch là “sở hại”. Rồng là năng hại, chúng sinh là sở hại. Khi rồng nổi giận thì bất cứ chúng sinh nào, mà vị này thấy đều sẽ bị độc mà chết. Lại dịch là “đa thiệt”, vì vị này thích nói hơn các rồng khác, cho nên được tên này.
Vị Ðại Long Vương thứ bảy tên là Vô Biên Bộ, chẳng có nơi nào mà vị này chẳng đến được, cho nên được tên này.
Vị Ðại Long Vương thứ tám tên là Thanh Tịnh Sắc. Vì vị này có màu sắc thanh tịnh mà không tạp nhiễm, cho nên được tên này.
Vị Ðại Long Vương thứ chín tên là Phổ Văn Ðại Thanh. Vì âm thanh của vị này rất cao xa diệu vợi, truyền đạt đến khắp bốn phương, cho nên được tên này.
Vị Ðại Long Vương thứ mười tên là Vô Nhiệt Não. Vì vị này đắc được pháp thanh lương, chẳng có nhiệt phiền não, cho nên được tên này.
Có vô lượng số Ðại Long Vương như vậy làm thượng thủ. Các vị Ðại Long Vương này, đều siêng năng tu tập. Nổi mây làm mưa, khiến cho nhiệt não của tất cả chúng sinh đều tiêu diệt.
Mười vị Ðại Long Vương này là đại biểu thượng thủ các Ðại Long Vương khác, ngoài ra còn có vô lượng vô biên Ðại Long Vương.
Những vị Ðại Long Vương này đều siêng năng tinh tấn tu tập Phật pháp. Nhiệm vụ của chúng là nổi mây làm mưa, làm cho chúng sinh tiêu diệt nhiệt não, đắc được thanh lương. Chúng là một trong tám bộ đại hộ pháp thiện thần. Ở trên là chúng thứ sáu Ðại Long Vương.
Lại có vô lượng Cưu Bàn Trà Vương. Ðó là : Cưu Bàn Trà Vương Tăng Trưởng. Cưu Bàn Trà Vương Long Chủ. Cưu Bàn Trà Vương Thiện Trang Nghiêm Tràng. Cưu Bàn Trà Vương Phổ Nhiêu Ích Hành. Cưu Bàn Trà Vương Thậm Khả Bố Úy. Cưu Bàn Trà Vương Mỹ Mục Ðoan Nghiêm. Cưu Bàn Trà Vương Cao Phong Huệ. Cưu Bàn Trà Vương Dũng Kiện Tý. Cưu Bàn Trà Vương Vô Biên Tịnh Hoa Nhãn. Cưu Bàn Trà Vương Quảng Ðại Thiên Diện A Tu La Nhãn.
Thiên Vương phương nam tên là Tỳ Lâu Lặc Xoa. Dịch là “tăng trưởng”. Vì vị này có thể làm cho căn lành của mình và người đều tăng trưởng, cho nên được tên này. Vị này quản lý hai bộ, một là Cưu Bàn Trà, hai là quỷ Yểm Mị.
Cưu Bàn Trà là tên của loài quỷ, dịch là “quỷ đông qua”, vì hình thù giống như đông qua, chẳng có đầu, cũng chẳng có tứ chi. Lại dịch là “úng quỷ”, vì hình thù của chúng như hũ rượu, miệng nhỏ bụng to. Ðây là loài quỷ hại người. Chúng đến các nơi tìm người âm thạnh dương suy để hại. Loài quỷ này khinh suy sợ thạnh. Gặp người dương khí thạnh thì chúng trốn đi ; nếu gặp người dương khí suy thì chúng hại người. Quỷ Yểm Mị chuyên ở trong mộng hại người, làm cho người khiếp sợ vạn phần, mà thân thể không động đậy, loài quỷ này chuyên môn hại thân thể bệnh nhân suy nhược.
Quỷ Mị, thứ quỷ này lợi hại vô cùng, gặp loài vật thì biến thành hình, làm hồ ly tinh, hoặc làm lang sói, hoặc làm mãng xà, chuyên môn trộm tinh khí của người để bổ thân mình. Nếu đối tượng là người nam thì chúng biến thành người nữ ; nếu đối tượng là người nữ thì chúng biến thành người nam. Tóm lại, chúng dùng sắc đẹp để dẫn dụ kẻ khác làm mất đi đồng thể. Cho nên chúng ta là người tu đạo, phải luôn luôn đặc biệt chú ý cẩn thận, đừng để bị hại mà mất đạo nghiệp.
Vị Cưu Bàn Trà Vương thứ nhất tên là Tăng Trưởng. Vì vị này là một trong bốn vị Thiên Vương. Nam Thiên Vương Tăng Trưởng, quản lý Cưu Bàn Trà và quỷ Yểm Mỵ, hai loài quỷ này là bạn tốt với nhau, dựa nhau làm bậy, hợp tác với nhau, chuyên làm việc ác. Vị Thiên Vương này, khiến cho chúng tăng trưởng căn lành, cho nên được tên này.
Vị Cưu Bàn Trà Vương thứ hai tên là Long Chủ. Vì vị này là thủ lãnh trong loài rồng, cho nên được tên này.
Vị Cưu Bàn Trà Vương thứ ba tên là Thiện Trang Nghiêm Tràng. Vì vị này khéo trang nghiêm tràng báu, cho nên được tên này.
Vị Cưu Bàn Trà Vương thứ tư tên là Phổ Nhiêu Ích Hành. Vì vị này nhiêu ích khắp hết thảy chúng sinh, cho nên được tên này.
Vị Cưu Bàn Trà Vương thứ năm tên là Thâm Khả Bố Úy. Vì tướng mặt của vị này rất xấu ác, không những người thấy vị này sinh tâm sợ sệt, mà quỷ thấy vị này cũng sợ hãi vô cùng, cho nên được tên này.
Vị Cưu Bàn Trà Vương thứ sáu tên là Mỹ Mục Ðoan Nghiêm. Vì mắt của vị này rất mỹ lệ và trong sáng, tướng mạo của vị này rất đoan chánh và trang nghiêm, cho nên được tên này.
Vị Cưu Bàn Trà Vương thứ bảy tên là Cao Phong Huệ. Vì trí huệ của vị này rất cao, giống như đỉnh núi cao, cho nên được tên này.
Vị Cưu Bàn Trà Vương thứ tám tên là Dũng Kiện Tý. Vì sức mạnh cánh tay của vị này rất khoẻ và cứng chắc, dũng mãnh kiện tráng, do đó chẳng sợ bất cứ vũ khí gì, cho nên được tên này.
Vị Cưu Bàn Trà Vương thứ chín tên là Vô Biên Tịnh Hoa Nhãn. Vì mắt của vị này thanh tịnh như hoa, chẳng có trần cấu lại có thể phóng vô lượng quang minh, cho nên được tên này.
Vị Cưu Bàn Trà Vương thứ mười tên là Quảng Ðại Thiên Diện A Tu La Nhãn. Vì bộ mặt của vị này rất lớn, mắt là nộ mục (trợn mắt) như mắt của A Tu La, rất đáng sợ giống như nổi sân hận, cho nên được tên này.
Có vô lượng số Cưu Bàn Trà Vương như vậy làm thượng thủ. Các vị này đều siêng năng tu học pháp môn vô ngại, đều phóng đại quang minh.
Mười vị Cưu Bàn Trà Vương này làm thượng thủ trong chúng Cưu Bàn Trà Vương, ngoài ra còn có vô lượng vô biên chẳng thể tính đếm được.
Những vị Cưu Bàn Trà Vương này, đều rất tinh tấn siêng năng tu tập Phật pháp, tu pháp môn vô ngại. Bổn lai chúng là đen tối, bây giờ tu pháp môn vô ngại, cho nên phóng đại quang minh. Ở trên là chúng thứ bảy Cưu Bàn Trà Vương.
Lại có vô lượng Càn Thát Bà Vương. Ðó là : Càn Thát Bà Vương Trì Quốc. Càn Thát Bà Vương Thụ Quang. Càn Thát Bà Vương Tịnh Mục. Càn Thát Bà Vương Hoa Quan. Càn Thát Bà Vương Phổ Âm. Càn Thát Bà Vương Lạc Giao Ðộng Diệu Mục. Càn Thát Bà Vương Diệu Âm Sư Tử Tràng. Càn Thát Bà Vương Phổ Phóng Bảo Quang Minh. Càn Thát Bà Vương Kim Cang Thụ Hoa Tràng. Càn Thát Bà Vương Lạc Phổ Hiện Trang Nghiêm.
Thiên Vương phương đông tên là Ðề Ðầu Lai Thác dịch là “trì quốc”. Vì vị này hộ trì quốc độ, an trụ chúng sinh, cho nên được tên này. Vị này quản lý hai bộ, một là Càn Thát Bà, hai là Tỳ Xá Xà.
Càn Thát Bà là tên của Thần, dịch là “tầm hương”, chúng dùng hương làm thức ăn, thân của chúng cũng tỏa hương thơm. Ðến thời chúng ăn cơm thì ngửi đến thức ăn chay nhà nào thì đến nhà đó tấu nhạc ca xướng, khiến cho họ sinh tâm hoan hỷ mà cung cấp thức ăn, chúng bèn ngửi mùi hương rồi đi.
Lại dịch là “Thần ca”. Chúng là thần ca nhạc của trời Ðế Thích, khi thiên cung có nhạc hội hoặc là yến tiệc, thì chỉ đốt hương trầm thủy chiên đàn thì vị thần này sẽ đến, vì chư thiên mà diễn xướng ca hát.
Hình dáng của Càn Thát Bà, đầu đội mũ tám cạnh, tóc màu sáng đỏ, tướng thân màu thịt đỏ, thể như đại ngưu vương, tay trái cầm ống sáo ống địch (một thứ nhạc cụ), tay phải cầm bảo kiếm, đủ loại oai lực của vị tướng.
Tỳ Xá Xà là tên của loại quỷ, dịch là “ăn tinh khí”, chuyên hút tinh khí của người và ngũ cốc. Chúng ta là người tu đạo, nếu không đoạn dục khử ái, thì loài quỷ này sẽ đến nhiễu loạn. Bạn tu đến trình độ vô lậu, thì chúng chẳng làm gì được bạn. Nếu bạn chưa đến trình độ vô lậu, thì chúng sẽ đến dẫn dụ bạn rỉ lậu, như thế thì đối với chúng có ích, nhưng có hại đối với bạn. Nên nhớ, đừng để mất đạo nghiệp.
Vị Càn Thát Bà Vương thứ nhất tên là Trì Quốc. Vì vị này là một trong bốn vị Thiên Vương. Ðông phương Trì Quốc Thiên Vương, vị này chuyên hộ trì quốc độ được bình an, khiến cho chúng sinh an cư lạc nghiệp, nên được tên này.
Vị Càn Thát Bà Vương thứ hai tên là Thụ Quang. Vì quang minh của vị này phóng ra giống như đại thụ, cho nên được tên này.
Vị Càn Thát Bà Vương thứ ba tên là Tịnh Mục. Vì vị này có cặp mắt thanh tịnh, sáng suốt vô cùng, cho nên được tên này.
Vị Càn Thát Bà Vương thứ tư tên là Hoa Quan. Vì mão của vị này đội dùng hoa làm thành, rất đẹp vô cùng, vừa thơm vừa trang nghiêm, cho nên được tên này.
Vị Càn Thát Bà Vương thứ năm tên là Phổ Âm. Vì âm nhạc của vị này tấu khắp cùng thế gian, các nơi đều nghe được thứ diệu âm này, cho nên được tên này.
Vị Càn Thát Bà Vương thứ sáu tên là Lạc Giao Ðộng Diệu Mục. Vì vị này thích nhảy múa, vừa ca hát vừa nhảy múa. Mắt của vị này rất đẹp, rất được mọi người hoan nghênh, và mọi người đều muốn nhảy múa với vị này, cho nên được tên này.
Vị Càn Thát Bà Vương thứ bảy tên là Diệu Âm Sư Tử Tràng. Vì nhạc phổ do vị này làm ra, tấu lên rất hay và êm tai. Âm thanh của vị này ca oai nghiêm như sư tử tràng, cho nên được tên này.
Vị Càn Thát Bà Vương thứ tám tên là Phổ Phóng Bảo Quang Minh. Vì vị này phóng ra khắp hết thảy quang minh bảy báu, cho nên được tên này.
Vị Càn Thát Bà Vương thứ chín tên là Kim Cang Thụ Hoa Tràng. Vì vị này dùng hoa cây Kim Cang làm thành tràng báu, không những có hương quang mà còn trang nghiêm, cho nên được tên này.
Vị Càn Thát Bà Vương thứ mười tên là Nhạc Phổ Hiện Trang Nghiêm. Vì âm nhạc của vị này tấu, khắp hiện ra rất trang nghiêm, khiến cho người nghe sinh tâm cung kính, cho nên được tên này.
Có vô lượng số Càn Thát Bà Vương như vậy làm thượng thủ. Các vị này đều sinh tâm tin hiểu thâm sâu ở trong pháp đại thừa. Hoan hỷ ái trọng siêng tu không mỏi mệt.
Mười vị Càn Thát Bà Vương này làm thượng thủ trong chúng Càn Thát Bà. Ngoài ra còn có vô lượng vô biên Càn Thát Bà số nhiều không thể tính đếm được.
Những vị Càn Thát Bà Vương này đều tu hành pháp đại thừa. Sinh tâm tin và thấu hiểu rất thâm sâu. Sinh tâm hoan hỷ cho nên ái trọng pháp đại thừa, siêng năng tu pháp đại thừa, không biết mệt mỏi. Ở trên là chúng thứ tám Càn Thát Bà Vương.
Vừa qua đã giảng xong Tám bộ bốn Vương chúng. Dưới đây bắt đầu giảng mười hai chúng chư Thiên thuộc về dục giới và sắc giới.
Mười hai chúng chư thiên thuộc dục giới và sắc giới. Tại dục giới có bảy chúng:
1. Nguyệt Thiên Tử.
2. Nhật Thiên Tử.
3. Tam Thập Tam Thiên Vương.
4. Tu Dạ Ma Thiên Vương.
5. Ðâu Xuất Thiên Vương.
6. Hóa Lạc Thiên Vương.
7. Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương.
Tại Sắc giới có năm chúng :
1. Ðại Phạm Thiên Vương.
2. Quang Âm Thiên Vương .
3. Biến Tịnh Thiên Vương.
4. Quảng Quả Thiên Vương.
5. Ðại Tự Tại Thiên Vương.
Nay lược giới thiệu về thời gian, thọ mạng, thân cao, trọng lượng y phục, của sáu cõi trời thuộc về dục giới.
Thời gian trên trời : Tại nhân gian năm mươi năm, thì bằng một ngày một đêm, ở cõi trời Tứ Thiên Vương. Tại nhân gian một trăm năm, thì bằng một ngày một đêm ở cõi trời Ðao Lợi. Tại nhân gian hai trăm năm, thì bằng một ngày một đêm ở cõi trời Dạ Ma. Tại nhân gian bốn trăm năm, thì bằng một ngày một đêm ở cõi trời Ðâu Suất. Tại nhân gian tám trăm năm, thì bằng một ngày một đêm ở cõi trời Hóa Lạc. Tại nhân gian một ngàn sáu trăm năm, thì bằng một ngày một đêm ở cõi trời Tha Hóa Tự Tại.
Thọ mạng của chư Thiên : Thọ mạng của Tứ Thiên Vương là năm trăm tuổi. Thọ Mạng của chư thiên trời Ðao Lợi là một ngàn tuổi. Thọ mạng của chư thiên trời Dạ Ma là hai ngàn tuổi. Thọ mạng của chư thiên trời Ðâu Suất là bốn ngàn tuổi. Thọ mạng của chư thiên trời Hóa Lạc là tám ngàn tuổi. Thọ mạng của chư thiên trời Tha Hóa Tự Tại là một vạn sáu ngàn tuổi.
Thân của chư thiên : Thân của Tứ Thiên Vương cao nửa dặm. Thân của chư thiên trời Ðao Lợi cao một dặm. Thân của chư thiên trời Dạ Ma cao một dặm rưỡi. Thân của chư thiên trời Ðâu Suất cao hai dặm. Thân của chư thiên trời Hóa Lạc cao hai dặm rưỡi. Thân của chư thiên trời Tha Hóa Tự Tại cao ba dặm.
Trọng lượng y phục của các cõi trời : Y phục của trời Tứ Thiên Vương nặng hai mươi lạng. Y phục của trời Ðao Lợi sáu lạng. Y phục của trời Dạ Ma ba lạng. Y phục của trời Ðâu Suất một lạng rưỡi. Y phục của trời Hóa Lạc một lạng. Y phục của trời Tha Hóa Tự Tại nửa lạng.
Thân cao và thọ mạng của chư thiên sắc giới mười tám cõi trời : Trời thứ nhất là Trời Phạm Chúng, thân cao nửa tiểu do tuần (20 dặm), tuổi thọ nửa tiểu kiếp (tám vạn ba ngàn chín trăm chín mươi tuổi). Trời thứ hai là trời Phạm Phụ, thân cao một tiểu do tuần, thọ mạng một tiểu kiếp. Trời thứ ba trời Ðại Phạm, thân cao một do tuần rưỡi, thọ mạng một kiếp rưỡi. Các cõi trời còn lại lấy đây làm tiêu chuẩn.
Vô sắc giới bốn cõi trời, chư Thiên cõi này chẳng có thân thể, chỉ có tư tưởng, nhưng có thọ mạng : Trời thứ nhất : Trời Không Vô Biên Xứ, thọ mạng hai vạn đại kiếp, còn ba cõi trời còn lại là bốn vạn đại kiếp, tám vạn đại kiếp và mười sáu vạn đại kiếp.
Lại có vô lượng Nguyệt Thiên Tử. Ðó là : Thiên Tử Nguyệt. Thiên Tử Hoa Vương Kế Quang Minh. Thiên Tử Chúng Diệu Tịnh Quang Minh. Thiên Tử An Lạc Thế Gian Tâm. Thiên Tử Thụ Vương Nhãn Quang Minh. Thiên Tử Thị Hiện Thanh Tịnh Quang. Thiên Tử Phổ Du Bất Ðộng Quang. Thiên Tử Tinh Tú Vương Tự Tại. Thiên Tử Tịnh Giác Nguyệt. Thiên Tử Ðại Oai Ðức Quang Minh.
Lại có vô lượng vô biên Nguyệt Thiên Tử. Nguyệt Thiên Tử tức gọi chung là mặt trăng. Nguyệt còn có tên gọi là thái âm, bây giờ phân làm tên gọi mười vị Thiên tử.
Vị Nguyệt Thiên Tử thứ nhất đó là Thiên Tử Nguyệt. Nguyệt nghĩa là khuyết, có lúc thiếu khuyết, vẫn mát vẫn chiếu, biểu thị Bồ Tát đắc được tâm từ bi mát mẻ, chiếu màn đêm sinh tử, khiến cho chúng sinh ra khỏi biển sinh tử.
Vị Nguyệt Thiên Tử thứ hai tên là Hoa Vương Kế Quang Minh. Vì trong hoa vương kế của vị này phóng ra quang minh, chiếu đến thân chúng sinh, khiến cho họ đắc được lợi ích, cho nên được tên này.
Vị Nguyệt Thiên Tử thứ ba tên là Chúng Diệu Tịnh Quang Minh. Vì vị này có quang minh vi diệu thanh tịnh, chiếu sáng chúng sinh, khiến cho họ đắc được trí huệ, cho nên được tên này.
Vị Nguyệt Thiên Tử thứ tư tên là An Lạc Thế Gian Tâm. Vì vị này khiến cho tất cả chúng sinh thế gian đắc được an lạc, cho nên được tên này.
Vị Nguyệt Thiên Tử thứ năm tên là Thụ Vương Nhãn Quang Minh. Vì vị này thanh tịnh quang minh, giống như đại thụ vương, cho nên được tên này.
Vị Nguyệt Thiên Tử thứ sáu tên là Thị Hiện Thanh Tịnh Quang. Vì vị này thị hiện khắp tất cả thế giới, đều có quang minh thanh tịnh, cho nên được tên này.
Vị Nguyệt Thiên Tử thứ bảy tên là Phổ Du Bất Ðộng Quang. Vì vị này chu du khắp mười phương thế giới, mà quang minh chẳng động, cho nên được tên này.
Vị Nguyệt Thiên Tử thứ tám tên là Tinh Tú Vương Tự Tại. Vì vị này là vua trong tinh tú, lại tự tại tiêu dao, cho nên được tên này.
Vị Nguyệt Thiên Tử thứ chín tên là Tịnh Giác Nguyệt. Vì vị này giác hạnh thanh tịnh viên mãn như ánh sáng mặt trăng, cho nên được tên này.
Vị Nguyệt Thiên Tử thứ mười tên là Ðại Oai Ðức Quang Minh. Vì vị này có đại oai đức, đại quang minh, cho nên được tên này.
Có vô lượng số Nguyệt Thiên Tử như vậy làm thượng thủ, các vị đó đều siêng năng hiển hiện tâm bảo của chúng sinh.
Mười vị Nguyệt Thiên Tử này, đều làm thượng thủ trong chúng Nguyệt Thiên Tử. Ngoài ra còn có vô lượng vô biên Nguyệt Thiên Tử không thể tính đếm được.
Những vị Thiên Tử này, đều tinh tấn tu tập Bồ Tát giống như trăng sáng ở trong hư không, tùy nước lắng trong ở trong tâm chúng sinh, liền hiển hiện ra mặt trăng sáng. Do đó có câu :
‘’ Phật pháp như trăng sáng,
Lơ lững trên bầu trời,
Tâm chúng sinh thanh tịnh,
Bóng bồ đề hiện ở trong.’’
Tức là đạo lý “ngàn cái ao nước đều có ngàn mặt trăng”, trên đây là chúng thứ nhất Nguyệt Thiên Tử.
Lại có vô lượng Nhựt Thiên Tử. Ðó là : Thiên Tử Nhựt. Thiên Tử Quang Diệm Nhãn. Thiên Tử Tu Di Quang Khả Uý Kính Tràng. Thiên Tử Ly Cấu Bảo Trang Nghiêm. Thiên Tử Dũng Mãnh Bất Thối Chuyển. Thiên Tử Diệu Hoa Anh Quang Minh. Thiên Tử Tối Thắng Tràng Quang Minh. Thiên Tử Bảo Kế Phổ Quang Minh. Thiên Tử Quang Minh Nhãn. Thiên Tử Trì Thắng Ðức. Thiên Tử Phổ Quang Minh.
Lại có vô lượng vô biên Nhựt Thiên Tử. Nhựt Thiên Tử gọi chung là mặt trời. Bây giờ đại diện gồm có mười vị.
Nhựt Thiên Tử. Nhựt ý nghĩa là “thật”, vì thường sung thật, vừa nóng vừa chiếu sáng, biểu thị trí huệ sở chiếu của Bồ Tát. Nhựt dùng dương đức, Nguyệt dùng âm linh. Một thường phá đen tối, biểu thị căn bản phá hoặc ; một thường mát mẻ, biểu thị đức dày lợi ích vạn vật. Ðó là công đức của Nhựt, Nguyệt (mặt trời, mặt trăng).
Vị Nhựt Thiên Tử thứ nhất tên là Quang Diệm Nhãn. Vì mắt của vị này phóng ra quang minh như lửa ngọn, cho nên được tên này.
Vị Nhựt Thiên Tử thứ hai tên là Tu Di Quang Khả Uý Kính Tràng. Vì vị này có quang minh cao như núi Tu Di, khiến cho người thấy sinh tâm kính sợ, cho nên được tên này.
Vị Nhựt Thiên Tử thứ ba tên là Ly Cấu Bảo Trang Nghiêm. Vì vị này có bảo châu khử dơ bẩn, quét bụi trần, vừa thanh tịnh vừa trang nghiêm, cho nên được tên này.
Vị Nhựt Thiên Tử thứ tư tên là Dũng Mãnh Bất Thối Chuyển. Vì vị này có tâm dũng mãnh tinh tấn, chỉ hướng đến trước mà không lùi về sau, cho nên được tên này.
Vị Nhựt Thiên Tử thứ năm tên là Diệu Hoa Anh Quang Minh. Vì vị này có chuỗi diệu hoa, có quang minh như cầu vồng, năm quang mười sắc, sáng lạng khả ái, cho nên được tên này.
Vị Nhựt Thiên Tử thứ sáu tên là Tối Thắng Tràng Quang Minh. Vì vị này có tràng quang minh thù thắng nhất, thứ quang minh này không thể so sánh phỏng theo được, cho nên được tên này.
Vị Nhựt Thiên Tử thứ bảy tên là Bảo Kế Phổ Quang Minh. Vì bảo kế của vị này phóng ra quang minh chiếu khắp tất cả thế gian, cho nên được tên này.
Vị Nhựt Thiên Tử thứ tám tên là Quang Minh Nhãn. Vì mắt của vị này phóng ra một thứ quang minh đặc biệt thù thắng, cho nên được tên này.
Vị Nhựt Thiên Tử thứ chín tên là Trì Thắng Ðức. Vì đức hạnh của vị này thù thắng nhất, không ai sánh kịp, cho nên được tên này.
Vị Nhựt Thiên Tử thứ mười tên là Phổ Quang Minh. Vì vị này phóng quang minh chiếu sáng khắp tất cả chúng sinh, khiến cho họ đắc được trí huệ, cho nên được tên này.
Có vô lượng số Nhựt Thiên Tử như vậy làm thượng thủ. Các vị này đều siêng năng tu tập lợi ích, và làm tăng trưởng căn lành của chúng sinh.
Mười vị Nhựt Thiên Tử này làm thượng thủ trong các chúng Nhựt Thiên Tử, ngoài ra còn có vô lượng vô biên, không cách chi tính đếm được.
Những vị Nhựt Thiên Tử này, đều siêng tu tập pháp đại thừa, lợi ích tất cả chúng sinh, và làm tăng trưởng căn lành của chúng sinh. Người chưa trồng căn lành, thì khiến cho họ trồng căn lành, người đã trồng căn lành, thì khiến cho sinh trưởng, người căn lành đã sinh trưởng, thì khiến cho thành thục, người căn lành đã thành thục, thì khiến cho được giải thoát. Ở trên là chúng thứ hai Nhựt Thiên Tử.
Lại có vô lượng Tam Thập Tam Thiên Vương. Ðó là : Thích Ca Nhân Ðà La Thiên Vương. Phổ Xưng Mãn Âm Thiên Vương. Từ Mục Bảo Kế Thiên Vương. Bảo Quang Tràng Danh Xưng Thiên Vương. Phát Sinh Hỷ Lạc Kế Thiên Vương. Khả Ái Lạc Chánh Niệm Thiên Vương. Tu Di Thắng Âm Thiên Vương. Thành Tựu Niệm Thiên Vương. Khả Ái Lạc Tịnh Hoa Quang Thiên Vương. Trí Nhựt Nhãn Thiên Vương. Tự Tại Quang Minh Năng Giác Ngộ Thiên Vương.
Lại có vô lượng vô biên Tam Thập Tam Thiên Vương. Trời Tam Thập Tam tức là trời Ðao Lợi, là từng trời thứ hai thuộc về dục giới. Trời Ðao Lợi ở trên đỉnh núi Tu Di, chưa rời khỏi mặt đất, cho nên gọi là “địa cư thiên”. Phương đông của trời Ðao Lợi có tám trời, phương nam có tám trời, phương tây có tám trời, phương bắc có tám trời. Ðế Thích một trời ở chính giữa cộng thành trời Tam Thập Tam (ba mươi ba từng trời).
Trong quá khứ có một tín nữ, thấy một tượng Phật cũ tróc sơn, chùa cũng hư hoại, do đó phát tâm trùng tu, đi khắp nơi lạc quyên, thì có ba mươi hai người nữ cùng phát tâm, sửa chữa ngôi chùa này, và trang nghiêm tượng Phật. Người có chí việc tất thành, trải qua thời gian cuối cùng đã thành công. Chùa làm mới lại, tượng Phật trang nghiêm bằng vàng rất đẹp. Nhờ công đức đó, chết rồi được sinh lên trời làm thiên chủ. Ba mươi hai người nữ đó làm thiên chủ cõi trời Tam Thập Nhị, cộng với người nữ chủ xướng công đức thành thiên chủ trời Tam Thập Tam.
Vị thiên chủ này gọi là Thích Ðề Hoàn Nhân (còn gọi là Ngọc Hoàng thượng đế). Thành của vị này ở gọi là Thành Thiện Kiến, dùng vàng ròng làm thành, chính giữa thành có một lầu các, dùng bảy báu tạo thành, tức là cung điện của thiên chủ.
Nói vế Thích Ca Nhân Ðà La. Thích Ca dịch là “năng nhân”. Nhân Ðà La dịch là “chủ”, nếu nói đầy đủ là Thích Ca Ðề Hoàn Nhân Ðà La, gọi tắt là Thích Ðề Hoàn Nhân. Ðề Hoàn dịch là “thiên”, tức là nhân thiên chủ. Vì dụ dỗ khuyến thiện, cho nên được làm chúa trời.
Vị Thiên Vương Tam Thập Tam thứ nhất tên là Phổ Xưng Mãn Âm. Vì vị này có đức hạnh, cho nên khắp nơi đều xưng dương, tán thán ca tụng, âm thanh vang dội khắp trời đất, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương Tam Thập Tam thứ hai tên là Từ Mục Bảo Kế. Vì mắt của vị này rất từ bi, lại có bảo kế, phóng đại quang minh, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương Tam Thập Tam thứ ba tên là Bảo Quang Tràng Danh Xưng. Vì vị này dùng quang minh bảy báu để trang nghiêm tràng báu, trở thành danh xưng cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương Tam Thập Tam thứ tư tên là Phát Sinh Hỷ Lạc Kế. Vì bảo kế của vị này phóng quang minh, khi chúng sinh thấy được, thì sinh tâm hoan hỷ và khoái lạc, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương Tam Thập Tam thứ năm tên là Khả Ái Lạc Chánh Niệm. Vì vị này có chánh niệm, cho nên được người ái kính, khiến cho người vui thích, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương Tam Thập Tam thứ sáu tên là Tu Di Thắng Âm. Vì vị này có âm thanh thù thắng, siêu hơn núi Tu Di, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương Tam Thập Tam thứ bảy tên là Thành Tựu Niệm. Vì vị này khiến cho chúng sinh, đạt thành tâm nguyện, thành tựu thiện niệm của chúng sinh, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương Tam Thập Tam thứ tám tên là Khả Ái Lạc Tịnh Hoa Quang. Vì vị này là mắt lành từ bi, bất cứ ai thấy thì đều phát tâm cung kính, vui thích. Ðức hạnh của vị này thanh tịnh như ánh sáng hoa sen, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương Tam Thập Tam thứ chín tên là Trí Nhựt Nhãn. Vì vị này có mắt trí huệ, sáng như ánh sáng mặt trời, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương Tam Thập Tam thứ mười tên là Tự Tại Quang Minh Năng Giác Ngộ. Vì vị này vừa tự tại vừa quang minh, năng giác ngộ tất cả chúng sinh, cho nên được tên này.
Có vô lượng số Tam Thập Tam Thiên Vương như vậy làm thượng thủ. Các vị này đều siêng năng phát khởi nghiệp rộng lớn của tất cả thế gian.
Mười vị Thiên Vương Tam Thập Tam này, làm thượng thủ trong chúng Thiên Vương. Ngoài ra còn có vô lượng vô biên nhiều chẳng thể tính đếm được.
Những vị Thiên Vương Tam Thập Tam này đều rất tinh tấn, phát khởi nghiệp rộng lớn, cùng tu hành với tất cả chúng sinh, học tập Phật pháp, trồng nhân bồ đề, kết quả bồ đề, đó là thành tựu nghiệp của Phật.
Tại sao chư Thiên thích con người làm thiện ? Vì A Tu La đố kỵ trên trời có vị cam lồ, chư Thiên muốn cầu nữ sắc của A Tu La, cho nên bị chỗ này mà thường phát sinh chiến tranh. Ðế Thích biết A Tu La sớm muốn đến tác chiến trước, mới phái người đến nhân gian tuần tra, quán sát nếu người làm thiện nhiều, thì người trời sẽ thắng, nếu người làm ác nhiều, thì người trời sẽ thất bại. Cho nên khuyên người đời hướng thiện, gặp kẻ ác nhất định phải trừng phạt. Người thiện nhiều thì quyến thuộc chư Thiên cũng nhiều. Người ác nhiều thì quyến thuộc A Tu La cũng nhiều.
Vì có quan hệ như thế, cho nên chư Thiên hy vọng tất cả chúng sinh siêng làm công đức lành, tiêu diệt tội lỗi. Ðó là mục đích của chúa trời giáo hóa chúng sinh, cũng là biện pháp giải cứu duy nhất. Trên đây là chúng thứ ba Tam Thập Tam Thiên Vương.
Lại có vô lượng Tu Dạ Ma Thiên Vương. Ðó là : Thiện Thời Phần Thiên Vương. Khả Ái Lạc Quang Minh Thiên Vương. Vô Tận Huệ Công Ðức Tràng Thiên Vương. Thiện Biến Hóa Ðoan Nghiêm Thiên Vương. Tổng Trì Ðại Quang Minh Thiên Vương. Bất Tư Nghì Trí Huệ Thiên Vương. Luân Tề Thiên Vương. Quang Diệm Thiên Vương. Quang Chiếu Thiên Vương. Phổ Quán Sát Ðại Danh Xưng Thiên Vương.
Lại có vô lượng vô biên Tu Dạ Ma Thiên Vương. Trời Tu Dạ Ma là từng trời thứ ba thuộc dục giới, ở trên không núi Tu Di, đã tách khỏi mặt đất, cho nên gọi là “cư không thiên” (trời ở trên không). Tu, dịch là “thiện”, Dạ Ma, dịch là “thời”, vì tùy thời thọ hưởng dục lạc, cho nên gọi là Trời Thiện Thời Phần.
Cõi trời này chẳng có ánh sáng mặt trời mặt trăng, dùng hoa sen nở và khép lại làm ngày và đêm. Hoặc là hoa sen đỏ nở làm ngày, hoa sen trắng nở làm ban đêm, cho nên gọi là Trời Thời Phần.
Cõi trời này tự nhiên có ánh sáng. Thân chư Thiên tự phóng ra ánh sáng, chiếu khắp trời đất. Người tu thượng phẩm mười điều lành và thiền định, thì có thể sinh về cõi trời này, hưởng thọ khoái lạc đặc biệt thù thắng. Nhưng phước trời hưởng hết rồi, thì trở lại luân hồi tùy theo nghiệp lực mà thọ sinh tử.
Vị Tu Dạ Ma Thiên Vương thứ nhất tên là Thiện Thời Phần. Vì vị này là chúa cõi Trời Tu Dạ Ma, quản lý chúng sinh cõi trời này, cho nên được tên này.
Vị Tu Dạ Ma Thiên Vương thứ hai tên là Khả Ái Lạc Quang Minh. Vì vị này thích khoái lạc và thích quang minh, cho nên được tên này.
Vị Tu Dạ Ma Thiên Vương thứ ba tên là Vô Tận Huệ Công Ðức Tràng. Vì vị này có trí huệ vô cùng vô tận, lại có công đức vô lượng vô biên sáng giống như tràng báu, cho nên được tên này.
Vị Tu Dạ Ma Thiên Vương thứ tư tên là Thiện Biến Hóa Ðoan Nghiêm. Vì vị này khéo về biến hóa vừa đoan chánh vừa trang nghiêm, cho nên được tên này.
Vị Tu Dạ Ma Thiên Vương thứ năm tên là Tổng Trì Ðại Quang Minh. Vì vị này tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa, có cảnh giới đại phóng quang minh không thể nghĩ bàn, cho nên được tên này.
Vị Tu Dạ Ma Thiên Vương thứ sáu tên là Bất Tư Nghì Trí Huệ. Vì vị này có đại trí huệ không thể nghĩ bàn, cho nên được tên này.
Vị Tu Dạ Ma Thiên Vương thứ bảy tên là Luân Tề. Vì vị này quản lý chúng sinh, trong sáu nẻo về vấn đề sinh sinh tử tử, cho nên được tên này.
Vị Tu Dạ Ma Thiên Vương thứ tám tên là Quang Diệm. Vì quang minh của vị này phóng ra thường có lửa ngọn, chiếu thấu triệt tất cả đen tối, cho nên được tên này.
Vị Tu Dạ Ma Thiên Vương thứ chín tên là Quang Chiếu. Vì vị này phóng quang chiếu khắp thế gian, khiến cho chúng sinh đắc được lợi ích, cho nên được tên này.
Vị Tu Dạ Ma Thiên Vương thứ mười tên là Phổ Quán Sát Ðại Danh Xưng. Vì vị này quán sát khắp hết tất cả chúng sinh trong thế gian, ai có đại danh xưng, ai là đại thiện nhân, ai là đại hiếu tử, ai là người tu hành, ai là người có đạo đức, do đó được tên này.
Có vô lượng số Tu Dạ Ma Thiên Vương như vậy làm thượng thủ. Các vị đó đều siêng năng tu tập căn lành rộng lớn, tâm thường hoan hỷ biết đủ.
Mười vị Tu Dạ Ma Thiên Vương này làm thượng thủ trong các Thiên Vương. Số lượng các Thiên Vương cũng vô lượng vô biên, không thể tính đếm được.
Những vị Tu Dạ Ma Thiên Vương này đều siêng tinh tấn tu hành và học tập, tu căn lành rộng lớn tức là tu phước tu huệ. Ðồng thời tu học vô thượng Phật đạo, tức là nghiên cứu Kinh điển, y giáo phụng hành. Cho nên tâm của họ thường thanh tịnh khoái lạc không sầu lo, thường sinh hoan hỷ và tri túc. Do đó :‘’Sự năng tri túc tâm thường lạc.’’ Hễ luôn biết đủ tâm thường an lạc.
Lại có các vị Ðâu Suất Ðà Thiên Vương, nhiều không thể nghĩ bàn. Ðó là : Tri Túc Thiên Vương. Hỷ Lạc Hải Kế Thiên Vương. Tối Thắng Công Ðức Tràng Thiên Vương. Tịch Tĩnh Quang Thiên Vương. Khả Ái Lạc Diệu Mục Thiên Vương. Bảo Phong Tịnh Nguyệt Thiên Vương. Tối Thắng Dũng Kiện Lực Thiên Vương. Kim Cang Diệu Quang Minh Thiên Vương. Tinh Tú Trang Nghiêm Tràng Thiên Vương. Khả Ái Lạc Trang Nghiêm Thiên Vương.
Lại có các vị Ðâu Suất Ðà Thiên Vương số nhiều không thể nghĩ bàn. Ðâu Suất Ðà dịch là “tri túc” (biết đủ), hoặc là “hỷ túc”. Vì hoan hỷ tri túc, chẳng có tâm tham. Cung trời này phân làm nội viện và ngoại viện. Phàm là Bồ Tát bổ làm Phật, đều ở nội viện này, đợi khi nhân duyên chín mùi, thì nương voi trắng sáu ngà hàng lâm xuống nhân gian để làm giáo chủ. Giáo chủ vị lai là Bồ Tát Di Lặc. Bây giờ Ngài đang ở nội viện, giảng Kinh thuyết pháp. Ðợi kiếp tăng đến bốn vạn tám ngàn tuổi, lại giảm xuống còn tám vạn tuổi, thì Ngài hàng lâm xuống nhân gian. Lúc đó máu huyết con người màu trắng. Bây giờ bạn nhất định không tin, nhưng đến lúc đó không tin cũng sẽ tin.
Bồ Tát Di Lặc tu từ tâm tam muội, pháp môn biết đủ an vui, cho nên Thiên chúng ở đây chẳng có phiền não, chẳng có đau khổ, chỉ có khoái lạc. Tại sao ? Vì biết đủ cho nên tâm thường an lạc.
Vị Thiên Vương thứ nhất tên là Tri Túc. Vì vị này luôn luôn biết đủ, cho nên tâm thường khoái lạc. Nhẫn được thì yên, biết đủ thì vui, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ hai tên là Hỷ Lạc Hải Kế. Vì vị này hoan hỷ khoái lạc nhất, tuyệt đối chẳng có phiền não, tâm của vị này rộng lớn như biển cả, ý niệm thanh tịnh như bảo kế, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ ba tên là Tối Thắng Công Ðức Tràng. Vì công đức của vị này thù thắng nhất, trang nghiêm mà sáng giống như tràng báu, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ tư tên là Tịch Tĩnh Quang. Vì quang minh của vị này tịch tĩnh, thanh tịnh đến cực điểm, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ năm tên là Ái Lạc Diệu Mục. Vì mắt của vị này mỹ diệu phi thường, thường phóng quang minh, ai thấy cũng đều sinh tâm hoan hỷ, nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ sáu tên là Bảo Phong Tịnh Nguyệt. Vì vị này giống như núi Bảo Phong, lại giống như trăng thanh tịnh, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ bảy tên là Tối Thắng Dũng Kiện Lực. Vì vị này có đại lực thù thắng chẳng sánh được, lại dũng cảm và kiện tráng, do đó mà đánh thắng được A Tu La, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ tám tên là Kim Cang Diệu Quang Minh. Vì thân thể của vị này là Kim Cang làm thành, thường phóng ra quang minh vi diệu, anh dũng thiện chiến, A Tu La từ xa thấy hình mà sợ, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ chín tên là Tinh Tú Trang Nghiêm Tràng. Vì vị này có thần thông lực, khiến được Nhị thập bát tú đều đến trang nghiêm tràng báu này, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ mười tên là Khả Ái Lạc Trang Nghiêm. Vì vị này có tướng trang nghiêm thù thắng, khiến cho chúng sinh sanh ra vui thích và khoái lạc, cho nên được tên này.
Có các vị Ðâu Suất Ðà Thiên Vương, số nhiều không thể nghĩ bàn như vậy làm thượng thủ. Các vị đó đều siêng năng trì niệm danh hiệu của tất cả các Ðức Phật.
Mười vị trời Ðâu Suất Ðà này làm thượng thủ trong Ðâu Suất Ðà Thiên Vương. Ngoài ra còn có vô lượng vô biên số Thiên Vương nhiều không thể nghĩ bàn.
Những vị Thiên Vương này đều luôn luôn niệm Phật, trì danh hiệu các đức Phật trong mười phương ba đời, tinh tấn lại tinh tấn, không giải đãi phóng dật, thường niệm danh hiệu Phật. Ở trên là chúng thứ năm Ðâu Suất Ðà Thiên Vương.
Lại có vô lượng Hóa Lạc Thiên Vương. Ðó là : Thiện Biến Hóa Thiên Vương. Tịch Tĩnh Âm Quang Minh Thiên Vương. Biến Hóa Lực Quang Minh Thiên Vương. Trang Nghiêm Chủ Thiên Vương. Niệm Quang Thiên Vương. Tối Thượng Vân Âm Thiên Vương. Chúng Diệu Tối Thắng Quang Thiên Vương. Diệu Kế Quang Minh Thiên Vương. Thành Tựu Hỷ Huệ Thiên Vương. Hoa Quang Kế Thiên Vương. Phổ Kiến Thập Phương Thiên Vương.
Lại có vô lượng vô biên Hóa Lạc Thiên Vương. Hóa là biến hóa, lạc là lạc đủ. Thiên chúng cõi trời này, bằng phước lực của mình, có cảnh giới toại tâm như ý, những gì mà mình mong muốn, biến hóa ra được các loại âm nhạc, ai ai cũng có thiên tài diễn tấu âm nhạc, lại có năng lực thưởng thức âm nhạc, cho nên ở cõi trời này chỉ biết vui mà không biết buồn.
Nói về Thiện Biến Hóa Thiên Vương, vị Thiên Vương này khéo về biến hóa, biến hóa ra các loại nhạc khí mà tự vui vẻ, tuyệt đối không xâm phạm người khác, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ nhất tên là Tịch Tĩnh Âm Quang Minh. Vì âm thanh của vị này tịch tĩnh, tuy nhiên tịch tĩnh nhưng có quang minh, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ hai tên là Biến Hóa Lực Quang Minh. Vì sức biến hóa của vị này không thể nghĩ bàn, biến hóa ra bảy báu để trang nghiêm cung điện, lại biến hóa ra hoa sen năm màu thanh tịnh, đều sáng lạng chẳng có gì sánh được, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ ba tên là Trang Nghiêm Chủ. Vì vị này trang nghiêm cung điện của chư Thiên, lại trang nghiêm tất cả đạo tràng, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ tư tên là Niệm Quang. Vì vị này thường niệm Phật, từ trong miệng phóng ra quang minh, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ năm tên là Tối Thượng Âm Vân. Vì âm thanh của vị này tối cao, cao thấu tận trên mây, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ sáu tên là Chúng Diệu Tối Thắng Quang. Vì vị này có rất nhiều cảnh giới không nghĩ bàn, không những tối thù thắng mà còn sáng nhất, nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ bảy tên là Diệu Kế Quang Minh. Vì diệu kế của vị này thường phóng quang minh, chiếu khắp thế gian, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ tám tên là Thành Tựu Hỷ Huệ. Vì vị này thành tựu được trí huệ hỷ lạc, khiến cho chúng sinh cũng thành tựu trí huệ này, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ chín tên là Hoa Quang Kế. Vì quang minh hoa sen của vị này giống như bảo kế, nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ mười tên là Phổ Kiến Thập Phương. Vì vị này ngồi tại bổn tòa, mà thấy khắp tất cả thế giới trong mười phương, cho nên được tên này.
Có vô lượng số Hóa Lạc Thiên Vương như vậy làm thượng thủ. Các vị đó đều siêng năng điều phục tất cả chúng sinh, khiến cho họ được giải thoát.
Mười vị Hóa Lạc Thiên Vương này làm thượng thủ trong Hóa Lạc Thiên Vương, ngoài ra còn có vô lượng vô biên, không cách chi tính đếm được.
Những vị Hóa Lạc Thiên Vương này, đều siêng năng điều phục, những chúng sinh không nghe lời, khiến cho họ tuân theo quy cụ giữ giới luật, đắc được pháp môn giải thoát, ra khỏi ba cõi biển sinh tử, đạt đến bờ Niết Bàn bên kia. Trên đây là chúng thứ sáu Hóa Lạc Thiên Vương.
Lại có vô lượng Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương. Ðó là : Ðắc Tự Tại Thiên Vương. Diệu Mục Chủ Thiên Vương. Diệu Quan Tràng Thiên Vương. Dũng Mãnh Huệ Thiên Vương. Diệu Âm Cú Thiên Vương. Diệu Quang Tràng Thiên Vương. Tịch Tĩnh Cảnh Giới Môn Thiên Vương. Diệu Luân Trang Nghiêm Tràng Thiên Vương. Hoa Nhị Huệ Tự Tại Thiên Vương. Nhân Ðà La Lực Diệu Trang Nghiêm Quang Minh Thiên Vương.
Lại có vô lượng vô biên Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương. Thiên Vương này có thể biến hóa âm nhạc của các cõi trời khác, đến chỗ của mình để thưởng thức hưởng thụ. Các vị Thiên Vương này đem khoái lạc của người khác làm khoái lạc của chính mình, biểu thị đắc được tự tại. Ðây là từng trời cao nhất của dục giới, cũng là cõi trời khoái lạc nhất. Vì khoái lạc nhất, cho nên rất dễ khiến cho người tham thiền định lực không đủ, dễ bị đọa lạc ở trong sáu nẻo. Chỗ tu đạo lý tưởng nhất là ở tại nhân gian. Tại nhân gian khổ nhiều vui ít, khiến cho người tu hành tinh tấn, do đó có câu:
“Thân người khó được nay đã được,
Phật pháp khó nghe nay đã nghe,
Ðời nay không độ được thân này,
Còn đợi bao giờ độ thân này”.
Hai câu trước đã được rồi, còn hai câu sau phải thiết thật tu hành.
Vị Thiên Vương thứ nhất tên là Ðắc Tự Tại. Vì vị này đắc được tự do tự tại, vô câu vô thúc, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ hai tên là Diệu Mục Chủ. Vì mắt của vị này đẹp phi thường, là chủ của ngũ quan, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ ba tên là Diệu Quan Tràng. Vì vị này đội mũ vua rất mỹ lệ, giống như tràng báu, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ tư tên là Dũng Mãnh Huệ. Vì vị này có trí huệ rất dũng mãnh tinh tấn hướng về phía trước, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ năm tên là Diệu Âm Cú. Vì vị này có âm thanh rất hay và êm tai, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ sáu tên là Diệu Quang Tràng. Vì diệu quang minh của vị này phóng ra trang nghiêm giống như tràng báu, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ bảy tên là Tịch Tĩnh Cảnh Giới Môn. Vì vị này có định lực, bất cứ cảnh giới gì đến cũng đều không động tâm, tĩnh như mặt hồ, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ tám tên là Diệu Luân Trang Nghiêm Tràng. Vì vị này có bánh xe thần diệu không thể nghĩ bàn, trang nghiêm như tràng báu, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ chín tên là Hoa Nhị Huệ Tự Tại. Vì vị này có trí huệ liên hoa nhị, tự tại phi thường, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ mười tên là Nhân Ðà La Lực Diệu Trang Nghiêm Quang Minh. Vì vị này có lực lượng rất tôn trọng, mới có trí huệ quang minh vi diệu trang nghiêm, cho nên được tên này.
Có vô lượng số Thiên Vương như vậy làm thượng thủ. Các vị này đều siêng năng tu tập, pháp môn tự tại phượng tiện rộng lớn.
Mười vị Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương này, làm thượng thủ trong chúng Thiên Vương, ngoài còn có vô lượng vô biên Thiên Vương.
Những vị Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương này, đều siêng tinh tấn tu tập, pháp môn tự tại phương tiện rộng lớn vô ngại. Ở trên là chúng thứ bảy Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương.
Bây giờ đã giảng xong tên của bảy chúng của cõi dục giới. Dưới đây là giải thích tiếp theo tên của năm chúng thuộc về sắc giới.
Lại có Ðại Phạm Thiên Vương số đông không thể đếm được. Ðó là : Thi Khí Thiên Vương. Huệ Quang Thiên Vương. Thiện Huệ Quang Minh Thiên Vương. Phổ Vân Âm Thiên Vương. Quán Thế Ngôn Âm Tự Tại Thiên Vương. Tịch Tĩnh Quang Minh Nhãn Thiên Vương. Quang Biến Thập Phương Thiên Vương. Biến Hóa Âm Thiên Vương. Quang Minh Chiếu Diệu Nhãn Thiên Vương. Duyệt Ý Hải Âm Thiên Vương.
Lại có Ðại Phạm Thiên Vương số không thể đếm được. Phạm dịch là “tịch tĩnh thanh tịnh”, tức là thanh khiết tịch tĩnh lìa dục không nhiễm. Ðại Phạm Thiên Vương là trời thứ ba thuộc về sắc giới, cũng là trời thứ ba trong trời Sơ Thiền.
Thiên Vương Ðại Phạm Thiên tên là Thi Khí dịch là “trì kế”, vì trên đầu của vị này có nhục kế, dung mạo giống như đồng tử, thân màu bạch ngân, y phục màu vàng thật, dùng thiền duyệt làm thức ăn, pháp hỷ làm vui. Vị này tin sâu chánh pháp, hoằng dương chánh pháp. Mỗi khi đức Phật ra đời thì, vị này đầu tiên đến thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp.
Vị Thiên Vương thứ nhất tên là Thi Khí. Vì vị này tu hạnh thanh tịnh, đoạn dâm tuyệt dục, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ hai tên là Huệ Quang. Vì vị này có trí huệ quang chiếu khắp tất cả, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ ba tên là Thiện Huệ Quang Minh. Vì vị này có trí huệ quang minh toàn thiện nhất, thanh tịnh nhất, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ tư tên là Phổ Âm Vân. Vì vị này có âm thanh như sấm sét, vang khắp hư không, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ năm tên là Quán Thế Ngôn Âm Tự Tại. Vì vị này tự tại không động tòa ngồi, mà quán sát được ngôn ngữ và âm thanh của tất cả thế giới, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ sáu tên là Tịch Tĩnh Quang Minh Nhãn. Vì vị này tu thiền na tam muội, do đó vừa tịch tĩnh vừa quang minh, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ bảy tên là Quang Biến Thập Phương. Vì trí huệ quang minh của vị này chiếu sáng mười phương thế giới, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ tám tên là Biến Hóa Âm. Vì vị này có thể dùng một thứ âm thanh biến hóa làm các thứ âm thanh, tùy chỗ nghe âm thanh của chúng sinh mà biến hóa ra, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ chín tên là Quang Minh Chiếu Diệu Nhãn. Vì vị này khiến cho chúng sinh, đắc được sự chiếu sáng của quang minh, sinh ra một thứ khoái lạc, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ mười tên là Duyệt Ý Hải Âm. Vì vị này khiến cho chúng sinh, nghe đến âm thanh như biển cả, mà sinh ra tâm đại hoan hỷ, cho nên được tên này.
Có số Thiên Vương Ðại Phạm Thiên, nhiều bất khả xưng như vậy làm thượng thủ. Các vị này đều đầy đủ tâm đại từ bi, thương xót chúng sinh, phóng quang chiếu khắp, khiến cho chúng sinh đắc được khoái lạc.
Mười vị Ðại Phạm Thiên Vương này làm thượng thủ trong Thiên Vương. Ngoài ra còn có vô lượng vô biên Ðại Phạm Thiên Vương không thể tính đếm được.
Những vị Thiên Vương này đều có đủ tâm đại từ đại bi, ái hộ tất cả chúng sinh, thương xót tất cả chúng sinh, cho nên phát tâm cứu chúng sinh lìa khổ được vui, cho nên phóng đại quang minh chiếu khắp chúng sinh đáng độ được, khiến cho họ đều đắc được thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn. Ở trên là chúng thứ tám Ðại Phạm Thiên Vương.
Lại có vô lượng Quang Âm Thiên Vương. Đó là : Khả Ái Lạc Quang Minh Thiên Vương. Thanh Tịnh Diệu Quang Thiên Vương. Năng Tự Tại Âm Thiên Vương. Tối Thắng Niệm Trí Thiên Vương. Khả Ái Lạc Thanh Tịnh Diệu Âm Thiên Vương. Thiện Tư Duy Âm Thiên Vương. Phổ Âm Biến Chiếu Thiên Vương. Thậm Thâm Quang Âm Thiên Vương. Vô Cấu Xưng Quang Minh Thiên Vương. Tối Thắng Tịnh Quang Thiên Vương.
Lại có vô lượng vô biên Quang Âm Thiên Vương. Quang Âm nghĩa là dùng quang để thay thế âm thanh. Trời Quang Âm là trời thứ ba Đệ Nhị Thiền, tức cũng là trời thứ sáu thuộc về sắc giới. Chư thiên cõi trời này, từ miệng phóng quang, người thấy được quang này, liền biết là ý nghĩa gì. Họ chẳng có lời nói, chẳng có vọng tưởng. Họ dùng thân tâm phóng ra trí tuệ quang minh, để giáo hóa chúng sinh, thần thông của họ hóa hiện tất cả. Khi bị hỏa tai thì lửa thiêu đến trời Sơ Thiền. Chư thiên cõi này đến Trời Quang Âm tị nạn. Ðợi kiếp thành thì Quang Âm Thiên Vương dùng sức thần thông làm mưa lớn, để dập tắt lửa mà thành thế giới. Lúc đó chư thiên trời Quang Âm bèn đến thế giới để khuyên con người hướng thiện.
Vị Thiên Vương thứ nhất tên là Khả Ái Lạc Quang Minh. Vì quang minh của vị này phóng ra thanh tịnh khả ái phi thường, khiến cho chúng sinh đều sinh hoan hỷ, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ hai tên là Thanh Tịnh Diệu Quang. Vì quang minh của vị này phóng ra thanh tịnh vi diệu, khiến cho chúng sinh trí huệ ngày càng tăng trưởng, thân tâm đắc được thanh tịnh, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ ba tên là Năng Tự Tại Âm. Vì âm thanh của vị này tự tại, cũng khiến cho chúng sinh đắc được tự tại, không khổ không sầu, không sinh không diệt, thành tựu giải thoát cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ tư tên là Tối Thắng Niệm Trí. Vì vị này có trí huệ thù thắng nhất, viên mãn nhất, khiến cho chúng sinh sanh ra tâm niệm thường niệm Tam Bảo, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ năm tên là Khả Ái Lạc Thanh Tịnh Diệu Âm. Vì diệu âm của vị này khiến cho chúng sinh đắc được an lạc, chẳng có phiền não, trong tâm thanh tịnh, chẳng có vọng tưởng, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ sáu tên là Thiện Tư Duy Âm. Vì âm thanh của vị này, khiến cho chúng sinh nghe đến khéo tư duy, bèn không suy nghĩ việc ác nữa, mà phát bồ đề tâm, sinh ra trí huệ giác ngộ, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ bảy tên là Phổ Âm Biến Chiếu. Vì diệu âm của vị này, chiếu sáng khắp tất cả chúng sinh, khiến cho họ đắc được quang minh, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ tám tên là Thậm Thâm Quang Âm. Vì vị này ái hộ chúng sinh phi thường, vị này dùng quang minh và âm thanh, để giáo hóa chúng sinh, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ chín tên là Vô Cấu Xưng Quang Minh. Vì quang minh của vị này, thanh tịnh chẳng có trần cấu, chiếu khắp chúng sinh, chúng sinh cần bao nhiêu thì dùng bấy nhiêu, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ mười tên là Tối Thắng Tịnh Quang. Vì vị này có quang minh thù thắng nhất thanh tịnh nhất, chiếu sáng tất cả chúng sinh, cho nên được tên này.
Có vô lượng số Quang Âm Thiên Vương như vậy làm thượng thủ, các vị này đều trụ pháp môn, vô ngại hỷ lạc tịch tĩnh rộng lớn.
Mười vị Quang Âm Thiên Vương này làm thượng thủ trong chúng Trời Quang Âm. Ngoài ra còn có vô lượng vô biên bất khả tư nghì số Quang Âm Thiên Vương.
Những vị Quang Âm Thiên Vương này, đều đắc được pháp môn, vô ngại hỷ lạc tịch tĩnh rộng lớn. Rộng lớn tức là vô ngại, hỷ lạc tức là tịch tĩnh. Rộng lớn là tán, tịch tĩnh là định. Bất cứ tán cũng ở trong định, định cũng ở trong định. Các vị ấy không thể bỏ động mà cầu tĩnh, cho nên gọi là rộng lớn. Các vị ấy đắc được vị thiền mà chẳng chấp trước vị thiền, cho nên vô ngại. Ðó là pháp môn vô ngại. Ở trên là chúng thứ chín tên của mười vị Quang Âm Thiên Vương.
Lại có vô lượng Biến Tịnh Thiên Vương. Đó là : Thanh Tịnh Danh Xưng Thiên Vương. Tối Thắng Kiến Thiên Vương. Tịch Tĩnh Đức Thiên Vương. Tu Di Âm Thiên Vương. Tịnh Niệm Nhãn Thiên Vương. Khả Ái Lạc Tối Thắng Quang Chiếu Thiên Vương. Thế Gian Tự Tại Chủ Thiên Vương. Quang Diệm Tự Tại Thiên Vương. Lạc Tư Duy Pháp Biến Hóa Thiên Vương. Biến Hóa Tràng Thiên Vương. Tinh Tú Âm Diệu Trang Nghiêm Thiên Vương.
Lại có vô lượng vô biên Biến Tịnh Thiên Vương. Biến Tịnh là hoàn toàn chẳng có tâm hoan hỷ, đắc được diệu lạc thuần chân thanh tịnh. Trời Biến Tịnh là trời thứ ba Đệ Tam Thiền, tức cũng là trời thứ chín thuộc sắc giới. Cõi trời này khoái lạc nhất, rất dễ khiến cho người tu thiền đọa lạc, cho nên một số người tu thiền không tu thiền định này, mà cấp tốc đến trời Tứ Thiền. Cuối thời kỳ sáu mươi bốn đại kiếp sẽ có nạn gió lớn. Nạn gió lớn này san bằng cõi trời Tam Thiền, ngoài ra các cõi trời khác cũng không tránh khỏi đại kiếp này, do đó:
“Chư thiên sáu cõi trời dục giới
Ðủ năm điều suy,
Trời Tam Thiền có nạn gió,
Nếu tu đến trời Phi Phi Tưởng,
Chẳng bằng đi đến cõi Tây Phương.”
Từ bài kệ này chúng ta thấy pháp môn niệm Phật rất thuận tiện và quan trọng, không lãng phí thì giờ, mà chắc chắn được vãng sinh.
Vị Thiên Vương thứ nhất tên là Thanh Tịnh Danh Xưng. Vì vị này đã đắc được trí huệ thanh tịnh, nhìn xuyên thủng đối với các pháp nhiễm ô, buông bỏ đặng, danh đồn của vị này truyền khắp thế gian, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ hai tên là Tối Thắng Kiến. Vì kiến giải của vị này thù thắng nhất, thông minh nhất, đều là chánh tri chánh kiến mà chẳng có tà tri tà kiến, nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ ba tên là Tịch Tĩnh Ðức. Vì vị này có đức hạnh tam muội thiền định thanh tịnh, làm tất cả việc thiện, không để cho ai biết, tức là mật hạnh. Người xưa nói :
“Việc thiện mà muốn cho người thấy,
Chẳng phải là chân thiện.
Việc ác mà sợ người biết, là đại ác.’’
Chúng ta là người tu đạo, nên ghi khắc hai câu này làm châm ngôn. Phải minh bạch thật nghĩa tịch tĩnh, đừng dụng công phu ở trên danh lợi, phải từ bỏ danh lợi thì sẽ đắc được đức tịch tĩnh, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ tư tên là Tu Di Âm. Vì âm thanh của vị này cao diệu phi thường, khiến cho tất cả chúng sinh nghe được pháp âm, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ năm tên là Tịnh Niệm Nhãn. Vì vị này khai mở ngũ nhãn, chỉ thấy pháp thanh tịnh, không thấy pháp nhiễm ô, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ sáu tên là Khả Ái Lạc Tối Thắng Quang Chiếu. Vì vị này có trí huệ quang thù thắng nhất, bất cứ chiếu đến ai thì người đó minh tâm thanh tịnh khoái lạc khả ái, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ bảy tên là Thế Gian Tự Tại Chủ. Vì vị này khiến cho tất cả chúng sinh đắc được tự tại và bình an, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ tám tên là Quang Diệm Tự Tại. Vì quang minh của vị này tuy mãnh liệt như lửa ngọn, nhưng rất mát mẻ tự tại, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ chín tên là Lạc Tư Duy Pháp Biến Hóa. Vì vị này tu pháp châu như ý, biến hóa tùy theo ý muốn, muốn dùng pháp gì thì biến pháp đó, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ mười tên là Biến Hóa Tràng. Vì vị này biến hóa ra được đủ thứ tràng báu, vừa sáng vừa trang nghiêm, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ mười một là Tinh Tú Âm Diệu Trang Nghiêm. Vì vị này có diệu âm của Nhị Thập Bát Tú (hai mươi tám vì sao), trang nghiêm và vi diệu, cho nên được tên này.
Có vô lượng số Biến Tịnh Thiên Vương như vậy làm thượng thủ. Các vị này đều đã an trụ pháp môn rộng lớn, siêng làm lợi ích trong tất cả thế gian.
Mười một vị Biến Tịnh Thiên Vương này làm thượng thủ trong chúng Biến Tịnh Thiên Vương. Ngoài ra còn có vô lượng vô biên Biến Tịnh Thiên Vương.
Những vị Biến Tịnh Thiên Vương này, đều đã hoàn toàn an trụ ở trong pháp môn rộng lớn vô ngại, tức là pháp môn tận hư không khắp pháp giới. Luôn luôn giáo hóa, làm lợi ích, khuyến đạo tất cả chúng sinh, không có dừng nghỉ. Các vị này vĩ đại như Ngài Ðịa Tạng Vương bồ Tát.
Ðại Nguyện của Ngài Ðịa Tạng Vương Bồ Tát :
“Ðộ hết chúng sinh mới chứng Bồ đề.
Ðịa ngục chưa trống không, thề không thành Phật”.
Lại nói rằng :
“Tôi không vào địa ngục ! Ai vào địa ngục” ?
Tinh thần bỏ mình vì người đó là hành Bồ Tát đạo. Do đó, mới được danh hiệu “Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Ðại Trí Văn Thù Bồ Tát, Ðại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát”. Ðó là hạnh nguyện của bốn vị đại Bồ Tát.
Ở Trung Quốc có bốn đại danh sơn là đạo tràng của bốn vị đại Bồ Tát. Núi Ngũ Ðài ở Sơn Tây là đạo tràng của Bồ Tát Văn Thù. Núi Nga Mi ở Tứ Xuyên là đạo tràng của Bồ Tát Phổ Hiền. Núi Cửu Hoa An Vi là đạo tràng của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát. Núi Phổ Ðà ở Triết Giang là đạo tràng của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Sau khi Ðức Phật nhập Niết Bàn, trước khi Ðức Phật Di Lặc chưa hàng sinh, thì Bồ Tát Ðịa Tạng sẽ là giáo chủ lâm thời cõi Ta Bà thế giới. Ở trên là chúng thứ mười Biến Tịnh Thiên Vương.
Lại có vô lượng Quảng Quả Thiên Vương. Đó là : Ái Lạc Pháp Quang Minh Tràng Thiên Vương. Thanh Tịnh Trang Nghiêm Hải Thiên Vương. Tối Thắng Huệ Quang Minh Thiên Vương. Tự Tại Trí Huệ Tràng Thiên Vương. Lạc Tịch Tĩnh Thiên Vương. Phổ Trí Nhãn Thiên Vương. Lạc Toàn Huệ Thiên Vương. Thiện Chủng Huệ Quang Minh Thiên Vương. Vô Cấu Tịch Tĩnh Quang Thiên Vương. Quảng Đại Thanh Tịnh Quang Thiên Vương.
Lại có vô lượng vô biên Quảng Quả Thiên Vương. Quảng Quả nghĩa là “dị sinh thiện quả rộng lớn nhất”, tức là cũng nói về quả phàm phu, tu đến cõi trời cao nhất này, chúng sinh sanh về cõi trời này, sẽ tránh khỏi tám thứ tai nạn, là cõi trời tịch tĩnh nhất. Cõi trời này gồm có hai đạo là tà và chánh. Chúng sinh tu thiền định phân làm hai thứ : Chúng sinh tu định hữu lậu tức là ngoại đạo, sẽ sinh về trời Vô Tưởng (trời Trường Thọ), giống như băng ép cá (băng ở trên mặt nước cá ở dưới đáy), đá đè cỏ, chẳng phải là pháp cứu kính, vẫn còn sinh tử. Chúng sinh tu định vô lậu tức là A La Hán và Bồ Tát, các bậc này sinh về trời Ngũ Bất Hoàn (trời Vô Nhiệt, trời Vô Não, trời Thiện Kiến, trời Thiện Hiện, trời Sắc Cứu Kính). Không còn đầu thai vào dục giới nữa, vì đã đoạn trừ tư hoặc của dục giới, nhưng chưa đoạn hết tư hoặc của sắc giới và vô sắc giới.
Vị Thiên Vương thứ nhất tên là Ái Lạc Pháp Quang Minh Tràng. Vì vị này thích pháp lạc, coi pháp quan trọng hơn so với bất cứ thứ gì, tràng của vị này thường phóng quang minh, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ hai tên là Thanh Tịnh Trang Nghiêm Hải. Vì vị này dùng quang minh thanh tịnh để trang nghiêm như đại hải, cho nên được tên này.
Vị Vua Trời thứ ba tên là Tối Thắng Huệ Quang Minh. Vì huệ của vị này thù thắng nhất, cũng sáng nhất, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ tư tên là Tự Tại Trí Huệ Tràng. Vì trí huệ của vị này tự tại nhất, giống như tràng báu, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ năm tên là Lạc Tịch Tĩnh. Vì vị này thích tịch tĩnh nhất, hoan hỷ nhất là nhập thiền định tam muội, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ sáu tên là Phổ Trí Nhãn. Vì vị này có trí huệ nhãn chiếu khắp thế gian, khiến cho chúng sinh cũng đắc được trí huệ, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ bảy tên là Lạc Toàn Huệ. Vì vị này luôn luôn hồi quang phản chiếu, quán tự tính trí huệ vốn có, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ tám tên là Thiện Chủng Huệ Quang Minh. Vì vị này khéo trồng nhân trí huệ Bồ đề cho nên đắc được quả quang minh, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ chín tên là Vô Cấu Tịch Tĩnh Quang. Vì trí huệ của vị này chẳng có trần cấu, lại thường ở trong định quang, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ mười tên là Quảng Ðại Thanh Tịnh Quang. Vì vị này có quang minh thanh tịnh rộng lớn chẳng có biên tế, chiếu khắp mười phương thế giới, cho nên được tên này.
Có bất khả xưng số Quảng Quả Thiên Vương như vậy làm thượng thủ, các vị này đều lấy pháp tịch tĩnh mà làm cung điện, an trụ ở trong đó.
Mười vị Quảng Quả Thiên Vương này, làm thượng thủ trong chúng Quảng Quả Thiên Vương, ngoài ra còn có vô lượng vô biên Quảng Quả Thiên Vương.
Những vị Quảng Quả Thiên Vương này, đều dùng pháp tịch tĩnh làm cung điện của họ, an trụ ở trong cung điện này. Ở trên là chúng thứ mười một Quảng Quả Thiên Vương.
Lại có vô lượng số Đại Tự Tại Thiên Vương. Đó là : Diệu Diệm Hải Thiên Vương. Tự Tại Danh Xưng Quang Thiên Vương. Thanh Tịnh Công Đức Nhãn Thiên Vương. Khả Ái Lạc Đại Huệ Thiên Vương. Bất Động Quang Tự Tại Thiên Vương. Diệu Trang Nghiêm Nhãn Thiên Vương. Thiện Tư Duy Quang Minh Thiên Vương. Khả Ái Lạc Đại Trí Thiên Vương. Phổ Âm Trang Nghiêm Tràng Thiên Vương. Cực Tinh Tấn Danh Xưng Quang Thiên Vương.
Lại có vô số vô lượng Ðại Tự Tại Thiên Vương. Ðại Tự Tại tiếng Phạn gọi là “Ma Hê Thủ La”, tự tại nhất trong ba ngàn đại thiên thế giới. Vị Thiên Vương này có ba con mắt, tám tay, mỗi tay cầm giữ bảo kế, biến hóa vô cùng. Vị này cỡi con trâu trắng, tay cầm phất trần, cỡi trên lưng trâu, mắt thấu suốt tất cả, cảm thấy mình thanh cao tự tại hơn so với bất cứ ai, thấy các cõi trời khác đều thấp hơn. Vị này trong khoảng một niệm biết số lượng giọt nước mưa trong ba ngàn thế giới. Cõi trời này là trời Ngũ Bất Hoàn, cao nhất trong các cõi trời Sắc Cứu Kính. Cõi trời này chúng sinh tam quả A La Hán và bậc Bồ Tát Thập Tín ở. Những bậc lợi căn, trực tiếp ra khỏi tam giới, chứng quả vị vô học (tứ quả A La Hán hoặc Bát Địa Bồ Tát), Những kẻ độn căn, còn phải đến vô sắc giới (chẳng còn dâm dục, chẳng có thân thể, chỉ có tư tưởng) tu Tứ Không Định, sau đó mới ra khỏi tam giới, chấm dứt phần đoạn sinh tử.
Vị Thiên Vương thứ nhất tên là Diệu Diệm Hải. Vì vị này phóng ra lửa ngọn không thể nghĩ bàn, vô lượng vô biên giống như biển cả, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ hai tên là Tự Tại Danh Xưng Quang. Vì vị này vừa tự tại vừa có thanh danh, do đó mà vang danh khắp nơi, quang minh chiếu khắp, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ ba tên là Thanh Tịnh Công Ðức Nhãn. Vì vị này tu pháp môn thanh tịnh, đắc được công đức hơn hẳn các Vua Trời khác vạn phần, nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ tư tên là Khả Ái Lạc Ðại Huệ. Vì vị này có trí huệ rộng lớn khả ái khả lạc, chúng sinh thấy được vị này cũng đắc được trí huệ như thế, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ năm tên là Bất Ðộng Quang Tự Tại. Vì vị này ở trong định luôn luôn quán tự tại, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ sáu tên là Diệu Trang Nghiêm Nhãn. Vì vị này có ngàn tay ngàn mắt, để trang nghiêm diệu nhãn, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ bảy tên là Thiện Tư Duy Quang Minh. Vì vị này không khởi vọng tưởng, nhất tâm tư duy quang minh, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ tám tên là Khả Ái Lạc Ðại Trí. Vì vị này có trí đại Bát Nhã đáng thích đáng ưa, nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ chín tên là Phổ Âm Trang Nghiêm Tràng. Vì âm thanh của vị này đều nghe được khắp hết, dùng để trang nghiêm tràng báu, cho nên được tên này.
Vị Thiên Vương thứ mười tên là Cực Tinh Tấn Danh Xưng Quang. Vì vị này dũng mãnh tinh tấn nhất, danh xưng quang minh chiếu khắp, ai ai cũng biết, cho nên được tên này.
Có vô số bất khả danh xưng Ðại Tự Tại Thiên Vương như vậy làm thượng thủ, các vị này đều siêng quán sát pháp vô tướng, các hạnh đều bình đẳng.
Mười vị Ðại Tự Tại Thiên Vương này, đều làm thượng thủ trong chúng Đại Tự Tại Thiên Vương. Ngoài ra còn có vô lượng vô biên nhiều nói không hết được.
Những vị Ðại Tự Tại Thiên Vương này, đều luôn luôn quán sát pháp vô tướng người không pháp không. Vô tướng tức là : không tướng ta, không tướng người, không thấy tướng chúng sinh, không thấy tướng thọ mạng. Tu pháp quán sát tư duy. Tu pháp này chẳng còn tướng ta, thì chấp ta tức không, chẳng còn tướng người thì chấp pháp tức không, chẳng còn tướng chúng sinh thì chấp chúng sinh tức không, chẳng còn tướng thọ mạng thì chấp tướng thọ cũng không. Vì vô tướng, cho nên chẳng tranh ta người. Nếu chẳng tranh ta người thì chẳng còn thấy ta người và thấy thị phi. Các pháp hành đều là bình đẳng. Trên đây là chúng thứ mười hai Ðại Tự Tại Thiên Vương.
Ở trên đã giảng năm chúng thuộc về sắc giới, tức là : trời Sơ Thiền, trời Nhị Thiền, trời Tam Thiền, trời Tứ Thiền, trời Ngũ Bất Hoàn. Các vị Thiên Vương ở mỗi cõi trời đều là cảnh giới của Bồ Tát thị hiện. Cảnh giới này chẳng phải phàm phu đo lường minh bạch được, cõi trời Quảng Quả và trời Ðại Tự Tại đều là nơi trụ xứ của Bồ Tát thất địa và Bồ Tát bát địa, cho nên mới hành được pháp bình đẳng, lợi ích thế gian. Mỗi vị Thiên Vương đều tu trì đức hạnh cho chính mình.
Những Kinh văn đã giảng ở trên, là khen ngợi đức hạnh của các Ngài. Nếu giảng tỉ mỉ thì thần thông diệu dụng của mỗi vị Thiên Vương, đều không thể nghĩ bàn. Bây giờ chỉ là tuyển chọn những vị có đức hạnh để nói. Bổn lai thì thần thông của những vị Thiên Vương này, đều hổ tương đầy đủ. Nhưng bây giờ, là chiếu theo sự tu trì đặc biệt sở trường của các Ngài, hoặc là đức hạnh, do đó mà các vị này được tên.
Pháp bình đẳng là gì ? Tức là chẳng có tâm tham, chẳng có tâm sân, chẳng có tâm si. Biến tham sân si ba độc, thành giới định huệ ba học, do đó có câu :
“Siêng tu giới định huệ,
Diệt trừ tham sân si”.
Mười chữ này là pháp căn bản của người tu đạo. Ai làm được thì người đó có tư cách xưng là Sa môn.
Các vị đã từng nghe Kinh nhiều rồi, riêng pháp cơ bản quên mất rồi. Bây giờ tự hỏi mình, còn tâm tham chăng ? Còn tâm sân chăng ? Còn tâm si chăng ? Nếu còn thì có thể dùng pháp bố thí để trị tâm tham, dùng pháp môn từ bi để trị tâm sân, dùng pháp môn Bát Nhã để trị tâm si, đó là pháp bình đẳng.
Lúc này có người hỏi :”Nói về bình đẳng, phải chăng xem tâm tham có bao nhiêu ? Bố thí bao nhiêu ? Nếu nhiều, nửa tâm tham nửa bố thí, như vậy là bình đẳng chăng” ! Chẳng phải. Nếu bỏn xẻn và bố thí bình đẳng, sân hận và từ bi bình đẳng, ngu si và Bát nhã bình đẳng đó là giả bình đẳng chớ chẳng phải là chân thật bình đẳng. Tại sao ? Vì nửa âm nửa dương, phải hoàn toàn thuộc về dương thì mới là chân chánh bình đẳng.
Bây giờ đã giảng xong bốn mươi chúng, biển chúng vân tập tại Bồ Ðề Ðạo Tràng, cộng hết thảy có bốn trăm vị. Dưới đây là Kinh văn nói về nhân duyên quá khứ và pháp môn tu hành.
Bấy giờ, các biển chúng đều đã vân tập nơi Ðạo Tràng của đức Như Lai, có vô lượng vô biên phẩm loại, đầy khắp chung quanh Ðạo Tràng, hình tướng màu sắc mỗi bộ chúng đều khác nhau.
Lúc bấy giờ, đại chúng quang lâm đến Bồ Ðề Ðạo Tràng để nghe Kinh Hoa Nghiêm gồm có : Bồ Tát, Thánh hiền, chư thiên, thần chúng, quỷ chúng, đều vân tập trong pháp hội Hoa Nghiêm.
Ở trong biển chúng, đủ các loại vô lượng vô biên. Trên hết là mười phương chư Phật, dưới đến tất cả chúng sinh, bao quát chúng sinh trong mười pháp giới cũng đều ở trong đó. Cõi hư không chu vi Bồ Ðề Ðạo Tràng, đều đầy ắp vô lượng vô biên phẩm loại, chẳng có nơi nào trong một hạt bụi, chẳng phải là biển chúng vân tập, mỗi bộ chúng đều có hình tướng màu sắc khác nhau, mỗi bộ chúng đều có một vị Bồ Tát làm thượng thủ, đều có vô lượng vô biên quyến thuộc đi theo, mỗi vị thượng thủ thần chúng, cũng có vô lượng vô biên quyến thuộc, mỗi vị thượng thủ Thiên Vương, cũng có vô lượng vô biên quyến thuộc, đủ loại hình tướng màu sắc. Tuy nhiên rất nhiều phẩm loại, nhưng tơ hào không hỗn tạp lộn xộn.
Tùy theo phương hướng đến, đều gần gũi đức Thế Tôn, một lòng chiêm ngưỡng.
Những chúng sinh khác phẩm loại này, theo vị thượng thủ của họ đến, tùy theo phương hướng thảy đều đến gần trước Ðức Thế Tôn, nghe Phật thuyết pháp, chuyên tâm nhất ý, chiêm ngưỡng kim dung Lô Xá Na Phật ngàn trượng.
Các biển chúng trong hội này, đều đã dứt sạch tất cả phiền não, tâm cấu bẩn và các tập khí ô nhiễm.
Chúng sinh ở trong pháp hội Hoa Nghiêm này, đều đã diệt hết tất cả phiền não, tâm cấu và các ác tập khí mao bệnh khác.
Phiền não là gì ? Tức là cái ta, pháp hai cái chấp. Nếu còn chấp cái ta tức là có tham, sân, si ba độc phiền não, vô minh phiền não, trần sa phiền não. Lại có phiền não thô phiền não tế, phiền não lớn phiền não nhỏ. Tóm lại có rất nhiều phiền não. Nếu còn chấp pháp thì còn phiền não sở tri chướng. Ví như trong túi áo bạn có hạt minh châu từ trước, tuy nhiên không biết, nhưng hạt minh châu vẫn y nhiên còn đó. Bây giờ biết rồi, minh châu vẫn còn tồn tại. Bổn lai nên biết viên minh châu ở trong túi áo nhưng không biết. Bây giờ phát hiện đó là nguồn gốc nên biết, chẳng có gì để kiêu ngạo, càng chẳng có gì để tự mãn.
Tâm cấu là gì ? Tức là trong tâm đều nghĩ pháp ô nhiễm chẳng trong sạch, cho nên trong tâm bèn có bụi trần dơ bẩn. Nếu đoạn dục khử ái được, không nghĩ việc tình ái, thì tâm tự nhiên thanh tịnh.
Tập khí là gì ? Tức là những mao bệnh, những tập khí không thanh tịnh, giống như bụi tro ở trong khói ống tre, tích tụ mỗi ngày, lâu dần thì sẽ tích tụ khói bụi thành nhiều, vậy tập khí từ đâu đến ? Ðến từ tham sân si, tham có tập khí tham, sân có tập khí sân, si có tập khí si. Tóm lại có tư tưởng không trong sạch đó là tập khí.
Xô ngã núi chướng nặng, thấy Phật vô ngại. Ðại chúng này vô lượng biên kiếp trong quá khứ, đều cùng với Tỳ Lô Giá Na Như Lai tu hạnh Bồ Tát. Như Lai dùng bốn pháp nhiếp mà nhiếp thọ họ.
Vô minh chướng nặng của chúng ta kiên cố giống như núi. Cho nên phải phá tan núi chướng nặng. Nhưng làm sao mới có thể phá tan tiêu diệt nó được ? Tức là phải xa rời phiền não, xa rời tâm cấu bẩn, xa rời tập khí mao bệnh. Như vậy thì sẽ thấy được Phật mà chẳng có gì chướng ngại được.
Ở trên đã giảng qua rất nhiều đại chúng, các vị đó trong quá khứ đều hành Bồ Tát đạo, siêng tu hạnh Bồ Tát với thanh tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật, trải qua thời gian lâu dài biển đại kiếp.
Bồ Tát tu pháp môn bốn pháp nhiếp tức là : Bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự. Các vị Bồ Tát đều biết hành bốn pháp nhiếp này, thì sẽ khiến cho chúng sinh thương tôi, kính tôi, tin tôi, sau đó mới nghe tôi khuyên dạy, chịu sự huân tập của tôi mà tín ngưỡng Phật pháp. Lúc đó Tỳ Lô Giá Na Phật dùng bốn pháp nhiếp để nhiếp thọ đại chúng trong pháp hội này.
Tại nơi mỗi vị Phật, khi trồng căn lành, thì họ đều đã được khéo nhiếp thọ. Dùng nhiều phương tiện giáo hóa thành thục, khiến cho họ an trụ nơi đạo Nhất thiết chủng trí. Trồng vô lượng nhân lành, đắc được vô biên phước lớn. Thảy đều đã nhập vào biển nguyện phương tiện.
Ở tại chỗ mỗi vị Phật, khi chúng sinh trồng căn lành thì đều dùng bốn pháp nhiếp, để nhiếp thọ tất cả chúng sinh, dùng nhiều pháp phương tiện để giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều thành thục, an trụ vào đạo nhất thiết trí, đắc được đạo nhất thiết chủng trí.
Ở trên đã nói về các chúng Trời, chúng Rồng, chúng quỷ thần, tất cả đều ở trong vô lượng kiếp quá khứ, gần gũi Phật Tỳ Lô Giá Na, trồng đủ căn lành ở trong pháp hội, an trụ nơi đạo nhất thiết trí (trồng tất cả nhân Phật, kết tất cả quả Phật). Các vị đó trồng vô lượng căn lành, ở trong vô lượng kiếp tu phước huệ, cho nên bây giờ đắc được vô lượng đại phước báu, đều vào biển nguyện phương tiện.
Biển nguyện phương tiện là gì ? Tức là tu đạo phải phát nguyện, dùng pháp môn quyền xảo phương tiện, để độ tất cả chúng sinh. Thứ nguyện này rộng lớn như biển cả. Tu đạo phải đủ ba điều kiện mới vào được biển nguyện phương tiện.
Thứ nhất : Phải có tâm tin, tin rằng mình tương lai có thể thành Phật.
Thứ hai : Phải có tâm nguyện, phát nguyện tương lai thành Phật rồi nhất định rộng độ chúng sinh.
Thứ ba : Phải có tâm hành, đã có tin và nguyện mà không cung hành thực tiễn, không tinh tấn tu hành thì chẳng có ích gì.
Sự thực hành thảy đều hoàn toàn thanh tịnh, đã khéo thoát khỏi, thường thấy đức Phật được rõ ràng, dùng sức hiểu biết thù thắng, nhập vào biển lớn công đức của Như Lai.
Lập được biển nguyện rồi, còn phải thành thật tu hành. Tu các hạnh môn phải hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, đó là con đường thoát khỏi. Thoát khỏi cái gì ? Thoát khỏi nhà lửa ba cõi. Nhà lửa ba cõi chẳng dễ gì ra khỏi. Ra khỏi được ba cõi, đó gọi là khéo thoát khỏi.
Các Thánh chúng này đều thường thấy được Phật, vì các Ngài đều đã ra khỏi được nhà lửa ba cõi. Phật là vô tại vô bất tại, vô sở bất tại (chẳng có nơi nào mà không có). Vậy tại sao có người thấy được Phật ? Có ngươi chẳng thấy Phật ? Vì chỉ có người nào đầy đủ tâm thanh tịnh, mới có thể thấy được Phật, người tâm không thanh tịnh thì chẳng thấy Phật. Có người thấy Phật nhưng không rõ ràng, có người tuy nhiên thấy Phật rõ ràng nhưng không thường thấy. Bây giờ các Thánh chúng này, không những luôn luôn thấy Phật mà còn thấy rất rõ ràng, cho nên nói là thấy Phật rõ ràng.
Các Thánh chúng này dùng sức hiểu biết thù thắng, dùng đại trí huệ để minh bạch tất cả, đã vào trong biển lớn công đức của Như Lai. Công đức này đồng với Phật, cho nên nói là vào trong biển lớn công đức của Như Lai.
Ðược môn du hí thần thông giải thoát của các đức Phật.
Vì nhập vào biển lớn công đức của Như Lai, cho nên đắc được môn giải thoát của các đức Phật, tức cũng là đắc được chân chánh tự tại, chẳng có phiền não, đắc được thần thông du hí. Các chúng ở trên đều đã đạt được cảnh giới vô ngại này.
Giải thoát là gì ? Tức là cởi mở sự trói buộc sự thấy và nghĩ hai hoặc của ba cõi, thoát khỏi quả khổ ba cõi sinh già bệnh chết, chẳng còn phần đoạn sinh tử là giải thoát của A La Hán ; chẳng còn biến dịch sinh tử là giải thoát của Bồ Tát.
Du hí là gì ? Tức là do chân hiện vọng, do vọng hiện chân, chân vọng không hai, chân vọng vốn không, dùng pháp quyền xảo phương tiện để độ chúng sinh thoát khỏi tam giới.
Thần thông là gì ? Những vật hiện ra, chợt lớn chợt nhỏ, chợt có chợt không, biến hóa khó dò, người có những cảnh giới này, có thể nói là đã chứng quả.
Ở trên là nói về các pháp môn tu hành của Bồ Tát, chư Thần Thiên Vương biển chúng, tu hành thành tựu thì đắc được giải thoát. Dưới đây là nói về sự chứng đắc môn giải thoát và bài kệ của các vị đó.
Diệu Diệm Hải Ðại Tự Tại Thiên Vương, được môn giải thoát, sức phương tiện tịch tĩnh, khắp pháp giới hư không giới.
Ở trên đã giảng qua mười vị Ðại Tự Tại Thiên Vương, có vị Thiên Vương tên là Diệu Diệm Hải. Vị này đắc được môn giải thoát sức phương tiện tịch tĩnh pháp giới hư không giới.
Pháp giới là gì ? Pháp giới không ra ngoài một tâm, một tâm bao khắp pháp giới, do đó :‘’ Nhứt tâm bất ly thập pháp giới.’’ Nghĩa là pháp giới chẳng ra ngoài một tâm niệm.
Hư không giới là gì ? Tức là tự tính con người, cấu bẩn gì cũng chẳng có, giống như hư không thanh tịnh trong sáng.
Tịch tĩnh là gì ? Tức là định. Phương tiện là gì ? Tức là động. Ðịnh động đều giải thoát, lúc này động không ngại tĩnh, tĩnh không ngại động, động tĩnh nhất như.
Môn giải thoát là gì ? Trước hết phải nói rõ, đừng nhận rằng có môn (cửa), ‘’môn‘’ này chỉ là ví dụ. Nếu có ‘’môn‘’ thì không thể giải thoát được, cho nên đừng chấp trước chữ nghĩa. Nếu ra vào chẳng có chướng ngại, thì đó là thật giải thoát. Nếu có ‘’môn‘’ thì ở trong môn là giải thoát, ở ngoài môn thì chẳng phải giải thoát. Ở ngoài môn là giải thoát, thì ở trong môn lại chẳng giải thoát. Như vậy vẫn chưa viên mãn. Nếu ở trong ‘’môn‘’ ngoài ‘’môn‘’ đều giải thoát, thì còn cần ‘’môn‘’ này để làm gì ? Cho nên nói ‘’môn‘’ này là vô hình, là một ví dụ mà thôi. Nếu muốn chân chánh đắc được tự tại, đắc được giải thoát, thì phải thật đắc được từ trong tâm, không cần tìm ‘’môn‘’ (cửa) trên sự giải thoát. Ðây chỉ là ‘’môn‘’ trên văn tự, chẳng phải ‘’môn‘’ thực tế. Ðiểm này phải nhận thức rõ ràng !
Nếu nhận định cần chấp trước đi tìm ‘’môn‘’. Vậy từ ‘’môn‘’ này đi vào lại đi ra từ môn nào ? Cho nên trước hết phải hiểu ý nghĩa môn giải thoát mới hiểu được nghĩa chân thật.
Tự Tại Danh Xưng Quang Thiên Vương, được môn giải thoát, quán tất cả các pháp thảy đều tự tại.
Vị Thiên Vương này tên là Danh Xưng Quang. Vị này đắc được môn giải thoát : quán sát khắp tất cả các pháp môn, bất cứ tâm pháp và sắc pháp gì, cho đến tất cả các pháp đều tự tại vô cùng.
Thanh Tịnh Công Ðức Nhãn Thiên Vương, được môn giải thoát, vô công dụng hạnh biết tất cả các pháp, không sinh không diệt, không đến không đi.
Vị Thiên Vương này tên là Thanh Tịnh Công Ðức Nhãn, quang minh thanh tịnh của vị này, khắp cùng hư không pháp giới. Chỗ đắc của vị này là minh bạch tất cả các pháp, vốn không sinh không diệt, không đến không đi, đó là công vô công, dụng vô dụng, không cần tạo tác, càng không cần miễn cưỡng, đó gọi là vô công dụng hạnh.
Vì nó không sinh không diệt, cho nên không đến không đi ; vì nó không đến không đi, cho nên không sinh không diệt, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Khả Ái Lạc Ðại Huệ Thiên Vương được môn giải thoát, biển trí huệ hiện thấy tướng chân thật của tất cả các pháp.
Vị Thiên Vương này tên là Khả Ái Lạc Ðại Huệ. Chỗ đắc được của vị này là, môn giải thoát trí huệ như biển cả, hiện thấy tất cả tướng chân thật của các pháp. Hiện thấy tức là chỗ thấy hiện tại. Tướng chân thật tức là vô tướng, vô tướng vô bất tướng.
Bất Ðộng Quang Tự Tại Thiên Vương được môn giải thoát, đại định phương tiện, đem lại vô biên an lạc cho chúng sinh.
Vị Thiên Vương này tên là Bất Ðộng Quang Tự Tại, nhập vào trong định đại phương tiện, ban cho tất cả chúng sinh vô biên an lạc. Vô biên tức là chẳng có bờ mé, an lạc tức là chẳng có phiền não. Ðó là môn giải thoát đại phương tiện định của vị này đắc được.
Diệu Trang Nghiêm Nhãn Tự Tại Thiên Vương, được môn giải thoát, diệt sự ngu si đen tối và sợ hãi, làm cho chúng sinh quán sát được pháp tịch tĩnh.
Vị Thiên Vương này tên là Diệu Trang Nghiêm Nhãn. Vị này đắc được môn giải thoát, tiêu diệt tất cả ngu si đen tối và sợ sệt, khiến cho chúng sinh quán sát được pháp tịch tĩnh.
Thiện Tư Duy Quang Minh Thiên Vương, được môn giải thoát, chẳng khởi tư duy nghiệp tất cả các cõi, khéo nhập vào cảnh giới không bờ mé.
Vị Thiên Vương này tên là Thiện Tư Duy Quang Minh. Vị này đắc được môn giải thoát, chẳng khởi nhân tư duy tạo nghiệp (tức chấp trước vào tam giới hai mươi lăm cõi) khéo nhập vào cảnh giới chẳng có bờ mé.
Khả Ái Lạc Ðại Trí Thiên Vương, được môn giải thoát, bất động không chỗ nương, đến khắp mười phương để thuyết pháp.
Vị Thiên Vương này tên là Khả Ái Lạc Ðại Trí. Vị này đắc được môn giải thoát, đến khắp mười phương thuyết pháp, nhưng thân khắp mười phương, mà không chỗ nương. Ðó là không đến không đi mà bất động. Không chỗ nương tức là không nương tựa người, cũng không nương tựa pháp, cho nên gọi là môn giải thoát không chỗ nương.
Phổ Âm Trang Nghiêm Tràng Thiên Vương, được môn giải thoát, phổ hiện quang minh, nhập vào cảnh giới tịch tĩnh của Phật.
Vị Thiên Vương này tên là Phổ Âm Trang Nghiêm Tràng. Vị này đắc được định và huệ của Phật, do đó mà đắc được cảnh giới, phổ hiện quang minh tịch tĩnh, vị này dùng trí huệ âm để trang nghiêm tràng báu. Ðó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Danh Xưng Quang Thiện Tinh Tấn Thiên Vương, được môn giải thoát, ngộ được cảnh giới rộng lớn vô biên làm sở duyên.
Vị Thiên Vương này tên là Danh Xưng Quang Thiện Tinh Tấn. Vị này được môn giải thoát : ngộ được cảnh giới rộng lớn vô biên, dùng cảnh giới này làm nhân duyên sở tu, để nghiên cứu quán sát.
Bấy giờ, Diệu Diệm Hải Thiên Vương, nương thần lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Trời Tự Tại mà nói ra bài kệ.
Sau khi vị Tự Tại Thiên Vương thứ mười nói ra môn giải thoát đã chứng được thì, vị Diệu Diệm Hải Thiên Vương, nương thần thông oai lực của chư Phật, quán sát khắp tất cả chúng Trời Ðại Tự Tại, mà nói bài kệ này, thuật lại cảnh giới đã chứng được. Vị này dùng kệ để khen ngợi công đức của Phật. Kệ có bốn tên gọi:
- A Nậu Tốt Thị Bà : Kệ này bất cứ là trường hàng hoặc là kệ ngắn, phàm là đủ ba mươi hai chữ (tức là tám chữ thành một câu, bốn câu thành kệ) thì thành một bài kệ.
- Già Ðà : Dịch là “phúng tụng”, là ca xướng ; hoặc là cô tụng, cô khởi hoặc là trực tụng, trực tiếp thuyết pháp. Kệ dưới đây là Già Ðà tụng, trực tiếp tán thán công đức của Phật.
- Kì Dạ : Dịch là “ưng tụng”, là tụng lại những gì chính đáng quan trọng, để biểu thị diễn đạt đại ý của Kinh văn, tức cũng là trùng tụng.
- Ốt Ðà Nam : Dịch là “tập thí tụng”, tức là dùng rất ít chữ, mà bao hàm rất nhiều ý nghĩa, tức cũng là thi ca.Tại sao trong Kinh điển dùng nhiều kệ tụng ? Vì có tám ý nghĩa.
1. Dùng chữ ít mà nhiếp nhiều nghĩa.
2. Khen ngợi các đức Phật biểu thị sự tôn kính.
3. Vì chúng sinh độn căn mà nói lại, khiến cho họ thấu hiểu.
4. Vì người sau này nói lại một lần.
5. Tùy tiện lạc thuyết, tùy ý của mình mà hoan hỷ để nói.
6. Vì dễ nhớ, dễ thọ trì.
7. Vì tăng cường sức nhớ, nói lại đại ý trường hàng.
8. Ở trong trường hàng không nói, dùng kệ tụng để nói.
Kệ, dịch là “tụng”, tụng là tán dương công đức của người, ca tụng công đức. Trong nhà Phật từ cú ca xướng gọi là kệ, từ cú của một số văn nhân ca xướng gọi là thơ. Kệ ở Ấn Ðộ là ba mươi hai chữ, kệ ở Trung Quốc hoặc là mười sáu chữ, hai mươi chữ, hai mươi bốn chữ, hai mươi tám chữ .v.v.
Vị Diệu Diệm Hải Thiên Vương này, nương thần lực của các đức Phật, quan sát hết thảy Thiên chúng trời Tự Tại, mà nói kệ tụng, tán thán công đức của Phật. Tại sao phải nói nương oai thần lực của Phật ? Mà không nói là sức lực của mình ? Vì tôn trọng người chủ thuyết pháp, biểu thị không có tâm cống cao ngã mạn. Tất cả Bồ Tát và tất cả Thánh chúng, chẳng có tâm cống cao, (cống cao tức là kiêu ngạo, khinh khi người, chẳng xem ai ra gì) cũng chẳng có tâm ngã mạn (ngã mạn tức là tự đại, cho rằng việc gì cũng đều giỏi hơn người). Các Ngài cho rằng sự thành tựu thần thông biến hóa diệu dụng của mình, đều là nhờ mười phương chư Phật gia bị, là nhờ Phật pháp mà hiểu được đạo lý này mà đi tu hành. Những gì thành tựu đều là nhờ oai lực của Phật. Nếu như chẳng phải nhờ oai lực của Phật, thì vốn không thể tu hành, càng không thể có thần thông diệu dụng. Bây giờ đã có tất cả thần thông rồi, đó đều là do Phật pháp sinh ra, nẩy mầm trưởng thành ở trong Phật pháp, và còn thành tựu ở trong Phật pháp, cho nên nói nương oai lực của Phật.
Chẳng phải chỉ nương đại oai thần lực của Phật Thích Ca, Lô Xá Na Phật, hoặc Tỳ Lô Giá Na Phật, mà là nương đại oai thần lực của mười phương chư Phật, tận cùng hư không khắp pháp giới mà nói kệ tụng này.
Thân Phật khắp cùng các đại hội
Ðầy khắp pháp giới không cùng tận
Tịch tĩnh không tánh không thể lấy
Vì cứu thế gian mà xuất hiện.
‘’ Thân Phật khắp cùng các đại hội.’’ Thân Phật này là nói Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni. Khắp cùng tức là vô tại vô bất tại (chỗ nào cũng có thân Phật), chẳng có trong một hạt bụi nào mà chẳng phải là chỗ sở tại của thân Phật. Các đại hội tức là đại pháp hội chư Phật thuyết pháp.
Phật Phật đạo đồng, Ðức Phật kia thuyết pháp, Ðức Phật này ủng hộ pháp hội. Ðức Phật này thuyết pháp, Ðức Phật kia ủng hộ pháp hội, cho nên nói thân Phật khắp cùng các đại hội.
‘’ Ðầy khắp pháp giới không cùng tận.’’ Thân Phật không những biến hoá khắp các đại hội, mà còn đầy khắp tận cùng hư không biến pháp giới, tất cả thế giới vô cùng tận. Tóm lại thế giới này thế giới kia, vô lượng các thế giới ; cõi nước này, cõi nước kia, vô lượng các cõi nước đều đầy khắp thân Phật, cho nên nói đầy khắp pháp giới không cùng tận.
‘’ Tịch tĩnh không tánh không thể lấy.’’ Thân Phật tuy nhiên khắp cùng các đại hội, đầy khắp pháp giới, nhưng Ngài là vắng lặng, vô tướng, lấy mà không thể được, xả bỏ cũng không thể được. Nói cho dễ hiểu là lấy cũng chẳng có, mà xả bỏ cũng chẳng có. Chính vì bổn lai chẳng có, cho nên chẳng có gì có thể giữ, càng chẳng có gì có thể bỏ.
Vậy, rõ là các pháp vốn thường vắng lặng, Phật lại cần gì xuất hiện ra đời ? Trong Kinh Pháp Hoa có nói : ‘’ Phật vì một đại sự nhân duyên mà hiện ra đời.’’ Ðại sự gì ? Tức là vấn đề sinh tử. Phật muốn nói với chúng sinh rằng sinh từ đâu đến và chết sẽ đi về đâu, khiến cho chúng sinh chấm dứt thoát tử, đạt đến Niết Bàn bờ bên kia.
‘’ Vì cứu thế gian mà xuất hiện.’’ Phật thấy chúng sinh trầm luân trong biển ái, không cách chi ra khỏi được, mới phát tâm đại từ bi đến thế giới Ta Bà, cứu tất cả chúng sinh thế gian, khiến cho lìa khổ được vui. Nhưng chúng sinh không nghe sự giáo hóa của Phật, còn hồ đồ mê muội tham luyến sự khổ não của thế giới này. Ý niệm trước thì muốn lìa khỏi thế giới năm trược này, ý niệm sau thì chẳng muốn lìa khỏi, cuối cùng thì không lìa khỏi được. Cho nên Phật đến thế giới này, khuyến hóa và nói với chúng sinh : ‘’ Hãy mau sớm tỉnh mộng ! Sớm trở về ngôi nhà thật của mình ! Ðừng lang thang ở bên ngoài ! Ðừng mê hồ như thế, quên mất nguồn gốc ! ‘’
Như Lai Pháp Vương hiện ra đời
Thắp đèn diệu pháp chiếu thế gian
Cảnh giới vô biên cũng vô tận
Môn này Tự Tại Danh chứng được.
‘’ Như Lai Pháp Vương hiện ra đời.’’ Như Lai là một trong mười danh hiệu của Ðức Phật. Ý nghĩa Như Lai là “không từ chỗ nào đến, cũng không đi về đâu” ; chỗ đến không thể đắc được, chỗ đi không thể đắc được. Nghĩa là tận hư không khắp pháp giới, đều là pháp thân của Như Lai. Vì nguyên nhân này cho nên đến lại từ đâu đến ? Không đến mà đến. Ði lại đi về đâu ? Không đi mà đi. Ðó gọi là không động đạo tràng, đến khắp pháp giới, cho nên gọi là Như Lai.
Pháp Vương là tên gọi tổng quát. Pháp tức là Phật pháp, Phật pháp có bao nhiêu ? Nếu nói rộng thì có vô lượng vô biên, nhiều như số cát sông Hằng (vì cát sông Hằng mịn như bột mì, đó là hình dung số lượng không cách chi đếm được). Nếu nói tổng quát thì có bốn vạn tám ngàn pháp môn. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, quy nạp vào thì có năm thứ pháp. Năm thứ pháp là gì ? Tức là : Sắc pháp, tâm pháp, tâm sở pháp, bất tương ưng pháp, vô vi pháp. Vạn pháp không ra ngoài phạm vi năm pháp này.
Những pháp này ai cũng có thể diễn nói. Trời người có thể thuyết pháp, A La Hán có thể thuyết pháp, Bích Chi Phật, Bồ Tát, chư Phật càng có thể thuyết pháp. Nhưng chỉ có Phật mới có thể xưng là Pháp Vương, tức là vua nói pháp, ngoài ra chỉ xưng là người thuyết pháp, không thể xưng là pháp vương.
Vua thuyết pháp, tại sao xuất hiện ra đời ? Vì Phật thấy thế giới quá ô nhiễm, tâm của chúng sinh quá đen tối. Phật vì muốn phá vô minh của chúng sinh, khiến cho thế giới sáng sủa, cho nên Như Lai Pháp Vương mới xuất hiện ra đời.
‘’ Ðèn diệu pháp chiếu sáng thế gian.’’ Như Lai dùng đèn diệu pháp để chiếu soi khắp thế gian. Phật pháp giống như đèn sáng chiếu đến chỗ đen tối, khôi phục ánh sáng. Do đó có câu : ‘’Phật quang phổ chiếu, lợi ích quần sinh.’’ Trước khi Phật hiện ra đời, thế gian này là đen tối. Sau khi Phật hiện ra đời, dùng đèn diệu pháp chiếu sáng thế gian. Ánh sáng đèn diệu pháp này, có công năng diệu dụng không thể tả được, khiến cho chúng sinh bỏ mê về với giác, cải tà về chánh, trở về nguồn cội, đắc được chân chánh tự tại, thật là không thể nghĩ bàn !
Muốn trở về nguồn cội, thì trước hết phải dứt sinh tử, sinh tử không dứt, thì không thể trở về nguồn cội. Muốn dứt sinh tử, trước hết phải dứt hẳn tâm dâm dục. Nếu không dứt hẳn tâm dâm dục thì, không những không cách chi dứt sinh tử, càng không cách chi ra khỏi tam giới. Trong Kinh Lăng Nghiêm nói :
“Tâm dâm dục không trừ,
Không thể ra khỏi trần lao”.
Không trừ tâm dâm, mà muốn thành tựu đạo nghiệp, thì giống như nấu cát làm cơm, người ngu nói mộng, đó là việc tuyệt đối không thể được !
‘’Cảnh giới vô biên cũng vô tận.’’ Cảnh giới của Như Lai chẳng có bờ bến, chẳng có cùng tận, trùng trùng vô tận, vô tận trùng trùng. Viên dung vô ngại, vô ngại viên dung, cảnh giới này không thể dùng lời ví dụ được.
‘’Môn này Tự Tại Danh chứng được.’’ Vị Tự Tại Danh Xưng Quang Thiên Vương đã chứng được cảnh giới này.
Phật không nghĩ bàn lìa phân biệt
Thấy rõ mười phương chẳng có tướng
Vì đời rộng mở đạo thanh tịnh
Như thế Tịnh Nhãn quán thấy được.
‘’ Phật không nghĩ bàn lìa phân biệt.’’ Phật là nửa chữ Phạn, đầy đủ là Phật Ðà Gia. Phật Ðà Gia dịch là “giác giả”, tức là bậc giác ngộ. Giác ngộ cái gì ? Giác ngộ pháp thế gian là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã. Pháp xuất thế gian là thường, là lạc, là ngã, là tịnh. Nói đơn giản, giác ngộ những gì mê hoặc chúng sinh, biết rõ những gì chúng sinh chấp trước, buông bỏ những gì chúng sinh buông bỏ chẳng đặng. Giác ngộ tất cả các pháp, đều là từ duyên mà sinh, từ duyên mà diệt. Do đó : ‘’ Ba giác tròn, vạn đức đầy.’’ Tức là Phật. Vậy ba giác là gì ?
- Tự giác : Tức là tu pháp Bốn Diệu Ðế hoặc là pháp Mười Hai Nhân Duyên mà giác ngộ. Nhị thừa là tự giác, phàm phu thì không giác. Cho nên nói tự giác và phàm phu chẳng giống nhau.
Có người cho rằng mình là giác, thực ra là mê trong mê, tại sao ? Vì họ không những không nhận thức được giác, mà cũng không nhận thức được mê. Phải biết, không giác tức là mê, mê tức là hồ đồ, tự mình cho rằng không mê, loại người này đáng thương xót nhất !
- Giác tha : Tức là tu pháp Lục độ, tự mình minh bạch rồi, cũng dạy người khác minh bạch, cho nên nói giác tha khác với Nhị thừa. Nhị thừa là tự giác, Bồ Tát là giác tha.
Bậc Nhị thừa tự mình đã giác ngộ pháp sinh tử rồi, không muốn đi giáo hóa kẻ khác, chỉ muốn làm liễu hán, mà không muốn hành Bồ Tát đạo.
- Giác mãn : Tức là tự giác huệ đầy, giác tha phước đầy, phước huệ đều đủ, vạn đức tròn đầy. Ðức Phật là giác mãn, cho nên nói giác mãn khác với Bồ Tát.
Bồ Tát tuy nhiên trí huệ tự giác viên mãn rồi, nhưng công đức giác tha chưa đầy đủ, cho nên tận sức hành Bồ Tát đạo, tăng trưởng phước đức.
Cảnh giới của Phật không thể dùng tâm thức của chúng ta để phân biệt. Trong bổn Kinh Hoa Nghiêm này có nói :
“Nếu người muốn biết cảnh giới Phật,
Hãy tịnh ý mình như hư không”.
Nếu có người muốn biết cảnh giới của Phật, nên thanh tịnh ý niệm của mình, khiến cho giống như hư không, không có phân biệt, không có chấp trước, mới có thể minh bạch được một chút cảnh giới của Phật.
‘’ Thấy rõ mười phương chẳng có tướng.’’ Tướng của Phật là vô tướng, chẳng phải không có tướng, mà là tướng của Phật tuy nhiên tận hư không khắp pháp giới, nhưng chúng ta không cách chi thấy được tướng của Phật, không cách chi minh bạch được tướng của Phật, tại sao ? Vì chúng ta ở trong tướng của Phật, không biết tướng của Phật cỡ nào ? Cho nên nói thấy rõ mười phương chẳng có tướng.
‘’ Vì đời rộng mở đạo thanh tịnh.’’ Phật vì tất cả chúng sinh thế gian, rộng mở đủ loại đạo thanh tịnh, lập đủ loại phương tiện pháp môn, để giáo hóa tất cả chúng sinh, độ tất cả chúng sinh.
Ðạo thanh tịnh là gì ? Thanh tịnh là chẳng có tư tưởng ô nhiễm, đạo là con đường. Ðức Phật giáo hóa chúng sinh tu pháp chẳng có ô nhiễm, đi trên con đường chẳng có nhiễm ô, như thế mới có thể ra khỏi trần lao.
‘’ Như thế Tịnh Nhãn quán thấy được.’’ Diệu pháp thanh tịnh và đạo thanh tịnh như thế, chỉ có Thanh Tịnh Công Ðức Nhãn Thiên Vương, mới quán sát được và biết rõ được cảnh giới vô tướng của Phật.
Trí huệ Như Lai không bờ mé
Tất cả thế gian không lường được
Dứt trừ si tối của chúng sinh
Ðại Huệ thâm nhập pháp môn này.
‘’ Trí huệ Như Lai không bờ mé.’’ Trí huệ của Phật chẳng có bờ mé, chẳng có hạn lượng. Giáo nghĩa của Phật giáo cũng không bờ mé. Bất cứ là Phật giáo đồ, hoặc không phải là Phật giáo đồ, đều bao quát ở trong Phật giáo. Tin hay không tin, chỉ là vấn đề thời gian sớm muộn mà thôi, thành Phật không thành Phật cũng là vấn đề sớm muộn.
Tại sao nói Phật giáo chẳng có bờ mé ? Vì tâm chúng sinh chẳng có bờ mé, nghĩa là tâm chúng sinh lớn bao nhiêu, thì Phật giáo lớn bấy nhiêu. Bất cứ bạn tin Phật hay không tin Phật, đều ở trong phạm vi Phật giáo, không thể ra ngoài Phật giáo. Phật pháp tận cùng hư không khắp pháp giới, chẳng có giới hạn. Bất cứ là hữu tình (động vật) hoặc vô tình (khoáng thực vật) đều có Phật tính. Phật tính là bình đẳng, chẳng có khác biệt. Cho nên Phật giáo chủ trương tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật, chẳng có phân biệt, chẳng có đẳng cấp, một luật bình đẳng, đó là chỗ tư tưởng vĩ đại của Phật giáo.
Bây giờ có người không tin Phật pháp, tương lai cuối cùng sẽ tin. Bây giờ không thành Phật, tương lai nhất định sẽ thành Phật. Chỉ cần bạn chịu tinh tấn tu hành, thì nhất định có hy vọng. Phật thì không nói dối, tuyệt đối không nói lời lường gạt chúng sinh.
‘’ Tất cả thế gian không lường được.’’ Tất cả người thế gian đều không thể lường được trí huệ của Phật nhiều bao nhiêu ? Cũng không thể biết được trí huệ của Phật rộng lớn cỡ nào ? Tại sao ? Vì trí huệ của Phật không có bờ mé, là không thể nghĩ bàn.
‘’ Diệt trừ si tối của chúng sinh.’’ Phật dùng trí huệ rộng lớn, để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh bỏ mê về giác, phá trừ ngu si đắc được trí huệ. Phật vĩnh viễn diệt trừ tâm ngu si đen tối của tất cả chúng sinh, tức cũng là phá vô minh của chúng sinh, làm cho chúng sinh đắc được quang minh trí huệ.
‘’ Ðại Huệ thâm nhập pháp môn này.’’ Cảnh giới này, vị Khả Ái Lạc Ðại Huệ Thiên Vương, thâm nhập thấu rõ hiểu được trí huệ không ngằn mé của Phật, an trụ ở trong tam muội này.
Công đức Như Lai không nghĩ bàn
Chúng sanh thấy được diệt phiền não
Khiến khắp thế gian được an lạc
Bất Ðộng Tự Tại Thiên thấy được.
‘’ Công đức Như Lai không nghĩ bàn.’’ Như Lai làm thế nào mà tu thành ? Vì có công đức, cho nên mới thành Phật. Công đức của Phật tâm không thể suy nghĩ, không thể luận bàn.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Phẩm Vào Pháp Giới có bài kệ rằng :
“Bụi cõi tâm niệm đếm biết được,
Nước trong biển lớn uống hết được,
Hư không lường được, gió buộc được,
Không thể nói hết công đức Phật”.
Số hạt bụi trong thế giới nhiều vô số, mỗi chúng sinh trên thế giới khởi tâm động niệm, đều có thể biết ; nước trong biển lớn có thể uống hết được, tuy nhiên hư không vô biên, cũng có thể trắc lượng được ; gió lớn tuy không có hình tướng cũng có thể buộc nó lại được, nhưng không ai có thể biết được công đức của Phật, cho nên nói công đức Như Lai không thể nghĩ bàn.
‘’ Chúng sinh thấy được diệt phiền não.’’ Vì Phật đều từ bi đối với tất cả chúng sinh, chúng sinh thấy được bèn sinh tâm hoan hỷ, cho nên chúng sinh thấy được Phật, thì phiền não tiêu sạch, đó là sự cảm ứng của công đức.
‘’ Khiến khắp thế gian được an lạc.’’ Phật làm cho tất cả chúng sinh trên thế gian, đắc được an lạc chân chánh. Do đó :
“Thân thư thái không nguy là an,
Tâm sáng suốt không buồn là lạc”.
Ðó là an lạc nhỏ, đắc được Niết Bàn bốn đức, là đại an lạc. Phật khiến cho chúng sinh an trụ, nơi an lạc cõi Tịnh Ðộ Thường Tịch Quang.
‘’ Bất Ðộng Tự Tại Thiên thấy được.’’ Cảnh giới này, vị Bất Ðộng Tự Tại Thiên Vương thấy được, mà vào môn giải thoát này.
Chúng sinh si tối thường mê muội
Như Lai mở bày pháp tịch tĩnh
Là đèn trí huệ chiếu thế gian
Diệu Nhãn biết được phương tiện này.
‘’ Chúng sinh si tối thường mê muội.’’ Chúng sinh là gì ? Tức là chúng duyên giả hợp mà sinh. Ví như thực vật, trước hết phải có hạt giống, sau đó mới được thiên thời, địa lợi, nhân hòa ba điều kiện chi phối.
Trước hết phải có đất ướt, công sức nông dân, khí hậu ôn hòa, thì hạt giống mới sinh trưởng được, mới mong thu hoạch. Mùa xuân là thời kỳ gieo trồng, mùa hạ là thời kỳ canh tác trồng trọt, mùa thu thì thu hoạch, mùa đông thì cất vào kho. Bốn thời kỳ này phân ra có đủ : Thành, trụ, hoại, không bốn tướng. Gieo cấy là thời kỳ thành, canh tác trồng trọt là thời kỳ trụ, thu hoạch là thời kỳ hoại, cất vào kho là thời kỳ không. Cho nên nói thành trụ hoại không đều có thời kỳ.
Nếu như chỉ có đất mà không có duyên nước, thì hạt giống không thể sinh trưởng nảy mầm. Có đất, có mưa mà không có người gieo trồng, thì cũng không thể phát sinh được. Cho nên phải có các nhân duyên hòa hợp mới thành chúng sinh.
Chúng sinh nói ở đây, chẳng riêng gì chỉ con người mà nói, cho đến bao quát : Thai, noãn, thấp, hóa bốn loài. Nói tỉ mỉ thì có chín loài, mười hai loài .v.v. Nhưng chúng sinh phần nhiều ngu si, cho nên gọi là si ám. Si ám này, nói về phương diện thô tức là phiền não (phiền thân não tâm), nói về phương diện tế là vô minh. Chúng sinh thường bị vô minh phiền não mê hoặc, che lấp chân tâm thanh tịnh quang minh.
‘’ Như Lai mở bày pháp tịch tĩnh.’’ Vì chúng sinh thường bị ngu si che lấp, không tiếp thọ được sự giáo hóa của Phật, cho nên Phật vốn dùng bốn tâm vô lượng, vì chúng sinh mà thuyết pháp. Bốn tâm vô lượng là
1. Tâm từ vô lượng .
2. Tâm bi vô lượng.
3. Tâm hỷ vô lượng.
4. Tâm xả vô lượng.
Nói pháp gì ? Nói pháp tịch tĩnh. Pháp tịch tĩnh là gì ? Tức là tu thiền định.
‘’ Là đèn trí huệ chiếu thế gian.’’ Phật dạy chúng sinh tu pháp tịch tĩnh, pháp tịch tĩnh tức là đèn đại trí huệ chiếu sáng khắp thế gian. Thiền tức là định, định khống chế được các vọng tưởng, đến cảnh giới một niệm không sinh thì, trí huệ quang hiện tiền sẽ khai ngộ. Cho nên nói tịch tĩnh là đèn trí huệ.
‘’ Diệu Nhãn biết được phương tiện này.’’ Vị Diệu Nghiêm Nhãn Thiên Vương minh bạch được pháp phương tiện này.
Sắc thân Như Lai đẹp thanh tịnh
Hiện khắp mười phương không gì sánh
Thân này không tánh không chỗ nương
Thiện Tư Duy Thiên quán sát được.
‘’ Sắc thân Như Lai đẹp thanh tịnh.’’ Pháp thân của Như Lai là thanh tịnh, báo thân của Như Lai cũng thanh tịnh, ứng thân Như Lai cũng thanh tịnh, cho nên nói sắc thân Như Lai đẹp thanh tịnh, là sắc thân vàng tốt đẹp trang nghiêm.
‘’ Hiện khắp mười phương không gì sánh.’’ Sắc thân thanh tịnh quang minh tốt đẹp này không thể nghĩ bàn, thị hiện khắp mười phương thế giới của chư Phật. Tức là mười phương chư Phật, cũng không thể sánh được thân quang minh thanh tịnh của Phật, cho nên nói hiện khắp mười phương không thể sánh.
‘’ Thân này không tánh không chỗ nương.’’ Sắc thân Phật này đẹp thanh tịnh, chẳng có tự tánh cũng chẳng có chỗ nương tựa. Vì Phật rất tự tại, vô tại vô bất tại, vô sở bất tại (chẳng có chỗ nào mà không có thân Phật), cho nên nói thân này không tánh không chỗ nương.
‘’ Thiện Tư Duy Thiên quán sát được.’’ Cảnh giới này vị Thiện Tư Duy Quang Minh Thiên Vương thấy được.
Âm thanh Như Lai không hạn lượng
Người được giáo hóa thảy đều nghe
Mà Phật tịch nhiên luôn bất động
Giải thoát này Lạc Trí Thiên chứng.
‘’ Âm thanh Như Lai không hạn lượng.’’ Âm thanh của Như Lai vô cùng vô tận, không có hạn lượng, không có trở ngại, cho nên bất cứ đi đến đâu, cũng đều nghe được âm thanh của Phật.
Tôn giả Mục Kiền Liên vận dụng sức thần thông đi về hướng đông. Ði qua vô lượng trăm ngàn ức cõi Phật, vẫn nghe được âm thanh của Phật như ở trước mặt, nghe được rất rõ ràng, cho nên nói âm thanh của Như Lai không hạn lượng.
‘’ Người được giáo hóa thảy đều nghe.’’ Chúng sinh có duyên với Phật, đều nghe được âm thanh của Phật. Nếu chúng sinh không có duyên, thì không bàn đến, do đó :
“Nước mưa tuy nhiều,
Cỏ khô rễ không thể sống lại được,
Cửa Phật tuy rộng,
Khó độ những người không có duyên”.
Phật cũng có ba điều không thể làm được :
1. Không thể diệt được định nghiệp.
2. Không thể độ người không có duyên.
3. Không thể độ hết cõi chúng sinh.
‘’ Mà Phật tịch nhiên luôn bất động.’’ Chúng sinh không đến chỗ Phật, Phật cũng không đến chỗ chúng sinh, nhưng âm thanh của Phật, chúng sinh đều nghe khắp hết. Ðó là nhân duyên gì ? Phật vẫn ngồi ở cõi Thường Tịch Quang, tu hành thường lạc ngã tịnh, vì âm thanh của Phật vô ngại, bất cứ cõi nước nào, bất cứ loại chúng sinh nào, đều nghe được âm thanh của Phật rõ ràng.
‘’ Giải thoát này Lạc Trí Thiên chứng.’’ Môn giải thoát này vị Khả Ái Lạc Ðại Trí Thiên Vương chứng được.
Tịch tĩnh giải thoát chúa trời người
Mười phương không chỗ nào chẳng hiện
Quang minh chiếu sáng khắp thế gian
Pháp vô ngại này Nghiêm Tràng thấy.
‘’ Tịch tĩnh giải thoát chúa trời người.’’ Tịch tĩnh là nơi không ồn ào. Vì nơi tịch tĩnh mới đắc được giải thoát, đắc được giải thoát mới thật tịch tĩnh. Tên gọi này chỉ có đức Phật, mới đảm đang được, mới có tư cách xưng là, tịch tĩnh giải thoát chúa của trời, người.
‘’ Mười phương không chỗ nào chẳng hiện.’’ Pháp thân Phật, là vô tại vô sở bất tại. Mười phương thế giới, không có chỗ nào mà Phật chẳng đến, Phật chẳng đi, Phật không ở đó. Cho nên mới nói mười phương không chỗ nào không hiện.
‘’ Quang minh chiếu sáng khắp thế gian.’’ Quang minh của Phật, chiếu sáng ba ngàn đại thiên thế giới, trí huệ quang minh đầy khắp thế gian, khiến cho chúng sinh đều đắc được lợi ích, bỏ trần lao hợp với giác ngộ, lìa khổ được vui.
‘’ Pháp vô ngại này Nghiêm Tràng thấy.’’ Ðắc được pháp vô ngại này, thấy được pháp vô ngại này, là vị Phổ Âm Trang Nghiêm Tràng Thiên Vương, vị này thấu hiểu được pháp môn này.
Phật trong vô biên biển đại kiếp
Vì chúng sinh mà cầu bồ đề
Các loại thần thông hóa hết thảy
Danh Xưng Quang Thiên ngộ pháp này.
‘’ Phật trong vô biên biển đại kiếp. Ðức Phật :
“Tam kỳ tu phước huệ,
Bách kiếp chủng tướng hảo”.
Nghĩa là :
Ba A Tăng Kỳ kiếp tu phước huệ,
Trăm kiếp trồng tướng tốt.
Nói là ba đại A Tăng Kỳ kiếp, thực ra không biết trải qua bao nhiêu đại A Tăng Kỳ kiếp ? A Tăng Kỳ kiếp dịch là “vô lượng số”. Ba vô lượng số kiếp, sâu rộng như biển cả, cho nên nói Phật trong vô biên biển đại kiếp.
‘’ Vì chúng sinh mà cầu bồ đề.’’ Mục đích Phật tu đạo, là vì giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh đều thành Phật đạo. Chẳng phải vì chính mình, mà là vì chúng sinh mà phát tâm bồ đề, khiến cho chúng sinh đồng thời đều chứng được A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề (vô thượng chánh đẳng chánh giác).
‘’ Các loại thần thông hóa hết thảy.’’ Phật rất từ bi, dùng các loại thần thông, các loại công đức, để giáo hóa tất cả chúng sinh, không những giáo hóa chúng sinh hữu tình, mà còn giáo hóa chúng sinh vô tình.
‘’ Danh Xưng Quang Thiên ngộ pháp này.’’ Vị Danh Xưng Quang Thiện Tinh Tấn Thiên Vương ngộ được pháp môn này.
Ở trên là kệ của mười vị Ðại Tự Tại Thiên Vương nói, thuộc về sắc giới, trời Sắc Cứu Cánh cao nhất trong trời Ngũ Bất Hoàn (cũng là sắc giới Thập Bát Thiên).
Lại nữa, Khả Ái Lạc Pháp Quang Minh Tràng Thiên Vương, được môn giải thoát, quán khắp tất cả căn tánh của chúng sinh, để thuyết pháp dứt nghi cho họ.
Ý nghĩa lại nữa là Kinh văn ở trước chưa nói hết lại tiếp tục nói.
Vị Khả Ái Lạc Pháp Quang Minh Tràng Thiên Vương này, thuộc về sắc giới trời Quảng Quả trong Trời Tứ Thiền (Sắc giới cõi trời thứ mười hai). Vị này hoan hỷ nhất về Phật pháp. Bất cứ pháp gì, vị này đều tu hành, không những tu hành mà còn tinh tấn, cho nên đắc được đại trí huệ, giống như tràng báu quang minh.
Vị này thành tựu đắc được cũng lớn, đắc được tam muội thù đặc, biết được căn tánh của chúng sinh, đều khác nhau. Tuy nhiên đều có Phật tánh, nhưng đều khác biệt.
Căn tánh con người có hai thứ. Một là lợi căn, một là độn căn. Nói đơn giản, lợi căn là người thông minh có trí huệ. Ðộn căn là người ngu si chẳng có trí huệ. Mục đích chúng ta học Phật pháp là học trí huệ, tức là “Bát Nhã”. Làm thế nào mới có được trí huệ ? Từ hai phương diện mà hạ thủ công phu :
- Vào sâu tạng Kinh trí huệ như biển.
2. Tham thiền đả tọa, trí huệ giải thoát.Người độn căn vì họ mà thuyết pháp, nói một lần họ không hiểu, nói hai lần họ cũng không hiểu, càng nói càng hồ đồ, càng hồ đồ càng phải hỏi. Giống như đệ tử của đức Phật, Tôn giả Châu Lợi Bàn Ðà, vị này là người tối tăm ngu nhất của đức Phật, về sau vị này thành tựu biện tài vô ngại, là nghĩa trì đệ nhất. Có thể thấy tu hành thì không sợ ngu độn, chỉ sợ không chịu phát tâm. Nếu chịu phát tâm thì dù hạ ngu cũng đắc được thượng trí.
Người lợi căn, nghe được một thứ đạo lý thì hiểu rõ tất cả đạo lý khác. Vị Nhan Hồi nghe một biết mười. Ðề Bà Ðạt Ða là đệ tử của Phật, là người thông minh nhất, tuy nhiên có trí huệ, nhưng thông minh ngược lại bị thông minh lầm lẫn, kết quả đọa vào địa ngục.
Lợi và độn là người bình thường, khốn khó mà học là người thông minh, khốn khó mà không học là người ngu si. Thánh nhân là sinh ra mà biết, hiền nhân thì học mà biết ; chúng ta là người bình thường thì phải học Phật pháp.
Có người sinh ra tâm từ bi rất lớn, có người sinh ra tâm từ bi rất nhỏ. Có người sinh ra tâm tham lam rất lớn, có người sinh ra tâm tham lam rất ít. Chúng sinh có đủ thứ căn tính khác nhau. Vị Thiên Vương này biết được dục vọng của chúng sinh. Loại chúng sinh nào hoan hỷ pháp gì, thì vị này thuyết pháp đó. Ví như gặp chúng sinh tham lam thì nói pháp bố thí cho họ nghe, nói bố thí có công đức gì ? Gặp chúng sinh phạm giới, thì nói pháp trì giới cho họ nghe, nói sự lợi ích về sự trì giới. Gặp người nhiều sân hận, thì nói pháp nhẫn nhục, dạy họ học theo Bồ Tát Di Lặc, mở miệng thường cười, nhẫn việc thiên hạ không thể nhẫn. Gặp chúng sinh lười biếng giải đãi thì nói pháp tinh tấn cho họ nghe, phải siêng tu khổ hạnh, mới mong thành tựu. Do đó trồng trọt một phần thì thu hoạch một phần. Nhất là tu hành, công phu tu một ngày thì có công đức một ngày, cho nên tu hành thì không lãng phí thời gian, hy vọng mọi người đầu sào trăm trượng càng tiến tới một bước. Gặp chúng sinh tán loạn không có định lực, thì nói pháp thiền định tham thoại đầu như thế nào ? (tinh thần tập trung, nghĩ “Niệm Phật là ai” ?) Gặp chúng sinh ngu si thì nói pháp trí huệ, khiến cho họ khai mở trí huệ, đắc được cảnh giới thật tướng Bát Nhã. Ðó là Lục độ căn bản của pháp đại thừa.
Nói tỉ mỉ về căn tính của chúng sinh, thì có tám vạn bốn ngàn, Phật pháp có bốn vạn tám ngàn pháp môn, chuyên đối trị bệnh của chúng sinh. Pháp môn có cao thấp, môn nào cũng đệ nhất ; pháp môn nào đối cơ là đệ nhất, ngoài ra các pháp môn kia là đệ nhị.
Người hay thuyết pháp, thì khiến cho người sinh đạo tâm, người không hay thuyết pháp, thì khiến cho người sinh tâm thối lui, cho nên khi thuyết pháp, thì phải quán sát căn tính của đối phương, là lợi căn hay độn căn ? Ðối với người lợi căn, thì giảng về đạo lý chân không diệu hữu trung đạo đệ nhất nghĩa, khiến cho họ hiểu rõ về thật nghĩa đại thừa. Ðối với người độn căn, thì nói pháp nhân duyên sinh diệt, hoặc pháp nhân quả báo ứng, khiến cho họ hiểu rõ về thật nghĩa tiểu thừa.
Tôn giả Xá Lợi Phất có hai vị đệ tử tu hành nhiều năm mà chẳng thành tựu. Xá Lợi Phất hỏi đức Phật là lý do gì ?
Ðức Phật hỏi : ‘’ Vị đó trước khi xuất gia làm nghề gì ? ‘’
Xá Lợi Phất đáp : ‘’ Một là thợ bạc, một là xem mộ.’’
Ðức Phật nói : ‘’ Nên dạy vị Tỳ kheo thợ bạc tu pháp sổ tức (đếm hơi thở), dạy vị Tỳ kheo xem mộ tu pháp quán xương trắng, như vậy thì có thể thành tựu.’’
Tôn giả Xá Lợi Phất trở về dạy tu theo như thế, không lâu hai vị đều chứng quả. Ðó là theo căn tính thích ứng với họ mà thí giáo.
Theo bệnh cho thuốc : Chúng sinh đều có bệnh phiền não, bệnh tham lam, bệnh sân hận, bệnh ngu si, vô minh .v.v. Thậm chí có tám vạn bốn ngàn thứ bệnh. Phật pháp là thuốc thần, người thuyết pháp là bác sĩ. Bác sĩ trước hết phải xem bệnh gì ? Sau đó dùng thuốc thích đáng để điều trị. Bệnh nhiệt thì dùng thuốc mát, bệnh hàn thì dùng thuốc nhiệt, như vậy mới hy vọng thuốc công hiệu chữa lành bệnh. Do đó :
“Thuốc không hay dở, lành bệnh là thuốc hay ;
Pháp không cao thấp, hợp cơ là pháp diệu”.
Gặp chúng sinh căn lành thành thục, thì dạy họ xuất gia tu đạo. Gặp chúng sinh không có căn lành, thì dạy họ trồng căn lành tu phước đức. Gặp chúng sinh đã trồng căn lành, thì dạy họ phương pháp làm tăng trưởng căn lành.
Tóm lại, đã tăng trưởng thì khiến cho thành thục. Ðã thành thục khiến cho giải thoát. Cho nên vì chúng sinh thuyết pháp đoạn trừ tâm nghi của họ, mà sinh ra tâm tin, đắc được môn giải thoát không chướng ngại.
Tịnh Trang Nghiêm Hải Thiên Vương được môn giải thoát, tùy sự nghĩ nhớ, khiến cho được thấy Phật.
Vị Thanh Tịnh Trang Nghiêm Hải Thiên Vương này, thanh tịnh trang nghiêm rộng lớn giống như biển, và còn trang nghiêm khắp hết thảy cõi Phật. Cảnh giới Tam muội của vị này, bất cứ lúc nào chỉ cần nghĩ nhớ đến Phật, thì sẽ thấy được Phật. Không những vị này đắc được tam muội tùy theo sự nghĩ nhớ, cũng khiến cho chúng sinh đắc được pháp môn này.
Bồ Tát Ðại Thế Chí nói : ‘’ Lúc nào bạn nghĩ nhớ Phật thì sẽ thấy Phật, trừ khi quên nghĩ nhớ thì không thấy Phật.’’ Pháp môn niệm Phật ví như mẹ con hai người, người niệm Phật là con, sở niệm Phật là người mẹ. Mẹ con sinh sống với nhau rất sung sướng, nhưng người con không giữ quy cụ, thích chơi đùa, chạy ra bên ngoài, không ở với người mẹ, lang thang phiêu bạt bên ngoài, chẳng có nghề nghiệp chính đáng. Lúc này, người mẹ luôn luôn tưởng nhớ con, có câu rằng : ‘’ Con đi ngàn dặm mẹ âu lo,’’ hôm nay nghĩ, ngày mai nghĩ, nghĩ không ngừng, nhưng người con không nghĩ đến người mẹ, lang thang bên ngoài không nhớ trở về. Trải qua nhiều năm sau đó, người con hốt nhiên nghĩ nhớ người mẹ, sinh ra hồi tưởng nhớ lại. Con nghĩ tưởng mẹ, mẹ nghĩ tưởng con, cùng nhau nghĩ tưởng, khởi lên tâm điện tác dụng tương thông, do đó :‘’ tâm điện cảm ứng ‘’, người con bèn trở về nhà cố hương của mình. Do đó :
“Nhớ Phật niệm Phật,
Hiện tiền tương lai,
Nhất định thấy Phật”.
Chúng ta niệm danh hiệu Phật A Di Ðà, thì Phật tiếp dẫn chúng ta trở về cõi Phật. Chúng ta phiêu bạt lang thang bên ngoài làm người lưu lãng, không biết trở về nhà gặp mẹ. Vị Thiên Vương này nói : ‘’ Bất cứ lúc nào, bạn nhớ Phật niệm Phật, hoặc hiện tại thấy được Phật, hoặc là vị lai sẽ thấy được Phật.’’ Bạn niệm Phật không thấy Phật, bèn sinh tâm hoài nghi, cho rằng Kinh Phật nói không linh nghiệm. Phật thì không nói dối, pháp của Phật nói đều viên dung vô ngại. Bây giờ không thấy Phật, tương lai sẽ thấy Phật, hoặc là đời sau sẽ thấy Phật, nếu tâm thật niệm Phật thì hiện tại sẽ thấy Phật, tương lai sẽ thành Phật.
Tối Thắng Huệ Quang Minh Thiên Vương, được môn giải thoát, tánh bình đẳng không chỗ nương tựa trang nghiêm thân.
Vị Tối Thắng Huệ Quang Minh Thiên Vương này, trí huệ thù thắng nhất, có vô lượng vô biên quang minh, cho nên khai mở đại trí huệ. Vị này đắc được môn giải thoát, pháp tánh bình đẳng không chỗ y tựa trang nghiêm thân.
Pháp tánh vốn là bình đẳng, vì sao phải nói chữ “đắc” ? Vì thành Phật rồi, pháp tánh mới bình đẳng ; ở phần chúng sinh, thì đừng nói đến pháp tánh bình đẳng. Bình đẳng thì không thêm không bớt. Ở phần chúng sinh chẳng bình đẳng, đó là một lối nói pháp. Lại có một lối nói pháp nữa là, ở phần chúng sinh bình đẳng. Tại sao ? Vì pháp tánh ở phần chúng sinh chẳng bớt chút nào, ở phần chư Phật cũng chẳng thêm chút nào, nguồn gốc là bình đẳng. Vì bình đẳng cho nên không chỗ nương tựa. Tại sao không chỗ nương tựa ? Tức là không chấp trước, không có tướng ta, chẳng có thị phi. Vì không chỗ nương, mới là chân chánh bình đẳng. Nếu có chỗ nương thì không bình đẳng.
Chỗ này có người nói :‘’ Pháp này tôi tin, pháp kia tôi không tin ‘’, vậy bạn tin là chấp trước, không tin cũng chấp trước. Con người là động vật kỳ quái. Quái như thế nào ? Thích đầu lại thêm đầu, không việc đi tìm việc. Hôm qua muốn ăn bột, hôm nay ăn bột rồi, lại nói ăn không ngon. Lại muốn ăn mì, muốn ăn bánh, ngày mai lại muốn ăn cơm. Ðó là đem sự việc ăn để so sánh khẩu vị ba ngày không giống nhau.
Tin Phật pháp cũng như thế, trong quá khứ thì tin pháp môn niệm Phật, sớm muốn chứng niệm Phật Tam muội bèn sinh hoài nghi : ‘’Không biết cứu kính có pháp môn này chăng ? ‘’ Vì sinh tâm hoài nghi như thế, cho nên chết rồi không thể vãng sinh về thế giới Cực Lạc. Ðời này lại sinh tâm hoài nghi nữa :‘’ Niệm Phật có ích lợi gì chăng ? Pháp môn này là gạt người, chỉ có người già mới niệm Phật, ta là đại trượng phu, ta không niệm Phật !‘’ Bạn xem ! Kiếp trước niệm Phật, sinh ra tâm hoài nghi, đời này càng không tin niệm Phật.
Có người kiếp trước tin tham thiền đả tọa, tham đi tham lại chỉ còn chút nữa thì khai ngộ, nhưng họ lại sinh tâm thối chuyển. Tâm nghĩ : ‘’Tôi tham thiền một đời, mà chẳng khai ngộ, đây là pháp môn gạt người. Nghe nói niệm Phật là phương tiện pháp môn, có thể trực tiếp vãng sinh về Tây Phương, chi bằng hãy thử xem.’’ Như vậy, tham thiền đã không khai ngộ, niệm Phật cũng chẳng được vãng sinh. Do đó : một chân thì ở thuyền này, một chân thì ở thuyền kia, tâm muốn đi về giang nam, lại muốn về giang bắc, kết quả lạc vào giang trung, chẳng có sở đắc !
Ngoài ra bất cứ học giáo lý, học luật, học mật tông cũng đều như thế, tu một thời gian thì thay đổi, không giữ được bền lâu, thấy lạ muốn đổi cuối cùng lãng phí công phu. Vì trong quá khứ luôn luôn thay đổi mục tiêu, cho nên công phu trước kia bỏ hết, đến đời này mới luyện lại từ đầu. Có câu kệ rằng :
“Tất cả là khảo nghiệm,
Hãy xem nên làm gì ?
Trước mắt không nhận thức,
Phải luyện lại từ đầu”.
Cho nên nói người là quái vật. Tâm lý một số người thích mới chán cũ, nhất là hôm nay khoa học văn minh, ngày mới tháng khác, luôn luôn dẫn dụ người. Nếu ý chí không vững chắc thì chuyển theo cảnh giới, mà mất đi đạo tâm. Muốn tu pháp môn bố thí, nhưng tham luyến tiền bạc, phải biết tiền là vật bên ngoài, sinh ra không mang đến, chết cũng không mang đi, chỉ có nghiệp theo thân đi thôi. Hy vọng người giàu có làm nhiều việc có ích cho chúng sinh, như làm trường học, lập nhà thương, cô nhi viện và viện dưỡng lão, trực tiếp giải trừ khổ cho chúng sinh, công đức vô lượng !
Tự Tại Trí Huệ Tràng Thiên Vương được môn giải thoát, biết rõ tất cả pháp thế gian, trong một niệm an lập biển trang nghiêm không nghĩ bàn.
Vị Tự Tại Trí Huệ Tràng Thiên Vương này, tự tại vô cùng mà còn có trí huệ. Tự tại thì chẳng có chấp ta và chấp pháp, chẳng có chấp ta thì tướng ta là không ; chẳng có chấp pháp thì tướng pháp cũng không. Ta pháp hai chấp đều không, đó mới là tự tại, chấp ta chẳng không thì vẫn còn ta, thì chẳng đắc được tự tại. Chấp pháp chẳng không, vẫn còn chấp pháp thì cũng chẳng đắc được tự tại. Người có chấp ta, cho rằng ta là đệ nhất, ta là lớn nhất, cao nhất, tôn quý nhất, các bạn đều phải cung kính ta, tín ngưỡng ta, lễ bái ta, đem cái ta để ở trước, đó là cái ta lớn gấp vạn lần so với núi Tu Di.
Người có tư tưởng như thế thì chẳng được tự tại. Người có chấp pháp cũng như thế, cho rằng pháp này là hay nhất, hy hữu nhất, khó được nhất, là không thể nghĩ bàn, vi diệu đến cực điểm, huyền diệu đến chỗ tột cùng, thật là khó gặp. Ngày đêm sáu thời không nghỉ ngơi, chuyên khởi vọng tưởng về pháp, ở trong mộng cũng như thế. Cho nên người có chấp pháp và chấp ta thì không đắc được tự tại. Trí huệ là đối với ngu si mà nói, danh từ Phật giáo là tương đối. Ngu si là gì ? Tức là người ngu dốt, không những tâm lý không kiện toàn, mà sinh lý cũng không kiện khang.
Còn có một thứ người, họ không tu đạo, không tham thiền, mà muốn khai ngộ thành Phật. Không siêng năng học hành, mà muốn đậu bác sĩ. Không gieo trồng mà muốn thu hoạch, tóm lại, không muốn bỏ công sức, mà muốn thành tựu. Ðó là người ngu nói mộng.
Người có trí huệ biết tôi muốn thành Phật, nhất định trước phải tu hành. Muốn làm bác sĩ, nhất định phải siêng năng học hành. Muốn thu hoạch ngũ cốc, phải nỗ lực canh tác. Muốn làm việc gì, thì phải y theo đó mà làm, đừng tưởng tượng những việc không thể được. Ðứng vững trên mặt đất, tuân theo quy cụ, không làm việc cẩu thả. Người có tư tưởng như thế, bất cứ làm việc gì cũng đều thành công.
Do đó, người có trí huệ, thì không làm việc ngu si, người ngu si không làm được việc có trí huệ. Người ngu si không tin nhân quả, người có trí huệ, thì tin sâu nhân quả. Cho nên nói vị Thiên Vương này, trí huệ trang nghiêm cõi Phật giống như tràng báu.
Vị Thiên Vương này có đại trí huệ, biết rõ tất cả pháp thế gian, nhưng biết rõ pháp thế gian rồi, thì cũng hiểu rõ pháp xuất thế gian. Lục Tổ Huệ Năng đại sư có nói :
“Phật pháp tại thế gian,
Không rời thế gian giác,
Bỏ thế gian cầu bồ đề,
Ví như tìm sừng thỏ”.
Vị Thiên Vương này ở trong một niệm, an lập biển trang nghiêm không thể nghĩ bàn, trang nghiêm pháp giới của Phật, trang nghiêm pháp giới của Bồ Tát, trang nghiêm pháp giới của Duyên Giác, trang nghiêm pháp giới của Thanh Văn, trang nghiêm tất cả pháp giới của chúng sinh. Vị này đắc được môn giải thoát biển trang nghiêm này.
Lạc Tịch Tĩnh Thiên Vương được môn giải thoát, trong một lỗ chân lông, hiện cõi Phật không thể nghĩ bàn không chướng ngại.
Vị Lạc Tịch Tĩnh Thiên Vương này thích tịch tĩnh, pháp môn của vị này đắc được là : môn giải thoát không chướng ngại không thể nghĩ bàn. Có thể trong một lỗ chân lông hiện ra cõi Phật không thể nghĩ bàn, đó gọi là cảnh giới ‘’ trong nhỏ hiện lớn.‘’ Ở trong một lỗ chân lông, hiện ra vô lượng cõi nước chư Phật, chư Phật ở trong cõi nước giáo hóa chúng sinh, chúng sinh lại ở trong cõi Phật, tu hành thành Phật và giáo hóa chúng sinh, đó là cảnh giới trong nhỏ hiện lớn, nhưng trong nhỏ chẳng có lớn, trong lớn cũng chẳng có nhỏ. Tuyệt đối chẳng phải nói ở trong lỗ chân lông, hiện ra cõi nước chư Phật, nhất định là cõi nước chư Phật thu nhỏ lại, hoặc là làm cho lỗ chân lông lớn rộng. Lỗ chân lông cũng không lớn, cõi Phật cũng không thu nhỏ lại, mà là hổ tương bao dung, đó gọi là hổ tương không chướng ngại.
Cảnh giới phàm phu chúng ta giống như căn phòng nhỏ, không thể dung nạp được nhiều người. Cảnh giới của Phật là nhỏ dung được lớn, lớn nhập vào nhỏ. Do đó :
“Trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ”.
Ví như dùng tấm gương khoảng một thước, dùng gương soi cảnh thì thấy được cảnh rất xa, hiện ra trong gương. Ðó là trong nhỏ hiện lớn. Dùng cảnh soi gương, đứng ở một nơi rất xa, thấy cảnh ở trong gương đó là trong lớn hiện nhỏ. Gương cũng không lớn thêm mà cảnh giới cũng không thu nhỏ, tức có thể hiện hai thứ cảnh giới.
Phổ Trí Nhãn Thiên Vương được môn giải thoát, nhập vào phổ môn quán sát pháp giới.
Vị Phổ Trí Nhãn Thiên Vương này, có con mắt đại trí huệ, quán sát khắp tất cả mọi nơi. Mắt trí huệ của vị này, từ đâu mà đắc được ? Là từ trong Kinh điển. Nghiên cứu Kinh điển, học tập Kinh điển, là đường lối khai mở trí huệ. Kinh pháp Hoa là Kinh thành Phật ; Kinh Hoa Nghiêm là Kinh khai mở trí huệ, cũng là Kinh thành Phật, kiêm luôn cả hai.
Khai mở trí huệ là huệ đầy đủ, thành Phật là phước đầy đủ, phước huệ đều tròn đầy thì có con mắt trí huệ. Cho nên nói Kinh Hoa Nghiêm là Kinh thập toàn thập mỹ.
Lại có nói rằng, vị Thiên Vương này trong lỗ chân lông toàn thân đều có con mắt, không là chỉ một con mắt mà là vô lượng vô biên con mắt, quán sát được mười pháp giới. Tuy nhiên có nhiều con mắt nhưng hổ tương không chướng ngại. Vị này quán sát được tính pháp giới, lại có thể nhập vào tâm chúng sinh. Pháp giới lớn bao mhiêu ? Lớn không có bờ mé. Nhưng không ra ngoài một tâm niệm. Pháp giới tuy lớn nhưng từ một tâm niệm hiện tiền mà trang nghiêm thành tựu. Cho nên vị Thiên Vương này đắc được môn giải thoát, nhập vào phổ môn quán sát pháp giới.
Lạc Toàn Huệ Thiên Vương được môn giải thoát, vì tất cả chúng sinh trong vô biên kiếp, thường xuất hiện vô lượng thân.
Vị Lạc Toàn Huệ Thiên Vương này, thích thu hồi lại trí huệ của mình. Vị này thường hồi quang phản chiếu, cầu nơi chính mình, không hướng cầu bên ngoài. Pháp môn của vị này tu là : độ tất cả chúng sinh, hiện đủ loại thân hình, xuất hiện ở trước chúng sinh để giáo hóa chúng sinh, không bỏ một chúng sinh nào, đối với chúng sinh có duyên khiến cho họ phát tâm bồ đề. Trong vô lượng kiếp, luôn luôn giáo hóa chúng sinh, không biết nhàm mỏi. Ðó là môn giải thoát vị này đắc được.
Thiện Chủng Huệ Quang Minh Thiên Vương, được môn giải thoát, quán tất cả cảnh giới thế gian, nhập vào pháp không nghĩ bàn.
Vị Thiện Chủng Huệ Quang Minh Thiên Vương này, khéo tài bồi trí huệ của minh, vị này luôn luôn nghiên cứu Kinh Ðại Bát Nhã, trồng xuống hạt giống trí huệ Bát Nhã, khi thời cơ thành thục thì sinh ra trí huệ, phóng đại quang minh. Vị này đắc được pháp môn, quán sát tất cả cảnh giới thế gian đều không thể nghĩ bàn.
Pháp này là pháp thế gian, cũng là pháp xuất thế gian. Chẳng phải từ bỏ pháp thế gian mà có pháp xuất thế gian. Ví như bàn tay, mặt phải và mặt trái đều là bàn tay, nhưng mặt phải thì cầm đồ được, còn mặt trái không thể cầm được. Pháp thế gian và pháp xuất thế gian cũng như thế. Trở qua là pháp xuất thế gian, trở lại là pháp thế gian. Do đó dễ như trở bàn tay. Phật pháp tức là như trở bàn tay. Hiểu rõ thì là pháp xuất thế gian, hồ đồ tức là pháp thế gian. Ðừng, trên đầu lại thêm đầu, riêng ngoài đi tìm pháp xuất thế ; ở trong pháp thế gian buông xả đặng tức là pháp xuất thế gian, không chấp trước tức là pháp xuất thế. Vị Thiên Vương này minh bạch đạo lý này, đắc được môn giải thoát này.
Vô Cấu Tịch Tĩnh Quang Thiên Vương, được môn giải thoát, khai thị pháp xuất yếu cho tất cả chúng sinh.
Vị Vô Cấu Tịch Tĩnh Quang Thiên Vương này, có trí huệ quang minh vô cấu mà thanh tịnh. Vô cấu tức là chẳng có pháp ô nhiễm. Pháp ô nhiễm là gì ? Nói đơn giản tức là tình ái nam nữ. Có pháp ô nhiễm thì không thể đắc được quang minh tịch tĩnh, cho nên Phật giáo đề xướng pháp môn đoạn dục khử ái. Ái là gốc rễ sanh tử, ái không đoạn, thì vĩnh viễn còn sinh tử. Cổ đức nói :
‘’ Tâm nhiễm dễ sinh, tịnh đức nan thành.’’ Tức là nói tâm ô nhiễm dễ sinh ra, đức tính thanh tịnh không dễ thành tựu.
Vị Thiên Vương này không có tư tưởng ô nhiễm, cho nên đắc được quang minh chân chính trí huệ tịch tĩnh. Vị này đắc được quang minh vô cấu tịch tĩnh, không ích kỷ đem chỗ đắc được xuất yếu pháp của mình, truyền thọ cho chúng sinh thế gian.
Xuất yếu pháp là gì ? Tức là dùng bảo kiếm trí huệ chém sạch tất cả ma ái và ma tình, chém ma phiền não, chém ma tham lam, chém ma sân hận, chém ma ngu si, chém ma cống cao ngã mạn, chém ma vô minh, chém ma chấp trước, đó đều là yếu pháp xuất thế. Ðắc được yếu pháp xuất thế rồi, thì mới ra khỏi được thế gian, mới được giải thoát. Vị Thiên Vương này đắc được môn giải thoát yếu pháp xuất thế.
Quảng Ðại Thanh Tịnh Quang Thiên Vương, được môn giải thoát, quán sát tất cả chúng sinh đáng được hóa độ, khiến cho họ vào Phật pháp.
Vị Quảng Ðại Thanh Tịnh Quang này, có quang minh thanh tịnh rộng chẳng có bờ, lớn chẳng có mé. Thanh tịnh tức là chẳng có ô nhiễm, chẳng có vô minh. Vị này đắc được tam muội quán sát, bèn biết được chúng sinh nào cơ duyên thành thục, đáng độ được. Chúng sinh nào cơ duyên chưa thành thục thì nên đợi chờ.
Chúng sinh tin Phật cũng phải có nhân duyên. Nhân duyên thành thục, thì tự nhiên họ sẽ tín ngưỡng Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, cung kính Tam Bảo, hộ trì Tam Bảo, cuối cùng quy y Tam Bảo. Nhân duyên chưa thành thục, thì dù Phật ở bên cạnh, họ cũng không sinh tín tâm. Chẳng phải cưỡng bách chúng sinh tin Phật, cũng chẳng phải dùng vật chất để dẫn dụ chúng sinh tin Phật, càng không dùng quan hệ nam nữ, hoặc quan hệ chính trị, khiến cho chúng sinh có sở sí đồ mà tin Phật. Mục tiêu của Phật giáo là, hoàn toàn cứu đời cứu người làm cho họ thức tỉnh, cải ác hướng thiện, chỉ dẫn chúng sinh quay đầu thì thấy bờ. Tín đồ đều ngưỡng mộ Phật và cảnh giới giải thoát viên mãn vô ngại, mà tự động đến quy y Tam Bảo, tuyệt đối không có tơ hào miễn cưỡng. Phàm là thiện nam tín nữ quy y Phật giáo, đều mong muốn tâm linh an ổn và giải thoát, mà không cầu hưởng thụ vật chất.
Bấy giờ, Khả Ái Lạc Quang Minh Tràng Thiên Vương, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả Thiên chúng trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quảng, trời Quảng Quả mà nói ra bài kệ.
Lúc bấy giờ, vị Khả Ái Lạc Pháp Quang Minh Thiên Vương, trời Tứ Thiền, thuộc về sắc giới, nương đại oai thần lực của chư Phật, quán sát khắp tất cả Thiên chúng trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quảng, trời Quảng Quả, mà nói ra bài kệ dưới đây, để tán thán công đức của Phật, khiến cho chúng sinh tin sâu và hiểu rõ đạo lý này.
Trời Tứ Thiền gọi là Xả Niệm Thanh Tịnh Ðịa. Ở cõi trời này chẳng có hoan hỷ khoái lạc, chỉ có thọ bình đẳng không thể hình dung. Cõi trời này phân làm ba cõi trời:
1. Trời Thiểu Quảng còn gọi là trời Phước Sinh, chúng sinh cõi trời này chẳng còn hỷ lạc (vui thích), chỉ có tinh thần tồn tại.
2. Trời Vô Lượng Quảng, còn gọi là trời Phước Thọ, vì phước báu của cõi trời này đáng ưa nhất. Chúng sinh cõi trời này xả bỏ hỷ lạc, tu phước đức cầu thăng lên trời.
3. Trời Quảng Quả, chúng sinh cõi trời này siêng tu thiền định, tu thiền hữu lậu thì sinh vế trời Vô Tưởng (ngoại đạo) ; tu thiền vô lậu thì sinh về trời Ngũ Bất Hoàn ( A La Hán và Bồ Tát ở).
Cảnh giới chư Phật không nghĩ bàn
Tất cả chúng sinh không lường được
Khiến cho tâm họ sinh tin hiểu
Ý vui rộng lớn không cùng tận.
‘’ Cảnh giới chư Phật không nghĩ bàn.’’ Không nghĩ bàn tức là chẳng có cảnh giới. Bổn lai không nhiều, không ít, không lớn, không nhỏ. Vậy còn có cảnh giới gì ? Nếu nói có cảnh giới tức là chấp trước tướng, cho nên nói không nghĩ bàn tức là chẳng có cảnh giới.
Các pháp không tướng tức là cảnh giới của Phật. Các pháp không tướng là gì ? Cảnh giới này từ hàng Bồ Tát cho đến chúng sinh địa ngục, chúng sinh chín pháp giới này, chẳng có một giới chúng sinh nào biết được, chỉ có Phật mới biết được.
Trong bổn Kinh này có nói :
“Nếu ai muốn biết cảnh giới Phật,
Hãy tịnh ý mình như hư không”.
Tức là nói nếu muốn biết cảnh giới của Phật, trước hết phải quét sạch rác rến trong tâm của mình cho thanh tịnh, không còn sự phân biệt giống như hư không, thì mới biết được cảnh giới của Phật.
Cảnh giới của Phật là gì ? Tức là hư không. Không vô sở không, sở không cũng không, đó tức là cảnh giới của Phật.
‘’ Tất cả chúng sinh không lường được.’’ Ðạo lý của các pháp không tướng, tất cả chúng sinh không dò được, không hiểu được, không thấu suốt được, không rốt ráo được, cho nên nói tất cả chúng sinh không lường được.
‘’ Khiến cho tâm họ sinh tin hiểu.’’ Ðức Phật khiến cho tất cả chúng sinh sanh tâm tin hiểu. Học Phật pháp có bốn giai đoạn. Tức là : Tín, giải, hạnh, chứng (tin, hiểu, thực hành và chứng ngộ). Trước hết phải tin. Tin các pháp do đức Phật nói ra, tin Tam Tạng mười hai bộ là chân thật nghĩa. Có tâm tin rồi mới nghiên cứu Phật lý, thấu hiểu rồi, mới y theo những gì Phật nói mà tu hành, từ từ sẽ chứng được quả vị.
‘’ Ý vui rộng lớn vô cùng tận.’’ Phật lấy sự lợi ích của chúng sinh làm ý vui, bao quát hết thảy cho nên rộng lớn không cùng tận. Ðó là kệ của vị Khả Ái Lạc Pháp Quang Minh Tràng Thiên Vương tán thán chư Phật.
Nếu ai thọ được pháp của Phật
Phật dùng thần lực khai đạo họ
Khiến cho thường thấy Phật hiện tiền
Nghiêm Hải Thiên Vương thấy môn này.
‘’ Nếu ai thọ được pháp của Phật.’’ Giả sử, có một loài chúng sinh nào, có thể tiếp thọ được pháp của Phật, tức cũng là trình độ có thể gần tiếp thọ được pháp.
‘’ Phật dùng thần lực khai đạo họ.’’ Phật xử dụng đại oai thần lực, để gia bị cho họ, khiến cho họ tiến từng bước từng, bước trên con đường Phật pháp. Phật dùng pháp quyền xảo phương tiện, để dẫn dụ chúng sinh, khiến cho họ đi trên bồ đề đại đạo. Nếu pháp này không thành tựu, thì đổi pháp khác, khi nào họ tiếp thọ được thì thôi. Khiến cho chúng sinh, từ ngu si đắc được trí huệ, từ trí huệ đắc được giác ngộ. Giác ngộ cái gì ? Giác ngộ pháp thế gian là khổ, pháp xuất thế gian là vui, do đó lìa khổ được vui, đó tức là khai đạo.
‘’ Khiến cho thường thấy Phật hiện tiền.’’ Làm cho chúng sinh thường thấy được phật, không những mở mắt thấy được chân thân của Phật, mà nhắm mắt cũng thấy được kim thân của Phật. Tóm lại, là luôn luôn đều thấy Phật ở trước mắt, luôn luôn vì họ mà thuyết pháp.
‘’ Nghiêm Hải Thiên Vương thấy môn này.’’ Cảnh giới này vị Thanh Tịnh Trang Nghiêm Hải Thiên Vương thấy được.
Oai thần lực của Phật là không thể nghĩ bàn, chúng ta phàm phu, chẳng có cách chi có thể hiểu được, cho nên bây giờ chúng ta vẫn còn là phàm phu, không hiểu thấu được cảnh giới của Phật. Nhưng Phật hiểu được tâm của chúng sinh. Bất cứ trong tâm tưởng gì ? Phật đều biết. Kinh Kim Cang có nói :
“Tất cả chúng sinh có những tâm gì,
Như Lai đều biết đều thấy”.
Nghĩa là tất cả hết thảy chúng sinh, không màng có bao nhiêu thứ tâm, Phật hoàn toàn biết bạn đang nghĩ gì ? Thích gì ? Chán bỏ cái gì ? Phật đều nhìn thấy rõ ràng.
Tất cả pháp tánh không chỗ nương
Phật hiện ra đời cũng như thế
Hết thảy các cõi không chỗ tựa
Nghĩa này Thắng Trí quán sát được.
‘’ Tất cả pháp tánh không chỗ nương.’’ Tất cả pháp tánh vốn là không, không chẳng chỗ có. Vì là không cho nên không cần nương tựa, chẳng có nương tựa chỗ nào hết.
‘’ Phật hiện ra đời cũng như thế.’’ Phật hiện ra trong thế gian, cũng giống như pháp tánh, là không. Không cái gì ? Không tất cả đều có. Nếu không có cái có, làm sao có cái không ?
‘’ Hết thảy các cõi không chỗ tựa.’’ Khắp trong hết thảy các cõi không chỗ nương tựa. Phật là không, không tất cả cõi, không nương tất cả các cõi. Phật là vô tướng, giáo hóa chúng sinh không có tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng. Còn bốn tướng này là chúng sinh, không còn bốn tướng này là Phật. Cho nên Phật dạy chúng sinh phá trừ bốn tướng, chẳng chấp trước bốn tướng, mới có thể giác ngộ.
‘’ Nghĩa này Thắng Trí quán sát được.’’ Nghĩa lý này vị Tối Thắng Huệ Quang Minh Thiên Vương quán sát được cảnh giới này, hiểu được đạo lý này.
Tùy tâm sở thích của chúng sinh
Phật dùng thần lực để thị hiện
Hết thảy khác nhau không nghĩ bàn
Môn giải thoát này Trí Tràng biết.
‘’ Tùy tâm sở thích của chúng sinh.’’ Phải tùy thuận tâm chúng sinh, phải tùy thuận sở thích của chúng sinh, phàm là chúng sinh có mong cầu gì, đều khiến cho họ được như ý.
Mười hạnh nguyện lớn của Bồ Tát Phổ Hiền phát ra, là tùy sở thích của tâm chúng sinh. Mười hạnh nguyện lớn là :
1. Kính lễ các đức Phật.
2. Khen ngợi Như Lai.
3. Rộng tu cúng dường.
4. Sám hối nghiệp chướng.
5. Tùy hỷ công đức.
6. Thỉnh chuyển bánh xe pháp.
7. Thỉnh Phật ở lại đời.
8. Thường học theo Phật.
9. Luôn thuận chúng sinh.
10. Hồi hướng khắp hết.
1. Lễ kính chư Phật: Lễ có bảy thứ:
a. Ngã mạn lễ.
b. Cầu danh lễ.
c. Cung kính lễ.
d. Vô tướng lễ.
e. Khởi dụng lễ.
f. Nội quán lễ.
g. Thật tướng lễ.
Khi nào giảng đến phẩm này, thì sẽ giải thích cặn kẽ.
Trong sự lễ có một thứ lễ “ngã mạn lễ”. Tức là khi lạy xuống thì tâm không quán tưởng, không nghĩ ta đang lễ mười phương Phật, lễ mười phương Pháp, lễ mười phương Tăng. Thân cũng chẳng cung kính, chỉ là hình thức mà thôi, là việc phô diễn, cẩu thả, không thành tâm, không trang nghiêm.
Phải lễ như thế nào? Phải nên thân tâm cung kính lễ. Trong tâm quán tưởng ta đang lạy Phật, lạy Pháp, lạy Tăng. Tư thế thân lạy phải tự nhiên, năm thể (đầu, hai tay, hai chân) phải đụng đất, như thế mới có công đức.
2. Khen ngợi Như Lai : Tức là khen ngợi công đức mười phương Như Lai, đem công đức của Phật nói cho chúng sinh nghe, tốt đẹp như thế nào ! Trang nghiêm ra sao ! Khen ngợi tán thán lợi ích của Như Lai, trừ được chướng ác khẩu đắc được biện tài vô ngại.
3. Rộng tu cúng dường : Tức là phải luôn luôn cúng dường Tam Bảo, cúng dường tài vật là tu phước, cúng dường pháp là tu huệ. Phước huệ đều đủ mới có công đức.
4. Sám hối nghiệp chướng : Tức là đem tội lỗi của mình nói ra hết, do đó :”Tội lỗi tày trời, sám hối liền tiêu”.
Những tội lỗi đã tạo trong quá khứ phải thật tâm hối cải, mới mong cứu được. Ðó là cho chúng sinh cơ hội sửa đổi lỗi lầm, làm con người mới. Người xưa nói:
“Người chẳng phải Thánh Hiền,
Ai mà chẳng có tội,
Có tội mà biết cải,
Còn việc thiện nào hơn” !
5. Tùy hỷ công đức: Tức là tùy thuận vui vẻ tất cả công đức pháp lành. Phật thuyết pháp độ chúng sinh, công đức dạy người không mỏi mệt, chúng ta phải tùy hỷ. Công đức của Phật vì pháp mà xả thân cũng phải tùy hỷ. Thậm chí công đức của Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn .v.v., cũng phải tùy hỷ.
6. Thỉnh chuyển bánh xe pháp : Tức là chúng sinh thỉnh Phật nói diệu pháp. Ðức Phật vào Niết Bàn rồi thì, chúng sinh thỉnh đại thiện trí thức, đại pháp sư để chuyển bánh xe pháp, tiếp nối huệ mạng của Phật.
7. Thỉnh Phật ở lại đời : Tức là thỉnh mười phương chư Phật và các đại Bồ Tát, các đại A La Hán, các đại thiện tri thức đừng vào Niết Bàn, vì lợi lạc chúng sinh mà ở lại đời.
8. Thường học theo Phật : Tức là thường học theo hạnh của Phật. Mỗi cử chỉ hành động của đức Phật đều là quy cụ, không những phải học theo lời dạy của Phật (ngôn giáo) mà còn phải học theo oai nghi cử chỉ của Phật (thân giáo). Ngôn giáo (lời dạy) là Kinh điển, thân giáo là giới luật.
9. Luôn thuận chúng sinh : Tức là thường tùy thuận căn tính của chúng sinh, khiến cho họ đắc được lợi ích, khiến cho họ đắc được thành tựu. Cúng dường chúng sinh, khiến cho họ hoan hỷ, lấy chúng sinh đáng làm cha mẹ để cung kính, lấy chúng sinh đáng làm chư Phật để cung kính.
10. Hồi hướng khắp hết : Tức là đem tất cả căn lành công đức của mình tu được, hồi hướng cho tất cả chúng sinh, chính mình không cần. Bất cứ pháp hội gì, cuối cùng nhất định phải hồi hướng. Do đó :‘’ Nguyện đem công đức này, hướng vế khắp tất cả, đệ tử và chúng sinh, đều trọn thành Phật đạo.’’
‘’ Phật dùng thần lực để thị hiện.’’ Trong tâm của chúng sinh thích gì thì đều được như ý. Phật đại từ đại bi dùng sức thần thông, khiến cho tất cả chúng sinh đạt được nguyện vọng, không làm cho chúng sinh thất vọng. Tóm lại, phàm là sự mong cầu chánh đáng, đức Phật nhất định có cảm ứng. Chúng sinh mong cầu gì ? Phật bèn thị hiện cái đó.
‘’ Hết thảy khác biệt không nghĩ bàn.’’ Tất cả tâm chúng sinh đều không giống nhau. Có những người có tín tâm đối với Phật pháp, có những người chẳng có tín tâm đối với Phật pháp. Có những người bán tín bán nghi đối với Phật pháp. Có người vì nghe Kinh điển, cảm thấy có đạo lý mà sinh tín tâm, do đó đến nghiên cứu Phật pháp. Có người nghe Kinh như gió ngoài tai, qua rồi chẳng lưu lại, quên hết tất cả. Có người nghe Kinh thì khởi vọng tưởng, tưởng đi du lịch đến cung trăng. Có người nghe Kinh thì sinh chấp trước, đây là ta, đó là họ, Kinh này là Kinh đời nhà Tấn, Kinh nọ là Kinh đời nhà Ðường, đó là tâm phân biệt. Những người này đều có tư tưởng khác nhau, suy nghĩ khác nhau, cho nên nói hết thảy khác biệt không nghĩ bàn.
‘’ Môn giải thoát này Trí Tràng biết.’’ Nhiều thứ cảnh giới khác nhau, chẳng có cách chi hiểu được, nhưng vị Vua Trời Tự Tại Trí Huệ Tràng này đắc được pháp môn giải thoát này.
Tất cả cõi nước trong quá khứ
Ðều thị hiện trong lỗ chân lông
Ðó là thần thông của chư Phật
Ái Lạc Tịch Tĩnh diễn nói được.
‘’ Tất cả cõi nước trong quá khứ.’’ Quá khứ chẳng có quá khứ, hiện tại chẳng có hiện tại, vị lai chẳng có vị lai, đó là đạo lý trong Kinh Kim Cang nói. Kinh văn nói như vầy:
“Tam tâm liễu bất khả đắc,
Quá khứ tâm bất khả đắc,
Hiện tại tâm bất khả đắc,
Vị lai tâm bất khả đắc”.
Sao lại nói tâm quá khứ không thể được ? Vì quá khứ đã qua rồi, qua rồi thì chẳng có, cho nên nói :‘’ Quá khứ tâm bất khả đắc.’’
Sao lại nói tâm hiện tại không thể được ? Vì hiện tại thì không ngừng lại, nói bây giờ là hiện tại, nói xong cũng qua rồi, thời gian không thể ngừng lại bất động cho nên nói ‘’ Hiện tại tâm bất khả đắc.’’
Sao lại nói tâm vị lai không thể đắc được ? Vì vị lai thì chưa đến, không có đến cũng không thể được, cho nên nói : ‘’ Vị lai tâm bất khả đắc.’’
Do đó :
“Tam tâm bất liễu thủy nan tiêu,
Ngũ quán yếu minh kim dã hóa”.
Tạm dịch :
Ba tâm không thấu nước khó tiêu
Năm quán tỏ rõ vàng cũng tiêu hoá được.
Nghĩa là nói : Nếu tồn tại tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai, dù thí chủ cúng dường một ly nước trà, cũng không tiêu thọ được, càng không cách chi tiêu hóa được tách trà. Nếu hiểu được đạo lý năm quán niệm thì dù vàng cũng tiêu hóa được.
Năm quán là gì ? Tức là khi ăn Quá đường thì phải niệm năm quán niệm:
1. Tính xem công bao nhiêu, thức ăn từ đâu đến ?
2. Xem xét đức hạnh của mình thiếu hay đủ, để nhận đồ cúng dường.
3. Phòng ngừa tâm tạo tội, tham là gốc.
4. Thức ăn là thuốc hay, chữa được bệnh khô gầy.
5. Vì thành đạo nghiệp mới dùng cơm này.
Người xuất gia khi ăn cơm, thì phải quán tưởng năm điều này, mới thọ sự cúng dường.
‘’ Ðều thị hiện trong lỗ chân lông.’’ Tất cả các cõi Phật trong quá khứ, tuy nhiên là vô lượng vô biên, nhưng trong một lỗ chân lông thị hiện ra các cõi Phật.
Có người nói : ‘’ Ðạo lý này tôi không tin.’’ Ðương nhiên bạn không tin, vì bạn là phàm phu. Nếu bạn tin thì minh bạch được cảnh giới của Phật. Vì căn lành của bạn không đủ, gặp được Phật pháp chân chánh, nghe được Phật lý chân chánh, còn không tin. Vì sao không tin ? Vì nghiệp chướng quá nặng, nghiệp chướng quá sâu ! Cho nên bạn không tin Phật pháp là thuốc hay cứu đời cứu người.
Ma vương mong muốn chúng sinh đừng tin Phật pháp, vì sao ? Nếu chúng sinh tin Phật pháp, thì quyến thuộc của chúng bớt đi, cho nên Ma vương phái con ma cháu ma phá hoại Phật pháp, thấy người tu hành thành tựu, thì chúng bèn đến dẫn dụ, đến uy hiếp. Ðịnh lực của người tu hành không đủ, thì dễ tẩu hỏa nhập ma, chịu sự khống chế của chúng. Cho nên người tu đạo phải chú ý, phải cẩn thận, bất cứ cảnh giới gì hiện ra, tốt cũng đừng chấp trước, xấu cũng đừng chấp trước, căn bản tâm đừng lay động. Lúc này phải một lòng một dạ, niệm danh hiệu của Phật, cảnh giới thật càng niệm càng sáng sủa, càng niệm càng rõ ràng ; nếu là cảnh giới giả, càng niệm càng đen tối, càng niệm càng lờ mờ. Ðó là phương pháp Kinh nghiệm thật giả.
Cảnh giới ảo diệu bất khả tư nghì này, bạn không cách chi thấu hiểu được. Ðợi khi nào có ngũ nhãn lục thông, thì mới biết là việc rất bình thường, chẳng có gì là lạ. Giống như hai mươi năm về trước, có người nói con người có thể lên mặt trăng, tương lai có thể du hành đến mặt trăng, bạn sẽ cho rằng đó là thần thoại. Bây giờ thực hiện được, mọi người đều tin. Trong một lỗ chân lông, hiện ra cõi nước chư Phật cũng là đạo lý này.
‘’ Ðây là thần thông của chư Phật.’’ Tức là đại thần thông lực của mười phương chư Phật, mới hiện ra được cảnh giới này.
Phật giáo lấy pháp giới làm tánh, ai cũng chạy không ra khỏi ngoài pháp giới. Tất cả các tôn giáo, đều bao dung ở trong Phật giáo. Nhất là bộ Kinh Hoa Nghiêm này, chỗ diệu dụng là lấy pháp giới làm tông, chuyên nói về đạo lý, lý sự vô ngại trong pháp giới.
‘’ Ái Lạc Tịch Tĩnh diễn nói được.’’ Thần thông lực của Phật là tận hư không khắp pháp giới. Vị Ái Lạc Tịch Tĩnh Thiên Vương diễn nói được đạo lý này.
Tất cả biển pháp môn vô tận
Ðồng vào một pháp trong đạo tràng
Ðó là pháp tánh của Phật nói
Trí Nhãn thấu được phương tiện này.
‘’ Tất cả biển pháp môn vô tận.’’ Tất cả pháp tức là tám vạn bốn ngàn pháp môn. Mỗi pháp môn trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, lại có tám vạn bốn ngàn pháp môn, là vô lượng vô biên, trùng trùng vô tận, cho nên nói tất cả biển pháp môn vô tận.
‘’ Ðồng vào một pháp trong đạo tràng.’’ Pháp môn có rất nhiều không thể nói, bây giờ đem dung vào thành một pháp môn. Tức cũng là vô lượng pháp môn nhiếp làm một pháp môn, một pháp môn tán làm vô lượng pháp môn, cho nên nói đồng vào một pháp trong đạo tràng.
‘’ Ðó là pháp tánh của Phật nói.’’ Pháp này một tức là nhiều, nhiều tức là một. Một nhiều vô lượng, một nhiều vô ngại, pháp tính này là Phật Thích Ca Mâu Ni nói.
’ Trí Nhãn thấu được phương tiện này.’’ Phổ Trí Nhãn Thiên Vương đắc được môn giải thoát : biển tam muội vô tận này, cho nên vị này thấu rõ phương tiện pháp môn này.
Tất cả cõi nước trong mười phương
Ðều ở trong đó mà thuyết pháp
Thân Phật không đến cũng không đi
Ðây là cảnh giới Lạc Huệ Toàn.
‘’ Tất cả cõi nước trong mười phương.’’ Trên thế giới không những chỉ có thế giới Ta Bà, mà còn có mười phương thế giới, mỗi phương lại có vô lượng vô biên thế giới. Do đó, thế giới này, thế giới kia, vô lượng các thế giới, cõi nước này, cõi nước kia, vô lượng các cõi nước.
‘’ Ðều ở trong đó mà thuyết pháp.’’ Trong tất cả cõi nước chư Phật mười phương, trong mỗi cõi nước đều có Phật Thích Ca Mâu Ni, đang thuyết pháp ở trong đó, đang giáo hóa chúng sinh ở trong đó.
‘’ Thân Phật không đến cũng không đi.‘’ Ở trong mỗi thế giới này đều có Phật đang nói Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật. Phải chăng thân Phật đi đến mỗi thế giới ? Chẳng phải, vì thân Phật không đến cũng không đi.
Trong Kinh Kim Cang nói :
“Như Lai giả,
Vô sở tùng lai,
Diệc vô sở khứ,
Cố danh Như Lai”.
Nghĩa là :
Bậc Như Lai,
Không từ đâu đến,
Cũng không về đâu,
Nên gọi Như Lai.
‘’ Ðó là cảnh giới Lạc Huệ Toàn.’’ Ðây là cảnh giới của vị Ái Lạc Huệ Toàn Thiên Vương biết rõ được, cảnh giới này thật là không thể nghĩ bàn. Người không hiểu Phật pháp, cho rằng Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật, là bộ Kinh đại vọng ngữ, thật ra đạo lý của Kinh này nói là lý chân thật, ngàn chân vạn thật, bất quá chúng ta phàm phu chưa đạt được cảnh giới này, cho nên không hiểu được cảnh giới này.
Phật quán thế pháp như hình bóng
Vào nơi thâm sâu tối u ám
Nói các pháp tánh thường tịch nhiên
Thiện Chủng Tư Duy thấy môn này.
‘’ Phật quán thế pháp như hình bóng.’’ Phật quán sát pháp thế gian như hình như bóng, không thường, không thật. Trong Kinh Kim Cang nói :
“Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng huyễn bọt bóng,
Như sương cũng như điện,
Nên quán sát như thế”.
‘’ Vào nơi thâm sâu tối u ám.’’ Tức nhiên pháp thế gian không thường, không thật, là hư vọng. Nhưng Phật đến nơi thâm sâu đen tối không thể nghĩ bàn, ở trong thế gian để hoằng dương Phật pháp.
‘’ Nói các pháp tánh thường tịch nhiên.’’ Phật nói các pháp là tướng tịch diệt, không thể diễn nói. Tức là nói không ra, đó là pháp tánh tịch diệt.
‘’ Thiện Chủng Tư Duy thấy môn này.’’ Vị Thiện Chủng Tư Duy Thiên Vương, thấy được cảnh giới này, hiểu được pháp môn này.
Phật khéo biết rõ các cảnh giới
Tùy tâm chúng sinh mưa pháp vũ
Nói pháp xuất thế khó nghĩ lường
Môn này Tịch Tĩnh Thiên ngộ được.
‘’ Phật khéo biết rõ các cảnh giới.’’ Phật không có gì mà không biết, không có gì mà không làm được, không có chỗ nào mà không đến, không có gì mà không thông. Phật biết rõ tất cả cảnh giới, tất cả căn tánh của chúng sinh.
‘’ Tùy tâm chúng sinh mưa pháp vũ.’’ Căn tính chúng sinh giống như cây cỏ hoa lá, rễ lớn thì hút lượng nước mưa nhiều, rễ nhỏ thì hút lượng nước mưa ít. Chúng ta chúng sinh cũng như thế, chúng sinh căn lành sâu dày, thì đắc được mưa pháp của Phật nhiều một chút, chúng sinh căn lành cạn cợt thì đắc được mưa pháp của Phật ít hơn một chút.
‘’ Nói pháp xuất thế khó nghĩ lường.’’ Vì mở bày diệu pháp không thể nghĩ bàn, đó là pháp môn xuất thế quan trọng hơn hết.
‘’ Môn này Tịch Tĩnh Thiên ngộ được.’’ Vị Vô Cấu Tịch Tĩnh Quang Thiên Vương minh bạch được cảnh giới này.
Thế Tôn thường dùng đại từ bi
Lợi ích chúng sinh hiện ra đời
Mưa pháp cam lồ nhuận hết thảy
Thanh Tịnh Quang Thiên diễn nói được.
‘’ Thế Tôn thường dùng đại từ bi.’’ Phật là đấng chí tôn, Ngài thường dùng tâm đại từ đại bi, để giáo hóa chúng sinh, bất cứ chúng sinh có sai lầm gì, Phật cũng đều tha thứ, cho nên nói Thế Tôn thường dùng đại từ bi.
‘’ Lợi ích chúng sinh hiện ra đời.’’ Phật vì lợi ích tất cả chúng sinh, cho nên mới xuất hiện ra đời, hiện tám tướng thành đạo ở thế giới Ta Bà.
‘’ Mưa pháp cam lồ nhuận hết thảy.’’ Phật là bình đẳng nhất, chẳng có quan niệm phân biệt, về giai cấp, về chủng tộc, về quốc tịch. Ngài thuyết pháp thì tất cả chúng sinh đều đắc được lợi ích. Bồ Tát thì đắc được lợi ích của Bồ Tát, A La Hán thì được lợi ích của A La Hán. Tu pháp đại thừa thì đắc được lợi ích đại thừa, tu tiểu thừa thì được lợi ích tiểu thừa, hết thảy đều có lợi ích khác nhau. Giống như bồn đựng nước, bồn lớn thì chứa nhiều nước một chút, bồn nhỏ thì chứa ít nước một chút.
‘’ Thanh Tịnh Quang Thiên diễn nói được.’’ Vị Quảng Ðại Thanh Tịnh Quang Thiên Vương diễn nói được cảnh giới này.
Ở trên là mười bài kệ của mười vị Quảng Quả Thiên Vương, trời Tứ Thiền thuộc về sắc giới, nói để tán thán công đức của Phật.
Lại nữa, Thanh Tịnh Huệ Danh Xưng Thiên Vương, được môn giải thoát, thấu rõ phương tiện, con đường giải thoát cho tất cả chúng sinh.
Ý nghĩa ở trước chưa nói hết, bây giờ nói tiếp theo, khiến cho mọi người càng minh bạch càng hiểu rõ.
Vị Thanh Tịnh Huệ Danh Xưng Thiên Vương, thuộc về cõi trời Biến Tịnh, trong cõi sắc giới trời Tam Thiền (cõi trời thứ chín thuộc về sắc giới). Vị này có trí huệ thanh tịnh, ở trong các Thiên Vương, vị này rất có danh vọng được mọi người tôn làm lãnh tụ để chỉ đạo tất cả. Vị này ngộ được Tam muội gọi là : Thấu đạt tất cả đạo giải thoát của chúng sinh. Vị này hiểu rõ chúng sinh trong chín pháp giới. Bồ Tát là chúng sinh đại đạo tâm. Duyên Giác là chúng sinh trung đạo tâm. Thanh Văn là chúng sinh tiểu đạo tâm. Thiên đạo, nhân đạo, A tu la là chúng sinh trong ba đường lành. Súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục là chúng sinh trong ba đường ác. Ðó là chúng sinh trong chín pháp giới, mỗi loài đều có nhân, có quả của mỗi loài.
Do đó trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Tức là trồng nhân lành kết quả tốt, trồng nhân ác kết quả xấu. Trong bổn Kinh này có nói :
‘’ Nếu ai muốn biết rõ,
Hết thảy Phật ba đời,
Hãy quán tánh pháp giới,
Tất cả do tâm tạo.’’
Vạn pháp đều từ tâm tạo ra. Người xưa nói :
“Tâm sinh vạn pháp sinh,
Tâm diệt vạn pháp diệt”.
Bây giờ phân tích chữ “Tâm” này, ý nghĩa đại khái là :
“Tam điểm như tinh bố,
Loan quân tự nguyệt nhạ,
Phi mao tùng thử khởi,
Tác Phật dã do tha”.
Tạm dịch :
Ba điểm bày như sao
Uốn cong tợ trăng non
Mang lông khởi từ đây
Thành Phật cũng do nó.
Ba điểm chữ tâm, giống như sao bày la liệt trên bầu trời. Chữ tâm, cong giống như hình trăng non mồng ba. Làm trâu bò, ngựa dê đều từ tâm tạo ra ; thành Phật làm Tổ cũng từ tâm tạo ra. Cho nên nói :‘’ Mười pháp giới không ngoài một niệm tâm.’’ Mười pháp giới này do mình lựa chọn. Muốn đến pháp giới nào, thì làm nghiệp pháp giới đó. Tạo ra nghiệp pháp giới nào, thì vãng sinh về pháp giới đó, đó thật là tuyệt đối công bằng.
Tâm của chúng ta không ổn định, giống như hạt bụi trong hư không, lúc cao, lúc thấp, lúc trái, lúc phải, lúc lên trời, lúc xuống đất, lúc cõi Phật, lúc nhân gian.
Lại có lối giải thích khác về tâm :
‘’ Thao chi tắc tồn, xả chi tắc vong,
Xuất nhập vô thời, mạc chi kỳ hướng.’’
Nghĩa là : Giống như một con ngựa, dắt nó thì nó không chạy ; nếu không dắt nó thì nó chạy. Tâm của chúng ta cũng như thế, tiết chế nó, xem giữ nó thì nó ở, không tiết chế, không xem giữ nó thì nó chạy. Cho nên người tu hành tức là tu tâm. Luôn luôn niệm Phật, luôn luôn tham thiền. Tu hành như vậy thì tâm không chạy đi, do đó ‘’ Tâm viên ý mã,’’ tâm không an tĩnh giống như con khỉ, chạy nhảy lăn xăn. Ý không an phận giống như con ngựa, chạy rong bên ngoài. Hai loài súc sinh này khó điều phục được. Chúng ta hằng ngày khởi vọng tưởng, tức là tâm chạy bên ngoài ; niệm Phật tham thiền là pháp môn duy nhất khống chế tâm ý tại một chỗ.
Xuất nhập vô thời : Tức là tâm ra đi lúc nào ? Lúc nào trở về ? Ðều không biết. Mạc tri kỳ hướng : Khi tâm ra đi thì không biết tâm đi về đâu ? Khi đến cũng không biết đến đâu ?
Vị Thiên Vương này thấu đạt được tâm của tất cả chúng sinh, biết cách làm thế nào để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh hiểu rõ sự giải thoát. Cho nên vị này dùng đủ thứ phương tiện, khiến cho chúng sinh đắc được môn giải thoát xuất thế.
Tối Thắng Kiến Thiên Vương được môn giải thoát, khắp thị hiện như hình bóng, tùy sự ưa thích của tất cả chúng chư Thiên.
Vị Tối Thắng Kiến Thiên Vương này, kiến giải nhạy bén phi thường, chính xác phi thường. Vị này đắc được môn giải thoát, khắp thị hiện tùy sự ưa thích của tất cả Thiên chúng như hình như bóng.
Có hình thì có bóng, có bóng mới có hình, hình là ánh sáng, bóng là đen tối. Hình tức là mặt trăng, mặt trăng trong nước tức là bóng. Mặt trăng chẳng đến, nước cũng chẳng đi, đó đây hổ tương chiếu soi, mà sinh ra bóng này.
Lại giống như gương sáng, nếu có vật rọi vào thì hình xuất hiện, vì quan hệ có sáng thì mới hiện ra bóng. Cho nên ánh sáng bóng này thị hiện khắp. Giống như đạo lý một ngàn vũng nước, đều có ngàn mặt trăng trong nước. Bổn thể của mặt trăng chẳng đến trong nước, nó chỉ có một, chỉ cần ngàn vũng nước thì hiện ra ngàn mặt trăng trong nước. Vạn vũng nước thì có vạn mặt trăng trong vũng nước. Bất cứ vũng nước lớn hoặc nhỏ, chỉ cần chỗ nào có nước, thì đều hiện ra bóng mặt trăng. Mặt trăng chẳng có tâm phân biệt, là bình đẳng.
Phật và chúng sinh cũng như thế. Phật tương tợ như mặt trăng, tâm chúng sinh giống như nước. Tâm nước của chúng sinh thanh tịnh thì hiện Phật quang minh ; tâm nước của chúng sinh không thanh tịnh, thì không hiện Phật quang minh. Trong bổn Kinh này nói :
“Bồ Tát thanh lương nguyệt,
Thường du tất kính không,
Chúng sinh tâm cấu tịnh,
Bồ đề ảnh hiện trung”.
Tạm dịch :
Bồ Tát như trăng sáng
Thường lơ lửng trên trời
Tâm chúng sinh trong sạch
Bóng bồ đề hiện ra.
Quang minh của Phật, giống như mặt trăng sáng mát mẻ ở không trung, hiện ra ở trong tất kính không, nếu tâm nước chúng sinh thanh tịnh thì, bồ đề giác đạo tùy thời hiện bóng ở trong tâm.
Tịch Tĩnh Ðức Thiên Vương được môn giải thoát, đại phương tiện trang nghiêm thanh tịnh, khắp tất cả cảnh giới của Phật.
Vị Tịch Tĩnh Ðức Thiên Vương này, có đức tịch tĩnh. Ðức tịch tĩnh là gì ? Tức là có công phu thiền định. Vị này không những có công phu thiền định, mà còn khiến cho chúng sinh, cũng có công phu thiền định. Phàm là chúng sinh thấy được vị này, đều sinh ra thứ định tâm này. Vị này cũng khiến cho chúng sinh, tinh tấn tu thiền định. Lâu dần tích tụ được vô lượng vô biên công đức, có đức tịch tĩnh, cho nên xưng là Tịch Tĩnh Ðức Thiên Vương.
Môn giải thoát của vị này đắc được gọi là : đại phương tiện trang nghiêm thanh tịnh, khắp tất cả cảnh giới của Phật. Vị Thiên Vương này trong khoảng một niệm, có thể trang nghiêm khắp cõi Phật trong mười phương. Ðồng thời, đó đều là trang nghiêm tốt đẹp thù thắng, và thanh tịnh hết thảy tất cả cảnh giới của Phật, lại có thể trang nghiêm thần thông tất cả cõi Phật trong mười phương, và vị này lại có thể hiển hiện cảnh giới này làm đại phương tiện.
Ðại phương tiện là gì ? Tức là phương tiện trong sự bất phương tiện. Bổn lai pháp phương tiện này không thể dùng, nhưng vị này dùng được phương tiện này, không những dùng được mà còn không chướng ngại.
Tu Di Âm Thiên Vương được môn giải thoát, tuỳ thuận các chúng sinh, vĩnh viễn lưu chuyển trong biển sinh tử.
Vị Tu Di Âm Thiên Vương này. Tu Di dịch là “Diệu cao”, âm thanh của vị này rất vi diệu, ở cõi trời Ðao Lợi đều nghe được. Môn giải thoát của vị này đắc được là : tùy thuận chúng sinh. Chúng sinh thích gì ? Thì đều làm cho họ thỏa mãn nguyện vọng, làm cho họ được toại nguyện. Nhưng sự mong muốn của chúng sinh chẳng giống nhau.
Nguyện vọng của A La Hán là tự độ mà không độ người, do đó :‘’ Ma Ha Tát bất quản tha, Di Ðà Phật các cố các.’’ Chỉ lo cho mình liễu sinh thoát tử, không muốn đi cứu vớt sự khổ của chúng sinh. Bạn khổ là việc của bạn, chẳng liên can gì đến tôi, tự liễu hán không muốn đi độ chúng sinh.
Dục vọng của chư Thiên là, cứ lo hưởng thụ phước báu, nghĩ đến y phục thì có y phục, nghĩ thức ăn thì có thức ăn. Nghĩ mặc y phục đẹp thì có y phục đẹp, không lớn không nhỏ, vừa vặn thích hợp. Y phục của người trời không những nhẹ nhàng, mà còn không có đường khâu, không bao giờ cần giặt, không dính bụi bặm, sạch sẽ vô cùng. Muốn ăn đồ ngon thì có ngay, có khi nhiều một chút, có khi ít một chút, không giống như thế giới Cực Lạc không nhiều không ít ăn vừa đủ no.
Chư Thiên tuy nhiên sung sướng, nhưng cũng có đau khổ. Ðau khổ gì ? Ðau khổ về sinh tử. Khi phước trời hưởng hết rồi, thì có năm tướng suy hiện ra. Năm tướng suy là gì ?
- Hoa trên đầu héo : Người trời có mũ bằng hoa, dùng hoa tươi làm thành, hoa này không những không héo, ngược lại ngày càng xanh tươi tốt đẹp. Nhưng đến khi sắp hết tuổi thọ, thì hoa trên đầu khô héo.
- Y phục dơ bẩn : Y của người trời mặc rất sạch sẽ không dơ bẩn, vĩnh viễn không cần giặt. Nhưng đến khi tuổi thọ hết, thì y phục dơ bẩn. Sự dơ bẩn này từ đâu đến ? Là từ nghiệp chướng hiện ra.
- Hai nách ra mồ hôi : Thân thể người trời không ra mồ hôi, luôn luôn sạch sẽ. Nhưng đến khi tuổi thọ hết, thì hai nách chảy ra mồ hôi, thân thể nhơ nhuốc.
- Thân thể có mùi hôi : Người trời thân thể luôn luôn có hương thơm, vì người trời tu mười điều lành, và giữ năm giới cấm, cho nên thân cảm ứng có mùi thơm. Nhưng khi tuổi thọ hết rồi, thì thân phát ra mùi thây chết, làm cho người bịt mũi không dám lại gần.
- Ngồi không yên : Người trời thường tu thiền định, tham thiền đả tọa, công phu sâu dày thì thăng lên, công phu ít thì trầm xuống. Lúc bấy giờ đã phát sinh ra bốn hiện tượng, biết được thọ mạng sắp kết thúc, cho nên ngồi không yên, ngồi xuống lại đứng lên, đứng lên lại ngồi xuống, cứ như vậy nhiều lần, thọ mạng chấm dứt thì chuyển sinh trong sáu nẻo luân hồi. Ðó là hiện tượng năm tướng suy, phàm là chư Thiên trong tam giới đều có sinh tử, ngay cả Thượng Ðế cũng còn sinh tử.Dục vọng của A Tu La là muốn được hưởng phước ở trên trời, muốn chư Thiên sớm về nhân gian, để nhường việc trên trời cho chúng quản lý. Chúng còn ham muốn làm lãnh tụ chư Thiên, việc gì cũng muốn tranh đệ nhất, muốn đứng đầu.Dục vọng của con người là giàu sang danh lợi. Muốn làm quan, muốn phát tài, không cầu danh thì cầu lợi, không thoát ra được vòng danh lợi.
Hoàng đế Càn Long đời nhà Thanh, giá lâm Trấn Giang Kim Sơn Tự, lên chỗ cao để ngắm phong cảnh bèn hỏi Thiền sư Pháp Khánh :‘’ Mỗi ngày sông Trường Giang này có bao nhiêu chiếc thuyền qua lại ? ‘’
– Thiền sư đáp : ‘’ Chỉ có hai chiếc thuyền.’’
– Hoàng đế lại hỏi : ‘’ Hai chiếc thuyền sao ? ‘’
– Thiền sư đáp : ‘’ Phải ! Một chiếc là danh, một chiếc là lợi.’’ Sự tham muốn của con người không bao giờ ngừng, được danh lại muốn được lợi, được lợi rồi lại muốn có danh, đều muốn được cả danh và lợi, do đó :
‘’ Nhân tâm bất túc xà tôn tượng.’’
Nghĩa là : “Tâm con người không biết đủ giống như rắn nuốt voi”, làm được Hoàng đế lại muốn sống mãi không chết.
Dục vọng của loài súc sinh : Vừa có lòng tham ngu si và điên đảo. Sở thích của chúng là không làm mà muốn có đồ ăn. Không phấn đấu sinh hoạt. Chúng ta người tu đạo phải học tinh thần loài ong. Chúng hút mật trăm loài hoa về tụ tập một chỗ, meo lên mà thành mật ong, không những lợi mình mà cũng lợi người.
Dục vọng của loài ngạ quỷ là muốn ăn đồ vật, nhưng chẳng có vật gì để ăn ; dù uống nước, nước cũng biến thành lửa. Vì nghiệp chướng quá nặng, cổ họng nhỏ như cây kim, bụng thì to như trống, không có khi nào ăn no, thật đáng thương !
Dục vọng của loài địa ngục là tâm sân hận, luôn luôn muốn nóng giận, chẳng có tâm từ bi. Chúng sinh nóng giận như lửa thì chịu sự khổ lửa đốt thân ; chúng sinh nóng giận như đao thì chịu sự khổ cắt thịt. Nóng giận như thế nào, thì có phiền não như thế đó.
Các pháp giới chúng sinh đều có lòng tham muốn của họ. Phàm là chúng sinh có lòng tham muốn, thì vĩnh viễn lưu chuyển trong biển sinh tử, ngóc đầu lên lại chìm xuống, sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh, luân hồi trong sáu nẻo không khi nào ngừng. Ðó gọi là biển sinh tử.
Vị Thiên Vương này hiểu rõ đạo lý này, cho nên tùy thuận chúng sinh lưu chuyển trong biển sinh tử, khiến cho chúng sinh giác ngộ, mà ra khỏi biển sinh tử đắc được giải thoát. Vị này đắc được môn giải thoát này.
Tịnh Niệm Nhãn Thiên Vương được môn giải thoát, nghĩ nhớ hạnh của Như Lai điều phục chúng sinh.
Vị Thanh Tịnh Nhãn Thiên Vương này, nhờ công đức niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, mà đắc được mắt thanh tịnh. Và còn đắc được định lực nghĩ nhớ của Như Lai. Nghĩ nhớ tức là không quên. Không quên ai ? Không quên Như Lai. Cho nên chúng ta là người tu đạo phải bỏ vọng tồn chân. Khử sạch tâm vọng, chỉ tồn tâm chân thành. Yêu thích cõi nước chư Phật, phát nguyện vãng sanh, đó là nghĩ nhớ. Nghĩ nhớ pháp thân của Phật, nghĩ nhớ hóa cảnh của Phật, nghĩ nhớ Tam Bảo thì hàng phục được các hạnh của chúng sinh.
Chúng sinh trong thế giới Ta Bà, không dễ gì điều phục được, trong Kinh Ðịa Tạng có nói : ‘’ Chúng sinh cõi Nam Diêm Phù Ðề căn tánh khó điều phục.’’ Chúng sinh thế giới này chấp trước cái ta, ngã mạn, cho nên khó điều phục. Họ không chịu nghe, dù có bạn tốt thầy hiền khéo dụ, khiến cho họ phát bồ đề tâm, lợi mình lợi người, nhưng họ không tin, không nghe dạy bảo. Cho nên chúng sinh thường làm chúng sinh, không siêu thoát được.
Vị Thiên Vương này điều phục được chúng sinh hạnh. Ðiều là điều hòa, giống như nước hòa với sữa, lập tức điều hòa thành một thể. Phục là điều phục, giống như cọp, xem người là thức ăn. Hòa Thượng Hư Vân khiến cho cọp quy y Tam Bảo, không ăn thịt mà ăn chay đó là điều phục. Chúng sinh không giữ quy cụ mà dạy họ giữ được quy cụ, đó là điều phục chúng sinh hạnh. Vị Thiên Vương này đắc được môn giải thoát này.
Khả Ái Lạc Phổ Chiếu Thiên Vương được môn giải thoát, phổ môn chảy ra từ biển Ðà La Ni.
Vị Khả Ái Lạc Phổ Chiếu Thiên Vương này, bất cứ là người ở trên trời, hoặc người ở tại nhân gian, ai thấy được vị này, đều sinh tâm hoan hỷ và ái hộ. Vì quang minh của vị này, chiếu khắp tất cả chúng sinh, thì tất cả đều có nhân duyên. Vị này đắc được pháp Tam muội Phổ môn biển Ðà la ni.
Phổ môn là gì ? Tức là do một cửa mà sinh ra vô lượng cửa (một môn sinh ra vô lượng môn), từ vô lượng cửa trở về một cửa, là cửa viên dung vô ngại chu khắp pháp giới.
Ðà la ni là gì ? Dịch là “tổng trì”. Tổng là tổng tất cả pháp, trì là trì vô lượng nghĩa. Tóm lại, tổng thân, khẩu, ý ba nghiệp thanh tịnh. Trì giới, định, huệ ba học viên minh.
Biển tổng trì là gì ? Tức là từ trong một tổng trì sinh ra vô lượng vô biên tổng trì. Trong mỗi tổng trì lại sinh ra bất khả thuyết, bất khả thuyết tổng trì. Sự biến hóa nhiều này giống như biển cả, cho nên gọi là biển tổng trì.
Tuy nhiên có biển tổng trì nhiều như thế, nhưng đừng chấp trước. Không chỗ chấp trước, thì viên dung vô ngại. Chẳng giống như chúng ta có một thì chấp một, có hai thì chấp hai, có ba thì chấp ba, cho đến có vô lượng thì chấp vô lượng. Phải lìa tất cả chấp trước tướng, thì biển tổng trì cũng chẳng có. Nếu không bỏ sự chấp trước tướng, thì chẳng bao giờ được giải thoát. Vị Thiên Vương này được môn giải thoát này.
Thế Gian Tự Tại Chủ Thiên Vương được môn giải thoát, khiến cho chúng sinh gặp được Phật thì sinh tín tạng.
Vị Thế Gian Tự Tại Chủ Thiên Vương này, tức là Thiên Chúa hoặc là Thượng Ðế mà một số người tin. Vị này tuy nhiên làm Chúa Trời nhưng vẫn không biết đủ (tri túc). Lại đến nhân gian để làm Tự Tại Chủ, dạy người nhân gian khởi tâm tham, tâm sân, tâm si, dạy người nhân gian tin mình, tín ngưỡng mình, sùng bái mình, còn phán giáo nói rằng:
1. Tin ta thì được cứu, không tin ta thì không được cứu. Người có tâm tham, nghe rồi thì nghĩ rằng họ sẽ được cứu bèn tin Thuợng đế.
2. Người nào tin ta thì được sinh về nước Chúa, ai không tin thì đọa địa ngục. Tóm lại bất cứ có bao nhiêu tội lỗi, chỉ cần tin Thượng đế, thì sẽ được sinh lên thiên đường. Bất cứ có bao nhiêu thiện nghiệp, nếu không tin Thượng đế thì sẽ đọa vào địa ngục. Người có tâm sân hận nghe rồi thì muốn nổi nóng, tạo ra nhiều nghiệp, bây giờ tin Thượng đế thì sẽ được cứu cho nên liền tin.
3. Tin ta thì là con của Thượng đế, không tin ta thì là quyến thuộc của ma quỷ. Người có tâm si mê, nghe rồi thì một lòng muốn làm con của Thượng đế, tôi phải sinh về đất Chúa, do đó bèn tin Thượng đế.
Người ngu si thì bất cứ ai nói điều gì, họ đều tin là thật. Nếu có ai nói : ‘’ Trứng gà đẻ ở trên cây ‘’ họ cũng sẽ tin. Tại sao ? Vì họ chẳng có năng lực biện rõ thị phi, đó tức là mê tín.
Cho nên vị Thế Gian Tự Tại Chủ ở tại nhân gian lập giáo mà hành đại đạo, đến khắp nơi dùng quan hệ tình cảm để thuyết giáo, dạy người tin Chúa trời, Chúa trời là thần vạn năng, sáng được thế giới, tạo vạn vật, xét đoán tội người, nhưng không công bằng, là giáo đồ thì có quyền ưu tiên thăng lên thiên đường, chẳng phải giáo đồ thì không thể tha thứ, còn phải chịu tội.
Nói về vị Chúa trời này bây giờ đã phản tỉnh. Vị này đã kiểm thảo lại những gì đã làm trong quá khứ, biết phạm sự sai lầm, cho nên bây giờ sám hối nói : ‘’ Tin ta thì nương tựa không vững, chết rồi tuy nhiên sinh lên thiên đường, nhưng khi hưởng hết phước trời thì vẫn phải chịu sinh tử, chẳng phải pháp rốt ráo. Chỉ có tin Phật pháp mới chân chánh được cứu, vĩnh viễn chấm dứt sinh tử.’’
Vị Thiên Vương này, khiến chúng sinh gặp được Phật, thì sinh tín tạng. Phật là Vô thượng chánh đẳng chánh giác, bất cứ Thần, Thánh, Chúa trời đều không thể so sánh với trí huệ của Phật. Vì Phật có đại trí huệ không thể sánh được. Vị Thiên Vương này đắc được môn giải thoát này.
Quang Diệm Tự Tại Thiên Vương được môn giải thoát, khiến cho tất cả chúng sinh, nghe pháp tin vui mà ra khỏi ba cõi.
Vị Quang Diệm Tự Tại Thiên Vương này, có trí huệ quang minh giống như lửa ngọn. Vị này đắc được sự giác ngộ, khiến cho chúng sinh trong chín pháp giới, nghe pháp mà sinh tín tâm, và còn hoan thiên hỷ địa tín thọ. Như vậy mới ra khỏi tam giới, ra khỏi luân hồi, ra khỏi đời ác năm trược. Vị Thiên Vương đắc được môn giải thoát này.
Tam giới là gì ? Tức là dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Dục giới thì có dục (tham muốn) nam nữ, tham muốn về vật chất và tư tưởng tham muốn. Cho nên gọi là dục giới. Sắc giới chẳng còn tham muốn nam nữ, nhưng có sự tham muốn vật chất và tư tưởng tham muốn, cho nên gọi là sắc giới. Vô sắc giới chẳng còn tham muốn nam nữ, cũng chẳng còn tham muốn vật chất, chỉ có tư tưởng tham muốn, tức là thức, cho nên gọi là vô sắc giới.
Luân hồi là gì ? Tức là bánh xe sinh tử, chạy trong vòng sáu nẻo, bị nghiệp lực sở cảm chi phối. Lúc còn sống, thực hành thượng phẩm mười điều lành, giữ năm giới, thì được sinh về cõi trời. Lúc còn sống, thực hành trung phẩm mười điều lành, giữ năm giới, thì sinh về cõi người. Lúc còn sống, thực hành hạ phẩm mười điều lành, giữ năm giới, thì sinh về cõi A Tu La. Lúc còn sống, thực hành hạ phẩm mười điều ác, không giữ năm giới, thì sinh về đường súc sinh. Lúc còn sống, thực hành trung phẩm mười điều ác, không giữ năm giới, thì sinh về ngạ quỷ. Lúc còn sống, thực hành thượng phẩm mười điều ác, không giữ năm giới, thì đọa vào địa ngục.
Ðời ác năm trược là gì ? Thế giới này chúng ta đang ở có năm thứ cấu nhiễm.
- Kiếp trược : Ðến thời đại mạt pháp, tuổi thọ con người đến lúc thấp nhất thì thành diệt kiếp, có ba tai nạn lớn.
- Kiến trược : Trong tâm con người đầy dẫy tư tưởng ngũ chủng kiến (năm thứ thấy không chân chánh) tức là : Thân kiến, biên kiến, giới thủ kiến, kiến thủ kiến, tà kiến.
- Phiền não trược : Trong tâm con người đầy dẫy năm thứ ngu độn tức là : Tham dục, sân hận, ngu si, ngã mạn, nghi hoặc.
- Chúng sinh trược : Sinh mạng của chúng sinh là do năm uẩn giả hợp mà thành, phải chịu sinh già bệnh chết, đủ sự thống khổ và phiền não, vĩnh viễn luân hồi trong sáu nẻo.
- Mạng trược : Sinh mạng của chúng sinh khổ nhiều vui ít, thọ mạng như sương buổi sáng, khoảng nháy mắt thì quỷ vô thường đến, thì sinh mạng sẽ chấm dứt.
Thân chúng sinh dễ được, nhưng thân người khó được, vì con người là thông minh nhất trong các loại chúng sinh, cho nên được thân người chẳng phải dễ. Cổ đức nói :
“Thân người khó được, Phật pháp khó nghe,
Nước lớn khó sinh, bạn hiền khó gặp”.
Bây giờ người Mỹ đều có phước báu, nếu không có phước báu thì không thể sinh vào nước Mỹ. Có người nói : ‘’ Tây phương Cực Lạc Thế Giới là nước Mỹ bây giờ.’’ Mới nghe còn có chút nghi ngờ, không tin lời nói như thế, nhưng phân tích tỉ mỉ thì thật có lý. Thế giới Cực Lạc, căn cứ tên gọi mà suy nghĩ nghĩa của nó, là vui sướng đến cùng cực, mà chẳng có chút lo lắng gì. Bây giờ khắp nơi trên thế giới chịu sự uy hiếp về chiến tranh, uy hiếp về lương thực kinh tế, mà nước Mỹ là một nước giàu mạnh, không bao giờ sợ thiếu lương thực và chẳng sợ có chiến tranh, đây là thế giới cực lạc ở nhân gian.
Bây giờ Phật pháp đã truyền đến đất Mỹ, quang minh của Phật chiếu khắp, Phật pháp độ khắp. Phàm là người ở nước Mỹ đều đắc được lợi ích Phật pháp. Hạt giống bồ đề đã trồng xuống mười năm về trước, bây giờ là thời kỳ mầm non, hy vọng thiện nam tín nữ nước Mỹ cố gắng nỗ lực tài bồi, luôn luôn cạo cỏ, luôn luôn thêm phân tưới nước, khiến cho mầm bồ đề lớn dần phát triển tươi tốt, khai hoa kết quả. Ai ai cũng tin Phật pháp thì thế giới chẳng có chiến tranh.
Chúng ta hôm nay sanh vào nước lớn, lại có bạn hiền, thật là cơ hội tốt ngàn năm khó gặp, cho nên phải nắm lấy cơ hội, đừng để trôi qua. Bốn điều khó được đều đã được, thật là hy hữu, may mắn, cũng là nghiệp lực sở cảm. Cho nên nghe pháp phải sinh tín tâm mới có công đức, không sinh tín tâm thì bất cứ nghe pháp gì cũng chẳng ích lợi gì. Bây giờ chúng ta không những tin còn phải tu hành. Do đó :
‘’ Thân người khó được nay đã được,
Phật pháp khó nghe nay đã nghe,
Thân này đời nay không độ,
Còn đợi chừng nào độ thân này.’’
Lạc Tư Duy Pháp Biến Hóa Thiên Vương, được môn giải thoát, nhập vào tất cả hạnh điều phục của Bồ Tát, vô biên vô tận như hư không.
Vị Tư Duy Pháp Biến Hóa Thiên Vương này, hoan hỷ tu pháp môn tư duy. Pháp tư duy tức là thiền định. Vị này hiểu rõ tất cả các pháp, biến hóa vô cùng hổ tương vô ngại. Hiểu rõ pháp này, nhập vào được tất cả cảnh giới của Bồ Tát, thấu hiểu điều phục được hạnh chúng sinh, hiểu rõ làm thế nào điều phục loại chúng sinh đó. Vị này đắc được môn giải thoát này.
Vị này còn hiểu rõ tự tánh như hư không chẳng có bờ mé, cho nên nói vô biên vô tận, chẳng có bờ mé là lớn nhất, chẳng có cùng tột là dài nhất. Thiên Vương này hiểu được pháp môn này, cho nên đắc được môn giải thoát này.
Biến Hóa Tràng Thiên Vương được môn giải thoát, phổ bi trí quán sát vô lượng phiền não của chúng sinh.
Vị Biến Hóa Tràng Thiên Vương này, có tràng báu biến hóa vô cùng, có thể biến lớn biến nhỏ, có thể biến nhiều biến ít, biến hóa đủ loại bảy báu để trang nghiêm tràng báu. Vị này quán sát được tất cả phiền não chúng sinh. Phiền não từ đâu mà có ? Nói đơn giản là từ vô minh mà sinh ra. Vô minh khởi mà biến làm phiền não tham sân si. Phiền não có đại phiền não, trung phiền não và tiểu phiền não. Lại sinh ra vô lượng vô biên phiền não, cho nên nói vô lượng phiền não.
Chúng sinh có phiền não chướng và sở tri chướng. Phiền não chướng tức là chấp ta quá nặng. Sở tri chướng tức là chấp pháp quá nặng. Do hai sự chướng ngại này, mà chúng ta lưu chuyển trong sáu nẻo luân hồi, không giải thoát được.
Mỗi một chúng sinh đều có phiền não của họ. Người giàu thì có phiền não kiêu ngạo, kẻ nghèo thì có phiền não tự ti. Phiền não là gì ? Tức là không biết đủ. Nếu biết đủ thì chẳng có phiền não. Do đó :‘’ Biết đủ thì vui, nhịn được thì yên.’’
Vị Thiên Vương này đắc được môn giải thoát : phổ biến từ bi trí huệ, phát nguyện độ chúng sinh, xem chúng sinh bình đẳng, không phân biệt người thân kẻ oán, hết thảy đều như nhau.
Tinh Tú Âm Diệu Trang Nghiêm Thiên Vương, được môn giải thoát, phóng quang hiện tam luân thân khẩu ý của Phật, để nhiếp hóa chúng sinh.
Vị Tinh Tú Âm Diệu Trang Nghiêm Thiên Vương này, phóng quang minh, quang minh như tinh tú rất vi diệu trang nghiêm các cõi nước chư Phật. Vị này đắc được môn giải thoát, phóng quang hiện tam luân nhiếp hóa của Phật. Phật tức là Phật Thích Ca hoặc là mười phương chư Phật. Tam luân tức là thân khẩu ý. Tam luân của Phật, tam luân của Bồ Tát, tam luân của A La Hán, tam luân của chúng sinh đều khác nhau.
Tam luân của Phật có thể nói là một luân, lại có thể nói là chín luân. Trong mỗi một luân có ba luân tác dụng. Ví như miệng. Miệng không chỉ riêng thuyết pháp luân, cũng có thể nói là ý niệm luân, cũng có thể nói là thần túc luân. Như vậy mỗi một luân đầy đủ công dụng ba luân, luân chuyển không ngừng, chuyển đại pháp luân. Cho nên tam luân của Phật, với tam luân của chúng sinh chẳng giống nhau.
Tam luân của chúng sinh, thân tức là thân, miệng tức là miệng, ý tức là ý, không thể dùng lẫn nhau, mà có sự chướng ngại.
Tam luân của Phật lấy bốn pháp nhiếp làm chủ, cho nên nói nhiếp hóa chúng sinh. Nhiếp là nhiếp thọ, giống như hút sắt vậy. Nhiếp phân làm hai thứ :
1. Nhiếp hữu hình, giống như có người ở Nữu Ước, tiếp được thơ hoặc điện thoại của bạn bè ở Cựu Kim Sơn, bèn đến Cựu Kim Sơn.
2. Nhiếp vô hình, tức là nhiếp tinh thần, tức cũng là thần túc thông, có thể nhiếp người đến. Ví như có người vốn chưa từng thấy mặt, hoặc là chỉ thấy trong mộng, thì người này bèn đến, đó là tác dụng về nhiếp tinh thần.
Phật thường dùng nhiếp hữu hình và vô hình, để nhiếp hóa chúng sinh, dùng đủ loại thần thông để nhiếp hóa chúng sinh, dùng từ bi hỷ xả để nhiếp hóa chúng sinh. Tóm lại có bốn loại nhiếp:
1. Bố Thí: Phân làm ba loại:
a). Bố thí tài: Thấy người khốn khổ hoạn nạn, dùng vàng bạc vật chất để cứu họ, họ sẽ cảm động mà tin bạn.
b). Bố thí pháp: Thấy người không rõ sự lý, dùng Phật pháp nhân quả để khai đạo cho họ, khiến cho họ khai mở trí huệ, họ sẽ cảm động mà tin bạn.
c). Bố thí không sợ hãi: Thấy người bất hạnh, dùng lời khéo để an ủi họ, làm cho họ không hoảng hốt sợ hãi, họ sẽ cảm động mà nương tựa bạn. Như vậy sẽ phát sinh cảm tình với chúng sinh thì dễ gần gũi chúng sinh.
2. Ái ngữ : Tức là lời nói thái độ giống như cha mẹ nói với con cái, không những nhu hòa mà còn từ bi, đối với chúng sinh cũng lại như thế, khiến cho chúng sinh có hảo cảm. Do đó :‘’ Lời hay nửa câu ấm suốt ba mùa Ðông.’’
Lời nói là biểu đạt sự cảm tình. Biết dùng người thì kết duyên lành khắp nơi, không biết dùng người thì kết duyên ác kháp nơi. Cho nên người tu đạo phải rộng kết duyên lành.
Có câu chyện như vầy, lúc Ðức Phật còn tại thế, Ðức Phật và hai vị Tôn giả Ca Diếp và A Nan đi đến xứ nọ thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh. Gặp lúc mùa hạ thời tiết nóng bức, mồ hôi chảy nhễ nhại, bèn đến nghỉ dưới gốc cây. Lúc bấy giờ Ðức Phật thấy một phụ nữ đến giếng gánh nước bèn sai Tôn giả A Nan đi xin nước. A Nan dến bên giếng, người thiếu phu nổi giận, không những không cho nước, mà còn mắng chửi Tôn giả A Nan. Tôn giả A Nan im lặng cúi đầu trở về chỗ Phật. Phật sai Tôn giả Ca Diếp đến xin nước, Tôn giả Ca Diếp đến bên giếng, người phụ nữ cười hỏi : ‘’ Thầy đến đây làm gì ? ‘’ Tôn giả Ca Diếp nói rõ ý của mình đến, thì người phụ nữ này múc đầy hai bầu nước, một bầu cúng dường Phật, một bầu cúng dường ngài Ca Diếp. Tôn giả A Nan thấy như vậy, trong tâm nghi vấn, bèn hỏi Phật là nhân duyên gì ? Phật bèn nói ra một đoạn nhân duyên trong vô lượng kiếp. Lúc đó người phụ nữ này là con chuột, vì quan hệ nghiệp chướng, chuột bị xe cáng chết ở giữa đường, thân thể đã hôi thối. Tôn giả A Nan là một vị Tỳ kheo đi ngang qua, ngửi thấy mùi chuột thối muốn mửa ra, tâm nghĩ lão chuột đáng chết, rồi bịt mũi đi qua. Ðằng xa cũng có một Tỳ kheo đi đến, đó là tiền thân Tôn giả Ca Diếp, Tôn giả phát tâm từ bi, thấy chuột chết thật đáng thương xót, mới mai táng xác chuột dưới đất, rồi vì nó mà niệm bảy lần Chú Vãng Sinh, cho nên nó mới có duyên sinh làm người. Ðó là nhân quả kết duyên lành hoặc kết duyên ác.
3. Lợi hành: Tức là có lợi gì thì phân chia đồng đều cho mọi người, không thể chiếm làm của riêng. Nên học Bảo Thúc Nha và Quản Trọng về việc chia vàng. Hai người hợp tác làm ăn, đến khi chia lợi nhuận thì Quản Trọng lấy phần nhiều, còn Bảo Thúc Nha thì ít hơn. Có người cho rằng không công bằng, mới hỏi Bảo Thúc Nha tại sao lại như thế ? Bảo Thúc Nha nói : ‘’ Quản Trọng có mẹ già còn sinh tiền, ăn uống phải có dinh dưỡng, cho nên mới lấy phần nhiều.’’ Quản Trọng nghe được điều này rất cảm động vô cùng, rất cảm kích nói rằng : ‘’ Cha mẹ là người sinh ta, người biết ta là Bảo Thúc Nha.’’
4. Ðồng sự: Bồ Tát nghĩ muốn độ người gì, thì hiện ra thân đó, cho nên Bồ Tát Quán Thế Âm có ba mươi hai thân tướng. Ðáng dùng thân người nam độ được, thì hiện thân người nam để độ, đáng dùng thân người nữ độ được, thì hiện ra thân người nữ để độ. Ðáng dùng thân sĩ, nông, công, thương độ được thì hiện ra thân sĩ, nông, công, thương để độ. Tóm lại, phải hiện ra thân cùng thân, cùng thân phận, thì mới độ được dễ dàng. Nếu với chúng sinh giống nhau, chẳng có giới hạn, không phân biệt đó đây, như vậy thì bạn với chúng sinh thành một thể, lúc đó thuyết pháp cho chúng sinh nghe, thì hiệu quả trăm phần trăm.
Vị Thiên Vương này, đắc được môn giải thoát : bốn pháp nhiếp, để nhiếp hóa chúng sinh. Ở trên là môn giải thoát của mười vị Biến Tịnh Thiên Vương. Dưới đây là những bài kệ của các vị đó.
Bấy giờ, Thanh Tịnh Huệ Danh Xưng Thiên Vương, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả Thiên chúng cõi trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh, trời Biến Tịnh mà nói ra bài kệ.
Tức là lúc đó, vị Thanh Tịnh Huệ Danh Xưng Thiên Vương, trời Tam Thiền thuộc về sắc giới, nương đại oai thần lực của chư Phật, quán sát khắp hết tất cả Thiên chúng trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh, trời Biến Tịnh. Ở trong ba cõi trời này, lại phân ra vô lượng vô biên trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh, trời Biến Tịnh. Vị Thiên Vương này, nói ra mười bài kệ để tán thán công đức của Phật.
Trời Tam Thiền gọi là Ly Hỷ Diệu Lạc, ở cõi trời này chẳng cần hoan hỷ cảnh giới nữa, cảnh giới thuần túy rất vi diệu khoái lạc. Trời Tam Thiền này có ba cõi trời:
1. Trời Thiểu Tịnh: Thiên chúng ở cõi trời này đã thoát khỏi tâm vui mừng, đắc được khoái lạc tịch tĩnh vi diệu. Sự khoái lạc này là từ nội tâm sinh ra, chẳng phải từ ngoại cảnh mà có.
2. Trời Vô Lượng Tịnh: Thiên chúng ở cõi trời này, thân tâm đắc được khinh an như hư không, là cõi trời khoái lạc nhất (người tu đạo không nên ở cõi trời này, vì quá khoái lạc mà quên tu hành, rất dễ đọa lạc).
3. Trời Biến Tịnh: Thiên chúng ở cõi trời này, đắc được thuần chân thanh tịnh diệu lạc, tiêu diệt tất cả tâm hoan hỷ.
Bậc biết rõ pháp tánh vô ngại
Hiện khắp mười phương vô lượng cõi
Nói cảnh giới Phật khó nghĩ bàn
Khiến chúng đồng về biển giải thoát.
‘’ Bậc biết rõ pháp tánh vô ngại.’’ Chỉ có Phật mới biết rõ và hiểu được pháp thế gian và pháp xuất thế gian, thấy rõ được tất cả các pháp đều viên dung vô ngại. Phật không những tự mình thấy rõ được đạo lý này mà cũng dạy chúng sinh thấy rõ được đạo lý này.
‘’ Hiện khắp mười phương vô lượng cõi.’’ Phật hiện khắp hết cõi nước chư Phật trong mười phương, để giáo hóa chúng sinh. Phàm phu chúng ta cho rằng, Phật chỉ hiện ở thế giới Ta Bà, để giáo hóa chúng sinh, thực ra mười phương thế giới, đồng thời đều có Phật xuất hiện ra đời, cho nên nói hiện khắp mười phương vô lượng cõi.
‘’ Nói cảnh giới Phật không nghĩ bàn.’’ Phật ở trong vô lượng vô biên cõi Phật, thuyết pháp giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh hiểu được, cảnh giới của Phật là không thể nghĩ bàn, là diệu không thể nói. Tóm lại, tâm phàm phu nghĩ không đến, miệng nói không ra cảnh giới.
‘’ Khiến chúng đồng về biển giải thoát.’’ Khiến cho chúng sinh đồng đắc được giác ngộ, Phật đem chân lý của mình đã giác ngộ để giáo hóa chúng sinh, khiến cho họ đắc được biển giải thoát này.
Thế gian Như Lai không chỗ nương
Ví như hình bóng hiện các cõi
Pháp tánh rốt ráo không sinh khởi
Thắng Kiến Thiên Vương vào môn này.
‘’ Thế gian Như Lai không chỗ nương.’’ Phật ở trong thế gian, chẳng có xứ sở nhất định, cũng chẳng có quốc độ giáo hóa nhất định. Tại sao ? Vì tất cả cõi nước trong mười phương, đều là nơi Ðức Phật giáo hóa. Trong Kinh Phạm Võng nói : ‘’ Ta đến thế giới Ta Bà này giáo hóa chúng sinh đã tám ngàn lần.’’
‘’ Ví như hình bóng hiện các cõi.’’ Tại sao nói Phật chẳng có chỗ nương ? Chẳng có cõi nước nhất định ? Vì thân của Phật giống như ánh sáng, hình bóng, hiện khắp trong tất cả cõi nước, tất cả thế giới.
‘’ Pháp tánh rốt ráo không sinh khởi.’’ Bổn thể của pháp tánh rốt ráo chẳng sinh diệt. Trong Kinh Bát Nhã nói : ‘’ Không sinh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt,’’ tức là đạo lý các pháp không tướng.
‘’ Thắng Kiến Thiên Vương vào môn này.’’ Ðây là đạo lý thấy được của vị Tối Thắng Kiến Thiên Vương, vị này còn nhập vào trong môn giải thoát này, và tinh tấn tu hành pháp môn các pháp không tướng này.
Vô lượng biển kiếp tu phương tiện
Tịnh các cõi nước khắp mười phương
Pháp giới như như thường bất động
Tịch Tĩnh Ðức Thiên ngộ môn này.
‘’ Vô lượng biển kiếp tu phương tiện.’’ Phật tu hành công đức thành Phật, chẳng phải trong một đời một kiếp mà thành tựu được, mà là trong vô lượng đại kiếp tu nhiều pháp môn mà thành tựu. Do đó :
“Ba Tăng Kỳ tu phước huệ,
Trăm kiếp trồng tướng tốt”.
Trải qua thời gian lâu dài, tu lục độ vạn hạnh, nhiều phương tiện pháp môn, không thể nhẫn cũng nhẫn được, không thể xả bỏ cũng xả bỏ được, không thể nhường cũng nhường được, đó mới là tu hành. Nếu người nhẫn được, bạn nhẫn được, người xả được bạn xả được, người nhường được bạn nhường được, vậy đó chẳng phải người tu đạo, mà là một nhóm người.
Những gì không nhẫn được cần phải nhẫn ? Giống như lúc Ðức Phật tại nhân địa tu hạnh nhẫn nhục. Lúc đó tên gọi là Nhẫn Nhục Tiên Ông, tu hành trong núi Tuyết. Một ngày nọ vua Ca Lợi dẫn cung phi mỹ nữ đi vào trong núi săn bắn. Cung phi mỹ nữ phát hiện có một người ngồi dưới gốc cây, mới đến hỏi Tiên Ông hoàn cảnh tu hành. Lúc đó Tiên Ông thuyết pháp cho bọn cung phi mỹ nữ. Vua Ca Lợi phát hiện bọn cung nữ đi đâu mất mới đi tìm, thấy bọn cung nữ ngồi xung quanh Tiên Ông khi nói khi cười. Vua Ca Lợi bèn sinh tâm hoài nghi, nghi rằng vị Tiên Ông này động lòng phàm tục mới đến hỏi tội, nổi giận hỏi Tiên Ông rằng : ‘’ Nhà ngươi tu hạnh gì ? ‘’
– Tiên Ông đáp : ‘’ Tu hạnh nhẫn nhục.’’
– Vua nói : ‘’ Ta sẽ chặt tứ chi của nhà ngươi ra, xem nhà ngươi nhẫn được chăng ? ‘’ Nói xong bèn chặt tứ chi của Tiên Ông, rồi hỏi : ‘’ Nhà ngươi nhẫn được chăng ? ‘’
– Tiên Ông nói : ‘’ Nhẫn được.’’
– Vua nói : ‘’ Có gì để chứng minh nhà ngươi nhẫn được ? ‘’
– Tiên Ông đáp : ‘’ Nếu tôi không nhẫn được thì tứ chi đã chặt ra không thể khôi phục lại. Nếu thật sự tôi nhẫn được thì tứ chi của tôi sẽ khôi phục lại như cũ.’’ Vừa nói xong thì tứ chi khôi phục lại bình thường, đó là câu chuyện chứng minh được sự nhẫn nhục.
Những gì không xả được cần phải xả ? Lúc đức Phật tu hành tại nhân đîa, thì lóc thịt bố thí cho chim ưng, xả thân cứu hổ đói. Một ngày nọ chim ưng hung ác rượt bắt chim cáp. Chim cáp kinh sợ bay đến chỗ đức Phật, cầu Phật bảo hộ. Chim ưng bay đến nói với đức Phật rằng : ‘’ Ông là người tu đạo, đều có tâm từ bi, ông cứu sinh mạng chim cáp, nhưng tôi phải chết đói, làm thế nào đây ? ‘’ Do đó Phật bèn cắt thịt thân mình để cho chim ưng, cắt hết thịt mới ngừng. Ðó là hành Bồ Tát đạo.
Một ngày nọ đức Phật tu hành ở trong núi Tuyết, trời tuyết rơi quá nhiều, khắp nơi đều biến thành màu trắng, động vật chẳng có thức ăn, khổ sở khó tả được. Ðức Phật thấy một con cọp mẹ dẫn cọp con đi tìm thức ăn. Cọp mẹ đói quá thể lực kiệt sức, cọp con kiệt sức cũng đi không muốn nổi. Ðức Phật thấy thảm trạng như vậy bèn sinh tâm từ bi : ‘’ Ta xả thân của ta có thể cứu sống hai sinh mạng này.’’ Do đó hy sinh thân mạng cứu sống cọp mẹ cọp con. Ðó là tinh thần thật là vĩ đại ! Chúng ta là người tu đạo ít nhất phải có tâm từ bi, ban bố cho chúng sinh phương tiện. Do đó người xuất gia, lấy từ bi làm hoài bảo, phương tiện làm gốc, tiến thêm bước nữa phải đạt được sự hy sinh tiểu ngã để hoàn thành đại ngã.
Phải nhường những gì không thể nhường ? Ðức Phật trong quá khứ, làm thái tử nước Diệp Ba tên là Tu Ðại Noa. Thái tử rộng tu bố thí, sau đó bị vua cha Thấp Ba đuổi ra khỏi hoàng cung. Thái tử dẫn vợ là Man Viên và hai con trai và gái vào rừng sâu sinh sống. Thái tử cõng con trai, vợ bồng con gái trải qua nhiều ngày mới đến rừng sâu núi thẳm làm am mà ở.
Lúc đó, có vị Bà La Môn từ xa đến xin hai đứa con, thái tử đều bố thí. Trời Ðế Thích biết cũng hiện ra thân khác đến xin người vợ, thái tử cũng bố thí, nhưng gửi chỗ thái tử, thái tử thấy lạ bèn hỏi : ‘’ Tại sao ? ‘’ Trời Ðế Thích biết tâm thái tử kiên cố, vì bố thí mà hy sinh tất cả, mới hiện ra thân trời nói với thái tử : ‘’ Tôi là Thích Ðề Hoàn Nhân, đặc biệt đến đây để thử tâm của Ngài phải chăng trước sau như một ? Nay mới thấy, quyết thật như thế, đáng kính đáng phục ! ‘’
Việc không thể nhường mà nhường được, Ðức Phật cũng làm được. Do đó :
“Trong thì xả bỏ đầu mắt tủy não,
Ngoài thì xả bỏ đất nước vợ con”.
Sự khổ hạnh khó làm mà làm được, đó là pháp phương tiện, cho nên nói :‘’ Vô lượng biển kiếp tu phương tiện.’’
‘’ Tịnh khắp cõi nước trong mười phương.’’ Ðức Phật dùng trí huệ quang minh để chiếu soi, để thanh tịnh, để trang nghiêm cõi nước chư Phật trong mười phương. Do đó, quang minh của Phật chiếu khắp tận hư không khắp pháp giới. Tóm lại, không có chỗ nào mà chẳng thanh tịnh, chẳng chỗ nào mà chẳng trang nghiêm.
‘’ Pháp giới như như thường bất động.’’ Pháp giới chẳng có biến đổi, như như bất động.
‘’ Tịch Tĩnh Ðức Thiên ngộ môn này.’’ Ðạo lý này vị Tịch Tĩnh Ðức Thiên Vương thấy được.
Chúng sinh ngu si bị chướng che
Mù tối thường ở trong sinh tử
Như Lai mở bày đạo thanh tịnh
Giải thoát này của Tu Di Âm.
‘’ Chúng sinh ngu si bị chuớng che.’’ Chúng sinh là do chúng duyên giả hợp mà sinh. Chúng sinh thông minh thì đi trên con đường chánh, chúng sinh ngu si thì đi theo con đường tà. Người ngu si, vì họ mà nói chánh pháp thì họ không tin. Tại sao ? Vì họ ngu si ! Tại sao ngu si ? Vì không tin Phật pháp, cho nên càng ngày càng ngu si. Phải học Phật pháp thì càng ngày càng thông minh. Người thông minh thì chẳng có nghiệp chướng che đậy, kẻ ngu si thì có nghiệp chướng che đậy.
Che đậy là gì ? Tức là bị một vật che đậy, chẳng được giải thoát. Giống như La Hầu La con của Ðức Phật. La Hầu La dịch là “che đậy”. Vì nghiệp chướng quá nặng, ở trong thai mẹ sáu năm mới sinh ra, tại sao ? Vì trong quá khứ, La Hầu La là một đứa trẻ nghịch ngợm. Một ngày nọ, thấy một con chuột chạy vào hang động, La Hầu La lấy đá lấp hang động sáu ngày, tạo ra ác nghiệp này, do đó mới thọ quả báo che đậy ở trong thai mẹ sáu năm.
Có thuyết nói rằng : Ðức Phật Thích Ca lúc mười bảy tuổi, thì kết hôn với Gia Du Ðà La. Kết hôn rồi, Gia Du Ðà La muốn có con, đức Phật dùng tay chỉ vào bụng thì phu nhân thọ thai. Ðức Phật xuất gia rồi, tu hành ở trong núi Tuyết sáu năm, La Hầu La mới sinh ra. Lúc đó hoàng tộc Thích Ca nói Gia Du Ðà La không giữ đạo làm vợ. Không có chồng mà sinh con ? Bèn dùng lửa để thiêu sống Gia Du Ðà La, để bảo tồn danh dự dòng họ Thích Ca, Gia Du Ðà La vì muốn chứng minh sự thanh bạch của mình mới phát thệ rằng :’’ Nếu tôi giữ đạo làm vợ, thì lửa đỏ biến thành hoa sen, nếu tôi không giữ đạo làm vợ thì lửa sẽ thiêu hủy thân của tôi, không một lời oán trách.’’ Nói xong bồng con là La Hầu La, nhảy vào trong đống lửa cháy dữ dội, quả nhiên lửa biến thành hoa sen màu đỏ, do đó ‘’ Hoa sen trong lửa,’’ là để chứng minh quyết thực không phải là không giữ quy cụ.
‘’ Mù tối thường ở trong sinh tử.’’ Người mù tối thì vừa điếc vừa câm. Nghĩa là sinh thì hồ đồ mà đến, chết thì hồ đồ mà đi, luôn luôn ở trong biển sinh tử, vĩnh viễn không được giải thoát.
‘’ Như Lai mở bày đạo thanh tịnh.’’ Vì người mù tối, không biết đạo lý sinh tử, luôn luôn sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh. Cho nên Phật từ bi thương xót chúng sinh, hướng dẫn chỉ dạy họ tu đạo thanh tịnh. Ðạo thanh tịnh là gì ? Tức là chẳng có tư tưởng ô nhiễm. Tóm lại, tức là chẳng có quan hệ tình dục nam nữ. Ai ai cũng đoạn dục khử ái, thì thức thứ tám tuy nhiên có hạt giống, nhưng chẳng có duyên với cha mẹ thì cũng chẳng sinh ra. Cho nên đoạn dục khử ái, là phương pháp cơ bản giải quyết vấn đề sinh tử, chẳng có gì là huyền diệu. Ai ai cũng biết nhưng chẳng làm được. Tại sao ? Vì ngu si che đậy. Vua Ðường Thái Tông có nói câu này : ‘’ Xuất gia mới là việc đại trượng phu.’’ Xuất gia thật là như thế, ném vứt năm dục lên chín từng mây, thứ nhất là không tham tài, thứ hai là không cưới vợ, thứ ba là không cầu danh, thứ tư là không ăn thịt, thứ năm là không ngủ nhiều. Tại sao phải khổ như thế ? Là vì muốn chấm dứt sinh tử, cầu tự tại, cầu giải thoát.
‘’ Giải thoát này của Tu Di Âm.’’ Vị Tu Di Âm Thiên Vương đắc được cảnh giới môn giải thoát này.
Chư Phật tu hành vô thượng đạo
Tất cả chúng sinh chẳng biết được
Thị hiện đủ thứ môn phương tiện
Tịnh Nhãn quán rõ thấy môn này.
‘’ Chư Phật tu hành vô thượng đạo.’’ Vô thượng đạo của chư Phật tu hành, là pháp môn cao nhất, sâu nhất và rộng lớn nhất, cho nên nói tu hành vô thượng đạo.
‘’ Tất cả chúng sinh chẳng biết được.’’ Hết thảy tất cả chúng sinh không thể dò biết được vô thượng đạo của Phật tu. Tại sao ? Vì chúng sinh bị vô minh che đậy. Cho nên chẳng có chân chánh trí tuệ, không thể suy lường cảnh giới của Phật, cứu kính là gì ?
‘’ Thị hiện đủ loại môn phương tiện.’’ Vì chúng sinh không cách chi hiểu được cảnh giới của Phật, cho nên Phật từ bi đến chỉ thị cho tất cả chúng sinh, tu vô thượng đạo như thế nào, dùng đủ thứ pháp môn quyền xảo phương tiện giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh cũng biết được phương pháp tu vô thượng đạo của Phật.
‘’ Tịnh Nhãn quán rõ thấy môn này.’’ Ðạo lý này Tịnh Niệm Nhãn Thiên Vương quán sát thấy rõ, cho nên hiểu được cảnh giới này.
Như Lai thường dùng môn tổng trì
Ví như hạt bụi các cõi nước
Giáo hóa chúng sinh khắp hết thảy
Phổ Chiếu Thiên Vương vào môn này.
‘’ Như Lai thường dùng môn tổng trì.’’ Bài kệ này vị Khả Ái Lạc Tối Thắng Quang Chiếu Thiên Vương minh bạch được, cho nên mới nói Phật thường dùng pháp môn tổng trì, để giáo hóa chúng sinh. Pháp môn tổng trì này, lại phân ra vô lượng vô biên pháp môn tổng trì, rồi lại phân ra vô lượng vô biên pháp môn tổng trì nữa. Do đó, trùng trùng vô tận, vô tận trùng trùng.
‘’ Ví như cõi nước số hạt bụi.’’ Môn đại tổng trì này, giống như cõi nước chư Phật, nhiều như số hạt bụi, tóm lại có bất khả thuyết, bất khả thuyết biển cõi nhiều như số hạt bụi.
‘’ Giáo hóa chúng sinh khắp hết thảy.’’ Ðức Phật khai thị giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đắc được môn tổng trì, khắp cùng tất cả cõi nước chư Phật.
‘’ Phổ Chiếu Thiên Vương vào môn này.’’ Cảnh giới này, vị Khả Ái Lạc Tối Thắng Quang Phổ Chiếu Thiên Vương, đắc được pháp môn giải thoát này.
Như lai ra đời rất khó gặp
Vô lượng biển kiếp gặp một lần
Khiến khắp chúng sinh sinh tin hiểu
Tự Tại Thiên Vương được môn này.
‘’ Như Lai ra đời rất khó gặp.’’ Vị Thế Gian Tự Tại Chủ Thiên Vương này nói : ‘’ Như Lai xuất hiện ra đời, không dễ gì gặp được.’’ Do đó :
‘’ Phật pháp cao siêu rất nhiệm mầu,
Trăm ngàn ức kiếp khó gặp được,
Nay con thấy nghe được thọ trì,
Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai.’’
Ðây là bài kệ mở đầu Kinh. Bất cứ tụng niệm Kinh gì, thì trước hết đọc bài kệ này. Bài kệ này là pháp khen ngợi, do Võ Tắc Thiên vào đời Ðường trước tác. Tuy trong việc chính trị nữ Hoàng đế Võ Tắc Thiên là người lãng mạn, nhưng trong Phật giáo bà ta là người đại hộ pháp. Nếu chẳng có bà ta đề xướng Phật pháp, thì chúng ta hôm nay sợ chẳng thấy được bộ Kinh Hoa Nghiêm này.
‘’ Vô lượng biển kiếp gặp một lần.’’ Diệu giác quả vị Phật này, là Phật chí tôn vô thượng, chẳng có gì so sánh cao hơn Ngài được, chẳng có gì so sánh tôn quý hơn Ngài được. Phải trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp mới có thể gặp một lần, chẳng phải thường gặp được.
‘’ Khiến khắp chúng sinh sinh tin hiểu.’’ Mục đích Phật xuất hiện ra đời là : làm cho tất cả chúng sinh sanh chánh tín, khiến cho tất cả chúng sinh y theo pháp mười hai nhân duyên tu hành, mới có thể chấm dứt sinh tử, chấm dứt bốn sự khổ lớn : Sinh, già, bệnh, chết. Tại sao Phật xuất gia ? Vì muốn biết rõ sinh từ đâu đến ? Chết sẽ đi về đâu ? Cho nên mới đi tầm đạo sáu năm tu khổ hạnh, cũng không giải quyết được vấn đề sinh tử. Cuối cùng ngồi tĩnh tọa dưới cội bồ đề, mà ngộ được sinh tử, pháp mười hai nhân duyên. Pháp này tuy nhiên là pháp tiểu thừa, nhưng là pháp cơ bản sinh tử. Người đại thừa đừng có chấp trước, cho rằng pháp tiểu thừa là pháp tự liễu hán, có tư tưởng như thế là hoàn toàn sai lầm. Ví như Bát chánh đạo trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo là cơ bản của Phật giáo, nếu không hiểu rõ Bát chánh đạo, không tu Bát chánh đạo, chỉ tu pháp đại thừa, e rằng công đức chẳng viên mãn.
‘’ Tự Tại Thiên Vương được môn này.’’ Cảnh giới này, vị Thế Gian Tự Tại Thiên Vương thấy rõ, đắc được môn giải thoát này.
Phật nói pháp tánh đều không tánh
Thâm sâu rộng lớn không nghĩ bàn
Khiến khắp chúng sinh tin thanh tịnh
Quang Diệm Thiên Vương khéo rõ được.
‘’ Phật nói pháp tánh đều không tánh.’’ Vị Quang Diệm Thiên Vương và vị Thế Gian Tự Tại Chủ Thiên Vương, thấy cảnh giới của Phật chẳng giống nhau. Vị Thiên Vương này nói :‘’ Phật nói các pháp đều chẳng có tự tánh.’’
‘’ Thâm sâu rộng lớn không nghĩ bàn.’’ Các pháp không tánh, vậy chẳng phải là đoạn diệt chăng ? Chẳng phải. Vì nó là thâm sâu, rộng lớn, không nghĩ bàn. Muốn nói thâm sâu, chẳng thể so sánh sự thâm sâu của pháp này. Muốn nói lớn, chẳng thể so sánh sự rộng lớn của pháp này. Không thể dùng tâm ý để suy lường, cũng không thể dùng lời nói để diễn đạt.
‘’ Khiến khắp chúng sinh tin thanh tịnh.’’ Phật dùng sức đại trí huệ, sức đại thần thông của Ngài, khiến cho tất cả chúng sinh sanh ra tâm tin chân chánh thanh tịnh, tức cũng là chánh tri chánh kiến, chẳng phải tà tri tà kiến.
‘’ Quang Diệm Thiên Vương khéo rõ được.’’ Vị Quang Diệm Tự Tại Thiên Vương, khéo minh bạch cảnh giới môn giải thoát này.
Ba đời Như Lai công đức đầy
Giáo hóa chúng sinh không nghĩ bàn
Khiến họ tư duy sinh vui mừng
Môn này Lạc Pháp ngộ vào được.
‘’ Ba đời Như Lai công đức đầy.’’ Ba đời tức là đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai. Phật tu công đức trong ba đời đều viên mãn. Dù phước nhỏ nhất cũng chẳng mất đi, huệ nhỏ nhất cũng phải tu, phước nhỏ huệ nhỏ cũng phải bảo tồn.
‘’ Giáo hóa chúng sinh chẳng nghĩ bàn.’’ Phật dùng đủ thứ pháp phương tiện để giáo hóa chúng sinh. Tại sao ? Vì phải tài bồi phước huệ của mình, phước huệ chưa đầy thì phải giáo hóa chúng sinh, phước huệ đầy rồi vẫn giáo hóa chúng sinh. Vì phước huệ càng nhiều càng tốt, cho nên xưng đức Phật là Lưỡng Túc Tôn. Nghĩa là phước của Phật đã đầy đủ, huệ của Phật cũng đầy đủ. Công đức của Phật giáo hóa chúng sinh không thể nghĩ bàn.
‘’ Khiến họ tư duy sinh vui mừng.’’ Khiến cho tất cả chúng sinh chẳng có phiền não, suy nghĩ Phật pháp đều sinh tâm vui mừng, đó là niềm an lạc không gì sánh bằng, là sự vui nội tâm chẳng có cách chi có thể hình dung được.
‘’ Môn này Lạc Pháp ngộ vào được.’’ Ðạo lý cảnh giới này vị Lạc Tư Duy Pháp Biến Hóa Thiên Vương hiểu rõ.
Chúng sinh chìm trong biển phiền não
Ngu si kiến trược rất đáng sợ
Ðại sư thương sót cứu ra khỏi
Môn này Hóa Tràng quán sát được.
‘’ Chúng sinh chìm trong biển phiền não.’’ Chúng sinh tức là chúng sinh trược, biển phiền não tức là phiền não trược. Chúng sinh chìm đắm trong phiền não trược, phiền não trược giống như biển. Phiền não có tám vạn bốn ngàn thứ. Nói tổng quát không ra ngoài phạm vi ba độc tham sân si, đơn giản hơn nữa tức là vô minh.
Vì chúng sinh trược là vô biên vô tận, cho nên Bồ Tát phát nguyện muốn độ khắp chúng sinh.
‘’ Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.’’
Ðó là bốn thệ nguyện lớn của Bồ Tát, dùng bốn thệ nguyện này để độ chúng sinh trong đời ác năm trược, là pháp môn hay nhất. Phàm là người học pháp đại thừa, đều phải phát tâm bồ đề như vậy.
‘’ Ngu si kiến trược rất đáng sợ.’’ Ngu si tức là mạng trược. Vì sao ? Vì vận mạng người ngu si là ô trược, sinh ra thì chẳng thông minh, đều có mối quan hệ với nhau. Kiến trược tức là sự thấy chẳng chánh quyết, không thanh tịnh, có năm thứ kiến giải (thấy hiểu) không chánh đáng.
- Thân kiến : Chấp trước thân thể là thực tại, chẳng biết là do các duyên giả hợp mà có.
- Biên kiến : Chấp trước sinh mạng là vĩnh viễn bất biến, đó là thường kiến. Chấp trước sinh mạng tùy nhục thể mà tiêu diệt, đó là đoạn kiến. Ðều rơi vào hai bên.
- Tà kiến : Tức là nhận thức chẳng sáng suốt, thiện ác chẳng rõ, điên đảo thị phi, phán đoán sai lầm.
- Kiến thủ kiến : Chấp kiến giải sai lầm của mình, cho rằng đúng, cuối cùng chấp mê chẳng ngộ.
- Giới thủ kiến : Chấp trước giới điều không hợp lý của mình, hoặc hành vi sai lầm cho rằng đúng, không chịu sửa lỗi làm lành. Năm thứ ác kiến này đáng sợ nhất.
‘’ Ðại Sư thương sót cứu ra khỏi.’’ Ðại sư tức là đức Phật, lại xưng là Thiên Nhân Sư (thầy của trời và người). Bậc Thánh nhân đều có tâm thương xót chúng sinh trôi nổi ở trong biển sinh tử, mới chuyển bánh xe pháp, khiến cho chúng sinh ra khỏi đời ác năm trược, sinh về cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ, hoặc là sinh về Thế Giới Cực Lạc, chân chánh lìa khổ được vui.
‘’ Môn này Hóa Tràng quán sát được.’’ Cảnh giới môn giải thoát này, vị Hóa Tràng Thiên Vương quán thấy được.
Như Lai thường phóng đại quang minh
Trong mỗi quang có vô lượng Phật
Thảy đều giáo hóa độ chúng sinh
Diệu Âm Thiên Vương vào môn này.
‘’ Như Lai thường phóng đại quang minh.’’ Vị Tinh Tú Âm Diệu Trang Nghiêm Thiên Vương, thấy mười phương Như Lai thường phóng đại quang minh, đại quang minh tạng này khắp pháp giới.
‘’ Trong mỗi quang có vô lượng Phật.’’ Ở trong mỗi đạo quang minh hiện ra vô lượng vô biên chư Phật. Mỗi vị Phật lại phóng ra trăm ngàn ức quang minh.
‘’ Thảy đều giáo hóa độ chúng sinh.’’ Những vị Phật này đều ở tại đó giáo hóa chúng sinh, khiến chúng sinh nghe pháp tu hành, đắc đạo thành Phật. Ðó là trách nhiệm của mỗi vị Phật.
‘’ Diệu Âm Thiên Vương vào môn này.’’ Cảnh giới môn giải thoát này vị Tinh Tú Âm Diệu Trang Nghiêm Thiên Vương vào được. Ở cõi trời này có mười một vị Thiên Vương.
Trên đây là những bài kệ của mười một vị Thiên Vương cõi Tam Thiền Trời Biến Tịnh, thuộc về sắc giới, nói ra để tán thán công đức của Phật. Dưới đây bắt đầu giảng về những bài kệ của Quang Âm
Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất (tiếp theo)
Lại nữa, Khả Ái Lạc Quang Minh Thiên Vương, được môn giải thoát, thường thọ vui tịch tĩnh, mà hàng phục và tiêu diệt khổ của thế gian.
Ðạo lý Kinh văn ở trước chưa nói hết, cho nên nói tiếp theo.
Vị Khả Ái Lạc Quang Minh Thiên Vương này, ở cõi Nhị Thiền trời Quang Âm. Vị này ở trong định đắc được cảnh giới thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn, đắc được chân chánh khoái lạc, cho nên gọi thường hưởng thọ vui tịch tĩnh. Vị này ở trong định hàng phục được, tất cả thiên ma ngoại đạo, và còn hiện ra nhiều thứ thân, để tiêu diệt khổ của thế gian, và dùng đủ loại thần thông biến hóa, để cứu chúng sinh lìa khổ được vui. Ðó là môn giải thoát của vị Thiên Vương này đắc được.
Thanh Tịnh Diệu Quang Thiên Vương, được môn giải thoát, biển tâm đại bi tương ưng tạng hoan hỉ an lạc của tất cả chúng sinh.
Vị Thanh Tịnh Diệu Quang Thiên Vương này, đắc được biển đại bi tâm tương ưng. Tâm đại bi tức là độ khắp chúng sinh, bỏ mê về giác, đều thành Phật đạo. Nếu có một chúng sinh chưa thành Phật, thì vị này cũng không thành Phật. Bồ Tát đều phát nguyện lớn như vậy.
Vị này dùng tâm đại bi để nhiếp thọ chúng sinh có duyên. Biển tương ưng tức là tâm lượng của tâm đại bi rộng lớn như biển cả, không phân biệt kẻ thân người oán, do đó, vô duyên đại từ, đồng thể đại bi. Vị Thiên Vương này, vì tu tâm đại bi, hành hạnh đại bi, cho nên khiến tất cả chúng sinh hoan hỷ khoái lạc, sự khoái lạc này không thể so sánh được, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Tự Tại Âm Thiên Vương được môn giải thoát, trong một niệm hiện khắp tất cả sức phước đức của hết thảy chúng sinh trong vô biên kiếp.
Vị Tự Tại Âm Thiên Vương này, ở trong một niệm hiện khắp vô biên kiếp trong ba đời, khiến cho đời quá khứ thành đời hiện tại, biến đời hiện tại thành đời vị lai, đời vị lai lại có thể làm đời quá khứ. Ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, đồng thời hiển hiện ở trong một niệm. Do đó :
‘’ Nhiếp vô lượng kiếp làm một niệm,
Phóng một niệm làm vô lượng kiếp.’’
Ở trong vô lượng kiếp, lại có vô lượng chúng sinh, tu phước tu huệ tu thành Phật. Tu phước thì có phước, tu huệ thì có huệ. Tóm lại phước huệ tu viên mãn thì sẽ thành Phật. Ðó là môn giải thoát của vị Thiên Vương này đắc được.
Tối Thắng Niệm Trí Thiên Vương được môn giải thoát, khiến cho kiếp thành trụ hoại không của tất cả thế gian, thảy đều thanh tịnh như hư không.
Vị Tối Thắng Niệm Trí Thiên Vương này, đắc được cảnh giới, khiến cho tất cả kiếp : Thành, trụ, hoại, không của tất cả thế gian, hoàn toàn thanh tịnh như hư không.
Thế giới có : thành, trụ, hoại, không, bốn trung kiếp (một trung kiếp có hai mươi tiểu kiếp, bốn trung kiếp là một đại kiếp). Kiếp là đơn vị tính thời gian, lại dịch là “tai nạn”. Cuối thời kỳ diệt kiếp của mỗi tiểu kiếp ở trong trụ kiếp có ba tai tạn nhỏ :
1. Nạn đói.
2. Nạn dịch.
3. Nạn binh đao.
Thời kỳ bây giờ là diệt kiếp, trong tiểu kiếp thứ chín của trụ kiếp. Lúc Phật Thích Ca ra đời thì tuổi thọ con người là một trăm tuổi. Từ khi Ðức Phật vào Niết Bàn gần khoảng ba ngàn năm, cho nên bây giờ tuổi thọ của con người khoảng bảy mươi tuổi. Nếu qua bốn ngàn năm thì tuổi thọ con người giảm còn ba mươi tuổi thì sẽ bắt đầu phát sinh ba tai nạn nhỏ.
1. Nạn đói: Thời xưa đại địa thanh tịnh, nhân dân hòa lạc, sau đó từ từ phát sinh các điều ác như : giết hại, trộm cắp, tà dâm và nói dối, đợi đến khi tuổi thọ con người còn khoảng ba mươi tuổi, thì tâm con người chẳng như xưa, tà kiến điên đảo làm đủ mười điều ác. Trời rồng nổi giận mà không mưa xuống, chẳng có cây cỏ, ngũ cốc, thậm chí người ăn người. Trải qua bảy năm bảy tháng bảy ngày nhân loại chết đói phân nửa, đó là nạn đói.
2. Nạn ôn dịch: Tuổi thọ của con người, vào khoảng hai mươi tuổi, thì tâm con người ác đến cực điểm, bèn phát sinh bệnh ôn dịch, ai bị cũng chết, chẳng có thuốc trị được. Bịnh ôn dịch này, truyền nhiễm nhanh chóng, xương khô phơi đầy đồng. Trải qua bảy tháng bảy ngày mới hết, nhân loại chết gần hết, chỉ còn lại một phần mười.
3. Nạn đao binh : Khi tuổi thọ con người còn khoảng mười tuổi, thì thân cao chỉ được một thước (kiếp diệt thì một tuổi giảm một tấc, kiếp tăng thì một tuổi tăng lên một tấc), con người đều chẳng hiếu chẳng kính, giết hại lẫn nhau, không cha mẹ, không vợ chồng, không con cái, không nhìn nhận lục thân quyến thuộc. Vì nghiệp lực sở cảm, cỏ cây có thể dùng vũ khí mà giết chết người. Ai ai cũng cho rằng : mình không giết chết họ thì họ giết mình, cho nên thấy người thì giết, gặp người thì chém, chém giết vô số, trải qua bảy ngày nhân loại chết hết khoảng chín mươi chín phần trăm. Còn lại chẳng bao nhiêu người. Người còn lại không bị giết thì chạy vào núi trốn, có thiện thần bảo hộ. Sau đó tai nạn qua rồi, họ từ trong núi đi ra, gặp người thì ôm nhau khóc lóc, vui mừng an ủi với nhau, kết làm bạn bè. Lúc bấy giờ, ai cũng sinh tâm hổ thẹn, cải ác làm lành, có quan niệm luân lý, đạo đức, từ bi, nhân quả .v.v., từ từ tăng trưởng hướng thượng, ai ai cũng hòa bình tương xứ, nói nhân nghĩa, nói đạo đức, cảm tình dung hợp, chẳng có tư tưởng ích kỷ tư lợi, chẳng có hành vi xấu ác. Lúc bấy giờ sinh sống an định, cơm no áo ấm, ai ai cũng có tâm từ bi hỷ xả bốn vô lượng tâm, ai ai cũng tin chân lý nhân quả báo ứng.
Khi kiếp hoại, ở trong mỗi đại kiếp phải phát sinh một lần nạn lửa lớn. Trải qua bảy lần nạn lửa lớn (đại hoả tai) rồi, bèn có một lần nạn nước lớn (đại thuỷ tai). Trải qua bảy lần nạn nước lớn rồi, bèn có một lần nạn gió lớn (đại phong tai). Có năm mươi sáu lần nạn lửa lớn, có bảy lần nạn nước lớn, có một lần nạn gió lớn. Tóm lại, trong sáu mươi bốn đại kiếp, thì phát sinh ba tai nạn lớn. Nạn lửa lớn thì thiêu hủy đến trời Sơ Thiền, nạn nước lớn thì ngập đến trời Nhị Thiền, nạn gió lớn thì thổi đến trời Tam Thiền. Trừ khi tu đến trời Tứ Thiền thì mới thoát khỏi sự uy hiếp của ba nạn lớn này.
Pháp tính về kiếp số : Bắt đầu từ tuổi thọ con người, mỗi một trăm năm thì tăng thêm một tuổi, tăng đến bốn vạn tám ngàn tuổi thì ngừng. Rồi lại cứ một trăm năm giảm xuống một tuổi, giảm đến mười tuổi thì ngừng. Một tăng một giảm như vậy là một tiểu kiếp. Công thức tính là : (84.000 – 10) x 100 x 2 = 16.798.000 năm (mười sáu triệu, bảy trăm chín mươi tám ngàn năm) đó là số mục một tiểu kiếp. Một trung kiếp thì gấp hai mươi lần tiểu kiếp (16.798.000 x 20 = 335.960.000 năm. Ba trăm ba mươi lăm triệu chín trăm sáu chục ngàn năm). Một đại kiếp thì gấp bốn lần trung kiếp (335.960.000 x 4 = 1.343.840.000 năm). Một tỷ ba trăm bốn mươi ba triệu tám trăm bốn chục ngàn năm).
Thế giới thành : Trong hai mươi tiểu kiếp không, thì thế giới chẳng có gì. Ðến khi kiếp thành thì đầu tiên trời đổ mưa to, nước dâng đến Ðại Phạm Thiên, từ từ hết mưa nước rút, gió thổi mà thành thế giới. Thế giới thành thì có chúng sinh và thực vật sinh trưởng, dần dần có bộ lạc, có văn hóa, có quốc gia, có chiến tranh. Từ trụ kiếp diễn biến đến hoại kiếp ; hoại kiếp qua rồi thì kiếp không ; kiếp không qua rồi thì đến kiếp thành. Cứ hết rồi lại bắt đầu, tuần hoàn không ngừng.
Khả Ái Lạc Tịnh Diệu Âm Thiên Vương, được môn giải thoát, ưa thích tin thọ tất cả pháp của Thánh nhân.
Vị Khả Ái Lạc Tịnh Diệu Âm Thiên Vương này, đắc được cảnh giới, khiến cho tất cả chúng sinh hoan hỷ khoái lạc, tự động đến nghe pháp, và còn tin thọ tất cả pháp của Thánh nhân. Pháp Thánh nhân là gì ? Tức là pháp bốn Thánh pháp giới :
1. Pháp giới của Phật : Một thừa pháp chân thật, pháp chân không diệu hữu trung đạo đệ nhất nghĩa.
2. Pháp giới của Bồ Tát : Pháp lục độ vạn hạnh.
3. Pháp giới của Duyên Giác: Pháp mười hai nhân duyên.
4. Pháp giới của Thanh Văn : Pháp bốn Diệu Ðế. Ðó đều là pháp tu hành của các bậc Thánh nhân, pháp giáo hóa chúng sinh. Ðó là môn giải thoát của vị Vua Trời này đắc được.
Thiện Tư Duy Âm Thiên Vương được môn giải thoát, trải qua kiếp trụ, diễn nói tất cả nghĩa, của các bậc và phương tiện.
Vị Thiện Tư Duy Âm Thiên Vương này, đắc được cảnh giới tĩnh lự âm, ở trong âm thanh mà ngộ đạo được. Vị này ở trong định trải qua vô lượng kiếp, ở trong định thuyết pháp, không rời tòa ngồi, mà đi đến mười phương thế giới giáo hóa chúng sinh, diễn nói tất cả nghĩa của các bậc, tức là bậc của Phật, bậc Bồ Tát, bậc Duyên Giác, bậc Thanh Văn .v.v., và tất cả pháp môn phương tiện. Ðó là môn giải thoát vị Thiên Vương này đắc được.
Diễn Trang Nghiêm Âm Thiên Vương, được môn giải thoát, đại phương tiện cúng dường tất cả Bồ Tát, từ cung trời Ðâu Suất muốn hạ sinh xuống nhân gian.
Vị Diễn Trang Nghiêm Âm Thiên Vương này, âm thanh trang nghiêm phi thường. Vị này đắc được cảnh giới tất cả Bồ Tát muốn thành Phật. Những vị Bồ Tát này, hậu bổ Phật vị, ở tại nội viện cung trời Ðâu Suất, đợi nhân duyên chín mùi, thì cỡi voi trắng sáu ngà, hàng sinh xuống nhân gian, bắt đầu tám tướng thành đạo:
1. Hàng thế : Từ cung trời hàng xuống nhân gian.
2. Trụ thai : Lựa chọn cha mẹ có duyên.
3. Xuất thai : Sinh ra từ bên hông người mẹ.
4. Xuất gia : Từ bỏ nhà năm dục.
5. Hàng ma : Hàng phục thiên ma ngoại đạo nhiễu loạn.
6. Thành chánh giác : Chứng đắc vô thượng chánh đẳng chánh giác.
7. Chuyển pháp luân : Diễn nói bốn Diệu Ðế, mười hai Nhân Duyên, Lục Ðộ .v.v.
8. Niết Bàn : Ðắc được cứu kính Niết Bàn.
Niết Bàn có ba:
A. Hữu Dư Niết Bàn : Là Niết Bàn của các bậc A La Hán đắc được.
B. Vô Dư Niết Bàn : Là Niết Bàn của Bồ Tát đắc được.
C. Cứu Kính Niết Bàn : Là Niết Bàn của chư Phật đắc được.
Báo thân phàm phu của chúng ta là : vô thường, khổ, không, vô ngã bốn sự khổ. Pháp thân của chư Phật là : thường, lạc, ngã, tịnh bốn sự vui. Mục đích chúng ta học Phật pháp là : lìa khỏi bốn sự khổ của báo thân, mà đắc được bốn sự vui của pháp thân.
Cơ bản luân lý của Phật giáo tức là chân không và diệu hữu. Tiểu thừa nói về có, đại thừa nói về không, rơi vào sự thấy hai bên có và không. Cuối cùng Phật nói trung đạo chân không diệu hữu, không thiên về có, cũng không thiên về không, đó là trung đạo, khiến cho chúng sinh không chấp trước. Trong không có cái có, trong có có cái không. Không, có chẳng hai. Trong Tâm Kinh có nói :
“Sắc chẳng khác không,
Không chẳng khác sắc.
Sắc tức là không,
Không tức là sắc”.
Ðạo lý này nói rất rõ ràng.
Vị Thiên Vương này, dùng đủ thứ pháp phương tiện để giáo hóa chúng sinh, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Thậm Thâm Quang Âm Thiên Vương, được môn giải thoát, quán sát biển thần thông trí huệ vô tận.
Vị Thậm Thâm Quang Âm Thiên Vương này, dùng quang minh để thay thế âm thanh mà thuyết pháp, dùng trí huệ để quán sát cảnh giới của Phật. Thần thông của Phật vô tận, trí huệ vô tận, cho nên nói thần thông biển trí huệ, giống như biển cả chẳng có bờ mé. Trong Kinh Phật thường dùng chữ “biển” để hình dung nghĩa lý rộng lớn.
Thần thông có sáu thứ :
1. Thiên nhãn thông.
2. Thiên nhĩ thông.
3. Tha tâm thông.
4. Túc mạng thông.
5. Thần túc thông.
6. Lậu tận thông.
Trí huệ có hai thứ :
1. Căn bản trí tức là trí huệ tiên thiên.
2. Hậu đắc trí tức là trí huệ hậu thiên.
Một là từ trong thiền định mà đắc được (tiên thiên trí) ; một là từ trong kinh nghiệm đắc được (hậu thiên trí). Vị Thiên Vương này đắc được môn giải thoát này.
Quảng Ðại Danh Xưng Thiên Vương, được môn giải thoát, biển công đức của tất cả chư Phật, đầy đủ sức phương tiện xuất hiện thế gian.
Vị Quảng Ðại Danh Xưng Thiên Vương này, đắc được cảnh giới tất cả công đức tu hành của mười phương chư Phật, vì công đức của chư Phật tu là vô lượng vô biên, chẳng có cách chi có thể tính đếm được có bao nhiêu ? Cho nên gọi là biển công đức. ‘’ Tam kỳ tu phước huệ, bách kiếp chủng tướng hảo.’’ Khi nào công đức viên mãn thì đạt được giai đoạn Lưỡng Túc Tôn, bèn thành Phật, đến thế gian dùng đủ thứ sức phương tiện, để giáo hóa chúng sinh, đó là môn giải thoát vị Thiên Vương này đắc được.
Tối Thắng Tịnh Quang Thiên Vương, được môn giải thoát, phát sinh lòng tin sâu, ưa thích sức thệ nguyện của Như Lai.
Vị Tối Thắng Tịnh Quang Thiên Vương, đắc được cảnh giới, sự phát nguyện tại nhân địa của chư Phật trong quá khứ. Sức thệ nguyện này khắp cùng pháp giới, chẳng có một chỗ nào mà chẳng phải chỗ tồn tại nguyện lực của Phật. Tất cả các cõi nước thường chuyển bánh xe pháp. Vị này hiểu được sức lực này rồi, bèn phát sinh vui mừng, tin sâu cảnh giới của Phật, chẳng có hoài nghi, mà còn ưa thích, học theo đại pháp tạng của Phật. Ðó là môn giải thoát của vị Thiên Vương này đắc được.
Bấy giờ, Khả Ái Lạc Quang Minh Thiên Vương, nương oai lực của đức Phật, quán khắp tất cả Thiên chúng trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quang, trời Cực Quang mà nói kệ rằng.
Lúc này vị Khả Ái Lạc Quang Minh Thiên Vương, cõi trời Nhị Thiền thuộc về sắc giới, nương đại oai thần lực của chư Phật, quán sát khắp tất cả Thiên chúng trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quang, trời Cực Quang (trời Quang Âm). Vị này dùng kệ để diễn nói, khiến cho chúng sinh thấu hiểu đạo lý này.
Trời Nhị Thiền gọi là Ðịnh Sinh Hỷ Lạc. Ở cõi trời này, thường ở trong định thì tâm càng hỷ lạc. Gồm có ba cõi trời :
1. Trời Thiểu Quang : Thiên chúng cõi này, ở trong định phóng quang từ thân, miệng, tâm chẳng có vọng tưởng, miệng chẳng nói năng, dùng quang minh để thay thế lời nói.
2. Trời Vô Lượng Quang : Thiên chúng cõi này, không những thân và miệng phóng quang, mà tâm cũng phóng quang để chiếu khắp chúng sinh.
3. Trời Quang Âm (trời Cực Quang) : Thiên chúng cõi này dùng trí huệ quang phóng ra từ thân, miệng, tâm để làm đại Phật sự, giáo hóa chúng sinh.
Tôi nhớ xưa kia Như Lai tu
Cúng dường vô lượng các đức Phật
Là gốc tâm tin nghiệp thanh tịnh
Nhờ thần lực Phật nay thấy được.
‘’ Tôi nhớ xưa kia Như Lai tu.’’ Vị Khả Ái Lạc Quang Minh Thiên Vương này nói : ‘’ Tôi nhớ trong quá khứ Như Lai tu các công đức lành.’’ Công đức gì ?
‘’ Cúng dường vô lượng các Ðức Phật.’’ Trong quá khứ cúng dường vô số Ðức Phật, và tu các công đức lành. Ðức Phật Thích Ca tại nhân địa tu hành, gặp Ðức Phật Nhiên Ðăng ra đời, Ngài cúng dường năm cành hoa sen và dùng tóc trải dưới bùn, thỉnh Ðức Phật bước qua, cho nên được thọ ký vị lai sẽ thành Phật.
Cúng dường mới là y giáo phụng hành, y pháp tu hành mới có công đức. Một số người cho rằng trang nghiêm đạo tràng, cúng dường pháp cụ, hương đèn hoa quả thì có công đức. Tuy nhiên có công đức nhưng công đức nhỏ.
– Vua Lương Võ Ðế hỏi Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma : ‘’ Tôi tạo rất nhiều chùa, biên chép rất nhiều Kinh, Luận, độ rất nhiều Tăng, Ni, có công đức gì chăng ? ‘’
– Tổ Ðạt Ma đáp : ‘’ Chẳng có công đức gì hết ! ‘’
– Vua Lương Võ Ðế lại hỏi : ‘’ Tại sao chẳng có công đức ? ‘’
– Tổ đáp : ‘’ Công đức này, bất quá là quả báo nhỏ ở cõi trời cõi người, là nhân hữu lậu, là nhân thế tục, giống như bóng theo hình, xem thì có nhưng thực tế là hư vọng.’’
– Vua lại hỏi : ‘’ Chân công đức là gì ? ‘’
– Tổ đáp : ‘’ Công đức chân chánh là trí huệ thuần tịnh, thần diệu và viên dung, bổn tính của nó là không tịch. Công đức này chẳng phải dùng phương pháp thế tục mà có được.’’
‘’ Là gốc tâm tin nghiệp thanh tịnh.’’ Cúng dường mười phương chư Phật, là dùng gốc để sinh ra tâm tin, thì tu gì cũng đều là nghiệp thanh tịnh, mà chẳng phải là nghiệp nhiễm ô, tức cũng là thân thanh tịnh, miệng thanh tịnh, ý thanh tịnh, ba nghiệp thanh tịnh chẳng có một chút nhiễm ô.
‘’ Nhờ thần lực Phật nay thấy được.’’ Hiện tại nhờ đại oai thần lực của Phật, mới hiểu được cảnh giới này. Nhờ Phật gia bị cho nên thấu hiểu được hạnh môn của Như Lai tu trong quá khứ.
Thân Phật vô tướng lìa cấu nhiễm
Thường trụ từ bi thương chúng sinh
Ưu hoạn thế gian thảy tiêu trừ
Giải thoát này Diệu Quang đắc được.
‘’ Thân Phật vô tướng lìa cấu nhiễm.’’ Pháp thân của Phật là khắp pháp giới. Tuy nhiên đầy khắp pháp giới, nhưng chẳng có hình tướng. Vì chẳng có hình tướng, mới đầy khắp pháp giới. Nếu có hình tướng thì có giới hạn, có bờ mé. Vì vô hình tướng cho nên tất cả trần cấu chẳng nhiễm ô. Nếu như có hình tướng thì sẽ có trần cấu. Vô tướng thì tự nhiên chẳng dính bụi trần.
Trần cấu là gì ? Trần cấu này chẳng phải trần cấu có hình tướng, mà là vô minh phiền não cấu, tức cũng là khởi vọng tưởng. Phàm là trong tâm chẳng thanh tịnh, tư tưởng không chân chánh, đều là hiện tượng của sự dơ bẩn.
Ðức Phật thì chẳng còn tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng. Bốn tướng này đều không, muốn có trần cấu cũng chẳng có được. Cho nên nói lìa cấu nhiễm, tức cũng là lìa tất cả pháp ô nhiễm.
‘’ Thường trụ từ bi thương chúng sinh.’’ Thường trụ đại từ, đại từ là thương xót chúng sinh. Tóm lại, Phật dùng đại từ đại bi luôn luôn thương xót chúng sinh, luôn luôn phát nguyện cứu chúng sinh, khiến cho chúng sinh thoát khỏi sự khổ trong tam giới, đắc được sự vui sướng Niết Bàn.
‘’ Thế gian ưu hoạn thảy tiêu trừ.’’ Thế gian tức là thế giới, ưu hoạn tức là ưu sầu hoạn nạn. Ưu hoạn thế giới này quá nhiều. Vì quá nhiều cho nên chúng sinh ở trong biển ưu hoạn, chìm đắm không ngộ. Song, Phật dùng tâm từ bi, tâm thương xót để giải thoát ưu hoạn, khiến cho không tồn tại nữa.
‘’ Giải thoát này Diệu Quang đắc được.’’ Môn giải thoát tam muội này vị Vua Trời Thanh Tịnh Diệu Quang đắc được.
Phật pháp rộng lớn không bờ mé
Tất cả các cõi hiện ở trong
Các tướng thành hoại đều chẳng giống
Tự Tại Âm Thiên ngộ môn này.
‘’ Phật pháp rộng lớn chẳng bờ mé.’’ Ở trên vị Thanh Tịnh Diệu Quang Thiên Vương, thấy được cảnh giới của Phật là vô hình tướng, là lìa cấu nhiễm. Bây giờ vị Tự Tại Âm Thiên Vương, thấy được cảnh giới của Phật rộng lớn không bờ mé.
Phật pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn, đối trị tám vạn bốn ngàn bịnh phiền não. Tóm lại, chúng sinh có bao nhiêu phiền não, thì chư Phật có bấy nhiêu pháp môn để đối trị. Mỗi một pháp môn trị một thứ phiền não, cho nên mới nói Phật pháp rộng lớn không bờ mé.
‘’ Tất cả cõi nước hiện ở trong.’’ Tất cả cõi nước đều hiện ra ở trong Phật pháp, lại có thể nói tất cả Phật pháp hiện ra ở trong các cõi nước.
‘’ Các tướng thành hoại đều chẳng giống.’’ Thế giới có thành, trụ, hoại, không bốn tướng. Chúng sinh có sinh, già, bệnh, chết bốn tướng. Tâm niệm có sinh, trụ, dị, diệt bốn tướng, tất cả đều là vô thường.
Mỗi thế giới đều có thành, trụ, hoại, không bốn giai đoạn. Mỗi giai đoạn đều có hai mươi tiểu kiếp ; tám mươi tiểu kiếp làm một đại kiếp. Tóm lại, một thế giới từ thời kỳ thành cho đến diệt vong, phải trải qua tám mươi tiểu kiếp. Trong mỗi đại kiếp bao gồm thành, trụ, hoại, không. Thế giới này thành thì thế giới kia hoại. Thế giới kia thành thì thế giới này hoại. Khi thành thì địa cầu sinh tồn. Khi hoại thì địa cầu hủy diệt. Ðịa cầu này diệt thì địa cầu khác lại sinh. Ở trong hư không có vô lượng thế giới, vô lượng cõi nước. Thế giới này chẳng giống thế giới kia, cõi nước này khác với cõi nước kia. Thế giới Ta Bà mà chúng ta đang ở, chẳng giống thế giới Cực Lạc. Thế giới Ta Bà thì cực khổ còn thế giới Cực Lạc thì cực lạc. Trong mỗi thế giới có rất nhiều quốc gia, mà mỗi quốc gia lời nói, văn hóa, phong tục đều chẳng giống.
‘’ Tự Tại Âm Thiên ngộ môn này.’’ Cảnh giới môn giải thoát này là vị Tự Tại Âm Thiên Vương đắc được.
Thần thông của Phật không nghĩ bàn
Hiện khắp mười phương cõi rộng lớn
Thảy đều nghiêm tịnh thường hiện tiền
Thắng Niệm ngộ môn giải thoát này.
‘’ Thần thông của Phật không nghĩ bàn.’’ Phật là bậc Ðại Giác. Ai chân chánh giác ngộ thì người đó là Phật. Nếu ai hồ đồ thì người đó là chúng sinh. Do đó, biết chúng sinh và Phật khác biệt giữa mê và giác. Mê là chúng sinh, giác là Phật. Lục Tổ Huệ Năng nói :
“Pháp vốn chẳng đốn tiệm,
Mê ngộ có sớm muộn”.
Nghĩa là pháp bổn thể chẳng có đốn và tiệm (đốn pháp là do tiệm mà thành đốn, tiệm pháp là do đốn mà thành tiệm). Chỉ là chúng sinh mê và giác, có sớm có muộn, bất quá là thời gian sớm muộn mà thôi. Thần thông lực của Phật là gì ? Tức là ba thân, bốn trí, năm nhãn, sáu thông.
Ba thân là :
Pháp thân
Báo thân và
Ứng hóa thân.
Bốn trí là :
Thành sở tác trí
Diệu quán sát trí
Bình đẳng tánh trí
Ðại viên cảnh trí.
Năm nhãn là :
Nhục nhãn
Thiên nhãn
Pháp nhãn
Huệ nhãn
Phật nhãn.
Sáu thông là :
Thiên nhãn thông
Thiên nhĩ thông
Tha tâm thông
Túc mạng thông
Thần túc thông và
Tậu tận thông.
Cho nên nói thần thông lực của Phật không thể nghĩ bàn.
‘’ Hiện khắp mười phương cõi rộng lớn.’’ Phật ở trong một niệm, hiện khắp cõi nước chư Phật trong mười phương, đi giáo hóa chúng sinh. Phật nói Kinh Hoa Nghiêm, tuy nhiên là ngồi dưới cội bồ đề, nhưng pháp thân đến cõi nước chư Phật, đồng thời diễn nói giáo lý viên đốn.
‘’ Thảy đều nghiêm tịnh thường hiện tiền.’’ Phật có thể làm cho tất cả cõi nước chư Phật hoàn toàn trang nghiêm thanh tịnh, cảnh giới này luôn luôn hiện tiền.
‘’ Thắng Niệm ngộ môn giải thoát này.’’ Vị Tối Thắng Niệm Thiên Vương, đắc được phương tiện môn giải thoát này.
Hạt bụi số cõi trong mười phương
Thảy đều cúng dường các Như Lai
Nghe pháp lìa nhiễm không quên mất
Diệu Âm Thiên Vương thấy môn này.
‘‘ Hạt bụi số cõi trong mười phương ’’. Tất cả Như Lai, số nhiều như hạt bụi trong biển cõi đều phải kính phụng, đều phải cúng dường, đều phải lễ bái.
‘’ Thảy đều cúng dường các Như Lai.’’ Ðức Phật Thích Ca khi còn tại nhân đîa, thì cung kính cúng dường các Như Lai, nhiều như số hạt bụi biển cõi.
‘’ Nghe pháp lìa nhiễm không quên sót.’’ Khi Phật tại nhân địa tu hành, thì nghe tất cả các pháp, xa lìa tất cả vô minh, tất cả nhiễm ô, không bỏ qua tất cả các pháp, dù pháp rất vi tế, pháp không quan trọng cũng không quên được, cũng đặc biệt chú ý không bỏ sót. Vì y theo pháp tu hành, cho nên lìa nhiễm, không quên sót.
‘’ Diệu Âm Thiên Vương thấy môn này.‘’ Pháp môn đại dụng này, vị Khả Ái Lạc Thanh Tịnh Diệu Âm Thiên Vương minh bạch được.
Phật trong vô lượng biển đại kiếp
Nói bậc phương tiện chẳng ai bằng
Sở nói vô biên vô cùng tận
Thiện Tư Âm Thiên biết nghĩa này.
‘’ Phật trong vô lượng biển đại kiếp.’’ Phật Thích Ca trong quá khứ, khi còn tại nhân địa, trải qua vô lượng vô biên số đại kiếp, vì đại kiếp quá nhiều, giống như biển, không cách chi tính được số chắc chắn, cho nên gọi là biển đại kiếp.
‘’ Nói bậc phương tiện chẳng ai bằng.’’ Trong lúc đó, Ðức Phật khéo nói tất cả nghĩa các bậc. Ðất dùng sinh trưởng làm nghĩa, vạn vật đều từ đất sinh trưởng lớn lên. Bậc nghĩa là từ bậc phàm phu mà đạt đến bậc Thánh nhân. Ở trong khoảng giữa này, phải trải qua thời gian rất dài, mới có thể thành tựu địa vị Thánh nhân, cho nên bậc nghĩa là : dùng đủ thứ phương tiện để giảng nói. Chẳng ai bằng tức là bất cứ Thánh nhân nào cũng không thể sánh được.
‘’ Sở nói vô biên vô cùng tận.’’ Sở thuyết pháp phương tiện chẳng có bờ mé, nói không hết được, nói ngang nói dọc, cũng nói chẳng hết được.
‘’ Thiện Tư Âm Thiên biết nghĩa này.’’ Cảnh giới đạo lý này, vị Thiện Tư Duy Âm Thiên Vương minh bạch được.
Như Lai thần biến vô lượng môn
Một niệm hiện trong tất cả chỗ
Ðản sinh thành đạo đại phương tiện
Trang Nghiêm Âm được giải thoát này.
‘’ Như Lai thần biến vô lượng môn.’’ Thần thông biến hóa của Phật vô lượng vô biên. Chẳng giống như thần thông của A La Hán, chỉ có mười tám thứ biến hóa. Cũng chẳng giống như thần thông của Bồ Tát. Tuy nhiên có trăm ngàn vạn ức biến hóa, nhưng vẫn còn có bờ mé. Còn thần thông của Phật thì biến hóa vô cùng vô tận.
Thần biến là gì ? Thần là thần diệu không dò được. Phàm phu chúng ta không thể dùng tâm để suy nghĩ, cũng không thể dùng lời nói để hình dung. Biến là thiên biến vạn hóa, biến hóa vô cùng, từ một môn mà sinh ra vô lượng môn, vô lượng môn quy về một môn.
‘’ Một niệm hiện trong tất cả chỗ.’’ Thần thông biến hóa, một tức là nhiều, nhiều tức là một, một nhiều không hai, một nhiều vô lượng. Như vậy thì mới có thể khoảng một niệm hiện tiền, hiện trong tất cả chỗ. Phật không động đạo tràng mà biến khắp pháp giới, vẫn ngồi nhập định ở đó. Song, ở trong hư không khắp pháp giới, chẳng có một chỗ nào mà chẳng phải Phật hiện tiền. Cho nên nói : một niệm hiện trong tất cả chỗ.
‘’ Ðản sinh thành đạo đại phương tiện.’’ Tất cả Bồ Tát muốn thành Phật, trước hết đều phải ở cung trời Ðâu Suất, đợi cơ duyên chín mùi, sẽ hàng sinh xuống nhân gian hậu bổ Phật vị, giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui.
Bây giờ Bồ Tát Di Lặc, đang ở tại cung trời Ðâu Suất, đợi tương lai sẽ đến thế giới này thành Phật, làm giáo chủ. Khi nào Bồ Tát Di Lặc mới thành Phật ? Bây giờ là trụ kiếp, kiếp thứ chín của kiếp giảm. Tuổi thọ của con người khoảng bảy mươi. Mỗi một trăm năm giảm xuống một tuổi, giảm đến mười tuổi thì mới tăng thêm tuổi thọ, cũng một trăm năm tăng lên một tuổi. Tăng đến tám vạn bốn ngàn tuổi thì mới giảm, giảm xuống tuổi thọ con người còn tám vạn tuổi, thì Bồ Tát Di Lặc bèn cưỡi voi trắng sáu ngà, từ cung trời Ðâu Suất hàng sinh nhân gian, giáo hóa chúng sinh. Chỉ cần thời gian một ngày một đêm, những chúng sinh đáng được độ thì độ xong. Vào thời Ðức Phật Thích Ca, còn lại những chúng sinh không thể giáo hóa, họ có duyên với Bồ Tát Di Lặc, tương lai sẽ được giáo hóa mà được giải thoát. Bây giờ Bồ Tát Di Lặc ở Nội Viện cung trời Ðâu Suất, trong hội Long Hoa vì chúng sinh mà thuyết pháp.
Ngài Vô Trước lúc còn ở Ấn Ðộ, mỗi ngày đi lên cung trời Ðâu Suất nghe Kinh, về lại nhân gian ghi chép lại thành bộ Du Già Sư Ðịa Luận. Nội dung là nói về pháp tướng vạn pháp duy thức, do Phật Thích Ca nói, lược thành sáu trăm sáu mươi pháp. Sau đó, em của Ngài là Thế Thân Bồ Tát đúc kết lại thành Bách Pháp Minh Môn Luận.
‘’ Trang Nghiêm Âm được giải thoát này.’’ Cảnh giới này vị Trang Nghiêm Âm Thiên Vương minh bạch được.
Oai lực gia trì diễn nói được
Chư Phật thị hiện các thần thông
Tùy theo sở thích khiến thanh tịnh
Vua Trời Quang Âm chứng môn này.
‘’ Oai lực gia trì diễn nói được.’’ Ðại oai thần lực của Phật, là do đức hạnh tích tập nhiều kiếp mà thành tựu. Bổn lai thế giới này sẽ hư hoại, nhưng Ðức Phật dùng đại oai thần lực, bảo trì cho thế giới được bình an, và còn diễn nói đủ thứ pháp lành, dùng phương tiện khéo léo để giáo hóa chúng sinh, làm cho chúng sinh giác ngộ, biết : ‘’ Khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn.’’ Nghĩa là : biển khổ mênh mông, quay đầu là bờ.
‘’ Chư Phật thị hiện các thần thông.’’ Chư Phật hiện tất cả thần thông diệu dụng, khiến cho căn tính chúng sinh và sở thích thanh tịnh không ô nhiễm. Không những thân thanh tịnh mà tâm cũng thanh tịnh.
‘’ Tùy theo sở thích khiến thanh tịnh.’’ Chúng sinh nào có căn lành, là do trong kiếp trước đã trồng rất nhiều căn lành, rất nhiều công đức trong ruộng phước, cho nên đời này có phước báu, có căn lành.
Có những chúng sinh trong đời này, không làm lành mà làm ác, tại sao chẳng có quả báo ác ? Vấn đề này có một số người không hiểu được. Ðó là vì kiếp trước họ đã trồng căn lành, đời này tuy làm ác, nhưng quả lành kiếp trước chín mùi, còn quả ác chưa chín mùi. Ðợi khi nào quả ác chín mùi thì họ sẽ thọ quả báo ác.
Có những chúng sinh đời này, làm lành không làm ác, nhưng lại chịu quả báo ác, đó là vì kiếp trước trồng rất nhiều nhân ác, đời này tuy làm việc lành, nhưng thọ quả báo ác. Ðợi đến khi quả lành chín mùi thì sẽ được quả lành, hoặc đời này hoặc đời sau. Ðạo lý này rất đơn giản, giống như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Tóm lại trồng nhân gì ? Ðược quả đó.
Căn tính chúng sinh mỗi người đều khác nhau, do đó cảnh giới của mỗi người cũng chẳng giống nhau. Sự tham muốn của mỗi chúng sinh cũng khác biệt, có người muốn làm quan, có người muốn phát tài, có người muốn ở nhà cao cửa rộng, có người muốn chạy xe mới. Ðủ thứ tham muốn về vật chất này, làm cho khí chất bẩm tính của con người mai một, và che lấp trí huệ quang minh của con người.
Tất cả chư Phật, tùy theo sở thích của chúng sinh để giáo hóa họ, khiến cho họ trồng căn lành. Có căn lành rồi thì sở thích cũng thanh tịnh, chẳng có tất cả dục niệm.
Tại sao chúng ta không giải thoát được ? Vì bị tài, sắc, danh, ăn, ngủ năm dục trói buộc. Tu đạo tức là cởi mở sự trói buộc của năm dục. Khi nào cởi mở được sự trói buộc thì lúc đó đắc được tự tại.
‘’ Vua Trời Quang Âm chứng môn này.’’ Cảnh giới môn giải thoát này, vị Thậm Thâm Quang Âm Thiên Vương chứng được.
Trí huệ Như Lai không ngằn mé
Trong đời chẳng bằng chẳng chấp trước
Tâm từ hiện khắp trước chúng sinh
Quảng Ðại Danh Thiên ngộ môn này.
‘’ Trí huệ Như Lai không ngằn mé.’’ Phật là bậc đại giác đại trí huệ. Phật là bậc Thánh nhân thông minh nhất, chẳng có gì mà không biết, không có gì mà không giác, không có gì mà không thấu rõ, không có gì mà không làm được. Vì trí huệ của Phật tận hư không khắp pháp giới, chẳng có giới hạn, chẳng có phạm vi, cho nên nói trí huệ Như Lai không ngằn mé.
‘’ Trong đời chẳng bằng chẳng chấp trước.’’ Trí huệ của Phật không thể sánh, không những tại nhân gian không ai bằng được, mà trên cõi trời cũng chẳng có ai bằng được. Trí huệ của Phật tuy chẳng ai bằng, nhưng Phật cũng chẳng chấp trước.
‘’ Tâm từ hiện khắp trước chúng sinh.’’ Phật không những có đại trí huệ mà còn có đại từ bi. Dùng đại trí huệ quang minh, tâm đại từ bi để giáo hóa tất cả chúng sinh, độ khắp tất cả chúng sinh. Ai có duyên thì người đó được cứu. Cho nên Phật hiện khắp tất cả chúng sinh.
‘’ Quảng Ðại Danh Thiên ngộ môn này.’’ Cảnh giới môn giải thoát này, vị Quảng Ðại Danh Xưng Thiên Vương minh bạch được.
Quá khứ Phật tu hạnh bồ đề
Cúng dường tất cả Phật mười phương
Mỗi chỗ đức Phật đều phát nguyện
Tối Thắng Quang Vương đại hoan hỷ.
‘’ Quá khứ Phật tu hạnh Bồ đề.’’ Phật Thích Ca khi còn ở tại nhân địa, thì rộng tu hạnh Bồ đề, hành Bồ Tát đạo. Hạnh bồ đề là gì ? Tức là hạnh nguyện giác đạo, đó là:
“Tự tính chúng sinh thệ nguyện độ,
Tự tính phiền não thệ nguyện đoạn,
Tự tính pháp môn thệ nguyện học,
Tự tính Phật đạo thệ nguyện thành”.
Bồ Tát đạo là gì ? Tức là hành vi bỏ mình cứu người, ‘’ Ngoài thì, thí đất nước vợ con, trong thì, thí đầu mắt tủy não.’’ Phải có tinh thần bố thí như thế mới hành Bồ Tát đạo được. Khi đức Phật tại nhân địa thì tu vạn hạnh, tập thiền định, do đó :
“Siêng tu giới định huệ,
Diệt trừ tham sân si”.
Vun bồi công đức, khi phước huệ đầy đủ thì mới thành Phật.
‘’ Cúng dường tất cả Phật mười phương.’’ Vì Phật tu đạo bồ đề, trên thì cầu thành Phật, dưới thì độ chúng sinh, không tiếc thân mạng, cúng dường tất cả chư Phật trong mười phương, hà huống là vật ngoài thân càng không tiếc. Mỗi hạt bụi trên thế giới này, đều là chỗ của chư Phật quá khứ, chư Phật hiện tại và chư Phật vị lai xả bỏ thân mạng.
‘’ Mỗi chỗ chư Phật đều phát nguyện.’’ Ðức Phật ở trước mỗi vị Phật, đều phát thệ nguyện lớn, cúng dường tất cả chư Phật trong mười phương. Trong quá khứ hạnh lực và nguyện lực của Phật, đều vĩ đại cho nên mới thành tựu. Chúng ta là người học đạo phải phát đại nguyện lực, tất cả đều vì chúng sinh, mà chẳng vì chính mình. Nếu chỉ có tâm tu hành, mà chẳng có tâm phát nguyện, thì cũng giống như hoa nở mà chẳng kết trái, chẳng thành tựu được.
‘’ Tối Thắng Quang Vương đại hoan hỷ.’’ Cảnh giới này, vị Tối Thắng Tịnh Quang Thiên Vương minh bạch được, cho nên vị này sanh đại tâm hoan hỷ.
Ở trên là mười bài kệ của Quang Âm Thiên Vương trời Nhị Thiền thuộc về sắc giới nói ra, tán thán công đức của Phật. Dưới đây là kệ của Ðại Phạm Thiên Vương, trời Sơ Thiền nói.
Lại nữa, Thi Khí Phạm Vương được môn giải thoát, thuyết pháp khắp các đạo tràng trong mười phương, mà các sự tu hành thảy đều thanh tịnh không nhiễm trước.
Ðạo lý ở trên chưa nói hết, bây giờ lại tiếp tục.
Vị Thi Khí Phạm Vương này là Ðại Phạm Thiên, trong cõi Sơ Thiền thuộc về sắc giới. Vị này nói về pháp thanh tịnh của mình tu hành, khắp hết tất cả đạo tràng trong mười phương. Pháp thanh tịnh là gì ? Tức là không ích kỷ, không tự lợi, không đố kỵ, không chướng ngại, không có ô nhiễm tham sân si ba thứ độc.
Tất cả các đức Phật ở đời hiện tại, đều kiến lập đạo tràng. Ðạo tràng là gì ? Tức là chỗ tu đạo. Ðức Phật Thích Ca nói Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật ở tại bảy đạo tràng :
1. Bồ Ðề Ðạo Tràng.
2. Ðiện Phổ Quang Minh.
3. Cung trời Ðao Lợi.
4. Cung trời Dạ Ma.
5. Cung trời Ðâu Suất.
6. Cung trời Tha Hóa.
7. Rừng Thệ Ða.
Phàm là chỗ nào có giảng Kinh thuyết pháp, đều gọi là đạo tràng. Giảng Kinh gì thì gọi là pháp hội đó, ví như pháp hội Hoa Nghiêm, pháp hội Pháp Hoa .v.v.
Vị Thiên Vương này, đắc được môn giải thoát không nhiễm không ngại.
Huệ Quang Phạm Vương được môn giải thoát, khiến cho tất cả chúng sinh nhập thiền định tam muội.
Vị Huệ Quang Phạm Vương này, có trí huệ quang minh, khiến cho tất cả chúng sinh nhập thiền định tam muội. Thiền dịch là “tĩnh lự” ; tĩnh tức là chỉ tức, lự tức là tư lự. Tóm lại, tức là ngưng bặc tất cả mọi sự suy nghĩ vọng tưởng. Tam muội dịch là “định”, cho nên danh từ thiền định này nửa là tiếng Phạn, nửa tiếng Tàu.
Vọng tưởng là mây trôi, chân tâm là mặt trời. Mây che lấp mặt trời, cho nên ánh sáng mặt trời không hiện được. Thiền định là gió, thổi tan sạch mây trôi. Mây bay đi rồi thì ánh sáng hiện ra. Tu thiền định tức là ngưng bặc vọng tưởng, không còn vọng tưởng thì trí huệ hiện tiền, tức cũng là khai ngộ. Do đó :
‘’ Vọng niệm không sinh là thiền,
Ngồi thấy bản tánh là định.’’
Vị Thiên Vương này minh bạch được cảnh giới này, vị này ở trong tam muội, thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn, đắc được môn giải thoát như thế.
Thiện Tư Huệ Quang Minh Phạm Vương, được môn giải thoát, vào khắp tất cả các pháp không nghĩ bàn.
Vị Thiện Tư Huệ Quang Minh Phạm Vương này có văn huệ, tư huệ, tu huệ ba thứ trí huệ. Văn là nghe pháp có thể đắc được trí huệ. Tư là tư duy, cũng có thể đắc được trí huệ. Tu là tu hành, càng có thể đắc được trí huệ. Ðây là ba yếu tố trí huệ. Ba huệ này là hậu đắc trí, là do học mà biết. Thiền định là căn bản trí sinh mà có.
Ba thứ trí huệ này phóng ra một thứ quang minh, chiếu khắp tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh cũng đắc được lợi ích ba thứ trí huệ. Vị này đắc được pháp môn giải thoát, nhập vào khắp tất cả các pháp diệu không thể tả. Thứ diệu pháp này nói cũng không ra lời, nghĩ cũng không ra, do đó :‘’ Như người uống nước, nóng lạnh tự biết.’’ Cảnh giới này cần phải tu hành thì tự mình sẽ thể hội, liễu ngộ, mới có thể sinh ra vô sinh pháp nhẫn.
Phổ Vân Âm Phạm Vương được môn giải thoát, vào tất cả biển âm thanh của chư Phật.
Vị Phổ Vân Âm Phạm Vương này, nhập vào tất cả biển âm thanh của chư Phật trong mười phương, tức vị này cũng nghe và hiểu được lời nói của tất cả chư Phật. Phàm phu chúng ta bất cứ thông minh như thế nào, cũng không thể học hết được tất cả ngôn ngữ trên toàn thế giới. Nhưng Phật đầy đủ tất cả biển ngôn ngữ. Khi Phật thuyết pháp thì, bất cứ loại chúng sinh nào cũng đều hiểu được, đều hiểu rõ ý nghĩa của Phật muốn nói gì. Mỗi loài đều có sở đắc, đều có sở ngộ. Do đó :
‘’ Một âm thanh diễn nói pháp,
Tùy loài thảy đều hiểu được.’’
Mỗi loại chúng sinh sở ngộ đều khác, cảnh giới đắc được cũng khác nhau. Các vị Phạm Vương mỗi vị đều đắc được cảnh giới giác ngộ đều khác nhau. Vị Phạm Vương này đắc được môn giải thoát tam muội vô ngại.
Quán Thế Ngôn Âm Tự Tại Phạm Vương, được môn giải thoát, nghĩ nhớ phương tiện của Bồ Tát, giáo hóa tất cả chúng sinh.
Vị Quán Thế Ngôn Âm Tự Tại Phạm Vương này, quán sát tất cả ngôn ngữ và âm thanh trên thế gian mà đắc được tự tại. Vì đắc được tam muội ngôn ngữ và âm thanh, cho nên nghĩ nhớ được. Bất cứ pháp gì ? Chỉ cần lọt qua căn tai của vị này, thì vĩnh viễn không bao giờ quên.
Tất cả Bồ Tát giáo hóa tất cả chúng sinh, đều dùng phương pháp phương tiện khéo léo, chẳng phải là pháp hằng thường không đổi. Pháp phương tiện này, lúc này có thể dùng, nhưng đến lúc khác thì không nhất định có thể dùng. Ðó là pháp phương tiện quán căn cơ thí giáo, vì người thuyết pháp, theo bệnh cho thuốc.
Ví như Tì Sương, bổn thể của nó rất kịch độc, nếu biết xử dụng thì thuốc hay, có thể trị được tất cả bệnh độc, đó là pháp phương tiện “dùng độc trị độc”. Tì Sương tuy nhiên trị được bệnh, nhưng không thể dùng quá lượng. Pháp phương tiện cũng như thế, không thể lạm dụng, cần đối trị thì mới dùng được.
Bây giờ tôi kể một câu chuyện về “tay không độ em bé”. Lúc Ðức Phật còn tại thế, một ngày nọ, đi ra ngoài khất thực, đi ngang qua một cái giếng nước, ở xa trông thấy một em bé bò đến bên giếng (em bé chưa biết đi), mắt trông thấy em bé muốn rơi xuống giếng. Lúc này thật là sợi tóc treo ngàn cân, Ðức Phật muốn chạy đến bên giếng để cứu sinh mạng em bé, nhưng thời gian đã không kịp nữa. Do đó, Ðức Phật bèn lớn tiếng nói với em bé rằng : ‘’ Này em bé ! Em bé ! Trong tay của ta có kẹo, mau bò đến đây.’’ Ðứa bé nghe có kẹo ăn bèn bò qua chỗ đức Phật. Thật ra trong tay đức Phật chẳng có kẹo, đó là gạt đứa bé, vì cứu sinh mạng của nó, cho nên chỉ dùng được pháp phương tiện. Phật độ chúng sinh cũng như thế, xem chúng sinh thích gì ? Thì cho chúng sinh cái đó ! Sau đó từ từ thuyết pháp cho họ nghe, đó là pháp môn phương tiện khéo léo. Vị Phạm Vương này đắc được môn giải thoát này.
Tịch Tĩnh Quang Minh Nhãn Phạm Vương, được môn giải thoát, hiện tất cả tướng nghiệp báo thế gian, thảy đều khác biệt.
Vị Tịch Tĩnh Quang Minh Nhãn Phạm Vương, được tướng nghiệp báo tất cả thế gian. Tướng nghiệp báo là gì ? Tức là trồng nhân gì thì được quả đó. Tóm lại, trồng nhân lành thì được quả lành, trồng nhân ác thì được quả ác. Quả lành có thể thành A La Hán, Duyên Giác, Bồ Tát, và Phật. Ðó là quả báo lành của bốn pháp giới bậc Thánh. Lại có thể sinh về cõi trời, có thể làm người, đó là quả báo trời, người. Quả ác thì làm súc sinh, làm ngạ quỷ, đọa địa ngục, đó là quả báo ba đường ác. Nhân quả nghiệp báo tơ hào cũng không sai. Do đó có câu :
‘’ Muốn biết nhân đời trước làm gì ?
Hãy xem quả đời này mình có ;
Muốn biết quả đời sau thế nào ?
Xem mình làm gì trong đời này.’’
Muốn biết đã trồng nhân gì trong đời trước ? Thì đời này mình đang gặp những gì, hưởng thụ những gì, đó là nhân đã trồng trong đời quá khứ. Nếu trồng nhân lành thì đời này sẽ gặt quả lành, tất cả đều thuận cảnh. Nếu trồng nhân ác thì đời này gặt quả ác, tất cả đều nghịch cảnh. Muốn biết về tương lai như thế nào ? Thì hãy xem đời này đang làm gì ? Nếu làm công đức lành thì đời sau được phước báu ; nếu làm nghiệp ác quá nhiều thì đời sau nhất định làm bò làm ngựa, đố kỵ thì làm mãng xà, gạt người thì làm gà. Tóm lại, tạo nghiệp gì thì thọ cái đó.
Mỗi chúng sinh đều có tướng nghiệp báo của mỗi người, chẳng ai giống ai. Người thì có tướng nghiệp báo của người, bò có tướng nghiệp báo của bò, heo thì có tướng nghiệp báo của heo. Bò ở Ấn Ðộ không bị giết, heo ở xứ Hồi giáo không bị giết, đó cũng là tướng nghiệp báo của chúng sinh khác nhau. Có người rất giàu có mà không có con cái, đó là có sự giàu có mà không con. Có người rất nghèo mà đông con cái, đó là đông con cái nhưng không giàu có. Mỗi người đều có hoàn cảnh riêng, đều khác nhau. Việc trong trời đất tuyệt đối không thập toàn thập mỹ. Dù thập toàn thập mỹ nhưng người vẫn cảm thấy không đầy đủ. Tại sao ? Vì lòng tham muốn không đáy.
Vị Phạm Vương này minh bạch được tướng nghiệp báo thế gian đều khác biệt, vị này đắc được môn giải thoát này.
Phổ Quang Minh Phạm Vương được môn giải thoát, tùy theo tất cả phẩm loại chúng sinh khác biệt, đều hiện ra thân tướng để điều phục.
Vị Phổ Quang Minh Phạm Vương này, đắc được tùy theo chúng sinh khác nhau, mà hiện thân tướng cảnh giới khác nhau. Ví như thấy cọp thì hiện thân cọp để điều phục cọp. Gặp rồng thì hiện thân rồng để điều phục rồng, gặp chúng sinh phi cầm, thì hiện thân phi cầm để điều phục chúng. Gặp chúng sinh thủy tộc, thì hiện thân thủy tộc để điều phục chúng. Cho nên gọi là hiện ra để điều phục, khiến cho tất cả chúng sinh đều phát tâm bồ đề, tu vô thượng đạo. Vị Phạm Vương này đắc được môn giải thoát này.
Biến Hóa Âm Phạm Vương được môn giải thoát, trụ tất cả cảnh giới pháp tướng hạnh thanh tịnh tịch tĩnh.
Vị Biến Hóa Âm Phạm Vương này, có âm thanh biến hóa được, có trăm ngàn vạn thứ âm thanh. Vì vị này biến hóa âm thanh được, cho nên trụ ở trong tất cả các pháp, đắc được pháp tướng thanh tịnh quang minh. Hạnh tịch tĩnh tức là cảnh giới vô vi mà vô bất vi, vị này đắc được môn giải thoát cảnh giới hạnh tịch tĩnh.
Quang Diệu Nhãn Phạm Vương được môn giải thoát, thường siêng xuất hiện trong tất cả các cõi, mà không chấp trước, không bờ mé, không chỗ nương tựa.
Vị Quang Diệu Nhãn Phạm Vương này, có trí huệ quang minh chiếu soi chúng sinh, khiến cho họ đều đắc được mắt biết chọn pháp, biết được pháp này là đúng hay sai. Vị này biết được pháp thân của Phật như hư không. Trong tất cả các cõi chẳng có chấp trước, tức là không chấp không, cũng chẳng chấp có. Không chấp vào có không hai bên.
Vì pháp thân của Phật như hư không, chẳng có bờ mé, cho nên chẳng có chỗ nương tựa. Pháp thân của Phật tuy nhiên như hư không, nhưng Phật luôn luôn xuất hiện ra đời. Tại sao ? Vì vấn đề sinh tử của chúng sinh chưa chấm dứt, cho nên Phật thường thị hiện ra đời để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh bỏ mê về giác, hết khổ được vui sướng. Vị Phạm Vương này đắc được tam muội pháp môn giác ngộ giải thoát này.
Duyệt Ý Hải Âm Phạm Vương, được môn giải thoát, thường tư duy quán sát các pháp vô tận.
Vị Duyệt Ý Hải Âm Phạm Vương này, có âm thanh êm tai vi diệu phi thường, chúng sinh nghe được đều sinh tâm hoan hỷ. Âm thanh thuyết pháp của vị này giống như âm vang của biển cả. Vị này cũng đắc được công phu tu thiền. Thiền dịch là “tư duy tu”. Vị này quán sát được, khắp tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian, vô cùng vô tận không thể nghĩ bàn. Vị này ở trong thiền định khai mở đại trí huệ, minh bạch tất cả diệu lý thật tướng, vô tận pháp tạng không thể nghĩ bàn của tất cả các pháp. Ðó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Bấy giờ, Thi Khí Ðại Phạm Vương, nương oai lực của Ðức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Phạm Thiên, Phạm Phụ Thiên, Ðại Phạm Thiên mà nói kệ rằng.
Lúc đó, khi Duyệt Ý Hải Âm Phạm Vương nói xong môn giải thoát của mình đắc được rồi, thì vị Thi Khí Ðại Phạm Vương trời Sơ Thiền thuộc Sắc giới, thừa đại oai thần của chư Phật quán sát khắp tất cả Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên, Ðại Phạm Thiên, thiên chúng ba cõi trời này nói ra bài kệ để tán thán công đức của Phật, để hiểu rõ nghĩa chân thật của Phật pháp.
Trời Sơ Thiền gọi là ly sinh hỷ lạc, chúng sinh ở trong cõi trời này bỏ sạch tất cả khổ não mà sinh tâm hoan hỷ sung sướng. Hết thảy có ba cõi trời :
1. Phạm Chúng Thiên : Phạm dịch là thanh tịnh, chúng sinh cõi trời này trong tâm thanh tịnh, không có dục niệm, có người nam mà chẳng có người nữ, đều là hóa sinh.
2. Phạm Phụ Thiên : Chúng sinh cõi này chẳng có sự thống khổ phiền muộn, chỉ có khoái lạc an vui.
3. Ðại Phạm Thiên : Chúng sinh cõi này tự nhiên thanh tịnh, siêng tu giới định huệ, tức diệt tham sân si.
Thân Phật thanh tịnh thường tịch diệt
Quang minh chiếu sáng khắp thế gian
Không tướng không hạnh không hình bóng
Như mây lơ lững trong không trung.
“Thân Phật thanh tịnh thường tịch diệt.’’ Thi Khí Ðại Phạm Vương nói : ‘’Thân thể của Phật thanh tịnh, tịch diệt”. Tuy nhiên là thanh tịnh tịch diệt, nhưng có quang minh.
“Quang minh chiếu sáng khắp thế gian”. Quang minh của Phật chiếu sáng khắp tất cả thế gian, chẳng có chỗ nào mà chẳng chiếu, chẳng có chỗ nào mà chẳng sáng. Tất cả chúng sinh ở trong quang minh từ bi chiếu sáng, biết được sự hồi quang phản chiếu là pháp môn giác ngộ.
“Không tướng không hạnh không hình bóng”. Chẳng có hình tướng, chẳng có hành vi, chẳng có hình, chẳng có bóng, giống như mây trong hư không.
“Như mây lơ lững trong không trung”. Chúng sinh tuy thấy mây trong không trung, nhưng mây trong không trung chẳng chấp trước, chỉ tồn tại trong thời gian ngắn rồi sẽ tiêu mất.
Thân Phật ở trong cảnh giới định
Tất cả chúng sinh không thể dò
Mở bày phương tiện khó nghĩ bàn
Môn này Huệ Quang Vương ngộ được.
“Thân Phật ở trong cảnh giới định”. Phật thường ở trong định, trong định thì như thế. Không ở trong định thì không như thế. Cảnh giới ở trong định, chẳng có bất định thì luôn luôn đều là định. Phật ở trong định diễn nói bộ Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật này.
“Tất cả chúng sinh không thể dò”. Cảnh giới của Phật ở trong định, tất cả chúng không thể hiểu biết được, không thể dò được.
“Mở bày phương tiện khó nghĩ bàn”. Cảnh giới này, Ðức Phật mở bày cho tất cả chúng sinh phát tâm đại bồ đề, sớm thành chánh giác, đây là phương tiện pháp môn không thể nghĩ bàn.
‘’ Môn này Huệ Quang Vương ngộ được.’’ Cảnh giới này vị Huệ Quang Vương minh bạch được.
Cõi Phật hạt bụi biển pháp môn
Một lời diễn nói hết không thừa
Như vậy biển kiếp nói không hết
Thiện Tư Huệ Quang thấy môn này.
“Cõi Phật hạt bụi biển pháp môn”. Cõi nước chư Phật trong mười phương có bao nhiêu ? Nhiều giống như hạt bụi. Biển pháp môn gọi là gì ? Trong một hạt bụi làm một biển cả, trong một biển cả đầy đủ vô lượng pháp môn, đó là hình dung nhiều pháp môn giống như biển cả, cho nên gọi là biển pháp môn.
“Một lời diễn nói hết không thừa”. Một lời tức là thật tướng, thật tướng tức là vô tướng, vô tướng tức là vô sở bất tướng. Chỉ cần nói ra thật tướng thì tất cả các pháp đều bao quát trong đó. Cũng có thể nói là chân như, lại có thể nói là Phật tánh. Vì tất cả pháp môn đều từ Phật tánh chảy ra, chỉ cần nói ra một lời thì tất cả pháp môn đều bao quát không thừa.
“Như vậy biển kiếp nói không hết”. Biển pháp môn nhiều giống như số hạt bụi, tận hư không khắp pháp giới. Muốn diễn nói pháp môn này hết thuở vị lai, suốt kiếp vị lai cũng diễn nói không hết, nói không hết biển pháp môn, đó là vì phương tiện mà nói.
Lúc này có người đề ra vấn đề : “Vậy câu trước nói một lời thì nói hết, câu sau lại nói dù nói thế nào cũng nói không hết, đó chẳng phải là trước sau mâu thuẫn chăng” ? Trên thực tế thì trước sau chẳng mâu thuẫn. Câu trước thì dùng thật tướng để nói, cho nên nói một lời diễn nói hết không thừa. Câu sau dùng quyền xảo phương tiện để nói, nói đến khi nào cũng nói không hết. Câu trước là tổng, câu sau là biệt. Tổng lại để nói, một câu có thể nói hết : phân biệt để nói thì hết kiếp vị lai cũng nói không hết. Theo hiển giáo mà nói thì, những gì người biết thì, một câu có thể nói hết. Theo mật giáo mà nói thì có vô lượng nghĩa, nói không hết.
‘’ Thiện Tư Huệ Quang thấy môn này.’’ Môn giải thoát này vị Thiện Huệ Quang Phạm Vương minh bạch được.
Viên âm chư Phật đồng thế gian
Tùy loại chúng sinh đều hiểu rõ
Mà nơi âm thanh không phân biệt
Phổ Âm Phạm Thiên ngộ như thế.
“Viên âm chư Phật đồng thế gian”. Âm thanh của chư Phật là âm viên mãn. Âm viên mãn âm là gì ? Tức là bất cứ loài chúng sinh nào, nghe được âm thanh của chư Phật thì sẽ khai ngộ, chứng thành đạo quả, liễu thoát sinh tử, đắc được Niết Bàn. Loài người, loài A Tu La, loài ngạ quỷ, loài địa ngục cũng đều như thế mà ngộ hiểu.
“Mà nơi âm thanh không phân biệt”. Tất cả chúng sinh trong chín pháp giới, nghe được âm thanh thuyết pháp của Phật tùy theo loài mà hiểu rõ, tăng trưởng căn lành, bỏ mê về giác. Mỗi loài chúng sinh nghe được âm viên mãn của Phật, bèn cảm thấy Phật đối với họ mà thuyết pháp, tự nhiên chuyên nhất tin thọ, không sinh tâm phân biệt hoài nghi.
“Phổ Âm Phạm Thiên ngộ môn này”. Ðây là đạo lý ngộ hiểu của Phổ Vân Âm Phạm Thiên.
Ba đời tất cả các Như Lai
Hướng nhập bồ đề hành phương tiện
Tất cả đều hiện nơi thân Phật
Tự Tại Âm Thiên thấy môn này.
“Ba đời tất cả các Như Lai”. Ðời quá khứ có vô lượng vô biên Phật, đời hiện tại cũng có vô lượng vô biên Phật, đời vị lai cũng có vô lượng vô biên Phật.
“Hướng nhập bồ đề hành phương tiện”. Tất cả chư Phật ba đời, lúc ban đầu các Ngài tu giác đạo, đều trải qua đủ thứ phương tiện pháp môn để tu hành, sau đó mới thành Phật được.
“Tất cả đều hiện nơi thân Phật”. Các Ngài trải qua thời gian tu hành lâu dài, cuối cùng chứng được viên mãn giác ngộ cứu kính mà thành Phật đạo, cho nên nói tất cả đều hiện nơi thân Phật.
“Tự Tại Âm Thiên thấy môn này”. Môn giải thoát này vị Quán Sát Ngôn Âm Tự Tại Phạm Thiên đắc được.
Tất cả nghiệp chúng sinh khác biệt
Tùy theo nhân chiêu cảm quả báo
Thế gian như vậy Phật đều hiện
Tịch Tĩnh Quang Thiên ngộ nhập được.
“Tất cả nghiệp chúng sinh khác biệt”. Tất cả chúng sinh mỗi người đều khác nhau về nghiệp báo. Làm lành thì quả lành, làm ác thì quả ác. Lành là gì ? Phàm là việc có ích lợi cho chúng sinh tức là lành, ví như sửa đường làm cầu, xây trường học, mở nhà thương (lấy từ thiện làm mục đích, chẳng phải vì kiếm tiền làm mục đích). Ác là gì ? Phàm là việc lợi mình mà hại người tức là ác. Ví như mở lò sát sinh (lò thịt), mua bán vũ khí, lò chế bom đạn, lợi mình mà hại chúng sinh.
“Tùy theo nhân chiêu cảm quả báo”. Tùy theo nhân của chúng sinh trồng mà cảm thọ quả báo. Tóm lại trồng nhân gì thì được quả đó. Ví như giết cha của người thì người giết cha của mình ; giết con của họ thì họ giết con của mình. Người không giữ giới sát thì tương lai nhất định sẽ bị người giết, đây là quả báo thế gian.
“Thế gian như vậy Phật đều hiện”. Nhân như vậy, quả như vậy, nghiệp như vậy, báo như vậy, đó là đạo lý tự nhiên, cho nên Phật tại thế gian hiện ra đủ thứ cảnh giới để nói rõ đạo lý này, để đối trị nghiệp báo của chúng sinh, khiến cho chúng sinh thấy được cảnh giới này mà sinh ra tâm giác ngộ, cầu vô thượng đạo.
“Tịch Tĩnh Quang Thiên ngộ nhập được”. Ðạo lý này Tịch Tĩnh Quang Minh Nhãn Phạm Vương minh bạch được.
Vô lượng pháp môn đều tự tại
Ðiều phục chúng sinh khắp mười phương
Cũng chẳng ở trong khởi phân biệt
Ðây là cảnh giới Phổ Quang Thiên.
“Vô lượng pháp môn đều tự tại”. Vị Phổ Quang Minh Phạm Vương này, đắc được tất cả pháp môn, tùy ý tự tại thuyết pháp, nói ngang nói dọc đều là viên dung vô ngại.
“Ðiều phục chúng sinh khắp mười phương.’’ Dùng triết, nhiếp hai môn để điều phục chúng sinh, triết là triết phục, khiến cho chúng sinh thấy oai đức mà triết phục, đó là môn triết phục. Nhiếp là nhiếp thọ, dùng tâm từ bi để cảm hóa, dùng đạo đức để nhiếp thọ, đây là môn nhiếp thọ. Vị này dùng hai pháp môn này đến khắp mười phương để giáo hóa chúng sinh.
“Cũng không ở trong khởi phân biệt”. Ở trong phần chúng sinh, chẳng khởi tất cả tâm phân biệt. Không thể nói chúng sinh này là thiện, tôi đi độ họ ; chúng sinh kia là ác tôi không đi độ họ. Cũng không thể nói chúng sinh này có duyên với tôi, tôi phải độ họ ; chúng sinh kia không có duyên với tôi, tôi không cần độ họ. Chẳng có tâm phân biệt như thế mà dùng từ bi bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, tuyệt đối chẳng có tâm phân biệt, một luật bình đẳng.
“Ðây là cảnh giới Phổ Quang Thiên”. Cảnh giới này vị Phổ Quang Biến Thập Phương Phạm Vương đắc được.
Thân Phật vô tận như hư không
Không tướng không ngại khắp mười phương
Tất cả ứng hiện đều như huyễn
Biến Hóa Âm Vương ngộ môn này.
“Thân Phật vô tận như hư không”. Thân thể của Phật giống như hư không, tuy nhiên như hư không nhưng không thể cùng tận.
“Không tướng không ngại khắp mười phương”. Thân thể của Phật chẳng có hình, cũng chẳng có tướng, nhưng khiến cho chúng sinh nhìn thấy được. Vì chẳng có hình tướng cho nên mới không ngại. Nếu có hình tướng thì có chướng ngại. Tuy nhiên chẳng có tướng, nhưng thường hiện khắp mười phương.
“Tất cả ứng hiện đều như huyễn”. Tất cả chư Phật ứng hiện đều như huyễn như hóa, giống như ánh trăng dưới ngàn con sông, chỉ có một mặt trăng mà mặt trăng ứng hiện dưới ngàn con sông.
‘’ Biến Hóa Âm Vương ngộ môn này.’’ Ðạo lý này vị Biến Hóa Âm Phạm Vương minh bạch được.
Tướng thân Như Lai không ngằn mé
Trí huệ âm thanh cũng như thế
Hiện ra trong đời chẳng chấp trước
Quang Diệu Thiên Vương vào môn này.
“Tướng thân Như Lai không ngằn mé”. Tướng thân của Phật là tận hư không khắp pháp giới, cho nên nói tướng thân của Như Lai không ngằn mé, cũng chẳng có chỗ nương tựa, không chấp trước vào tất cả các cõi (có), cũng không chấp trước nơi tất cả không, từ bỏ có, không, hiển hiện trung đạo. Cho nên nói thân tướng không ngằn mé.
“Trí huệ âm thanh cũng như thế”. Không những trí huệ của Như Lai chẳng có bờ mé mà âm thanh của Như Lai cũng chẳng có bờ mé.
Một ngày nọ, Tôn giả Mục Kiền Liên dùng sức thần thông đi về hướng tây, đi qua vô số cõi Phật, muốn thử âm thanh của Phật đến đâu, kết quả không biết được, bất cứ đi xa bao nhiêu, thì âm thanh của Phật cũng giống như ở trước mắt. Do đó, có thể chứng minh âm thanh Như Lai chẳng có bờ mé.
“Hiện ra trong đời chẳng chấp trước”. Phật hiện ra đời thuyết pháp độ chúng sinh, nhưng chẳng chấp trước, phá tất cả các chấp. Vì rời tất cả chấp trước cho nên mới thành Phật, nếu không thì chẳng thể thành Phật.
“Quang Diệu Thiên Vương nhập môn này”. Môn giải thoát này vị Quang Diệu Phạm Thiên Vương nhập được.
Pháp Vương an trụ Diệu pháp đường
Pháp thân quang minh chiếu hết thảy
Pháp tánh không tướng chẳng gì bằng
Giải thoát này của Hải Âm Vương.
“Pháp Vương an trụ diệu pháp đường”. Pháp Vương tức là Phật, vì Phật ở trong các pháp đắc được tự tại thù thắng, cho nên gọi là Pháp Vương. Ðịa vị tột đỉnh của phàm phu là Chuyển luân thánh vương. Ðịa vị tột đỉnh của Thánh nhân là Pháp Vương. Chuyển luân thánh vương cũng có ba mươi hai tướng, Pháp Vương cũng có ba mươi hai tướng. Vị Hải Âm Phạm Thiên Vương này, luôn luôn tư duy quán sát, pháp môn giải thoát vô tận, tư duy Phật là bậc Pháp Vương, tự tại nơi các pháp, lại tư duy Pháp Vương an trụ ở trong Diệu pháp đường.
“Pháp thân quang minh chiếu hết thảy”. Pháp thân quang minh của Phật, chiếu khắp tất cả cõi nước chư Phật, chẳng có chỗ nào mà không chiếu đến.
“Pháp tánh không tướng chẳng gì bằng”. Pháp tánh không thể so sánh. Pháp tánh tuy nhiên có tên, nhưng chẳng có hình tướng. Pháp tính đầy khắp pháp giới, chẳng có bất cứ cảnh giới nào có thể so sánh được.
“Giải thoát này của Hải Âm Vương”. Môn giải thoát này vị Hải Âm Phạm Thiên Vương minh bạch được.
Hiện tại đã giảng xong sở đắc được môn giải thoát và kệ của năm chúng năm mươi vị Thiên Vương thuộc về Sắc giới. Dưới đây tiếp tục giảng về sở đắc môn giải thoát và kệ của bảy chúng bảy mươi vị Thiên Vương thuộc về dục giới.
Lại nữa, Tự Tại Thiên Vương được môn giải thoát, tự tại tạng hiện tiền thành thục vô lượng chúng sinh.
Vị Tự Tại Thiên Vương này là trời Tha Hóa Tự Tại, từng trời thứ sáu thuộc về dục giới. Vị này chẳng sầu, chẳng lo, chẳng phiền não, chẳng đấu tranh với ai, đều hòa bình tương xứ với mọi người. Vị này đến đâu cũng đều khiến cho chúng sinh, sinh thành thục tự tại tạng. Vì vị này đắc được tự tại, khiến cho tất cả chúng sinh nghe pháp khai ngộ, đắc được môn giải thoát tự tại tạng.
Vị này có tâm từ bi vô lượng, tâm hỷ xả vô lượng, thật là một vị đại hộ pháp Bồ Tát.
Thiện Mục Chủ Thiên Vương, được môn giải thoát, quán sát tất cả sự vui sướng của chúng sinh, khiến cho họ nhập vào cảnh giới vui sướng của bậc Thánh.
Vị Thiện Mục Chủ Thiên Vương này cặp mắt rất hiền từ. Vị này dùng mắt từ bi để nhìn chúng sinh, quán sát sự vui sướng của chúng sinh, không quán sát sự khổ của chúng sinh. Tại sao ? Vì vị này chẳng có khổ, cho nên chẳng biết chúng sinh có sự khổ, chỉ quán sát sự vui sướng của chúng sinh. Sự khoái lạc của chúng sinh tức là thành tựu danh và thành tựu lợi, tức cũng là muốn gì được nấy. Cầu con trai được con trai, cầu con gái được con gái, cầu giàu sang được giàu sang, cầu công danh được công danh, đó là sư khoái lạc của thế gian. Vị Thiên Vương này đều làm cho sở cầu của chúng sinh được mãn nguyện. Muốn dạy cho chúng sinh hiểu Phật pháp, thì trước hết làm cho chúng sinh được đầy đủ sự ham muốn.
Tóm lại, phàm là những gì chúng sinh ưa thích, vị Thiên Vương này đều làm cho họ mãn nguyện về sở cầu, khiến cho họ hoan hỷ, sau đó khiến cho họ nhập vào cảnh giới khoái lạc của Thánh nhân. Cảnh giới khoái lạc của Thánh nhân là gì ? Tức là Niết Bàn bốn đức : Thường, lạc, ngã, tịnh. Sự khoái lạc này là cứu kính. Sự khoái lạc thế gian là trong khổ làm vui sướng. Tại sao nói khoái lạc thế gian là trong khổ làm vui ? Vì sự khoái lạc nhất của thế gian là phát tài, nhưng có tiền rồi thì một đồng một xu cũng tính đếm rõ ràng, thậm chí tối ngủ cũng không yên, lăn qua trở lại không ngủ được, thử nghĩ đây là khổ hay là sướng ?
Sự vui sướng thế gian ngoài việc phát tài, kế tiếp là làm quan. Do đó, sự vui sướng nhất chẳng gì bằng làm quan có quyền có thế. Người làm ông quan tốt, thì lo cho dân cơm no áo ấm, vì hạnh phúc của nhân dân. Còn ông quan ác, thì chuyên bóc lột giấu làm của riêng, tức cũng là quan tham ô hối lộ. Thứ tham quan ô sử này, tuy nhiên sung sướng đến cực điểm, cậy quyền cậy thế lường gạt người, nhân dân phẫn nộ mà không dám nói, nhưng trong biển hoạn nạn trôi nổi hốt lên hốt xuống, có lúc sẽ gặp họa bị giết, nghĩ xem đó là khổ hay vui ?
Vị Thiên Vương này hiểu rõ lý này, cho nên khiến cho chúng sinh bỏ sự khổ thế gian, đắc được môn giải thoát cứu kính tự tại.
Sự vui sướng xuất thế gian mới là vui sướng chân thật, tức cũng là thường, lạc, ngã, tịnh Niết Bàn bốn đức. Tóm lại, tức là chứng được thanh tịnh pháp thân, ở cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ, hoặc ở cõi Cực Lạc Thế Giới, hoa sen hóa sinh, chẳng có khổ về sinh tử, đó mới là vui sướng chân thật.
Diệu Bảo Tràng Quan Thiên Vương, được môn giải thoát, tùy theo sự mong muốn của chúng sinh, khiến cho họ tu hành.
Vị Diệu Bảo Tràng Quan Thiên Vương này, đội mũ báu do các thứ báu đẹp trang nghiêm, giống như tràng báu phóng quang minh. Vị này thường tùy thuận tất cả dục vọng của chúng sinh, vì chúng sinh nói diệu pháp họ thích nghe, khiến cho họ y pháp tu hành, y giáo phụng hành, sớm thành Phật quả. Vị này đắc được môn giải thoát này.
Dũng Mãnh Huệ Thiên Vương được môn giải thoát, diễn nói nghĩa chân thật, nhiếp khắp tất cả chúng sinh.
Vị Dũng Mãnh Huệ Thiên Vương này, có đại trí huệ dũng mãnh không ai sánh bằng, có thể nhiếp trì khắp tất cả chúng sinh, giống như nam châm hút sắt, nhiếp thu tất cả chúng sinh, lợi căn và độn căn vào trong Phật pháp, và diễn nói với họ nghĩa chân thật của Như Lai. Ðối với chúng sinh lợi căn, thì giảng thật nghĩa, tức cũng là nghĩa trung đạo chân không diệu hữu. Ðối với chúng sinh độn căn, thì giảng quyền giáo, trước thì giảng đạo lý có, sau thì giảng đạo lý không, từ từ dẫn vào trong thật giáo nhất thừa.
Diệu Âm Cú Thiên Vương được môn giải thoát, tăng tấn sự tu hành, nghĩ nhớ lòng từ bi rộng lớn của Như Lai.
Vị Diệu Âm Cú Thiên Vương này, có âm thanh vi diệu không thể nghĩ bàn, khéo về thuyết pháp, nói lời lẽ vi diệu không thể nghĩ bàn, cho nên gọi là Diệu Âm Cú Thiên Vương.
Vị này đắc được cảnh giới, nghĩ nhớ lòng từ rộng lớn của Như Lai. Nghĩ nhớ tức là vĩnh viễn không quên, luôn luôn nghĩ nhớ niệm Phật ở trong bộ não, từ bi của Ðức Phật giống như hư không, rộng lớn vô lượng vô biên. Sự từ bi này chẳng có Thánh nhân nào có thể so sánh được.
Tăng thêm sự tinh tấn hạnh môn tu hành, thì sẽ có sự thành tựu. Vị Thiên Vương này đắc được môn giải thoát này.
Diệu Quang Tràng Thiên Vương được môn giải thoát, thị hiện môn đại bi, phá sạch tất cả tâm kiêu mạn.
Vị Diệu Quang Tràng Thiên Vương, đắc được môn đại bi lìa khổ được vui, bỏ mê về giác, phá sạch tất cả tâm cống cao ngã mạn, đầy đủ vô duyên đại từ, đồng thể đại bi. Thấy chúng sinh chẳng có cơm ăn, thì giống như chính mình chẳng có cơm ăn, thấy chúng sinh chẳng có quần áo để mặc, thì giống như chính mình chẳng có quần áo để mặc. Tóm lại, thấy chúng sinh có tất cả thống khổ, thì cũng giống như chính mình thọ tất cả thống khổ, đó là biểu hiện lòng từ bi.
Vị Thiên Vương này chẳng có tâm kiêu mạn, không khinh khi chúng sinh, không coi nhẹ chúng sinh chẳng có căn lành hoặc người cùng khổ, hoặc người ngu si mà rời bỏ họ. Vị này chẳng có tư tưởng phân biệt cao thấp quý tiện, xem tất cả chúng sinh đồng đều và bình đẳng, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Tịch Tĩnh Cảnh Thiên Vương, được môn giải thoát, điều phục tất cả tâm sân hại, của chúng sinh thế gian.
Vị Tịch Tĩnh Cảnh Thiên Vương thường ở trong cảnh giới định, điều phục được tất cả tâm sân hại của chúng sinh thế gian, khiến cho họ biến thành tâm từ bi, biến thành tâm hỷ xả.
Người có tâm sân hận thì thuộc về đường A Tu La. A Tu La thích đấu tranh, luôn luôn tranh thắng, tranh đệ nhất. Trên trời có A Tu La, ở nhân gian cũng có A Tu La. A Tu La trên trời thường tác chiến với chư Thiên. A Tu La nhân gian thường phát sinh đại chiến, dẫn đến nước này đánh với nước kia, chủng tộc này đánh với chủng tộc kia, tôn giáo này đánh với tôn giáo kia, tương lai địa cầu và tinh cầu cũng sẽ chiến tranh với nhau. Những chiến tranh xảy ra đều do A Tu La tác quái.
A tu La có hai loại âm và dương. A Tu La thuộc dương tức là quân đội trên thế gian ; A Tu La thuộc âm là những kẻ trộm cướp bất lương. Phàm là kẻ làm ác giết người đều là A Tu La, hoặc chúng sinh nào thích đấu tranh cũng đều gọi là A Tu La.
Trong loài súc sinh và ngạ quỷ cũng có A Tu La. Tâm sân hận của chúng rất lớn, chúng hổ tương xâm phạm, hổ tương nhiễu loạn, chẳng được yên ổn. Vị Thiên Vương này điều phục được tâm sân hận chuyển thành tâm từ bi. Nếu ai ai cũng có tâm từ bi thì sẽ không có sát sinh, không chiến tranh. Ðó là cảnh giới môn giải thoát vị Thiên Vương này đắc được.
Diệu Luân Trang Nghiêm Tràng Thiên Vương, được môn giải thoát, vô lượng vô biên chư Phật tùy sự nghĩ nhớ mà đến.
Vị Diệu Luân Trang Nghiêm Tràng Thiên Vương, đắc được thân Phật trong mười phương không cách chi tính đếm được, chư Phật tùy sự nghĩ nhớ mà phóng quang, đều đến đạo tràng. Trong Kinh Lăng Nghiêm nói :
‘’ Hiện tiền nhớ Phật niệm Phật,
Tương lai nhất định thấy Phật.’’
Bạn nhớ nghĩ mười phương chư Phật thì mười phương chư Phật cũng nghĩ nhớ bạn. Nếu bạn không nghĩ nhớ chư Phật thì chư Phật cũng không nghĩ nhớ bạn, bất quá đó là một phương diện, cần phải hai phương diện thì mới cảm ứng đạo giao được. Sở cầu của chúng sinh là cảm, Phật và Bồ Tát ban cho là ứng.
Phật thì luôn luôn nghĩ nhớ tất cả chúng sinh, cho nên phát nguyện độ chúng sinh. Nếu Phật không nghĩ nhớ chúng sinh thì không thể phát nguyện độ chúng sinh. Chúng sinh nghĩ nhớ Phật thì nên cúng dường Phật, gần gũi Phật, cung kính Phật, lễ bái Phật, hổ tương nghĩ nhớ thì sẽ có cảm ứng, sẽ tiếp được quang minh của Phật. Ai nghĩ nhớ Phật thì Phật hiện ra trong tâm người đó. Vị Thiên Vương này đắc được môn giải thoát này.
Hoa Quang Huệ Thiên Vương được môn giải thoát, tùy tâm niệm chúng sinh, hiện khắp thành chánh giác.
Vị Hoa Quang Huệ Thiên Vương này, đắc được tùy tâm niệm của chúng sinh mà hiện ra khắp chư Phật, để giáo hóa chúng sinh tu hành tất cả hạnh môn. Tất cả chúng sinh có những tâm niệm gì, Phật đều biết đều thấy, cho nên dùng đủ loại pháp môn để giáo hóa chúng sinh khiến cho thành chánh giác. Chánh giác tức là Vô thượng chánh đẳng chánh giác, tiếng Phạn là A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề. Ðó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Nhân Ðà La Diệu Quang Thiên Vương, được môn giải thoát, pháp tự tại đại oai lực, vào khắp tất cả thế gian.
Nhân Ðà La dịch là “thiên chủ, làm Thiên chủ trên cung trời Ðao Lợi. Trong Kinh A Di Ðà xưng là Thích Ðề Hoàn Nhân, trong Kinh Lăng Nghiêm xưng là Nhân Ðà La Gia. Vị Nhân Ðà La Diệu Quang Thiên Vương này, là Thiên Vương Tha Hóa Tự Tại, vị này đắc được đại oai đức thần thông lực, thâm nhập khắp tất cả thế gian, vì chúng sinh thuyết pháp, và có một thứ pháp tự tại tức là, lúc Phật thuyết pháp thì chẳng có đến đi, pháp được nói ra là vô lượng vô biên. Ðó là môn giải thoát pháp tự tại của vị này đắc được.
Bấy giờ, vị Tự Tại Thiên Vương, nương oai lực của Ðức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Tự Tại Thiên mà nói ra bài kệ.
Ðương lúc đó, vị Tự Tại Thiên Vương này, nương sức thần thông đại oai đức của Ðức Phật, mà quán sát khắp tất cả Thiên chúng trời Tha Hóa Tự Tại, dùng kệ để diễn nói lại những gì đã nói ở trên, khiến cho các Thiên chúng càng hiểu thêm đạo lý Phật pháp.
Thân Phật đến khắp cùng pháp giới
Ứng khắp chúng sinh đều hiện tiền
Ðủ loại giáo môn hóa quần sinh
Tự Tại Thiên Vương ngộ môn này.
“Thân Phật đến khắp cùng pháp giới”. Pháp giới lớn bao nhiêu ? Thì thân Phật lớn bấy nhiêu. Pháp giới nhỏ bao nhiêu thì thân Phật nhỏ bấy nhiêu. Thân Phật và pháp giới đồng nhau. Pháp giới tuy lớn nhưng không hơn thân Phật.
“Ứng khắp chúng sinh đều hiện tiền”. Mỗi chúng sinh đều đắc được quang minh của Phật chiếu đến, đều đắc được Phật thị hiện ở trước họ. Tâm của Phật và tâm chúng sinh có sự cảm ứng. Pháp thân của Phật giống như tấm gương trong sáng, tất cả chúng sinh đều hiển hiện ở trong gương.
“Ðủ loại giáo môn hóa quần sinh”. Phật nói đủ thứ giáo môn, bao quát tất cả Phật giáo và chẳng phải Phật giáo. Tất cả tôn giáo đều bao quát ở trong Phật giáo, chẳng có một tôn giáo nào thoát ra khỏi ngoài phạm vi Phật giáo. Phật luôn luôn giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh phát tâm bồ đề, cầu vô thượng đạo, đắc vô thượng giác.
“Tự Tại Thiên Vương ngộ môn này”. Khiến tất cả chúng sinh ở trong các pháp đắc được tự tại, đắc được giải thoát, đắc được khai ngộ, đắc được trí huệ. Vị Thiên Vương này, đắc được môn giải thoát tự tại khai ngộ, khai ngộ tự tại.
Tất cả dục lạc trong thế gian
Vui Thánh tịch diệt là tối thắng
Trụ ở trong pháp tánh rộng lớn
Diệu Nhãn Thiên Vương quán thấy được.
“Tất cả dục lạc trong thế gian”. Sự khoái lạc trong thế gian là gì ? Người thích uống rượu thì cho rằng uống rượu là sự hưởng thụ khoái lạc nhất của con người. Khi uống rượu thì cảm thấy tự tại, uống say thì cảm thấy không tự tại. Người thích đánh bạc thì cho rằng đánh bạc là thú vui nhất của con người. Khi ăn thì cảm thấy tự tại, còn thua thì cảm thấy không tự tại. Ðó là khổ hay là sướng ? Người thích thi đấu thì cho rằng thắng lợi là sung sướng nhất, nhưng khi thất bại thì không đau khổ chăng ? Tóm lại việc khoái lạc nhất trên thế gian tức là nhân đau khổ nhất.
“Thánh tịch diệt lạc là tối thắng”. Vậy sự khoái lạc nhất là gì ? Tức là khoái lạc xuất thế gian mới là chân chánh khoái lạc, mới là khoái lạc thù thắng, Niết Bàn bốn đức là vui tối thắng nhất.
“Trụ ở trong pháp tính rộng lớn”. Có niềm vui tịch diệt của bậc Thánh này rồi, thì mới trụ ở trong pháp tính rộng lớn chẳng có ngằn mé.
“Diệu Nhãn Thiên Vương quán thấy được”. Vị Diệu Nhãn Thiên Vương quán sát cảnh giới này và đắc được môn giải thoát này.
Như Lai xuất hiện khắp mười phương
Theo tâm chúng sinh mà thuyết pháp
Tất cả nghi hoặc đều dứt trừ
Môn giải thoát này Diệu Tràng chứng.
‘’ Như Lai xuất hiện khắp mười phương.’’ Phật xuất hiện ra đời là đến khắp mười phương pháp giới, do đó : ‘’vô tại vô bất tại, vô sở bất tại.’’ Lại có thể nói tận hư không khắp pháp giới.
‘’ Theo tâm chúng sinhh mà thuyết pháp.’’ Phổ biến ứng khắp căn cơ của chúng sinh, vì họ mà thuyết pháp. Người đáng dùng quyền giáo độ được thì, Phật vì họ mà nói pháp quyền giáo ; người nên dùng thật giáo độ được thì, Phật vì họ mà nói pháp thật giáo. Người căn tính đại thừa thì, Phật vì họ mà nói pháp đại thừa, người căn tính tiểu thừa thì, Phật vì họ mà nói pháp tiểu thừa. Người không gieo căn lành thì, Phật vì họ nói pháp gieo căn lành. Người đã trồng căn lành thì, Phật vì họ nói pháp thành thục căn lành. Người đã thành thục căn lành thì, Phật vì họ mà nói pháp giải thoát. Phật thì quán sát căn tính của chúng sinh để vì họ thuyết pháp.
‘’ Tất cả nghi hoặc đều dứt trừ.’’ Nếu chúng sinh có tâm nghi hoặc, thì Phật vì họ nói pháp, khiến cho họ dứt trừ tất cả nghi hoặc, mà sinh ra tâm chánh tín.
‘’ Môn giải thoát này Diệu Tràng chứng.’’ Diệu Tràng Quan Thiên Vương đắc được môn giải thoát này.
Chư Phật khắp nơi diễn diệu âm
Trong vô lượng kiếp nói diệu pháp
Chỉ dùng một lời diễn nói hết
Dũng Mãnh Huệ Thiên thấy môn này.
‘’ Chư Phật khắp nơi diễn diệu âm.’’ Mười phương chư Phật ở trong khắp mười phương thế giới. Bất cứ trong thế giới nào, cũng đều có chư Phật ở trong đó, diễn nói diệu âm. Diệu âm của chư Phật diễn nói khắp tận cùng hư không khắp pháp giới. Bất cứ có âm thanh hoặc không âm thanh, có hình hoặc không hình, diễn nói hoặc không diễn nói, tất cả hết thảy đều là sự diễn diệu âm của chư Phật. Vào đời Tống, Tô Ðông Pha viếng thăm núi Lư Sơn có làm bài thơ, trong đó có hai câu rằng :
‘’Khê thanh tận thị quảng trường thiệt
Sơn sắc vô phi thanh tịnh thân.’’
Tức là nói âm thanh nước chảy, là Phật đang nói pháp, hình thái màu sắc núi non đâu chẳng phải là thanh tịnh pháp thân của Phật.
Không những “khê thanh” là “quảng trường thiệt” mà tất cả âm thanh trên thế giới đều là tướng lưỡi rộng dài của Phật (âm thanh thuyết pháp), do đó : ‘’ nước chảy, gió thổi ‘’ đều là diễn nói pháp âm, tất cả hình sắc trên thế giới đều là pháp thân của Phật. Lời vi diệu của Phật là vô thuyết vô bất thuyết. Pháp thân của Phật là vô tại vô bất tại. Diệu âm và diệu sắc này, khi chúng sinh thấy được rồi, thì hiểu rõ tức là giác ngộ, nếu không minh bạch thì bị cảnh giới làm mê hoặc, mà không thể giác ngộ. Cho nên nói giác và không giác chỉ ở tại một niệm.
‘’ Trong vô lượng kiếp diễn diệu pháp.’’ Từ vô lượng kiếp đến nay, Phật luôn nói diệu pháp, phổ độ chúng sinh. Ngày ngày nói pháp, thời thời nói pháp chẳng gián đoạn. Ban đầu Phật nói Kinh Hoa Nghiêm trong hai mươi mốt ngày, kế tiếp nói Kinh A Hàm khoảng hai mươi năm. Rồi nói Kinh Phương Ðẳng tám năm, và nói Kinh Bát Nhã hai mươi hai năm. Sau nói Kinh Pháp Hoa tám năm, cuối cùng khi nhập Niết bàn nói Kinh Ðại Bát Niết Bàn. Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm, giảng hơn ba trăm hội, không bao giờ nghỉ ngơi, tinh thần truyền đạo thật là vĩ đại ! Có thể nói trước sau chẳng có ai so sánh được.
‘’ Chỉ dùng một lời diễn nói hết.’’ Tuy nhiên Phật trong vô lượng kiếp thuyết pháp, nhưng pháp này chỉ dùng một lời nói, thì có thể nói hết. Phật trong vô lượng kiếp nói pháp, đó là quyền xảo phương tiện, khiến cho chúng sinh hiểu rõ Phật pháp. Nếu dùng một lời nói mà nói hết các pháp thì, hầu hết chúng sinh sẽ không hiểu. Phật muốn dùng thật giáo để thuyết pháp, nhưng thật giáo là vô pháp khả thuyết (không có cách chi nói được). Nếu vô pháp khả thuyết thì chúng sinh vô pháp khả văn (không cách chi nghe được).
‘’ Dũng mãnh Huệ Thiên thấy môn này.’’ Vị Dũng Mãnh Huệ Thiên Vương đắc được môn giải thoát này.
Tất cả quảng đại từ thế gian
Chẳng bằng một phần của Như Lai
Lòng từ của Phật như hư không
Diệu Âm Thiên Vương ngộ môn này.
‘’Tất cả quảng đại từ thế gian.’’ Tâm từ lớn nhất trong thế gian như cha mẹ đối với con cái, nhưng tâm từ rộng lớn này, không bằng tơ hào tâm từ của Ðức Phật.
‘’Chẳng bằng một phần của Như Lai.’’ Một phần tâm từ của Phật ái hộ chúng sinh, lớn hơn nhiều so với tâm từ của cha mẹ thương con cái. Tâm đại từ của Phật là cứu chúng sinh ra khỏi biển khổ, dù có thể hy sinh tánh mạng của mình. Giống như Bồ tát Ðịa Tạng Vương, Ngài cứu chúng sinh ở trong địa ngục, Ngài phát đại nguyện rằng :
‘’ Ðịa ngục không trống không,
Thề không thành Phật
Chúng sinh độ hết
Mới chứng Bồ đề.’’
Hạnh của Ngài là Bồ Tát đạo, nguyện của Ngài phát ra là cứu chúng sinh. Mười phương chư Phật trong quá khứ vô lượng kiếp đều phát đại nguyện này. Tâm từ của cha mẹ làm sao so sánh với tâm từ của Ðức Phật ? Cha mẹ thương con cái chỉ một đời, còn Phật thì thương chúng sinh nhiều đời. Phật đối với chúng sinh đều có tâm từ bi rộng lớn, vì giáo hóa chúng sinh, mà xả bỏ thân thể của mình, bất cứ nguy hiểm thế nào cũng không từ, nhất định phải cứu chúng sinh, khiến cho họ đắc được an lạc.
‘’ Lòng từ của Phật như hư không.’’ Tâm từ của Phật rộng lớn cỡ nào ? Lớn giống như hư không vô cùng tận, chẳng khi nào hết được.
‘’ Diệu Âm Thiên Vương ngộ môn này.’’ Vị Diệu Âm Cú Thiên Vương hiểu được cảnh giới lòng đại từ của Phật đối với chúng sinh, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Chúng sinh ngã mạn cao như núi
Thập lực phá tan không còn sót
Ðó là bi dụng của Như Lai
Diệu Quang Tràng Vương hành đạo này.
‘’ Chúng sinh ngã mạn cao như núi.’’ Tại sao chúng sinh vẫn là chúng sinh ? Vì có tâm ngã mạn, tức cũng là cống cao ngã mạn. Tâm ngã mạn cao hơn núi Tu Di. Tu hành tức là tiêu diệt tâm ngã mạn, cho nên trong Lục độ có nhẫn nhục Ba La Mật. Bạn nhẫn nhục được thì chẳng có tâm tự kiêu.
‘’ Thập lực phá tan không còn sót.’’ Phải dùng pháp môn thập lực thì, sẽ phá tan tâm ngã mạn của chúng sinh. Thập lực là mười trí huệ lực:
1. Xứ phi xứ trí lực.
2. Tam thế nghiệp báo trí lực.
3. Thiền định giải thoát tam muội trí lực.
4. Các căn thắng liệt trí lực.
5. Chủng chủng giải trí lực.
6. Chủng chủng giới trí lực.
7. Nhất thiết chí xứ đạo trí lực.
8. Thiên nhãn vô ngại trí lực.
9. Túc mạng vô lậu trí lực.
10. Vĩnh đoạn tập khí trí lực.
‘’ Ðây là bi dụng của Như Lai.’’ Ðây là tác dụng đại từ đại bi của Phật, đủ tiêu trừ chướng ngại sự tu đạo của chúng sinh. Chúng ta phải có ý chí kiên nhẫn, phá tan núi ngã mạn.
‘’ Diệu Quang Tràng Vương hành đạo này.’’ Vị Diệu Quang Trang Thiên Vương tu hành pháp môn này mới đắc được môn giải thoát này.
Huệ quang thanh tịnh đầy thế gian
Nếu ai thấy được trừ si tối
Khiến họ thoát khỏi các đường ác
Tịch Tĩnh Thiên Vương ngộ pháp này.
‘’ Huệ quang thanh tịnh đầy thế gian.’’ Trí huệ quang của Phật, là tận hư không khắp pháp giới, do đó : ‘’Phật quang phổ chiếu.’’ Quang minh của Phật không những thanh tịnh mà còn trang nghiêm. Nếu chúng sinh nào bị quang minh của Phật chiếu đến, thì nhất định sẽ khai mở đại trí huệ. Muốn được quang minh của Phật chiếu, thì phải tinh tấn tu hành.
‘’ Nếu ai thấy được trừ si ám.’’ Nếu như người có căn lành lớn, thấy được quang minh của Phật, thì nhất định sẽ tiêu trừ sự đen tối ngu si của họ. Tại sao chúng sinh phải ngu si ? Vì tâm cảnh không chánh đại quang minh, luôn luôn ích kỷ tư lợi, chỉ nghĩ lợi ích cho cá nhân mình, cho nên vô minh càng ngày càng đen tối, càng đen tối thì càng ngu si, càng ngu si thì càng đen tối. Trong sách Luận Ngữ có câu :
“Những gì mình không muốn,
Ðừng bố thí cho người khác”.
Nghĩa là việc gì mình không muốn, thì đừng gây tổn hại đến người khác, khiến cho họ sinh phiền não, do đó :‘’Suy bụng ta ra bụng người ’’, đó là đạo lý nhà Nho, cũng là nhân sinh quan tiêu cực. Phật giáo đề xướng từ bi, tức cũng là nhân sinh quan tích cực. Ðáng tiếc một số Phật tử hiểu lầm ngã Phật chân thật nghĩa, chuyên vì chính mình mà không đếm xỉa gì đến kẻ khác, cách xa tư tưởng Bồ Tát mười vạn tám ngàn dặm, nếu không hồi đầu thì càng đi càng xa.
‘’ Khiến họ thoát khỏi các đường ác.’’ Phật khiến tất cả chúng sinh đều thoát khỏi đường A tu la, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục. Tóm lại thoát khỏi sáu nẻo luân hồi, liễu sinh thoát tử, lìa khổ được vui, đạt đến Niết bàn.
Tịch Tĩnh Thiên Vương ngộ pháp này.’’ Vị Tịch Tĩnh Thiên Vương minh bạch pháp môn này.
Lỗ lông phóng quang diễn diệu pháp
Số chúng sinh đồng danh hiệu Phật
Tùy theo sở thích đều được nghe
Diệu Luân Tràng Vương được môn này.
‘’ Lỗ lông phóng quang diễn diệu pháp.’’ Lỗ chân lông trên thân của Phật, đều phóng đại quang minh, không những phóng quang minh, mà mỗi chân lông đều diễn nói tất cả diệu pháp.
‘’ Số chúng sinh đồng danh hiệu Phật.’’ Chúng sinh có bao nhiêu thì danh hiệu Phật có bấy nhiêu. Vì chúng sinh đều có Phật tính đều sẽ thành Phật. Thành Phật thì có danh hiệu Phật.
‘’ Tùy theo sở thích đều được nghe.’’ Tùy theo căn tính chúng sinh đều nghe được diệu pháp của Phật nói.
‘’ Diệu Luân Tràng Vương được môn này.’’ Ðây là môn giải thoát của vị Diệu Luân Tràng Thiên Vương đắc được.
Như Lai tự tại không thể lường
Hư không pháp giới đều đầy khắp
Tất cả chúng hội đều thấy rõ
Môn giải thoát này Hoa Huệ chứng.
‘’ Như Lai tự tại không thể lường.’’ Sức đại thần thông của Phật diệu không thể nói, tức là không thể suy nghĩ, không thể luận bàn, không cách chi trắc lượng, chẳng có bờ mé.
‘’ Hư không pháp giới đều đầy khắp.’’ Sức đại thần thông của Phật sung mãn pháp giới, sung mãn hư không, cho nên nói không thể lường.
‘’ Tất cả chúng hội đều thấy rõ.’’ Sức đại thần thông của Phật ở trong mười phương thế giới, phàm là chỗ nào có pháp hội thì, tất cả chúng sinh nhìn thấy thần lực của Phật rõ ràng, trong suốt không có gì chướng ngại. Khi Phật thuyết pháp thì, phóng quang hoặc là địa chấn. Phóng quang là từ : giữa lông mày, miệng, đầu gối, chân .v.v… Ðịa chấn thì có : chấn, hống, kích, động, dũng, khởi sáu thứ, đó là thần thông lực.
‘’ Môn giải thoát này Hoa Huệ chứng.’’ Cảnh giới môn giải thoát này vị Hoa Quang Huệ Thiên Vương đắc được.
Vô lượng vô biên biển đại kiếp
Hiện khắp mười phương mà thuyết pháp
Chưa từng thấy Phật có đến đi
Diệu Quang Thiên Vương ngộ môn này.
‘’ Vô lượng vô biên biển đại kiếp.’’ Phật ở trong vô lượng vô biên biển đại kiếp, thuyết pháp không ngừng nghỉ, đến khắp nơi phổ độ giáo hóa chúng sinh.
‘’ Hiện khắp mười phương mà thuyết pháp.’’ Phật hiện khắp trong mười phương thế giới, mà vì chúng sinh thuyết pháp. Có khi ‘’đảo giá từ thuyền ‘’ trở lại cõi chúng sinh mà vì chúng sinh thuyết pháp.
‘’ Chưa từng thấy Phật có đến đi.’’ Phật tuy nhiên hiện khắp trong mười phương mà thuyết pháp, nhưng chẳng nhìn thấy Phật đi đến mười phương, cũng chẳng thấy Phật từ mười phương đến. Nghĩa như thế nào ? Cũng giống như mặt trăng hiện ở trong tất cả nước, mặt trăng trong tất cả nước, đều do mặt trăng trong hư không hiện ra. Mặt trăng vốn có tuy nhiên chiếu sáng ở trong nước, nhưng mặt trăng vốn có chẳng động. Mặt trăng trong nước là phản ảnh ánh sáng mặt trăng vốn có mà thành, cho nên gốc chẳng động mà không đến đi.
Ðức Phật giống như mặt trăng sáng, chiếu khắp mười phương mà không đến đi, trong tâm của chúng ta nếu thanh tịnh, thì quang minh của Phật xuất hiện, nếu dơ đục thì quang minh của Phật sẽ không hiện. Tu đạo tức là tu tâm, làm cho thanh tịnh, một bụi trần không nhiễm, một niệm không sinh, lúc này thì quang minh của Phật sẽ hiện tiền.
‘’ Diệu Quang Thiên Vương ngộ môn này.’’ Môn giải thoát này vị Diệu Quang Thiên Vương đắc được.
Lại nữa, Thiện Hóa Thiên Vương được môn giải thoát, khai thị tất cả nghiệp lực biến hóa.
Ở trên đã giải thích xong những bài kệ và môn giải thoát của mười vị Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương. Bây giờ giải thích kệ tụng tán thán công đức của Phật và các môn giải thoát đắc được của mười vị Hóa Lạc Thiên Vương.
Vị Thiện Hóa Thiên Vương này là Thiên Vương từng trời thứ năm thuộc về dục giới. Vị này khiến cho chúng sinh bỏ mê về giác, lìa khổ được vui, phá vô minh, hiển pháp tính. Vì chúng sinh vô minh cho nên sinh ra mê hoặc. Do đó : ‘’Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo.’’ Hiểu rõ thì tạo nghiệp lành, mê hoặc thì tạo nghiệp ác. Tạo nghiệp lành thì thọ quả báo lành, tạo nghiệp ác thì thọ quả báo ác.
Nghiệp phân ra làm ba thứ :
1. Nghiệp thiện : Bạn tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ, đó là lục độ vạn hạnh, lợi ích chúng sinh đó là nghiệp thiện.
2. Nghiệp ác : Bạn không tu lục độ vạn hạnh, không lợi ích chúng sinh, chuyên làm việc tổn hại người lợi mình, đó là nghiệp ác.
3. Nghiệp thiện ác hỗn tạp : Tạo nghiệp thiện thì có thể sinh về cõi trời, tạo nghiệp ác thì có thể đọa vào địa ngục. Nếu tạo nửa nghiệp thiện nửa nghiệp ác thì có thể làm người, cũng có thể làm súc sinh. Thiện nhiều ác ít thì gặp thuận cảnh, nếu ác nhiều thiện ít thì gặp nghịch cảnh, cho nên nếu chúng ta :‘’đừng làm các điều ác, mà làm các điều thiện‘’, thì sẽ dứt sạch nghiệp ác, tăng trưởng nghiệp thiện, như thế thì sẽ đắc được giải thoát.
Vị Thiên Vương này dùng đủ thứ ngôn ngữ văn tự, để nói rõ về lý thiện ác, khiến cho chúng sinh biết nghiệp thiện và nghiệp ác, đều hổ tương biến hóa. Nếu trong thiện có ác, thì quả báo đắc được cũng có tốt có sấu. Nếu trong ác có thiện thì quả báo đắc được cũng có khổ có vui. Ðó là sức lực hổ tương biến hóa. Tóm lại, trồng nhân gì thì kết quả đó. Trồng nhân thiện thì kết quả tốt, trồng nhân ác thì kết quả xấu, đó là môn giải thoát của vị Thiên Vương này đắc được.
Tịch Tĩnh Âm Quang Minh Thiên Vương, được môn giải thoát, lìa bỏ tất cả sự phan duyên.
Vị Tịch Tĩnh Âm Quang Minh Thiên Vương đắc được môn giải thoát, xả lìa tất cả phan duyên. Một số chúng sinh thường có đủ thứ tâm phan duyên. Phan duyên là gì ? Tức là muốn được lợi ích, dùng đủ thứ thủ đoạn để phan duyên, đó là vì danh mà phan duyên. Nếu khiến được sáu căn không phan duyên với sáu trần, thì tâm sẽ thanh tịnh. Trên thế giới này có hai loại người, một là vì danh mà phan duyên, một là vì lợi mà phan duyên. Cầu danh thì chết về danh, chết ở trong lửa, cầu lợi thì chết về lợi, chết ở trong nước. Danh thuộc về lửa, lợi thuộc về nước. Kẻ vì danh lợi mà phan duyên, thì không bị lửa thiêu chết thì cũng bị chết vì nước. Vị Thiên Vương này buông xả hết tâm phan duyên, đắc được môn giải thoát tự tại.
Biến Hóa Lực Quang Minh Thiên Vương được môn giải thoát, diệt trừ tâm si tối của tất cả chúng sinh, khiến cho họ được trí huệ viên mãn.
Vị Biến Hóa Lực Quang Minh Thiên Vương này, khiến cho tất cả chúng sinh tiêu diệt tâm ngu si đen tối, khiến cho trí huệ của tất cả chúng sinh đều viên mãn. Tại sao có tâm si ám ? Vì không có trí huệ. Vị Thiên Vương này, khiến cho chúng sinh tu tập Bát Nhã. Bát Nhã càng ngày càng tăng trưởng thì, đen tối càng ngày càng tiêu diệt. Như vậy thì trí huệ sẽ viên mãn, viên mãn tức là giác ngộ, giác ngộ tức là giải thoát. Ðó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Trang Nghiêm Chủ Thiên Vương được môn giải thoát, thị hiện vô biên âm thanh vừa ý.
Vị Trang Nghiêm Chủ Thiên Vương này do thanh trần mà ngộ đạo. Âm thanh của vị này phát ra, khiến cho chúng sinh nghe được đều sinh vui mừng, không những khiến cho chúng sinh vui mừng mà cũng khiến cho chúng sinh được giải thoát, đó là môn giải thoát thị hiện vô biên âm thanh vừa ý của vị này đắc được.
Niệm Quang Thiên Vương được môn giải thoát, biết rõ vô tận tướng phước đức của tất cả chư Phật.
Vị Niệm Quang Thiên Vương minh bạch vô tận phước đức tướng, của tất cả chư Phật trong mười phương ba đời. Ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp của Phật, đều là do lúc ở tại nhân địa thì, Phật tu từng chút từng chút mà thành, tích lũy từng chút từng chút, cho nên tu thành vô tận phước và vô tận đức, mới đắc được tướng tốt như vậy để trang nghiêm thân, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Tối Thượng Vân Âm Thiên Vương, được môn giải thoát, biết hết tất cả kiếp, thứ tự thành hoại trong quá khứ.
Vị Vân Âm Thiên Vương này đắc được cảnh giới không gì mà chẳng biết. Trong quá khứ vô lượng vô biên kiếp thứ tự thành trụ hoại không. Kiếp nào thành, kiếp nào trụ, kiếp nào hoại, kiếp nào không, vị này đều biết. Biết rõ kiếp nào trước kiếp nào sau. Thời đại chúng ta bây giờ gọi là kiếp Hiền, quá khứ gọi là kiếp Trang Nghiêm, vị lai gọi là kiếp Tinh Tú. Kiếp hiện tại sẽ có một ngàn vị Thánh hiền nhân xuất hiện ra đời. Phật Thích Ca Mâu Ni là vị Thánh hiền nhân thứ tư. Tương lai vị Thánh hiền nhân thứ năm là Bồ tát Di Lặc. Ðó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Thắng Quang Thiên Vương, được môn giải thoát, khai ngộ trí huệ của tất cả chúng sinh.
Vị Thắng Quang Thiên Vương này, thắng hơn tất cả quang minh của Thiên Vương, vị này đắc được khai ngộ tất cả trí huệ tất cả chúng sinh. Trong sự khai ngộ bao quát : khai Phật tri kiến, thị Phật tri kiến, ngộ Phật tri kiến và nhập Phật tri kiến bốn thứ. Khai ngộ tất cả chúng sinh trí, tức là khai ngộ tất cả chúng sinh, khiến cho họ đắc được bốn thứ tri kiến, cho nên gọi là nhất thiết trí. Nhất thiết trí tức là Phật trí, đó là môn giải thoát của vị Thiên Vương này.
Diệu Kế Thiên Vương, được môn giải thoát, phóng quang chiếu đầy khắp cõi hư không trong mười phương.
Vị Diệu Kế Thiên Vương này, đắc được một môn giải thoát đó là, phóng quang chiếu sáng mười phương, tận hư không khắp pháp giới, không chỗ nào mà không chiếu, không chỗ nào mà không có. Cho nên quang minh của vị này phóng ra sung mãn tất cả cõi hư không, đó là môn giải thoát của vị Thiên Vương này đắc được.
Hỷ Huệ Thiên Vương được môn giải thoát, sức tinh tấn tất cả việc làm không ai phá hoại được.
Vị Hỷ Huệ Thiên Vương hoan hỷ có đại trí huệ. Vị này đắc được tất cả việc thiện, chẳng có ai phá hoại được. Tất cả công đức của vị này làm, cũng chẳng có ai phá hoại được. Ðạo nghiệp của vị này tu, cũng chẳng có ai phá hoại được. Vị này lại có sức tinh tấn, càng tu càng tinh tấn, càng tinh tấn càng phát tâm, càng làm việc thiện càng thích làm, càng tu công đức càng thích tu, luôn luôn tu hành, luôn luôn tinh tấn, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Hoa Quang Kế Thiên Vương, được môn giải thoát, biết nghiệp thọ báo của tất cả chúng sinh.
Vị Hoa Quang Kế Thiên Vương đắc được cảnh giới, biết sự tạo nghiệp, sự thọ báo của tất cả chúng sinh tơ hào cũng không sai. Tạo nghiệp sát sinh thì thọ quả báo sát sinh, tạo nghiệp trộm cắp thì thọ quả báo trộm cắp, tạo nghiệp dâm thì thọ quả báo dâm, tạo nghiệp vọng ngữ thì thọ quả báo vọng ngữ, đó là môn giải thoát của vị Thiên Vương này đắc được.
Phổ Kiến Thập Phương Thiên Vương, được môn giải thoát, thị hiện thân hình đủ loại chúng sinh, khác biệt không nghĩ bàn.
Vị Phổ Kiến Thập Phương Thiên Vương, đắc được cảnh giới, thị hiện đủ loại hình chúng sinh. Mỗi loài chúng sinh, đều có hình khác nhau của mỗi loài, chẳng giống nhau, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Bấy giờ, Thiện Hóa Thiên Vương, nương oai lực của đức Phật, quán khắp tất cả chúng Thiện Hóa Thiên, mà nói ra bài kệ.
Vừa lúc Phổ Kiến Thập Phương Thiên Vương nói xong, thì lúc bấy giờ vị Thiện Hóa Thiên Vương nương thần lực của Phật, quán sát khắp tất cả Thiên chúng Thiện Hóa Thiên (Hoá Lạc Thiên) mà nói bài kệ này, khiến cho Thiên chúng minh bạch nghĩa lý Phật pháp.
Tánh nghiệp thế gian không nghĩ bàn
Phật vì quần mê mà khai thị
Khéo nói nhân duyên lý chân thật
Tất cả chúng sinh nghiệp khác nhau.
‘’ Tánh nghiệp thế gian không nghĩ bàn.’’ Tánh nghiệp thế gian vi diệu vô cùng không thể nghĩ bàn.
‘’ Phật vì quần mê mà khai thị.’’ Phật vì tất cả quần mê chúng sinh trên thế gian, mà khai thị nhân duyên không thể nghĩ bàn.
‘
’ Khéo nói nhân duyên lý chân thật.’’ Phật khéo dùng thiện xảo phương tiện, diễn nói nghĩa lý chân thật nhân duyên sinh diệt với nhau.
‘’ Tất cả chúng sinh nghiệp khác nhau.’’ Chúng sinh khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, mỗi người đều khác nhau.
Các môn quán Phật không chỗ có
Tìm khắp mười phương không thể được
Pháp thân thị hiện không chân thật
Tịch Tĩnh Âm Thiên thấy môn này.
‘’ Các môn quán Phật không chỗ có.’’ Chúng sinh muốn quán pháp thân của Phật, dùng hết đủ loại phương pháp cũng không nhìn thấy Phật. Vậy nhìn không thấy Phật, phải chăng không có Phật ? Không phải. Giống như chúng ta nhìn hư không, nhìn thấy hư không chăng ? Không thấy. Vì hư không chẳng có hình tướng, nhìn không thấy hư không, mà dùng đủ thứ phương pháp để xem hư không ra sao ? Kết quả vẫn nhìn chẳng thấy, nếu nhìn thấy thì chẳng phải là hư không.
Pháp thân Phật cũng thế. Bạn nhìn không thấy hư không, nhưng không thể nói là chẳng có hư không. Bạn nhìn không thấy Phật, nhưng không thể nói là chẳng có Phật, đó là đạo lý tương đồng.
‘’ Tìm khắp mười phương không thể được.’’ Muốn đến mười phương để tìm Phật, chẳng thể được vì pháp thân Phật là vô tại vô bất tại.
‘’ Pháp thân thị hiện không chân thật.’’ Pháp thân của Phật như hư không. Chỗ nào có hư không thì chỗ đó có pháp thân Phật tồn tại, cho nên nói pháp thân không có tánh chân thật.
‘’ Tịch Tĩnh Âm Thiên thấy môn này.’’ Vị Tịch Tĩnh Âm Quang Minh Thiên Vương thấy được, hiểu được môn giải thoát này.
Phật trong biển kiếp tu các hạnh
Vì diệt si tối hoặc thế gian
Trí huệ thanh tịnh chiếu sáng nhất
Lực Quang Thiên Vương ngộ môn này.
‘’ Phật trong biển kiếp tu các hạnh.’’ Mỗi vị Phật đều ở trong vô lượng biển kiếp mà tu thành, cho nên tất cả chư Phật đều siêu việt hơn người. Vì tâm nhẫn nại của Phật lớn nhất, bất cứ gặp việc gì cũng đều nhẫn nhục được, nhẫn được những gì người khác không thể nhẫn. Bất cứ gặp việc gì cũng đều khiêm nhường, nhường những gì người khác không thể nhường. Bất cứ gặp việc gì cũng đều chịu được, chịu những gì người khác không thể chịu được. Phật tu đủ thứ hạnh môn như vậy, đều tu hành viên mãn.
Phật có đại nhẫn nhục, đại khiêm nhường, đại chịu đựng, đều do tu tập các hạnh mà được. Phật đại bố thí, đại trì giới, đại nhẫn nhục, đại tinh tấn, đại thiền định, đại Bát nhã cũng do tu các hạnh mà được.
‘’ Vì diệt si tối hoặc thế gian.’’ Tại sao Phật phải tu các hạnh ? Vì muốn diệt trừ tất cả : vô minh, ngu si, đen tối của chúng sinh thế gian. Vô minh sinh ra tức là ngu si. Ngu si tức là đen tối. Phải diệt sạch si, ám, hoặc thì sẽ đắc được đại quang minh tạng.
‘’ Trí huệ thanh tịnh chiếu sáng nhất.’’ Trí huệ của Phật thanh tịnh nhất, chiếu khắp tất cả quang minh, khiến tất cả chúng sinh dứt sạch si ám hoặc, cũng đắc được trí huệ quang minh.
‘’ Lực Quang Thiên Vương ngộ môn này.’’ Cảnh giới này vị Biến Hóa Lực Quang Minh Thiên Vương ngộ được.
Tất cả diệu âm thanh thế gian
Không thể sánh được tiếng Như Lai
Phật dùng một âm khắp mười phương
Trang Nghiêm Thiên Vương chứng môn này.
‘’ Tất cả diệu âm thanh thế gian.’’ Trong thế gian có nhiều âm thanh hay, ai ai cũng đều thích nghe, nghe rồi thì sinh tâm mê hoặc. Do đó Lão Tử có nói : ‘’
Ngũ sắc khiến cho người mờ mắt,
Ngũ âm khiến cho người tai điếc,
Ngũ vị khiến người miệng lầm lỡ.’’
Ngũ sắc: Tức là xanh, vàng, đỏ, trắng, đen. Ngũ sắc này hổ tương tạp loạn, khiến cho con mắt phân biệt không rõ ràng cứu kính là màu gì ? Giống như người mắt mờ, cho nên nói năm màu làm cho người mờ mắt.
Ngũ âm : Tức là cung, thương, giác, chủy, vũ. Năm âm thanh này êm tai vô cùng, làm cho người nghe rồi sinh mê hoặc, bị ngũ âm mê hoặc rồi thì chẳng có trí huệ. Người chẳng có trí huệ thì sẽ làm việc điên đảo, cho nên nói ngũ âm khiến cho người tai điếc.
Ngũ vị : Tức là ngọt, mặn, đắng, chua, cay. Năm vị này điều hòa hợp khẩu vị, khiến cho người thích ăn, càng thích ăn thì càng ăn, khiến cho chân chánh trí huệ của con người bị mê hoặc, cho nên nói ngũ vị khiến cho người miệng lầm lỡ.
‘’ Không thể sánh được tiếng Như Lai.’’ Bất cứ âm thanh gì trên thế gian, đều không thể sánh với âm thanh của Ðức Phật. Âm thanh của Phật là hay nhất, biến hóa vô cùng, bất cứ một loài chúng sinh nào nghe cũng đều hiểu được.
‘’ Phật dùng một âm khắp mười phương.’’ Phật dùng một thứ âm thanh thuyết pháp, mà mười phương thế giới đều nghe được diệu âm này, không những nghe được mà còn hiểu được nghĩa lý pháp của Phật nói.
‘’ Trang Nghiêm Thiên Vương chứng môn này.’’ Vị Trang Nghiêm Chủ Thiên Vương được cảnh giới môn giải thoát này.
Tất cả phước báu của thế gian
Không bằng một tướng của Như Lai
Phước đức Như Lai đồng hư không
Niệm Quang Thiên Vương quán sát thấy.
‘’ Tất cả phước báu của thế gian.’’ Tại sao chúng ta thọ khổ ? Vì chúng ta chẳng tu phước. Tại sao Phật không khổ ? Vì Phật tu phước tu huệ trong ba đại A tăng kỳ kiếp. Do đó :
‘’ Chịu khổ thì hết khổ,
Hưởng phước thì hết phước.’’
Phước là do tích lũy từng chút từng chút mà thành. Chúng ta luôn luôn làm lợi ích cho người là tu phước, luôn luôn giúp đỡ người là tu phước, luôn luôn không ích kỷ là tu phước, luôn luôn không tư lợi là tu phước. Tóm lại luôn luôn phải vun bồi tu phước.
‘’ Chẳng bằng một tướng của Như Lai.’’ Tất cả phước báu của thế gian, không thể so sánh bất cứ một tướng nào, trong ba mươi hai tướng của Phật. Do đó :
‘’ Ba Tăng kỳ tu phước huệ,
Trăm kiếp trồng tướng tốt.’’
Khi Ðức Phật tại nhân địa thì, dù phước rất nhỏ cũng phải tu, không bỏ qua, thời gian trải qua ba đại A tăng kỳ tu hành, mới đắc được ba mươi hai tướng tốt.
‘’ Phước đức Như Lai đồng hư không.’’ Phước đức của Phật vô lượng vô biên giống như hư không.
‘’ Niệm Quang Thiên Vương quán sát thấy.’’ Cảnh giới này vị Niệm Quang Thiên Vương quán sát thấy được, và hiểu được đạo lý này.
Tất cả vô lượng kiếp ba đời
Như thành trụ hoại không các tướng
Một lỗ lông Phật đều hiện được
Tối Thượng Vân Âm biết rõ hết.
‘’ Tất cả vô lượng kiếp ba đời.’’ Trong đời quá khứ có vô lượng kiếp, trong đời hiện tại có vô lượng kiếp, trong đời vị lai có vô lượng kiếp. Ba đời có vô lượng số đại kiếp.
‘’ Như thành trụ hoại không các tướng.’’ Như kiếp : thành, trụ, hoại, không. Tướng kiếp thành là gì ? Tướng kiếp trụ, tướng kiếp hoại, tướng kiếp không là gì ?
Một lỗ lông Phật đều hiện được.’’ Tướng bốn kiếp này, trong một lỗ lông của Phật, đều hiện ra được, có thể lấy quá khứ đem về hiện tại, lại có thể lấy vị lai đem về hiện tại, lại có thể lấy hiện tại đem về quá khứ hoặc vị lai, lấy quá khứ đem về vị lai, lấy vị lai đem về quá khứ, hổ tương biến hóa vô cùng.
‘’ Tối Thượng Vân Âm biết rõ hết.’’ Trong lỗ lông của Phật hiện ra đủ loại cảnh giới, đó là cảnh giới giải thoát vị Tối Thượng Vân Âm Thiên Vương thấy và hiểu tường tận.
Mười phương hư không có thể lường
Nhưng không thể lường lỗ lông Phật
Như vậy vô ngại không nghĩ bàn
Diệu Kế Thiên Vương ngộ môn này.
‘’ Mười phương hư không có thể lường.’’ Hư không là vô tận vô biên, bổn lai không thể biết lượng rộng lớn của nó. Bây giờ thì cho rằng có thể biết lượng của hư không.
‘’ Nhưng không thể lường lỗ lông Phật.’’ Tuy nhiên biết được lượng của mười phương hư không, nhưng lượng lỗ lông của Phật không biết được, cũng không thể hiểu được.
‘’ Như vậy vô ngại không nghĩ bàn.’’ Lượng hư không có thể biết, nhưng lượng lỗ lông của Phật không cách chi biết được. Tại sao ? Vì lỗ lông của Phật dung nạp được vô lượng hư không. Mười phương hư không đều bao quát ở trong một lỗ chân lông của Phật, đó là cảnh giới viên dung vô ngại không thể nghĩ bàn.
‘’ Diệu Kế Thiên Vương ngộ môn này.’’ Ðây là cảnh giới giải thoát của vị Diệu Kế Thiên Vương minh bạch được.
Phật trong vô lượng kiếp xa xưa
Tu đủ các pháp Ba la mật
Siêng hành tinh tấn không biếng lười
Hỷ Huệ biết được pháp môn này.
‘’ Phật trong vô lượng kiếp xa xưa.’’ Phật ở trong vô kiếp quá khứ xa xưa, tu các pháp môn Ba la mật.
‘’ Tu đủ các pháp Ba la mật.’’ Phật rộng tu đầy đủ viên mãn các pháp Ba la mật. Ba la mật dịch là “đáo bỉ ngạn” (đến bờ kia). Pháp Ba la mật rộng lớn này, từ Ba la mật nhỏ mà hạ thủ công phu, tích lũy từng chút từng chút mà thành. Ba la mật nhỏ tu nhiều rồi thì thành Ba la mật rộng lớn.
‘’ Siêng hành tinh tấn không biếng lười.’’ Phật tu pháp Ba la mật thì, không màng lớn nhỏ hoặc cao thấp đều tu hết, tức là pháp vi tế nhất cũng tu, tuyệt đối không bỏ qua. Phật tu lục độ Ba la mật thì, rất cẩn thận mà nhận chân, ‘’ không chê việc thiện nhỏ mà không làm, còn việc ác dù nhỏ cũng không làm.’’ Như thế trải qua thời gian dài lâu, mới tu đầy đủ các pháp Ba la mật, tức cũng là pháp đến bờ bên kia. Phật tu hành thì luôn luôn không giải đãi lười biếng, luôn luôn tinh tấn.
‘’ Hỷ Huệ biết được pháp môn này.’’ Hỷ Huệ Thiên Vương biết rõ ràng Ðức Phật tu pháp môn này.
Nhân duyên tánh nghiệp không nghĩ bàn
Phật vì thế gian mà diễn nói
Pháp tánh vốn sạch không dơ bẩn
Môn này Hoa Quang thấu triệt được.
‘’ Nhân duyên tánh nghiệp không nghĩ bàn.’’ Tánh của ghiệp vốn chẳng có, vì chúng sinh vô minh cho nên sinh ra hoặc, hoặc sinh ra rồi thì tạo nghiệp. Khi hiểu biết thì tạo nghiệp thiện ; khi hồ đồ thì tạo nghiệp ác. Tạo nghiệp thiện thì có nhân duyên thiện ; tạo nghiệp ác thì có nhân duyên ác. Như vậy chẳng có pháp nhất định, không thể nói nhất định là như vầy, cũng không thể suy lường, chẳng phải một số người minh bạch được.
‘’ Phật vì thế gian mà diễn nói.’’ Phật vì tất cả chúng sinh thế gian, cho nên thường nói pháp nhân duyên tánh của nghiệp. Khiến cho chúng sinh minh bạch nguồn gốc tánh của nghiệp, nhân duyên gì thì sinh tánh nghiệp đó.
‘’ Pháp tánh vốn sạch không dơ bẩn.’’ Bất cứ pháp gì, bản tính của nó đều thanh tịnh, chẳng có dơ bẩn.
‘’ Môn này Hoa Quang thấu triệt được.’’ Hoa Quang Kế Thiên Vương, do cảnh giới này mà ngộ nhập đắc được môn giải thoát này.
Hãy quán một lỗ lông của Phật
Tất cả chúng sinh đều ở trong
Ðó đây không đến cũng không đi
Phổ Kiến Thiên Vương ngộ môn này.
‘’ Hãy quán một lỗ lông của Phật.’’ Bạn hãy quán sát kỹ càng trong mỗi lỗ chân lông của Phật có những gì ?
‘’ Tất cả chúng sinh đều ở trong.’’ Chỉ cần quán sát kỹ thì, sẽ thấy tất cả chúng sinh, đều ở trong lỗ lông của Phật, đó là đạo lý gì ?
‘’ Ðó đây không đến cũng không đi.’’ Chúng sinh cũng không đến trong lỗ chân lông Phật, Phật cũng chẳng đi bên cạnh chúng sinh. Nhưng chúng sinh đều xuất hiện ở trong lỗ lông của Phật, đó là cảnh giới không thể nghĩ bàn.
Phật cũng chẳng đến, chúng sinh cũng chẳng đến ; Phật cũng chẳng đi, chúng sinh cũng chẳng đi, nhưng cảnh giới này xuất hiện, cho nên nói đó đây chẳng đến cũng chẳng đi.
‘’ Phổ Kiến Thiên Vương ngộ môn này.’’ Cảnh giới này Phổ Kiến Thiên Vương thấy rõ mà đắc được môn giải thoát không thể nghĩ bàn này.
Lại nữa, Tri Túc Thiên Vương, được môn giải thoát, tất cả chư Phật xuất hiện ra đời, đều chuyển bánh xe pháp giáo lý viên mãn.
Vị Tri Túc Thiên Vương này thuộc về từng trời thứ tư (trời Ðâu Xuất) của dục giới, vị này biết tri túc cho nên thường an lạc. Không tri túc thì luôn luôn khổ. Như Bồ Tát Di Lặc, Ngài thường tri túc cho nên Ngài luôn luôn hoan hỷ, mở miệng liền cười chẳng có sầu lo. Do đó :‘’ tâm rộng thể mập‘’, tôn dung của Ngài đầu to tai lớn, mặt đầy sự hoan hỷ vui cười, bụng to lớn, chịu đựng được những việc thiên hạ không thể chịu đựng được. Bất cứ ai biết tri túc thì dù nghèo cũng an vui. Nay có bài thơ tả về sự không biết đủ :
‘’ Suốt ngày bận rộn chỉ vì đói
Vừa mới ăn no nghĩ áo quần
Cơm áo hai thứ đều đầy đủ
Lại mơ dung nhan người vợ đẹp
Hỏi được vợ đẹp sinh con cái
Hận không ruộng vườn ít đất đai
Tậu được nhiều ruộng lắm đất đai
Ra vào không kiệu chẳng ngựa cưỡi
Mua được một số lừa và ngựa
Lại than chẳng được làm quan bị người khinh
Ðược làm quan huyện hiềm còn nhỏ
Lại muốn làm vua trong thiên hạ.’’
Ðó là hình dung của người tham lam không biết chán. Không bao giờ biết đủ.
Vị Thiên Vương này đắc được môn giải thoát : tất cả chư Phật trong mười phương ba đời, xuất hiện ra đời chuyển pháp luân giáo lý viên mãn.
Giáo lý viên mãn là gì ? Căn cứ theo Hiền Thủ Giáo thì phân làm : Tiểu giáo, thủy giáo, chung giáo, đốn giáo, viên giáo. Tiểu, thủy, chung ba giáo này là bán tự giáo. Ðốn, viên hai giáo này là viên mãn giáo. Căn cứ theo Thiên Thai Giáo thì phân làm tạng giáo, thông giáo, biệt giáo, viên giáo. Tạng, thông hai giáo này là bán tự giáo, biệt giáo là đối với bán tự giáo nói rõ mãn tự giáo, viên giáo là mãn tự giáo. Thiên Thai Giáo còn có đốn, tiệm, bí mật, bất định bốn giáo, đây là thuộc về bất viên giáo.
Những gì nói bây giờ là giáo lý viên mãn tức là viên giáo. Chuyển bánh xe pháp giáo lý viên mãn, tức là pháp đại thừa. Kinh điển đại thừa là gì ? Như : Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Niết Bàn, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Lăng Già, Kinh Kim Cang, Kinh Di Ðà .v.v., đều là pháp đại thừa. Vị Thiên Vương này đắc được môn giải thoát chuyển bánh xe pháp giáo lý viên mãn.
Hỷ Lạc Hải Kế Thiên Vương, được môn giải thoát, thân thanh tịnh quang minh tận cõi hư không.
Vị Hỷ Lạc Hải Kế Thiên Vương này hoan hỷ và khoái lạc phi thường. Vị này đắc được cảnh giới, trí huệ thân thanh tịnh quang minh, tận cõi hư không, và còn hiểu được pháp thân của Phật, tận hư không khắp pháp giới, quang minh chiếu sáng khắp tất cả.
Tối Thắng Công Ðức Tràng Thiên Vương, được môn giải thoát, biển nguyện thanh tịnh, tiêu diệt khổ của thế gian.
Vị Tối Thắng Công Ðức Tràng Thiên Vương này đầy đủ công đức thù thắng nhất, giống như tràng báu cho nên được tên này.
Khổ thế gian có ba sự khổ, tám sự khổ, vô lượng sự khổ, những sự khổ này không dễ gì tiêu diệt được. Nhưng vị Thiên Vương này tiêu diệt được những sự khổ này, còn phát nguyện thanh tịnh nhiều như nước trong biển, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Nay giải thích ba sự khổ, tám sự khổ và vô lượng sự khổ. Ba sự khổ tức là khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.
1. Khổ khổ: Là khổ của người nghèo. Tuy nhiên ăn không được no, mặc không đủ ấm, nhưng vẫn có nhà để ở, một ngày nọ chẳng may bị cháy, không nhà để ở, đó là sự khổ trong sự khổ.
2. Hoại khổ: Là khổ của người giàu. Buôn bán chẳng may bị thua lỗ, hoặc nhà cửa bị cháy, tài sản bị cháy sạch, hoặc bị trộm cướp, tất cả đều mất hết, đó là khổ về sự hủy hoại.
3. Hành khổ: Chẳng phải khổ khổ của người nghèo, cũng chẳng phải hoại khổ của kẻ giàu, mà là khổ về sinh già bệnh chết của con người. Là con người đến lúc thì sinh già bệnh chết đều đến để tìm phiền não, chính mình chẳng làm chủ được, đó là hành khổ.
Tám sự khổ là sinh, già, bệnh, chết, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thạnh.
1. Khổ về sinh : Sinh khổ như thế nào ? Khi sinh ra thì giống như rùa bị lột mu, sự khổ không thể nói được.
2. Khổ về già : Về già thì tai điếc, mắt mù, tay chân yếu ớt, bạn nói khổ chăng ?
3. Khổ về bệnh : Bệnh thì toàn thân đau khổ, không tự tại, cũng rất khổ.
4. Khổ về chết : Chết thì giống như bò bị lột da, khó mà tả được. Lúc này dù muốn niệm Phật, cũng niệm không ra. Cho nên lúc bình thường phải niệm Phật cho nhiều, huấn luyện thành tự nhiên, thành tập quán, đến khi lâm chung thì tâm miệng nhớ niệm Phật, không bị hoảng hốt.
5. Khổ về ái biệt ly : Khi người thân sinh ly tử biệt là việc đau khổ nhất của con người.
6. Khổ về ghét mà gặp nhau : Người mà bạn không thích, ghét mà thường gặp, đó cũng là một nỗi khổ.
7. Khổ về cầu không được : Cầu tài không được tài, cầu danh không được danh, cầu con cái không được cũng khổ.
8. Khổ về năm ấm xí thạnh : Sắc, thọ, tưởng, hành, thức năm ấm này giống như lửa lớn thiêu đốt, khiến cho bạn không được tự tại mát mẻ cũng là khổ.
Vô lượng khổ tức là khổ không nói hết được. Thế giới Ta Bà này đầy dẫy sự thống khổ, nhưng chúng sinh thế giới này lấy khổ làm vui, còn không muốn ra khỏi tam giới, thật đáng thương xót !
Tịch Tĩnh Quang Thiên Vương, được môn giải thoát, khắp hiện thân để thuyết pháp.
Vị Tịch Tĩnh Quang Thiên Vương này ở trong định phóng ra trí huệ quang minh, thấy Phật hiện thân khắp các nơi, vì chúng sinh mà thuyết pháp, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Thiện Mục Thiên Vương, được môn giải thoát, tịnh khắp tất cả cõi chúng sinh.
Vị Thiện Mục Thiên Vương này, dùng mắt từ bi xem chúng sinh, rất có thiện duyên với chúng sinh. Vị này minh bạch đức Phật, khiến cho chúng sinh từ nhiễm ô chuyển thành thanh tịnh, từ ngu si chuyển thành trí huệ, từ kiêu ngạo chuyển thành khiêm nhường, từ tham sân chuyển thành từ bi, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Bảo Phong Nguyệt Thiên Vương, được môn giải thoát, vô tận tạng thường hiện tiền giáo hóa khắp thế gian.
Vị Bảo Phong Nguyệt Thiên Vương hiểu đức Phật giáo hóa khắp tất cả chúng sinh thế gian, thường hiện ở trước mặt chúng sinh, dùng pháp môn vô tận tạng để giáo hóa chúng sinh vô tận, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Dũng Kiện Lực Thiên Vương, được môn giải thoát, khai thị tất cả cảnh giới thành Chánh Giác của chư Phật.
Vị Dũng Kiện Lực Thiên Vương này rất dũng mãnh và cường kiện, sức lực của vị này hàng phục được tất cả thiên ma ngoại đạo, đắc được môn giải thoát cảnh giới tất cả Phật thành chánh giác.
Phật tu thành chánh giác như thế nào ? Khi vị Phật này thành chánh giác, có cảnh giới gì ? Vị Phật kia thành chánh giác, có cảnh giới gì ? Vị Thiên Vương này đều hiểu rõ.
Kim Cang Diệu Quang Thiên Vương, được môn giải thoát, khiến tâm bồ đề của tất cả chúng sinh, kiên cố không thể hoại.
Vị Kim Cang Diệu Quang Thiên Vương phát bồ đề tâm kiên cố như kim cang, vĩnh viễn không thối bồ đề tâm. Và có diệu quang kim cang trí huệ, vị này đắc được chư Phật kiên cố tất cả bồ đề tâm chúng sinh, khiến cho không thối chuyển, bồ đề tâm này kiên cố như kim cang, chẳng có cách chi có thể phá hoại, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Tinh Tú Tràng Thiên Vương, được môn giải thoát, tất cả chư Phật xuất hiện ra đời, đều gần gũi quán sát phương tiện điều phục chúng sinh.
Vị Tinh Tú Tràng Thiên Vương này, đắc được cảnh giới tất cả chư Phật xuất hiện ra đời, thì đều gần gũi chư Phật, để nghe pháp và quán sát pháp của chư Phật tu hành. Chúng sinh khó điều khó phục, nhưng tất cả chư Phật điều phục được tất cả chúng sinh cang cường, dùng đủ thứ phương tiện pháp môn để điều phục, khiến cho chúng sinh cải ác hướng thiện, chí công vô tư, đó là môn giải thoát của vị Thiên Vương này đắc được.
Diệu Trang Nghiêm Thiên Vương, được môn giải thoát, tùy cơ ứng hiện, một niệm biết được tâm chúng sinh.
Vị Diệu Trang Nghiêm Thiên Vương vừa trang nghiêm vừa vi diệu, vị này minh bạch được chư Phật trong khoảng một niệm, biết được tâm chúng sinh, tùy sở thích của chúng sinh mà hiện thân, vì chúng sinh thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh, toại tâm mãn nguyện, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Bấy giờ, Tri Túc Thiên Vương nương oai lực của Ðức Phật, quán sát khắp tất cả Thiên chúng trời Tri Túc mà nói kệ rằng.
Lúc đó, vị Tri Túc Thiên Vương, nương đại oai đức thần thông lực của chư Phật, quán sát khắp tất cả Thiên chúng trời Tri Túc (trời Ðâu Xuất) mà nói kệ rằng :
Như Lai rộng lớn khắp pháp giới
Nơi các chúng sinh đều bình đẳng
Ứng khắp quần sinh xiển diệu môn
Khiến vào pháp thanh tịnh khó lường.
‘’ Như Lai rộng lớn khắp pháp giới.’’ Pháp thân của Phật rộng lớn cho nên đến khắp pháp giới.
‘’ Nơi các chúng sinh đều bình đẳng.’’ Tuy nhiên pháp thân của Phật đến khắp pháp giới, nhưng đều bình đẳng với tất cả chúng sinh, do đó :‘’ Tâm, Phật, chúng sinh, cả ba không khác biệt.’’
‘’ Ứng khắp quần sinh xiển diệu môn.’’ Ứng khắp căn cơ của chúng sinh, để nói rõ tất cả pháp môn vi diệu không thể nghĩ bàn.
‘’ Khiến vào pháp thanh tịnh khó lường.’’ Khiến cho tất cả chúng sinh, nhập vào trong pháp môn thanh tịnh không thể nghĩ bàn, đắc được khoái lạc vô thượng, đắc được đại giác viên mãn, đó là bản hoài của tất cả chư Phật.
Thân Phật hiện khắp trong mười phương
Vô trước vô ngại không thể lấy
Ðủ thứ sắc tướng thảy đều thấy
Hỷ Kế Thiên Vương được môn này.
‘’ Thân Phật hiện khắp trong mười phương.’’ Pháp thân của Phật, hiện khắp cõi nước chư Phật trong mười phương, để giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, phát vô thượng bồ đề tâm, thành vô thượng bồ đề quả.
Ðức Phật chẳng phải cố ý biểu hiện thần thông, mà là vì giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho họ sớm thành Phật đạo, cho nên mới thị hiện đủ loại thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn.
‘’ Vô trước vô ngại không thể lấy.’’ Tuy nhiên Phật thị hiện thần thông diệu dụng, nhưng chẳng chấp trước về thần thông diệu dụng, cũng chẳng chấp trước về chân không và cũng không ngại diệu hữu, do đó :
‘’ Vô trước nơi chân không, cho nên có diệu dụng ;
Vô ngại nơi diệu dụng, cho nên có chân không.’’
Chân không diệu hữu là không thể lấy không thể bỏ, tức là giữ lấy chẳng đặng mà xả cũng chẳng đặng, đó là cảnh giới chân không diệu hữu.
‘’ Ðủ thứ sắc tướng thảy đều thấy.’’ Vì quan hệ diệu hữu, cho nên Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, chúng sinh thế gian đều có thể nhìn thấy được.
‘’ Hỷ Kế Thiên Vương được môn này.’’ Cảnh giới môn giải thoát này, vị Hỷ Lạc Hải Kế Thiên Vương đắc được.
Quá khứ Như Lai tu các hạnh
Thanh tịnh đại nguyện sâu như biển
Tất cả Phật pháp đều đầy đủ
Thắng Ðức Thiên Vương ngộ môn này.
‘’ Quá khứ Như Lai tu các hạnh.’’ Phật tại nhân địa tu lục độ vạn hạnh, tu tất cả các pháp môn. Vì hành Bồ tát đạo, đã từng bố thí sinh mạng của mình, chỉ cần tất cả chúng sinh, cần tất cả mọi sự thì Phật đều bố thí, tuyệt đối không xan tham.
‘’ Thanh tịnh đại nguyện sâu như biển.’’ Phật tại nhân địa tu đủ thứ hạnh môn, để lợi ích chúng sinh và còn phát đại nguyện thanh tịnh để hóa độ chúng sinh. Ðại nguyện thanh tịnh tức là, chẳng còn một chút tâm dục niệm, tức cũng là đoạn dục khử ái. Nguyện đời đời kiếp kiếp xuất gia tu hành, tu giới tu định tu huệ, xa rời tất cả pháp nhiễm ô. Nguyện lực của Phật sâu rộng như biển, cao như núi Tu Di.
‘’ Tất cả Phật pháp đều đầy đủ.’’ Vì đại nguyện sâu hơn biển cả, cao hơn núi, cho nên tất cả Phật pháp, đều đầy khắp thế gian, để giáo hóa tất cả chúng sinh. Phật đắc được Phật pháp viên mãn, cũng dạy chúng sinh đắc được Phật pháp viên mãn, đó là biểu hiện đại từ đại bi của Phật.
‘’ Thắng Ðức Thiên Vương ngộ môn này.’’ Vị Tối Thắng Công Ðức Tràng Thiên Vương biết được pháp môn phương tiện này, đó là cảnh giới không thể nghĩ bàn.
Pháp thân Như Lai không nghĩ bàn
Như bóng phân hình đồng pháp giới
Nơi nơi xiển minh tất cả pháp
Tịch Tĩnh Quang Thiên chứng môn này.
‘’ Pháp thân Như Lai không nghĩ bàn.’’ Pháp thân của Phật không thể suy nghĩ, không thể luận bàn. Tại sao ? Vì pháp thân khắp tất cả mọi nơi.
‘’ Như bóng phân hình đồng pháp giới.’’ Giống như bóng với hình, đầy khắp pháp giới, khắp nơi đều có pháp thân của Phật. Do đó, pháp thân của Phật vô tại vô bất tại. Cảnh giới này, phàm phu chúng ta không thể hiểu biết được.
‘’ Nơi nơi xiển minh tất cả pháp.’’ Pháp thân của Phật đến khắp mọi nơi, để xiển minh tất cả các pháp, khiến cho chúng sinh minh bạch tất cả các pháp.
‘’ Tịch Tĩnh Quang Thiên chứng môn này.’’ Môn giải thoát này vị Tịch Tĩnh Quang Thiên Vương đắc được.
Chúng sinh bị nghiệp hoặc ràng buộc
Kiêu mạn phóng dật tâm buông lung
Như Lai vì nói pháp tịch tĩnh
Thiện Mục thấu rõ pháp môn này.
‘’ Chúng sinh bị nghiệp hoặc ràng buộc.’’ Chúng sinh : khởi hoặc, tạo nghiệp, cho nên phải chịu quả báo. Giống như bị dây thừng trói buộc, không thể động đậy và giống như ở trong lu, bị đậy nắp lại không thể động đậy được.
‘’ Kiêu mạn phóng dật tâm buông lung.’’ Kiêu là kiêu mạn, mạn là ngã mạn. Kiêu ngạo là khinh khi người, chẳng coi ai ra gì, ngã mạn là chẳng có lễ phép. Phóng dật là không giữ quy cụ. Ba hành vi không chánh đáng này, khiến cho tâm thần lêu lổng. Phật dạy chúng sinh phải thu tâm lại, tâm đừng chạy bên ngoài, đừng lêu lổng, phải xa rời ba tư tưởng không chánh đáng này.
‘’ Như Lai vì nói pháp tịch tĩnh.’’ Làm thế nào để từ bỏ tư tưởng kiêu ngạo, ngã mạn và phóng dật ? Phật vì chúng sinh nói pháp tịch tĩnh, đó là thuốc rất hiệu nghiệm, tiêu diệt ba thứ tư tưởng không tốt này.
‘’ Thiện Mục thấu rõ pháp môn này.’’ Ðó là cảnh giới môn giải thoát vị này đắc được.
Tất cả chân đạo sư thế gian
Vì cứu chúng sinh mà xuất hiện
Khiến khắp chúng sinh được an lạc
Phong Nguyệt thâm nhập pháp môn này.
‘’ Tất cả chân đạo sư thế gian.’’ Thế gian chẳng phải là một, mà là có vô lượng vô biên thế gian, cho nên nói tất cả thế gian. Trong tất cả thế gian phân làm ba thế gian :
1. Chánh giác thế gian : Tức là lúc Phật còn tại thế.
2. Khí thế gian : Tức là sơn hà đại địa, tức cũng là y báo.
3. Chúng sinh thế gian : Tức là thế giới chúng sinh ở, tức là chánh báo.
Còn có lối nói khác, phân ra thế gian này, thế gian kia và vô lượng các thế gian. Thế giới này, thế giới kia và vô lượng thế giới. Quốc độ này, quốc độ kia và vô lượng các quốc độ, đó cũng gọi là tất cả thế gian.
Chân đạo sư tức là đạo sư chỉ dẫn chân chánh, cũng là đạo sư chân chánh hiểu biết tất cả chân lý, chẳng có tâm ích kỷ tự lợi, là đại công vô tư, đại từ bình đẳng, giáo hóa hết thảy tất cả chúng sinh, bất cứ là thiện hay ác đều chẳng có tâm phân biệt, đều giáo hóa bình đẳng. Chúng sinh thiện thì khiến cho họ thiện căn tăng trưởng, chúng sinh ác thì khiến cho họ cải ác hướng thiện. Ðức Phật chẳng bỏ một chúng sinh nào, cho nên mới là đạo sư chân chánh.
Phật là Ðạo sư xuất thế gian, hướng dẫn bạn từ con đường đen tối chỉ dẫn đến con đường ánh sáng, khiến cho vô minh phiền não của bạn thành bồ đề trí huệ, khiến cho bạn bỏ mê về giác, bỏ tà theo chánh, cho nên là chân chánh đại đạo sư.
‘’ Vì cứu chúng sinh mà xuất hiện.’’ Phật xuất hiện ra đời, là vì cứu độ tất cả chúng sinh lìa khổ được vui, liễu sinh thoát tử, khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được chánh giác, đạt được Niết Bàn.
Trong Kinh Pháp Hoa có nói : ‘’ Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời.’’ Ðại sự nhân duyên đó là : sinh tử của chúng sinh. Phật vì sinh tử của chúng sinh mà đến thế giới này.
‘’ Khiến khắp chúng sinh được an lạc.’’ Phật độ tất cả chúng sinh, không riêng gì chúng sinh thiện mới độ, mà chúng sinh ác cũng đều độ họ, khiến cho tất cả đều bỏ mê về giác, bỏ tà về chánh. An lạc tức là chẳng có tham sân si tất cả phiền não. Khi đắc được an lạc chân chánh thì sinh ra giới tâm, định tâm và huệ tâm.
‘’ Phong Nguyệt thâm nhập pháp môn này.’’ Bảo Phong Nguyệt Thiên Vương minh bạch môn giải thoát này.
Cảnh giới chư Phật không nghĩ bàn
Ðều bao khắp tất cả pháp giới
Vào nơi các pháp đến bờ kia
Dũng Huệ chứng ngộ sinh vui mừng.
‘’ Cảnh giới chư Phật không nghĩ bàn.’’ Cảnh giới của mười phương chư Phật diệu không thể tả, chẳng phải phàm phu hiểu biết được. Cảnh giới này tuy nhiên không thể nghĩ bàn, nhưng không ra ngoài một niệm tâm hiện tiền.
‘’ Ðều bao khắp tất cả pháp giới.’’ Pháp giới rộng lớn phi thường, lớn mà không ở ngoài. Pháp giới cực nhỏ phi thường, nhỏ mà không ở trong. Tất cả pháp giới tức là tất cả chúng sinh, tất cả chúng sinh tức là tất cả pháp giới. Quang minh của Phật chiếu khắp tất cả pháp giới, mỗi chúng sinh đều tiếp thọ được quang minh của Phật chiếu sáng, khiến cho chúng sinh hiểu được nghĩa lý các pháp, y theo pháp mà tu hành.
‘’ Vào nơi các pháp đến bờ kia.’’ Nếu y theo pháp tu hành, thì sẽ đạt đến bờ bên kia không sinh không diệt. Từ tâm tham biến thành bố thí, bèn đạt đến bờ bên kia bố thí. Từ không giữ giới mà giữ giới được, bèn đạt đến bờ bên kia giới luật. Nguồn gốc tâm nóng giận quá lớn, vì tâm sân hận quá nặng, khi hiểu Phật pháp rồi thì tu pháp môn nhẫn nhục ; nhẫn nhục thì đối trị tâm sân hận. Tâm sân hận chẳng còn, thì đạt được bờ bên kia nhẫn nhục. Nguồn gốc rất lười biếng, việc gì cũng chẳng muốn làm, khi hiểu Phật pháp rồi, thì tinh tấn không giải đãi, tức là đạt được bờ bên kia tinh tấn. Nguồn gốc chẳng muốn ngồi thiền vì lưng ê chân đau phát chán nản, khi hiểu Phật pháp rồi thì tự động muốn tu thiền định, tức là đạt được bờ bên kia thiền định. Nguồn gốc rất ngu si, không rõ lý sự, khi hiểu Phật pháp rồi thì siêng tụng Kinh điển, nghiên cứu tạng luận, đắc được trí huệ, đó là bờ bên kia trí huệ.
‘’ Dũng Huệ chứng ngộ sinh vui mừng.’’ Vị Dũng Huệ Kiến Thiên Vương minh bạch được cảnh giới này, cho nên trong tâm sinh ra đại hoan hỷ.
Nếu có chúng sinh đáng được độ
Nghe công đức Phật phát bồ đề
Trụ ở biển phước thường thanh tịnh
Diệu Quang quán thấy pháp môn này.
‘’ Nếu có chúng sinh đáng được độ.’’ Nếu như có chúng sinh, đáng được sự giáo hóa của Phật, thì khiến cho họ, tiếp thọ được sự giáo hóa của Phật. Những chúng sinh không đáng được độ, tức là chúng sinh phạm ngũ nghịch mười điều ác. Ngũ nghịch tức là : Giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật chảy máu, phá hòa hợp Tăng. Mười điều ác tức là : Sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, thêu dệt, hai lưỡi, chưởi mắng, tham dục, sân hận, ngu si. Những loại chúng sinh này không kham thọ được sự giáo hóa.
‘’ Nghe công đức Phật phát bồ đề.’’ Những chúng sinh kham thọ sự giáo hóa, khi nghe công đức của Phật, thì đều phát tâm bồ đề, trên cầu Phật đạo, dưới độ muôn loài. Phật khiến cho những chúng sinh phát bồ đề tâm, vĩnh viễn không sinh tâm thối chuyển.
‘’ Trụ ở biển phước thường thanh tịnh.’’ Phật khiến cho họ trụ ở trong biển phước, luôn luôn đắc được thanh tịnh, chẳng có tư tưởng nhiễm ô.
‘’ Diệu Quang quán thấy pháp môn này.’’ Vị Kim Cang Diệu Quang Thiên Vương quán sát và minh bạch được cảnh giới môn giải thoát này.
Mười phương cõi nước số hạt bụi
Hết thảy đều tụ nơi chư Phật
Cung kính cúng dường nghe Phật pháp
Trang Nghiêm Tràng thấy rõ môn này.
‘’ Mười phương cõi nước số hạt bụi.’’ Mười phương tức là : Ðông, tây, nam, bắc, tứ duy, thượng, hạ. Mười phương cõi nước chư Phật nhiều như số hạt bụi, cho nên gọi là cõi nước số hạt bụi.
Thế giới mà chúng ta đang ở, chỉ là một hạt bụi trong thế giới mà thôi. Ngoài ra các thế giới khác, số lượng không cách chi mà tính đếm được. Trong một số Kinh điển đều dùng Hằng hà sa số (số cát sông Hằng) để đại biểu, bổn Kinh này dùng số hạt bụi để đại biểu. Tên gọi tuy chẳng giống, nhưng ý nghĩa đều giống nhau.
‘’ Tất cả đều tụ nơi chư Phật.’’ Những bậc Bồ Tát đều tụ tập nơi chỗ Ðức Phật.
‘’ Cung kính cúng dường nghe Phật pháp.’’ Mười phương chư Phật trong mười phương thế giới, nói pháp không điên đảo, tất cả chúng sinh nghe Phật nói pháp không điên đảo rồi, liền minh bạch pháp không điên đảo. Pháp không điên đảo là gì ? Tức là pháp phá vô minh. Nếu phá được vô minh thì dứt được tập khí phiền não, chẳng còn điên đảo nữa.
Vì có vô minh mà sinh hoặc, sinh hoặc thì đi tạo đủ thứ nghiệp, sau đó thì thọ đủ thứ quả báo, đó là khởi hoặc tạo nghiệp thọ quả báo.
‘’ Trang Nghiêm Tràng thấy rõ môn này.’’ Tất cả chúng sinh đến chỗ chư Phật để nghe pháp, cung kính Phật, cúng dường Phật, cảnh giới này vị Trang Nghiêm Tràng Thiên Vương thấy rõ.
Biển tâm chúng sinh không nghĩ bàn
Không trụ không động không chỗ nương
Phật trong một niệm đều thấy rõ
Diệu Trang Nghiêm Thiên ngộ môn này.
‘’ Biển tâm chúng sinh không nghĩ bàn.’’ Chúng sinh tức là chúng duyên giả hợp mà sinh. Có rất nhiều giống loài, mỗi loài có nhân duyên của mỗi loài mà sinh. Thông thường có bốn thứ sinh :
1. Sinh bằng thai, như loài thú đi bằng bốn chân.
2. Sinh bằng trứng, như phi cầm hai chân.
3. Sinh bằng ẩm thấp như loại côn trùng.
4. Sinh bằng biến hóa như bươm bướm.
Con người thì sinh bằng thai. Người trời thì hóa sinh, chúng sinh cõi Cực Lạc Thế Giới là hóa sinh trên hoa sen, chúng sinh địa ngục là nghiệp cảm hóa sinh.
Nói rộng hơn, chúng sinh có chín loài:
1. Thai sinh.
2. Noãn sinh.
3. Thấp sinh.
4. Hóa sinh.
5. Có sắc.
6. Không sắc.
7. Có tưởng.
8. Không tưởng.
9. Chẳng có tưởng chẳng không tưởng.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, tám loài đồng như ở trên, riêng còn vài loài nữa là : Chẳng có sắc, chẳng không sắc, chẳng có tưởng, chẳng không tưởng, cộng thành mười hai loài. Thật ra đại đồng tiểu dị, nội dung chẳng khác mấy.
Tâm chúng sinh như biển cả, không thể nghĩ bàn. Pháp giới tuy lớn nhưng không ra ngoài tâm của chúng sinh. Tâm chúng sinh tuy nhỏ, nhưng bao khắp pháp giới. Vì quan hệ như vậy cho nên nói : Tâm pháp, Phật pháp, chúng sinh pháp chẳng có sự khác nhau. Pháp giới lớn, tâm lượng chúng sinh cũng lớn, Phật tánh cũng lớn, cho nên biển tâm của chúng sinh, chẳng có cách chi dùng ngôn ngữ để diễn đạt. Vì nó không thể suy nghĩ, không thể luận bàn.
‘’ Không trụ không động không chỗ nương.’’ Tâm chúng sinh chẳng chấp trước trụ vào chỗ nào. Trong Kinh Kim Cang nói : ‘’ Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm,’’ tâm là như như bất động, liễu liễu thường minh. Bát nhã trí huệ vốn hiện tiền, tâm chẳng có một xứ sở nào. Vì tâm là vô trụ vô bất trụ.
‘’ Trong một niệm Phật đều thấy rõ.’’ Phật ở trong một niệm đều biết và thấy rõ tất cả mọi tâm niệm, mọi tư tưởng của chúng sinh.
‘’ Diệu Trang Nghiêm Thiên ngộ môn này.’’ Cảnh giới này vị Diệu Trang Nghiêm Thiên Vương minh bạch được.
Lại nữa, Thời Phần Thiên Vương, được môn giải thoát, phát khởi căn lành của tất cả chúng sinh, khiến cho họ vĩnh viễn lìa khỏi ưu bi khổ não.
Nay giảng tiếp theo. Vị Thời Phần Thiên Vương thuộc về dục giới, từng trời thứ ba (trời Dạ Ma). Vị này khiến cho chúng sinh, sinh khởi căn lành, và làm cho chúng sinh thoát khỏi ưu sầu phiền não, cải tà quy chánh, bỏ ác hướng thiện, bỏ mê về giác, thì vĩnh viễn lìa khỏi ưu bi khổ não, đó là môn giải thoát của vị Thiên Vương này đắc được.
Diệu Quang Thiên Vương, được môn giải thoát, vào khắp tất cả cảnh giới.
Vị Diệu Quang Thiên Vương đắc được tất cả phương tiện pháp môn, vào khắp tất cả cảnh giới trong mười phương cõi nước. Vị này không những thấy rõ cảnh giới của chư Phật và cảnh giới của chúng sinh, mà còn nhập vào cảnh giới này, nhưng không bị cảnh giới chuyển, cũng chẳng tùy thuận cảnh giới, có định lực mà chẳng động tâm, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Vô Tận Huệ Công Ðức Tràng Thiên Vương, được môn giải thoát, đại bi luân diệt trừ tất cả hoạn nạn.
Vị Vô Tận Huệ Công Ðức Tràng Thiên Vương này, trí huệ không cùng tận và công đức như tràng báu. Vị này diệt trừ tất cả hoạn nạn như bệnh hoạn, tai hoạn, họa hoạn, hỏa hoạn, thủy hoạn, phong hoạn .v.v.
Và còn có một thứ hoạn nữa đó là tâm hoạn, tức là hoạn được hoạn mất. Nếu không được vật mong muốn thì, nghĩ hết biện pháp để chiếm cho được đó là hoạn được. Ðã được rồi thì lại sợ mất đó là hoạn mất. Vị Thiên Vương này dùng đại bi luân, đến khắp tất cả chỗ hoạn nạn. Nơi nào mà có hoạn nạn thì, có vị này dùng đại bi luân đi diệt trừ. Ðại bi luân tức là tâm đại bi. Vị này dùng tâm đại bi đi cứu tất cả khổ hoạn nạn của chúng sinh, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Thiện Hóa Ðoan Nghiêm Thiên Vương được môn giải thoát, biết rõ tất cả tâm của chúng sinh trong ba đời.
Vị Thiện Hóa Ðoan Nghiêm Thiên Vương, khéo về sự giáo hóa và rất đoan chánh trang nghiêm, mắt chẳng nhìn xiên, tai chẳng nghe lệch, khi ngồi thì ngay ngắn, đi thì uy nghiêm. Dùng phương pháp quyền xảo phương tiện, để giáo hóa tất cả chúng sinh, và còn biết rõ tất cả tâm chúng sinh trong ba đời nào là thiện, là ác, tham, sân, si, bất cứ tâm gì, vị này đều biết rõ, không những biết một đời mà còn biết ba đời, đó là môn giải thoát mà vị này đắc được.
Tổng Trì Ðại Quang Minh Thiên Vương, được môn giải thoát, Ðà la ni quang minh, ghi nhớ tất cả các pháp không quên mất.
Vị Tổng Trì Ðại Quang Minh Thiên Vương, có đại trí huệ, đại quang minh, tổng tất cả các pháp, trì vô lượng nghĩa. Bất cứ việc gì, không cần ép phải nhớ, chỉ cần qua tai mắt, thì vĩnh viễn không bao giờ quên. Vị này đắc được cảnh giới môn Ðà la ni quang minh.
Ghi nhớ giống như dùng tay cầm vật gì, nhớ rất rõ ràng, không quên. Ghi nhớ tất cả các pháp, tức là sắc pháp, tâm pháp, tâm sở pháp, bất tương ưng pháp, vô vi pháp. Những pháp này đều nhớ hết không quên. Làm thế nào để không quên mất ? Tức là xem Kinh điển cho nhiều, nghiên cứu Kinh điển, lâu dần thì tự nhiên sẽ khai mở đại trí huệ, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Bất Tư Nghì Huệ Thiên Vương, được môn giải thoát, phương tiện không nghĩ bàn, khéo vào tự tánh của tất cả nghiệp.
Vị Bất Tư Nghì Huệ Thiên Vương, có trí huệ không thể nghĩ bàn, giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, cũng đắc được trí huệ không thể nghĩ bàn. Vị này đắc được một thứ tam muội, dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho họ phát bồ đề tâm, tu hạnh Bồ Tát. Ðều từ trong tự tánh sinh ra. Phương tiện pháp môn này khéo nhập vào tất cả nghiệp, để giáo hóa chúng sinh.
Luân Tề Thiên Vương, được môn giải thoát, phương tiện chuyển bánh xe pháp, để thành thục chúng sinh.
Vị Luân Tề Thiên Vương hiểu biết cảnh giới của đức Phật, chuyển bánh xe pháp giáo hóa chúng sinh. Chuyển bánh xe pháp, tức là giảng Kinh thuyết pháp, khiến cho chúng sinh thành quả vị Phật, đắc được vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vị này muốn khiến cho chúng sinh đắc được quả vị Phật vô thượng chánh đẳng chánh giác, cho nên trước dùng phương tiện pháp môn, quyền xảo phương tiện từ bi cứu độ, để giáo hóa chúng sinh.
Quang Diệm Thiên Vương được môn giải thoát, mắt rộng lớn quán sát khắp chúng sinh, mà đến điều phục.
Vị Quang Diệm Thiên Vương có quang minh màu lửa ngọn, do trí huệ mà thành tựu. Vị này đắc được mắt trí huệ rộng lớn. Mắt trí huệ này sinh ra ở chỗ nào ? Ở tại mỗi lỗ chân lông, cho nên vị này quán sát được khắp hết thảy chúng sinh, thấy chúng sinh nào cơ duyên thành thục thì, đến giáo hóa chúng sinh đó, khiến cho họ phát bồ đề tâm, chứng vô thượng đạo. Vị này quán sát mỗi chúng sinh khi nào độ được, thì lúc đó sẽ đến độ. Chúng sinh nào nên dùng thân gì để độ được, thì hiện thân đó để thuyết pháp.
Ví như, nên dùng thân Phật để độ được, thì hiện thân Phật để thuyết pháp cho họ nghe. Nên dùng thân Bồ Tát độ được, thì hiện thân Bồ Tát để thuyết pháp. Nên dùng thân A La Hán để độ được, thì hiện thân A La Hán để thuyết pháp. Nên dùng thân Ðế thích, tể tướng, trưởng giả, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ .v.v., độ được thì hiện các thứ thân để thuyết pháp. Cho nên vị này quán cơ đầu giáo, vì người thuyết pháp, dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để điều phục chúng sinh, khiến cho chúng sinh bỏ tà về chánh, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Quang Chiếu Thiên Vương, được môn giải thoát, vượt khỏi tất cả nghiệp chướng, không thuận theo chỗ làm của ma.
Vị Quang Chiếu Thiên Vương này, phóng đại quang minh, chiếu sáng ba ngàn đại thiên thế giới, cho nên không tùy thuận theo chỗ của ma. Ma thuộc về đen tối, nhưng đại quang minh phá trừ đen tối. Vị này đắc được môn giải thoát vượt khỏi tất cả nghiệp chướng.
Tất cả nghiệp chướng có báo chướng và phiền não chướng. Nghiệp chướng tức là tạo tất cả nghiệp ác làm chướng ngại tâm tu đạo. Báo chướng tức là nghiệp đã tạo ra phải thọ quả báo, quả báo này cũng chướng ngại sự tu đạo. Làm súc sinh thì không dễ gì nghe Kinh nghe pháp, làm ngạ quỷ thì càng không dễ gì nghe được Phật pháp, những loại chúng sinh này không dễ gì tu đạo. Phiền não chướng tức là người tu đạo phiền não quá nhiều, cũng sẽ chướng ngại sự tu đạo. Tất cả chướng này đều gần với ma, nếu không cẩn thận thì sẽ lạc vào đường ma.
Vị Thiên Vương này dùng trí huệ để chiếu soi, chiến thắng ma quân, không tùy thuận chỗ làm của ma. Ma vương dạy đừng bố thí, nhưng vị này nhất quyết bố thí. Ma vương dạy đừng trì giới, nhưng vị này nhất định phải trì giới. Ma vương dạy đừng tinh tấn, vị này nhất định phải tinh tấn. Ma vương dạy nóng giận, nhưng vị này nhất định phải nhẫn nhục. Ma vương dạy đừng chuyển bánh xe pháp, vị này nhất định phải chuyển bánh xe pháp. Ma vương dạy đừng tham thiền, vị này nhất định tham thiền. Tóm lại, vị này không chuyển theo ma cảnh, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Phổ Quán Sát Ðại Danh Xưng Thiên Vương, được môn giải thoát, khéo dạy bảo tất cả các Thiên chúng, khiến cho họ tâm được thanh tịnh.
Vị Phổ Quán Sát Ðại Danh Xưng Thiên Vương quán sát khắp hết thảy tất cả các Thiên chúng. Vì tất cả các Thiên chúng quá sung sướng, dễ quên tu hành, cho nên vị Thiên Vương này dùng đủ thứ phương tiện pháp môn để dẫn dụ tất cả Thiên chúng, khiến cho họ hiểu Phật pháp, dạy bảo các Thiên chúng tiếp thọ Phật pháp, nhận chân tu hành, sinh tâm thanh tịnh, khử trừ vọng niệm hỗn tạp, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Bấy giờ, Thời Phần Thiên Vương nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả Thiên chúng Thời Phần mà nói ra bài kệ.
Lúc đó vị Thời Phần Thiên Vương, nương sức đại oai đức thần thông của đức Phật, quán sát khắp tất cả Thiên chúng Thời Phần (trời Dạ Ma) mà nói kệ tán thán công đức của Phật.
Phật trong vô lượng kiếp xa xưa
Ðã sạch biển ưu não thế gian
Chẳng còn nhiễm trần thanh tịnh đạo
Ðèn trí huệ luôn chiếu chúng sinh.
‘’ Phật trong vô lượng kiếp xa xưa.’’ Phật trong vô lượng vô biên kiếp về trước chẳng có ưu não.
‘’ Ðã sạch biển ưu não thế gian.’’ Phật trong vô lượng kiếp về trước, đã cạn sạch biển ưu não thế gian, chẳng còn chút ưu não nào tồn tại.
‘’ Chẳng còn nhiễm trần thanh tịnh đạo.’’ Phật dứt hết tất cả nhiễm ô thì đại đạo sẽ thanh tịnh.
‘’ Ðèn trí huệ luôn chiếu chúng sinh.’’ Ðạo thanh tịnh này vĩnh viễn chiếu soi tâm chúng sinh, trở thành đèn trí huệ tâm. Ðèn tâm này thường sáng không tắt, khiến cho chúng sinh hiểu được thế gian này là khổ nhiều vui ít, mà sớm thoát khỏi tam giới, đắc được khoái lạc vĩnh cửu.
Pháp thân Như Lai thật rộng lớn
Mười phương bờ mé không thể được
Tất cả phương tiện không hạn lượng
Diệu Quang Minh Thiên vào môn này.
‘’ Pháp thân Như Lai thật rộng lớn.’’ Pháp thân của Phật vô tại vô bất tại, đặc biệt rộng lớn, không bờ không mé, cũng có thể nói là tận hư không khắp pháp giới.
‘’ Mười phương bờ mé không thể được.’’ Nếu đi đến bờ mé mười phương, tìm pháp thân của Phật, thì tìm cũng chẳng được. Tại sao ? Vì pháp thân của Phật vượt qua mười phương.
‘’ Tất cả phương tiện không hạn lượng.’’ Tất cả phương tiện pháp môn của Phật, cũng không bờ không bến, chẳng có giới hạn nhất định.
‘’ Diệu Quang Minh Thiên nhập môn này.’’ Vị Diệu Quang Minh Thiên Vương có trí huệ vào được môn giải thoát này.
Sinh già bệnh chết ưu bi khổ
Thế gian bức bách không ngừng nghỉ
Ðại sư thương sót thệ tiêu trừ
Vô Tận Huệ Quang giác ngộ được.
‘’ Sinh già bệnh chết ưu bi khổ.’’ Phật vì muốn chấm dứt : sinh già bệnh chết bốn sự khổ lớn, mới xuất gia tu hành. Phật tầm đạo tu khổ hạnh sáu năm, nhưng không được phương pháp giải thoát, cuối cùng tĩnh tọa dưới cội bồ, đề hốt nhiên đại ngộ, biết được nguồn gốc vòng sinh tử, là từ vô minh khởi, tiêu diệt được vô minh thì tiêu diệt được bốn thứ khổ này.
Một số người trên thế giới này, không những không giác ngộ khổ về : sinh già bệnh chết, mà còn nhiễm khổ cho là vui, mà không biết giác ngộ. Khi sinh thì hồ đồ đến thế giới này, khi chết thì hồ đồ rời khỏi thế giới này. Khi đến thì không rõ vì sao mà đến ? Khi đi thì cũng chẳng biết vì sao mà đi ? Tóm lại, sinh từ đâu đến ? Chết đi về đâu ? Vấn đề này chẳng ai muốn biết, cũng chẳng có ai muốn giác ngộ, cho nên hồ đồ mà đến, hồ đồ mà đi.
Ðức Phật trong vô lượng kiếp tu đủ thứ hạnh môn, đều vì chấm dứt sinh tử. Cho nên đời người từ nhỏ lớn dần, trưởng thành rồi già đi, già sinh ra đủ thứ bệnh, do bệnh mà chết, đó là bốn sự khổ lớn của đời người.
‘’ Thế gian bức bách không ngừng nghỉ.’’ Ưu sầu bi ai đều là khổ, những sự khổ này, bức bách tất cả chúng sinh thế gian, chẳng có thời gian dừng nghỉ.
‘’ Ðại sư thương sót thệ tiêu trừ.’’ Ðại sư tức là Phật, Phật thương sót tất cả chúng sinh, cho nên phát nguyện diệt trừ tất cả khổ của chúng sinh.
‘’ Vô Tận Huệ Quang giác ngộ được.’’ Cảnh giới này vị Vô Tận Huệ Quang Thiên Vương giác ngộ, hiểu biết được.
Trí Phật như huyễn không gì ngại
Thấu rõ các pháp trong ba đời
Vào khắp trong tâm hạnh chúng sinh
Thiện Hóa Thiên Vương chứng môn này.
‘’ Trí Phật như huyễn không gì ngại.’’ Trí huệ của Phật như huyễn, giống như chẳng chân thật, nhưng thật ra là chân thật. Trí huệ này chẳng gì chướng ngại được, thấy rõ thật tướng của tất cả các pháp, thấy rõ nghiệp tướng, đạo tướng, phiền não tướng của tất cả chúng sinh. Tóm lại, thấu triệt được tư tưởng của tất cả chúng sinh.
‘’ Thấu rõ các pháp trong ba đời.’’ Thứ trí huệ như huyễn này, liễu đạt được các pháp quá khứ, các pháp hiện tại, các pháp vị lai. Cho nên nói pháp của Phật nói trong ba đời, đều thấy rõ thâm sâu, thông đạt vô ngại.
‘’ Vào khắp trong tâm hạnh chúng sinh.’’ Trí huệ của Phật như huyễn tam muội, thứ trí huệ hư huyễn này, biết được trong tâm tất cả chúng sinh nghĩ tưởng gì ? Làm những gì ? Và còn nhập vào được trong tâm hạnh của tất cả chúng sinh, khiến cho họ phát bồ đề tâm, sớm thành Phật đạo.
‘’ Thiện Hóa Thiên Vương chứng môn này.’’ Cảnh giới này vị Thiện Hóa Ðoan Nghiêm Thiên Vương minh bạch được.
Bờ mé tổng trì không thể được
Biện tài như biển cũng vô tận
Chuyển được bánh xe pháp thanh tịnh
Giải thoát này của Ðại Quang Thiên.
‘’ Bờ mé tổng trì không thể được.’’ Tổng trì tức là : tổng thân khẩu ý ba nghiệp thanh tịnh, trì giới định huệ ba học viên minh. Tổng là tổng tất cả các pháp, trì là hành tất cả các pháp. Tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa. Ý nghĩa tổng trì có vô lượng vô biên sự giải thích, cho nên nói bờ mé không thể được.
‘’ Biện tài như biển cũng vô tận.’’ Bốn biện tài vô ngại của Phật, giống như biển cả, chẳng cùng tận.
Bốn vô ngại tức là bốn thứ trí biện thuyết pháp của Phật Bồ Tát, nơi ý nghiệp giải là trí, nơi khẩu nghiệp giải là biện. Bốn vô ngại biện tài là :
1. Pháp vô ngại biện tài.
2. Nghĩa vô ngại biện tài.
3. Từ vô ngại biện tài.
4. Lạc thuyết vô ngại biện tài.
Tóm lại tức là biện tài vô ngại, nói ngang nói dọc, nói thô nói tế, bất cứ nói thế nào cũng đều có lý.
‘’ Chuyển được bánh xe pháp thanh tịnh.’’ Thường chuyển bánh xe pháp thanh tịnh không thể nghĩ bàn, phá trừ tâm ô nhiễm của chúng sinh, mà đắc được tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh, thân thanh tịnh thì pháp tự nhiên thanh tịnh.
‘’ Giải thoát này của Ðại Quang Thiên.’’ Cảnh giới này vị Tổng Trì Ðại Quang Minh Thiên Vương minh bạch được.
Tánh nghiệp rộng lớn không cùng tận
Trí huệ giác ngộ khéo khai thị
Tất cả phương tiện không nghĩ bàn
Huệ Thiên Vương ngộ vào môn này.
‘’ Tánh nghiệp rộng lớn không cùng tận.’’ Nghiệp của chúng sinh rộng lớn vô biên, không cùng tận. Vì nghiệp chẳng có hình tướng, nếu có hình tướng thì sớm đã đầy khắp hư không, không chỗ dung chứa.
Nghiệp là gì ? Phàm dấy khởi tâm niệm, bất cứ là thiện hoặc là ác đều là nghiệp. Khởi niệm thiện thì tạo ra nghiệp thiện. Khởi niệm ác thì tạo ra nghiệp ác. Mọi sự việc nếu chấp tướng là tạo nghiệp, không chấp tướng là giải thoát. Phàm phu chỉ hiểu được tạo nghiệp, Bồ Tát thì hiểu được giải thoát. Vì phàm phu khởi tâm vọng đi làm, cho nên là tạo nghiệp. Bồ Tát dùng một phiến tâm thanh tịnh đi làm, cho nên là giải thoát. Giải thoát là trừ sạch phiền não ba độc ở trong tâm, thì đắc được tự tại. Tạo nghiệp là thấy cảnh khởi tâm tham mà tạo thành ba nghiệp (thân, khẩu, ý) nhiễm ô và mê hoặc.
‘’ Trí huệ giác ngộ khéo khai thị.’’ Phật là người có trí huệ lớn, minh bạch tất cả đạo lý, cho nên khéo khai thị tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh minh bạch sự vui thế gian là tạm thời, sự vui xuất thế gian là vĩnh viễn.
‘’ Tất cả phương tiện không nghĩ bàn.’’ Phật dùng tất cả phương tiện để giáo hóa chúng sinh, pháp phương tiện này không thể nghĩ bàn, bất cứ loài chúng sinh nào cũng đều minh bạch tiếp thọ, y pháp phụng hành.
‘’ Huệ Thiên Vương ngộ vào môn này.’’ Môn giải thoát pháp phương tiện này, vị Bất Khả Tư Nghì Huệ Thiên Vương đắc được.
Chuyển bánh xe pháp không nghĩ bàn
Hiển bày tu tập đạo bồ đề
Vĩnh diệt tất cả khổ chúng sinh
Luân Tề Thiên Vương ngộ môn này.
‘’ Chuyển bánh xe pháp không nghĩ bàn.’’ Phật thường chuyển bánh xe pháp giáo hóa chúng sinh, chuyển động bánh xe pháp vi diệu không thể nghĩ bàn. Diệu là không thể tả, bánh xe pháp là chuyển động hằng thường, như bánh xe tiến về phía trước mà không thối lùi.
‘’ Hiển thị tu tập đạo bồ đề.’’ Phật chỉ thị chúng sinh rất rành mạch rõ ràng, tu hành như thế nào ? Dụng công như thế nào ? Ðắc được giác đạo như thế nào ? Nếu không dụng công tu hành, thì không thể đắc được giác đạo. Do đó : ‘’ Có làm thì có thu hoạch, làm nhiều thì thu hoạch nhiều ‘’ chẳng có chuyện không làm mà có thu hoạch. Người tu đạo dụng công một phần thì có một phần lợi ích, gần giác đạo một bước. Làm những việc khác thường, lãng phí công phu, mà không được kết quả. Chỉ có tu hành pháp môn này, làm một chút thì có hiệu quả một chút.
‘’ Vĩnh diệt tất cả khổ chúng sinh.’’ Phải thật tâm tu hành, thì mới đắc được đạo lý giác ngộ, mới vĩnh diệt được thống khổ của chúng sinh. Tại sao chúng sinh khổ ? Vì không giác ngộ, vì có vô minh cho nên tạo đủ thứ nghiệp, do đó thọ đủ thứ quả báo. Nếu phá trừ vô minh, thì sẽ giác ngộ, thì khổ của chúng sinh vĩnh viễn tiêu diệt.
‘’ Luân Tề Thiên Vương ngộ môn này.’’ Cảnh giới phương tiện pháp môn này vị Luân Tề Thiên Vương đắc được.
Thân thật Như Lai vốn không hai
Vật ứng theo hình khắp thế gian
Chúng sinh đều thấy ở trước họ
Cảnh giới này của Quang Diệm Thiên.
‘’ Thân thật Như Lai vốn không hai.’’ Thân thật tức là pháp thân. Thân thật của Phật không những không hai mà một cũng chẳng có. Tại sao ? Vì thân thật của Phật vô tướng vô bất tướng, vô tại vô bất tại.
‘’ Vật ứng theo hình khắp thế gian.’’ Thân thật của Phật, ứng cơ của chúng sinh, theo căn tính của chúng sinh, để vì chúng sinh mà thuyết pháp. Do đó :‘’ Quán cơ đầu giáo ‘’ (theo bệnh cho thuốc), tức cũng là vì chúng sinh thuyết pháp. Ðối với người căn tính tiểu thừa thì nói pháp tiểu thừa, người căn tính đại thừa, thì nói pháp đại thừa. Tức là theo bệnh bốc thuốc. Ðối với bệnh nhiệt thì dùng thuốc giải nhiệt để đối trị, bệnh hàn thì dùng thuốc nhiệt để đối trị, như thế thì mới hết bệnh. Cho nên thân của Phật sung mãn thế gian, đi cứu chúng sinh ra khỏi biển khổ.
‘’ Chúng sinh đều thấy ở trước họ.’’ Tất cả chúng sinh đều cảm thấy Phật đang ở trước mặt mình, đối diện thuyết pháp cho mình.
‘’ Cảnh giới này của Quang Diệm Thiên.’’ Cảnh giới môn giải thoát này, vị Quang Diệm Thiên Vương đắc được.
Nếu có chúng sinh thấy được Phật
Tất sẽ dứt sạch các nghiệp chướng
Lìa các ma nghiệp hẳn không còn
Quang Chiếu Thiên Vương được môn này.
‘’ Nếu có chúng sinh thấy được Phật.’’ Giả sử chúng sinh nào, thấy được báo thân của Phật, thì nghiệp chướng sẽ tiêu diệt. Phật có ba thân :
1. Pháp thân : Chẳng có hình tướng, là chân như thật tướng. Phật không trụ thế, cũng chẳng phải không trụ thế. Về thời gian thì dọc cùng tam tế, về không gian thì ngang khắp mười phương, đó cũng là tánh linh của Phật, hiệu là Tỳ Lô Giá Na, dịch là “biến nhất thiết xứ” (khắp cùng mọi nơi).
2. Báo thân : Là thân tướng trang nghiêm quang minh thanh tịnh, là thân thường trụ bất diệt. Phật trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp, tu vô lượng phước đức và trí huệ mới đắc được báo thân, hiệu là Lô Xá Na, dịch là “tịnh mãn”. Báo thân này thanh tịnh, như ánh sáng mặt trời, chiếu đầy khắp toàn thế gian.
3. Ứng thân : Là tùy thuận căn cơ của chúng sinh mà hiện tướng, chuyên vì giáo hóa chúng sinh, hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Thích Ca dịch là “năng nhân”, biểu thị đại bi. Mâu Ni dịch là “tịch mặc”, biểu thị đại trí. Lại là hóa thân, ứng theo sở cầu của chúng sinh, mà biến hóa trăm ngàn ức thân. Không những Phật có hóa thân mà Bồ Tát Quán Thế Âm cũng có vô lượng hóa thân. Bồ Tát dùng tâm để quán sát chúng sinh thế gian thọ khổ, bất cứ có bao nhiêu chúng sinh cầu cứu, thì Bồ Tát đều đồng thời cứu ra khỏi biển khổ. Vì Bồ Tát có thần thông lực hóa thân.
‘’ Tất khiến dứt sạch các nghiệp chướng.’’ Ai thấy được báo thân của Phật thì nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng, tất cả chướng của người đó đều sẽ dứt sạch. Tất cả nghiệp chướng đều sẽ biến thành thanh tịnh.
’ Khỏi các ma nghiệp tất không còn.’’ Nghiệp chướng trừ sạch rồi, thì sẽ có ma đến nhiễu loạn dẫn dụ, khiến cho người tu hành mất đi định lực, mất đi đạo tâm. Làm thế nào vượt khỏi các ma ?
Tức là siêng tinh tấn không giải đãi, bất cứ cảnh giới gì trước mắt, tâm không động, ý không loạn thì thiên ma, không có cách chi phá được, tự nhiên sẽ thối lui. Do đó, sẽ vượt khỏi tất cả ma nghiệp, vĩnh viễn không bị các ma nhiễu hại.
‘’ Quang Chiếu Thiên Vương được môn này.’’ Cảnh giới này vị Quang Chiếu Thiên Vương minh bạch được.
Tất cả chúng hội lớn như biển
Phật ở trong đó oai sáng nhất
Khắp mưa pháp vũ nhuận chúng sinh
Danh Xưng Thiên Vương vào môn này.
‘’ Tất cả hội chúng lớn như biển.’’ Phật ở trong mỗi thế giới đều có pháp hội thuyết pháp. Trong mỗi pháp hội có vô lượng chư Phật, vô lượng Bồ Tát, vô lượng A La Hán, vô lượng chúng sinh. Trong chúng hội rất rộng lớn, giống như biển cả, rộng không thể lường, sâu không thể dò.
‘’ Phật ở trong đó oai sáng nhất.’’ Phật ở trong mỗi pháp hội, có oai đức nhất, có quang sáng nhất. Do đó, đại oai đức thần thông lực, quang minh của Phật chiếu khắp mười phương.
‘’ Khắp mưa pháp vũ nhuận chúng sinh.’’ Phật thuyết pháp khắp hết thảy, giống như trời mưa, cây lớn thì hút lượng nước nhiều, cây nhỏ thì hút lượng nước ít, thảy đều được lợi ích pháp vũ, tùy theo mỗi loại, tùy theo căn tính, mà thấm nhuần tất cả chúng sinh.
‘’ Danh Xưng Thiên Vương nhập môn này.’’ Cảnh giới môn giải thoát này vị Phổ Quán Ðại Danh Xưng Thiên Vương minh bạch được.
Lại nữa, Thích Ca Nhân Ðà La Thiên Vương, được môn giải thoát, đại hoan hỷ ghi nhớ ba đời chư Phật xuất hiện ra đời, cho đến thấy rõ cõi thành hoại.
Tiếp theo Kinh văn ở trên. Vị Thích Ca Nhân Ðà La Thiên Vương, là từng trời thứ hai (trời Ðao Lợi) thuộc về dục giới. Thích Ca dịch là “năng”. Nhân Ðà La dịch là “thiên chủ”, nghĩa là làm chủ trên trời. Vị này đắc được một môn giải thoát là : trong khoảng một niệm có thể nghĩ biết, trong quá khứ chư Phật xuất hiện ra đời như thế nào ? Cho đến cõi Phật thành như thế nào ? Hoại như thế nào ? Vị này nhớ được cảnh giới này rất rõ ràng, và còn hiểu biết đạo lý này. Không những là đời quá khứ, mà đời hiện tại và đời vị lai cũng thấy rõ. Vì minh bạch được nhiều cảnh giới, cho nên sinh đại hoan hỷ, đại khoái lạc.
Nhân Ðà La còn gọi là Thích Ðề Hoàn Nhân. Trong vô lượng kiếp về trước, vị này là người nữ độc thân.
Một ngày nọ, vị này thấy một ngôi chùa cổ hư hoại, chẳng có ai phát tâm trùng tu lại. Vị này thấy như vậy thì trong tâm nghĩ : nếu không sửa lại thì tượng Phật bị mưa dột, gió thổi, nắng rọi, thật không đành làm ngơ. Do đó, vị này phát tâm trùng tu ngôi chùa cổ ngày, nhưng sức lực của một người có hạn, không thể hoàn thành tâm nguyện. Do đó, bèn đi tìm bạn bè và thân hữu, mọi người đều phát tâm trùng tu. Người có chí thì việc sẽ thành, tìm được ba mươi hai người phụ nữ. Ai có tiền thì cúng tiền, có sức thì dùng sức, cùng nhau nỗ lực, chẳng bao lâu thì sửa xong ngôi chùa cổ hư hoại, biến thành ngôi chùa trang nghiêm.
Nhờ công đức trùng tu sửa chùa, ba mươi ba người nữ này, sau khi chết sinh về trời Ðao Lợi mà làm Thiên chủ. Bốn hướng của cõi trời này mỗi hướng có tám vị trời, đông tây nam bắc cộng có ba mươi hai vị trời. Chính giữa có một vị trời là chỗ của Ðế Thích ở. Ba mươi ba vị trời này là ba mươi ba người phụ nữ làm thiên chủ, đó là nguồn gốc Thiên chủ.
Người không biết nhân duyên của Thiên chủ thì nói bậy bạ, nói Thiên chủ là độc hữu, là vạn năng. Thật ra chẳng phải là độc hữu, cũng chẳng phải là vạn năng. Vì vị này chỉ biết sự việc mấy vạn năm, mà không biết sự việc mấy vạn đại kiếp.
Vì không biết nhân duyên vô lượng kiếp, mới bịa ra khái niệm một vị chân thần, tạo ra một vị thần cứu kính, hoặc là thần viên mãn, hoặc thần vạn năng. Ðó là tùy ý tạo ra, muốn tạo bao nhiêu thì tạo bấy nhiêu, chẳng có ai để khống cáo. Chân thần cũng xong, thần vạn năng cũng xong, đều chẳng đúng, cho nên lấy sai lầm truyền sai lầm, truyền cho đến hiện tại. Bây giờ là thời đại khoa học, bất cứ việc gì đều phải trải qua sự khảo nghiệm. Tôn giáo cũng như thế, nếu không hợp với sự khảo nghiệm của khoa học thì sẽ bị đào thải, những người tín ngưỡng tôn giáo phải phân tích kỹ càng, đừng nên ai sao mình cũng vậy, chẳng có sự phán đoán mà dưỡng thành mê tín, như vậy thì sẽ biến thành cuồng tín.
Trời Ðao Lợi ở trên đỉnh núi Tu Di, thành tên là thành Thiện Kiến. Trong thành có lầu báu trọng các, thiên cung rất hoa lệ là chỗ ở của Thích Ðề Hoàn Nhân, tức cũng là Ngọc Hoàng Ðại Ðế của Ðạo Giáo, chỗ ở của thượng đế Gia Tô Giáo. Tuy nhiên tên chẳng giống nhau, thật ra tức là chủ của cõi trời Tam Thập Tam, cũng chỉ một người mà thôi.
Vị Thích Ðề Hoàn Nhân này còn có tên là trời Ðế Thích, là chúa cõi trời Tam Thập Tam, cõi trời này rất sung sướng, cho nên chư Thiên không thích tu thiền định, rất dễ đọa lạc trong sáu nẻo luân hồi, ngay cả Thích Ðề Hoàn Nhân cũng không ngoài lệ ấy. Chư Thiên khi gần chềt thì phát sinh năm hiện tượng suy. Vị Thích Ðề Hoàn Nhân này hưởng hết phước báo thì phải đi đầu thai, vị này biết mình sắp chết, bèn đi đến chỗ Ðức Phật cầu cứu, thỉnh giáo làm thế nào liễu sinh thoát tử ? Phật nói : ‘’Chiếu theo nhân quả mà nói thì ông phải đầu thai làm lừa, chẳng có cách chi cứu vãn.’’ Vị này nghe rồi sợ hãi vô cùng, bèn ba lần khẩn cầu Ðức Phật cứu. Phật bèn cho thọ tam quy và ngũ giới làm đệ tử Phật.
Chẳng bao lâu quả nhiên chuyển nhập vào thai lừa, con lừa cái này không duyên cớ gì bèn chạy vào trong nhà chủ tiệm làm bễ đồ bằng sứ, chủ nhân nổi giận, dùng gậy đánh con lừa cái, làm cho con lừa cái xẩy thai. Do đó Trời Ðế Thích bèn trở về lại thiên cung, kiền thành tín ngưỡng Phật pháp. Phàm là chỗ nào trong thế gian có cao Tăng giảng Kinh thuyết pháp, thì vị Trời Ðế Thích này, dù bận rộn trăm việc, cũng nhất định tranh thủ thời giờ đến nghe pháp, do đó mà dẫn đến sự hiểu lầm của vợ ông ta mà phát sinh một cuộc chiến giữa chư Thiên và A Tu La.
Con gái của vua A Tu La đẹp tuyệt trần, trời Ðế Thích tham sắc đẹp mà cưới làm vợ, do đó có thể chứng minh chư thiên sáu cõi trời dục giới, không những còn tham dục mà còn có dục tính nam nữ.
Phàm là chúng sinh ở thế gian tu mười điều lành giữ năm giới cấm, thì sẽ được tái sanh về cõi trời này. Nhưng ở đây chẳng phải là nơi cứu kính. Do đó :
‘’ Sáu cõi trời dục giới có năm tướng suy,
Trời Tam Thiền có nạn gió lớn,
Dù sinh về cõi trời Phi Phi Tưởng,
Chẳng bằng về cõi Tây Phương Cực Lạc.’’
Thế giới Cực Lạc mới là nơi cứu kính, cõi đó hoa sen hóa sinh, sung sướng vô ngần chẳng có phiền não.
Phổ Xưng Mãn Âm Thiên Vương, được môn giải thoát, khiến cho sắc thân của Phật, thanh tịnh rộng lớn nhất, thế gian không gì so sánh được.
Vị Phổ Xưng Mãn Âm Thiên Vương được môn giải thoát biết sắc thân của Phật thanh tịnh nhất, rộng lớn nhất, bất cứ Thánh nhân thế gian không thể so sánh được.
Ở trước có nói về thân thật của Phật tức là pháp thân. Bây giờ nói về sắc thân của Phật tức là báo thân. Hóa thân của Phật tức là ứng thân. Cho nên Phật có pháp thân, báo thân, hóa thân ba thân. Sắc thân của Phật là thanh tịnh nhất, chẳng có nhiễm ô, chẳng giống như thân phàm phu của chúng ta, không sạch sẽ mà dơ bẩn. Sắc thân của Phật đầy đủ ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp. Mỗi một tướng, mỗi một vẻ đều thanh tịnh rộng lớn. Báo thân của Phật cũng hiện trong vô lượng thế giới giáo hóa chúng sinh. Bộ Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật này do Phật nói, Phật hiện thân Lô Xá Na ngàn trượng mà nói diệu pháp. Chuyển Luân Thánh Vương là người có phước đức tướng của thế gian, tuy nhiên cũng có ba mươi hai tướng tốt, nhưng không thể so sánh với Phật. Vị Thiên Vương này đắc được môn giải thoát này.
Từ Mục Bảo Kế Thiên Vương được môn giải thoát, mây từ bi che khắp.
Vị Từ Mục Bảo Kế Thiên Vương, vì mắt của vị này phóng ra mây quang minh từ bi, chiếu soi chúng sinh khiến cho họ sinh tín tâm. Bảo kế của vị này thường tuôn ra các châu báu mà bố thí cho chúng sinh, cho nên được tên này.
Vị này đắc được môn giải thoát, mây từ bi của Phật che chở bảo hộ tất cả chúng sinh. Mây từ bi của Phật khiến tất cả chúng sinh, đều có tâm từ bi mà không giết hại, có tâm bố thí mà không trộm cắp, có tâm nhẫn nhục mà không nóng giận, có tâm tinh tấn mà chẳng lười biếng, có tâm thiền định mà không tán loạn, có tâm trí huệ mà không ngu si. Mây từ này còn khiến cho tất cả chúng sinh từ bờ sinh tử bên này qua được giòng phiền não, đạt đến bờ Niết Bàn bên kia.
Bảo Quang Tràng Danh Xưng Thiên Vương, được môn giải thoát, luôn luôn thấy Phật, hiện đủ thứ thân hình, tướng oai đức ở trước mặt vua.
Vị Bảo Quang Tràng Danh Xưng Thiên Vương thường thấy Phật, ở trước mặt vua thế gian, hiện ra đủ thứ hình tướng, thân có đại oai đức tướng, có uy đáng sợ, có đức đáng kính, khiến cho người thấy tự nhiên cung kính đảnh lễ chiêm ngưỡng. Ví như Vua Tần Bà Sa La quy y Phật làm đệ tử, con là vua A Xà Thế cũng quy y Phật. Vua Ba Tư Nặc quy y Phật làm đệ tử, con là Kỳ Ðà cũng quy y Phật. Lúc đó có rất nhiều vị vua quy y Phật. Vị Thiên Vương này đắc được cảnh giới môn giải thoát này.
Phát Sinh Hoan Hỷ Kế Thiên Vương được môn giải thoát, biết thành ấp cung điện của tất cả chúng sinh, do phước nghiệp gì mà có.
Vị Phát Sinh Hoan Hỷ Kế Thiên Vương biết được thành ấp cung điện chỗ ở của tất cả chúng sinh do phước nghiệp gì mà sinh ra. Vì chúng sinh tu pháp môn giới định huệ, diệt trừ phiền não tham sân si. Cho nên có quả báo phước nghiệp thành ấp cung điện, nếu chỉ tạo tội nghiệp mà không tu công đức lành thì chẳng có phước báo như thế. Phước nghiệp là do làm việc thiện mà có, đó là môn giải thoát của vị này đác được.
Ðoan Chánh Niệm Thiên Vương, được môn giải thoát, chư Phật khai thị thành thục chúng sinh.
Vị Ðoan Chánh Niệm Thiên Vương được môn giải thoát, mười phương chư Phật khai thị thành thục chúng sinh. Người chưa gieo trồng căn lành thì trồng căn lành, đã trồng căn lành thì khiến cho tăng trưởng, đã tăng trưởng thì khiến cho thành thục, đã thành thục thì khiến cho được giải thoát, đó là việc chư Phật thành thục chúng sinh.
Cao Thắng Âm Thiên Vương được môn giải thoát, biết tướng chuyển biến kiếp thành hoại của tất cả thế gian.
Vị Cao Thắng Âm Thiên Vương minh bạch được tất cả thế gian làm thế nào hình thành ? Làm thế nào trụ ? Thế nào hoại ? Thế nào không ? Thành, trụ, hoại, không cần bao nhiêu kiếp ? Và làm thế nào từ kiếp thành chuyển đến kiếp trụ ? Từ kiếp trụ chuyển đến kiếp hoại ? Từ kiếp hoại chuyển đến kiếp không ? Từ kiếp không lại chuyển đến kiếp thành ? Những tướng như vậy làm thế nào chuyển biến ? Chuyển biến thì phải trải qua thời gian dài bao lâu ? Vị này đều biết, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Chúng sinh cang cường khó điều khó phục. Hiển giáo là :‘’ văn độ chúng sinh.’’ Bồ Tát dùng bốn tâm vô lượng để giáo hóa, khiến cho chúng sinh có duyên đều chứng Phật đạo. Mật giáo là :‘’ Võ độ chúng sinh.’’ Kim cang là tướng phẫn nộ, dùng thủ đoạn cưỡng bách để giáo hóa, khiến cho chúng sinh vô duyên đều được giải thoát. Phương pháp tuy nhiên chẳng giống, nhưng mục đích giống nhau, đều khiến cho chúng sinh minh tâm kiến tánh thành Phật.
Tịnh Hoa Quang Thiên Vương, được môn giải thoát, biết rõ nguyên nhân vì sao tất cả chư Thiên khoái lạc.
Vị Tịnh Hoa Quang Thiên Vương hiểu biết tất cả chư thiên rất khoái lạc, chẳng ưu sầu. Tại sao họ được quả báo khoái lạc ? Vì quá khứ họ đã trồng xuống nhân khoái lạc, tức là tu giữ năm giới, làm mười điều lành, họ đều tu công đức bậc thượng. Nếu tu công đức bậc trung thì sinh về cõi người. Nếu tu công đức bậc hạ thì sinh về cõi A Tu La. Ðó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Trí Nhật Nhãn Thiên Vương, được môn giải thoát, khai thị tất cả các Thiên tử thọ sinh căn lành, khiến cho họ không còn si hoặc.
Vị Trí Nhật Nhãn Thiên Vương được môn giải thoát, khai thị tất cả các Thiên tử thọ sinh căn lành, khiến cho họ đều trừ khử ngu si nghi hoặc.
Tự Tại Quang Minh Thiên Vương, được môn giải thoát, khai ngộ tất cả các Thiên chúng, khiến cho họ vĩnh viễn dứt sạch tâm nghi hoặc.
Vị Tự Tại Quang Minh Thiên Vương được môn giải thoát, khai ngộ tất cả các Thiên chúng, khiến cho họ ngộ nhập vào cảnh giới của Phật, khiến cho tất cả các Thiên chúng, vĩnh viễn đoạn trừ tâm nghi hoặc, mà sinh tâm chánh tín.
Bấy giờ, Thích Ca Nhân Ðà La Thiên Vương, nương oai lực của đức Phật, quán khắp tất cả Thiên chúng, trời Tam Thập Tam mà nói kệ rằng.
Ðương lúc đó, vị Thiên chủ nương đại oai thần lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả Thiên chúng trời Tam Thập Tam (trời Ðao Lợi) mà nói kệ để tán thán chư Phật.
Tôi nhớ chư Phật trong ba đời
Tất cả cảnh giới đều bình đẳng
Như các cõi nước hoại và thành
Dùng Phật oai thần đều thấy được.
‘’ Tôi nhớ chư Phật trong ba đời.’’ Thích Ca Nhân Ðà La Thiên Vương nói : tôi suy nghĩ chư Phật quá khứ, chư Phật hiện tại, chư Phật vị lai, mười phương ba đời tất cả chư Phật, đều bình đẳng chẳng khác gì.
‘’ Tất cả cảnh giới đều bình đẳng.’’ Cảnh giới của chư Phật trong ba đời, đều một luật bình đẳng, chẳng có cao thấp, chẳng có khác về lớn nhỏ, mà đều bình đẳng giống nhau.
‘’ Như các cõi nước hoại và thành.’’ Cõi nước chư Phật làm thế nào hoại ? Làm thế nào thành ? Cảnh giới này thật là không thể nghĩ bàn.
‘’ Dùng Phật oai thần đều thấy được.’’ Dùng đại oai thần lực của chư Phật, khiến cho tất cả chúng sinh, đều thấy được Phật, đều minh bạch được cảnh giới này.
Thân Phật rộng lớn khắp mười phương
Sắc đẹp chẳng sánh lợi quần sinh
Quang minh chiếu sáng khắp hết thảy
Phổ Xưng Thiên Vương thấy môn này.
‘’ Thân Phật rộng lớn khắp mười phương.’’ Pháp thân của Phật rộng lớn vô biên, khắp trong tất cả mười phương, tận hư không khắp pháp giới, chỉ cần có không gian tồn tại, thì có pháp thân tồn tại.
‘’ Sắc đẹp chẳng sánh lợi quần sinh.’’ Sắc đẹp của Phật không thể sánh, lợi ích tất cả chúng sinh hữu tình và vô tình.
‘’ Quang minh chiếu sáng khắp hết thảy.’’ Quang minh thanh tịnh của Phật, chiếu sáng tất cả chúng sinh, chẳng có một chúng sinh nào, không tắm mình trong ánh từ quang. Quang minh này rất bình đẳng, không phân biệt thiện căn hoặc độn căn, đều chiếu sáng và gia bị hết thảy.
‘’ Phổ Xưng Thiên Vương thấy môn này.’’ Cảnh giới này vị Phổ Xưng Mãn Âm Thiên Vương quán sát thấy được.
Như Lai phương tiện biển đại từ
Kiếp xưa tu hành rất thanh tịnh
Hóa đạo chúng sinh không bờ mé
Bảo Kế Thiên Vương ngộ môn này.
‘’ Như Lai phương tiện biển đại từ.’’ Như Lai là một trong mười danh hiệu của Phật. Mỗi vị Phật đều có mười danh hiệu, tức là :
1. Như Lai : Pháp thân của Phật từ đạo như thật mà đến.
2. Ứng cúng : Ðức Phật đoạn trừ ba hoặc và nhị tử, vạn đức phước huệ đầy đủ, xứng đáng thọ lãnh chúng sinh trong chín pháp giới cúng dường.
3. Chánh biến tri : Trí huệ của Phật chiếu tất cả các pháp, vừa chánh lại vừa khắp cùng.
4. Minh hạnh túc : Phước và huệ của Phật đều đầy đủ. Ba minh là huệ, năm hạnh là phước.
5. Thiện thệ thế gian giải : Phật tu chánh đạo nhập Niết Bàn, còn hiểu rõ tất cả hình trạng thế gian.
6. Vô thượng sĩ : Chánh giác của Phật là vô thượng, chín giới chúng sinh không thể so sánh được.
7. Ðiều ngự trượng phu : Phật là bậc đại trượng phu, điều thuận tu chánh đạo.
8. Thiên nhân sư : Phật là đại đạo sư của trời người, giáo hóa hết thảy bỏ tà về chánh, cải ác hướng thiện.
9. Phật : Là Thánh nhân đại giác ngộ.
10. Thế Tôn : Phật là người tôn quý nhất trong thế gian.
Ðầy đủ mười hiệu mới xưng là Phật. Vì lòng đại từ bi, cho nên Phật xử dụng pháp phương tiện, để tiếp dẫn chúng sinh. Từ bi như biển lớn, cho nên gọi phương tiện biển đại từ.
‘’ Kiếp xưa tu hành rất thanh tịnh.’’ Vì trong kiếp quá khứ, Phật tu đủ thứ hạnh môn, cho nên thành tựu pháp thân rất thanh tịnh. Thanh tịnh là chứng minh sự tu hành, nếu không nhận chân tu hành, thì không thể đắc được thanh tịnh.
‘’ Hóa đạo chúng sinh không bờ mé.’’ Vì thanh tịnh là do tu hành chân thật mà được, cho nên dùng đủ thứ phương tiện pháp môn đại từ, để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh, dứt phiền não phá vô minh, thành tựu pháp thân, phương tiện pháp môn đại từ này chẳng có bờ mé.
‘’ Bảo Kế Thiên Vương ngộ môn này.’’ Cảnh giới môn giải thoát này, vị Từ Mục Bảo Kế Thiên Vương giác ngộ được.
Tôi nhớ biển công đức của Phật
Hơn hết trong đời chẳng ai bằng
Phát sinh tâm hoan hỷ rộng lớn
Giải thoát này của Bảo Quang Thiên.
‘’ Tôi nhớ biển công đức của Phật.’’ Bảo Quang Tràng Danh Xưng Thiên Vương nói : ‘’ Tôi nhớ lại công đức của Phật, vô lượng vô biên như biển cả.’’ Cho nên nói biển công đức của Phật.
‘’ Hơn hết trong đời chẳng ai bằng.’’ Công đức này cao thượng nhất trong thế gian, chẳng có ai so sánh với công đức của Phật.
‘’ Phát sinh tâm hoan hỷ rộng lớn.’’ Tôi nhớ tới cảnh giới này, trong tâm bèn phát sinh tâm hoan hỷ rộng lớn.
‘’ Giải thoát này của Bảo Quang Thiên.’’ Bảo Quang Tràng Danh Xưng Thiên Vương đắc được môn giải thoát này.
Phật biết nghiệp lành của chúng sinh
Ðủ thứ thắng nhân sinh phước lớn
Ðều khiến hiển hiện chẳng còn xót
Hỷ Kế Thiên Vương thấy môn này.
‘’ Phật biết nghiệp lành của chúng sinh.’’ Phật biết được tất cả nghiệp lành của chúng sinh, không những biết một đời mà còn biết được nghiệp lành vô lượng đời.
‘’ Ðủ thứ thắng nhân sinh phước lớn.’’ Tu đủ thứ nhân thù thắng, mới hoạch được phước báo rộng lớn. Do đó :
‘’ Ðời trước không tu, đời này khổ,
Ðời này không tu, đời sau càng khổ.’’
Người có phước báo, do đời trước đã trồng xuống nhân công đức, cho nên đời này có tiền tài, có quyền thế giàu sang. Nếu càng bố thí làm lành, thì đời sau nhất định tốt hơn so với đời này. Nếu đời này keo kiệt không bố thí, thì đời sau nhất định không được như đời này, thậm chí hưởng hết phước, thì không chắc được tái sinh làm người, hoặc có thể tái sinh làm súc sinh để trả nợ nghiệp.
‘’ Ðều khiến hiển hiện chẳng còn xót.’’ Vị này đều khiến cho đủ thứ nhân lành đều hiển hiện, mà tơ hào chẳng bỏ xót. Trồng nhân lành nhỏ thì được phước báo nhỏ, trồng nhân lành lớn thì được phước báo lớn, tơ hào không sai.
‘’ Hỷ Kế Thiên Vương thấy môn này.’’ Cảnh giới này vị Hỷ Lạc Kế Thiên Vương thấy được.
Chư Phật xuất hiện trong mười phương
Khắp cùng trong tất cả thế gian
Quán tâm chúng sinh hiện điều phục
Chánh Niệm Thiên Vương ngộ môn này.
‘’ Chư Phật xuất hiện trong mười phương.’’ Mười phương ba đời tất cả chư Phật, xuất hiện trong mười phương ba đời tất cả thế gian.
‘’ Khắp cùng trong tất cả thế gian.’’ Khắp cùng trong thế gian, tức cũng khắp cùng trong hư không pháp giới.
‘’ Quán tâm chúng sinh hiện điều phục.’’ Mười phương ba đời tất cả chư Phật, quán sát tất cả tâm chúng sinh, hiển thị ra pháp môn điều phục. Chúng sinh nhiều tham, thì khiến cho họ tu quán bất tịnh, chúng sinh nhiều sân, thì khiến cho họ tu quán từ bi. Chúng sinh ngu si, thì khiến cho họ tu quán nhân duyên. Cho nên phải quán sát căn tính chúng sinh, mà dùng pháp phương tiện, để giáo hóa, để điều phục.
Phật điều phục tất cả chúng sinh chẳng chấp trước nơi tướng. Trong Kinh Kim Cang có nói :
‘’ Phật diệt độ tất cả chúng sinh,
Thật chẳng có chúng sinh được diệt độ.’’
Ðó là không thủ nơi tướng, độ chúng sinh mà chẳng có tướng chúng sinh, tức là chẳng chấp trước chúng sinh.
Chúng ta làm việc gì, thì chấp trước vào việc đó, bố thí cho người một ly nước, hoặc cho người một bát cơm, thì cho rằng mình làm việc tốt, lợi ích cho chúng sinh, đó là chấp trước tướng. Cho nên phải có tư tưởng tam luân thể không:
1. Không thấy có người bố thí, như vậy thì có thể trừ ngã chấp, tức là không có ngã (cái ta).
2. Không thấy có vật thí, như vậy thì có thể trừ san tham, tức là pháp không.
3. Không thấy có người nhận, không phân biệt người thân, kẻ oán, đều bình đẳng bố thí, tức là người không.
Ðược ba điều này đều không, thì mới là bố thí chân thật. Bằng không, nếu vì danh vì lợi, thì biến thành bố thí có xí đồ, là bố thí giả, chẳng phải thật bố thí.
‘’ Chánh Niệm Thiên Vương ngộ môn này.’’ Vị Ðoan Chánh Niệm Thiên Vương minh bạch được đạo lý môn giải thoát này.
Trí thân Như Lai mắt rộng lớn
Hạt bụi thế giới thảy đều thấy
Như vậy cùng khắp trong mười phương
Vân Âm Thiên Vương chứng môn này.
‘’ Trí thân Như Lai mắt rộng lớn.’’ Trí huệ thân của Phật phóng đại quang minh, chiếu khắp mười phương thế giới. Quang minh này rộng lớn không bờ mé, chẳng có chỗ nào không chiếu đến, chẳng có chỗ nào mà không có.
‘’ Hạt bụi thế giới thảy đều thấy.’’ Tất cả hạt bụi ở trong mười phương thế giới, và tất cả chúng sinh vạn sự vạn vật, Phật đều biết đều thấy, cho nên nói hết thảy đều thấy.
‘’ Như vậy cùng khắp trong mười phương.’’ Trí thân của Phật có mắt rộng lớn, cho nên chiếu sáng khắp mười phương. Hạt bụi trong tất cả thế giới không đâu mà chẳng thấy, đó là cảnh giới của Phật.
‘’ Vân Âm Thiên Vương chứng môn này.’’ Cảnh giới môn giải thoát này, vị Cao Thắng Vân Âm Thiên Vương minh bạch được.
Tất cả Phật tử hạnh bồ đề
Ðều hiện trong lỗ lông Như Lai
Như thế vô lượng đều đầy đủ
Giải thoát này của Niệm Thiên Vương.
‘’ Tất cả Phật tử hạnh bồ đề.’’ Tất cả Bồ Tát hậu bổ làm Phật vị, ở nội viện cung trời Ðâu Suất, hạnh môn của các Ngài tu là giác đạo. Ðợi nhân duyên thành thục thì nương voi trắng sáu ngà (đại biểu cho lục độ Ba la mật) hàng sinh xuống nhân gian làm giáo chủ.
‘’ Ðều hiện trong lỗ lông Như Lai.’’ Các Ngài từ ban đầu phát tâm bồ đề, hành Bồ Tát đạo, tất cả hạnh môn cho đến bổ Phật vị, đều hiện ra ở trong lỗ chân lông của Phật.
‘’ Như thế vô lượng đều đầy đủ.’’ Giống như những hạnh môn, nhiều vô lượng vô biên như thế, đều đầy đủ cảnh giới này.
‘’ Giải thoát này của Niệm Thiên Vương.’’ Cảnh giới này vị Thành Tựu Niệm Thiên Vương minh bạch, thấy được.
Tất cả an lạc của thế gian
Hết thảy đều từ Phật sinh ra
Công đức Như Lai chẳng ai bằng
Tịnh Quang Thiên Vương vào môn này.
‘’ Tất cả an lạc của thế gian.’’ Tất cả sự an lạc và bình an ở nhân gian và trên cõi trời đều nhờ Phật gia bị, ban bố cho.
‘’ Hết thảy đều từ Phật sinh ra.’’ Vì Phật pháp có công năng vun bồi tưới bón, khiến cho chúng sinh chẳng có căn lành, thì trồng căn lành, đã trồng căn lành thì khiến cho tăng trưởng. Người căn lành tăng trưởng, thì khiến cho thành thục, người căn lành thành thục, thì khiến cho giải thoát, sau đó khiến cho tất cả chúng sinh, đều thành tựu Phật đạo, cho nên nói tất cả đều từ Phật sinh ra.
‘’ Công đức Như Lai chẳng ai bằng.’’ Công đức của Phật thù thắng nhất, chẳng ai có thể sánh được. Vì Phật trong ba đại A tăng kỳ kiếp tu phước tu huệ, trong trăm đại kiếp tu đủ thứ công đức tướng tốt, cho nên Phật là phước huệ lưỡng túc tôn, có ba mươi hai tướng trang nghiêm, tám mươi vẻ đẹp, thành bậc chánh giác, ba giác viên mãn.
Ðầu của Phật có hào quang, trên đỉnh có nhục kế, tóc quắn xanh biếc, mặt như trăng rằm, hào quang trắng phóng quang minh, lông mi cong như trăng non, mắt sáng như gương, mũi chẳng hiện lỗ, môi đỏ như đan (chất màu đỏ tươi), răng trắng như tuyết, bốn mươi cái răng, lưỡi dài quá mũi, tai thon gần đụng vai, toàn thân màu hoàng kim, da trơn mịn, thể thơm như bông lan, ngực có chữ vạn, rún sâu tròn tốt, tay dài quá gối, tay chân có màng mỏng, ngón tay nhỏ dài, móng tay như ngói, mu bàn chân cao dày, đi như thiên nga, tướng mã âm tàng, đầu gối tròn cứng, âm thanh sâu xa .v.v. Ba mươi hai tướng này đều hiếm có trong đời, chúng ta may đâu chỉ có một trong ba mươi hai tướng, tức là quý tướng. Tại sao chúng ta chẳng có những tướng này ? Vì kiếp trước chẳng tu phước chẳng tu huệ, cho nên chẳng có tướng tốt như thế. Nếu muốn tướng mạo đoan chánh trang nghiêm thì phải mau trì giới bố thí, tu phước tu huệ, mới có được tướng tốt.
‘’ Tịnh Quang Thiên Vương vào môn này.’’ Môn giải thoát này vị Tịnh Hoa Quang Thiên Vương minh bạch được.
Ðức Phật là cha đại từ bi của chúng ta, cho nên sớm dự bị sự khoái lạc ở cõi trời và cõi người. Chúng ta giống như lúc còn thơ ấu, cha mẹ mua đến rất nhiều đồ chơi, trẻ con thấy đồ chơi nhảy nhót vui mừng, bèn sinh tâm khoái lạc. Sự khoái lạc này do cha mẹ ban cho. Chư thiên, loài người đều là con, cháu của Phật, cho nên Phật mới cho chúng sinh an lạc. Suy nghĩ như thế mới sinh tín tâm đối với Phật.
Nếu nghĩ chút công đức Như Lai
Cho đến kính ngưỡng một tâm niệm
Các đường ác sợ đều vĩnh trừ
Trí Nhãn Thiên Vương ngộ môn này.
‘’ Nếu nghĩ chút công đức Như lai.’’ Nếu như bạn nghĩ nhớ công đức của Phật dù nhỏ nhất, thậm chí chút công đức nhỏ như hạt bụi, thì sẽ được chỗ diệu dụng không thể nghĩ bàn.
‘’ Cho đến kính ngưỡng một tâm niệm.’’ Hoặc là trong khoảng một niệm, sinh tâm chuyên nhất kính ngưỡng đối với Phật, tức là chẳng có tâm tạp loạn để kính ngưỡng Phật. Tuy nhiên là công đức nhỏ nhất nhưng có công năng lớn vô cùng.
‘’ Các đường ác sợ đều vĩnh trừ.’’ Chỉ trong một niệm, sinh tâm cung kính ngưỡng mộ, thì vĩnh viễn thoát khỏi tâm sợ sệt trong ba đường ác : địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
‘’ Trí Nhãn Thiên Vương ngộ môn này.’’ Vị Trí Nhựt Nhãn Thiên Vương, giác ngộ thâm sâu và minh bạch cảnh giới môn giải thoát này.
Ðại thần thông trong pháp tịch tĩnh
Ứng khắp quần tâm đều gia bị
Tất cả nghi hoặc đều đoạn trừ
Quang Minh Thiên Vương được môn này.
‘’ Ðại thần thông trong pháp tịch tĩnh.’’ Pháp tịch tĩnh tức là : không nói cũng không truyền, nên quán sát như thế, các pháp từ duyên đến, thường đến tướng tịch tĩnh. Tướng của các pháp là tịch tĩnh, tuy nhiên là tịch tĩnh, nhưng Phật hiển hiện đại thần thong, giáo hóa chúng sinh, khai thị chúng sinh, khiến cho chúng sinh đoạn trừ nghi hoặc. Cho nên Phật ở trong tịch tĩnh đạo tràng hiện ra đủ thứ thần thông.
‘’ Ứng khắp quần tâm đều gia bị.’’ Khi Phật thuyết Kinh Hoa Nghiêm, thì ở trong định phóng quang, gia bị cho các đại Bồ Tát thuyết pháp chủ. Các Ngài nương đại oai đức thần thông lực của Phật, mà diễn nói diệu pháp, cảm ứng đạo giao với tâm chúng sinh hổ tương tiếp xúc, hổ tương khế hợp, chẳng có một chúng sinh nào, mà không đắc được thần lực gia bị của Phật.
‘’ Tất cả nghi hoặc đều đoạn trừ.’’ Vì dùng sức cảm ứng đạo giao để gia bị, cho nên tất cả nghi hoặc của chúng sinh đều đoạn tuyệt, mà sinh ra tín tâm, tin Phật pháp giải quyết được vấn đề, mà thế gian chẳng giải quyết được.
Cảm ứng đạo giao tức là : việc sở cầu của chúng sinh, mong Phật, Bồ Tát đáp ứng, toại tâm như ý, việc tâm mong muốn đều thành tựu. Cảm là cảm động, chúng sinh kiền thành câu nguyện, hoặc tụng Kinh, niệm danh hiệu Phật, làm cảm động Phật, Bồ Tát. Ứng là phản ứng, Phật, Bồ Tát bị cảm động rồi, thì phản ứng nguyện cầu của chúng sinh, đáp ứng những sở cầu của chúng sinh. Ðạo giao cũng như bật nút điện, chỉ cần ấn vào thì đèn phát ra ánh sáng. Chúng ta học Phật pháp tức là, học phương pháp ấn nút điện, hai luồng điện âm dương tiếp với nhau, thì có ánh sáng, tức là khôi phục đại quang minh tạng vốn có.
‘’ Quang Minh Thiên Vương được môn này.’’ Cảnh giới môn giải thoát này vị Tự Tại Quang Minh Thiên Vương đắc được.
Lại nữa, Nhựt Thiên Tử được môn giải thoát, thường phóng quang minh thanh tịnh, chiếu khắp lợi ích chúng sinh, trong mười phương tận kiếp vị lai.
Vị Nhựt Thiên Tử đắc được quang minh thanh tịnh, chiếu khắp tất cả chúng sinh trong mười phương, cho đến suốt kiếp vị lai, luôn luôn lợi ích chúng sinh. Giống như ánh sáng mặt trời, chiếu khắp tất cả, được sự ấm áp mà sinh trưởng. Ðó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Chúng ta đều đắc được lợi ích của Phật Bồ Tát. Phật Bồ Tát lợi ích chúng sinh, biến thành ngũ cốc để trị liệu bệnh đói của chúng sinh, biến thành tơ lụa để che ấm cho chúng sinh, bố thí tất cả vật thất cho chúng sinh, khiến cho chúng sinh đắc được an lạc.
Quang Diệm Thiên Tử, được môn giải thoát, dùng tất cả tùy loại thân, khai ngộ chúng sinh, khiến cho họ nhập vào biển trí huệ.
Vị Quang Diệm Nhãn Thiên Tử có quang minh sáng chói giống như lửa ngọn, khiến cho mắt của người bị chói không thể mở. Vị nầy đắc được môn giải thoát, tùy theo tất cả mọi loại chúng sinh, mà hiển hiện các thứ thân hình. Muốn độ người thì hiện thân người, muốn độ chó thì hiện thân chó. Muốn độ chúng sinh nào thì hiện thân đó, khiến cho họ bỏ mê về giác, từ ngu si mà đắc được trí huệ, đều nhập vào biển trí huệ, vĩnh viễn chẳng còn ngu si nữa.
Tu Di Quang Hoan Hỉ Tràng Thiên Tử, được môn giải thoát, làm chủ tất cả chúng sinh, khiến cho họ siêng tu, vô biên công đức thanh tịnh.
Vị Tu Di Quang Hoan Hỉ Tràng Thiên Tử được môn giải thoát, làm chủ tất cả chúng sinh, khiến cho ho tinh tấn tu hành, tu vô biên công đức thanh tịnh. Công đức nầy lợi ích chúng sinh, chứ chẳng phải lợi ích cho mình, cho nên gọi là làm công đức thanh tịnh.
Tịnh Bảo Nguyệt Thiên Tử, được môn giải thoát, thâm tâm hoan hỉ tu tất cả khổ hạnh.
Vị Tịnh Bảo Nguyệt Thiên Tử hiểu nghĩa lý tu tất cả khổ hạnh. Từ trong thâm tâm hoan hỉ sự khổ hạnh, muốn tu pháp nầy, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc đựơc.
Ðức Phật có mười vị đệ tử lớn, mỗi vị đều đắc được đệ nhất. Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp được đầu đà (khổ hạnh) đệ nhất, làm những việc người không thể làm, hành những việc người không thể hành, ăn cơm mà những người khác không thể ăn, mặc y mà những người khác không thể mặc. Tôn Giả tu mười hai điều khổ hạnh :
1. Ở chỗ vắng lặng.
2. Hoặc ở ngoài nghĩa địa.
3. Hoặc ở ngoài đồng.
4. Ngủ dưới gốc cây.
5. Ngồi không nằm.
6. Thường đi khất thực.
7. Ăn có thứ lớp.
8. Ngày ăn một bữa.
9. Ăn có tiết lượng.
10. Quá ngọ không uống nước.
11. Mặc y phấn tảo.
12. Chỉ có ba y.
Ðó là những điều khổ hạnh.
Dũng Mãnh Bất Thối Chuyển Thiên Tử, được môn giải thoát, quang minh vô ngại chiếu khắp, khiến cho tất cả chúng sinh đắc được lợi ích, tăng thêm tinh tấn khoái lạc.
Vị Dũng Mãnh Bất Thối Chuyển Thiên Tử, dũng mãnh tinh tấn dụng công tu hành, bất cứ gặp khó khăn gì, cũng tuyệt đối không thối chuyển, do đó đắc được quang minh vô ngại. Quang minh nầy chiếu khắp tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều đắc được lợi ích, tăng thêm tinh tấn khoái lạc, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Diệu Hoa Anh Quang Minh Thiên Tử, được môn giải thoát, quang minh thanh tịnh chiếu khắp thân chúng sinh, khiến cho họ sinh hoan hỉ tin hiểu.
Vị Diệu Hoa Anh Quang Minh Thiên Tử, đắc được quang minh thanh tịnh, chiếu khắp thân chúng sinh. Khiến cho tất cả chúng sinh, sinh tâm đại hoan hỉ, tâm tin hiểu, do tin mà hiểu. Trí huệ nầy giống như biển cả, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Tối Thắng Tràng Quang Minh Thiên Tử, được môn giải thoát, quang minh chiếu khắp tất cả thế gian, khiến cho thành tựu đủ thứ công đức vi diệu.
Vị Tối Thắng Tràng Quang Minh Thiên Tử, dùng quang minh thù thắng nhất, chiếu khắp tất cả thế gian. Vị nầy dùng quang minh để thuyết pháp, dùng quang minh để giáo hoá chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh thế gian, đều thành tựu đủ thứ diệu công đức không thể nghĩ bàn. Ðó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Bảo Kế Phổ Quang Minh Thiên Tử, được môn giải thoát, biển đại bi hiện vô biên cảnh giới, đủ loại sắc tướng báu.
Vị Bảo Kế Phổ Quang Minh Thiên Tử, đắc được biển đại bi, ban cho chúng sinh tất cả khoái lạc, và tất cả nguyện vọng, đều toại tâm như ý. Chúng sinh muốn vàng thì cho vàng, muốn bạc thì cho bạc, muốn lưu ly thì cho lưu ly. Muốn cầu châu báu gì, thì cho châu báu đó. Cho nên ở trong biển đại bi, hiện ra vô biên đủ thứ sắc tướng báu, phàm là châu báu có hình có tướng, đều hiện ra để làm thoả mãn sở cầu của chúng sinh, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Quanh Minh Nhãn Thiên Tử, được môn giải thoát, tịnh trị tất cả mắt của chúng sinh, khiến cho họ thấy pháp giới tạng.
Vị Quang Minh Nhãn Thiên Tử có mắt sáng vô cùng, quán sát những nơi rất xa mà thấy rất rõ ràng. Vị nầy tịnh trị tất cả bệnh mắt của chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh thấy được cảnh giới pháp giới tạng.
Trì Ðức Thiên Tử được môn giải thoát, phát sinh tâm thanh tịnh tương tục, khiến cho không hư hoại.
Vị Trì Ðức Thiên Tử tu pháp môn trì phước đức tướng hảo, cho nên đắc được cảnh giới tất cả tâm thanh tịnh tương tục, khiến cho tâm thanh tịnh tương tục không ngừng, vĩnh viễn không mất không hoại. Vị nầy đắc được môn giải thoát nầy.
Phổ Vận Hành Quang Minh Thiên Tử, được môn giải thoát, vận khắp nhựt cung điện, chiếu tất cả chúng sinh trong mười phương, khiến cho thành tựu nghiệp đã làm ra.
Vị Phổ Vận Hành Quang Minh Thiên Tử, đắc được môn giải thoát, vận chuyển cung điện ánh sáng mặt trời, chiếu sáng tất cả chúng sinh trong mười phương, khiến cho họ thành tựu thiện nghiệp tu làm được.
Bấy giờ, Nhựt Thiên Tử, nương oai lực của Ðức Phật, quán khắp tất cả chúng Nhựt Thiên Tử mà nói ra bài kệ.
Lúc đó, vị Nhựt Thiên Tử nương đại oai đức thần lực của Ðức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Nhựt Thiên Tử, mà nói kệ tán thán công đức của Phật.
Trí huệ quang Như Lai rộng lớn
Chiếu khắp mười phương các cõi nước
Tất cả chúng sinh đều thấy Phật
Ðủ thứ điều phục nhiều phương tiện.
“Trí huệ quang Như Lai rộng lớn”. Trí huệ quang của Phật rộng lớn vô biên. Trí huệ Quang nầy do tu thiền định mà đắc được. Tu đến lúc chẳng còn vọng tưởng, thì trí huệ quang sẽ hiện tiền, tức cũng khai ngộ. Phật tu phước tu huệ trong nhiều đời nhiều kiếp, cho nên có đại trí huệ quang.
“Chiếu khắp mười phương các cõi nước”. Trí huệ quang nầy rộng lớn chiếu khắp các cõi nước chư Phật trong mười phương.
“Tất cả chúng sinh đều thấy Phật”. Chúng sinh trong mười phương cõi nước đều thấy Phật.
“Ðủ thứ điều phục nhiều phương tiện”. Phật dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để điều phục tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh, thấy được Phật rồi, đều sửa lỗi làm mới, bỏ ác hướng thiện, hồi quang phản chiếu, đắc được giác ngộ.
Sắc tướng Như Lai không bờ mé
Tùy chúng sinh thích đều hiện thân
Khắp vì thế gian mở biển trí
Diệm Nhãn quán nơi Phật như vậy.
“Sắc Thân Như Lai không bờ mé”. Pháp thân của Phật chẳng có bờ mé, sắc thân của Phật cũng chẳng có bờ mé, đều tận hư không khắp pháp giới. Song, pháp thân không hình không tướng, còn sắc thân thì có hình có tướng.
“Tùy chúng sinh thích đều hiện thân”. Tùy theo sở vui thích của chúng sinh, Phật đều hiện thân để vì họ thuyết pháp, nói pháp Bốn Thánh Ðế, pháp mười hai nhân duyên, pháp lục độ .v.v.
“Khắp vì thế gian mở biển trí”. Mục đích Phật thuyết pháp, là khắp vì tất cả chúng sinh thế gian, khai mở biển trí huệ. Có trí huệ rồi mới biết rõ thiện ác thị phi, không làm việc điên đảo.
“Diệm Nhãn Quán nơi Phật Như vậy”. Quang Diễm Nhãn Thiên Tử quán tưởng nơi Phật như thế.
Thân Phật chẳng sánh không ai bằng
Quang minh chiếu sáng khắp mười phương
Vượt hơn tất cả trên hết thảy
Hoan Hỉ Thiên Tử được môn nầy.
“Thân Phật chẳng sánh không ai bằng”. Thân của Phật không ai bằng, cũng chẳng thể so sánh, nghĩa là chẳng có ai bằng Phật.
“Quang minh chiếu sáng khắp mười phương”. Quang minh của Phật chiếu sáng khắp mười phương, giống như ánh sáng mặt trời, nhưng hơn hẳn ánh sáng mặt trời. Vì ánh sáng mặt trời chỉ chiếu mặt dương mà không thể chiếu mặt âm. Quang minh của Phật chiếu khắp, chẳng có chỗ nào mà không chiếu, bất cứ là mặt âm hay mặt dương đều chiếu khắp.
“Vượt hơn tất cả trên hết thảy”. Quang minh của Phật, vượt hơn tất cả ánh sáng mặt trời, mặt trăng , sao. Không thể nào so sánh được quang minh của Phật. Cho nên nói vượt hơn tất cả trên hết thảy.
“Hoan Hỉ Thiên Tử được môn nầy”. Cảnh giới môn giải thoát nầy vị Tu Di Quang Hoan Hỉ Tràng Thiên tử đắc được.
Vì lợi thế gian tu khổ hạnh
Qua lại các cõi vô lượng kiếp
Quang minh tịnh khắp như hư không
Bảo Nguyệt biết được phương tiện nầy.
“Vì lợi thế gian tu khổ hạnh”. Tịnh Bảo Nguyệt Thiên Tử, vì lợi ích tất cả chúng sinh thế gian, mới tu khổ hạnh. Nguyện dùng khổ hạnh của mình, để giải trừ khổ của chúng sinh, đó là tinh thần của Phật Bồ Tát cứu đời cứu người.
“Qua lại các cõi vô lượng kiếp”. Chuyển đi chuyển lại ở trong tam giới hai mươi lăm cõi, trong thời gian vô lượng kiếp tu khổ hạnh. Hai mươi lăm cõi là : Dục giới có mười bốn cõi, sắc giới có bảy cõi, vô sắc giới có bốn cõi, tổng cộng hai mươi lăm cõi.
Mười bốn cõi dục giới tức là :
Bốn đường ác ( A tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục).
Bốn đại châu (Nam Thiệm Bộ Châu, Ðông thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Câu Lưu Châu).
Sáu cõi trời dục giới (Trời Tứ Thiên Vương, Trời Ðao Lợi, Trời Dạ Xoa, Trời Ðâu Suất, Trời Hóa Lạc, Trời Tha Hóa Tự Tại).
Sắc giới có bảy cõi tức là :
Trời Sơ Thiền,
Trời Nhị Thiền,
Trời Tam Thiền,
Trời Tứ Thiền,
Trời Ðại Phạm,
Trời Tịnh Không,
Trời Vô Tưởng.
Vô sắc giới có bốn cõi tức là :
Trời Không Vô Biên Xứ,
Trời Thức Vô Biên Xứ,
Trời Vô Sở Hữu Xứ,
Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng.
Phá phiền não hai mươi lăm cõi gọi là tịnh, phá nghiệp hai mươi lăm cõi gọi là ngã, phá chấp hai mươi lăm cõi gọi là lạc. Chẳng còn sinh tử hai mươi lăm cõi gọi là thường. Thường lạc ngã tịnh là bốn đức Niết Bàn.
Phật nói pháp thế gian là : vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, đó là pháp phương tiện. Phật nói pháp xuất thế là : thường, lạc, ngã, tịnh đó là pháp chân thật. Vô thường là chúng sinh, thường là pháp thân. Khổ là ngoại đạo, lạc là Niết Bàn. Vô ngã là sinh tử, ngã là Như Lai. Bất tịnh là hữu vi, tịnh là vô vi.
Ví dụ : Trăng sáng là thường lạc ngã tịnh. Mây đen là vô thường khổ vô ngã bất tịnh. Pháp thế gian là mây đen che mặt trăng, không thấy ánh sáng. Pháp xuất thế giống như gió mát, thổi mây bay đi hết, thì lại thấy mặt trăng chiếu sáng.
Phàm phu có bốn việc điên đảo : Lấy sinh diệt vô thường, chấp trước làm thường. Lấy hoặc nghiệp khổ chấp trước làm vui. Lấy duyên giả ngã chấp trước làm ngã. Lấy phiền não nhiễm ô, chấp trước làm tịnh, cho nên là chúng sinh.
Chúng ta là người tu đạo, phải trừ khử vô minh , nếu trừ sạch vô minh thì chân tâm sáng tỏ, trí huệ hiện tiền, thấy rõ chân lý thì chẳng còn điên điên đảo nữa.
“Quang minh tịnh khắp như hư không”. Quang minh của Phật, thanh tịnh khắp như hư không, tơ hào chẳng nhiễm.
“Bảo Nguyệt biết được phương tiện nầy”. Tịnh Bảo Nguyệt Thiên Tử biết được phương tiện pháp môn nầy.
Phật diễn diệu âm không chướng ngại
Khắp cùng mười phương các cõi nước
Dùng pháp từ vị ích quần sinh
Dũng Mãnh thấu triệt phương tiện nầy.
“Phật diễn diệu âm không chướng ngại”. Âm thanh vi diệu của Phật, chẳng có gì chướng ngại được, bất cứ nơi nào xa, cũng đều nghe được âm thanh của Phật. Không những nghe được mà còn rất rõ ràng, giống như Phật đang ở trước mặt.
“Biến khắp mười phương các cõi nước”. Phật giảng Kinh thuyết pháp, ở trong một cõi nước, mà các cõi nước trong mười phương cùng đều nghe được.
“Dùng pháp từ vị ích quần sinh”. Phật dùng từ vị của pháp, để lợi ích chúng sinh, do đó “Thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn”, để tăng trưởng huệ mạng của chúng sinh.
“Dũng mãnh thấu triệt phương tiện này”. Vị Dũng Mãnh Bất Thối Chuyển Thiên Tử minh bạch môn thiện xảo phương tiện nầy.
Phóng lưới quang minh không nghĩ bàn
Tịnh khắp tất cả các hàm thức
Khiến cho phát sinh tin hiểu sâu
Hoa Anh Thiên Vương chứng môn nầy.
“Phóng lưới quang minh không nghĩ bàn”. Phật phóng ra một loại lưới quang minh, không thể nghĩ bàn, độ thoát tất cả chúng sinh ra khỏi biển sinh tử.
“Tịnh khắp tất cả các hàm thức”. Hàm thức là chúng sinh gồm có tám thức, lưới quang minh của Phật khiến tất cả chúng sinh đắc được thanh tịnh.
“Khiến cho phát sinh tin hiểu sâu”. Hoàn toàn khiến cho chúng sinh, đều phát sinh tin hiểu sâu rộng, thậm chí con vật nhất cũng hiểu được.
“Hoa Anh Thiên Vương chứng môn nầy”. Vi Diệu Hoa Anh Quang Minh Thiên Tử, thâm nhập được môn giải thoát nầy.
Tất cả quang minh trong thế gian
Chẳng bằng quang minh lỗ lông Phật
Quang minh của Phật không nghĩ bàn
Thắng Tràng Quang Thiên ngộ môn nầy.
“Tất cả quang minh trong thế gian”. Tất cả ánh sáng mặt trời, mặt trăng, sao cho đến đèn điện trong thế gian không thể so sánh với quang minh của Phật.
“Chẳng bằng quang minh lỗ lông Phật”. Những ánh sáng trong thế gian, chẳng bằng quang minh một lỗ chân lông của Phật. Quang minh lỗ chân lông của Phật chiếu sáng khắp ba ngàn đại thiên thế giới.
“Quang minh của Phật không nghĩ bàn”. Quang minh của Phật vĩ đại như thế, tán thán không hết, nói không cùng được, là cảnh giới không thể nghĩ bàn.
“Thắng Tràng Quang Thiên ngộ môn nầy”. Cảnh giới môn giải thoát nầy vị Tối Thắng Tràng Quang Minh Thiên Tử đắc được.
Tất cả Phật pháp đều như thế
Ðều ngồi dưới gốc cội bồ đề
Khiến kẻ làm ác sửa làm lành
Bảo Kế Quang Minh thấy môn nầy.
“Tất cả Phật pháp đều như thế”. Tất cả pháp của chư Phật trong mười phương ba đời đều như thế.
“Ðều ngồi dưới gốc cội bồ đề”. Khi chư Phật thành đạo, đều ngồi dưới cội bồ đề khai ngộ thành Phật.
“Khiến kẻ làm ác cải làm lành”. Khiến cho chúng sinh địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh xa rời đường ác mà sinh về đường lành, cải ác hướng thiện, cài tà quy chánh.
“Bảo Kế Quang Minh thấy môn nầy”. Vị Bảo Kế Phổ Quang Minh Thiên Tử đắc được cảnh giới nầy.
Chúng sinh mù tối ngu si khổ
Phật muốn cho họ sinh mắt tịnh
Khiến cho khai mở đèn trí huệ
Thiện Mục quán được pháp môn nầy.
“Chúng sinh mù tối ngu si khổ”. Mù là vô minh, tối là phiền não, ngu si là chấp trước. Ba thứ nầy khổ đặc biệt, nhưng những khổ nầy chẳng ai giác ngộ, giống như cá ở trong nước chẳng thấy nước, người ở trong khổ chẳng biết khổ, nhiễm khổ cho rằng vui.
“Phật muốn cho họ sinh tịnh nhãn”. Phật muốn cho tất cả chúng sinh đều sinh mắt trí huệ thanh tịnh. Có đại trí huệ rồi, thì sẽ phá được phiền não vô minh và chấp trước, tức là được giải thoát.
“Khiến cho khai mở đèn trí huệ”. Vì Phật muốn phá khổ mù tối ngu si của chúng sinh, cho nên vì chúng sinh khai mở đèn trí huệ, dạy tất cả chúng sinh phá vô minh, bỏ tà về chánh.
“Thiện Mục quán được pháp môn nầy”. Vị Thiện Mục Thiên Tử quán sát và đắc được môn giải thoát nầy.
Ðấng Tự Tại phương tiện giải thoát
Nếu ai thấy được mà cúng dường
Khiến họ tu hành chứng đạo quả
Trì Ðức Thiên Tử thấu môn nầy.
“Ðấng tự tại phương tiện giải thoát”. Giải thoát nghĩa là : chẳng còn mọi sự chấp trước. Không còn chấp trước mới thật sự tự tại. Không trói không buộc, không quái không ngại, không sầu không lo, không vui không giận, không bị gì ràng buộc, không bị vật chất lung lay, thì “vượt ra khỏi tam giới, không ở trong ngũ hành”, như vậy mới hoàn toàn giải thoát. Nếu muốn được giải thoát thì tu đủ thứ phương tiện pháp môn, từ phương tiện pháp môn mà đạt đến tự tại, từ tự tại mới đạt được giải thoát.
Chân chánh giải thoát thì chẳng có tướng giải thoát, chẳng có tính giải thoát, không thể nói giải thoát. Người hay nói thì chẳng phải là thật giải thoát, hơn nữa chẳng phải nói có tư tưởng thì nói tôi giải thoát rồi. Nhưng làm thế nào biết có giải thoát ? vậy vẫn chưa được giải thoát.
Tại sao phải nói có giải thoát ? Giải thoát vốn là giải thoát. Tại sao phải nói tôi phải giải thoát ? Tôi phải đắc được giải thoát ? Vậy bạn đã vứt giải thoát rồi chăng ? hay là đã mất rồi chăng ? cho nên một số người không giữ quy cụ, cho rằng mình đắc được giải thoát (tự do), cho rằng muốn họ giữ quy cụ thì chẳng đắc được giải thoát. Thứ tư tưởng nầy khiến cho họ làm tự liễu hán, họ không biết đến người, người không biết đến họ. Do đó, “quan niệm”, chẳng màng đến việc gì hết. Thật ra đại Bồ Tát thì hành Bồ Tát đạo, chuyên lo mọi việc. Di Ðà Phật tiếp dẫn chúng sinh về thế giới Cực Lạc, hoa sen hóa sinh, chẳng có thời giờ nghỉ ngơi, sao nói không thích lo việc thiên hạ ?
Tổ thứ tư Ðạo Tín đại sư khoảng mười bốn tuổi thì đến núi Sùng Công lạy Tổ thứ ba là Tăng Xán.
– Ðạo Tín đại sư nói :”Mong Hòa Thượng từ bi, chỉ dạy pháp môn giải thóat”.
– Tổ Tăng Xán nói : “Ai trói buộc ngươi” ?
– Ngài Ðạo Tín nói : “Chẳng ai trói buộc”.
– Tổ Tăng Xán nói : “Cầu giải thoát để làm gì” ?
Ngài Ðạo Tín nghe rồi bèn khai ngộ, ở lại hầu Tổ Tăng Xán bảy năm, sau được tâm ấn Cà sa làm Tổ thứ tư.
“Nếu ai thấy được mà cúng dường”. Ðấng tự tại phương tiện giải thoát tức là Phật. Nếu có ai thấy được Phật mà phát tâm cúng dường Phật.
“Khiến họ tu hành chứng đạo quả”. Hoàn toàn khiến cho chúng sinh cúng dường, tu đủ thứ pháp môn, chứng được quả vị.
“Trì Ðức Thiên Tử thấu môn nầy”. Vị Trì Ðức Thiên Tử minh bạch được phương tiện pháp môn nầy.
Trong một pháp môn vô lượng môn
Vô lượng ngàn kiếp nói như vậy
Sở diễn pháp môn nghĩa rộng lớn
Phổ Vận Quang Thiên ngộ môn nầy.
“Trong một pháp môn vô lượng môn”. Pháp của Phật nói là một làm lượng, vô lượng làm một. Một gốc tán làm vạn thù, vạn thù quy về một gốc. Cho nên mới nói : trong một pháp môn, diễn nói vô lượng pháp môn, vô lượng pháp môn, trở về một pháp môn. Ðó là cảnh giới trùng trùng vô tận, vô tận trùng trùng.
“Vô lượng ngàn kiếp nói như vậy”. Trong vô lượng trăm ngàn vạn kiếp, Phật đều nói pháp như thế. Nhưng thứ pháp nầy thủy chung cũng nói không hết.
“Sở diễn pháp môn nghĩa rộng lớn”. Pháp môn của Phật diễn nói là vô lượng vô biên, cho nên nghĩa lý rộng lớn, vô cùng tận.
“Phổ Vận Quang Thiên ngộ môn nầy”. Phổ Vận Quang Minh Thiên Tử thấy rõ cảnh giới nầy.
Lại nữa, Nguyệt Thiên Tử, được môn giải thoát, quang minh thanh tịnh, chiếu khắp pháp giới nhiếp hóa chúng sinh.
Vị Nguyệt Thiên Tử dùng quang minh thanh tịnh của Phật, chiếu khắp pháp giới, để nhiếp hóa tất cả chúng sinh, khiến cho họ sớm thành Phật đạo, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Hoa Vương Kế Quang Minh Thiên Tử, được môn giải thoát, quán sát tất cả chúng sinh giới, khiến cho họ vào khắp vô biên pháp.
Vị Hoa Vương Kế Quang Minh Thiên Tử, quán sát vô lượng vô biên tất cả chúng sinh giới, khiến cho tất cả chúng sinh, nhập vào khắp vô biên pháp môn, vô biên trí môn, vị nầy đắc được cảnh giới nầy, nhập vào môn giải thoát nầy.
Chúng Diệu Tịnh Quang Thiên Tử, được môn giải thoát, biết rõ tất cả đủ thứ sự phan duyên, biến chuyển trong biển tâm của chúng sinh.
Vị Chúng Diệu Tịnh Quang Thiên Tử, biết rõ tất cả đủ thứ sóng phan duyên trong biển tâm chúng sinh. Vị nầy hiểu được sóng phan duyên làm thế nào sinh ra ? Chúng sinh làm thế nào bị sóng phan duyên lay chuyển? Vị nầy đắc được môn giải thoát nầy.
Trên thế giới nầy có đủ thứ người, có đủ thứ tâm phan duyên. Ðủ thứ tâm phan duyên bị sóng lay chuyển, giống như sóng trong biển không khác. Gió lớn thì sóng cũng lớn, gió nhỏ thì sóng cũng nhỏ. Nếu chẳng có tâm phan duyên thì chẳng có sóng, tâm bình như gương thì không bị cảnh giới lay chuyển, ngược lại chuyển được cảnh giới.
An Lạc Thế Gian Tâm Thiên Tử, được môn giải thoát, sự khoái lạc không thể nghĩ bàn, của tất cả chúng sinh, khiến cho họ nhảy nhót vui mừng.
Vị An Lạc Thế Gian Tâm Thiên Tử, đắc được cảnh giới, tâm ai không khoái lạc, ban cho tất cả chúng sinh khoái lạc không thể nghĩ bàn, chúng sinh đắc được khoái lạc rồi thì nhảy nhót, sinh tâm vui mừng, không gì sánh được, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Thụ Vương Nhãn Quang Minh Thiên Tử, được môn giải thoát, tùy thời khiến cho thành tựu, như làm nghề ruộng, gieo trồng hạt giống.
Vị Thụ Vương Nhãn Quang Minh Thiên Tử mắt sáng đại trí huệ, chiếu phá sự đen tối vô minh. Cảnh giới tam muội nầy, giống như nông phu làm nghề ruộng, trước hết gieo giống, sau đó mới nảy mầm đâm chồi nảy lộc, còn phải tùy thời giữ gìn, chăm sóc, cạo cỏ, tưới nước bón phân .v.v., mới mong thu hoạch kết quả.
Phật ở trong ruộng Phật, gieo trồng xuống hạt giống bồ đề, sau đó nảy mầm lớn lên từng chút từng chút, thành cây bồ đề, kết quả bồ đề, từng bước từng bước mà thành tựu, nhưng cần phải bảo vệ giữ gìn nó, phải từ từ, thiếu nước thì tưới nước, ít phân thì thêm phân. Dùng nước đức tính để tưới mầm non trí tuệ, dùng lục độ vạn hạnh, làm phân bón để vun bồi cây bồ đề, khiến cho nó khai hoa kết quả, phải luôn luôn giữ gìn, khiến cho nó thành thục, đắc được giải thoát. Vị Thiên Tử nầy đắc được môn giải thoát nầy.
Xuất Hiện Tịnh Quang Thiên Tử, được môn giải thoát, từ bi cứu hộ tất cả chúng sinh, khiến cho hiện thấy sự thọ khổ thọ vui.
Vị Xuất Hiện Tịnh Quang Thiên Tử đắc được tam muội, từ bi cứu hộ tất cả chúng sinh. Từ là ban vui cho chúng sinh, bi là cứ khổ chúng sinh. Từ là vô duyên đại từ, bi là đồng thể đại bi. Vị Thiên Tử nầy dùng tâm từ bi để cứu độ chúng sinh, để cứu hộ tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, thấy sự thọ khổ thọ vui. Vị nầy đắc được môn giải thoát nầy.
Phổ Du Bất Ðộng Quang Thiên Tử, được môn giải thoát, giữ mặt trăng thanh tịnh, hiện khắp trong mười phương.
Vị Phổ Du Bất Ðộng Quang Thiên Tử du hành khắp mười phương. Tuy nhiên du hành nhưng chẳng động chỗ ngồi, hoặc là ở nơi tịch tĩnh trong đạo tràng, đó là cảnh giới thiền định, chẳng phải người phàm phu hiểu biết được. Ở trong thiền định có thể du hành khắp mười phương, đến khắp pháp giới, như như bất động, liễu liễu thường minh.
Cảnh giới nầy như mặt trăng thanh tịnh, hiện khắp trong mười phương. Bạn thấy mặt trăng ở trên đầu bạn, người kia cũng thấy mặt trăng ở trên đầu của họ, chúng sinh trong mười phương đều cảm thấy mặt trăng đều ở trên đầu của mình. Vị Thiên Tử nầy đắc được cảnh giới nầy.
Tinh Tú Vương Tự Tại Thiên Tử, được môn giải thoát, khai thị tất cả các pháp, như huyễn như hư không, không tướng không tự tánh.
Vị nầy là Tinh Tú Vương Tự Tại Thiên Tử. Tinh tú là vua của các vì sao. Nhà thiên văn học phân chia sao ra làm nhị thập bát tú. Phương đông : thương long thất tú, tức là : Giác kháng thị phòng tâm vĩ kì, bảy vì sao làm đại biểu. Phương nam : thù tỉnh thất tú, tức là : Tỉnh, Quỷ, Liểu, Tinh, Trương, Duật, Chẩn bảy vì sao làm đại biểu. Phương tây : bạch hổ thất tinh, tức là Khuê, Sổ, Vị, Mão, Tất, Tuy, Tham, bảy vì sao làm đại biểu. Phương bắc : huyền võ thất tú, tức là Ðẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, bảy vì sao làm đại biểu.
Vị Thiên Tử nầy tự tại vô cùng, khai thị tất cả diệu pháp. Diệu pháp là gì ? Là như huyễn như hư không, không tướng không tự tính, giống như huyễn hóa, lại giống như hư không, chẳng có hình tướng, lại chẳng có tự tính. Cứu kính là gì ? Tức là pháp thân của Phật, vị nầy đắc được môn giải thoát nầy.
Tịnh Giác Nguyệt Thiên Tử, được môn giải thoát, khắp vì tất cả chúng sinh khởi đại nghiệp dụng.
Vị Tịnh Giác Nguyệt Thiên Tử, khiến cho tất cả chúng sinh, phát tâm đại bồ đề, kết quả bồ đề, tu nghiệp đại bồ đề, sinh dụng đại bồ đề. Quả bồ đề viên mãn thành tựu rồi, thì dứt được nghiệp sinh tử. Nghiệp bồ đề giác đạo thành tựu rồi, thì đó là khởi dụng đại nghiệp. Vị nầy đắc được môn giải thoát nầy.
Ðại Oai Ðức Quang Minh Thiên Tử, được môn giải thoát, đoạn sạch tất cả nghi hoặc.
Vị Ðại Oai Ðức Quang Minh Thiên Tử rất có oai đức, chúng sinh thấy được vị nầy, đều sinh tâm cung kính và sợ sệt. Vị nầy đoạn trừ tất cả nghi hoặc của chúng sinh. Bất cứ nghi hoặc phiền não gì, vị nầy đều giải trừ. Ðó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Bấy giờ, Nguyệt Thiên Tử nương oai lực của Ðức Phật, quán khắp tất cả các Thiên chúng, trong Nguyệt cung điện mà nói kệ rằng.
Lúc đó, vị Nguyệt Thiên Tử, nương đại oai đức thần thông lực của đùc Phật, quán sát khắp tất cả các Thiên chúng hội trong Nguyệt cung điện, mà nói kệ tán thán công đức của Phật.
Phật phóng quang minh khắp thế gian
Chiếu sáng mười phương các cõi nước
Nói pháp rộng lớn không nghĩ bàn
Phá sạch ngu si hoặc chúng sinh.
“Phật phóng quang minh khắp thế gian”. Phật phóng vô lượng vô biên quang minh, chiếu sáng khắp thế gian.
“Chiếu sáng các cõi nước mười phương”. Quang minh của Phật không những chiếu khắp thế gian mà còn chiếu khắp các cõi Phật trong mười phương.
“Nói pháp rộng lớn không nghĩ bàn”. Phật diễn nói diệu pháp rộng lớn không thể dùng tâm để suy nghĩ, không thể dùng lời để bàn luận. Diệu pháp là gì ? Tức là hai chúng tại gia nam và nữ tu : “đừng làm các điều ác, hãy làm các điều thiện”, hai chúng xuất gia Tăng ni tu “siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si”.
“Phá sạch ngu si hoặc chúng sinh”. Vô minh đen tối, phiền não ngu si hoặc của chúng sinh phá sạch vĩnh viễn. Vị Nguyệt Thiên Tử đắc được môn giải thoát nầy.
Cảnh giới vô biên không ngằn mé
Trong vô lượng kiếp thường khai đạo
Ðủ thứ tự tại hóa quần sinh
Hoa Kế quán thấy Phật như vậy.
“Cảnh giới vô biên không ngằn mé”. Cảnh giới của Phật chẳng có bờ mé, cũng chẳng có cùng tột, tận hư không khắp pháp giới.
“Trong vô lượng kiếp thường khai đạo”. Trong vô lượng kiếp về trước, Phật thường vì chúng sinh mà thuyết pháp, khai đạo chúng sinh, giáo hóa chúng sinh.
“Ðủ thứ tự tại hóa quần sinh”. Phật dùng đủ thứ tự tại thần thông diệu dụng, để giáo hóa quần sinh, lợi ích quần sinh.
“Hoa Kế quán thấy Phật như vậy”. Vị Hoa Vương Kế Quang Minh Thiên Tử, quán sát được cảnh giới nầy của Phật.
Biển tâm chúng sinh niệm niệm thù
Trí Phật rộng lớn đều biết rõ
Khắp vì thuyết pháp khiến vui mừng
Giải thoát nầy của Diệu Quang Minh.
“Biển tâm chúng sinh niệm niệm thù”. Biển tâm của chúng sinh, niệm niệm khác nhau. Niệm trước diệt niệm sau sinh, niệm sau diệt niệm trước sinh, niệm niệm liên tục, như sóng biển lớn.
“Trí Phật rộng lớn đều biết rõ”. Trí huệ của Phật rộng lớn và vi tế vô cùng. Tất cả mọi tâm niệm của chúng sinh Phật đều biết đều thấy.
“Khắp vì thuyết pháp khiến vui mừng”. Phật khắp vì tất cả chúng sinh mà thuyết pháp, khiến cho chúng sinh đắc được đại hoan hỉ mà y giáo phụng hành, y theo pháp tu học.
“Giải thoát nầy của Diệu Quang Minh”. Môn giải thoát nầy vị Chúng Diệu Tịnh Quang Thiên Tử đắc được.
Chúng sinh chẳng có Thánh an lạc
Trầm mê đường ác thọ các khổ
Như Lai khai thị môn pháp tánh
An Lạc tư duy thấy như thế.
“Chúng sinh chẳng có Thánh an lạc”. Tất cả sự an lạc của chúng sinh, đều là an lạc thế gian, tuy nhiên cảm thấy là an lạc, thật ra là chẳng thật an lạc. Thật an lạc là gì ? Tức là an lạc của Thánh nhân, không thọ các khổ, chỉ thọ an lạc, không lo không sầu, không quái không ngại.
“Trầm mê đường ác thọ các khổ”. Chúng sinh trầm mê trong sáu nẻo luân hồi, thọ đủ thứ sự thống khổ. Trong sáu nẻo có ba đường lành và ba đường ác. Ba đường lành là cõi trời, cõi người, cõi a tu la. Tu mười điều lành giữ năm giới, thì sinh về đường lành. Ba đường ác là : Súc sinh, ngạ quỷ đạo, địa ngục, làm mười điều ác không giữ giới thì sinh vào ba đường ác. Chúng sinh sinh vào ba đường lành thì khổ nhiều vui ít. Chúng sinh sinh vào ba đường ác thì không có vui, chỉ thọ các sự thống khổ.
“Như Lai khai thị môn pháp tính”. Phật khai thị cho chúng sinh, các pháp không rời tự tính, khiến cho chúng sinh, đều đắc được an lạc của bậc Thánh nhân.
“An Lạc tư duy thấy như vậy”. Vị An Lạc Thế Gian Tâm Thiên Tử, tư duy thấy được cảnh giới nầy.
Như Lai hi hữu đại từ bi
Vì lợi chúng sinh vào các cõi
Thuyết pháp khuyến thiện khiến thành tựu
Mục Quang Thiên thấu rõ môn nầy.
“Như Lai hi hữu đại từ bi”. Lòng từ bi cùa Phật vĩ đại nhất, hi hữu nhất trên thế gian. Bất cứ lòng từ bi nào, cũng không thể sánh với lòng từ bi của Phật.
“Vị lợi chúng sinh vào các cõi”. Tâm từ bi của Phật rộng lớn vô biên. Vì lợi ích chúng sinh, vì giáo hóa chúng, mà tâm cam tình nguyện, vào trong tam giới hai mươi lăm cõi, giải trừ sự thống khổ của chúng sinh, cứu hộ sự thống khổ của chúng sinh, đó là nguyện lực của Phật.
“Thuyết pháp khuyến thiện khiến thành tựu”. Phật vì muốn cho chúng sinh, lìa khổ được vui, mà diễn nói đủ thứ pháp môn và khuyên chúng sinh làm đủ thứ việc thiện, khiến cho chúng sinh đều thành tựu, đắc được quả giác ngộ bồ đề.
“Mục Quang Thiên thấu rõ môn này”. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Thụ Vương Nhãn Quang Minh Thiên Tử minh bạch được.
Thế Tôn khai xiển pháp quang minh
Phân biệt các nghiệp tánh thế gian
Thiện ác đã làm chẳng mất tiêu
Tịnh Quang thấy rõ sinh hoan hỉ.
“Thế Tôn khai xiển pháp quang minh”. Thế Tôn tức là Phật. Phật khai dương xiển minh chân lý Phật pháp, khiến cho thế giới phóng đại quang minh, những chúng sinh được quang minh của Phật chiếu đến đều đắc được lợi ích vô lượng.
“Phân biệt các nghiệp tính thế gian”. Phật thuyết pháp vì phân biệt thiện nghiệp và ác nghiệp thế gian và nghiệp không thiện không ác. Nếu gieo trồng nghiệp thiện thì tương lai sẽ được quả báu thiện. Nếu gieo trồng nghiệp ác thì tương lai sẽ được quả báu ác.
“Thiện ác đã làm chẳng mất tiêu”. Trồng nhân thiện thì được quả thiện, trồng nhân ác thì được quả ác, đó là luật nhân quả bất biến, tuyệt đối không có vấn đề tạo nghiệp thiện mà không có quả thiện, tạo nghiệp ác mà không có quả ác. Thiện ác đều không mất tiêu, tơ hào không sai.
“Tịnh Quang thấy rõ sinh hoan hỉ”. Vị Xuất Hiện Tịnh Quang Thiên Tử thấy được cảnh giới nầy rất sung sướng vui mừng.
Phật là chỗ nương tất cả phước
Ví như đại địa giữ nhà cửa
Khéo dạy lìa khổ được an ổn
Bất Ðộng biết được phương tiện nầy.
“Phật là chỗ nương tất cả phước”. Ðức Phật đầy đủ phước huệ, tất cả đều viên mãn. Phật là ruộng phước tốt của chúng sinh, là chỗ phước báu nương tựa của chúng sinh.
“Ví như đại địa giữ nhà cửa”. Giống như đại địa giữ gìn tất cả kiến trúc phòng xá nhà cửa được cất lên. Ðại địa ví như phước, phước của Phật là chỗ nương tựa của chúng sinh, lại giống như lâu đài cung điện, nương tựa đất để cất lên.
“Khéo dạy lìa khổ được an ổn”. Phật dùng quyền xảo phương tiện để thuyết pháp, khai thị tất cả chúng sinh thoát ra khỏi con đường khổ, mà đắc được sự an ổn.
“Bất Ðộng biết được phương tiện này”. Vị Phổ Du Bất Ðộng Quang Thiên Tử, biết Phật dùng phương tiện pháp môn để giáo hóa chúng sinh.
Lửa trí sáng rực chiếu pháp giới
Hiện hình vô số đồng chúng sinh
Khắp vì tất cả bày chân thật
Tinh Tú Vương Thiên ngộ môn nầy.
“Lửa trí sáng rực chiếu pháp giới”. Lửa trí huệ của Phật phóng đại quang minh, chiếu khắp pháp giới.
“Hiện hình vô số đồng chúng sinh”. Phật lại hiện trăm ngàn vạn ức thân chúng sinh, tùy loại chúng sinh mà hóa thân, để giáo hóa chúng sinh.
“Khắp vì tất cả bày chân thật”. Khắp vì tất cả chúng sinh thế gian mở bày pháp môn chân thật.
“Tinh Tú Vương Thiên ngộ môn nầy”. Vị Tinh Tú Vương Tự Tại Thiên Tử hiểu được pháp môn cảnh giới nầy.
Phật như hư không không tự tánh
Vì lợi chúng sinh hiện ra đời
Tướng tốt trang nghiêm như bóng hình
Tịnh Giác Thiên Vương thấy như vậy.
“Phật như hư không không tự tánh”. Phật thì lấy hư không làm thể, lấy pháp giới làm thể, lấy chúng sinh làm thể. Bạn muốn biết Phật chăng ? Vậy thì trước hết phải biết hư không. Nếu biết hư không thì biết được Phật. Bạn muốn biết Phật chăng ? Vậy thì trước hết phải biết pháp giới, nếu biết pháp giới thì biết được Phật. Bạn muốn biết Phật chăng ? Vậy thì trước hết phải biết tất cả chúng sinh, nếu biết được tất cả chúng sinh thì cũng biết được Phật.
Vì Phật chẳng có tự tánh, chẳng có tự thể, chẳng có tự tướng, lấy hư không làm tự tánh, lấy pháp giới làm tự thể, lấy chúng sinh làm tự tướng, cho nên nói Phật như hư không không tự tánh.
“Vì lợi chúng sinh hiện ra đời”. Vì sao Phật xuất hiện ra đời ? Vì Phật có tâm đại bi, muốn lợi ích chúng sinh, khiến cho chúng sinh đắc được lợi lạc, cho nên mới xuất hiện ra đời.
Phật ở cõi Thường Tịch Quang tịnh độ, như như bất động, liễu liễu thường minh, không màng chúng sinh được độ hay không, nhưng tâm đại bi của Phật quá nặng, muốn lợi ích chúng sinh, cứu chúng sinh ra khỏi biển khổ, cho nên đảo giá từ thuyền, xuất hiện ra đời để độ chúng sinh đáng được độ.
“Tướng tốt trang nghiêm như hình bóng”. Tuy nhiên Phật có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, đủ thứ trang nghiêm, nhưng giống như bóng, như hình, chẳng có bổn thể chân thật.
“Tịnh Giác Thiên Vương thấy như vậy”. Vị Tịnh Giác Nguyệt Thiên Tử biết được cảnh giới nầy.
Lỗ lông thân Phật đều diễn âm
Mây pháp che khắp không còn sót
Nghe được thảy đều sinh vui mừng
Oai Ðức Quang Thiên ngộ như vậy.
“Lỗ lông thân Phật đều diễn âm”. Tất cả mỗi lỗ chân lông thân thể của Phật, đều diễn nói diệu âm, vì chúng sinh thuyết pháp, khiến cho chúng sinh thoát khỏi tam giới, đạt đến bờ bên kia.
“Mây pháp che khắp không còn sót”. Phật thuyết pháp giống như mây, tất cả chúng sinh đều che chở ở dưới mây pháp, đều đắc được pháp ích và an lạc.
“Nghe được thảy đều sinh vui mừng”. Nghe được âm thanh của Phật, thấy được tướng mạo của Phật, thì chẳng có một chúng sinh nào không sinh tâm vui mừng.
“Oai Ðức Quang Thiên ngộ như vậy”. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Oai Ðức Quang Minh Thiên Tử ngộ hiểu được.
Bây giờ đã giải thích xong phần kệ tán thán và các môn giải thoát của bảy chúng dục giới, sắc giới dưới đây tiếp tục giảng về kệ tán thán và các môn giải thoát của Bát Bộ Tứ Vương.
Lại nữa, Trì Quốc Càn Thác Bà Vương, được môn giải thoát, phương tiện tự tại nhiếp tất cả chúng sinh.
Nay giảng tiếp theo. Vị Trì Quốc Càn Thác Bà Vương. Càn Thác Bà dịch là “hương thần”, hoặc là “nhạc thần”. Vị nầy đắc được pháp môn tự tại phương tiện, tức là môn giải thoát nhiếp thọ tất cả chúng sinh.
Tự tại tức là tự do tự tại, tuyệt đối không miễn cưỡng. Phương tiện tức là quán cơ đầu giáo, vì người thuyết pháp, theo bệnh cho thuốc. Nhiếp tức là nhiếp thọ, giống như nam châm hút sắt. Nhiếp có hai lối giải thích :
1. Triết nhiếp : là dùng pháp môn mãnh liệt để triết phục những chúng sinh khó điều khó phục.
2. Từ nhiếp : là dùng tâm từ bi đi nhiếp thọ, khiến cho chúng sinh tự động đến tín ngưỡng Phật pháp, đến thấu hiểu Phật pháp, đến thực hành Phật pháp mà chứng đắc Phật quả.
Thụ Quang Càn Thát Bà Vương, được môn giải thoát, thấy khắp tất cả công đức trang nghiêm.
Vị Thụ Quang Càn Thát Bà Vương, thấy hết thảy tất cả chư Phật, dùng tất cả công đức tu hành, để tang nghiêm pháp thân. Pháp thân là thân của Phật không hình không tướng, chẳng thể thấy đặng, trái ngược với sắc thân, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Tịnh Mục Càn Thát Bà Vương, được môn giải thoát, xuất sinh hoan hỉ tạng, vĩnh viễn đoạn trừ tất cả ưu khổ của chúng sinh.
Vị Tịnh Mục Càn Thác Bà Vương vĩnh viễn đoạn trừ tất cả ưu khổ của chúng sinh. Chúng sinh có những ưu khổ gì ? Căn bản chẳng có ưu khổ, mà tự vì phiền não của chính mình, chẳng có việc tìm việc để làm. Vị nầy không những khiến chúng sinh đoạn trừ ưu khỏ, mà còn khiến cho chúng sinh, sinh ra tâm vui mừng, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Hoa Quan Càn Thát Bà Vương được môn giải thoát, vĩnh viễn đoạn trừ tà kiến hoặc, của tất cả chúng sinh.
Vị Hoa Quan Càn Thát Bà Vương, vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tà kiến và nghi hoặc của chúng sinh. Chúng sinh đều có tà tri tà kiến. Tà tri tà kiến là gì ? Tức là chủ trương không tu hành giới định huệ ba học vô lậu, có thứ tư tưởng nầy tức là tà tri tà kiến.
Trên thế giới nầy, có rất nhiều người có học vấn, đều có tà tri tà kiến. Vì chánh tri chánh kiến cần phải có người dạy đạo mới có, mà tà tri tà kiến chẳng cần ai dạy mình vẫn có, họ tu cho rằng là đúng, nhưng thực ra là sai lầm, kiến giải của họ không những chính mình lầm lẫn, mà còn lầm lẫn đến kẻ khác.
Vị Hoa Quan Càn Thác Bà Vương nầy, minh bạch nghĩa lý nầy mà đắc được môn giải thoát, vĩnh viễn đoạn trừ tà kiến và nghi hoặc của chúng sinh.
Hỉ Bộ Phổ Âm Càn Thát Bà Vương, được môn giải thoát, như mây giăng che rộng lớn, che khắp đượm nhuần tất cả chúng sinh.
Vị Hỉ Bộ Phổ Âm Càn Thác Bà Vương, thích chạy bộ vận động và thích phổ khúc sáng tác nhạc, không những là kiện tướng vận động, mà còn là nhà âm nhạc, văn võ song toàn. Vị nầy đắc được môn giải thoát, giống như vừng mây lớn che khắp ba ngàn thế giới, bố thí lợi ích pháp vũ khắp chúng sinh, đượm nhuần căn lành chúng sinh, khiến cho sinh trưởng thành thục mà đắc được giải thoát.
Lạc Giao Ðộng Mỹ Mục Càn Thát Bà Vương, được môn giải thoát, hiện thân tốt rộng lớn vi diệu, khiến cho tất cả chúng sinh hoạch được an lạc.
Vị Lạc Giao Ðộng Mỹ Mục Càn Thác Bà Vương, đắc được thân tốt rộng lớn vi diệu, vị nầy không những con mắt rất đẹp, mà thân thể cũng rất mỹ lệ. Tất cả chúng sinh đều sinh tâm cung kính, tâm ái mộ và tâm an lạc đối với vị nầy. Vị nầy khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được an lạc, đắc được môn giải thoát nầy.
Diệu Âm Sư Tử Tràng Càn Thát Bà Vương, được môn giải thoát, phổ tán đại danh xưng bảo khắp mười phương.
Vị Diệu Âm Sư Tử Tràng Càn Thác Bà Vương, có âm thanh rất vi diệu êm tai, truyền khắp được trong mười phương. Tất cả chúng sinh trong mười phương, đều biết vị nầy danh tiếng lừng lẫy, nghe được tên của vị nầy, thì có thể khai ngộ, khai mở trí huệ mà liễu sinh thoát tử, đạt đến bờ kia.
Phổ Phóng Bảo Quang Minh Càn Thát Bà Vương, được môn giải thoát, hiện tất cả thân thanh tịnh quang minh đại hoan hỉ.
Vị Phổ Phóng Bảo Quang Minh Càn Thát Bà Vương, có quang minh báu, chiếu sáng khắp tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh đắc được trí huệ. Quang minh đại biểu cho trí huệ, khiến cho chúng sinh đều sinh tâm đại hoan hỉ. Vị nầy đắc được môn giải thoát pháp thân quang minh thanh tịnh.
Kim Cang Thụ Hoa Tràng Càn Thát Bà Vương, được môn giải thoát, từ nhuận tất cả cây cối, khiến cho người thấy đều hoan hỉ.
Vị Kim Cang Thụ Hoa Tràng Càn Thác Bà Vương, đắc được cảnh giới từ nhuận khắp tất cả cây cối, khiến cho tất cả cây cối cành lá hân hân, cũng khiến cho chúng sinh, thấy được những cây nầy, thì sinh vui mừng chẳng có ưu sầu. Thứ cây nầy có tát dụng chuyển khổ làm vui, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Phổ Hiện Trang Nghiêm Càn Thát Bà Vương, được môn giải thoát, khéo nhập vào tất cả cảnh giới của Phật, khiến cho chúng sinh được an lạc.
Vị Phổ Hiện Trang Nghiêm Càn Thát Bà Vương, khéo về sự hiện ra đủ thứ sự trang nghiêm, để trang nghiêm tất cả cõi nước hoặc đạo tràng, và còn khéo nhập vào tất cả cảnh giới của Phật, đồng thời hiện ra tất cả cảnh giới của Phật, vừa trang nghiêm vừa thanh tịnh. Vị nầy lại ban cho tất cả chúng sinh an lạc, trừ khử tất cả ưu khổ của chúng sinh. Vị nầy có tâm đại từ đại bi, tâm từ ban vui, tâm bi cứu khổ, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Lúc đó, Trì Quốc Càn Thát Bà Vương, nương oai lực của Ðức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Càn Thát Bà, mà nói ra bài kệ.
Khi vị Phổ Hiện Trang Nghiêm Càn Thát Bà Vương, nói xong môn giải thoát đã đắc được, thì vị Trì Quốc Càn Thác Bà Vương, (Càn Thác Bà Vương thuộc về Ðông phương Trì Quốc Thiên Vương cai quản) nương đại oai thần lực gia bị của đức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Càn Thát Bà mà nói kệ để tán thán công đức của Phật.
Quán sát phân làm hai thứ :
1. Quán sát trong định : Tức là ở trong thiền định quán sát nhân duyên chúng Càn Thác Bà, nên nói pháp gì để khiến cho họ đắc được lợi ích.
2. Quán sát khi xuất định : Tức là dùng trí huệ để quán sát chúng Càn Thác Bà, nên dùng pháp phương tiện gì để giáo hóa ? Thì dùng pháp phương tiện đó. Trước thì dùng sức thần thông để quán sát, sau thì dùng sức trí huệ để quán sát, hai thứ quán sát nầy phải là người đã chứng được quả vị mới làm được.
Cảnh giới chư Phật vô lượng môn
Tất cả chúng sinh chẳng vào được
Thiện Thệ như không tánh thanh tịnh
Khắp vì thế gian mở chánh đạo.
“Cảnh giới chư Phật vô lượng môn”. Vị Trì Quốc Càn Thác Bà Vương ở trong định, quán sát quả của chúng sinh trong quá khứ, xuất định thì lại quán sát quả của chúng sinh trong hiện tại. Thấy quả thì biết nhân, quán nhân thì biết quả. Và còn biết ba đời tất cả chư Phật có vô lượng pháp môn.
“Tất cả chúng sinh chẳng vào được”. Cảnh giới của chúng sinh và cảnh giới của chư Phật giống nhau. Nhưng cảnh giới của chúng sinh thì phiền não, tịnh náo, điên đảo. Cảnh giới của chư Phật thì thanh tịnh, vô vi mà vô bất vi, gì cũng chẳng có, nhưng có hết thảy. Cảnh giới nầy chúng sinh chẳng hiểu biết được, cho nên chúng sinh không thể đạt đến cảnh giới của chư Phât. Vậy làm thế nào có thể đạt đến được ? Duy chỉ một pháp môn, đó là học tập Phật pháp, tu hành Phật pháp.
“Thiện Thệ như không tánh thanh tịnh”. Thiện Thệ tức là một trong mười hiệu của Phật. Phật thực hành bát chánh đạo mà chứng nhập cứu kính Niết Bàn, tánh của Ngài thanh tịnh như hư không.
“Khắp vì thế gian mở chánh đạo”. Khắp vì tất cả chúng sinh thế gian, mà mở ra con đường chánh đại quang minh, khiến cho chúng sinh từ con đường khang trang bằng phẳng, thẳng đến cõi nước Phật.
Trong mỗi lỗ lông của Như Lai
Biển lớn công đức đều sung mãn
Tất cả thế gian đều lợi lạc
Giải thoát nầy Thụ Quang Vương thấy.
“Trong mỗi lỗ lông của Như Lai”. Trong mỗi lỗ chân lông của Phật đều có công đức vô lượng.
“Biển lớn công đức đều sung mãn”. Công đức nầy so với biển còn lớn hơn. Tất cả công đức trong lỗ long, không thể đo lường được, không thể nghĩ bàn.
“Tất cả thế gian đều lợi lạc”. Công đức của Phật không những lợi lạc cho chính mình, mà còn hoàn toàn vì lợi lạc của chúng sinh thế gian.
“Giải thoát này Thụ Quang Vương thấy”. Cảnh giới nầy vị Thụ Quang Càn Thát Bà Vương ngộ được, thấy được.
Biển ưu khổ thế gian rộng lớn
Phật tiêu trừ sạch hết không còn
Như Lai thương xót nhiều phương tiện
Tịnh Mục hiểu rõ pháp môn nầy.
“Biển ưu khổ thế gian rộng lớn”. Chúng sinh hữu tình thế gian ưu sầu khổ não, nhiều như nước trong biển lớn, vừa rộng lớn vừa thâm sâu, do đó “Biển khổ vô biên, quay đầu là bến”. Biển khổ vô biên phải làm như thế nào ? Phải quay đầu tức là giác ngộ, giác ngộ tức là đến bờ kia. Bờ kia tức là cảnh giới của Phật, đến được cảnh giới của Phật thì chẳng còn biển ưu khổ nữa.
Làm thế nào để quay đầu ? Tức là buông xả. Buông xả hết tất cả, buông xả được thì đắc được tự tại. Tại sao có ưu khổ ? Vì buông bỏ chẳng đặng. Tại sao buông bỏ chẳng đặng ? Vì nhìn không thấu được. Tại sao nhìn không thấu được ? Vì chẳng có trí huệ. Tại sao chẳng có trí huệ ? Vì chẳng tu đạo. Cho nên trước hết phải tu đạo, sau mới có trí huệ, có trí huệ rồi thì nhìn thấu hết mọi sự mọi vật, nhìn thấu rồi thì buông bỏ đặng. Buông bỏ được thì chẳng còn ưu bi khổ não nữa.
“Phật tiêu diệt sạch hết không còn”. Phật hoàn toàn tiêu diệt trừ sạch biển ưu khổ của chúng sinh, một chút ưu sầu khổ não cũng chẳng còn.
“Như Lai thương xót nhiều phương tiện”. Phật dùng từ bi giáo hóa chúng sinh, thương xót độ khắp chúng sinh, dùng đủ thứ phương tiện pháp môn để giúp đỡ chúng sinh.
Chúng ta người tu đạo, đối với tất cả chúng sinh nên có tâm từ bi, ban vui cho chúng sinh, cứu khổ chúng sinh, và nên có tâm thương xót, đồng khổ với chúng sinh, đáng thương nỗi khổ của chúng sinh, tìm cách giải trừ nỗi khổ của chúng sinh. Người tu đạo trước hết phải có tâm từ bi thương xót, nếu không, bất cứ tu hành gì cũng không thể thành tựu, bất quả chỉ là liễu hán mà thôi.
“Tịnh Mục hiểu rõ pháp môn này”. Vị Tịnh Mục Càn Thác Bà Vương hiểu thấu cảnh giới nầy của Phật.
Mười phương cõi nước không bờ mé
Phật dùng trí quang đều chiếu sáng
Quét sạch tất cả tà ác kiến
Môn nầy Thụ Hoa Vương ngộ được.
“Mười phương cõi nước không bờ mé”. Cõi nước của mười phương chư Phật chẳng có bờ mé. Không những mười phương cõi nước không có bờ mé, mà một phương cõi nước cũng chẳng có bờ mé. Ðừng nói chi đến một phương cõi nước chẳng có bờ mé, mà một thân cõi nước cũng chẳng có bờ mé. Cõi nước mỗi thân người với mười phương cõi nước hổ tương thông với nhau. Thân của mình tức là cõi nước của mình, thân của họ tức là mười phương cõi nước, nếu phân tích tỉ mỉ thì vô lượng vô biên, cho nên nói mười phương cõi nước chẳng bờ mé.
“Phật dùng trí quang đều chiếu sáng”. Phàm phu chúng ta không biết có bao nhiêu biển cõi ? Vì chúng ta chẳng có trí huệ quang, nếu khai mở mắt trí huệ thì “Sát trần tâm niệm khả sổ tri” (tâm niệm nhiều như hạt bụi cõi nước đều đếm biết được). Phật là bậc đại giác viên mãn, dùng trí huệ quang minh đồng thời chiếu sáng biển cõi mười phương, do đó “Phật quang chiếu khắp”.
“Quét sạch tất cả tà ác kiến”. Quét sạch tất cả tà tri tà kiến, của hết thảy chúng sinh biển cõi trong mười phương. Tri kiến tà ác không những lầm người mà còn lầm chính mình.
“Môn nầy Thụ Hoa Vương ngộ được”. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Thụ Hoa Càn Thác Bà Vương lãnh ngộ được.
Phật trong quá khứ vô lượng kiếp
Tu tập đại từ hành phương tiện
Tất cả thế gian đều yên vui
Môn nầy Phổ Âm Vương chứng được.
“Phật trong quá khứ vô lượng kiếp”. Phật trong vô lượng kiếp về trước, cũng thành tâm cung kính nghe pháp, một chút tâm cống cao ngã mạn cũng chẳng có, ở trong pháp hội đều giữ quy cụ, không cười nói cẩu thả, chuyên tâm nghe giảng, lĩnh hội được nghĩa lý.
“Tu tập đại từ hành phương tiện”. Phật tu tâm đại từ bi, tâm bình đẳng, tâm không người không ta, pháp môn thiện xảo phương tiện. Phật nói pháp đúng với căn cơ người nghe, cho nên người nghe pháp càng nghe càng hoan hỉ, do đó “hoan hỉ tin thọ, làm lễ mà lui ra”.
“Tất cả thế gian đều yên vui”. Yên vui cũng là an lạc. Ví như có người tâm không thoải mái, hoặc có việc chẳng may xảy đến, lúc đó có người đến an ủi họ, khuyên họ, họ hiểu được chuyển buồn thành vui.
Phật khiến cho tất cả chúng sinh hữu tình thế gian, đều được yên vui, làm cho họ chẳng còn ưu sầu, chẳng còn khổ não. Phật vì khiến cho chúng sinh khoái lạc, mà không nghỉ ngơi, đó là đại từ đại bi.
“Môn nầy Phổ Âm Vương chứng được”. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Hỉ Bộ Phổ Âm Càn Thác Bà Vương minh bạch, hiểu rõ, chứng ngộ được.
Thân Phật thanh tịnh đều ưa thấy
Sinh ra vui thế gian vô tận
Giải thoát nhân quả thứ tự thành
Mỹ Mục minh bạch cảnh giới nầy.
“Thân Phật thanh tịnh đều ưa thấy”. Thân của Phật thanh tịnh không gì sánh bằng. Vì Phật trừ hết sạch mọi nhiễm ô, cũng trừ khử sạch tham sân si, chỉ tồn tại giới định huệ, cho nên thân Phật thanh tịnh. Chúng sinh đều hoan hỉ thấy pháp thân thanh tịnh.
Thân chúng sinh thì ô trược. Tại sao ? Vì chẳng trừ khử tam độc tham sân si, cho nên không thanh tịnh. Thân Phật thanh tịnh, do đó chúng sinh không những thích thấy pháp thân của Phật, mà còn cung kính cúng dường thân Phật.
Phật trong vô lượng kiếp tu hành, còn chúng sinh trong vô lượng kiếp tạo nghiệp. Từ vô thủy kiếp đến hiện tại, vẫn không biết ngừng tạo nghiệp, cho nên thân không thanh tịnh. Thân không thanh tịnh thì chẳng có ai muốn thấy. Tại sao ? Vì không thanh tịnh ! Có ai muốn thấy người không thanh tịnh chăng ?
“Sinh ra vui thế gian vô tận”. Ðức Phật ở tại hữu tình thế gian sinh ra vô tận khoái lạc, lúc cuối cùng trong pháp hội giảng Kinh nói : đều đại hoan hỉ, y giáo phụng hành, vì Ðức Phật hay sinh ra vô tận an vui trong thế gian.
“Giải thoát nhân quả thứ tự thành” Giải Thoát phải trải qua một đoạn thời gian, mới có thể đắc được giải thoát, chớ chẳng phải lập tức mà đắc được giải thoát. Thứ tự giải thoát là như vầy : Người chưa trồng căn lành, thì khiến cho họ trồng căn lành. Người đã trồng căn lành rồi, thì khiến cho tăng trưởng. Người đã tăng trưởng, thì khiến cho thành thục. Người đã thành thục, thì khiến cho được giải thoát. Ðó là nói phải có nhân giải thoát mới có quả giải thoát. Tóm lại, tại nhân địa trồng nhân giải thoát, thì đến lúc sẽ kết quả giải thoát. Bốn quá trình nầy sẽ thành tựu từng bước một chứ chẳng phải hốt nhiên mà thành tựu.
“Mỹ Mục minh bạch cảnh giới này”. Vị Lạc Giao Ðộng Mỹ Mục Càn Thác Bà Vương, khéo khai thị cho tất cả chúng sinh về đạo lý nầy, khiến cho họ minh bạch cảnh giới nầy, mới có thể y pháp tu hành.
Chúng sinh mê hoặc thường lưu chuyển
Ngu si chướng che rất kiên cố
Như Lai vì nói pháp rộng lớn
Sư Tử Tràng Vương diễn xướng được.
“Chúng sinh mê hoặc thường lưu chuyển”. Mê là không giác ; “hoặc” là không rõ. Mê hoặc tức là không nhận thức rõ ràng về chính mình, tức cũng là cảm thấy mình có trí huệ, cảm thấy mình giỏi hơn kẻ khác, đó tức là mê hoặc. Chúng sinh mê hoặc quá sâu nặng, chính mình còn không thừa nhận, không biết rằng mê tức là không giác, có hoặc thì chẳng sáng suốt. Có mê hoặc rồi thì không rõ lý. Có người đang giảng Phật pháp mà họ nghĩ là thật chăng ? Có Phật chăng ? Có pháp chăng ? Khởi lên nghi hoặc cho rằng việc không thể được.
Nếu như có người dạy họ pháp tà, thì họ chẳng hoài nghi, ngược lại còn cho đó là diệu pháp, là pháp diệu không thể tả. Nếu có người dạy họ pháp thiện, thì họ khởi nghi vấn, không tin là pháp thật, đó tức là mê hoặc.
Vì nghiệp chướng ràng buộc, lưu chuyển trong sáu nẻo luân hồi. Bị nghiệp chuyển, càng lưu chuyển càng xa, càng xa càng mê. Lưu chuyển đi lưu chuyển lại, lưu chuyển đến nơi nào ? Lưu chuyển đến trong sự ngu si.
“Ngu si chướng che rất kiên cố”. Sự ngu si chướng che kiên cố phi thường, chẳng cách chi phá được, chẳng cách chi tháo mở được. Che lấp trí huệ khiến cho người biến thành ngu si. Vì quá ngu si cho nên có người bảo họ học chút trí huệ, mà họ cũng chẳng thừa nhận mình có trí huệ. Ai ai cũng đều cho rằng mình thông minh, có trí huệ hơn người. Nhưng nếu họ bị mắc trong lưới, hoặc bị vây hãm trong hầm, thì chẳng biết thoát thân. Vậy đó là có trí huệ hay là ngu si ?
“Như Lai vì nói pháp rộng lớn”. Phật vì loại chúng sinh nầy, nói pháp môn rộng lớn, vì họ mà phá mê hiển chánh, khiến cho họ hết ngu si, mà đắc được trí huệ bát nhã của mình vốn có.
“Sư Tử Tràng Vương diễn xướng được”. Vị Diệu Âm Sư Tử Tràng Càn Thác Bà Vương, diễn xướng được pháp môn nầy.
Diệu sắc thân Như Lai hiện khắp
Vô lượng khác biệt đồng chúng sinh
Ðủ thứ phương tiện chiếu thế gian
Phổ Phóng Bảo Quang thấy như vậy.
“Diệu sắc thân Như Lai hiện khắp”. Như Lai là một trong mười danh hiệu của Phật. Không từ đâu đến, cũng không đi về dâu, cho nên gọi là Như Lai. Hoặc là, nương đạo như thật, đến (lai) thành chánh giác. Hiện khắp là chẳng chỗ nào mà không đến gọi là khắp, chẳng chỗ nào mà không đi gọi là hiện. Trên đến cõi Trời Phi Phi Trưởng, dưới đến địa ngục, đều có diệu sắc thân của Phật. Diệu sắc thân là sắc thân diệu tốt đẹp, tức cũng là ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp. Diệu sắc thân nầy khắp cùng pháp giới.
“Vô lượng sai biệt đồng chúng sinh”. Chúng sinh có vô lượng vô biên giống loài, tổng quát có bốn loài : Thai, noãn, thấp, hóa.
1. Thai sinh : Thai do tình mà có, chúng sinh trong thai sinh có vô lượng vô biên sự khác biệt.
2. Noãn sinh : Noãn do tưởng mà sinh. Chúng sinh ở trong noãn sinh có vô lượng vô biên sự khác biệt.
3. Thấp sinh : Thấp sinh do hợp mà cảm. Chúng sinh trong thấp sinh có vô lượng vô biên sự khác biệt.
4. Hóa sinh : Hóa dùng sức mà ứng. Chúng sinh trong hóa sinh có vô lượng vô biên sự khác biệt. Vô lượng những chúng sinh khác biệt nầy đều thấy được diệu sắc thân của Như Lai.
“Ðủ thứ phương tiện chiếu thế gian”. Phật dùng đủ thứ pháp phương tiện, để giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được bát nhã trí huệ quang. Trí huệ quang minh nầy chiếu khắp hữu tình thế gian.
“Phổ Phóng Bảo Quang thấy như vậy”. Vị Phổ Phóng Bảo Quang Minh Càn Thát Bà Vương, thấy rõ được cảnh giới nầy.
Ðại trí phương tiện vô lượng môn
Phật vì quần sinh khai xiển khắp
Vào thắng bồ đề hạnh chân thật
Kim Cang Tràng Vương khéo quán sát.
“Ðại trí phương tiện vô lượng môn”. Ðại trí tức là trí huệ Bát nhã. Phương tiện cũng là trí huệ Bát nhã. Phương tiện pháp môn có vô lượng vô biên. Tuy nhiên có nhiều pháp môn, nhưng mỗi pháp môn đối với mỗi căn cơ của chúng sinh, có bao nhiêu loại chúng sinh thì có bấy nhiêu loại pháp môn. Những phương tiện pháp môn này là đạo giáo hóa tất cả chúng sinh, giáo hóa chúng sinh phải xem nhân duyên chúng sinh. Loại chúng sinh nào, thì dùng phương tiện pháp môn đó để giáo hóa, do đó “theo bệnh cho thuốc”, thì mới có công hiệu. “Vì người thuyết pháp”, pháp vốn không pháp, căn bản chẳng có pháp để nói, nhưng cuối cùng thì, chẳng có một pháp nào mà không nói, tất cả đều phải nói. Chỉ cần nói hết tất cả các pháp, mà không cần chấp trước nơi pháp. Cho nên nói chẳng có pháp để nói. Tâm niệm tư tưởng của chúng sinh đều khác nhau, cho nên nói pháp cũng khác nhau.
“Phật vì quần sinh khai xiển khắp”. Phật vì tất cả chúng sinh, mà khai xiển đại trí phương tiện pháp môn, khai xiển vô lượng môn, khiến cho chúng sinh vào đại trí huệ của Phật.
“Vào thắng bồ đề hạnh chân thật”. Khiến cho chúng sinh vào giác đạo thù thắng, tu hành hạnh môn chân thật. Chẳng phải nói ở đầu miệng mà là thật hành. Có người giảng được vài quyển Kinh, hoặc là ngồi thiền, hoặc là dịch Kinh bèn cống cao ngã mạn, cho rằng ta có sự tu hành ! Tư tưởng nầy là sai lầm, nên biết chân thật tu hành thì phải đạo đức chân thật, học vấn chân thật, do đó, phẩm học khiêm ưu thì người mới bội phục bạn, mới sùng kính bạn. Bằng không, chẳng có đạo đức, thì thuyết pháp chẳng có người nghe, cũng chẳng ai bội phục. Nếu có đạo đức, bất cứ đi đến đâu cũng có người biết, không tuyên truyền ai ai cũng đều biết, ai ai cũng đều bảo cho biết.
“Kim Cang Tràng Vương khéo quán sát”. Ðạo lý nầy vị Kim Cang Hoa Thụ Tràng Càn Thác Bà Vương khéo quán sát thấy rõ được.
Trong một Sát na trăm ngàn kiếp
Phật lực hiện được chẳng lay động
Ðồng đem an lạc thí quần sinh
Giải thoát này của Lạc Trang Nghiêm.
“Trong một Sát na trăm ngàn kiếp”. Một Sát na nghĩa là hình dung thời gian rất ngắn. Trong kinh Nhân Vương nói : “Chín chục sát na làm một niệm, một sát na có chín trăm lần sinh diệt”. Trăm ngàn kiếp rút lại làm một sát na, một sát na lại có thể kéo dài thành trăm ngàn kiếp. Thời gian tại phàm phu có dài có ngắn, tại địa vị Phật thì không dài không ngắn. Dài có thể ngắn, ngắn có thể dài, dài ngắn không hai, dài ngắn nhứt như.
Trong một đời chúng ta cảm thấy thời gian rất dài, từ nhỏ đến lớn, trưởng thành rồi già, già rồi chết. Sự sinh già bệnh chết, sinh trụ dị diệt, thành trụ hoại không, phải trải qua thời gian mấy chục năm. Tại địa vị Phật mà nhìn, thì chỉ là một sát na. Trong khoảng thời gian trong một sát na nầy, chúng ta rất nhận chân tình hình vui buồn ly hợp, đợi đến khi nhắm mắt thì, gì cũng chẳng có, đó chẳng phải là một giấc xuân mộng chăng ?
“Phật lực hiện được chẳng lay động”. Ðại oai thần lực của Phật, đem trăm ngàn kiếp thu lại làm một sát na, và kéo dài một sát na làm vô lượng kiếp, có những diệu dụng như vậy, mà như như bất động.
“Ðồng đem an lạc thí quần sanh”. Phật dùng đại oai thần lực đem an lạc bố thí cho chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được khoái lạc chẳng gì sánh bằng.
“Giải thoát nầy của Lạc Trang Nghiêm”. Khoái lạc môn giải thoát nầy vị Phổ Hiện Trang Nghiêm Càn Thác Bà Vương đắc được.
Lại nữa, Tăng Trưởng Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, diệt tất cả oán hại lực.
Tiếp theo Kinh văn ở trước. Vị Tăng Trưởng Cưu Bàn Trà Vương (Cưu Bàn Trà là tên loài quỷ, dịch là “úng hình quỷ”, “đông qua quỷ”), vị nầy đắc được môn giải thoát : diệt tất cả oán hại lực.
Loại quỷ nầy chuyên môn hoành hành bá đạo, không giữ quy cụ. Nhất là người mà âm thạnh dương suy, thì chúng tìm đến nhiễu hại, không bị bệnh nặng thì cũng bị tai ương. Có vị Nam Phương Tăng Trưởng Thiên Vương quản lý. Vua trong tám chúng đều là Bồ Tát hóa thân đến thống trị bọn chúng. Nếu không thì hậu quả không tưởng tượng nổi, tất cả chúng sinh đều phải chiu tai ương.
Oán là oán hận, hại là thương hại. Vì có oán hận cho nên có thương hại. Oán hận không có thì thương hại cũng không. Làm thế nào thì không có oán hận ? Thì phải tu pháp môn từ bi, không những từ bi đối với người, mà cũng phải từ bi với loài súc sinh, dù con muỗi con trùng cũng phải thương tiếc sinh mạng của chúng.
Long Chúa Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, tu tập vô biên biển hạnh môn.
Vị Long Chúa Cưu Bàn Trà Vương nầy, tu hành vô lượng vô biên pháp môn. Vì pháp môn quá nhiều như biển cả. Biển cả thì không cách chi lường được sự rộng lớn, không cách chi dò được sự sâu của nó, cho nên Kinh Phật thường dùng chữ biển, để miêu tả nghĩa Kinh rộng lớn ra sao, thâm diệu ra sao. Vị Thiên Vương nầy đắc được môn giải thoát nầy.
Trang Nghiêm Tràng Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, biết tâm ưa thích của tất cả chúng sinh.
Vị Trang Nghiêm Tràng Cưu Bàn Trà Vương, thường trang nghiêm cõi nước của Phật, trang nghiêm tất cả đạo tràng, trang nghiêm cõi nước mười phương. Vị nầy đắc được cảnh giới : biết được sự hoan hỉ trong tâm chúng sinh là pháp gì ? Thì sau đó tùy thuận tâm ý chúng sinh mà nói pháp gì. Ðó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Nhiêu Ích Hạnh Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, thành tựu đại quang minh sở tác nghiệp thanh tịnh.
Vị Nhiêu Ích Hạnh Cưu Bàn Trà Vương, thường lợi ích chúng sinh. Phàm là chúng sinh cần gì, thì vị nầy đều không bỏn sẻn, mà sẵn sàng bố thí, giúp đỡ chúng sinh giải quyết sự khốn khổ. Vị nầy thành tựu khắp tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được Bát Nhã đại quang minh tạng và thành tựu tất cả thiện nghiệp của chúng sinh làm, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Khả Bố Úy Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, khai thị đạo an ổn không sợ sệt cho tất cả chúng sinh.
Vị Khả Bố Úy Cưu Bàn Trà Vương, tướng mạo rất đáng sợ, tất cả chúng sinh thấy được vị nầy, đều sinh tâm sợ hãi. Tướng mạo của vị nầy tuy nhiên đáng sợ, nhưng tâm của vị nầy rất từ bi, chuyên giúp đỡ chúng sinh, chuyên khai thị chúng sinh, mong muốn chúng sinh lìa khổ được vui, liễu sinh thoát tử. Và còn khiến chúng sinh tiêu trừ sợ hãi, đắc được an ổn. Ðó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Diệu Trang Nghiêm Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, trừ sạch biển ái dục của tất cả chúng sinh.
Vị Diệu Trang Nghiêm Cưu Bàn Trà Vương, tiêu diệt được ái dục của tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh đoạn dục khử ái. Ðoạn dục khử ái tức là giải quyết vấn đề sinh tử. Duyên thứ nhất của mười hai nhân duyên đó là : vô minh. Một niệm vô minh khởi thì đọa lạc. Ðọa lạc đi về đâu ? Ðọa lạc trong sáu nẻo luân hồi.
Vô minh thì gì cũng chẳng biết, không biết thì làm việc hồ đồ, không giữ quy cụ, do đó bèn dinh ra tâm dục niệm. Dục tức là mình tưởng đến, bèn sinh ra tâm ái niệm, ái
tức là những gì mình thích, tâm tư dục và tình ái giống như biển cả, không cách chi đầy đủ được, không cách chi lấp bằng được. Nếu triệt để trừ sạch ái dục, thì sẽ chấm dứt sinh tử, đắc được giải thoát. Vị Cưu Bàn Trà Vương nầy làm khô cạn biển tâm ái dục của tất cả chúng sinh, khiến cho họ chứng đắc thanh tịnh pháp thân. Vị nầy đắc được môn giải thoát nầy.
Cao Phong Huệ Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, mây quang minh hiện khắp trong các pháp giới.
Vị Cao Phong Huệ Cưu Bàn Trà Vương, trí huệ cao vô cùng, đạt đến đỉnh cao nhất, đắc được cảnh giới, biến hiện khắp trong pháp giới của Bồ Tát, pháp giới của Duyên Giác, pháp giới của Thanh Văn, pháp giới của trời, pháp giới của người, pháp giới của A tu la, pháp giới của súc sinh, pháp giới của ngạ quỷ, pháp giới của địa ngục. Hóa hiện đủ thứ mây quang minh trong chín pháp giới, khiến cho tất cả chúng sinh trong các pháp giới, đắc được mây quang minh chiếu sáng, khai mở đại trí huệ, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Dũng Kiện Tí Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, phóng quang minh khắp, tiêu diệt nghiệp chướng nặng như núi.
Vị Dũng Kiện Tí Cưu Bàn Trà Vương, không những dũng mãnh phi thường, mà còn khéo về chiến đấu. Vì sức cánh tay của vị nầy rất khoẻ mạnh và cứng chắt, thậm chí đao chặt không đứt, cho nên làm Cưu Bàn Trà Vương, đắc được cảnh giới phóng quang minh khắp. Quang minh chiếu khắp, khiến cho tất cả nghiệp chướng nặng như núi, tiêu diệt chẳng còn sót, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Tâm người tu đạo chúng ta, tại sao không kiên cố ? Vì nghiệp chướng quá nặng, cho nên chướng ngại tâm tu đạo. Chướng có bốn thứ :
1. Nghiệp chướng.
2. Báo chướng.
3. Phiền não chướng.
4. Sở tri chướng.
Nghiệp chướng tức là : nghiệp ác tạo ra, che lấp chướng ngại trí huệ. Báo chướng tức là : nghiệp tạo ra trong quá khứ, cho đến đời nay phải thọ quả báu. Phiền não chướng tức là : khởi nóng giận, không nhẫn nhục và chẳng có định lực. Tại sao chẳng khai ngộ ? Vì sao không thể giải thoát ? Vì có phiền não chướng. Sở tri chướng tức là : mình cảm thấy sự hiểu biết của mình nhiều hơn so với người khác, việc làm đều đúng so với người khác, đó là sở tri chướng.
Bất cứ là phiền não chướng hoặc là sở tri chướng đều nặng như núi, che lấp chướng ngại sự khai ngộ, cho nên không thể được giải thoát. Vị Cưu Bàn Trà Vương nầy hiểu được đạo lý nầy, đắc được môn giải thoát nầy.
Vô Biên Tịnh Hoa Nhãn Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, khai thị đại bi tạng không thối chuyển.
Vị Vô Biên Tịnh Hoa Nhãn Cưu Bàn Trà Vương, thường khai thị chúng sinh, khiến cho chúng sinh đắc được cảnh giới tâm đại bi bất thối chuyển. Tâm đại bi tức là : phổ độ chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều lìa khổ được vui, cho nên gọi là đại bi tạng, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Quảng Ðại Diện Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, hiện thân lưu chuyển khắp các pháp giới.
Vị Quảng Ðại Diện Cưu Bàn Trà Vương quản lý diện tích rất rộng lớn. Vị Cưu Bàn Trà nào không giữ quy cụ, làm việc hại người, thì vị nầy đều tha thứ, đi khuyên giải họ đừng làm hại người nữa. Vị nầy đắc được cảnh giới thân lưu chuyển, tức là sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh, sinh sinh chết chết, luân hồi không ngừng, lưu chuyển bất tận. Vị nầy đắc được môn giải thoát hiện thân khắp trong các pháp giới, độ hóa chúng sinh trong các pháp giới, khiến cho chúng sinh đắc được giải thoát.
Bấy giờ, Tăng Trưởng Cưu Bàn Trà Vương, nương oai lực của Ðức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Cưu Bàn Trà, mà nói ra bài kệ.
Lúc đó, vị Tăng Trưởng Cưu Bàn Trà Vương (Cưu Bàn Trà thuộc về sự quản lý của Tăng Trưởng Thiên Vương ở phương nam), vị nầy nương đại oai thần lực gia bị của đức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Cưu Bàn Trà mà nói kệ để tán thán công đức của Phật.
Thành tựu nhẫn lực thế Ðạo sư
Vì người tu hành vô lượng kiếp
Vĩnh lìa kiêu mạn hoặc thế gian
Cho nên thân Phật nghiêm tịnh nhất.
“Thành tựu nhẫn lực thế Ðạo sư”. Ðức Phật thành tựu được sức nhẫn nhục, mà làm Ðạo sư thế gian và làm Ðạo sư của chư thiên.
Chúa trời cung trời Ðao Lợi, chán nãn sự sinh hoạt ở cung trời, bèn quán sát mình quá khứ có nhân duyên gì mà được làm chúa trời ? Sau khi quán sát thì thấy mình trong quá khứ đã từng nghe Phật pháp, đã làm công đức, cho nên được làm chúa trời, do đó phát tâm từ bi, mong muốn trời người đều nghe được Phật pháp mà trồng căn lành, tương lai sẽ sinh về cõi trời, không còn lẩn quẩn trong sáu nẽo luân hồi, mới thỉnh Phật đến cung trời Ðao Lợi vì chư thiên mà thuyết pháp. Ðức Phật theo sự thỉnh cầu mà đến, rộng nói diệu pháp. Có tám vạn bốn ngàn chúng đắc được lợi ích, đều chứng được không thối chuyển. Cho nên được xưng là thầy của trời người. Phật không những đến cung trời vì chúng sinh thuyết pháp mà còn xuống cung rồng vì chúng sinh thuyết pháp.
“Vì người tu hành vô lượng kiếp”. Phật thấy chúng sinh rất đáng thương, suốt ngày sinh sống trong danh lợi, lẩn quẩn trong luân hồi sinh tử. Phật thương chúng sinh như con, mới phát nguyện lớn, nhất định phải tu hành, khai ngộ rồi mới có trí huệ, mới liễu sinh thoát tử. Có thần thông rồi mới đem pháp môn đã chứng đắc để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh cũng đắc được liễu sinh thoát tử, tức là tu hành Phật pháp. Nhưng pháp môn liễu sinh thoát tử, không dễ gì hiểu được. Phật muốn minh bạch thứ pháp môn nầy, cho nên trong vô lượng kiếp đến nay, không trốn tránh sự khổ, không sợ mọi khó khăn nào, tu đủ thứ khổ hạnh để cứu chúng sinh lìa khổ được vui.
“Vĩnh lìa kiêu mạn hoặc thế gian”. Vĩnh viễn xa rời tất cả kiêu ngạo, ngã mạn, mê hoặc .v.v.. Chúng ta người tu đạo, nếu diệt trừ được ba thứ ác tập, thì sẽ thành tựu đạo nghiệp.
“Cho nên thân Phật nghiêm tịnh nhất”. Vì Chẳng có kiêu ngạo, ngã mạn, mê hoặc những thứ nhiễm ô nầy, cho nên thân thể của Phật trang nghiêm thanh tịnh nhất.
Xưa kia Phật tu các biển hạnh
Giáo hóa mười phương vô lượng chúng
Ðủ thứ phương tiện lợi quần sinh
Môn giải thoát nầy Long Chúa được.
“Xưa kia Phật tu các biển hạnh”. Ðức Phật trong vô lượng kiếp về trước, tu hết thảy đủ thứ hạnh môn, bất cứ pháp gì Ngài cũng đều tu. Phàm là pháp Ngài đều tu hành, tuyệt đối không bỏ qua pháp nào dù nhỏ như sợi tóc, huống chi là pháp lớn lục độ Ba la mật. Ðời này Phật tu bố thí Ba la mật, đời sau tu trì giới Ba la mật, đời sau nữa tu nhẫn nhục ba la mật, đời kế tiếp tu tinh tấn Ba la mật, đời kế tiêp tu thiền định Ba la mật, đời kế tiếp tu trí huệ Bát nhã Ba la mật. Tuy nhiên trong một đời tu một Ba la mật nhưng năm Ba la mật kia cũng tu, bất quá là phụ mà thôi. Vì pháp môn lục độ vạn hạnh pháp quá nhiều, trước hết tu một ba la mật chính yếu, và tu các hạnh môn kia khác, cho nên xưng là các biển hạnh.
“Giáo hóa mười phương vô lượng chúng”. Ðức Phật tu các biển hạnh thành tựu rồi, sau đó dùng các pháp môn đã chứng đắc, để giáo hóa vô lượng chúng sinh trong mười phương, khiến cho họ chiếu theo đó mà tu các biển hạnh. Phật pháp là kim chỉ nam, là bản đồ tìm kho báu, tìm báu gì ? Tìm Phật Pháp Tăng Tam Bảo.
“Ðủ thứ phương tiện lợi quần sinh”. Ðức Phật dùng đủ thứ pháp phương tiện, để lợi ích tất cả chúng sinh, mỗi cử chỉ hành động, mỗi lời nói mỗi hạnh của Phật đều là pháp, làm mô phạm cho chúng sinh tu hành. Ðức Phật ngàn hạnh vạn khổ tu thành đạo nghiệp, chẳng giữ lại chút nào cho mình, hoàn toàn bày hết ra để giáo hóa chúng sinh, để lợi ích chúng sinh.
Ðức Phật có vị đệ tử tên là Châu Lợi Bàn Ðà, trong quá khứ là một vị đại thiện tri thức, có năm trăm vị đệ tử, nhưng vị này rất bỏn xẻn về pháp, không muốn giảng pháp. Vì vị nầy không đem pháp của mình đã hiểu biết để nói với đệ tử, cho nên tái sinh làm Châu Lợi Bàn Ðà, thì biến thành ngu si nhất. Ðó là quả báu không nói pháp. Muốn có trí huệ thì phải đem pháp của mình biết (chẳng phải là tà tri kiến mà là chánh tri chánh kiến) giảng giải cho chúng sinh biết, dù một câu, cũng được vô lượng công đức. Do đó “một lời hưng bang, một lời tán bang”. Phật pháp cũng như thế, một câu chánh pháp có thể làm cho người lầm đường lạc lối quay trở về với con đường chân chánh.
“Môn giải thoát nầy Long Chúa được”. Môn giải thoát nầy vị Long Chúa Cưu Bàn Trà Vương đắc được.
Phật dùng đại trí cứu chúng sinh
Rõ biết tất cả tâm chúng sinh
Ðủ thứ tự tại mà điều phục
Nghiêm Tràng thấy được sinh vui mừng.
“Phật dùng đại trí cứu chúng sinh”. Ðức Phật là bậc đại giác, không gì mà chẳng biết, không gì mà chẳng làm được, cho nên Phật dùng đại trí huệ để cứu chúng sinh. Muốn cứu chúng sinh gì thì dùng pháp môn đó. Chúng sinh đáng dùng thân gì để độ được, thì hiện ra thân đó để vì chúng sinh thuyết pháp, do đó quán cơ đầu giáo, vì người thuyết pháp. Vì căn tính chúng sinh khác nhau, do đó dùng pháp môn cũng khác nhau. Người có đại trí huệ thì cứu hộ được chúng sinh.
“Biết rõ tất cả tâm chúng sinh”. Phật hoàn toàn biết rõ tâm ý của chúng sinh, do đó “Tất cả bao nhiêu thứ tâm của chúng sinh, Như Lai đều biết đều thấy”. Phật dùng phương pháp đó để giáo hóa, khiến cho chúng sinh được đầy đủ mà tin thọ.
“Ðủ thứ tự tại mà điều phục”. Phật dùng đủ thứ thần thông lực, để điều phục chúng sinh. Có những chúng sinh khó điều phục, thì Phật nói đủ thứ pháp môn, khiến cho chúng sinh cang cường phát tâm tín niệm, tin Phật pháp là cứu thế độ người. Gặp chúng sinh xan tham, thì vì họ nói pháp môn bố thí, khiến cho họ sinh tâm từ bi. Gặp chúng sinh không giữ quy cụ, thì vì họ nói pháp môn trì giới, khiến cho họ giữ gìn quy cụ, tiêu diệt tất cả ác tập khí, tu hành tất cả pháp lành, do đó :”đừng làm ác, hãy làm các điều lành”. Gặp chúng sinh thích nóng giận, thì dạy họ pháp môn nhẫn nhục, dạy họ lửa vô minh thiêu hủy tất cả công đức. Khiến cho họ bồi dưỡng tính nhẫn nhục, và sống trong sự hòa hợp với mọi người, tha thứ hết thảy, bỏ qua hết mọi sự, do đó :
“Nhẫn được thì yên,
Biết đủ thì an vui”.
Cho nên tinh tấn, thiền định, Bát nhã cũng đều như thế. Phải quán sát tất cả chúng sinh, nên dùng pháp nào độ được, thì dùng pháp đó, dùng đủ thứ thần thông diệu dụng, để điều phục chúng sinh, khiến cho họ cải lỗi làm con người mới lại.
“Nghiêm Tràng thấy được sinh vui mừng”. Vị Trang Nghiêm Tràng Cưu Bàn Trà Vương, đắc được cảnh giới nầy thì sinh tâm hoan hỉ.
Thần thông ứng hiện như quang ảnh
Pháp luân chân thật đồng hư không
Xử thế như vậy vô lượng kiếp
Nhiêu Ích Vương chứng được môn nầy.
“Thần thông ứng hiện như quang ảnh”. Thần thông của Phật là ứng cơ hiện khắp. Trí huệ của Phật là chiếu khắp chúng sinh. Vì Phật có đại trí huệ, có đại thần thông, cho nên tùy loại ứng hiện giáo hóa chúng sinh. Giống như quang và ảnh, nghiệp chướng của chúng sinh là hình, thần thông trí huệ của Phật là quang. Ví như nghiệp chướng của chúng sinh là băng, thần thông trí huệ quang của Phật là mặt trời. Ánh sáng mặt trời chiếu xuống băng, thì băng lập tức tan thành nước, hoặc là bốc thành hơi. Băng tan ra tức là phản bổn hoàn nguyên (trở về nguồn cội). Chúng sinh tuy nhiên là có nghiệp chướng, nhưng qua sự thần thông trí huệ quang của Phật chiếu, thì nghiệp chướng hoàn toàn tiêu diệt. Mục đích chúng ta nghiên cứu Phật pháp tức là tiêu trừ nghiệp chướng.
“Pháp luân chân thật đồng hư không”. Chuyển đại pháp luân là chân thật, nhưng đừng chấp trước có pháp luân để chuyển, có chúng sinh để độ. Nếu có sự chấp trước thì biến thành pháp chấp. Tuy nhiên pháp luân là chân thật, nhưng giống như hư không, không thể đắc được.
“Xử thế như vậy vô lượng kiếp”. Những gì Phật làm, đều chẳng chấp trước, như vậy đến thế giới nầy xử lý thế giới giáo hóa chúng sinh. Phật trong vô lượng vô số đại kiếp, làm Phật sự mà chẳng chấp trước.
“Nhiêu Ích Vương chứng được môn này”. Cảnh giới nầy, vị Nhiêu Ích Hạnh Cưu Bàn Trà Vương, chứng đắc được. Vì vị nầy minh bạch hiểu rõ được đạo lý nầy, mới chứng được môn giải thoát nầy.
Chúng sinh ngu si thường mê hoặc
Phật quang chiếu khắp khiến an ổn
Vì cứu chúng sinh khiến trừ khổ
Khả Úy quán được pháp môn nầy.
“Chúng sinh ngu si thường mê hoặc”. Tại sao lại làm chúng sinh ? Vì một niệm vô minh. Một niệm vô minh không giác cho nên đọa lạc làm chúng sinh. Chúng sinh tuy nhiên không giác, nhưng vẫn đầy đủ Phật tánh vốn có, chỉ không giác mà thôi. Không giác tức là ngu si, che lấp trí huệ. Ngu si giống như màn che trong con mắt, nhìn sự vật chẳng rõ ràng. Vì nhìn không rõ nên làm những việc điên đảo hồ đồ. Vì hồ đồ điên đảo, nên sinh ra nhiều mê hoặc. Nghi Phật không tin Phật, nghi Pháp không học Pháp, nghi Tăng không tin Tăng. Không tin, không học, không kính đối với Tam Bảo, cho nên gọi thường mê hoặc.
“Phật quang chiếu khắp khiến an ổn”. Vì quang minh của chiếu khắp, cho nên chẳng có tai nạn, chẳng có nguy hiểm, khiến cho chúng sinh an ổn tín ngưỡng Tam Bảo, cung kính Tam Bảo, hộ trì Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo.
“Vì cứu chúng sinh khiến trừ khổ”. Phật là từ phụ của chúng sinh, là đạo sư của chúng sinh, là hộ sĩ của chúng sinh, giải trừ tất cả khổ của chúng sinh, trừ khổ rồi thì đắc được sự an lạc.
“Khả Úy quán được pháp môn này”. Vị Khả Bố Úy Cưu Bàn Trà Vương, quán sát được pháp môn nầy, minh bạch được pháp môn nầy, cho nên chứng được môn giải thoát nầy.
Biển dục trôi nổi đầy sự khổ
Trí quang chiếu khắp diệt không còn
Dứt trừ khổ rồi vì thuyết pháp
Diệu Trang Nghiêm Vương ngộ môn nầy.
“Biển dục trôi nổi đầy sự khổ”. Dục niệm của chúng sinh vô lượng như biển lớn. Có người muốn làm thủ lãnh, đó là dục thủ lãnh, có người muốn làm phú ông, đó là dục phú ông, hai thứ dục nầy là dục giàu sang. Có người muốn có danh vọng tốt, đó là dục danh vọng tốt. Có người khen họ, thì trong tâm họ cảm thấy ngọt hơn so với mật ong; có người phỉ báng họ, thì trong tâm cảm thấy đắng hơn là huỳnh liên. Có người muốn có đời sống tốt, đó là dục đời sống; và muốn có y phục tốt mặc, có vật ngon ăn, có nhà tốt ở, có xe mới chạy. Tóm lại, phàm là tất cả sự mong muốn đều là lạc dục. Còn có một thứ dục nữa không dễ gì đoạn trừ, đó là dục nam nữ. Do đó, trôi đi trôi lại ở trong biển dục, trôi từ đây sang kia, từ đó lại trôi đến đây. Từ bờ sinh tử bên nầy trôi vào trong dòng phiền não, trôi lạc đến đáy biển không dễ gì đến được bờ Niết Bàn bên kia.
Ví như, chúng sinh nầy vốn ở trên cõi trời. Vì quan hệ dục niệm quá nặng, từ cõi trời trôi lạc xuống nhân gian, từ nhân gian trôi lạc vào cõi A tu la, cho đến địa ngục. Mỗi lần trôi lạc, thì càng sâu hơn, trôi lạc xa hơn, tức cũng là rời tự tính sâu hơn, rời Phật pháp xa hơn. Trôi nổi ở trong biển dục, chịu vô lượng sự thống khổ. Chúng ta tu đạo là đoạn trừ năm dục (tài, sắc, danh, ăn, và ngủ). Tu hành viên mãn thì thăng đi lên; không viên mãn thì đọa đi xuống, tơ hào không sai được, chẳng đếm xỉa gì đế nhân tình, đại công vô tư, mọi người đều bình đẳng. Cho nên nói tài, sắc, danh, ăn, và ngủ là năm tầng địa ngục.
“Trí quang chiếu khắp diệt không còn”. Trí huệ quang minh của Phật chiếu khắp các pháp giới, khiến cho sự khổ của chúng sinh, đều diệt sạch không còn, làm cho chúng sinh đều được an lạc.
“Dứt trừ khổ rồi vì thuyết pháp”. Không những Phật vì chúng sinh, trừ tất cả mọi sự thống khổ, mà còn diễn nói diệu pháp.
“Diệu Nghiêm Tràng Vương ngộ môn nầy”. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Diệu Trang Nghiêm Cưu Bàn Trà Vương ngộ được.
Thân Phật ứng khắp thảy đều thấy
Ðủ thứ phương tiện hóa quần sinh
Âm như sấm sét mưa pháp vũ
Cao Huệ vào được pháp môn nầy.
“Thân Phật ứng khắp thảy đều thấy”. Thân Phật giống như mặt trăng mát mẻ, thường lơ lửng trên hư không, nếu trong tâm nước chúng sinh thanh tịnh, thì ánh sáng mặt trăng của Phật, sẽ chiếu vào trong tâm ảnh bồ đề của chúng sinh. Và giống như ngàn vũng ao đều có mặt trăng. Chỉ cần chỗ nào có nước lắng trong, thì mặt trăng sẽ hiện bóng. Mặt trăng chẳng có tâm phân biệt, trong nước nhiều cũng có mặt trăng, trong nước ít cũng có mặt trăng. Do đó :
“Nhất nguyệt phổ hiện nhất thiết thủy,
Nhất thiết thủy nguyệt nhất nguyệt nhiếp”.
Nghĩa là : một mặt trăng hiện khắp tất cả chỗ nào có nước, mặt trăng trong tất cả chỗ nào có nước, chỉ phản ảnh bởi một mặt trăng. Chúng sinh không chỗ nào chẳng thấy thân Phật, vì thân Phật hiện khắp tất cả . Chỗ nầy có người thắc mắc : “Tại sao tôi không thấy thân của Phật”? Vì tâm nước của bạn không thanh tịnh, có tư tưởng nhiễm ô, cho nên ánh sáng mặt trăng Phật không hiện ra.
“Ðủ thứ phương tiện hóa quần sinh”. Phật dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để giáo hóa chúng sinh. Vì người bố thí giáo pháp, với người lợi căn, thì nói pháp chân không diệu hữu, đối với người độn căn, thì nói pháp nhân quả báo ứng. Theo bệnh cho thuốc, bệnh nhiệt thì dùng thuốc mát giải nhiệt, bệnh hàn thì dùng thuốc nhiệt, như vậy thì mới có hiệu quả và thuốc có công năng chữa hết bệnh.
Phật thuyết pháp, thì tùy người tùy thời tùy nơi mà nói pháp, cho nên một pháp có đủ thứ sự giải thích khác nhau. Ví như bậc tiểu học thì nói đạo lý, bậc trung học thì nói tri thức, bậc đại học thì giảng lý luận. Phật là đạo sư của thế gian, hiểu tâm lý chúng sinh. Pháp của Phật giáo hóa hoàn toàn thành công và triệt để. Chỉ có Khổng Tử và Phật được gọi là nhà giáo dục, là thầy tiêu biểu cho muôn đời, nhưng Khổng Tử chẳng phải là nhà tôn giáo.
“Âm như sấm sét mưa pháp vũ”. Âm thanh của Phật thuyết pháp, giống như tiếng sấm sét, bất cứ chúng sinh ở đâu, cũng đều nghe rõ ràng. Và còn mưa pháp vũ thấm nhuần khắp tất cả vạn vật. Phật vì chúng sinh thuyết pháp, khiến cho chúng sinh đắc được ích lợi pháp vũ. Người lợi căn, thì được lợi ích pháp nhiều, người độn căn thì được lợi ích pháp ít, tóm lại đều được lợi ích . Chỉ cần thành tâm tin thọ, thì chắc chắn đắc sẽ được diệu dụng. Sự diệu dụng nầy diệu không thể tả, như uống nước, nóng lạnh tự mình biết. Phật pháp không phải ở lời nói, mà là ở việc làm, làm được thì có công đức, có công đức thì sẽ thành tựu.
“Cao Huệ vào được pháp môn này”. Pháp môn nầy vị Cao Phong Huệ Cưu Bàn Trà Vương thâm nhập được.
Quang minh thanh tịnh chiếu hết thảy
Nếu ai gặp được tiêu chướng nặng
Nói công đức Phật không bờ mé
Dũng Tí thâm nhập pháp môn nầy.
“Quang minh thanh tịnh chiếu hết thảy”. Trí huệ của Phật là quang minh thanh tịnh, nhưng không phát ra bậy bạ, không phát ra thì thôi, mà phát ra thì sẽ trúng, có công năng như thế. Công năng gì ? Công năng diệt trừ được chướng ngũ nghịch thập ác.
“Nếu ai gặp được tiêu chướng nặng”. Nếu ai gặp được trí huệ quang minh thanh tịnh của Phật chiếu, thì bất cứ nghiệp chướng nặng bao nhiêu cũng đều tiêu trừ.
Chướng nặng tức là : giết cha, giết mẹ, giết bậc A la hán, phá hoại Tăng đoàn, làm thân Phật chảy máu. Ðó là năm tội nặng nhất. Căn bản không thể sám hối tiêu tội, nhưng quang minh của Phật chiếu đến, thì đều tiêu trừ. Ví như chướng nặng như núi băng, quang minh của Phật như mặt trời. Mặt trời chiếu đến thì núi băng cũng tiêu tan.
“Nói công đức Phật không bờ mé”. Nếu nói tỉ mỉ về công đức của Phật, thì chẳng cách chi diễn nói được, vì công đức của Phật chẳng có bờ mé. Do đó :
“Hư không khả lượng phong khả khế,
Vô năng thuyết tận Phật công đức”.
Nghĩa là :
Hư không có thể lường được, gió buộc được,
Không thể nói hết công đức của Phật.
“Dũng Tí thâm nhập pháp môn này”. Vị Dũng Kiện Tí Cưu Bàn Trà Vương, minh bạch thâm sâu vi diệu đạo lý nầy.
Vì muốn an lạc các chúng sinh
Tu tập đại bi vô lượng kiếp
Ðủ thứ phương tiện trừ các khổ
Tịnh Hoa thấy được pháp môn nầy.
“Vì muốn an lạc các chúng sinh”. Vì chúng sinh ở trong sự ưu bi khổ não, chấp trước mê hoặc quá sâu nặng, không muốn ra khỏi biển khổ. Phật vì muốn cứu chúng sinh đắc được an lạc, mới hy sinh sự sung sướng an vui của chính mình, đảo giá từ thuyền đến thế giới Ta Bà nầy độ tất cả chúng sinh.
“Tu tập đại bi vô lượng kiếp”. Phật tự mình chịu khổ, muốn cho chúng sinh hết khổ, cho nên trong vô lượng kiếp về trước phát nguyện lớn, tu đủ thứ khổ hạnh. Tại sao phải tu khổ hạnh ? Vì tu khổ hạnh thì có thể khai ngộ, khai ngộ thì có trí huệ, có trí huệ mới cứu được chúng sinh, ra khỏi biển khổ tam giới. Phật trong vô lượng kiếp dưỡng thành tâm đại bi, lấy sự phổ độ chúng sinh làm bổn hoài.
“Ðủ thứ phương tiện trừ các khổ”. Phật tu hạnh đại bi, dùng pháp môn quyền xảo phương tiện, để trừ khử khổ não của chúng sinh, khiến cho tiêu trừ hết các khổ, thì tự nhiên sẽ đắc được an lạc.
“Tịnh Hoa thấy được pháp môn này”. Cảnh giới nầy vị Vô Biên Tịnh Hoa Nhãn Cưu Bàn Trà Vương thấy và biết rõ.
Thần thông tự tại không nghĩ bàn
Thân Phật hiện khắp trong mười phương
Mà khắp các chỗ chẳng đến đi
Quảng Ðại Diện Vương ngộ môn nầy.
“Thần thông tự tại không nghĩ bàn”. Sức thần thông tự tại của Phật vô lượng vô biên, là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Thần thông là thành tựu trí huệ rất tự nhiên. Tự tại tức là do thành tựu định lực. Thần thông tự tại từ đâu mà tu được ? Là từ khổ hạnh và trong thiền định đắc được. Có trí huệ chân chánh, thì sẽ có thần thông. Có định lực chân chánh thì sẽ đắc tự tại. Bất cứ là thần thông hoặc tự tại đều là diệu không thể tả.
“Thân Phật hiện khắp trong mười phương”. Vì Phật có thần thông tự tại không thể nghĩ bàn, cho nên Thân Phật hiện khắp trong mười phương thế giới, do đó “tận hư không khắp pháp giới “. Pháp thân của Phật vô sở bất tại (chẳng có chỗ nào mà không có).
“Mà khắp các chỗ chẳng đến đi”. Phật chẳng đến đi trong mười phương, cho nên nói không đến không đi. Vì có cảnh giới :”một hiện nhiều, nhiều hiện một”, cho nên một nhiều hổ tương vô ngại. Tóm lại, một tức là nhiều, nhiều tức là một, một nhiều không hai.
Trong kinh Kim Cang nói :
“Như Lai giả,
Vô sở tùng lai,
Diệc vô sở khứ”.
Nghĩa là :
“Ðức Như Lai !
Không từ đâu đến
Cũng không đi về đâu”.
Không giống như chúng ta, nếu ở chỗ nầy thì chỗ kia chẳng có ; nếu ở chỗ kia thì chỗ nầy chẳng có. Thần thông tự tại diệu dụng của Phật, ở trong đạo tràng không động chỗ ngồi, mà đến được mười phương thế giới diễn nói Kinh Hoa Nghiêm. Tất cả chúng sinh trong mười phương đều thấy được Ðức Phật, đều nghe pháp được.
“Quảng Ðại Diện Vương ngộ môn nầy”. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Quảng Ðại Diện Cưu Bàn Trà Vương đắc được và thấy rõ được.
Lại nữa, Tì Lâu Bác Xoa Long Vương, được môn giải thoát, tiêu diệt tất cả sự thống khổ của loài rồng.
Nói tiếp theo Kinh văn ở trước. Vị Tì Lâu Bác Xoa Long Vương (Rồng là một trong tứ linh, có thần thông, biến hóa bay được, nổi mây làm mưa ). Vị nầy đắc được cảnh giới tiêu diệt được tất cả sự khổ của loài rồng. Rồng có những khổ gì?
Có bốn thứ khổ, thống khổ giống như lửa. Bốn thứ khổ là :
1. Khổ về làm thức ăn của chim Kim Sí Ðiểu (chim đại bàng cánh vàng) : Chim Kim Sí chuyên bắt rồng ăn thịt, rồng gần chết thì bị chim bắt ăn.
2. Khổ về khi hành dâm thì biến thân thể : Khi rồng đực rồng cái giao nhau thì phải hiện thân rắn, sự biến hóa nầy thống khổ vô cùng.
3. Khổ về côn trùng ở trong vảy rúc rỉa : Ở trong vảy có rất nhiều trùng nhỏ, rúc rỉa toàn thân phát ngứa, khổ khó tả được.
4. Khổ về nóng đốt thân : Vì toàn thân ngứa ngáy, do đó lên bờ lăn trên các nóng, nhưng cá bị ánh nắng mặt trời, đốt nóng như lửa, bị phỏng mà phát đau.
Tại sao bị đọa làm rồng ? Nếu tâm sân hận quá nặng, thích nóng giận, không có hàm dưỡng công phu, thì sẽ biến làm rồng. Nếu tâm đố kị quá nặng, không có tâm từ bi, thì đọa làm loài trăn. Nếu tâm siểm nịnh quá nặng, chẳng có tâm từ bi, thì đọa làm rắn. Tâm nóng giận của rồng quá lớn, thích phun độc để hại sinh linh. Bất cứ việc gì chúng cũng đều nóng giận. Nhưng rồng tu hành thì rất dụng công, dũng mãnh tinh tấn, không sợ khổ không sợ khó, nhưng chúng không giữ giới luật, không chú trọng về giới luật, do không giữ giới luật cho nên đọa làm súc sinh. Vị Long Vương nầy đắc được môn giải thoát : tiêu diệt sự thiêu đốt nhiệt não của loài rồng.
Sa Kiệt La Long Vương, được môn giải thoát, trong một niệm tự chuyển hình rồng, thị hiện vô lượng thân chúng sinh.
Vị Sa Kiệt La Long Vương, là Long Vương ở trong biển nước mặn, chỉ trong một niệm tự chuyển hình rồng mà thị hiện tất cả thân chúng sinh. Gặp chúng sinh phi hành thì hiện thân chúng sinh phi hành. Gặp chúng sinh ẩn nổi thì hiện thân chúng sinh ẩn nổi, gặp chúng sinh thai hình thì hiện thân chúng sinh thai hình, gặp chúng sinh noãn hình thì hiện thân chúng sinh noãn hình. Tóm lại, gặp chúng sinh thân hình gì, thì hiện chúng sinh thân hình đó, để giáo hoá chúng sinh, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Vân Âm Tràng Long Vương, được môn giải thoát, trong tất cả các cõi, dùng âm thanh thanh tịnh, diễn nói vô biên danh hiệu Phật nhiều như biển.
Vị Vân Âm Tràng Long Vương có âm thanh biến mãn trang nghiêm như mây, như tràng. Vị nầy đắc được cảnh giới, ở trong tất cả loài chúng sinh, vì chúng sinh mà diễn nói danh hiệu của chư Phật.
Các cõi tức là : tam giới hai mươi lăm cõi. Vị nầy ở trong tam giới, dùng âm thanh thanh tịnh để thuyết pháp. Mỗi một vị Phật có một vạn danh hiệu, một vạn vị Phật có vạn vạn danh hiệu, cho nên gọi là biển danh hiệu.
Từ trước mỗi vị Phật có một vạn danh xưng. Vì chúng sinh nhớ không hết, cho nên sau đó bớt còn một ngàn danh xưng, nhưng chúng sinh cũng nhớ cũng không hết, về sau bớt còn một trăm danh xưng, chúng sinh cũng nhớ không hết, cuối cùng bớt xuống còn mười danh xưng, như vậy mới nhớ hết.
Mười danh hiệu là : Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Trong đó danh hiệu “Thiện Thệ Thế Gian Giải” đáng lý là hai danh hiệu. Ðầy đủ mười danh hiệu nầy mới xưng là Thế Tôn. Thế Tôn là tổng đại biểu mười danh hiệu. Vị Long Vương nầy đắc được môn giải thoát biển danh hiệu của chư Phật.
Diệm Khẩu Long Vương, được môn giải thoát, hiện khắp vô biên thế giới của Phật, kiến lập đều khác nhau.
Vị Diệm Khẩu Long Vương trong miệng phun ra lửa được, biến thành núi lửa. Vị nầy đắc được pháp môn biến khắp trong mười phương thế giới của chư Phật. Thế giới của chư Phật kiến lập, thành tựu, đều khác nhau. Thế giới Ta Bà là Phật Thích Ca kiến lập, hoằng dương Phật pháp ở thế giới nầy. Thế giới Cực Lạc là Phật Di Ðà kiến lập, diễn nói Phật pháp ở thế giới nầy. Thế giới Lưu Ly là Phật Dược Sư kiến lập, đang giảng Kinh thuyết pháp. Vì chư Phật kiến lập thế giới, cho nên mỗi thế giới đều khác nhau, do đó mới nói môn giải thoát khác nhau.
Thế giới của Chư Phật kiến lập hoặc là thời gian kiến lập dài một chút, hoặc ngắn một chút, hoặc thế giới kiến lập trang nghiêm, đều là mười phương chư Phật, đối căn cơ của chúng sinh, mà thị hiện ra loại thế giới nầy, để cứu loại chúng sinh nầy, đó là môn giải thoát của vị Long Vương nầy đắc được.
Diễm Nhãn Long Vương, được môn giải thoát, tất cả chúng sinh bị sân si ràng buộc, Như Lai thương xót khiến cho họ trừ diệt.
Vị Diễm Nhãn Long Vương trong con mắt phóng ra hỏa quang. Sự biết được của vị nầy là : tất cả chúng sinh đều có sân hận, đều có vô minh, đều có phiền não, đều có nóng giận. Nhưng Như Lai có lòng từ bi thương xót chúng sinh, khiến cho tất cả sân si che trói đều diệt trừ.
Tâm sân hận quá nặng thì che lấp từ bi. Tâm ngu si quá nặng thì che lấp trí huệ. Bị sân si che quá sâu dày gọi là trói buộc, không được tự tại, sân si của chúng sinh bị che trói, làm chướng ngại sự tu đạo. Phật phát tâm đại từ bi, khiến cho sân si che trói chúng sinh diệt trừ. Khiến cho người tu đạo tiêu diệt tham sân si ba độc, tu thành giới định huệ ba học vô lậu, như thế thì mới có sự thành tựu.
Vân Tràng Long Vương được môn giải thoát, khai thị biển phước đức đại hỉ lạc cho tất cả chúng sinh.
Vị Vân Tràng Long Vương đắc được cảnh giới : khai thị tất cả chúng sinh. Chúng sinh không minh bạch, khi vị nầy khai thị thì minh bạch. Chúng sinh có sự ngu si chướng ngại, khi vị nầy khai thị thì tiêu diệt. Chúng sinh có ưu sầu khổ não, khi vị nầy khai thị rồi thì chẳng còn ưu sầu. Sự khai thị cùa vị nầy có đủ thứ lợi ích. Chúng sinh nghe được vị nầy khai thị thì sinh tâm đại hoan hỉ, sinh tâm đại khoái lạc. Tại sao ? Vì đắc được phước đức và trí huệ. Sự hỉ lạc phước đức nầy, vô lượng vô biên rộng lớn như biển lớn, cho nên sinh đại hỉ lạc, đó là môn giải thoát vị long vương nầy đắc được.
Ðức Xoa Ca Long Vương đươc môn giải thoát, dùng âm thanh thanh tịnh cứu hộ diệt trừ tất cả sợ hãi.
Vị Ðức Xoa Ca Long Vương, đắc được một thứ âm thanh : thanh tịnh cứu hộ, bất cứ loài chúng sinh nào nghe được âm thanh của vị nầy, thì sẽ diệt trừ tất cả tâm sợ hãi, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Vô Biên Bộ Long Vương được môn giải thoát, thị hiện tất cả sắc thân của Phật và thứ tự trụ kiếp.
Vị Vô Biên Bộ Long Vương thần thông biến hóa không thể nghĩ bàn, hốt lớn hốt nhỏ, hốt có hốt không. Vị nầy đắc được cảnh giới : thị hiện được tất cả sắc thân của Phật và tám tướng thứ tự khi Phật ở đời, đó là môn giải thoát vị Long Vương nầy đắc được.
Tám tướng tức là :
1. Hàng sinh : Từ cung trời Ðâu Xuất cõi voi trắng lớn sáu ngà xuống trần gian.
2. Trụ thai : Lựa chọn vua Tịnh Phạn làm cha, Hoàng Hậu Ma Gia làm mẹ. .
3. Xuất thai : Sinh ra dưới cây Vô Ưu trong vườn Lâm Tì Ni, tay trái chỉ trời tay phải chỉ đất mà nói :”Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”.
4. Xuất gia : Vì cầu pháp môn liễu sinh thoát tử mà tu đạo.
5. Hàng ma : Dưới cội bồ đề sắp thành chánh giác thì ma nữ hiện ra ba mươi hai sắc đẹp; nhưng Phật chẳng động tâm, cho nên ma nữ thối lui.
6. Thành Chánh Giác : Ðêm thấy sao mai mọc mà chứng giác đạo.
7. Chuyển pháp luân : Lúc ban đầu tại vườn Lộc Uyển chuyển bánh xe pháp bốn Thánh Ðế, cuối cùng nói Kinh Niết Bàn trong rừng Sa La Long Thọ.
8. Vào Niết Bàn : Vào cứu kính Niết Bàn dưới cây Sa La Song Thọ tại thành Câu Thi Na .
Thanh Tịnh Sắc Tốc Tật Long Vương, được môn giải thoát, khiến cho tất cả chúng sinh, sinh ra biển tâm đại ưa thích hoan hỉ.
Vị Thanh Tịnh Sắc Tốc Tật Long Vương, phi hành biến hóa rất mau chóng. Vị nầy đắc được cảnh giới : khiến cho tất cả chúng sinh đắc được đại ưa thích đại hoan hỉ. Ưa thích gì ? Ưu thích Phật pháp. Hoan hỉ gì ? Hoan hỉ Phật pháp. Sự ưa thích và hoan hỉ nầy lớn như biển, chẳng cùng tận, đó là môn giải thoát của vị nầy.
Phổ Hành Ðại Âm Long Vương, được môn giải thoát, thị hiện tất cả âm thanh bình đẳng vừa ý vô ngại.
Vị Phổ Hành Ðại Âm Long Vương, khắp cùng pháp giới, phát ra đại pháp âm, thị hiện tất cả pháp âm bình đẳng vừa ý, chẳng có chướng ngại. Bất cứ loại chúng sinh nào, nghe được pháp âm nầy, thì đều sinh ra tâm khoái lạc, tiêu diệt tất cả ưu sầu khổ não, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Vô Nhiệt Não Long Vương được môn giải thoát, dùng mây đại bi che khắp, để diệt trừ tất cả sự khổ thế gian.
Vị Vô Nhiệt Não Long Vương, do thành tựu đại bi nguyện lực mây đại bi, che khắp tất cả chúng sinh trong hư không, diệt trừ được tất cả sự khổ trong thế gian, đó là môn giải thoát của vị nầy đắ được.
Bấy giờ, Tì Lâu Bác Xoa Long Vương, nương oai lực của Ðức Phật, quán khắp tất cả các chúng rồng mà nói ra bài kệ.
Lúc đó, vị Tì Lâu Bác Xoa Long Vương, (Rồng thuộc về sự quản lý của Quảng Mục Thiên Vương ở hướng tây) nương đại oai thần lực của chư Phật gia trì, quán sát khắp tất cả loài rồng mà tán thán công đức của Phật.
Quán thấy pháp Phật thường như vậy
Tất cả chúng sinh đều lợi ích
Thường dùng sức từ bi thương sót
Cứu họ thoát khỏi khổ tam đồ.
“Quán thấy pháp Phật thường như vậy”. Quán sát thấy pháp của Phật luôn luôn là như thế. Tức là tùy duyên không đổi, không đổi mà tùy duyên.
“Tất cả chúng sinh đều lợi ích”. Mục đính Phật thuyết pháp, là lợi ích tất cả chúng sinh, cho nên chúng sinh đều đắc được thấm nhuần pháp vị, để lợi ích pháp thân huệ mạng.
“Thường dùng sức từ bi thương xót”. Phật dùng tâm đại từ bi thương xót tất cả chúng sinh, không quên tất cả sự đau khổ của chúng sinh, luôn luôn cứu họ ra khỏi biển khổ.
“Cứu họ thoát khỏi khổ tam đồ”. Dùng sức đại bi cứu họ ra khỏi khổ trong tam đồ (súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục). Tam đồ là nơi đáng sợ đáng hãi, chẳng an lạc, chẳng tự tại. Phật khiến cho họ đều lìa khổ được an lạc.
Tất cả chúng sinh đều khác biệt
Trong một sợi lông đều thị hiện
Thần thông biến hóa đầy thế gian
Sa Kiệt quán nơi Phật như vậy.
“Tất cả chúng sinh đều khác biệt”. Tất cả chúng sinh gồm có : thai, noãn, thấp, hóa bốn sự sinh. Nghiệp báo của họ đủ thứ sự khác biệt. Có nghiệp báo nhiều sự khổ, có nghiệp báo nhiều sự vui. Có nghiệp báo không khổ không vui. Những thứ nghiệp báo nầy làm sao có ? Tức là do khởi cảm, tạo nghiệp, thọ báo. Khởi cảm là gì ? Tức là thấy cảnh giới bèn sinh nghi hoặc, không phân biệt rõ ràng là thiện hay ác. Tạo nghiệp là gì ? Vì bị mê hoặc, sáu căn thấy sáu trần bèn khởi tâm tham muốn mà đi tạo nghiệp. Thọ báo là gì ? Vì có định luật nhân trước quả sau, trồng nhân gì thì gặt quả đó. Có công đức thiện thì có quả báo vui. Có hành vi ác thì có quả khổ, đó là đạo lý tự nhiên, tơ hào chẳng sai.
“Trong một sợi lông đều thị hiện”. Trong một sợi lông của Phật, đều hiện ra đủ thứ nghiệp báo của tất cả chúng sinh.
“Thần thông biến hóa đầy thế gian”. Vì Phật có thần thông, cho nên hiện ra được đủ thứ cảnh giới. Một hiện nhiều, nhiều hiện một, lớn dung nhỏ, nhỏ dung lớn, hổ tương vô ngại, quán nhiếp viên dung. Sự thần thông diệu dụng nầy biến hóa vô cùng, đầy khắp tất cả cõi nước trong ba ngàn đại thiên thế giới.
“Sa Kiệt quán nơi Phật như vậy”. Vị Sa Kiệt La Long Vương minh bạch được Phật có cảnh giới nầy, tam muội nầy.
Phật dùng thần thông không hạn lượng
Rộng nói danh hiệu đồng chúng sinh
Tùy sở thích khiến họ đều nghe
Vân Âm Tràng Vương ngộ môn nầy.
“Phật dùng thần thông vô hạn lượng”. Phật có sức thần thông không thể nghĩ bàn. Sức thần thông nầy chẳng có hạn lượng, có thể dời núi lấp biển, sáng tạo thế giới.
“Rộng nói danh hiệu đồng chúng sinh”. Danh hiệu của Phật nhiều vô cùng. Ít nhất là vạn danh hiệu, sau bớt còn một ngàn, lại bớt xuống còn một trăm, cuối cùng còn mười danh hiệu. Do đó, chư Phật đều có mười danh hiệu nầy, nhưng nếu nói tỉ mỉ, thì danh hiệu của chư Phật đồng với chúng sinh. Những danh hiệu nầy là khiến cho chúng sinh giác ngộ, khi họ nghe được danh hiệu Phật thì bèn phát tâm bồ đề, trồng xuống căn lành.
“Tùy sở thích khiến họ đều nghe”. Tùy thuận căn tính chúng sinh, nói pháp chúng sinh ưa muốn nghe. Khiến cho hết thảy tất cả chúng sinh, đều được cơ hội nghe Phật thuyết pháp.
“Vân Âm Tràng Vương ngộ môn nầy”. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Vân Âm Tràng Long Vương ngộ được.
Vô lượng vô biên các cõi nước
Phật khiến vào được một lỗ lông
Như Lai ngồi yên trong hội đó
Diễm Khẩu Long Vương thấy môn nầy.
“Vô lượng vô biên các cõi nước”. Chúng sinh trong cõi nước của chư Phật vô lượng vô biên, tư tuởng của chúng sinh, trong cõi nước của chư Phật cũng vô lượng vô biên, chúng sinh thành tựu cõi nước chư Phật cũng vô lượng vô biên.
“Phật khiến vào được một lỗ lông”. Phật khiến cho tất cả những chúng sinh nầy, đều vào được trong một lỗ lông. Vì thần thông nhiếp trì của Phật, làm cho trí huệ ngấm vào trong chúng sinh.
“Như Lai ngồi yên trong hội đó”. Phật dung nạp được vô lượng vô biên chúng sinh trong một lỗ lông, nhưng Phật vẫn an nhiên tự tại, ngồi trong cõi nước của chư Phật trong mười phương, không cần động đậy chỗ ngồi, mà đi đến được các cõi chư Phật trong mười phương để thuyết diệu pháp.
“Diễm Khẩu Long Vương thấy môn nầy”. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Diễm Khẩu Long Vương thấy được, hiểu được. Cảnh giới nầy không thể nghĩ bàn, chẳng phải phàm phu hiểu thấu được.
Tất cả chúng sinh tâm sân hận
Ngu si ràng buộc sâu như biển
Như Lai thương xót đều diệt trừ
Diễm Nhãn quán thấy rõ môn nầy.
“Tất cả chúng sinh tâm sân hận”. Tất cả chúng sinh trong thế giới, đều có tâm sân hận phẫn nộ. Tại sao ? Vì không thể nhẫn nại, không thể nhẫn nhục, cho nên thích nóng giận.
“Ngu si trói che sâu như biển”. Có tâm sân hận phẫn nộ đó là trói che. Trói buộc che đậy quang minh tự tánh. Tức cũng là tự mình dùng dây thừng trói buộc mình, chính mình làm cho mình không tự do, như tằm làm kén tự trói mình ở trong đó.
Chúng sinh dùng tham sân si ba độc, trói chặt thân thể của mình. Tại sao bị ba độc trói chặt ? Vì ngu si, cho nên bị ba độc trói buộc, sâu tợ như biển lớn, chẳng có cơ hội giải thoát.
“Như Lai thương xót đều diệt trừ” Phật dùng tâm từ bi thương xót, để cứu độ tất cả chúng sinh, làm cho tham sân si đều trừ sạch.
“Diễm Nhãn quán thấy rõ môn nầy”. Vị Diễm Nhãn Long Vương thấy được, hiểu được cảnh giới nầy.
Tất cả chúng sinh nhìn thấu suốt được tham sân si, buông xả được thì đắc được tự tại. Nếu không nhìn thấu suốt được tham sân si, không buông xả được thì chẳng được tự tại. Chúng ta tu đạo phải nhận thức rõ ràng, ba độc là đá buộc chân sự tu hành, có tư tưởng tam độc là quãng đường vực thẳm gập gềnh nguy hiểm; nếu không có tư tưởng ba độc thì là con đường lớn bằng thẳng. Con đường lớn gì ? Con đường trí huệ chánh giác.
Tất cả phước đức của chúng sinh
Ðều hiển hiện trong lỗ lông Phật
Hiện rồi đồng vào biển đại phước
Cao Vân Tràng Vương quán thấy được.
“Tất cả phước đức của chúng sinh” Tất cả chúng sinh vừa có phước vừa có tội. Phước là từ công đức thiện mà có. Tội là từ làm việc ác quấy mà ra. Nếu làm công đức lành, thì có phước báu, hoặc sinh về cõi trời, cõi người, cõi A tu la, đó là lữ khách trong ba đường lành. Nếu làm lỗi quấy thì có ác báo, hoặc đọa địa ngục, làm ngạ quỷ, làm súc sinh, đó là lữ khách trong ba đường ác. Song, luân hồi trong sáu nẻo chẳng phải là chủ nhân.
Phước là từ công đức lành tích tụ mà có. Ðức cũng từ công đức lành tích tụ mà có. Phật thì đầy đủ phước và huệ, cho nên xưng là Lưỡng Túc Tôn. Phước là do tu, huệ là do nghe. Phước huệ song tu thì công đức mới viên mãn. Nếu tu phước không tu huệ, hoặc tu huệ không tu phước, đó là tu pháp không cân bình, công đức đắc được cũng không quân bình. Chẳng phải phước nhiều thì huệ nhiều, đó vẫn không viên mãn.
Phước đức tu nhiều rồi thì có một sức mạnh. Tu được nhiều rồi thì sức lực càng lớn. Tu được ít thì sức lực nhỏ. Không tu thì chẳng có. Bất cứ là sức mạnh của phước, hoặc sức mạnh của đức, đều cần phải tu mới có được.
“Ðều hiển hiện trong lỗ lông Phật”. Ở trong một lỗ chân lông của Phật, tất cả phước đức của chúng sinh, trong tận cùng hư không khắp pháp giới, đều hoàn toàn hiển hiện ra.
“Hiện rồi đồng vào biển đại phước”. Ở trong lỗ lông của Phật, hiện ra mười phương pháp giới chúng sinh, khiến cho họ đều quy vào biển đại phước.
“Cao Vân Tràng Vương quán thấy được”. Cảnh giới môn giải thoát nầy vị Cao Vân Tràng Long Vương quán sát được, đắc được.
Lỗ lông thân Phật phát trí quang
Quang nầy nơi nơi diễn diệu âm
Chúng sinh nghe được trừ lo sợ
Ðức Xoa Ca ngộ được môn nầy.
“Lỗ lông thân Phật phát trí quang”. Trong lỗ chân lông của Phật đều phát ra trí huệ quang thanh tịnh.
“Quang này nơi nơi diễn diệu âm”. Ở trong trí huệ quang minh tạng của Phật chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sinh. Khắp mọi nơi đều bị trí quang của Phật chiếu, đều nghe được diệu pháp không thể nghĩ bàn.
“Chúng sinh nghe được trừ lo sợ”. Chúng sinh nghe được diệu âm diệu pháp nầy, thì mọi sự lo âu sợ sệt đều trừ sạch.
“Ðức Xoa Ca Ngộ được môn nầy”. Vị Ðức Xoa Ca Long Vương hiểu ngộ được đạo lý nầy, minh bạch được tam muội nầy.
Ba đời tất cả các Như Lai
Cõi nước trang nghiêm kiếp thứ tự
Như vậy đều hiện nơi thân Phật
Quảng Bộ thấy được thần thông nầy.
“Ba đời tất cả các Như Lai” Ðời quá khứ có vô lượng vô biên chư Phật, đời hiện tại cũng có vô lượng vô biên chư Phật, đời vị lai cũng có vô lượng vô biên chư Phật.
“Cõi nước trang nghiêm kiếp thứ tự”. Mỗi cõi nước của mỗi vị Phật, đều dùng các châu báu để trang nghiêm. Thế giới Ta Bà của chúng ta dùng : ngói, đá, đất, gỗ, để trang nghiêm. Phương đông thế giới Lưu Ly Quang dùng lưu ly để trang nghiêm. Tây phương thế giới Cực Lạc dùng bảy báu để trang nghiêm. Các đạo tràng đều dùng các thứ báu trang nghiêm. Mỗi vị Phật nào thành Phật, thì trên thế giới đó chánh pháp trụ thế, phải trải qua mấy đại kiếp, hoặc trải qua mấy tiểu kiếp, cái gì trước, cái gì sau, tát cả đều thứ tự tương tục, không rối loạn.
“Như vậy đều hiện nơi thân Phật”. Cảnh giới như vậy, chẳng hiện ở nơi khác, mà chỉ hiện ra ở trong lỗ chân lông của Phật.
“Quảng Bộ thấy được thần thông này”. Vị Quảng Bộ Long Vương, thấy được thần thông diệu dụng nầy của Phật, cảnh giới nầy không thể nghĩ bàn.
Tôi quán hạnh xưa kia của Phật
Cúng dường tất cả biển chư Phật
Nơi đó đều tăng tâm vui thích
Tốc Tật Long Vương vào môn nầy.
“Tôi quán hạnh xưa kia của Phật”. Vị Thanh Tịnh Sắc Tốc Tật Long Vương nói :”Tôi quán sát hạnh môn của Phật tu hành trong quá khứ, là cúng dường chư Phật, tăng thêm tâm vui thích”.
“Cúng dường tãt cả biển chư Phật”. Hạnh môn của Phật tu là : cúng dường chư Phật trong mười phương ba đời. Chư Phật nhiều như biển, cho nên gọi biển chư Phật.
“Nơi đó đều tăng tâm vui thích”. Phật xưa kia cúng dường chư Phật, thì ở trước mỗi vị Phật đều tăng thêm tâm vui mừng ưa thích.
“Tốc Tật Long Vương vào môn nầy”. Cảnh giới nầy vị Tốc Tật Long Vương chứng nhập minh bạch được.
Phật dùng phương tiện tùy loại âm
Vì họ nói pháp khiến vui mừng
Âm đó thanh nhã họ thích nghe
Phổ Hành nghe rồi tâm khai ngộ.
“Phật dùng phương tiện tùy loại âm”. Phật dùng pháp quyền xảo phương tiện để giáo hóa chúng sinh. Vì thật thí quyền, vì Bồ Tát mà nói pháp đại thừa, vì Thanh Văn Duyên Giác mà nói pháp tiểu thừa, do đó :
“Phật dùng một âm diễn nói pháp,
Chúng sinh theo loài đều hiểu được”.
Ðó là Phật từ bi nói pháp, dùng pháp môn phương tiện.
“Vì họ nói pháp khiến vui mừng”. Phật vì tất cả chúng sinh mà nói pháp, khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được pháp hỉ sung mãn, minh tâm kiến tánh.
“Âm đó thanh nhã họ thích nghe”. Ðừng nói nghe đến ngôn ngữ của Phật, dù nghe đến âm thanh của Phật cũng khai ngộ. Âm thanh của Phật không những trong trẻo mà còn vang xa, không những hay đẹp mà còn tao nhã, đều khiến cho người nghe sinh tâm vui thích.
“Phổ Hành nghe rồi tâm khai ngộ”. Vị Phổ Hành Ðại Âm Long Vương, nghe được diệu âm nầy trong tâm yên vui mà tỏ ngộ, vị nầy đắc được môn giải thoát nầy.
Chúng sinh bức bách trong các cõi
Nghiệp hoặc trôi nổi không ai cứu
Phật dùng đại bi khiến giải thoát
Vô Nhiệt Long Vương ngộ môn nầy.
“Chúng sinh bức bách trong các cõi”. Các cõi tức là : cõi dục giới, cõi sắc giới, cõi vô sắc giới. Tất cả chúng sinh do duyên giả hòa hợp mà sinh, đều luân hồi trong tam giới, phiêu bạc lưu lãng chẳng khi nào dừng, cho nên bị các cõi bức bách.
“Nghiệp hoặc trôi nổi không người cứu”. Chúng sinh thọ biển nghiệp, phiêu bạc trôi nổi ở trong tam giới, do đó : “ra bụng ngựa, vào thai lừa”. Tại sao ? Vì khởi cảm, tạo nghiệp, thọ báu. Ðó là định luật nhân quả tuần hoàn không thay đổi.
Khởi hoặc : Vì có ba thứ hoặc, mà đi tạo nghiệp :
1. Kiến tư hoặc : Kiến hoặc là những kiến giải không chánh đáng, do đó “Thấy cảnh sinh ra tham ái”, người tham tiền tài thì thích tiền tài, tham sắc đẹp thì thích sắc đẹp, tham danh lợi thì thích danh lợi. Tư hoặc là những tâm tư phiền não, do đó “mê lý thì sinh phân biệt”, đối với lý không minh bạch, sinh ra tâm phân biệt.
2. Trần sa hoặc : Không rõ sự lý, không biết trái phải tức là mê hoặc. Thứ mê hoặc nầy nhiều như vi trần hà sa, cho nên gọi là trần sa hoặc.
3. Vô minh hoặc : Vì vô minh mới có mê hoặc, thứ mê hoặc nầy chướng ngại đạo lý chân thật, vô minh hoặc là hoặc căn bản.
Tạo nghiệp : Vì không minh bạch đạo lý, cho nên đi sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu. Như vậy đã phạm giới sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượi rồi, thì đã tạo ba nghiệp thân, khẩu, ý, cũng tạo nghiệp mười điều ác.
Thọ báo : Tạo nghiệp sát sinh thì phải chịu quả báo sát sinh, tạo nghiệp trộm cắp thì phải chịu quả báu trộm cắp, tạo nghiệp tà dâm, nói dối, uống rượu thì phải chịu quả báu tà dâm, nói dối, uống rượu. Tóm lại, tạo nghiệp gì thì phải chịu quả báu đó, tơ hào không sai được.
Sự tạo nghiệp của mỗi người, trong một đời rất phức tạp nhiều như biển, cho nên bị sóng gió nghiệp, thổi đi thổi lại ở trong biển nghiệp, trôi bên đông dạt bên tây, khi thì làm ngạ quỷ, khi thì làm súc sinh, khi thì đọa địa ngục, chuyển đi chuyển lại ở trong tam đồ, lúc nầy chẳng có ai cứu ra khỏi biển nghiệp, cũng chẳng ai cứu vớt ra khỏi tam giới.
“Phật dùng đại bi khiến giải thoát”. Chỉ có thuyền đại bi trí huệ của Phật, mới cứu vớt được chúng sinh ra khỏi biển nghiệp, khiến cho chúng sinh đắc được giải thoát.
“Vô Nhiệt Long Vương ngộ môn nầy”. Vị Vô Nhiệt Não Long Vương, ngộ hiểu minh bạch được cảnh giới nầy.
Lại nữa, Tì Sa Môn Dạ Xoa Vương được môn giải thoát, dùng vô biên phương tiện cứu hộ chúng sinh ác.
Vị Tì Sa Môn Dạ Xoa Vương (Dạ Xoa dịch là khinh tiệp, hành động rất mau chóng, tính tình rất bạo ác). Vị nầy đắc được cảnh giới : quán sát tất cả căn tánh của chúng sinh, mà dùng đủ thứ phương tiện pháp môn để cứu hộ. Nếu có chúng sinh ác, thì khiến cho họ cải ác hướng thiện, sửa lỗi sám hối. Âm thanh thuyết pháp của vị nầy, rất vi diệu khiến cho người nghe, đắc được tự tại, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Dạ Xoa có ba thứ : Thiên hành, không hành và địa hành. Dạ Xoa và La Sát là quỷ dữ, quỷ La Sát nữ rất đẹp. Người nam mà định lực không đủ thì sẽ bị hại, làm thức ăn cho bọn chúng. Nay kể một câu chuyện để mượn làm gương.
Tại đông nam Ấn Ðộ có hòn đảo gọi là nước Sư Tử tức là Tích Lan, toàn quốc đều tin theo Phật giáo tiểu thừa. Xưa kia người ta thường gọi là Ðộ Quốc, có năm người đi buôn, tìm châu báu ở trong biển, thuyền bị hắc phong (gió đen) thổi đến nước quỷ La Sát. Nữ Vương của nước nầy, thấy một người buôn trong năm người nầy tên là Sư Tử, bèn muốn kết hôn với y, nhưng người buôn nầy có huệ căn, không bị nữ sắc mê hoặc, dưới sự an bài của Bồ Tát, mới trốn về bổn quốc (Nam Ấn Ðộ). Còn bốn người buôn kia đều kết hôn với nữ La Sát, vì tham sắc đẹp mà quên mất quê hương xứ sở, sau đó đều bị nữ La Sát ăn thịt.
Người buôn tên Sư Tử sau khi về nước, vị nữ La Sát nầy cũng đến. Y thị nói với quốc vương rằng người buôn tên Sư Tử bỏ y, xin quốc vương khiến cho người buôn tên Sư Tử trở lại sống với y thị. Vị quốc vương nầy cũng là đồ háo sắc, thấy La Sát nữ đẹp bèn động lòng dâm dục, do đó quyết định kết hôn với y thị. Người buôn tên Sư Tử khuyên can quốc vương rằng : “Người nữ nầy là quỷ, dung mạo đẹp mà tâm địa ác độc, chuyên ăn thịt người, đừng nên gần gũi y thị”! Nhưng quốc vương vì sắc đệp mê hoặc, không nghe lời khuyên can, bèn cử hành hôn lễ, tối đêm đó bị La Sát nữ ăn thịt.
Ngày thứ hai, quan đại thần biết quốc vương bị quỷ ăn thịt, bèn tôn người buôn tên Sư Tử lên làm vua, đem binh lính tiêu diệt nước quỷ La Sát, đổi tên là Sư Tử Quốc tức là Tích Lan ngày nay, ra lệnh cho toàn quốc đều tín ngưỡng Phật giáo, lấy Phật giáo làm quốc giáo tức là Phật giáo nam truyền, đó là câu chuyện cảnh tỉnh người tham sắc đẹp, đừng vì sắc đẹp mà mất mạng.
Tự Tại Âm Dạ Xoa Vương, đắc được phương tiện cứu hộ quán sát khắp tất cả chúng sinh.
Vị Tự Tại Dạ Xoa Vương có âm thanh thuyết pháp, khiến cho chúng sinh đắc được giải thoát, và còn quán sát được căn tánh của tất cả chúng sinh. Căn tánh gì thì dùng pháp môn phương tiện đó để cứu hộ, khiến cho họ đắc được an lạc, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Nghiêm Trì Khí Trượng Dạ Xoa Vương, được môn giải thoát, thường làm lợi ích cho tất cả chúng sinh gầy ác.
Vị Nghiêm Trì khí Trượng Dạ Xoa Vương thường dùng vàng bạc hoặc vật chất, để cứu giúp những chúng sinh nghèo khổ, đó gọi là tài thí. Và còn dùng trí huệ và tri thức để bố thí cho chúng sinh, đó gọi là pháp thí. Và còn dùng sức lực hoặc tài năng, để tiêu trừ tất cả khốn khổ hoạn nạn của chúng sinh, đó gọi là vô úy thí. Vị nầy luôn luôn có ba thứ tâm bố thí nầy.
Vị Dạ Xoa Vương nầy cứu hộ những chúng sinh gầy ác. Gầy tức là gầy ốm. Những chúng sinh nầy vừa nghèo vừa ốm yếu, lại tạo nghiệp ác, cần người để giúp đỡ, cho nên vị nầy luôn luôn giúp đỡ những chúng sinh nầy, khiến cho họ cải ác hướng thiện, bỏ mê về giác. Ðó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Ðại Trí Huệ Dạ Xoa Vương, được môn giải thoát, ca ngợi tán thán biển công đức của tất cả các bậc Thánh.
Vị Ðại Trí Huệ Dạ Xoa Vương nầy có đại trí huệ, quản lý quỷ Dạ Xoa không giữ quy cụ. Những quỷ Dạ Xoa nầy, vì có chút thần thông nên luôn luôn làm những việc không hợp pháp, không nói dối thì cũng lường gạt người.
Vị Dạ Xoa Vương nầy thường hằng thuận chúng sinh, vì chúng sinh thuyết pháp, khiến cho họ đắc được an lạc, khiến cho họ khen ngợi tán thán biển công đức của tất cả Chư Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh văn, tất cả những người tu hành, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Diệm Nhãn Chúa Dạ Xoa Vương, được môn giải thoát, đại bi trí quán sát khắp tất cả chúng sinh.
Vị Diệm Nhãn Chúa Dạ Xoa quán sát khắp tất cả tâm chúng sinh, tất cả thân chúng sinh và tất cả tính của chúng sinh. Vì vị nầy dùng đại bi trí để quán sát, cho nên đắc được môn giải thoát nầy.
Kim Cang Nhãn Dạ Xoa Vương, được môn giải thoát, đủ thứ phương tiện lợi ích an lạc tất cả chúng sinh.
Vị Kim Cang Nhãn Dạ Xoa Vương nầy, mắt luôn luôn phóng ra quang minh kim cang, chiếu khắp tất cả chúng sinh, và còn dùng đủ thứ phương tiện pháp môn để lợi ích chúng sinh, để an lạc chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được lợi ích Phật pháp. Ðó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Dũng Kiện Tí Dạ Xoa Vương, được môn giải thoát, vào khắp tất cả nghĩa của các pháp.
Vị Dũng Kiện Tí Dạ Xoa Vương nầy, thân thể khỏe mạnh và dũng mãnh. Vị nầy minh bạch được nghĩa lý của các pháp và thâm nhập Kinh tạng, đắc được trí huệ như biển, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Dũng Ðịch Ðại Quân Dạ Xoa Vương, được môn giải thoát, giữ gìn bảo hộ tất cả chúng sinh, khiến cho họ đi trên con đường chân chánh.
Vị Dũng Ðịch Ðại Quân Dạ Xoa Vương, rất dũng cảm vô cùng, một mình mà địch vạn quân. Cho nên vị nầy bảo vệ tất cả chúng sinh an toàn. Và còn khiến cho chúng sinh, có tư tưởng tà tri tà kiến, đều theo con đường chân chánh, suy nghĩ diệu pháp, luôn luôn đi trên con đường chân chánh, không lạc vào bàng môn tả đạo, để học những tà pháp hoang đường, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Phú Tài Dạ Xoa Vương, được môn giải thoát, tăng trưởng tụ tập phước đức của tất cả chúng sinh, khiến cho họ luôn luôn thọ khoái lạc.
Vị Phú Tài Dạ Xoa Vương nầy có tài sản rất phong phú. Tuy nhiên tài sản rất nhiều nhưng không keo kiệt, thường bố thí cứu giúp những chúng sinh, nghèo cùng khốn khổ không nơi nương tựa, không giống như một số người bỏn xẻn, không chịu cứu giúp, chẳng có tâm thương người. Phải biết tiền tài là vật ngoài thân, sinh ra không mang đến, chết đi cũng không mang theo được. Do đó :”Làm việc thiện là điều sung sướng nhất”. Bạn muốn làm một công trình từ thiện có ích cho xã hội, thì sự sung sướng trong tâm của bạn không cách chỉ nói ra được. Ðừng ngại hãy thử xem, giúp người là gốc sung sướng khoái lạc.
Vị Dạ Xoa Vương nầy, khiến cho chúng sinh đều đắc được sự tu tập phước đức, đều đắc được vô biên khoái lạc. Vị nầy chứng được môn giải thoát nầy.
Bây giờ kể một câu chuyện về một phú ông tiếc tài sản mà không tiếc phước. Khi Ðức Phật còn tại thế, tại thành Xá Vệ, có người giữ tiền tài tên là Lô Chí. Y không những keo kiệt với người ngoài, mà cũng keo kiệt với vợ con của mình. Một ngày nọ, y muốn chính mình hưởng thụ một phen, bèn đi mua hai cái bánh. Trong tâm nghĩ, không thể đem về nhà ăn, vì vợ con thấy được thì phải chia ăn. Do đó, bèn đi vào trong rừng ăn hết một mình. Chim trong rừng thấy người đến bèn bay đi, y cho rằng chim đến để chia bánh ăn, do đó đi đến bờ sông để ăn hết một mình. Thình lình chuộc bên bờ sông hoảng sợ bèn chạy tán loạn. Y lại cho rằng chuộc muốn đến chia ăn. Vì quá sợ người khác đến chia ăn, cho nên lập tức bỏ vào miệng nuốt. Ðó là biểu hiện của sự keo kiệt bỏn xẻn.
Lúc đó, Trời Ðế Thích thấy người nầy rất ngu si, sinh ra tâm thương xót tìm cách làm thay đổi tư tưởng của y, bèn hóa ra hình dạng giống như Lô Chí, bèn đến nhà Lô Chí, nói với vợ của Lô Chí :”Tôi trước kia rất keo kiệt với bà và các con, bây giờ tôi đã thức tỉnh. Người giàu có thì phải làm việc có ý nghĩa, nếu không tức là khinh khi tiền bạc. Chúng ta hôm nay phải ăn uống no say”. Ông Lô Chí thật sau khi nuốt hai cái bánh ở bờ sông rồi, rất đắc ý trở về nhà. Vào trong nhà thì thấy tình hình như vậy ! Hai ông Lô Chí thật và giả gây lộn, ai cũng nói mình đúng, không cách chi giải quyết được, mọi người cũng đều bó tay, không biết ai thật ai giả. Do đó, cùng nhau đi đến chốn Phật. Phật nói với Trời Ðế Thích :”Người nầy bỏn xẻn quá độ, không chịu làm việc công đức, không lâu sẽ đọa địa ngục, dù có khuyên can y như thế nào, y cũng không nghe sự giáo hóa, ngươi hà tất hao phí tâm cơ, y là người thành tính bỏn xẻn”. Phàm là thương tiết gia tài như mạng sống, một sợi lông cũng không giúp người, đều phải phản tỉnh, làm nhiều chút việc có ích cho xã hội, làm nhà đại từ thiện.
Lực Hoại Cao Sơn Dạ Xoa Vương, được môn giải thoát, tùy thuận nghĩ nhớ, mà sinh ra sức trí huệ quang minh của Phật.
Vị Lực Hoại Cao Sơn Dạ Xoa Vương, sức lực rất lớn có thể xô ngã núi, cũng nhờ sức gia bị của Phật. Vị nầy thường tùy thuận chúng sinh, nghĩ nhớ việc quá khứ, mà sinh ra sức trí huệ quang minh của Phật, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Bấy giờ, Ða Văn Ðại Dạ Xoa Vương, nương oai lực của Ðức Phật, quán sát khắp tất cả chúng hội Dạ Xoa, mà nói ra bài kệ.
Lúc đó, vị Ða Văn Ðại Dạ Xoa Vương (Dạ Xoa dưới sự cai quản của Ða Văn Thiên Vương ở hướng bắc), nương sức đại oai đức của chư Phật gia bị, quán sát khắp tất cả chúng Dạ Xoa mà nói kệ để tán thán công đức của Phật.
Tội ác chúng sinh sâu đáng sợ
Trong trăm ngàn kiếp không thấy Phật
Trôi nổi sinh tử thọ khổ nhiều
Vì cứu chúng sinh Phật xuất thế.
“Tội ác chúng sinh sâu đáng sợ”. Chúng sinh vì tạo nghiệp quá nhiều, cho nên chẳng thấy Phật, chẳng nghe Pháp, chẳng thấy Tăng. Bị trôi nổi trong biển sinh tử, thọ đủ thứ quả báo. Phật muốn cứu chúng sinh ra khỏi biển khổ mới xuất hiện ra đời. Vì chúng sinh có vô minh nên khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo. Tội nghiệp của chúng sinh vừa nhiều vừa sâu rất đáng kinh, đáng sợ.
“Trong trăm ngàn kiếp chẳng thấy Phật”. Vì sự quan hệ tội nghiệp của chúng sinh, quá nặng quá sâu cho nên không thấy được Phật, do đó :
“Thân người khó được,
Phật pháp khó nghe,
Thiện tri thức khó gặp”.
Bây giờ chúng ta rất may mắn, đều gặp được những việc mà trên thế gian khó gặp, cũng thấy Phật, cũng nghe Pháp, cũng thấy Tăng. Ðó là nhân lành sở cảm đã trồng trong quá khứ.
“Trôi nổi sinh tử thọ khổ nhiều”. Chẳng thấy được Phật, chẳng nghe được pháp, chẳng gặp được Tăng, những chúng sinh nầy, đều trôi nổi trong biển sinh tử, lưu chuyển trong sáu nẻo luân hồi. Có lúc làm người trời, làm A tu la, làm người, cho đến đọa địa ngục, phải chịu đủ thứ khổ.
“Vì cứu chúng sinh Phật xuất thế”. Vì cứu chúng sinh lìa khổ được vui, Phật mới xuất hiện ra đời.
Như Lai cứu hộ các thế gian
Ðều hiện trước tất cả chúng sinh
Dứt trừ lo sợ khổ luân hồi
Môn giải thoát nầy Âm Vương ngộ.
“Như Lai cứu hộ các thế gian”. Phật xuất hiện ra đời là vì cứu hộ tất cả chúng sinh thế gian. Trong kinh Pháp Hoa có nói “Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất nhiện ra đời” đại sự nhân duyên gì ? Ðó là việc sinh tử.
“Ðều hiện trước tất cả chúng sinh”. Phật như mặt trăng trong hư không. Bạn nhìn thấy mặt trăng ở trên đầu của bạn, tôi cũng nhìn thấy mặt trăng ở trên đầu của tôi. Bất cứ đi ngàn dặm, mặt trăng đều ở trên đầu của mình. Phật cũng như thế, cho nên nói Phật đều ở trước mặt tất cả chúng sinh.
“Dứt trừ lo sợ khổ luân hồi”. Tại sao Phật phải hiện ra trước chúng sinh ? Vì muốn dứt trừ khổ trong sáu nẻo luân hồi. Tin Phật pháp, hiểu Phật pháp, hành Phật pháp, chứng Phật pháp; nếu thực hành được như thế thí chắc chắn sẽ ra khỏi tam giới, chứng được quả vị Niết Bàn.
“Môn giải thoát nầy Âm Vương ngộ”. Môn giải thoát nầy vị Tự Tại Âm Dạ Xoa Vương minh bạch, hiểu ngộ được.
Ác nghiệp chúng sinh là chướng nặng
Phật bày diệu lý khiến khai ngộ
Như dùng đèn sáng chiếu thế gian
Nghiêm Trượng quán thấy pháp môn nầy.
“Ác nghiệp chúng sinh là chướng nặng”. Tại sao chúng sinh không khai ngộ ? Tại sao không thành Phật ? Vì nghiệp chướng quá nặng quá sâu. Nghiệp chướng từ đâu đến ? Từ thân khẩu ý ba nghiệp. Thân có ba nghiệp ác, tức là : sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Miệng có bốn ác là : nói dối, thêu dệt, chưởi mắng, hai lưỡi. Ý có ba nghiệp ác là : tham sân si.
1. Sát sinh : Tức là giết hại sinh mạng chúng sinh, tạo tội trong ba đường ác. Nếu được sinh làm người thì mạng sống rất ngắn bị chết yểu.
2. Trộm cắp : Không được sự đồng ý của người mà đi lấy vật của họ, tạo tội ba đường ác. Nếu được sinh làm người thì luôn luôn bần cùng khốn khổ.
3. Tà dâm : Tức là hành vi không chánh đáng ngoài vợ chồng, tạo tội ba đường ác. Nếu được làm người thì con gái không trinh lương, vợ không có tiết hạnh.
4. Nói dối : Tức là nói không thật, chuyện không nói có, chuyện có nói không, tạo tội ba đường ác. Nếu được sinh làm người thì gặp người phỉ báng hoặc bị người lừa dối.
5. Thêu dệt : Tức là lời dơ bẩn, nói về việc nam nữ không chánh đáng, khiến cho người khởi tưởng đâu đâu, tạo tội ba đường ác. Nếu được sinh làm người thì lời nói không rõ hoặc bị câm.
6. Chưởi mắng : Tức là chưởi mắng người, hoặc là dùng phương tiện khéo léo để chưởi người; khiến cho người không thể chưởi lại, tạo tội ba đường ác. Nếu được sinh làm người thì suốt đời gặp nhiều việc tranh tụng.
7. Hai lưỡi : Tức là gặp người nầy nói xấu người kia, gặp người kia nói xấu người nọ, làm cho hai bên chia rẽ. Tạo nhân ba đường ác. Nếu được làm người thì quyến thuộc chống đối nhau.
8. Tham : Tức là xan tham, tham không biết chán, càng tham càng tốt, tuyệt đối không bố thí, tuyệt đối không làm việc lợi ích cho người. Tạo tội ba đường ác. Nếu được làm người thì tâm thường không biết đủ, được một tất muốn một thước.
9. Sân : Tức là sân hận, phát nóng giận, xem tất cả mọi người đều chẳng đúng. Tạo tội ba đường ác. Nếu được làm người thì thường bị người não hại.
10. Si : Tức là ngu si, không rõ trái phải, lấy giả làm thật, thường làm những việc hồ đồ điên đảo, tạo tội ba đường ác. Nếu được làm người thì tâm siểm khúc không ngay thẳng.
“Phật bày diệu lý khiến khai ngộ”. Vì chúng sinh có mười nghiệp ác, mà trôi nổi ở trong biển sinh tử, không đến được bờ bên kia. Phật lấy từ bi làm bổn hoài, phương tiện làm gốc, mà mở bày đạo lý diệu không thể tả. Diệu lý nầy là phương pháp đối trị tất cả nghiệp ác, khiến cho tất cả chúng sinh đều khai ngộ hiểu rõ.
“Như dùng đèn sáng chiếu thế gian”. Phương pháp diệu lý nầy giống như đèn sáng, chiếu sáng những nơi tối tăm thành sáng sủa. Phật xuất hiện ra đời giống như mặt trời, chiếu sáng thế gian tối tăm.
“Nghiêm Trượng Quán Thấy Pháp Môn Này”. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Nghiêm Trì Khí Trượng Dạ Xoa Vương quán sát và minh bạch được.
Phật xưa biển kiếp tu các hạnh
Tán thán tất cả Phật mười phương
Cho nên danh vang dội cao xa
Trí Huệ Vương thấu rõ môn nầy.
“Phật xưa biển kiếp tu các hạnh”. Ðức Phật trong vô lượng kiếp quá khứ, tu lục độ vạn hạnh. Trong lục độ, dùng bố thí độ tham lam, trì giới độ phạm giới, nhẫn nhục sân hận, tinh tấn độ giải đãi, thiền định độ tán loạn, Bát nhã độ ngu si. Vạn hạnh tức là tất cả hạnh lợi ích chúng sinh.
“Tán thán tất cả Phật mười phương”. Trong quá khứ Phật tu các hạnh thì tán thán ca ngợi tất cả chư Phật trong mười phương ba đời, dùng đủ thứ kệ để tán thán chư Phật, dùng đủ thứ bài ca để ca ngợi chư Phật.
“Cho nên danh vang dội cao xa”. Vì Phật tán thán ca ngợi tất cả chư Phật mười phương, ca ngợi danh hiệu tất cả chư Phật trong mười phương, cho nên bổn danh Phật cũng vang danh cao Xa. Cao đến chư thiên đều nghe danh hiệu của Phật, xa đến tận hư không khắp pháp giới, đều nghe thấy danh hiệu của Phật.
“Trí Huệ Vương thấu rõ môn này”. Cảnh giới nầy vị Ðại Trí Huệ Dạ Xoa Vương thấu rõ được.
Trí huệ như không chẳng bờ mé
Pháp thân rộng lớn không nghĩ bàn
Cho nên xuất hiện khắp mười phương
Diễm Mục quán sát được môn nầy.
“Trí huệ như không chẳng bờ mé”. Trí huệ có hình tướng gì ? Trí huệ chẳng có hình tướng, như hư không. Hư không chẳng có bờ mé, cho nên trí huệ cũng chẳng có bờ mé.
“Pháp thân rộng lớn không nghĩ bàn”. Pháp thân của Phật rộng lớn vô biên, không thể nghĩ bàn, như hư không, không cách chi đo lường được hư không lớn cỡ nào.
“Cho nên xuất hiện khắp mười phương”. Vì thân của Phật rộng lớn vô biên, cho nên trong mười phương thế giới đều có pháp thân của Phật xuất hiện. Pháp thân của Phật là vô tại vô bất tại.
“Diễm Mục quán sát được môn này”. Vị Diễm Nhãn Dạ Xoa Vương quán sát thâm sâu được đạo lý nầy.
Trong tất cả loài diễn diệu âm
Thuyết pháp lợi ích các quần sinh
Nơi nào nghe được diệt các khổ
Kim Cang Nhãn vào phương tiện nầy.
“Trong tất cả cõi diễn diệu âm”. Phật diễn nói pháp âm vi diệu trong sáu nẻo luân hồi. Tất cả chúng sinh nghe được diệu âm nầy thì đắc được lợi ích.
“Thuyết pháp lợi ích các quần sinh”. Phật thì theo căn cơ mà thuyết pháp, khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được lợi ích. Lợi ích gì ? Thoát khỏi khổ trong tam giới lục đạo, đắc được thường lạc ngã tịnh.
“Nơi nào nghe được diệt các khổ”. Diệu âm thuyết pháp của Phật đến nơi nào, thì khổ của chúng sinh nơi đó đều tiêu diệt, tóm lại, nghe được âm thanh của Phật thì được độ.
“Kim Cang Nhãn vào phương tiện này”. Vị Kim Cang Nhãn Dạ Xoa Vương, vào được phương tiện môn giải thoát nầy.
Tất cả nghĩa thâm sâu rộng lớn
Phật dùng một câu nói hết được
Giáo lý như vậy đồng thế gian
Dũng Kiện Huệ Vương ngộ môn nầy.
“Tất cả nghĩa thâm sâu rộng lớn”. Pháp có nghĩa lý vô lượng vô biên, do đó “pháp vi diệu thâm sâu vô thượng”, pháp nầy chí cao vô thượng, càng không so sánh thì càng sâu, càng không so sánh thì càng vi diệu. “Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được”, pháp nầy trải qua thời gian lâu dài mới gặp được, chớ không dễ gì gặp được. Giống như các nước tây phương, đã bao nhiêu năm mà chẳng có ai chân chánh nghe được Phật pháp, thấy được Phật, thấy được Tăng, bây giờ mới bắt đầu. Cho nên nói thời gian lâu dài không dễ gì gặp được. “Con nay thấy nghe được thọ trì”. Bây giờ con đã thấy được Phật pháp, nghe được Phật pháp, được thọ trì, thật là người may mắn ! Kiếp trước đã gieo trồng căn lành, đời nầy mới được thọ trì, chẳng phải là việc dễ dàng. Cho nên phải lễ kính Tam Bảo, phải cúng dường Tam Bảo. Thân người khó được nay đã được, Phật pháp khó nghe nay đã nghe. “Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai”. Phật nói Tam Tạng (kinh, luật, luận), mười hai bộ (trường hàng, trùng tụng, cô khởi, ví dụ, nhân duyên, tự thuyết, bổn sự, bổn sinh, vị tăng hữu, phương quảng, luận nghị, thọ ký.) Nghĩa lý nầy thật rộng lớn, vi diệu không thể tả. Chúng ta phải hiểu rõ đạo lý chân chánh thật tại của Như Lai.
“Như Lai một câu nói hết được”. Trong một câu pháp, Phật nói hết được tất cả các pháp, và trong một câu pháp nói ra tất cả nghĩa thâm sâu rộng lớn. Ý nghĩa nầy là một làm vô lượng, vô lượng làm một, tức cũng là đạo lý một gốc tán làm vạn thù, vạn thù quy về một gốc.
“Giáo lý như vậy đồng thế gian”. Ở trên đã nói về nghĩa thâm sâu rộng lớn, Phật một câu thì nói hết được. Giáo nghĩa nầy đầy khắp thế gian, cho nên giáo nghĩa Phật giáo là viên dung vô ngại. Không phân biệt chủng tộc, quốc tịch, tất cả mọi người đều là Phật giáo đồ. Bạn tin Phật cũng là Phật giáo đồ, bạn không tin Phật cũng là Phật giáo đồ. Tại sao ? Vì Phật giáo là tận hư không khắp pháp giới, mà tất cả chúng sinh đều đầy đủ Phật tánh, đều có thể thành Phật. Bây giờ bạn không tin Phật, thì tương lai sẽ tin Phật. Tương lai không tin Phật, thì đời sau nữa sẽ tin Phật. Không những chắc chắn tin Phật, mà còn có thể thành Phật. Pháp môn của Phật giáo là bao la vạn tượng, chẳng có một chúng sinh nào ở ngoài Phật giáo, cho nên nói giáo lý đồng thế gian.
“Dũng Kiện Thệ Vương ngộ môn này”. Vị Dũng Kiện Huệ Dạ Xoa Vương, hiểu ngộ và minh bạch được đạo lý môn giải thoát nầy.
Tất cả chúng sinh theo tà đạo
Phật bày chánh đạo không nghĩ bàn
Khiến khắp thế gian thành pháp khí
Dũng Ðịch Quân Vương chứng môn nầy.
“Tất cả chúng sinh theo tà đạo”. Tất cả chúng sinh tức là : Thai, noãn, thấp, hóa mười hai loài. Tính tình chúng sinh rất kỳ quái. Nói pháp chánh đạo với họ, thì họ hoài nghi chẳng tin, nếu nói pháp tà đạo với họ, thì họ tin không hoài nghi. Vì pháp chánh đạo phải giữ giới luật, không thể sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, còn pháp tà đạo thì không giữ giới luật, có thể sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu. Cho nên chúng sinh đối với chánh đạo chẳng biết thật hoặc là giả mà khởi nghi hoặc, còn đối với tà đạo thì cho là thật, không nghi hoặc, cho nên đi theo tà đạo.
“Phật bày chánh đạo không nghĩ bàn”. Phật muốn cứu chúng sinh không giữ quy cụ, tức là chỉ bày cảnh giới chánh đạo, khiến cho chúng sinh tu học. Cảnh giới chánh đạo là gì ? Tức là quy y Tam Bảo, Phát tâm bồ đề (trên cầu Phật đạo, dưới độ muôn loài), cảnh giới nầy không thể nghĩ bàn, khiến cho tội diệt phước sinh, nghiệp tịnh tình không, có diệu dụng như vậy.
“Khiến khắp thế gian thành pháp khí”. Pháp khí tức là tài năng. Ngài Lục Tổ là thành tựu pháp khí. Hám Sơn Ðại Sư cũng là thành tựu pháp khí. Các ngài tu đắc được thân kim cang bất hoại, nhập diệt rồi mà nhục thể không rữa không thối, trở thành nhục thân Bồ Tát đó là pháp khí.
Ðức Phật khiến cho chúng sinh thế gian đều thành pháp khí, do đó “mượn cái giả tu cái thật”, túi da hôi thối nầy là căn phòng tạm thời, chúng ta ở trong căn phòng tu đạo. Ðó là mượn thân giả (sắc thân) tu chân thân (pháp thân). Ðừng xem căn phòng quá quan trọng, nhưng cũng đừng cố ý làm tổn hoại nó. Nếu có chút hư hỏng gì cũng phải sửa lại, nếu không thì chẳng có phòng để ở, không nơi để tu. Bây giờ người ở trong phòng đều có bệnh. Có bệnh gì ? Có bệnh tham, bệnh sân, bệnh si, bệnh đố kị, bệnh ích kỷ. Chúng ta phải mời bác sĩ đến chữa trị. Vì bác sĩ có thuốc hay, thuốc đến thì lành bệnh. Thuốc hay nầy tức là siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si. Cho nên Phật pháp là “vạn linh đan”.
“Dũng Ðịch Quân Vương chứng môn nầy”. Vị Dũng Ðịch Ðại Quân Dạ Xoa Vương chứng đắc được, hiểu được pháp môn nầy.
Tất cả các phước nghiệp thế gian
Hết thảy đều do Phật quang chiếu
Biển trí của Phật khó dò được
Phước Tài đắc được giải thoát nầy.
“Tất cả các phước nghiệp thế gian”. Phật là do làm các việc thiện mà thành tựu, do đó : “tích tụ các điều lành thì gặt hái quả báu tốt đẹp, tích tụ các điều ác thì gặt hái quả báu tai ương”. Ðó là đạo lý thiên kinh địa nghĩa, định luật vạn cổ không thay đổi. Chúng ta là người tu đạo, phải lấy “thọ khổ thì hết khổ, hưởng phước thì hết phước”, khắc vào tâm khảm..
“Hết thảy đều do Phật quang chiếu”. Phật quang phổ chiếu tức là ban phước. Phước từ đâu đến ? Là do Phật gia bị mới có phước nghiệp như thế, cho nên nói hết thảy đều do Phật quang chiếu.
“Biển trí của Phật khó dò được”. Trí huệ của Phật như biển cả. Biển thì rộng lớn vô biên, khó dò khó lường, không cách chi biết được nó lớn cỡ nào.
“Phước Tài đắc được giải thoát này”. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Phước Tài Dạ Xoa Vương đắc được.
Nghĩ nhớ quá khứ vô biên kiếp
Phật thảy đều tu mười trí lực
Khiến các trí lực đều viên mãn
Cao Tràng Vương biết rõ môn nầy.
“Nghĩ nhớ quá khứ vô số kiếp”. Hồi tưởng nhớ lại chư Phật tu hành trong quá khứ, đều trải qua vô số kiếp. Tuy trải qua thời gian lâu dài như thế, nhưng Phật rất dũng mãnh tinh tấn, chẳng có tơ hào giải đãi phóng dật, cho nên mới thành tựu ngày hôm nay.
“Phật thảy đều tu mười trí lực”. Phật trong vô số kiếp đều tinh tấn tu mười thứ trí lực :
1. Tri xứ phi xứ trí lực (trí lực biết xứ phi xứ).
2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực (trí lực biết nghiệp báo ba đời).
3. Tri chư thiền giải thoát tam muội trí lực (trí lực biết thiền giải thoát tam muội).
4. Tri chư căn thắng liệt trí lực (trí lực biết cá căn thắng liệt).
5. Tri chủng chủng giải trí lực.
6. Tri chủng chủng giới trí lực.
7. Tri nhất thiết chí sở đạo trí lực.
8. Tri thiên nhãn vô ngại trí lực.
9. Tri túc mạng vô lậu trí lực.
10. Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực.
“Khiến các trí lực đều viên mãn”. Mười trí lực nầy viên mãn thành tựu tất cả sức lực.
“Cao Tràng Vương biết rõ môn nầy”. Cảnh giới nầy vị Cao Tràng Dạ Xoa Vương hiểu biết rõ được.
Lại nữa, Thiện Huệ Ma Hầu La Già Vương, được môn giải thoát, dùng tất cả thần thông phương tiện, khiến cho chúng sinh tích tập công đức.
Vị Thiện Huệ Ma Hầu La Già Vương (Ma Hầu La Già dịch là “đại phục hành”, tức là thần mãn xà, còn gọi là địa long, nhưng rồng chẳng có thần thông). Vị nầy đắc được cảnh giới : biết được Phật dùng thần thông phương tiện pháp môn, khiến cho chúng sinh tích tập công đức, từ ít thành nhiều, từ nhỏ thành lớn. Công đức tích tụ nhiều rồi, thì đắc được giải thoát. Ðó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Thần thông có sáu thứ :
1. Thiên nhãn thông.
2. Thiên nhĩ thông.
3. Túc mạng thông.
4. Tha tâm thông
5. Thần túc thông
6. Lậu tận thông.
Thần thông của Phật, thần thông của Bồ Tát, thần thông của A La Hán đều khác nhau. Ví như thần thông của A La Hán, chỉ quán sát được nhân quả trong tám vạn đại kiếp, mà không thể quán sát được nhân duyên ngoài tám vạn đại kiếp. Thần thông của Bồ Tát quán sát được nhân quả ngoài tám vạn đại kiếp, nhưng không quán sát được nhân duyên trăm vạn đại kiếp. Thần thông của Phật quán sát được nhân quả vô lượng đại kiếp.
Tịnh Oai Âm Ma Hầu La Già Vương, được môn giải thoát, khiến cho tất cả chúng sinh, diệt trừ phiền não, đắc được mát mẻ an vui.
Vị Tịnh Oai Âm Ma Hầu La Già Vương, biết được cảnh giới của Phật, khiến cho tất cả chúng sinh giải nhiệt phiền não. Nhiệt phiền não là gì ? Tức là vọng tưởng phiền thân não tâm. Phiền não có phiền não lớn, phiền não vừa, phiền não nhỏ. Phiền não lớn có tám thứ, phiền não vừa có hai thứ, phiền não nhỏ có mười thứ. Vị Ma Hầu La Già Vương nầy, khiến cho tất cả chúng sinh, đều được mát mẻ an vui, tinh tấn nỗ lực tu hành, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Thắng Huệ Trang Nghiêm Kế Ma Hầu La Già Vương, được môn giải thoát, khiến khắp tất cả chúng sinh, suy nghĩ thiện hoặc bất thiện, đều vào pháp thanh tịnh.
Vị Thắng Huệ Trang Nghiêm Kế Ma Hầu La Già Vương, khiến khắp tất cả chúng sinh, suy nghĩ thiện và bất thiện, đều đắc được thanh tịnh. Những chúng sinh nầy minh bạch rất nhiều đạo lý; đạo lý thiện cũng minh bạch, đạo lý bất thiện cũng minh bạch. Nhưng loại chúng sinh nầy rất dễ đi lầm đường. Vì chính mình cảm thấy đã minh bạch. Thật ra họ chẳng minh bạch chân chánh, cho nên rất dễ lầm đường lạc lối. Vị nầy khiến cho tất cả chúng sinh vào pháp thanh tịnh vô vi, đi trên con đường chân chánh, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Diệu Mục Chúa Ma Hầu La Già Vương, được môn giải thoát, thấu đạt tất cả chẳng chấp trước tướng phước đức, tự tại bình đẳng.
Vị Diệu Mục Chúa Ma Hầu La Già Vương thấy rõ thông đạt, đức Phật đối với tất cả cảnh giới chẳng có chỗ chấp trước, cũng chẳng chấp trước tất cả tướng, không rời tất cả tướng. Không chấp trước nơi phước đức, cũng chẳng chấp trước nơi tự tại, cũng chẳng chấp trước nơi bình đẳng, cho nên gọi là tất cả chẳng có chỗ chấp trước.
Phật là ruộng phước của chúng sinh, Tăng cũng là ruộng phước của chúng sinh. Do đó :
“Rồng tuy không thể mưa xuống,
Nhưng cầu mưa phải nhờ rồng;
Phàm Tăng tuy không thể trồng phước,
Nhưng cầu phước phải nhờ Tăng”.
Người tu phước phải luôn luôn tiếc phước, thì phước không tổn giảm. Có phước đức thì được tự tại, có tự tại thì được bình đẳng, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Ðăng Tràng Ma Hầu La Già Vương, được môn giải thoát, khai thị tất cả chúng sinh, khiến cho xa lìa con đường đen tối sợ hãi.
Vị Ðăng Tràng Ma Hầu La Già Vương, thường hiện quang minh. Quang minh nầy từ trí huệ hiện ra, giống như đèn tràng, năm quang mười màu, sáng lạn chói mắt. Vị nầy đắc được cảnh giới của Phật, khai thị tất cả chúng sinh. Khai là khai Phật tri kiến, thị là thị Phật tri kiến, khiến cho chúng sinh ngộ Phật tri kiến, nhập Phật tri kiến. Vị nầy khiến cho tất cả chúng sinh, rời khỏi con đường đen tối sợ hãi, tức cũng là ba đường ác, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Trong ba đường ác đầy dẫy đen tối và sợ hãi. Ðen tối là biểu thị chẳng có trí huệ. Một khi gặp được quang minh trí huệ đăng tràng, thì chẳng còn sợ hãi, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Tối Thắng Quang Minh Tràng Ma Hầu La Già Vương, được môn giải thoát, biết rõ tất cả công đức của Phật sinh hoan hỉ.
Vị Tối Thắng Quang Minh Tràng Ma Hầu La Già Vương, biết rõ tất cả công đức của Phật, là do vạn đức trang nghiêm mà thành Phật. Vị nầy hiểu được cảnh giới nầy, cũng khiến cho tất cả chúng sinh, đều minh bạch cảnh giới nầy, chúng sinh minh bạch rồi, thì cũng sinh tâm hoan hỉ, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Sư Tử Ức Ma Hầu La Già Vương, được môn giải thoát, sức dũng mãnh làm chủ cứu hộ tất cả chúng sinh.
Vị Sư Tử Ức Ma Hầu La Già Vương. Ức tức là bộ ngực, vị nầy sức lực dũng mãnh nhất, được làm chủ nhân cứu hộ tất cả chúng sinh. Nếu có một chúng sinh nào không thành Phật, thì vị nầy thề không nghỉ ngơi. Bất cứ chúng sinh có tai nạn gì, vị nầy đều đi cứu hộ, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Chúng Diệu Trang Nghiêm Âm Ma Hầu La Già Vương, được môn giải thoát, khiến tất cả chúng sinh, tùy sự nghĩ nhớ mà sinh ra vô biên vui thích.
Vị Chúng Diệu Trang Nghiêm Âm Ma Hầu La Già Vương, âm thanh do chúng diệu trang nghiêm, cho nên âm thanh của vị nầy rất hay đẹp êm tai, khiến cho người nghe quên hết tất cả mọi ưu sầu phiền não. Tùy theo sự nghĩ nhớ của chúng sinh, mà khiến cho họ sinh ra vô biên vui thích, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Tu Di Ức Ma Hầu La Già Vương, được môn giải thoát, nơi tất cả sở duyên, quyết định không động và được đầy đủ đến bờ kia.
Vị Tu Di Ức Ma Hầu La Già Vương đắc được cảnh giới : tất cả sở duyên, vị nầy quyết định không bị cảnh giới làm lay động, mà đạt đến bờ kia cứu kính làm mãn túc, đó là cảnh giới của vị nầy đắc được.
Khả Ái Lạc Quang Minh Ma Hầu La Già Vương, được môn giải thoát, vì tất cả chúng sinh không bình đẳng, mà khai thị con đường bình đẳng.
Vị Khả Ái Lạc Quang Minh Ma Hầu La Già Vương, được cảnh giới : vì tất cả chúng sinh không bình đẳng mà khai thị pháp bình đẳng. Ðạo lý cứu kính thành Phật là bình đẳng, chẳng khác biệt, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Bấy giờ, Thiện Huệ Oai Quang Ma Hầu La Già Vương, nương oai lực của Ðức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Ma Hầu La Già, mà nói ra bài kệ.
Lúc đó, Vị Thiện Huệ Oai Quang Ma Hầu La Già Vương, nương đại oai thần lực gia bị của chư Phật, quán sát khắp tất cả chúng Ma Hầu La Già mà nói kệ, để tán thán công đức của Phật.
Ông quán Như Lai tánh thanh tịnh
Oai quang hiện khắp lợi quần sanh
Khai thị cam lồ khiến mát mẻ
Các khổ diệt hẳn không chỗ nương.
“Ông quán Như Lai tánh thanh tịnh”. Thiện Huệ Oai Quang Vương nói với quyến thuộc Ma Hầu La Già rằng :”Các vị hãy xem Phật tánh là thanh tịnh, không nhiễm ô, thanh tịnh như hư không”.
“Oai quang hiện khắp lợi quần sanh”. Phật từ bi phóng ra quang minh đại oai đùc, khiến cho chúng sinh nhờ quang minh của Phật chiếu sáng, mà đắc được lợi ích. Sự lợi ích nầy có thể khai mở trí huệ.
“Khai thị cam lồ khiến thanh lương”. Vị nầy khai thị chúng sinh đều đắc được vị cam lồ thơm ngon. Chúng sinh đói khác mà được cam lồ, thì lập tức no đủ. Chúng sinh tội nghiệp nặng mà được cam lồ, thì tội nghiệp tiêu trừ. Dù chúng sinh ở trong địa ngục, nếu được cam lồ thì chảo dầu than hồng cũng biến thành hồ sen, bất cứ việc gì không như ý nếu được cam lồ thì đều mát mẻ.
“Các khổ vĩnh diệt không chỗ nương”. Bất cứ có bao nhiêu nghiệp khổ, nếu đắc được oai quang của Phật chiếu sáng, thì tất cả nghiệp khổ đều tiêu diệt. Vì nghiệp chướng tiêu diệt rồi, cho nên tất cả sự khổ cũng chẳng còn. Khổ là do nghiệp chướng mà đến. Có nghiệp chướng khổ thì có chỗ nương tựa, không có nghiệp chướng khổ, thì chẳng có chỗ nương tựa.
Tất cả chúng sinh trong biển cõi
Các ác nghiệp hoặc tự ràng buộc
Bày họ thực hành pháp tịch tĩnh
Tịnh Oai Âm Vương thấu môn nầy.
“Tất cả chúng sinh trong biển cõi”. Chúng sinh trong tam giới ở trong biển lớn hai mươi lăm cõi, tức cũng là ba cõi. Ba cõi là gì ? Vì chúng sinh trong ba cõi đều có nghiệp nhân quả báo, cho nên gọi là ba cõi.
“Các ác nghiệp hoặc tự che đậy”. Chúng sinh ở trong tam giới hai mươi lăm cõi, các nghiệp ác đều khác nhau. Dục giới thì có nghiệp của dục giới, sắc giới thì có nghiệp của sắc giới, vô sắc giới thì có nghiệp của vô sắc giới.
Do các ác mà tạo ra các nghiệp, có các nghiệp rồi thì mê hoặc càng sâu. Nghiệp hoặc giống như xiềng xích trói người, không được giải thoát, lại còn che đậy chúng sinh ở trong biển nghiệp, cho nên không thấy quang minh; không thấy quang minh thì sinh ngu si; ngu si thì chẳng có trí huệ; chẳng có trí huệ thì làm việc điên đảo mê hoặc.
Chúng sinh tạo các nghiệp ác, nhất định phải sám hối mới tiêu diệt được. Do đó:
“Tội lỗi tày trời, sám hối tiêu sạch”.
Song, nghiệp ác của chúng sinh quá sâu, còn không biết sinh tâm sám hối. Người xưa nói :”
Tội từ tâm khởi đem tâm sám,
Nếu tâm diệt thì tội cũng mất,
Tâm mất tội diệt cả hai đều không,
Ðó mới gọi là thật sám hối”.
Nghĩa là, chỉ cần chí thành khẩn thiết sám hối, thì tội nghiệp đã tạo ra chắc chắn sẽ tiêu diệt. Nhưng chẳng phải nói, hôm nay sám hối ở trước đức Phật, ngày mai lại tái phạm nữa. Không chân chánh sửa đổi lỗi lầm, thì không những chẳng có ích gì, mà còn có tội thêm, vì biết mà cố phạm thì tội sẽ gia tăng.
“Bày họ thực hành pháp tịch tĩnh”. Khai thị chỉ bày chúng sinh có nghiệp ác, dạy họ pháp tịch tĩnh của Phật tu hành, thì chẳng còn phiền não, bỏ nghiệp ác mà lựa nghiệp thiện.
“Tịnh Oai Âm Vương thấu môn nầy”. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Tịnh Oai Âm Ma Hầu La Già Vương hiểu biết rõ.
Trí Phật như biển không nghĩ bàn
Biết tâm chúng sinh vô bất tận
Vì họ xiển minh pháp thanh tịnh
Thắng Huệ Nghiêm Kế ngộ môn nầy.
“Trí Phật như biển không nghĩ bàn”. Trí huệ của Phật như biển cả, rộng lớn vô biên, không thể đo lường, không thể nghĩ bàn, cho nên chẳng có gì mà không biết, chẳng chỗ nào mà không thấy.
“Biết tâm chúng sinh vô bất tận”. Vì nguyên nhân nầy, cho nên tâm của chúng sinh Phật đều biết đều thấy. Chúng sinh khởi vọng tưởng gì Phật đều hiểu biết rõ ràng.
“Vì họ xiển minh pháp thanh tịnh”. Vì tâm của chúng sinh, bị danh lợi trói che mà sinh ra vô minh. Phật vì giáo hóa độ cho họ lìa khổ được an vui, mà nói pháp thanh tịnh cho họ nghe. Dạy họ thế nào tu giới, định, huệ ba học vô lậu, làm thế nào dứt trừ tham, sân, si ba độc.
“Thắng Huệ Nghiêm Kế ngộ môn nầy”. Pháp môn nầy vị Thắng Huệ Trang Nghiêm Kế Ma Hầu La Già Vương hiểu ngộ được.
Vô lượng chư Phật hiện thế gian
Vì khắp chúng sinh làm ruộng phước
Biển phước rộng lớn sâu khó dò
Diệu Mục Ðại Vương thấy môn nầy.
“Vô lượng chư Phật hiện thế gian”. Có mười phương ba đời vô lượng Phật, do đó :”đồng với số chúng sinh”, có bao nhiêu chúng sinh, thì có bấy nhiêu đức Phật, đó là chủ trương của Phật giáo. Vì ai ai cũng có Phật tánh, đều sẽ thành Phật. Chỉ cần tu hành thì có cơ hội thành Phật. Giống như một số người, đều có tư cách làm tổng thống hoặc chủ tịch, nhưng phải có đủ điều kiện, có học thức phong phú, có khả năng làm việc, có tinh thần phục vụ, có thân thể cường tráng, thì sẽ có cơ hội làm tổng thống hoặc chủ tịch.
“Khắp vì chúng sinh làm ruộng phước”. Vô lượng vô biên tất cả chư Phật, xuất hiện khắp trong thế gian, để vì chúng sinh làm ruộng phước, khiến cho tất cả chúng sinh, đều có cơ hội trồng phước. Cúng dường Tam Bảo, có công đùc không thể nghĩ bàn, nhưng phải làm đừng có xí đồ mới có công đức lớn, dùng tâm thanh tịnh cúng dường một trái cây hoặc một cành hoa, thì công đức không thể tính đếm được.
“Biển phước rộng lớn sâu khó dò”. Dùng tâm kiền thành không mong cầu, để cúng dường Tam Bảo, thì biển phước tích tập vừa rộng vừa sâu, không cách chi đo lường được. Công đức càng nhiều thì biển phước càng sâu. Chư Phật đều ở trong ba A tăng kỳ tu phước huệ, cúng dường tất cả chư Phật. Khi phước huệ đầy đủ thì mới thành tựu.
“Diệu Mục Ðaị Vương thấy môn nầy”. Cảnh giới nầy, vị Diệu Mục Chúa Ma Hầu La Già Vương hoàn toàn thấy được.
Tất cả chúng sinh lo sợ khổ
Phật hiện ra trước để cứu hộ
Khắp hết thảy pháp giới hư không
Môn giải thoát nầy Ðăng Tràng chứng.
“Tất cả chúng sinh lo sợ khổ”. Tất cả chúng sinh lo âu mà sợ haỉ đó là quả khổ. Vì tham vui nhất thời mà trồng xuống nhân ác, thì chắt chắn không thể tránh khỏi quả báo khổ. Bồ tát thì sợ nhân không sợ quả, lúc trồng nhân thì đặc biệt rất cẩn thận, không khởi chút vọng niệm nào, nhưng khi thọ quả báo khổ thì tâm vẫn an nhiên tiếp thọ, chẳng oán trời trách người, tất cả đều là nhân quả, chẳng sai lầm.
“Phật hiện ra trước để cứu hộ”. Mười phương ba đời tất cả chư Phật, đều hiện ra trước tất cả chúng sinh, để cứu hộ chúng sinh giữa đường. Vì vô minh tác quái, che lấp tâm thanh tịnh, mất đi trí tuệ, bỏ con đường chân chánh, mà đi trên con đường nhỏ hẹp nguy hiểm. Phật thương xót những chúng sinh nầy, cho nên nương thuyền từ bi đến thế giới nầy, để cứu hộ chúng sinh ra khỏi biển khổ.
“Khắp hết thảy pháp giới hư không”. Pháp thân của Phật là khắp tất cả mọi nơi, cho nên nói tận hư không biến pháp giới khắp hết thảy. Phàm là chỗ nào có chúng sinh, bất cứ là chúng sinh cang cường hoặc là chúng sinh khó điều phục, đều cứu hộ khiến cho họ lìa khổ được an lạc.
“Môn giải thoát nầy Ðăng Tràng chứng”. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Ðăng Tràng Ma Hầu La Già Vương chứng đắc được.
Công đức nơi một lỗ lông Phật
Thế gian đo lường không biết được
Vô lượng vô biên đồng hư không
Quảng Ðại Quang Tràng thấy như vậy
“Công đức nơi một lỗ lông Phật”. Trong một lỗ chân lông của đức Phật có vô lượng vô biên công đức. Những công đức nầy từ đâu đến ? Khi Phật tại nhân địa phát tâm bồ đề, thì luôn luôn làm việc có ích lợi cho chúng sinh. Vì có ích lợi cho chúng sinh, cho nên mới thành tựu công đức.
Tu công đức như thế nào ? Trước hết phải ủng hộ Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, cung kính Tam Bảo. Tam Bảo tức là ruộng phước của chúng sinh. Làm công đức tức là trồng vào ruộng phước. Phàm là Phật giáo đồ đều phải hết sức mình để làm công đức, đến khi công đức viên mãn, thì chắc chắn sẽ đắc được phước báu.
Khi Phật tại nhân địa thì gần gũi Tam Bảo, quy y Tam Bảo, hộ trì Tam Bảo, phàm là công đức lớn nhỏ Ngài cũng đều làm. Cho nên trong một lỗ chân lông của Phật đầy đủ các công đức. Vì trong một lỗ chân lông của Phật, dung nạp được vô lượng chúng sinh, tận hư không khắp pháp giới, và ở trong lỗ chân lông chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sinh.
“Thế gian đo lường không biết được”. Tất cả chúng sinh thế gian, cùng chung lại để nghiên cứu vấn đề nầy, cũng không lường được đức Phật có bao nhiêu công đức, cũng chẳng cách chi hiểu biết được cứu kính có bao nhiêu ?
“Vô biên vô tận đồng hư không” Công đức của Phật chỉ có thể nói là vô biên cô tận. Ví như sự rộng lớn của hư không, không cách chi hình dung được. Cổ đức có nói :
“Tâm niệm hạt bụi đếm biết được,
Nước trong biển lớn uống hết được,
Hư không lường được gió buộc được,
Không thể nói hết công đức của Phật”.
Ðó là sự thuyết minh thích hợp nhất.
“Quảng Ðại Quang Tràng thấy như vậy”. Công đức như vậy chỉ có vị Quảng Ðại Quang Tràng Ma Hầu La Già Vương thấy được cảnh giới nầy.
Như Lai thông đạt tất cả pháp
Nơi pháp tánh kia đều chiếu rõ
Như núi Tu Di không lay động
Sư Tử Ức Vương vào môn nầy.
“Như Lai thông đạt tất cả pháp”. Phật muốn lợi ích chúng sinh, muốn cứu hộ chúng sinh, cho nên Ngài tu đủ thứ công đức. Mỗi mỗi công đức viên mãn rồi, thì vào sâu tạng Kinh, trí huệ như biển, mới thông đạt được tất cả các pháp, mới hiểu được tất cả các pháp.
“Nơi pháp tánh kia đều chiếu rõ”. Ở trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, pháp tính trong mỗi môn đều thấu triệt thông đạt vô ngại, đều hiểu biết vô ngại. Tóm lại, tức là trí huệ quang minh chiếu sáng thật tướng của các pháp.
“Như núi Tu Di chẳng lay động”. Pháp tánh giống như núi Diệu Cao, không lay động, bốn vị Thiên Vương ở giữa núi Tu Di (dịch là Diệu Cao), trên đỉnh núi là trời Ðao Lợi. Phật dùng sức dũng mãnh tinh tấn, để cứu hộ tất cả chúng sinh, cho nên gọi là chúa cứu hộ tất cả chúng sinh. Pháp tánh của Phật có định lực như núi Tu Di.
“Sư Tử Ức Vương vào môn nầy”. Vị Sư Tử Ức Vương minh bạch được, chứng nhập được pháp môn giải thoát nầy.
Phật trong quá khứ kiếp xa xưa
Tập biển hoan hỉ sâu vô tận
Nên ai thấy được đều vui mừng
Pháp nầy Nghiêm Âm chứng nhập được.
“Phật trong quá khứ kiếp xa xưa”. Khi đùc Phật ở trong vô lượng vô biên đại kiếp xa xưa, chưa từng sinh một chút phiền não.
“Tập biển hoan hỉ sâu vô tận”. Phật ở trong vô lượng kiếp tích tập hoan hỉ, sâu rộng không bờ bến như biển cả. Khi Phật ở taị nhân điạ thì, bất cứ thấy ai cũng đều sinh tâm hoan hỉ. Ngài phát tâm độ tất cả chúng sinh.
“Nên ai thấy được đều vui mừng”. Vì quan hệ như vậy, cho nên chúng sinh thấy được Phật thì chẳng có một chúng sinh nào mà chẳng sinh tâm hoan hỉ.
“Pháp nầy Nghiêm Âm chứng nhập được”. Môn giải thoát nầy vị Chúng Diệu Trang Nghiêm Âm Ma Hầu La Già Vương chứng nhập được.
Biết rõ pháp giới không hình tướng
Biển Ba la mật đều viên mãn
Ðại quang cứu khắp các chúng sinh
Sơn Ức biết được phương tiện nầy.
“Biết rõ pháp giới không hình tướng”. Thấy biết rõ pháp giới chẳng có hình tướng. Pháp Giới tức là chân tâm của chúng sinh. Chân tâm thì khắp cùng pháp giới, pháp giới cũng chẳng lìa khỏi chân tâm của chúng ta. Cho nên mới nói :”
“Nếu ai muốn biết rõ,
Tất cả Phật ba đời.
Hãy quán tánh pháp giới,
Tất cả do tâm tạo”.
Giống như làm văn, trước hết phải nhận thức rõ ràng chủ đề. Chân tâm thì chẳng có hình tướng, là tận hư không khắp pháp giới, do đó :”Mười pháp giới không lìa một tâm niệm”. Pháp giới là do pháp hóa mà thành giới. Phật pháp giới có vô lượng chư Phật, là do Phật pháp mà hóa thành. Bồ Tát pháp giới, Duyên Giác pháp giới, Thanh Văn pháp giới .v.v., đều do đủ thứ pháp mà hóa thành, cho nên gọi là pháp giới. Nếu phân ra mà nói thì có mười pháp giới, nói chung lại thì một pháp giới, tức cũng là một niệm chân tâm.
“Biển Ba La Mật đều viên mãn”. Biết được pháp giới là vô tướng, thì thông đạt bổn thể, là như như bất động, rõ ràng sáng suốt, là minh bạch tự tánh bổn thể.
Tất cả biển Ba la mật gồm có sáu Ba la mật, mười Ba la mật, trăm Ba la mật, ngàn Ba la mật, vạn Ba la mật, cũng có thể nói có tám vạn bốn ngàn Ba la mật. Nếu minh bạch được pháp giới là vô tướng, thì tấ cả Ba La Mật đều viên mãn đầy đủ.
“Ðại quang cứu khắp các chúng sinh”. Ðại quang tức là đại quang minh tạng. Ðại quang chiếu khắp tất cả chúng sinh, cứu hộ tất cả chúng sinh. Chúng simh nào được đại quang minh tạng chiếu đến, thì chúng sinh đó được cứu, được hết khổ.
Ðại quang là từ trí huệ quang tu được. Trí huệ quang nầy là vô lượng vô biên, chẳng có chỗ nào mà không chiếu đến, chiếu khắp pháp giới, trùng trùng vô tận, vô tận trùng trùng.
“Sơn Ức biết được phương tiện nầy”. Vị Tu Di Ức Ma Hầu La Già Vương biết được pháp môn phương tiện nầy.
Ông quán Như Lai sức tự tại
Mười phương hóa hiện thảy đồng đều
Chúng sinh được chiếu đều khai ngộ
Diệu Quang Minh Vương thâm nhập được.
“Ông quán Như Lai sức tự tại”. Bạn hãy xem sức tự tại của Phật, diệu không thể tả. Sức tự tại tức là sức thần thông. Sức thần thông của Phật là không thể suy nghĩ, không thể luận bàn.
“Mười phương hóa hiện thảy đồng đều”. Phật hóa hiện pháp thân trong mười phương pháp giới, chẳng có chỗ nào mà không có. Cho nên tất cả chúng sinh đắc được lợi ích cũng khác nhau. Người đại căn thì được thấm nhuần lớn, người tiểu căn thì được sự thấm nhuần ít.
“Chúng sinh được chiếu đều khai ngộ”. Chúng sinh được đaị quang minh tạng của Phật chiếu đến, thì đều khai ngộ, đắc được trí huệ giải thoát.
“Diệu Quang Minh Vương thâm nhập được”. Cảnh giới nầy vị Khả Ái Lạc Quang Minh Ma Hầu La Già Vương thâm nhập được, thấy rõ quang minh của Phật chiếu sáng chúng sinh, thì tội nghiệp của chúng sinh đều tiêu diệt.
Lại nữa, Thiện Huệ Quang Minh Thiên Khẩn Na La Vương, được môn giải thoát, sinh khắp tất cả nghiệp vui thích.
Tiếp theo kinh văn ở trên. Vị Thiện Huệ Quang Minh Thiên Khẩn Na La Vương ( Khẩn Na La dịch là Nghi thần, thần nầy khéo ca ngâm pháp âm trang nghiêm khiến cho người nghe sinh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng), khiến cho khắp tất cả chúng sinh, sinh ra nghiệp hoan hỉ khoái lạc, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Diệu Hoa Tràng Khẩn Na La Vương, được môn giải thoát, sinh vô thượng pháp hỉ, khiến cho tất cả chúng sinh được an lạc.
Vị Diệu Hoa Tràng Khẩn Na La Vương, minh bạch cảnh giới của Phật, khiến cho tất cả chúng sinh sinh ra vô thượng pháp hỉ. Nghe Kinh tâm vui mừng, dù không ăn cơm cũng không cảm thấy đói, cho nên nói : pháp hỉ sung mãn. Cảnh giới pháp hỉ tức là phấn khởi quên ăn, vui vẻ quên mất lo âu. Vị nầy đắc được pháp hỉ, cũng khiến cho chúng sinh đắc được pháp hỉ an lạc. Tư tưởng nầy là tự lợi lợi tha, tự giác giác tha. Tóm lại, mình vui sướng cũng khiến cho người khác vui sướng, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Chủng Chủng Trang Nghiêm Khẩn Na La Vương, được môn giải thoát, đầy đủ tất cả công đức tín giải tạng thanh tịnh rộng lớn.
Vị Chủng Chủng Trang Nghiêm Khẩn Na La Vương, đầy đủ đủ thứ sự trang nghiêm. Sự trang nghiêm nầy, biểu thị sự tốt đẹp, thù thắng, đặc biệt để trang nghiêm cõi Phật. Vì tu đủ thứ phước, mới có đủ thứ công đức. Có công đúc rồi, thì tất cả công đức đều đầy đủ viên mãn, vừa rộng lớn vừa thanh tịnh, do đó sinh ra tạng tin hiểu thanh tịnh. Vị nầy đặc được môn giải thoát nầy.
Thanh tịnh tức là không phát cuồng, phát cuồng thì không thanh tịnh. Thanh tịnh tức cũng chẳng có tư tưởng ô nhiễm, tâm đối với cảnh giới mà chẳng chấp trước cảnh giới, tức là :
“Mắt thấy hình sắc trong tâm chẳng có,
Tai nghe âm thanh tâm chẳng biết”.
Tạng tin hiểu : Trước hết giải thích chữ tin. Tin làm tăng trưởng rừng công đức. Do đó :
“Tin là gốc đạo, mẹ công đức,
Dưỡng lớn tất cả các pháp lành”.
Nhứt xiển đề dịch là “niềm tin không đủ”, là người không tin Phật Pháp. Song, họ vẫn có Phật tánh nhưng tạm thời không thể thành Phật. Vì họ không tin nhân quả. Hiểu là hiểu rõ, hiểu rõ nghĩa chân thật của Kinh điển. Tin hiểu tụ tập nhiều thì thành tạng. Ví như Tam Tạng : Tạng Kinh, Tạng Luật, Tạng luận.
Ðạo lý Kinh Hoa Nghiêm, phân làm bốn giai đoạn, tức là : Tin, hiểu, hành, chứng. Trước hết phải tin, nhất định phải sinh ra tâm tin. Có tâm tin rồi, mới hứng thú với Phật Pháp. Thứ hai là phải hiểu, phải nghiên cứu giáo lý, hiểu rõ giáo lý. Thứ ba là phải hành, hiểu rồi thì phải theo pháp mà tu hành. Nếu không, chỉ tin Phật Pháp, hiểu rõ Phật Pháp, mà không tu thì chẳng ích gì. Thứ tư là phải chứng, tu hành mới có chứng quả, chứng quả mới giải thoát, giải thoát khỏi sự trói buộc nghiệp chướng mê hoặc, thoát khỏi đau khổ trong ba cõi.
Duyệt Ý Hống Thanh Khẩn Na La Vương, được môn giải thoát, luôn luôn phát ra tất cả âm thanh rất êm tai, khiến cho người nghe lìa lo sợ.
Vị Duyệt Ý Hống Thanh Khẩn Na La Vương, thường khiến cho tâm của bạn sinh hoan hỉ. Tiếng hống của vị nầy rất êm tai, khiến cho người nghe sinh vui mừng. Vị nầy luôn luôn phát ra âm thanh chúng sinh thích nghe, khiến cho người nghe được tiếng hống nầy, đều lìa khỏi tất cả sự lo âu sợ hãi, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Bảo Thụ Quang Minh Khẩn Na La Vương, được môn giải thoát, đại bi an lập tất cả chúng sinh, khiến cho họ giác ngộ nhân duyên.
Vị Bảo Thụ Quang Minh Khẩn Na La Vương, minh bạch được Phật khiến cho tất cả chúng sinh nghe pháp, mà khai ngộ, hiểu rõ giác ngộ nguồn gốc nhân duyên, mà tự tánh của tất cả chúng sinh là thanh tịnh, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Phổ Lạc Kiến Khẩn Na La Vương, được môn giải thoát, thị hiện tất cả sắc thân tốt đẹp.
Vị Phổ Lạc Kiến Khẩn Na La Vương, minh bạch được, Phật thị hiện tất cả sắc thân tốt đẹp, để giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh đều sinh tâm hoan hỉ, đắc được tâm thanh tịnh, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Tối Thắng Quang Trang Nghiêm Khẩn Na La Vương, được môn giải thoát, biết rõ tất cả quả thù thắng trang nghiêm từ nghiệp sinh ra.
Vị Tối Thắng Quang Trang Nghiêm Khẩn Na La Vương, minh bạch tất cả Phật quả thù thắng trang nghiêm, do từ nghiệp sinh ra mà thành tựu, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Vi Diệu Hoa Tràng Khẩn Na La Vương, được môn giải thoát, khéo quán sát tất cả nghiệp quả báo ứng của thế gian.
Vị Vi Diệu Hoa Tràng Khẩn Na La Vương, đắc được cảnh giới khéo quán sát tất cả nghiệp quả báo ứng của thế gian. Chúng sinh trồng nhân gì thì kết qủa đó. Trồng nhân thiện thì kết quả thiện, trồng nhân ác thì kết qủa ác. Tóm lại, kết quả thiện thì thọ báo ứng thiện, kết qủa ác thì thọ báo ứng ác, đó là đạo lý về luật nhân qủa.
Chúng sinh trong chín pháp giới, Bồ Tát tu pháp lục độ vạn hạnh cho nên làm Bồ Tát. Duyên Giác tu pháp mười hai Nhân Duyên cho nên làm Duyên Giác. Thanh văn tu pháp bốn Thánh Ðế cho nên làm Thanh Văn. Do đó, nhân gì thì kết quả đó. Nếu bạn làm công đức lành, thì sinh về ba đường lành. Nếu bạn tạo tội ác, thì đoạ vào ba đường ác. Sở sinh báo tức là sở thọ quả báo. Do đó :
“Trồng dưa được dưa,
Trồng đậu được đậu”.
Vị nầy đắc được môn giải thoát nầy.
Ðộng Ðịa Lực Khẩn Na La Vương, được môn giải thoát, luôn luôn khởi tất cả việc lợi ích cho chúng sinh.
Vị Ðộng Ðịa Lực Khẩn Na La Vương, có sức lực chấn động đại địa, Vị nầy có thể khiến cho đất chấn động. Vị nầy có sức lực lợi ích chúng sinh, khiến cho chúng sinh đều được an lạc và hoan hỉ, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Oai Mãnh Chúa Khẩn Na La Vương, được môn giải thoát, biết rõ và khéo nhiếp phục tâm của tất cả Khẩn Na La.
Vị Oai Mãnh Chúa Khẩn Na La Vương, rất oai đức và dũng mãnh, cho nên làm Khẩn Na La Vương. Vị nầy khéo biết tâm tư của Khẩn Na La. Nếu những vị Khẩn Na La, không giữ quy cụ, thì vị nầy dùng phương tiện khéo léo để quản lý, khiến cho chúng giữ quy cụ, an phận giữ mình. Giáo hóa chúng sinh có hai môn : triết và nhiếp. Triết tức là pháp triết phục, điều trị hàng phục những chúng sinh cang cường. Nhiếp tức là pháp nhiếp thọ, nhiếp tất cả chúng sinh vào trong Phật pháp. Ðó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Bấy giờ, Thiện Huệ Quang Minh Thiên Khẩn Na La Vương, nương oai lực của Ðức Phật, quán khắp tất cả chúng Khẩn Na La mà nói ra bài kệ.
Lúc đó, Vị Thiện Huệ Quang Minh Thiên Khẩn Na La Vương, nương oai lực gia bị của chư Phật, quán sát tất cả chúng Khẩn Na La mà nói kệ rằng.
Tất cả sự an lạc thế gian
Ðều do thấy được Phật ra đời
Ðạo sư lợi ích các quần sinh
Khắp làm nơi cứu hộ nương tựa.
“Tất cả sự an lạc thế gian”. Chúng sinh hữu tình thế gian, có sự vui sướng và khổ não. Bây giờ là nói tất cả việc an lạc. Làm thế nào có được sự an lạc ? Vì gần gũi Tam Bảo, quy y Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, cung kính Tam Bảo.
“Ðều do thấy được Phật ra đời”. Chúng sinh không những được bình an và còn vui sướng. Sự an lạc nầy, là do thấy Phật, nghe Pháp, thấy Tăng mà có.
“Ðạo sư lợi ích các quần sinh”. Phật luôn luôn lợi ích chúng sinh, khiến cho chúng sinh đắc được diệu dụng. Diệu dụng gì ? tức là lìa sự khổ thế gian, được an vui xuất thế gian.
“Khắp làm nơi cứu hộ nương tựa”. Phật cứu hộ khắp tất cả chúng sinh. Chúng sinh có tai nạn gì, Ngài đều không sợ khổ mà đi cứu hộ, cho nên Phật là nơi nương tựa chân chánh của tất cả chúng sinh.
Sinh ra tất cả sự vui thích
Thế gian đều được vô cùng tận
Khiến người thấy được chẳng luống uổng
Ðây là sở ngộ của Hoa Tràng.
“Sinh ra tất cả sự vui thích”. Phật khiến cho chúng sinh, đắc được pháp hỷ sung mãn, nghe được Phật Pháp mà sinh tâm hoan hỉ vui sướng.
“Thế gian đều được vô cùng tận”. Sự pháp hỉ nầy, tất cả chúng sinh thế gian đều đắc được. Sự pháp hỉ nầy giống như nước chảy, chẳng hết được.
“Khiến người thấy được chẳng luống uổng”. Phật khiến cho tất cả chúng sinh, thấy được Phật đều có công đức, không thể nào thấy được Phật mà chẳng có ích gì. Tóm lại, ai thấy được Phật thì người đó đắc được pháp ích. Ai đắc được pháp ích, thì người đó y pháp tu hành, ai y pháp tu hành thì người đó chứng được Phật quả.
“Ðây là sở ngộ của Hoa Tràng”. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Diệu Hoa Tràng Khẩn Na La Vương minh bạch được.
Biển công đức Phật không cùng tận
Muốn tìm bờ mé không thể được
Quang minh chiếu khắp trong mười phương
Giải thoát nầy của Trang Nghiêm Vương.
“Biển công đức Phật không cùng tận”. Công đức của Phật như biển cả, vô lượng vô biên chẳng cùng tận. Không cần nói hết công đức toàn bộ thân của Phật, mà công đức một lỗ chân lông của Phật cũng vô cùng vô tận. Do đó :”
Thiên thượng thiên hạ vô như Phật,
Thập phương thế giới diệc vô tỉ,
Nhất thiết sở hữu ngã tận kiến,
Nhất thiết vô hữu như Phật giả”.
Nghĩa là :
Trên trời nhân gian không ai bằng Phật
Mười phương thế giới cũng chẳng sánh
Tất cả hết thảy Phật đều thấy
Tất cả chẳng ai như đức Phật.
Ðó là nói sự bất khả tư nghì của Phật.
“Muốn tìm bờ mé không thể đựơc”. Vì công đức của Phật quá lớn, cho nên muốn tìm bờ mé không thể nào được. Vì cảnh giới của Phật cao sâu khó dò, so với núi Tu- Di còn cao hơn, so với biển Hương-Thủy còn sâu hơn, cho nên tìm không được bờ mé.
“Quang minh chiếu khắp trong mười phương”. Quang Minh của Phật chiếu sáng khắp mười phương thế giới. Tất cả chúng sinh trong mười phương, đắc được quang minh của Phật gia bị, đều bỏ mê về giác, cải tà quy chánh.
“Giải thoát nầy của Trang Nghiêm Vương”. Cảnh giới môn giải thoát nầy vị Chủng Chủng Trang Nghiêm Khẩn Na La Vương đắc được.
Âm thanh Như Lai thường diễn xướng
Khai thị pháp chân thật lìa khổ
Chúng sinh nghe được đều vui mừng
Như vậy Hống Thanh tin thọ được.
“Âm thanh Như Lai thường diễn xướng”. Phật dùng âm thanh rộng lớn để thuyết pháp, âm thanh nầy liên tục không ngừng, luôn luôn đang nói pháp. Trí Giả Ðại Sư tụng kinh Pháp Hoa liên tục, thì đắc được Pháp Hoa Tam Muội, thấy được pháp hội Linh Sơn vẫn còn đó, Phật Thích Ca còn đang thuyết pháp tại đó.
Ðó là chứng minh Phật pháp, có thể đem quá khứ vô lượng kiếp dời đến hiện taị, cũng có thể đem vị lai vô lượng kiếp dời đến hiện taị. Do đó, quá khứ chẳng quá khứ, vị lai chẳng vị lai, tức hiện tại cũng thế, không thể đắc được. Cho nên nói : tâm quá khứ không thể được, tâm hiện taị không thể được, tâm vị lai không thể được.
Diễn xướng tức là muốn nói pháp thì nói, muốn nói đạo lý thì nói, tuôn chảy như nước, chảy mãi không ngừng.
“Khai thị pháp chân thật lìa khổ”. Khai thị tất cả chúng sinh, dạy họ làm thế nào lìa khỏi lo sầu khổ não, làm thế nào lìa khổ được vui. Phật khai thị tất cả chúng sinh phải tu giới, định, huệ. Có giới định huệ rồi, thì chẳng còn lo âu, chẳng còn quái ngại. Pháp chân thật, tức là pháp môn giới định huệ, do đó :”Siêng tu giới đinh huệ, diệt trừ tham sân si”, Câu nầy tuy nhiên tôi thường nói, song, người làm được chẳng bao nhiêu.
“Chúng sinh nghe được đều vui mừng”. Chúng sinh nghe được pháp chân thật của Phật nói, đều sinh tâm vui mừng, do đó, đều đại hoan hỉ tín thọ phụng hành, như thế Phật Pháp mới lưu thông.
“Như vậy Hống Thanh tin thọ được”. Pháp chân thật như vậy, Vị Duyệt Ý Hống Thanh Khẩn Na La Vương, tin thọ được môn giải thoát nầy.
Tôi quán sức tự tại của phật
Ðều do quá khứ đã tu hành
Ðại bi cứu độ khiến thanh tịnh
Bảo Thụ Quang Vương ngộ vào được.
“Tôi quán sức tự taị của Phật”. Vị Bảo Thụ Quang Minh Khẩn Na La Vương nói :”Tôi quán sát Như Lai đắc được thần lực tự tại nầy, chẳng phải dễ dàng, nếu không trải qua một phen tu khổ hạnh”.
“Ðều do quá khứ đã tu hành”. Ðức Phật thành tựu là do quá khứ đã tu hành. Nếu không tu hành, thì chẳng có sức thần thông tự tại như thế.
“Ðại bi cứu độ khiến thanh tịnh”. Ðức Phật đầy đủ tâm đại bi, cứu độ tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, đều trở về cội nguồn, cải tà theo chánh.
“Bảo Thụ Quang Vương ngộ nhập được”. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Bảo Thụ Quang Minh Khẩn Na La Vương, minh bạch chứng nhập được.
Khó thấy nghe được đức Như Lai
Chúng sinh ức kiếp mới được gặp
Các tướng trang nghiêm đều đầy đủ
Cảnh giới nầy Lạc Kiến Vương thấy.
“Khó thấy nghe được đức Như Lai”. Chẳng dễ gì thấy được Phật, không biết phải trải qua bao nhiêu đại kiếp, mới gặp được Phật, nghe được Pháp, thấy được Tăng. Pháp thân của Phật tuy nhiên khắp mọi nơi, song, chúng sinh không đắc được năm nhãn (Phật nhãn, Pháp nhãn, Huệ nhãn, thiên nhãn, và nhục nhãn) thì không thể thấy được pháp thân của Phật. Sắc thân của Phật, cũng chẳng dễ gì thấy được. Dù danh hiệu của Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng không dễ gì nghe được. Cho nên nói khó thấy nghe được đức Như Lai.
“Chúng sinh ức kiếp mới được gặp”. Nếu chúng sinh có duyên với Phật, cũng phải trải qua ức kiếp mới gặp được, song, cũng chẳng dễ. Muốn thấy Phật, thì phải tu hành. Pháp môn tham thiền là khai mở năm nhãn.
“Các tướng trang nghiêm đều đầy đủ”. Các tướng tức là : ba mươi hai tướng tám mươi vẽ đẹp, mỗi tướng đều đầy đủ trang nghiêm. Chúng sinh thấy được các tướng sắc thân tốt đẹp của Phật, vừa viên mãn vừa trang nghiêm.
“Cảnh giới nầy Lạc Kiến Vương thấy”. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Phổ Lạc Kiến Khẩn Na La Vương thấy, hiểu rõ được.
Ông quán trí huệ của Như Lai
Ứng khắp sở thích của quần sinh
Tất cả trí đạo đều nói hết
Tối Thắng Trang Nghiêm rõ môn nầy.
“Ông Quán Trí huệ của Như Lai”. Tối Thắng Quang Trang Nghiêm Khẩn Na La Vương, nói : “Bạn hãy Quán sát đại trí huệ của Phật như biển cả, không thể đo lường, không thể nghĩ bàn”.
“Ứng khắp sở thích của quần Sinh”. Trong tâm của chúng sinh nghĩ gì, cầu gì ? Phật đều làm cho họ được đầy đủ. Dục vọng nầy chẳng phải là năm dục (tài, sắc, danh, ăn ngủ), mà là trí huệ dục.
“Tất cả trí đạo đều nói hết”. Hết thảy tất cả đạo lý, đều khiến cho chúng sinh sinh ra trí huệ, chẳng có gì mà không nói. Nói gì ? Nói đạo lý thật tướng của các pháp. Tướng chân thật là vĩnh viễn không biến đổi. Tướng năm uẩn hòa hợp là hư vọng không thật. Trong kinh Kim Cang nói : “Phàm cái gì có hình tướng đều là giả dối”.
“Tối Thắng Trang Nghiêm rõ môn nầy”. Vị Tối Thắng Quang Trang Nghiêm Khẩn Na La Vương, hiểu rõ môn giải thoát nầy.
Biển nghiệp rộng lớn không nghĩ bàn
Chúng sinh khổ vui do tạo nghiệp
Phật vì tất cả mà khai thị
Hoa Tràng Vương biết rõ môn nầy.
“Biển nghiệp rộng lớn không nghĩ bàn”. Nghiệp tức là những gì tạo ra bởi : thân, miệng và ý ba nghiệp. Nguyên nhân tạo nghiệp là do hoặc mà khởi, thấy cảnh thì sinh tham ái. Nghiệp gồm có thiện nghiệp và ác nghiệp. Làm nghiệp thiện thì được quả vui, làm nghiệp ác thì được quả khổ. Nghiệp thiện tức là duyên tịnh, nghiệp ác tức là duyên nhiễm. Nghiệp là như bóng theo hình, luôn luôn theo bạn mà không tách rời. Nghiệp thiện cũng theo bạn, nghiệp ác cũng theo bạn, luôn luôn không lìa bạn. Ví như bạn tạo nghiệp sát sinh, thì tương lai quả báo bị người giết lại, thọ tội khổ ở trong địa ngục trên thì núi đao, dưới thì chảo dầu. Phạm nghiệp trộm cắp, thì ở trong địa ngục bị chặt đứt hai tay. Phạm nghiệp dâm dục, thì bị nướng ở trong địa ngục, thứ hình cụ nầy là ống đồng tròn, bên trong lửa nung đến khi ống đồng đỏ rực thì kẻ phạm nghiệp dâm ôm lấy, đó là những kẻ thích đàn bà hoặc những kẻ thích đàn ông. Trong khoảnh khắc thì nướng cháy đen như than. Phạm nghiệp nói dối thì chịu khổ trong đia ngục bạt thiệt ngục tốt kéo lưỡi người tội ra, đến đời sau thì bị câm. Phạm nghiệp uống rượu, thì bị tống vào trong ao rượu, dùng lửa rượu thiêu thân. Ở trên là cảnh giới tạo nghiệp thọ báo, cho nên nói biển nghiệp rộng lớn không nghĩ bàn.
“Chúng sinh khổ vui do tạo nghiệp”. Chúng sinh hưởng thụ sung sướng, hoặc chịu đau khổ đều do tạo nghiệp mà sinh ra. Chấp trước tướng là tạo nghiệp, không chấp trước tướng là giải thoát. Ðạo lý nầy rất đơn giản dễ hiểu, nhưng trí huệ của phàm phu bị vô minh che lấp trong sự mê hoặc. Phàm là việc gì, hoặc là pháp gì, mà chúng ta làm đều là tạo nghiệp, còn các bậc Thánh làm là giải thoát. Vì chúng ta khởi tâm vọng đi làm, là có tâm mà làm. Các bậc Thánh dùng một phiến tâm thanh tịnh đi làm, chẳng có tâm vọng mà làm.
“Phật vì tất cả mà khai thị”. Về vấn đề nầy, cho nên Phật khai thị chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, đều hiểu rõ nhân qủa. Có nhân trước rồi có quả sau. Nhân quả tuần hoàn báo ứng, không sai mảy may.
“Hoa Tràng Vương biết rõ môn nầy”. Ðạo lý nầy vị Hoa Tràng Khẩn Na La Vương biết và hiểu rõ.
Thần thông chư Phật không dừng nghỉ
Mười phương đại địa thường chấn động
Tất cả chúng sinh chẳng biết được
Quảng Ðại Lực thấy rõ môn nầy.
“Thần thông chư Phật không dừng nghỉ”. Mười phương chư Phật có đại oai đức thần thông lực, chuyển đại pháp luân trong cõi nước mười phương, giáo hóa chúng sinh. Chư Phật dùng đủ thứ trí huệ, khiến cho chúng sinh đắc được sự giác ngộ, nhưng Phật vĩnh viễn chẳng khi nào nghỉ ngơi, đó là tinh thần đại từ đại bi.
“Mười phương đại địa thường chấn động”. Mười phương đại địa thường thường chấn động, có lúc chư Phật hiển hiện thần thông, khiến cho chúng sinh giác ngộ, biết ba cõi là khổ, ra khỏi ba cõi là vui. Pháp thế gian là : vô thường, khổ, không, vô ngã. Pháp xuất thế gian là : thường, lạc, ngã, tịnh. Có lúc ma hiển hiện thần thông mà phóng quang, khiến cho chúng sinh mê hoặc điên đảo, mê trong sinh tử, lìa đạo Bồ Ðề.
“Tất cả chúng sinh chẳng biết được”. Cảnh giới nầy, đạo lý nầy, tất cả chúng sinh không thể biết được. Tuy nhiên chư Phật luôn luôn lợi ích chúng sinh, nhưng chúng sinh không nhận thức được tâm từ bi của chư Phật.
“Quảng Ðại Lực thấy rõ môn nầy”. Cảnh giới môn giải thoát nầy vị Quảng Ðại Lực Khẩn Na La Vương hiểu biết được.
Phật trong chúng hội hiện thần thông
Phóng đại quang minh khiến giác ngộ
Hiển bày tất cả cảnh Như Lai
Oai Mãnh Chúa Vương quán sát được.
“Phật trong chúng hội hiện thần thông”. Cõi nước chư Phật trong mười phương, đều có Phật đang chuyển pháp luân, giáo hóa chúng sinh. Tất cả hải hội chúng sinh đều đang nghe pháp ở trong đó, Phật ở trong pháp hội hiện ra đủ thứ thần thông khiến cho chúng sinh tự giác tự ngộ.
“Phóng đại quang minh khiến giác ngộ”. Phật phóng quang minh trí huệ Bát Nhã, chiếu soi tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều đắc được đại trí huệ quang minh, và chánh tri chánh kiến, khiến cho họ đều được giác ngộ.
“Hiển thị tất cả cảnh Như Lai”. Phật dùng đủ thứ thần thông, hiển hiện ra cảnh giới của Phật. Cảnh giới của Phật như hư không, khó đo lường được.
“Oai Mãnh Chúa Vương quán sát được”. Cảnh giới nầy vị Oai Mãnh Chúa Khẩn Na La Vương quán sát được, hiểu được.
Lại nữa, Ðại Tốc Tật Lực Ca Lâu La Vương, được môn giải thoát, cặp mắt vô trước vô ngại, quán sát khắp tất cả chúng sinh.
Tiếp theo ở trên. Vị Ðại Tốc Tật Lực Ca Lâu La Vương (Ca Lâu La dịch là “Ðại Bàng Kim Sí điểu”, vì cánh của nó dài ba trăm ba chục do tuần). Vị nầy đắc được cặp mắt vô trước vô ngaị của Phật, đều quán sát được tận hư không khắp pháp giới. Vị nầy quán sát được nhân duyên cuả tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới. Ðó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Ðại Bàng Kim Sí điểu hàng phục được rồng. Khi rồng thấy đại bàng thì hết lối thoát, chỉ chờ bị bắt ăn. Trên thế giới nầy, một vật hàng phục được một vật. Khi sư tử hống lên thì trăm loài đều sợ. Chim đại bàng hiện lên thì rồng run sợ. Cánh chim đại bàng không những rộng lớn, mà còn có sức mạnh, chỉ cần quạt một cái, thì nước biển rẽ làm hai, rồng hết số thì lộ nguyên hình, bị chim đại bàng hớp một cái, thì chạy tuột vào bụng. Một ngày chim đại bàng ăn một con rồng lớn, và trăm con rồng nhỏ, ngày nào cũng thế, cho nên loài rồng sớm bị tuyệt nòi. Lúc đó, Long Vương sinh tâm sợ hãi, nếu kéo dài như thế nầy, thì quyến thuộc của ta chẳng phải là bị ăn sạch chăng ? Làm sao mà truyền tông tiếp đại ? Rồng con rồng cháu không cách chi tiếp nối lâu dài. Do đó, Long Vương bèn đến chốn Phật cầu cứu, xin Phật từ bi. Phật bèn cho một tấm y cà sa, nói với Long Vương rằng : “Ông đem tấm y cà sa nầy về, rút ra từng sợi tơ, cột vào mỗi con rồng thì không còn bị chim đại bàng bắt ăn nữa”. Quả nhiên hiệu nghiệm, do đó, Long Vương vui mừng, quy y Tam Bảo, làm thần hộ pháp.
Nhờ vậy loài rồng được sinh tồn, nhưng chim đại bàng bị đói, cũng đến chốn Phật cầu cứu, nói với Phật : “Thế Tôn ! Ngài từ bi đối với loài rồng, mà không từ bi đối với chim đại bàng. Bây giờ chúng tôi chẳng có gì ăn, chắt sớm phải chết mất”. Phật nói : “Ngươi phải phát nguyện, đừng ăn rồng nữa, mỗi ngày ăn cơm thì ta dạy đệ tử thí cho nhà ngươi ít cơm”. Cho nên bây giờ ăn quả đường thì phải thí ít cơm cho đại bàng, đọc rằng :
“Ðaị bàng Kim Sí điểu,
Khoáng dã quỷ thần chúng,
La Sát qủy tử mẫu,
Cam lồ tất sung mãn”.
Ðó là nhân duyên về Ca Lâu La.
Bất Khả Hoại Bảo Kế Ca Lâu La Vương, được môn giải thoát, an trụ khắp pháp giới giáo hoá chúng sinh.
Vị Bất Khả Hoại Bảo Kế Ca Lâu La Vương, khiến cho tất cả pháp giới chúng sinh, đều đắc được bình an và khoái lạc, chẳng có chút phiền não âu lo. Ðó là đức Phật ở dưới cội Bồ Ðề đạo tràng, trong mười phương pháp giới, để giáo hoá chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được cảnh giới lìa khổ được vui. Mục đích của bậc Thánh nhân thiết giáo, là độ chúng sinh. Các Ngài đem đạo lý sở ngộ của mình, nói với chúng sinh, khiến cho chúng sinh y pháp tu hành, thì chắc chắn được giải thoát. Vị Ca Lâu La Vương nầy đắc được môn giải thoát nầy.
Thanh Tịnh Tốc Tật Ca Lâu La Vương, được môn giải thoát, khắp thành tựu sức tinh tấn Ba la mật.
Vị Thanh Tịnh Tốc Tật Ca Lâu La Vương nầy, khiến khắp tất cả chúng sinh đều được thành tựu. Vị nầy không ích kỷ lợi mình, cũng chẳng có tư tưởng người tiểu thừa, mà muốn đem môn giải thoát thành tựu Ba La Mật tinh tấn lực, của mình đắc được để giáo hóa chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh cũng đắc được sự thành tựu nầy.
Ba La Mật dịch là “đến bờ kia”. Bờ kia là gì ? Tức là từ bờ sinh tử bên nầy, qua dòng phiền não, đạt đến bờ Niết Bàn bên kia. Hoặc có thể nói cách khác; tập quán người Ấn Ðộ là bất cứ làm việc gì xong, cũng đều gọi là Ba La Mật.
Người tu hành, tu thành công rồi cũng gọi là Ba La Mật. Bổn lai có phiền não nhưng bây giờ không còn phiền não nữa, cũng gọi là Ba La Mật. Ba La Mật nầy, phải có sức tinh tấn để trợ giúp mới thành tựu được, bằng không chẳng đắc được Ba La Mật. Bạn muốn đắc được Ba La Mật chăng ? Bạn muốn thành tựu chăng ? Vậy phải dũng mãnh tinh tấn tu hành.
Vị Ca Lâu Na Vương nầy, đắc được môn giải thoát nầy, làm thế nào đắc được ? Là do thấy Phật nghe pháp tu hành mà đắc được.
Chúng ta nghe mỗi câu Kinh Hoa Nghiêm rồi, phải hồi quang phản chiếu, kiểm thảo chính mình, có tương ưng với pháp môn nầy chăng ? tu được pháp môn nầy chăng ? tu pháp môn nầy đắc được giải thoát chăng ? ta muốn được môn giải thoát hay là muốn được môn phiền não ? Ðừng nên suốt ngày đến tối, mở cửa phiền não mà đóng cửa giải thoát, nếu như vậy thì chẳng bao giờ đắc được môn giải thoát.
Nghe pháp nghe Kinh thì phải y theo pháp mà tu hành. Nếu không y theo pháp tu hành, thì nghe Kinh nghe pháp chẳng ích lợi gì. Pháp không cần nghe nhiều, nghe nhiều ngược lại không chú trọng. Phải có mắt chọn pháp, lựa pháp môn nào hợp với mình, thì tu môn giải thoát đó, do đó :”chuyên nhất thì linh, phân chia thì tán”. Ở trên đã giảng qua rất nhiều môn giải thoát, nghe càng nhiều thì càng không muốn giải thoát, đó là hoàn toàn sai lầm, cô phụ tông chỉ cuả chư Phật diễn nói Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật.
Bất Thối Tâm Trang Nghiêm Ca Lâu La Vương, được môn giải thoát, sức dũng mãnh nhập vào cảnh giới của Như Lai.
Vị Bất Thối Tâm Trang Nghiêm Khẩn Na La Vương nầy, bất cứ gặp cảnh giới gì, đều không thối tâm, có người đối với vị nầy không tốt, vị nầy cũng không sinh phiền não, hoặc là phỉ báng, vị nầy cũng không thối bồ đề tâm. Không những chẳng thối tâm, ngược lại còn tinh tấn dũng mãnh, còn trang nghiêm cõi nước chư Phật. Vị nầy đắc được sức dũng mãnh, nếu thiên ma ngoại đạo đến đấu tranh với vị nầy, thì vị nầy nhất định sẽ thắng. Vị nầy có tâm bất thối, toại tâm mãn nguyện, nhập vào cảnh giới của Phật, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Ðại Hải Xứ Nhiếp Trì Lực Ca Lâu La Vương, được môn giải thoát, vào biển trí huệ hạnh rộng lớn của phật.
Vị Ðại Hải Xứ Nhiếp Trì Lực Ca Lâu La Vương nầy, trí huệ như biển cả, nhiếp chúng sinh vào trong pháp giới cuả Phật. Vì thâm nhập hạnh môn của Phật, tu pháp môn biển trí huệ hạnh rộng lớn, cho nên đắc được môn giải thoát, cạn sạch biển phiền não của chúng sinh.
Kiên Pháp Tịnh Quang Ca Lâu La Vương, được môn giải thoát, thành tựu vô biên trí sai biệt của chúng sinh.
Vị Kiên Pháp Tịnh Quang Ca Lâu La Vương nầy, tại nhân địa, thì tâm cầu pháp rất kiên cố, do đó những gì khó thực hành mà làm được, việc khó nhẫn mà nhẫn được, dùng tâm kiên cố để cầu phật pháp, đắc được quang minh thanh tịnh, cho nên gọi là kiên cố tịnh quang. Vị nầy đắc được cảnh giới : bất cứ một loài chúng sinh nào có cầu thì tất ứng, không những thành tựu được một chúng sinh mà thành tựu được tất cả chúng sinh.
Trí sai biệt là gì ? Tức là mỗi một loài chúng sinh đều có trí huệ của họ, giống loại chúng sinh khác nhau, cho nên trí huệ của họ cũng khác nhau. Hoặc có thể nói, mỗi một loài chúng sinh, có thể đắc được trí huệ sai biệt, mà mình đáng đắc được, nghĩa là tùy loại chúng sinh đắc được sự hiểu biết của mỗi loài. Hoặc có thể nói trí huệ sai biệt, tức là trạch pháp nhãn, dùng trí huệ sai biệt để lựa chọn pháp môn mà mình thích, và pháp môn tương ưng với mình. Tóm lại, trí sai biệt tức là trí huệ khác nhau. Vị Ca Lâu La Vương nầy, đắc được môn giải thoát nầy.
Diệu Nghiêm Quan Kế Ca Lâu La Vương, được môn giải thoát, trang nghiêm pháp thành của Phật.
Vị Diệu Nghiêm Quan Kế Ca La Vương nầy, đội mão không những tốt đẹp mà còn trang nghiêm, khiến cho người thấy sinh tâm hoan hỉ, cho nên chúng sinh đều muốn thấy vị nầy đội mão. Vị nầy khéo trang nghiêm tất cả đạo tràng của chư Phật, đạo tràng có nhiều loại khác nhau. Có đạo tràng giảng Kinh, đạo tràng tụng Kinh, đạo tràng dịch Kinh, đạo tràng phát hành Kinh sách .v.v. Tóm lại, phàm là nơi trụ xứ cuả chư Phật đều là pháp thành của Phật. Vị Khẩn Na La Vương nầy, trang nghiêm pháp thành của Phật đặc biệt thanh tịnh, đặc biệt trang nghiêm, đặc biệt thù thắng, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Phổ Tiệp Thị Hiện Ca Lâu La Vương, được môn giải thoát, thành tựu sức bình đẳng không thể hoại.
Vị Phổ Tiệp Thị Hiện Ca Lâu La Vương, thành tựu được sức đại từ bình đẳng, không thể phá hoại được, kiên cố như kim cang. Vị nầy có tư tưởng vô duyên đaị từ, đồng thể đại bi. Nơi nào vị nầy đến, đều khai thị chúng sinh, tương lai đều sẽ thành Phật,đó là môn giải thoát vị nầy được.
Phổ Quán Hải Ca Lâu La Vương, được môn giải thoát, biết rõ tất cả thân chúng sinh mà vì họ hiện hình.
Vị Phổ Quán Hải Ca Lâu La Vương, quán sát khắp biển phiền não, biển trí huệ, biển nghiệp lực, biển phước báu cuả chúng sinh, tức cũng là quán sát khắp tất cả biển của chúng sinh.
Vị nầy còn biết rõ tất cả thân của chúng sinh, y theo loài mà hiện hình, để giáo hóa các loài chúng sinh. Ví như thấy thân chư thiên, thì hiện thân chư thiên để vì họ thuyết pháp. Thấy thân người thì hiện thân người, mà vì họ thuyết pháp. Thấy thân A Tu La, thì hiện thân A Tu La, mà vì họ thuyết pháp, cho đến thấy thân chúng sinh địa ngục, thì hiện thân chúng sinh điạ ngục, mà vì họ thuyết pháp. Tóm lại, thấy thân chúng sinh nào thì hiện ra thân đó, để vì họ mà thuyết pháp, khiến cho tất cả chúng sinh lìa khổ đươc vui, bỏ mê về giác, tu đạo Bồ Ðề, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Long Âm Ðại Mục Tinh Ca Lâu La Vương, được môn giải thoát, trí hạnh vào khắp sinh tử của tất cả chúng sinh.
Vị Long Âm Ðại Mục Tinh Ca Lâu La Vương nầy, vì ăn rồng quá nhiều, cho nên âm thanh biến thành âm thanh của rồng, do đó âm thanh rất vang dội. Mắt của vị nầy cũng biến thành mắt rồng. Nhãn châu của rồng sinh ở bên ngoài, cho nên gọi là Long Âm Ðại Mục Tinh.
Vị nầy biết rõ tất cả chúng sinh, lúc sinh tạo nghiệp gì thì chết rồi thọ quả đó. Vị nầy đắc được trí huệ quán sát, biết đuợc nhân duyên quả báo của tất cả chúng sinh, vì vị nầy hiểu được đạo lý nầy, cho nên khéo vì chúng sinh nói pháp, khiến cho tất cả chúng sinh đồng thời cũng đắc được môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Bấy giờ, Ðại Tốc Tật Lực Ca Lâu La Vương, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Ca Lâu La mà nói ra bài kệ.
Khi vị Long Âm Ðại Mục Tinh Ca Lâu La Vương, nói xong môn giải thoát của mình đắc được, thì vị Ðại Tốc Tật Lực Ca Lâu La Vương, mới nương đại oai thần lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Ca Lâu La mà nói kệ rằng.
Mắt Phật rộng lớn không bờ mé
Thấy khắp các cõi nước mười phương
Chúng sinh trong đó không thể lường
Hiện đại thần thông để điều phục.
“Mắt Phật rộng lớn không bờ mé”. Mắt của Phật rộng lớn chẳng có bờ mé. Trong bài tán Di Ðà có nói : “Cám mục trừng thanh tứ đại hải”. Nghĩa là mắt của Phật Di Ðà màu sắc xanh biết, thấu suốt nước trong bốn biển, cũng có thể nói là : bốn biển rộng lớn như thế, mà mắt của Phật còn lớn hơn so với bốn biển, nói thật ra tìm chẳng được bờ mé.
“Hiện khắp các cỏi nước mười phương”. Vì mắt Phật rộng lớn, cho nên thấy khắp các cõi Phật trong mười phương. Chúng sinh trong mỗi cõi nước đang làm gì, Phật đều thấy rõ ràng.
“Chúng sinh trong đó không thể lường”. Chúng sinh trong mười phương cõi Phật nhiều chẳng có số lượng, không thể tính được.
“Hiện đại thần thông để điều phục”. Tuy nhiên là vô lượng, nhưng Phật dùng đại thần thông để điều phục tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều quy y Tam Bảo, phát tâm Bồ Ðề, thì tương lai sẽ thành tựu quả Bồ Ðề.
Thần thông của Phật chẳng gì ngại
Ngồi cội bồ đề khắp mười phương
Nói pháp như mây đều đầy khắp
Bảo Kế nghe rồi tâm dứt nghi.
“Thần thông của Phật không gì ngại”. Sức thần thông diệu dụng cuả tất cả chư Phật trong mười phương, chẳng có chướng ngại mảy may nào, tùy theo tâm thích mà vận động tự tại.
“Ngồi cội Bồ Ðề khắp mười phương”. Phật thì ngồi dưới cội Bồ Ðề, trong các cõi Phật trong mười phương mà ngộ đạo, giác ngộ nghiã chân thật cuả tất cả pháp, là do duyên mà sinh, do duyên mà diệt mà thành quả vị Phật.
“Nói pháp như mây đều đầy khắp”. Phật diễn nói diệu pháp, giống như mây trong hư không, đầy khắp pháp giới, khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được đượm nhuần mây pháp, đắc được mát mẻ, an vui, tự tại, pháp mà chúng sinh đáng đắc được đều đắc được.
“Bảo Kế nghe rồi tâm dứt nghi”. Vị Bất Khả Hoại Bảo Kế Ca Lâu La Vương, nghe rồi thì trong tâm không còn hoài nghi nữa, cũng chẳng trái với đạo lý nầy, mà thấy rõ pháp môn nầy.
Phật trong quá khứ tu các hạnh
Tịnh khắp Ba la mật rộng lớn
Cúng dường tất cả các Như Lai
Thanh tịnh Tốc Tật tin hiểu sâu.
“Phật trong quá khứ tu các hạnh”. Phật thuở xa xưa tu đủ thứ khổ hạnh, tức là khó thực hành, mà thực hành được, khó nhẫn mà nhẫn được, khó chịu mà chịu được, khó ăn mà ăn được. Những pháp môn nầy Ngài đều tu được.
“Tịnh khắp Ba La Mật rộng lớn”. Phật tu khắp các môn Ba La Mật thanh tịnh rộng lớn. Ba La Mật làm được viên mãn, cứu kính rồi, thì đạt được bờ bên kia tịnh khắp rộng lớn.
“Cúng dường tất cả các Như Lai”. Phật cúng dường mười phương tất cả chư Phật, dùng thân tâm tánh mạng để cúng dường chư Phật, khi Phật tại nhân điạ thì tu đủ thứ công đức cúng dường.
“Thanh Tịnh Tốc Tật tin hiểu sâu”. Pháp môn giải thoát nầy, vị Thanh Tịnh Tốc Tật Ca Lâu La Vương, tin hiểu thâm sâu.
Trong mỗi lỗ lông của Như Lai
Một niệm hiện khắp vô biên hạnh
Như vậy khó nghĩ cảnh giới Phật
Bất Thối Trang Nghiêm đều thấy rõ.
“Trong mỗi lỗ lông của Như Lai”. Trong mỗi lỗ lông của Như Lai, có thể dung nạp mười phương vô lượng vô biên thế giới, đó là đạo lý : trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ.
“Một niệm hiện khắp vô biên hạnh”. Tức trong khoảng một niêm, hiện khắp mười phương thế giới. Vô biên hạnh môn của Phật tu đều hiện ra.
“Như vậy khó nghĩ cảnh giới Phật”. Như ở trên có nói : nhỏ dung lớn được, lớn dung nhỏ được, lớn nhỏ hổ tương vô ngại ; nhiều ít hổ tương vô ngại, thời gian dài ngắn hổ tương vô ngại, đó đều là đạo lý không thể nghĩ bàn, cho nên gọi là khó nghĩ. Cảnh giới nầy không thể nghĩ bàn, diệu không thể tả. Cảnh giới nầy vi diệu khó nghĩ, tức là cảnh giới của Phật.
“Bất Thối Trang Nghiêm đều thấy rõ”. Vị Bất Thối Tâm Trang Nghiêm Ca Lâu La Vương nầy, hoàn toàn thấy rõ cảnh giới nầy, hoàn toàn chứng nhập môn giải thoát nầy.
Hạnh Phật rộng lớn không nghĩ bàn
Tất cả chúng sinh chẳng dò được
Ðạo sư biển công đức trí huệ
Là nơi tu hành của Chấp Trì.
“Hạnh Phật rộng lớn không nghĩ bàn”. Phật tu hành đủ thứ hạnh môn, gồm tám vạn bốn ngàn pháp môn, Phật đều tu hành viên mãn, cho nên nói : khắp đại đîa, chẳng có một hạt bụi nào, chẳng phải là chỗ xả bỏ thân mạng của chư Phật, tức cũng là nơi chư Phật hành Bồ Tát đạo. Phật hành Bồ Tát đạo, là lợi ích chúng sinh. Dù chúng sinh ác, Phật cũng nguyện cứu độ họ, lợi ích họ.
Khi Phật trong quá khứ tu Bồ Tát đạo, thì gặp con chim ưng đang diệt con chim cáp, con chim cáp bay đến trước người tu hành khẩn cầu người tu hành bảo hộ (người tu hành đó là tiền thân của Phật Thích Ca tại nhân địa hành Bồ tát đạo). Phật từ bi giấu che chở cho con chim cáp. Lúc đó, chim ưng bay đến trước mặt Phật, nói với đức Phật : “Ngài cứu tính mạng con chim cáp, nhưng tôi chẳng có thịt ăn, chắt phải chết đói. Ngài làm như thế là từ bi bình đẳng chăng” ? Vị tu hành nghe chim ưng nói, mới đáp lại : “Ngươi muốn ăn thịt chăng ? Ðược, ta sẽ lóc thịt thân của ta cho ngươi ăn”. Nói xong, vị tu hành lấy dao lóc thịt thân của mình để cho chim ưng ăn, ăn xong miếng nầy đến miếng khác, ăn hết thịt thân của vị tu hành cũng chẳng no. Vị tu hành lóc hết thịt toàn thân của mình, nhưng tơ hào chẳng đổi ý, đến khi chẳng còn thịt để lóc nữa, thì chim ưng bay vụt lên không trung, hiện ra thân trời Ðế Thích mà đi. Nguyên lai là trời Ðế Thích đến thử thách đạo hạnh của vị tu hành như thế nào !
Lão tu hành lúc đó vì hành Bồ Tát đạo mà lóc thịt thí cho chim ưng, chẳng có xí đồ ích kỷ lợi mình, cho nên thịt cắt đi khôi phục lại như cũ. Chúng ta là người tu đạo, phải học tinh thần của Phật xả mình vì người. Hành Bồ Tát đạo là lợi ích chúng sinh, chớ chẳng phải lợi mình. Tóm lại, làm lợi ích cho chúng sinh tức là Bồ Tát, còn lợi ích cho mình là ma quỷ.
Còn có một chuyện nữa, thuở xưa khi Phật tu Bồ Tát đạo, thì xả thân cứu cọp đói. Tinh thần vì pháp quên mình nầy, khiến cho người kính phục vô cùng ! Câu chuyện như thế nầy, một ngày nọ trời rơi tuyết phủ trắng xoá khắp nơi. Cho nên động vật bị tuyết làm khốn khổ, không cách chi tìm vật ăn được. Lúc đó, Phật Thích Ca đang tĩnh tọa dưới gốc cây, xa thấy dưới núi có con cọp mẹ dẫn hai cọp con đi khắp nơi tìm vật ăn, đói đến kiệt sức, đi cũng chẳng còn sức để đi. Hai con cọp con theo bên cọp mẹ, thật đáng thương xót ! Phật thấy hoàn cảnh như vậy, phát tâm từ bi, nguyện đem thân mình bố thí cho cọp mẹ cọp con làm thức ăn, do đó chẳng nghĩ gì nữa, bèn chạy đến trước mặt cọp, cúng dường cho cọp. Vì nguyên nhân như vậy, mới nói hạnh của Phật rộng lớn, không thể nghĩ bàn.
“Tất cả chúng sinh không dò được”. Tất cả hết thảy chúng sinh, đều không thể đo lường được hạnh của Phật tu hành như thế nào. Vì chúng sinh chẳng khai mở mắt trí hụê, cho nên chẳng thấu suốt được việc qúa khứ. Nếu ai khai mở ngũ nhãn thì biết rõ, thấy rõ.
“Ðạo Sư biển công đức trí huệ”. Phật là đại Ðạo sư tiếp dẫn chúng sinh, không những là Ðạo sư chúng sinh nhân gian, mà còn là Ðạo sư của chúng sinh các cõi trời, cho nên được xưng là Thiên Nhân Sư. Công đức và trí huệ cuả Phật rộng lớn vô biên như biển cả.
“Là nơi tu hành của Chấp Trì”. Cảnh giới nầy là nơi tu hành cuả Ðại Hải Xứ Chấp Trì Lực Ca Lâu La Vương, vị nầy chứng nhập môn giải thoát nầy.
Như Lai vô lượng trí huệ quang
Diệt lưới si hoặc của chúng sinh
Cứu hộ hết thảy các thế gian
Kiên Pháp Tịnh Quang được môn nầy.
“Như Lai vô lượng trí huệ quang”. Trí huệ quang minh của Phật vô lượng vô biên, chiếu khắp tất cả, do đó : “Phật quang phổ chiếu”. Trí huệ quang minh của Phật, siêu hơn ánh sáng mặt trời, quang minh của Phật, không có nơi nào mà chẳng chiếu, chẳng có nơi nào mà không có, tận hư không khắp pháp giới.
“Diệt lưới si hoặc của chúng sinh”. Phật dùng vô lượng trí huệ quang, để tiêu diệt lưới ngu si và hoặc nghiệp của chúng sinh. Chúng sinh tại thế gian bị lưới ngu si, lưới phiền não, lưới tạo nghiệp trói chặt, không cách chi thoát khỏi ba cõi.
“Cứu hộ hết thảy các thế gian”. Phật đại từ bi, dùng vô lượng trí huệ quang minh, cứu tất cả hữu tình chúng sinh thế gian, khiến cho họ đều được giải thoát, vĩnh viễn lìa khỏi lưới sinh tử.
“Kiên Pháp Tịnh Quang được môn này”. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Kiên Pháp Tịnh Quang đắc được.
Pháp thành rộng lớn không cùng tận
Ðủ thứ pháp môn không số lượng
Phật ở nơi đời đại khai xiển
Diệu Quan Kế thấu rõ môn nầy.
“Pháp thành rộng lớn không cùng tận”. Pháp thành tức là thành hoằng dương Phật pháp. Pháp thành nầy là chỉ tất cả đạo tràng. Tất cả đạo tràng là pháp thành cuả Phật. Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm, giảng Kinh hơn ba trăm hội. Kiến lập pháp thành khắp nơi, khắp nơi thổi pháp loa lớn, đánh trống pháp lớn, kiến pháp tràng lớn, chuyển đại pháp luân. “Kiến pháp tràng ư xứ xứ, phá võng nghi ư trùng trùng”. Cho nên nói pháp thành rộng lớn không cùng tận.
“Ðủ thứ pháp môn không số lượng”. Pháp thành nầy cứu kính có bao nhiêu môn ? chẳng có số lượng. Nói tổng quát, có tám vạn bốn ngàn pháp môn, môn nào cũng thẳng đến quả vị Phật.
“Phật ở nơi đời đại khai xiển”. Phật ở tại thế giới nầy, kiến lập đại pháp thành, khai xiển pháp yếu rộng lớn, khiến cho chúng sinh liễu sinh thoát tử, cứu kính thành Phật.
“Diệu Nghiêm Quan Kế rõ môn nầy”. Cảnh giới môn giải thoát nầy vị Diệu Nghiêm Quan Kế Ca Lâu La Vương thấy rõ được.
Tất cả chư Phật một pháp thân
Chân như bình đẳng chẳng phân biệt
Phật dùng lực nầy thường an trụ
Phổ Tiệp diễn nói đủ môn nầy.
“Tất cả chư Phật một pháp thân”. Mười phương ba đời tất cả chư Phật, đều cùng một pháp thân. Pháp thân của Phật chẳng có phân biệt. Giống như tất cả ánh sáng của đèn đều là một tên. Tên với tên đó đây chẳng phân biệt. Tóm lại, tên của bạn là tên của tôi, tên của tôi là tên của bạn, cho nên nói tất cả chư Phật một pháp thân.
Pháp thân của Phật giống như tên đèn không khác. Trí huệ quang của Phật đều là một, âm thanh của Phật cũng là một, cho nên Phật với Phật, đó đây chẳng có phân biệt.
“Chân như bình đẳng không phân biệt”. Tánh của Phật là chân như, cũng là bình đẳng. Chân như bình đẳng chẳng có phân biệt, đều là một. Phật chẳng giống chúng ta, phân này chia nọ, có người, có ta, có chúng sinh, có thọ mạng. Phật thì tất cả đều bình đẳng.
“Phật dùng lực nầy thường an trụ”. Phật dùng sức lực chân như bình đẳng, chẳng có cảnh giới phân biệt, thường an trụ vào trong cảnh giới nầy.
“Phổ Tiệp diễn nói đủ môn nầy”. Vị Phổ Tiệp Thị Hiện Ca Lâu La Vương, diễn nói đầy đủ được môn giải thoát nầy.
Phật trong các cõi nhiếp chúng sinh
Khắp phóng quang minh chiếu thế gian
Ðủ thứ phương tiện hiện điều phục
Quán Hải ngộ được thắng pháp nầy.
“Phật trong các cõi nhiếp chúng sinh”. Phật trong quá khứ cũng dùng : cõi dục giới, cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, pháp phương tiện các cõi, để nhiếp hóa chúng sinh.
“Khắp phóng quang minh chiếu thế gian”. Phật khắp phóng đại quang minh, soi sáng tất cả thế gian. Taị sao ? Vì Phật muốn phổ độ tất cả chúng sinh thoát khỏi biển khổ, mà đắc được an lạc vĩnh cửu.
“Ðủ thứ phương tiện hiện điều phục”. Phật dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để điêù phục tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh cải tà quy chánh, khử vọng tồn chân, bỏ mê về giác, đồng quy về đại đạo Bồ Ðề.
“Quán Hải ngộ được thắng pháp nầy”. Pháp môn thù thắng đặc biệt nầy, vị Phổ Quán Hải Ca Lâu La Vương ngộ nhập được.
Phật quán tất cả các cõi nước
Ðều nương biển nghiệp mà an trụ
Khắp mưa pháp vũ ở trong đó
Giải thoát nầy của Long Âm Vương.
“Phật quán tất cả các cõi nước”. Phật dùng mắt trí huệ, để quán sát tất cả cõi nước cuả chư Phật trong mười phương. Tất cả chúng sinh trong cõi nước, đều trôi nổi trong biển sinh tử, không biết đạo lý : “biển khổ vô biên, hồi đầu là bờ”.
“Ðều nương biển nghiệp mà an trụ”. Tất cả cõi nước, đều nương biển nghiệp mà an trụ, đều do nghiệp của chúng sinh tạo thành, chúng sinh trôi nổi bất định ở trong biển nghiệp, trôi nổi theo nghiệp mà chịu sinh tử. Sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh. Nay sinh ra là họ Trương, sau sinh ra là họ Lý, chẳng khi nào dứt, luôn luôn chuyển đi chuyển lại ở trong luân hồi. Làm việc thiện, thì sinh vào ba đường lành. Làm việc ác thì sinh vào ba đường ác.
“Khắp mưa pháp vũ ở trong đó”. Phật khắp vì chúng sinh mà thuyết pháp, giống như mưa, khiến cho chúng sinh đều đắc được sự thấm nhuần của pháp vũ, hoặc là biển nghiệp như lửa, mưa Phật Pháp khiến cho chúng sinh đắc được mát mẻ.
“Giải thoát nầy cuả Long Âm Vương”. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Long Âm Ðại Mục Tinh Ca Lâu La Vương, hiểu rõ biết được.
Lại nữa, La Hầu A Tu La Vương, được môn giải thoát, hiện làm chủ tôn thắng trong đại hội.
Vị La Hầu A Tu La Vương nầy, La Hầu dịch là “nhiếp não”. Vì vị nầy dấu tay che mặt trời mặt trăng, khiến cho chư Thiên buồn bực. Vị nầy minh bạch được, đức Phật thị hiện làm chủ thuyết pháp, trong tất cả pháp hội, vị nầy đắc được cảnh giới nầy, và cũng nhập vào môn giải thoát nầy.
Môn giải thoát chỉ là ví dụ, giống như là có môn giải thoát, thật ra chẳng phải thật sự có môn giải thoát. Nếu có môn (cửa), thì chẳng phải là giải thoát, vì có sự chấp trước. Do đó, vào môn giải thoát là vào mà không vào, không vào mà vào. Môn giải thoát là chẳng có gì để chấp trước, tất cả đều không chấp trước, mới thật sự là môn giải thoát. Nếu như vào cửa (môn) giải thoát thì phải ra cửa (môn) giải thoát, nếu vào được mà không ra được, vậy thì lại bị nhốt, thì cũng không đắc được giải thoát.
A Tu La dịch ra có nhiều nghĩa. Có khi dịch là “phi thiên”, vì chúng có phước trời mà không có đức trời. Lại có lối giải thích khác, phi thiên chẳng phải thần cũng chẳng phải quỷ. Có khi dịch là “vô tửu”, chẳng phải chúng không có rượu uống, mà là uống không đủ, bất cứ uống bao nghiêu cũng không đủ. Có khi dịch là ỡ “vô đoan chánh”, vì nam A Tu La tướng mạo rất xấu xí, mũi thì dài hai thước rưởi, miệng thì rất nhỏ, mắt thì rất to. Tóm lại, rất xấu xí vô cùng, khiến cho người thấy mà sợ hãi, nếu ai thấy được chúng, đều bị dọa nạt phát run hồn bay phách tán, cho nên ai cũng không giám nhìn tôn dung của chúng. Nữ A Tu La thì rất đẹp vô cùng, chúa trời Ðế Thích cõi trời Ðao Lợi, vì tham sắc đẹp mà cầu hôn con gái của vua A Tu La. Vua A Tu La vốn không muốn gả con gái cho trời Ðế Thích, vì giữa họ thường phát sinh chiến tranh, cho nên phản đối về việc nầy, nhưng con gái của vua A Tu La muốn sống với Trời Ðế Thích, cho nên Vua A Tu La đành phải gả cho Trời Ðế Thích làm vợ.
Kết hôn rồi, vợ chồng rất hạnh phúc, nhưng Ðế Thích thường đi các nơi để nghe giảng Kinh thuyết pháp. Có vị tu hành ở trong núi thuyết pháp, Ðế Thích thường đến để nghe pháp, về nhà thì hơi muộn một chút. Vợ của y hoài nghi chồng chẳng trung thực, bèn truy hỏi “Ông đi đâu mà ngày nào cũng đi”? Ðế Thích nói : “Có vị tu hành thuyết pháp, tôi đi nghe pháp”. Vợ của y không tin nói : “Ông chẳng phải đi nghe pháp, chắc chắn có bạn gái, hẹn hò chăng ? lần sau ông đi, tôi cũng đi theo xem thử cứu kính việc như thế nào”? Ðế Thích nói :”Bà đừng đi ! Vì bà quá đẹp, dễ khiến cho người nghe pháp nghĩ tưởng đâu đâu”. Ðế Thích nói thế, càng làm cho vợ sinh tâm nghi ngờ, vợ của y nói : “Ông nhất định có bạn gái, nếu không, tại sao không cho tôi đi “? Do đó vợ của Ðế Thích quyết tâm đi để xem tình hình ra sao.
Ngày thứ hai, Ðế Thích vẫn đến núi nghe pháp, vợ của y là nữ A Tu La có thần thông, do đó dùng pháp ẩn thân đi tham gia pháp hội, Ðế Thích cũng chẳng biết, vợ của y đến đạo tràng, thấy có nam có nữ nhưng nữ nhiều hơn nam mà toàn là phụ nữ đẽp ! cho nên vợ của Ðế Thích đố kị bèn hiện ra nguyên hình. Ðế Thích quay đầu lại nhìn thấy vợ mình theo đến, rất bực mình hỏi y : “Tại sao bà đến đây ? tôi dạy bà đừng đến đây mà”. Nữ A Tu La nóng giận nói : “Tôi đương nhiên phải đến, ở đây có nhiều phụ nữ đẹp, tôi không an tâm cho nên phải đến xem thử”. Lúc đó, Ðế Thích nổi giận mất đi lý trí, bèn cầm mấy cộng hoa sen đánh y thị, không ngờ lần đó bèn khởi đại chiến.
Sau khi vợ cuả Ðế Thích bị đánh, bèn trở về nhà của vua A Tu La khóc, kể lại sự việc xảy ra, vua A Tu La nổi giận, điều binh khiển tướng tấn công Ðế Thích báo cừu cho con gái. Vì binh A Tu La thiện chiến, cho nên binh trời tướng trời của Ðế Thích bị bại. Ðế Thích mới cầu cứu Dức Phật, Phật dạy niệm câu : “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða”. Ðế Thích trở về dạy hết toàn quân niệm câu nầy, quả nhiên đánh bại A Tu La, vua A Tu La đầu hàng, bèn đem con gái trở lại trong cung Ðế Thích.
Chủng loại A Tu La rất nhiều, trên trời có A Tu La, nhân gian có A Tu La, súc sinh có A Tu La, ngạ quỷ cũng có A Tu La. A Tu La có bốn thứ Sinh : A Tu La hóa sinh ở cõi trời, A Tu La thai sinh ở cõi nhân gian, A Tu La noãn sinh ở cõi súc sinh, A Tu La thấp sinh ở cõi ngạ quỷ.
Có khi A Tu La liệt vào trong ba đường lành, vì chúng tu hạ phẩm năm giới thập thiện, cho nên có căn lành. Có khi liệt A Tu La vào bốn đường ác, vì tâm của chúng đố kị quá nặng, tâm đấu tranh quá mạnh. A Tu La trên trời là kẻ trộm trên trời, A Tu La ở nhân gian là kẻ cường hào ác bá ở nhân gian. A Tu La cõi súc sinh là ngựa hại bầy, thứ ngựa A Tu La chẳng giữ quy cụ, chuyên phá hoại ngựa khác, không cắn thì đá, khiến cho bầy ngựa không được yên. Tóm lại, phàm là kẻ thích đấu tranh đều là A Tu La.
Tì Ma Chất Ða La A Tu La Vương, được môn giải thoát, thị hiện vô lượng kiếp.
Vị Tì Ma Chất Ða La A Tu La Vương nầy, Tì Ma dịch là “tơ”, Chất Ða La dịch là “chủng chủng”. Vị A Tu La Vương nầy, dùng một sợi chỉ tơ mà huyễn hoá làm đủ thứ cảnh giới, vị nầy đắc được môn giải thoát, thị hiện vô lượng vô biên kiếp. Tóm lại, Môn giải thoát nầy, bất cứ trong bao nhiêu kiếp, đều tự tại mà không chướng ngại, chẳng có chướng ngại tức là giải thoát.
Xảo Huyễn Thuật A Tu La Vương, được môn giải thoát, tiêu diệt tất cả khổ của chúng sinh, khiến cho họ đắc được thanh tịnh.
Vị Xảo Huyễn Thuật A Tu La Vương, khéo về thuật xảo huyễn biến hóa, huyễn hóa đủ thứ cảnh giới, để tiêu diệt tất cả thống khổ của chúng sinh, khiến cho chúng sinh đắc được thanh tịnh an vui, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Ðại Quyến Thuộc A Tu La Vương, được môn giải thoát, tu tất cả khổ hạnh để tự trang nghiêm.
Vị Ðại Quyến thuộc A Tu La Vương, có rất nhiều công đức, cứu khắp chúng sinh thế gian, cho nên có rất nhiều quyến thuộc, chúng sinh đều nguyện theo vị nầy, được vị nầy bảo hộ. Vị nầy ở tại nhân đîa, thì tu đủ thứ khổ hạnh, hành đủ thứ Bồ Tát đạo, việc người không nhẫn được vị nầy đều nhẫn được. Vị nầy có công đức như thế, không những tự trang nghiêm, mà còn trang nghiêm cho tất cả. Ðó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Bà Trĩ A Tu La Vương, được môn giải thoát, chấn động mười phương vô biên thế giới.
Vị Bà Trĩ A Tu La Vương có oai lực lớn, có thể chấn động mười phương, khiến cho chúng sinh ở trong mộng tỉnh dậy, không còn làm việc điên đảo hồ đồ nữa, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Biến Chiếu A Tu La Vương, được môn giải thoát, đủ thứ phương tiện an lập tất cả chúng sinh.
Vị Biến Chiếu A Tu La Vương nầy, trí huệ quang chiếu khắp tất cả. Vị nầy đắc được đủ thứ phương tiện pháp môn, an lập tất cả chúng sinh, vì có trí huệ của Phật, cho nên quyền, (thiền xảo phương tiện) thật (chân thật) không mê hoặc, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Kiên Cố Hạnh Diệu Trang Nghiêm A Tu La Vương, được môn giải thoát, phương tiện phổ tập căn lành, bất khả hoại thanh tịnh các sự nhiễm ô chấp trước.
Vị Kiên Cố Hạnh Diệu Trang Nghiêm A Tu La Vương, kiên cố hạnh tức là chuyên tu một hạnh môn, vĩnh viễn không thối chuyển. Kiên cố tức là tùy duyên không thay đổi, không thay đổi mà tùy duyên.
Kiên cố tức là dù bị đả kích hoặc nghịch cảnh như thế nào cũng chẳng thối chuyển. Cảnh giới là để khảo nghiệm định lực của người tu đạo. Chỉ tiến về trước, tuyệt đối không thể : một ngày nóng mười ngày lạnh, nếu không thì chẳng khi nào được thành tựu, đừng nói đến kiên cố hạnh.
Vì có kiên cố hạnh rồi, mới có diệu trang nghiêm, không có hạnh kiên cố, thì không có diệu trang nghiêm. Diệu trang nghiêm nầy, là do hạnh kiên cố trang nghiêm mà thành tựu.
Vị A Tu La Vương nầy đắc được phổ tập căn lành bất khả hoại. Phổ tập là phổ biến tích tập hạnh kiên cố. Vì tu hạnh kiên cố, cho nên căn lành không thể hoại, ngày nào cũng tu, lúc nào cũng tu, niệm niệm không bỏ, như thế thì căn lành tăng trưởng, sẽ tiêu diệt căn ác.
Căn ác là gì ? Tức là nhiễm trước. Nhiễm là nhiễm ô, trước là chấp trước. Có tư tưởng không thanh tịnh, thì buông chẳng đặng chấp trước. Chấp trước : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp sáu trần. Tại sao phải chấp trước sáu trần ? Vì : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý sáu căn bị nhiễm ô, bên trong thì nhiễm ô, bên ngoài thì chấp trưóc. Bây giờ làm cho các nhiễm trước thanh tịnh, buông xả đặng thì đắc được môn giải thoát.
Quảng Ðại Nhân Huệ A Tu La Vương, được môn giải thoát, sức đại bi không nghi hoặc.
Vị Quảng Ðại Nhân Huệ A Tu La Vương, được sức lực đại bi, có sự quán sát chánh quyết đối với tất cả sự lý, mà chẳng hoài nghi, vì vị nầy có trí huệ, do đó : “Bi là mẹ của Phật, trí là cha của Phật. Ba đời chư Phật, đều từ đại bi sinh ra”. Chúng ta học Phật Pháp thì trước hết phải học bi, kế tiếp thì học trí, bi trí đầy đủ mới thành tựu. Bi là tâm đồng tình, trí là về kỷ thuật. Ví như có người rớt xuống sông, có tâm đồng tình mà không có kỹ thuật (không biết bơi), ở trên bờ la cứu người thì chẳng ích gì, phải có kỹ thuật biết bơi, mới cứu được người rớt xuống nước. Có người chẳng có tâm trắc ẩn, song, biết bơi nhưng không động lòng. Tư tưởng như thế chẳng làm gì được. Cho nên, chúng ta phải có bi trí song toàn, mới lợi ích người được. Nên nhớ ! Tương lai phải hoằng pháp lợi sinh, đừng tham sí đồ danh văn lợi dưỡng.
Hiện Thắng Ðức A Tu La Vương, được môn giải thoát, khiến khắp chúng sinh thấy Phật, thừa sự cúng dường tu các căn lành.
Vị Hiện Thắng A Tu La Vương, thực hành pháp môn cúng dường tu thiện, có công đức thù thắng. Vị nầy trong quá khứ, hay khiến cho chúng sinh thấy được Phật, phát nguyện thừa sự cúng dường, mười phương ba đời tất cả chư Phật, tu tất cả căn lành, làm tất cả công đức, căn lành càng tu thì càng sâu, công đức càng làm thì càng nhiều, căn sâu đức nhiều thì thành Phật. Vị nầy minh bạch đạo lý nầy mà vào môn giải thoát nầy.
Thiện Âm A Tu La Vương, được môn giải thoát, hạnh quyết định bình đẳng vào khắp tất cả các cõi.
Vị Thiện Âm A Tu La Vương, vì khéo thuyết pháp, có âm thanh rất hay, khiến cho người nghe vui mừng, y pháp phụng hành, cho nên vị nầy vào được khắp tất cả các cõi. Vì chúng sinh đều có Phật tánh, cho nên đều bình đẳng, vị nầy hành môn giải thoát nầy, mà đắc được giải thoát.
Bấy giờ, La Hầu A Tu La Vương, nương oai lực của đức Phật, quán khắp tất cả chúng A Tu La mà nói kệ.
Lúc đó, vị Nhiếp Não A Tu La Vương, nương đại oai thần lực gia bị của chư Phật, quán sát khắp tất cả chúng A Tu La, mà nói kệ tán thán công đức cuả Phật.
Mười phương tất cả chúng rộng lớn
Phật ở trong đó thù đặc nhất
Quang minh chiếu khắp đồng hư không
Hiện khắp trước tất cả chúng sinh.
“Mười phương tất cả chúng rộng lớn”. Mười phương là : Ðông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, trên và dưới, cộng thành mười phương. Mười phương tất cả chúng sinh rộng lớn, bao quát : Thai, noãn, thấp, hóa, phi, tiềm, động, thực, tất cả hữu tình và vô tình. Chúng sinh hữu tình là động vật có huyết khí, chúng sinh vô tình là sơn hà đại điạ, hoa cỏ thụ mộc.
“Phật ở trong đó thù đặc nhất”. Ðức Phật ở trong tất cả chúng sinh, khắp mười phương rộng lớn thù thắng đặc biệt nhất. Vì chỉ có Phật mới minh bạch được đạo lý cứu kính thật tướng của các pháp.
“Quang minh chiếu khắp đồng hư không”. Quang minh của Phật chiếu sáng khắp mười phương thế giới. Quang của Phật là bình đẳng, Phật chẳng có tâm phân biệt. Bất cứ chúng sinh thiện hay ác, hoặc chúng sinh không thiện không ác, Phật đều không bỏ, đều chiếu khắp, do đó Phật quang phổ chiếu, cứu hộ chúng sinh. Quang minh của Phật đồng hư không, vì trong hư không bao la vạn tượng, chẳng có gì mà không có, chẳng có gì mà không bao, chẳng có gì mà không dung, chẳng có gì mà không nạp.
“Hiện khắp trước tất cả chúng sinh”. Quang minh của Phật, hiện khắp trước tất cả chúng sinh. Chúng sinh thấy được quang cuả Phật, bèn phát tâm bồ đề mà được độ, chúng sinh nhờ quang minh của Phật tiếp dẫn, mà lìa khổ được vui, thẳng đến bờ kia, đắc được giải thoát.
Trăm ngàn vạn kiếp các cõi Phật
Trong một Sát na đều hiện rõ
Phóng quang hóa độ khắp hết thảy
Tỳ Ma vui khen cảnh giới nầy.
“Trăm ngàn vạn kiếp các cõi Phật”. Thời gian trăm ngàn vạn kiếp rất dài, Phật ở trong vô lượng các cõi Phật, thành Phật giáo hóa chúng sinh mà không ngừng nghỉ.
“Trong một Sát na đều hiện rõ”. Thời gian rất ngắn trong một Sát na, Phật làm cho thời gian dài vô lượng kiếp, và vô lượng các cõi Phật đều hiện ra, do đó :
“Thu vô lượng kiếp làm một niệm,
Kéo dài một niệm làm vô lượng kiếp”.
Mười phương các cõi Phật, hiện ở trong một hạt bụi, đó là cảnh giới :
“Nhỏ dung được lớn,
Lớn vào được nhỏ,
Lớn nhỏ vô ngại,
Một nhiều vô ngại”.
Ðạo lý nầy, chẳng phải một số người phàm phu hiểu biết được, khi người khai mở ngũ nhãn rồi, thì thấy sự việc rõ ràng, là cảnh giới bình đẳng, chẳng có gì kỳ lạ hết.
“Phóng quang hóa độ khắp hết thảy”. Phật phóng quang minh, chiếu soi tất cả chúng sinh, hóa độ tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh đắc được quang minh của Phật gia bị, bỏ mê về giác. Quang minh của Phật, đến khắp cùng mười phương, chẳng có chỗ nào mà không chiếu đến.
“Tỳ Ma vui khen cảnh giới nầy”. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Tỳ Ma A Tu La Vương vui mừng khen ngợi.
Cảnh giới Như Lai chẳng ai bằng
Ðủ thứ pháp môn thường lợi ích
Chúng sinh có khổ khiến diệt trừ
Xảo Thuật La Vương thấy môn nầy.
“Cảnh giới Như Lai chẳng ai bằng”. Cảnh giới của Như Lai và cảnh giới của bất cứ ai, đều hoàn toàn khác nhau. Cảnh giới của Như Lai không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời bàn luận. Cảnh giới của bất cứ ai, cũng không thể so sánh được, cũng không thể đồng được. Cảnh giới của Phật là độc nhất vô nhị, thù thắng nhất, đặc biệt nhất.
“Ðủ thứ pháp môn thường lợi ích”. Phật dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để lợi ích tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh cải tà qui chánh. Phật thấy tất cả chúng sinh, với Phật không hai không khác. Tại sao ? Vì tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều có thể thành Phật. Quá khứ không làm Phật, thì hiện tại có thể làm Phật. Hiện tại không thể làm Phật, thì vị lai sẽ làm Phật. Tóm lại, sẽ có một ngày làm Phật, song, chỉ là vấn đề sớm hay muộn mà thôi.
Phật giáo là nhân giáo, là tông giáo của tất cả mọi người. Phật giáo còn là chúng sinh giáo, là tôn giáo của tất cả chúng sinh. Cho nên đức Phật mới nói :
“Tất cả chúng sinh đều có Phật tính,
Ðều có thể thành Phật”.
Phàm là động vật có huyết khí, đều gọi là chúng sinh. Ðã là chúng sinh, thì đều có Phật tánh. Phật tánh tức là tự tánh, tức là chân như tự tánh, tức là tánh Như Lai Tạng, tức là tánh đại quang minh tạng, tức là thật tánh viên thành. Tóm lại, tức là tự tánh tâm thanh tịnh, tánh giác ngộ. Có người nói : “Tôi không cần cái Phật tánh nầy, bỏ nó đi cho rồi”, nhưng bỏ chẳng được. Vì bạn là chúng sinh, chẳng cách chi tách Phật tánh ra, cho nên bỏ chẳng đặng Phật tánh vốn có sẵn.
Nói về Phật giáo, bất cứ bạn tin hay không tin Phật, đều là Phật giáo đồ, chỉ bất quá bạn tin Phật thì gần Phật một chút, bạn không tin Phật thì xa Phật một chút. Chẳng phải Phật gần bạn là bạn gần Phật, cũng chẳng phải Phật xa bạn mà là bạn xa Phật, cho nên nói tin hoặc không tin đều là Phật giáo đồ, đều có Phật tánh, sớm muộn đều sẽ thành Phật.
Phật giáo bao quát tánh pháp giới, bao quát toàn nhân loại, bao quát mọi loài chúng sinh, tất cả hết thảy đều ở trong Phật giáo. Bạn không tin Phật giáo, cũng là Phật giáo đồ. Vì bạn không chạy ra khỏi ngoài pháp giới. Phật giáo là tận hư không, khắp pháp giới, rộng chẳng có bờ mé, không màng là bạn chưởi Phật hoặc mắng Phật, cũng là Phật giáo đồ. Cho nên nói cảnh giới của Phật không thể nghĩ bàn, dùng đủ thứ pháp môn thường lợi ích chúng sinh.
“Chúng sinh có khổ khiến diệt trừ”. Phật thương xót chúng sinh, khiến cho tất cả khổ cuả chúng sinh đều tiêu diệt, vì Phật dạy chúng sinh tu pháp môn liễu sinh thoát tử, tức cũng là pháp mười hai Nhân Duyên.
“Xảo Thuật La Vương thấy môn nầy”. Vị Xảo Huyễn Thuật A Tu La Vương, minh bạch thấy được cảnh giới nầy.
Phật vô lượng kiếp tu khổ hạnh
Lợi ích chúng sinh tịnh thế gian
Nhờ vậy trí Phật trọn thành tựu
Ðại Quyến Thuộc Vương thấy như vậy.
“Phật vô lượng kiếp tu khổ hạnh”. Khi Phật Thích Ca tại nhân địa, thì tu đủ thứ sự khổ hạnh trải qua vô lượng kiếp, mới viên mãn công đức mà thành Phật. Do đó :
“Ba A tăng kỳ tu phước huệ,
Trăm kiếp trồng tướng tốt”.
Ðức Phật trong vô lượng kiếp tu khổ hạnh, chỉ tinh tấn mà chẳng thối lùi. Chẳng giống như chúng ta tọa thiền, tu được mấy ngày, thì sinh tâm thối chuyển, cảm thấy không được thoải mái bằng nằm ra. Hoặc tu ngày ăn một bữa, cảm thấy ăn nhiều bữa, thì có ích lợi cho thân thể. Tự mình thế mình làm luật sư biện hộ. Có tư tưởng nầy, làm sao yên tâm tu đạo được ? Tu khổ hạnh là cước đạp thật địa mà tu hành, chẳng phải chỉ nói suông là được. Do đó :
“Không trải qua một phen lạnh thấu xương,
Sao được hoa mai thơm ngát mũi” ?
“Lợi ích chúng sinh tịnh thế gian”. Ðức Phật vì lợi ích chúng sinh mà tu khổ hạnh, chỉ cần có ích cho chúng sinh, thì bất cứ khổ như thế cũng đều chịu được. Phật tu khổ hạnh là lợi ích chúng sinh, là thanh tịnh thế gian, khiến cho chúng sinh, chẳng có tư tưởng không thanh tịnh và hành vi ô nhiễm. Như vậy thì thế gian sẽ thanh tịnh chẳng ô nhiễm.
“Nhờ vậy trí Phật trọn thành tựu”. Nhờ vậy mà Phật trong vô lượng kiếp tu khổ hạnh, lợi ích chúng sinh, thanh tịnh thế gian, làm đủ thứ công đức, hành đủ thứ sự khổ hạnh, là do trí của Phật khắp cùng thành tựu.
“Ðại Quyến Thuộc Vương thấy như vậy”. Vị Ðại Quyến Thuộc A Tu La Vương, hiểu biết và thấy được cảnh giới của Phật, tu khổ hạnh và lợi ích chúng sinh.
Vô ngại vô đẳng đại thần thông
Ðộng khắp mười phương tất cả cõi
Chẳng khiến chúng sinh sinh sợ hãi
Ðại Lực thấu rõ pháp môn nầy.
“Vô ngại vô đẳng đại thần thông”. Vô ngại tức là chẳng có gì chướng ngại, tức cũng là thông đạt vô ngại. Vô đẳng là chẳng có gì sánh bằng, tức cũng chẳng có gì bằng được. Thần thông có lớn có nhỏ, đều khác nhau. Thần thông nhỏ là thần thông của bàng môn tả đạo, chúng cũng có một thứ tiên tri tiên giác. Nếu trên thân bị động thì chúng nghĩ : hôm nay sẽ có ai đến ? Nếu mắt bị giựt thì chúng tưởng nghĩ : hôm nay phải phát sinh sự việc gì ? có khi cũng có chút linh nghiệm. Ðó là thần thông của kẻ chẳng khai mở ngũ nhãn lục thông.
Ðại thần thông là thần thông của bậc đã khai mỡ ngũ nhãn lục thông, các Ngài không cần suy nghĩ, cũng không cần khởi ý niệm, thì lập tức biết muốn phát sinh sự việc gì, hoặc là có cảnh giới gì muốn xảy ra, các Ngài đều thấy rõ ràng, biết được nhân quả ngoài tám vạn đại kiếp.
“Ðộng khắp mười phương tất cả cõi”. Thần thông của Phật quảng đại không thể so sánh được, có thể làm cho mười phương tất cả cõi, khắp đều giao động, nhưng chẳng tổn thất tai hại gì.
“Chẳng khiến chúng sinh sinh sợ hãi”. Tuy nhiên tại một cõi nước có biến động, động biến động, cho đến mười phương thế giới cũng biến động, cũng có động biến động. Nhưng không làm cho chúng sinh, có cảm giác kinh hãi sợ sệt. Tuy nhiên có động, nhưng chẳng nguy hiểm, đó là vì thần lực của Phật làm cho biến động.
“Ðại Lực thấu rõ pháp môn này”. Vị Ðại Lực A Tu La Vương thấy rõ được cảnh giới nầy, vì vị nầy thấy được cảnh giới của Phật.
Phật hiện ra đời cứu chúng sinh
Tất cả trí đạo đều khai thị
Khiến cho lìa khổ được an lạc
Biến Chiếu khai xiển được nghĩa nầy.
“Phật hiện ra đời cứu chúng sinh”. Chư Phật ở tại Thường Tịch Quang tịnh độ, vừa thanh tịnh vừa an vui, vậy tại sao phải hiện ra nơi đời ác năm trược ? Phật thấy chúng sinh trôi nổi ở trong biển dục, thật đáng thương xót, cho nên khởi tâm thương xót đến thế giới Ta Bà nầy, để cứu chúng sinh ra khỏi biển khổ.
“Tất cả trí đạo đều khai thị”. Phật dùng tất cả trí huệ, để diễn nói đạo lý vượt ra khỏi hồng trần, tức cũng là pháp môn thoát khỏi ba cõi. Phật thấy người hạ căn, thì nói pháp về nhân quả nhân duyên, người trung căn thì nói pháp ba mươi bảy Ðạo Phẩm, thấy người thượng căn thì nói pháp Bồ Tát đạo lục độ vạn hạnh, đó là vì người thuyết pháp, pháp bình đẳng độ khắp ba căn, không phân biệt đó đây, đó là chỗ vĩ đại của Phật giáo, chỗ mà hơn các tôn giáo khác cũng tại chỗ nầy.
“Khiến cho lìa khổ được an lạc”. Ðức Phật xuất hiện ra đời, duy chỉ một mục đích là : “Khiến cho tất cả chúng sinh lìa khổ mà đắc được an lạc”. Do đó : “Thân thư vô hiểm, tâm minh vô ưu”. Nghĩa là : “Thân thư thái thì chẳng nguy hiểm, tâm sáng suốt thì chẳng sầu lo”, tức cũng là thân tâm kiện khang. Phật giáo chú trọng về mặt tu dưỡng tinh thần, mà không chú trọng về mặt hưởng thụ vật chất. Cho nên người xuất gia vứt bỏ năm dục : 1. Không tham tài. 2. Không kết hôn. 3. Không cầu danh. 4. Không ăn thịt.
- Không ngủ nhiều. Sống đời đạm bạc, đó là lối sống thanh tâm quả dục, chẳng phải phàm phu tục tử làm được. Vua Ðường Thái Tông có nói : “Xuất gia là việc của bậc đại trương phu”. Cho nên Phật giáo đề xướng tinh thần hơn hẳn vật chất, tinh thần là tư lương tu đạo, còn vật chất là nguồn gốc tạo nghiệp.
“Biến Chiếu khai xiển được nghĩa này”. Ðạo lý nầy, vị Biến Chiếu A Tu La Vương khai thị xiển minh được.
Tất cả biển phước của thế gian
Phật lực sinh được khắp khiến tịnh
Phật khai thị được nơi giải thoát
Kiên Hạnh Trang Nghiêm vào môn nầy.
“Tất cả biển phước của thế gian”. Thế gian là tất cả chúng sinh thế gian, tức cũng là hữu tình thế gian. Phước do tu mà có, tu nghiệp thiện, làm công đức, tích tụ các thành tháp. Có đủ thứ công đức rồi, thì sau đó mới có đủ thứ phước báo, phước báo rộng lớn như biển cả. Cho nên, Ðức Phật gọi là phước đủ huệ đủ xưng là Lưỡng Túc Tôn. Phải phước huệ song tu, do đó :
“Tu phước không tu huệ, làm voi mang anh lạc,
Tu huệ không tu phước, La Hán ôm bát không”.
Phước là từng chút từng chút tích tập mà thành, giống như biển cả. Bất cứ nước sông lớn, hoặc nước sông nhỏ, đều chảy vào biển, cho nên mới thành biển cả. Tu phước cũng như thế, bất cứ phước bao nhiêu cũng phải tu, dù phước nhỏ như hạt bụi cũng đừng bỏ qua, do đó phước không tổn mất, tập ít thành nhiều, mới thành tựu biển phước.
“Phật lực sinh được khắp khiến tịnh”. Sức lực của Phật không thể nghĩ bàn, sinh được tất cả phước thanh tịnh, khiến khắp tất cả chúng sinh đều đắc được phước báo thanh tịnh.
“Phật khai thị được nơi giải thoát”. Ðức Phật khai thị tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh minh bạch đạo lý nầy, đắc được nơi giải thoát.
“Kiên Hạnh Trang Nghiêm vào môn nầy”. Vị Kiên Cố Hạnh Diệu Trang Nghiêm A Tu La Vương, minh bạch được đạo lý nầy, do đó vào được môn giải thoát nầy. Ai vào được môn nầy, là nội hán môn, vào không được môn nầy là ngọai hán môn.
Thân Phật đại bi không gì bằng
Ði khắp vô ngại đều khiến thấy
Ví như hình bóng hiện thế gian
Nhân Huệ nói được công đức nầy.
“Thân Phật đại bi không gì bằng”. Ðại bi tức là cứu khổ, giải trừ tất cả thống khổ của chúng sinh, do đó đồng thể đại bi, thấy người khổ giống như nỗi khổ của mình, thấy người vui giống như niềm vui của mình. Thân đại bi của Phật, trên thế gian chẳng có người nào có thể so sánh được. Phật là vô thượng, cho nên khi đức Phật đản sinh dưới cây Vô Ưu bèn nói : “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”.
“Ði khắp vô ngại đều khiến thấy”. Chúng sinh trong mười phương thế giới, đều thấy được thân đại bi của Phật. Vì thân đại bi của Phật đi khắp pháp giới mà chẳng chướng ngại.
“Giống như hình bóng hiện thế gian”. Thân đại bi của Phật, giống như hình và bóng, không lìa với nhau, hình không lìa bóng. Tóm lại, thân người bất cứ đến đâu, bóng cũng đều theo, mà không phân ly. Hình bóng thân đại bi hiện khắp trong hữu tình thế gian.
“Nhân Huệ nói được công đức này”. Vị Quảng Ðại Nhân Huệ A Tu La Vương, diễn nói được công đức nầy, vào được môn giải thoát nầy.
Hi hữu vô đẳng đại thần thông
Nơi nơi hiện thân khắp pháp giới
Thảy đều ngồi dưới cội bồ đề
Nghĩa này Thắng Ðức diễn nói được.
“Hi hữu vô đẳng đại thần thông”. Hi hữu tức là hi kỳ ít có. Vô đẳng là chẳng gì sánh được. Sự thần thông hi kỳ ít có không thể sánh, chỉ có Phật mới có thần thông không thể suy nghĩ, không thể luận bàn.
“Nơi nơi hiện thân khắp pháp giới”. Pháp thân của Phật, là tận hư không khắp pháp giới, nơi nơi đều hiện pháp thân. Pháp thân nầy chẳng thể sánh, chẳng chướng ngại.
“Thảy đều ngồi dưới cội bồ đề”. Mỗi vị Phật đều ngồi dưới cội bồ đề ở thế gian của các Ngài, để làm gì ? tĩnh tọa tư duy pháp liễu sinh thoát tử.
Chúng ta đã trồng xuống hạt giống bồ đề, đợi cây bồ đề lớn lên, hy vọng cũng có Phật ngồi dưới cây bồ đề thành chánh giác. Phật pháp từ phương đông truyền đến phương tây, tại phương đông là thời đại mạt pháp, tại phương tây là thời đại chánh pháp, vì Phật pháp mới bắt đầu ở tây phương, cho nên các bạn học Phật pháp phải tinh tấn tu hành, nỗ lực nghiên cứu, trách nhiệm tục Phật huệ mạng là ở trên vai những người thanh niên các bạn, các bạn phải gánh lấy xứ mạng, làm cho Phật pháp phát dương quang đại, hoằng dương toàn thế giới. Trách nhiệm của các bạn trọng đại, đừng cô phụ kì vọng của Phật giáo !
“Nghĩa nầy Thắng Ðức diễn nói được”. Nghĩa lý, cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Hiện Thắng Ðức A Tu La Vương, diễn nói được đạo lý cảnh giới nầy. Cảnh giới nầy là cảnh giới của Phật, cảnh giới của Phật là vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn, diệu không thể tả, vị A Tu La Vương nầy, minh bạch được cảnh giới nầy, còn cảnh giới khác của Phật thì chẳng biết.
Ba đời Như Lai tu các hạnh
Các cõi luân hồi đều trải qua
Ðộ chúng sinh khổ không xót thừa
Thiện Âm tán thán pháp môn nầy.
“Ba đời Như Lai tu các hạnh”. Như Lai là Phật, Phật là Như Lai. Xưa kia, trong vô lượng kiếp ba đời chư Phật tu hành tất cả các hạnh môn. Ba đời tức là : quá khứ, hiện tại, và vị lai. Ví như, năm ngoái phải tu hành, năm nay phải tu hành, sang năm cũng phải tu hành. Tháng vừa rồi phải tu hành, tháng nầy phải tu hành, tháng tới càng phải tu hành. Giống như chúng ta người tu đạo, hôm qua tu như thế nầy, hôm nay tu như thế nầy, ngày mai cũng tu như thế nầy, ngày mốt cũng tu như thế nầy, phải ngày nào cũng tu hành không gián đoạn, thì mới có sự thành tựu.
Ðức Phật tu đạo, thì bất cứ việc thiện nhỏ như thế nào, cũng đi làm, còn việc ác nhỏ như thế nào, cũng chẳng làm. Cho nên, dùng việc thiện nhỏ mà tích tụ thành việc thiện lớn, đức Phật trong quá khứ tu viên mãn tám vạn bốn ngàn pháp môn.
“Các cõi luân hồi đều trải qua”. Các cõi là : Cõi trời, cõi người, cõi A tu la, cõi súc sinh, cõi ngạ quỷ, cõi địa ngục. Trong sáu nẻo luân hồi, Phật đều bình đẳng đi thọ sinh. Trong cõi đó, đều bình đẳng giáo hóa chúng sinh cõi đó, cho nên nói các cõi luân hồi đều trải qua.
Luân hồi phân làm sáu cửa, tùy theo nghiệp lực của họ mà vào cửa, người tu nghiệp thiện, thì chuyển vào cửa ba đường lành ; người tu nghiệp ác, thì chuyển vào của ba đường ác, đây chẳng có ai thẩm phán mà là tự động. Một số chúng sinh, lưu chuyển ở trong sinh tử, sinh rồi lại tử, tử rồi lại sinh, sinh sinh tử tử không thời hạn, trôi nổi ở trong biển khổ, không được giải thoát.
Phật vì cứu chúng sinh ra khỏi biển khổ sinh tử, mới đến các cõi để giáo hóa, giáo hóa chúng sinh trong cõi trời, cõi người, cõi A Tu La, cõi súc sinh, cõi ngạ quỷ, cõi địa ngục. Phật thị hiện đủ thứ thân chúng sinh để thuyết pháp, khiến cho chúng sinh liễu sinh thoát tử.
“Ðộ chúng sinh khổ không xót thừa”. Phật làm thế nào để giáo hóa chúng sinh ? Tức là vào trong các cõi, hiện thân chúng sinh, mà vì chúng sinh thuyết pháp, khiến cho chúng sinh lià khổ được vui. Gặp chúng sinh không hiểu Phật Pháp, thì Phật dùng tâm nhẫn nhục, để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh tu hành, chúng sinh đã biết tu hành, thì Phật giúp cho họ thành tựu đạo nghiệp, chúng sinh đã thành tựu đạo nghiệp, thì Phật trợ giúp cho họ được giải thoát, khiến cho chúng sinh cầu đạo, tu đạo, hiểu đạo, thành đạo, đắc được quả giác viên mãn vốn có, làm cho chúng sinh hết khổ, một chút cũng không xót thừa.
“Thiện Âm tán thán pháp môn nầy”. Vị Thiện Âm A Tu La Vương, tán thán ca ngợi cảnh giới vi diệu nầy, môn giải thoát nầy của Phật.
Bây giờ đã giảng xong sở đắc môn giải thoát và kệ của tám bộ chúng trong dị sinh chúng. Dưới đây tiếp tục giảng các Thần mười chín chúng.
Lại nữa, Chủ Trú Thần Thị Hiện Cung Ðiện, được môn giải thoát, vào khắp tất cả thế gian.
Ý nghiã ở trên vẫn chưa nói xong, bây giờ tiếp tục nói, tức cũng là tiếp tục nói về đạo lý Kinh Hoa Nghiêm. Ðã giải thích xong tám bộ chúng trong dị sinh chúng. Nay tiếp tục giảng về các vị thần mười chín chúng trong dị sinh chúng. Các chúng Thần là:
1. Chủ Trú Thần.
2. Chủ Dạ Thần.
3. Chủ Phương Thần.
4. Chủ Không Thần.
5. Chủ Phong Thần.
6. Chủ Hỏa Thần.
7. Chủ Thủy Thần.
8. Chủ Hải Thần.
9. Chủ Hà Thần.
10. Chủ Giá Thần.
11. Chủ Dược Thần.
12. Chủ Lâm Thần.
13. Chủ Sơn Thần.
14. Chủ Ðịa Thần.
15. Chủ Thành Thần.
16. Ðạo Tràng Thần.
17. Túc Hành Thần.
18. Thân Chúng Thần,
19. Chấp Kim Cang Thần.
Trong mỗi chúng Thần có mười vị Thần chủ, mỗi vị Thần chủ chứng đắc được một môn giải thoát, nói ra một bài kệ, để tán thán công đức của Phật, tổng cộng có một trăm chín mươi môn giải thoát, có môt trăm chín mươi bài kệ. Nếu ai hiểu rõ một môn giải thoát, hoặc minh bạch một bài kệ, thì có hy vọng giải thoát, có khả năng thành tựu. Mong những người tu đạo tinh tấn tụng Kinh Hoa Nghiêm, lạy Kinh Hoa Nghiêm, in Kinh Hoa Nghiêm, biên chép Kinh Hoa Nghiêm, truyền bá Kinh Hoa Nghiêm, thì chắc chắn công đức và sự cảm ứng không thể nghĩ bàn. Chư Phật Bồ Tát nhất định sẽ gia bị cho bạn, khiến cho bạn khai mở đại trí huệ trồng căn lành lớn !
Người mới nghe Kinh Hoa Nghiêm, cảm thấy Kinh văn của Kinh Hoa Nghiêm rất phức tạp, tựa như nói chẳng bao giờ hết. Ðúng vậy ! Ðạo lý Kinh Hoa Nghiêm nói chẳng hết, trùng trùng vô tận, vô tận trùng trùng. Chỉ cần bạn thành tâm nghe Kinh nghe pháp, thì lâu dần từ từ tự nhiên sẽ hiểu nghĩa Kinh, lĩnh ngộ nghĩa lý huyền diệu thâm áo vô cùng. Có người đọc Kinh Hoa Nghiêm đến lần thứ tư, mới hiểu ý nghĩa vi diệu của nó. Tụng Kinh càng nhiều, thì được ích càng sâu, tụng một lần thì có lợi ích một lần.
Vị Thị Hiện Cung Ðiện Chủ Trú Thần. Chủ Trú Thần là thần quản lý ban ngày, tức cũng là quản lý tất cả công và tội, Những gì chúng sinh làm đều ghi nhớ hết, nhưng không cần dùng bút ghi chép vào vở. Sự ghi nhớ của Thần rất là đặc thù, còn diệu hơn so với máy vi tính, càng diệu hơn so với máy tính ! Các vị đó đều ghi nhớ hết tất cả sự việc của thế gian. Khi muốn kiểm tra thì không cần bấm nút máy vi tính, tự nhiên sẽ hiện ra tư liệu cần đến, không những nhanh chóng mà còn chính xác, đó là thần thông diệu toán.
Vị Chủ Trú Thần nầy, thị hiện được tất cả cung điện. Cung điện của vua, cung điện của Phật Bồ Tát, vị nầy không những thị hiện được, mà còn trang nghiêm được, và còn vào khắp trong tất cả thế gian, dùng pháp nhập thế để hiển thị pháp xuất thế. Ðó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Chủ Trú Thần Phát Khởi Huệ Hương, được môn giải thoát, quán sát khắp tất cả sự lợi ích của chúng sinh, khiến cho họ vui mừng đầy đủ.
Vị Phát Khởi Huệ Hương Chủ Trú Thần nầy, phát khởi giới hương, định hương, huệ hương, giải thoát hương, giải thoát tri kiến hương, năm phần hương pháp thân. Vị nầy biết sự vui mừng của chúng sinh, cho nên toả ra năm thứ hương, khiến cho chúng sinh sinh tín tâm. Bạn trì giới thì thân sẽ toả ra giới hương. Bạn thiền định thì thân sẽ toả ra định hương. Bạn tu huệ thì sẽ toả ra huệ hương. Tâm bạn không phan duyên, thì thân sẽ toả ra hương giải thoát. Bạn học rộng nghe nhiều, thì thân sẽ toả ra hương giải thoát tri kiến. Vị Chủ Trú Thần nầy quán sát khắp tất cả chúng sinh, khiến cho họ hoàn toàn đắc được lợi ích năm thứ hương nầy, và còn khiến cho chúng sinh vui mừng mà đầy đủ, toại tâm mãn nguyện, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Tổ Ðạt Ma nói: “Giới hương đoạn được các điều ác, hay tu các điều thiện. Ðịnh hương tin sâu đại thừa, tâm không thối chuyển. Huệ hương thường ở thân tâm, trong tự quán sát. Hương giải thoát đoạn tất cả vô minh trói buộc. Hương giải thoát tri kiến quán chiếu thường sáng suốt, thông đạt vô ngại”.
Năm phần hương pháp thân là do giới sinh định, do định sinh huệ, do huệ được giải thoát, do giải thoát mà đắc được giải thoát tri kiến, tức cũng là hậu đắc trí. Do đó, có thể thấy, giới luật quan trọng như thế nào. Bất cứ tu pháp gì, điều kiện đầu tiên là phải giữ gìn giới luật. Bằng không, chẳng có sự thành tựu chân chánh. Ví như có vị pháp sư biết giảng kinh, giảng rất hay, biện tài vô ngại, nói thao thao bất tuyệt, nói ngang nói dọc đều có lý, khiến cho người nghe vào thắng địa. Nhưng nếu như vị pháp sư đó chẳng giữ giới luật, bất quá cũng chỉ là khẩu đầu thiền mà thôi.
Chủ Trú Thần Lạc Thắng Trang Nghiêm, được môn giải thoát, phóng vô biên pháp quang minh đáng ưa thích.
Vị Lạc Thắng Trang Nghiêm Chủ Trú Thần nầy, tu đủ thứ phước, đắc được đủ thứ công đức. Do đó, sinh ra sự an vui. Sự an vui nầy chẳng giống sự an vui bình thường, là sự an vui rất thù thắng. Vị Thần nầy, không những trang nghiêm mà còn tốt tướng, biết được sở tạo công hoặc tội của chúng sinh, và còn phóng ra vô lượng trí huệ quang minh. Quang nầy tức là quang minh đáng ưa thích pháp, chiếu soi chúng sinh, khiến cho chúng sinh có công tiếp tục làm công đức lành; khiến cho chúng sinh có tội, cải ác hướng thiện, quay đầu là bờ. Quang nầy khiến cho tất cả chúng sinh đều vui mừng, đều sinh ra tư tưởng ưa thích Phật pháp, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Chủ Trú Thần Hoa Hương Diệu Quang, được môn giải thoát, khai phát tâm tin hiểu thanh tịnh của vô biên chúng sinh.
Vị Hoa Hương Diệu Chủ Trú Thần nầy, tùy thuận nguyện của chúng sinh, mà toả ra các thứ hoa và các thứ hương, và còn hiện ra quang minh vi diệu không thể nghĩ bàn, để chiếu soi tất cả chúng sinh, khiến cho họ khai ngộ, đắc được trí huệ. Vị nầy có thể khai khẩn đất hoang, chưa có ai gieo trồng ngũ cốc xuống mảnh đất màu mỡ nầy. Cho nên phải có người đến khai khẩn, cạo sạch cỏ hoang, sau đó mới trồng trọt được. Khai đất hoang phải tốn công khổ cực một phen mới thành công được, do đó:
“Trồng trọt một phần,
Thì có một phần thu hoạch”.
Ruộng phước của chúng sinh, giống như một mảnh đất hoang, phải cần có đại thiện tri thức phát bồ đề tâm đến khai quật, trồng xuống hạt giống bồ đề tâm tin hiểu thanh tịnh, mới đắc được quả giác bồ đề. Tâm chúng sinh phần nhiều không thanh tịnh, có tư tưởng ô nhiễm. Vì tâm nhiễm ô quá nhiều, mà tâm thanh tịnh thì ít, cho nên chẳng tin hiểu. Giảng Phật pháp cũng nghe chẳng vào, nói đạo lý cũng chẳng tin. Vì không tin không hiểu cho nên chẳng minh bạch. Không minh bạch thì chẳng có tâm tin hiểu thanh tịnh.
Tâm tin hiểu thanh tịnh là gì ? Nếu không có vô minh, không có phiền não, không có nóng giận, đó là tâm tin hiểu thanh tịnh. Nếu như có vô minh, có phiền não, có nóng giận, thì tâm tin hiểu chẳng thanh tịnh. Tóm lại, người mà tâm ô nhiễm quá nặng, thì tâm tin hiểu thanh tịnh nhẹ đi. Người mà tâm thanh tịnh quá nặng, thì tâm tinh hiểu thanh tịnh cũng nặng. Cho nên, người học Phật pháp, mỗi cử chỉ, mỗi hành động, đều phải hồi quang phản chiếu, cầu trở lại nơi chính mình. Phải phản tỉnh tâm của mình, nhiễm ô nhiều hay là thanh tịnh nhiều ? Tâm tin hiểu của tôi nhiều, hay là tâm không tin hiểu nhiều ? Tự mình kiểm thảo, nếu minh bạch được cảnh giới nầy, thì vào được môn giải thoát tin hiểu thanh tịnh.
Chủ Trú Thần Phổ Tập Diệu Dược, được môn giải thoát, sức tích tập quang minh khắp trang nghiêm.
Vị Phổ Tập Diệu Dược Chủ Trú Thần nầy, tích tập hết thảy tất cả chất thuốc đặc biệt thù thắng, để chữa trị bệnh tham sân si ba độc phiền não của tất cả chúng sinh. Vị nầy tu đủ thứ pháp môn, tích tập nhiều công đức để trang nghiêm. Giống như trồng hoa, bón phân đầy đủ thì hoa mới sum sê tươi tốt, hoa nở mới tươi đẹp. Tại sao hoa vừa tươi tốt vừa đẹp ? Vì có người bón phân. Chúng ta tu công đức cũng phải như thế, trang nghiêm tức là bón phân.
Chúng ta người tu đạo, tại sao phải có sự trang nghiêm? Vì tích tập tất cả công đức lành. Công đức nầy, tức là phân để đượm nhuần pháp thân huệ mạng của chúng ta, khiến cho chúng ta đắc được sức quang minh đại trí huệ. Có sức nầy rồi thì gặp được tất cả cảnh giới, đều nhận thức rõ ràng, mà không bị cảnh giới làm lay chuyển, ngược lại còn chuyển được cảnh giới. Tóm lại, cảnh giới ác chuyển đổi thành cảnh giới lành, cảnh giới nhiễm ô chuyển đổi thành cảnh giới thanh tịnh. Ðó là sức đại trí huệ quang.
Vị Chủ Trú Thần nầy, đắc được sức phổ quang minh, tức cũng là sức trí huệ Bát nhã. Trí huệ Bát nhã giống như một cây đao, còn gọi là kiếm trí huệ. Bạn chẳng có trí huệ thì là ngu si, chẳng có kiếm trí huệ, thì không thể chém đầu lục tặc, lục tặc tức là lục trần. Lục trần nầy sai khiến con người làm việc điên đảo. Cho nên nói, kiếm trí huệ là pháp bảo rất quang trọng.
Trong chứng Ðạo Ca có nói:
“Ðại trượng phu, bỉnh huệ kiếm,
Bát nhã phong hề kim cang diễm,
Phi đán năng thôi ngoại đạo tâm,
Tảo hội lạc khước thiên ma đảm”.
Nghĩa là nói, chúng ta người xuất gia đều là đại trượng phu. Phật Thích Ca là đại trượng phu, chúng ta là đệ tử của Phật, cho nên cũng là đại trượng phu. Bất cứ nam nữ, phàm là xuất gia đều là đại trượng phu. Phật Thích Ca là đại anh hùng, cho nên điện Phật gọi là đại hùng bảo điện. Bỉnh huệ kiếm tức là cầm thanh bảo kiếm trí huệ, sắc bén vô cùng, giống như đá kim cang phát ra lửa ngọn, không những phá tan tâm ngoại đạo, mà cũng làm cho thiên ma khiếp đảm.
Vị Chủ Trú Thần nầy, vì có sức trí huệ quang minh mới vào được môn giải thoát nầy.
Chủ Trú Thần Lạc Tác Hỉ Mục, được môn giải thoát, khai ngộ khắp tất cả khổ vui của chúng sinh, khiến cho họ đắc được pháp vui.
Vị Lạc Tác Hỉ Mục Chủ Trú Thần luôn luôn an vui, luôn luôn hoan hỉ, cũng khiến cho tất cả chúng sinh luôn luôn an vui, luôn luôn hoan hỉ. Vị nầy dùng tâm từ bi để tiếp dẫn chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh khai ngộ. Khai ngộ gì ? Khai tất cả khổ vui của chúng sinh, khiến cho họ ngộ được pháp vui.
Khổ có rất nhiều thứ khổ: Có ba thứ khổ, tám thứ khổ và vô lượng khổ.
Ba thứ khổ tức là:
1. Khổ khổ.
2. Hoại khổ.
3. Hành khổ.
Tám thứ khổ là:
1. Khổ về sinh.
2. Khổ về già.
3. Khổ về bệnh.
4. Khổ về chết.
5. Khổ về thương mà phải biệt ly.
6. Khổ về ghét mà gặp nhau.
7. Khổ về cầu muốn không được.
8. Khổ về năm uẩn.
Và còn có vô lượng vô biên thứ khổ.
Khổ khổ: Tức là khổ của người nghèo. Ví như có một túp lều để ở, che mưa che nắng, chẳng may bị gió bão thổi sập, không chỗ để nương tựa. Hoặc là người không có tiền bạc lại bệnh hoạn, đó là khổ tăng thêm khổ, cũng là khổ trong khổ.
Hoại khổ: Tức là khổ của người giàu. Ví như nhà nọ giàu có, chẳng may bị lửa thiêu sạch, tiền bạc châu báu cũng bị lửa thiêu hủy, đó là hoại khổ.
Hành khổ: Chẳng phải là khổ khổ, cũng chẳng phải là hoại khổ, mà là hành khổ về vô thường. Bất cứ là anh hùng hào kiệt, đại trượng phu, cũng không tránh khỏi sinh già bệnh chết, bốn đại hành khổ.
Khổ về sinh: Khi sinh ra thì thống khổ giống như rùa lột mai, và thống khổ giống như hai hòn núi ép nhau, cho nên trẻ con khi sinh ra, thì khóc oà lên đó là khổ.
Khổ về già: Thân thể từ nhỏ lớn dần rồi già nua, chẳng lúc nào mà không biến đổi, tóc bạc da nhăn, tai điết mắt mờ, tứ chi yếu đuối, ngũ quan tứ chi chẳng làm gì được, răng rụng ăn gì cũng chẳng biết mùi vị.
Khổ về bệnh: Tứ đại không điều hòa thì thường phát sinh bệnh. Khổ về bệnh mới là khổ thật, chẳng ăn được gì, chẳng hành động được. Già thì mắt tai mũi lưỡi phải về hưu; có bệnh thì thân thể cũng phải về hưu.
Khổ về chết: Thứ khổ nầy thật đáng sợ, thống khổ như bò sống bị lột da. Phút cuối cùng khi lâm chung, thì trong tâm tính sổ sách, nếu như khi sống làm việc còn thiếu sót, thì chết cắn răn trừng mắt mà đi.
Khổ về thương mà phải biệt ly: Việc thống khổ nhất của đời người là lúc sinh ly tử biệt. Vì đủ thứ nhân duyên phải biệt ly với người thân. Thứ khổ nầy ai chưa trải qua hoàn cảnh ấy, thì chẳng biết được vị của nó.
Khổ về ghét mà gặp nhau: Người càng không thích ưa mà thình lình gặp nhau, thứ khổ nầy không thể tả. Người xưa nói: “Oán nên giải không nên kết”. Bắt tay vui vẻ, đổi địch làm bạn, đó là tránh gieo thứ khổ nầy.
Khổ về cầu muốn không được: Thứ khổ nầy ai ai cũng có. Người nghèo có, người giàu cũng có, người nam có, người nữ cũng có, già có, trẻ có, tức là khổ về mong muốn không ngừng.
Khổ về năm ấm: Năm ấm tức là: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Năm uẩn nầy giống như lửa thiêu hủy. Sắc là vật chất, thọ tưởng hành thức là tinh thần, đều vì vô minh mà thiêu đốt không ngừng, khiến cho người thọ thống khổ vô cùng.
Vô lượng khổ: Nỗi khổ không thể tả ! Bất cứ thứ khổ nào cũng đều chịu không thấu. Tại sao có vô lượng sự khổ ? Vì tâm tham không đủ, được rồi muốn được nữa, không khi nào biết đủ. Nói ngược lại là biết đủ thì an vui.
Vui cũng đủ thứ vui, có sự vui của mình, sự vui của người khác, sự vui của ta và người, vui cũng có vô lượng vô biên. Song, chúng sinh sống trong khổ vui, lúc thì vui, lúc thì khổ, khổ vui đều không dễ chịu.
Bây giờ, bất cứ là khổ hay là vui, vị Chủ Trú Thần nầy, đều khiến cho chúng sinh đắc được pháp vui, tức cũng là pháp hỉ sung mãn, an vui chân thật. Nghe kinh nghe pháp đều là pháp vui, vị nầy đắc được cảnh giới nầy, mà vào môn giải thoát nầy.
Chủ Trú Thần Quán Phương Phổ Hiện, được môn giải thoát, đều hiện thân khác nhau trong mười phương pháp giới.
Vị Quán Phương Phổ Hiện Chủ Trú Thần nầy, quán căn cơ chúng sinh vì người thuyết pháp, theo bệnh cho thuốc. Vị nầy quán sát mười phương pháp giới, hiện thân khắp vì chúng sinh mà thuyết pháp. Và còn minh bạch chư Phật ở trong mười phương pháp giới, khắp các cõi nước nhiều như số hạt bụi, hóa hiện vô lượng thân khác nhau, mà vì người độ được mà thuyết pháp, tức cũng là người đáng dùng thân Phật độ được, thì Phật hiện thân Phật mà vì họ nói pháp, để giáo hóa chúng sinh. Vị nầy minh bạch được cảnh giới nầy, mà vào môn giải thoát nầy.
Chủ Trú Thần Ðại Bi Oai Lực, được môn giải thoát, cứu hộ tất cả chúng sinh, khiến cho họ được an lạc.
Vị Ðại Bi Oai Lực Chủ Trú Thần. Ðại bi là cứu tất cả thống khổ của chúng sinh, ban tất cả an vui cho chúng sinh. Oai lực là có sức đại oai đức. Vị nầy có tâm đại bi, cứu tất cả khổ của chúng sinh, và còn có đại oai đức hàng phục được tất cả ma. Vị nầy đắc được cảnh giới nầy, và còn minh bạch đức Phật vì cứu hộ tất cả chúng sinh, mà khiến cho tất cả chúng sinh lìa khổ được vui, vị nầy vào được môn giải thoát nầy.
Chủ Trú Thần Thiện Căn Quang Chiếu, được môn giải thoát, sức công đức khắp sinh ra vui mừng đầy đủ.
Vị Thiện Căn Quang Chiếu Chủ Trú Thần nầy, trong đời quá khứ gieo trồng đủ thứ căn lành, tu tập đủ thứ trí huệ quang, để giáo hóa tất cả chúng sinh, cũng khiến cho tất cả chúng sinh vun bồi căn lành, gieo trồng căn lành. Vị nầy đắc được trí huệ quang minh, cho nên mới nói đắc được sức thiện xảo công đức khắp sinh ra vui mừng đầy đủ. Vị nầy vào môn giải thoát nầy.
Chủ Trú Thần Diệu Hoa Anh Lạc, được môn giải thoát, danh tiếng vang khắp, chúng sinh nào thấy được cũng đều được lợi ích.
Vị Diệu Hoa Anh Lạc Chủ Trú Thần nầy, danh tiếng đều vang khắp mười phương thế giới. Phàm là chúng sinh trong mười phương thế giới, nghe được âm thanh của vị nầy, hoặc là nghe được tên của vị nầy, đều đắc được lợi ích, đắc được pháp vui, vị nầy vào môn giải thoát nầy.
Bấy giờ, Chủ Trú Thần Thị Hiện Cung Ðiện, nương oai lực của đức Phật, quán khắp tất cả chúng Chủ Trú Thần, mà nói bài kệ rằng.
Lúc đó, khi vị Diệu Hoa Anh Lạc Chủ Trú Thần, vừa nói xong đoạn kinh nầy, thì vị Thị Hiện Cung Ðiện Chủ Trú Thần, nương đại oai thần lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả Chủ Trú Thần trong pháp hội, mà dùng kệ tán thán công đức của Phật.
Trí Phật như không chẳng cùng tận
Quang minh chiếu soi khắp mười phương
Tâm hạnh chúng sinh đều biết rõ
Tất cả thế gian đều vào khắp.
“Trí Phật như không chẳng cùng Tận”. Trí huệ của Phật giống như hư không. Hư không thì rộng lớn chẳng cùng tận.
“Quang minh chiếu soi khắp mười phương”. Trí huệ quang minh của Phật không thể sánh, chiếu soi khắp mười phương thế giới, chiếu soi cõi nước chư Phật mười phương.
“Tâm hạnh chúng sinh đều biết rõ”. Tất cả những sự việc chúng sinh suy nghĩ, hoặc làm, Phật đều hiểu biết rõ. Tóm lại, Bạn khởi vọng tưởng gì, tạo nghiệp gì, Phật đều biết rõ ràng.
“Tất cả thế gian đều vào khắp”. Phật có đại trí huệ quang minh, có đại thần thông, có sức đại bi nguyện, do đó, đến tất cả thế giới để giáo hóa chúng sinh, chẳng có một thế giới nào mà Phật không vào.
Phật biết sở thích của chúng sinh
Vì họ mà nói các biển pháp
Ý nghĩa rộng lớn đều khác nhau
Cụ Túc Huệ Thần thấy rõ được.
“Phật biết sở thích của chúng sinh”. Phật biết được trong tâm của tất cả chúng sinh hoan hỉ những gì, và còn biết được tất cả sự việc chúng sinh mong muốn.
“Vì họ mà nói các biển pháp”. Nghĩa là đáng hiện thân gì để độ được, thì hiện thân đó mà nói pháp đó. Pháp môn nói ra nhiều như biển, nói chẳng hết.
“Ý nghĩa rộng lớn đều khác nhau”. Nghĩa lý mỗi câu mỗi chữ rộng lớn vô cùng, đều khác nhau. Mỗi câu có nghĩa lý của mỗi câu, mỗi chữ có ý nghĩa mỗi chữ, ý vị vô cùng.
“Cụ Túc Huệ Thần thấy rõ được”. Vị Phát Khởi Huệ Hương Chủ Trú Thần, hoàn toàn thấy được cảnh giới nầy, và còn thấy rất rõ ràng.
Phật phóng quang minh chiếu thế gian
Thấy nghe vui mừng không luống qua
Chỉ bày chỗ tịch diệt rộng lớn
Lạc Thắng Trang Nghiêm tâm ngộ hiểu.
“Phật phóng quang minh chiếu thế gian”. Phật phóng vô lượng đại quang minh tạng, chiếu soi hữu tình thế gian trong mười phương. Khiến cho tất cả hữu tình chúng sinh, bất cứ thấy được quang minh của Phật, hoặc nghe được pháp âm của Phật, đều đắc được công đức và lợi ích.
“Thấy nghe vui mừng không luống qua”. Không luống qua tức là không hư mất, không lãng phí. Nếu luống qua thì không được lợi ích. Phàm là chúng sinh thấy được quang minh của Phật, hoặc nghe được âm thanh của Phật, đều sinh ra vô lượng công đức pháp tài, vô lượng tâm vui mừng.
“Chỉ bày chỗ tịch diệt rộng lớn”. Phật thuyết pháp ở trong quang minh, để giáo hóa tất cả chúng sinh, không những thuyết pháp, mà còn nói pháp vi diệu thâm sâu vô thượng, và còn chỉ bày chỗ tịch diệt cho chúng sinh, tức cũng là bờ Niết Bàn. Niết Bàn tức là đạo lý: Thường, lạc, ngã, tịnh. Thường tức là pháp thân, Lạc tức là Niết Bàn, Ngã tức là Như Lai, Tịnh tức là pháp vô vi.
“Lạc Thắng Trang Nghiêm tâm ngộ hiểu”. Cảnh giới nầy, vị Lạc Thắng Trang Nghiêm Chủ Trú Thần ngộ và hiểu rõ, vào được môn giải thoát nầy.
Phật rưới mưa pháp vô biên lượng
Khiến cho người thấy vui mừng lớn
Căn lành tối thắng từ đây sinh
Ðây là sở ngộ của Diệu Quang.
« Phật rưới mưa pháp vô biên lượng ». Phật tức là Phật Thích Ca Mâu Ni, rưới tức là chỉ pháp của Phật nói. Mưa pháp tức là Phật nói pháp giáo hóa chúng sinh, giống như trời mưa, khiến cho chúng sinh đắc được đượm nhuần mưa pháp, mà tăng trưởng huệ mạng. Phật pháp vô lượng vô biên, cho nên không có chỗ nào mà chẳng phải là nơi Phật rưới mưa pháp đầy khắp, cho nên nói Phật rưới mưa pháp vô biên lượng.
« Khiến cho người thấy vui mừng lớn ». Phật nói pháp vi diệu thâm sâu vô thượng, chúng sinh thấy, hoặc nghe được, đều sinh tâm vui mừng lớn. Cho nên, cuối cùng mỗi bộ kinh đều nói « vui mừng lớn » (đại hoan hỉ) hoặc « vui mừng tin nhận » (hoan hỉ tín thọ) hoặc « tín thọ phụng hành, làm lễ lui ra ». Ðó là nói, phàm là người tham gia pháp hội, người nghe kinh nghe pháp, đều đắc được tâm vui mừng lớn.
« Căn lành tối thắng từ đây sinh ». Vì chúng sinh đắc được đượm nhuần mưa pháp, mà sinh ra căn lành thù thắng. Căn lành của chúng sinh sinh trưởng ở trong Phật pháp. Bạn muốn sinh căn lành chăng ? Vậy thì phải nghe kinh nghe pháp.
« Ðây là sở ngộ của Diệu Quang ». Cảnh giới nầy, vị Hoa Hương Diệu Quang Chủ Trú Thần ngộ hiểu được.
Vào khắp pháp môn sức khai ngộ
Nhiều kiếp tu trị đều thanh tịnh
Như thế đều vì nhiếp chúng sinh
Môn nầy Diệu Dược thấu rõ được.
« Vào khắp pháp môn sức khai ngộ ». Phật vào khắp tất cả tâm của chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều phát tâm bồ đề, kết quả bồ đề, và còn khiến cho tất cả chúng sinh vào khắp tất cả pháp môn, phát sinh sức khai ngộ.
« Nhiều kiếp tu trị đều thanh tịnh ». Pháp môn và sức lực nầy, là do Phật tu pháp môn thanh tịnh, từ vô thủy kiếp cho đến hiện tại. Phật đã trị sạch đủ thứ mao bệnh, cho nên thanh tịnh không ô nhiễm.
« Như thế đều vì nhiếp chúng sinh ». Phật vào khắp pháp môn tu học, khiến cho sức khai ngộ của chúng sinh, từ đời đời kiếp kiếp tu hành mà thành công. Tại sao Phật phải tu hành ? Vì phải nhiếp hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh đều được thanh tịnh.
« Môn nầy Diệu Dược thấu rõ được ». Cảnh giới nầy, vị Phổ Tập Diệu Dược Chủ Trú Thần hiểu rõ.
Ðủ thứ phương tiện hóa quần sinh
Ai thấy nghe được đều lợi ích
Ðều khiến nhảy nhót vui mừng lớn
Diệu Nhãn Trú Thần thấy như vậy.
« Ðủ thứ phương tiện hóa quần sinh ». Phật vì thật mà thí quyền, dùng đủ thứ pháp môn phương tiện quyền xảo, để giáo hóa chúng sinh, sau đó mới khai quyền hiển thật, khiến cho chúng sinh hồi tiểu hướng đại, phát tâm bồ đề, hành Bồ Tát đạo.
« Ai thấy nghe được đều lợi ích ». Hết thảy tất cả chúng sinh, bất cứ thấy được hóa thân của Phật, hoặc nghe được pháp âm của Phật, đều đắc được lợi ích. Nếu quy y Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, thì càng được lợi ích lớn.
« Ðều khiến nhảy nhót vui mừng lớn ». Phật hoàn toàn khiến cho tất cả chúng sinh sinh tâm vui mừng, khiến cho chúng sinh nhảy nhót lên không tự chủ được, quên mất chính mình. Phật pháp tức là khiến cho chúng sinh lìa khổ thế gian, mà đắc được vui xuất thế gian.
« Diệu Nhãn Trú Thần thấy như vậy ». Vị Lạc Tác Hỉ Mục Chủ Trú Thần, minh bạch thấy được cảnh giới môn giải thoát nầy.
Thập lực ứng hiện khắp thế gian
Mười phương pháp giới đều không thừa
Thể tánh chẳng không cũng chẳng có
Quán Phương Phổ Hiện vào môn nầy.
« Thập lực ứng hiện khắp thế gian ». Thập lực của Phật ứng hiện tận hư không khắp pháp giới, đầy khắp tất cả thế gian.
« Mười phương pháp giới đều không thừa ». Sức lực nầy, sung mãn khắp mười phương pháp giới, chẳng có nơi nào dư thừa.
« Thể tánh chẳng không cũng chẳng có ». Thể tánh của Phật chẳng phải không có, cũng chẳng phải có. Ðối với chúng sinh thì có khác biệt, khắp trong mười phương không thể nói không có. Ðối với Phật thì gọi là nhất chân pháp giới, không thể nói có.
« Quán Phương Phổ Hiện vào môn nầy ». Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Quán Phương Phổ Hiện Chủ Trú Thần vào được.
Chúng sinh lưu chuyển trong hiểm nạn
Như Lai thương xót hiện ra đời
Khiến cho tiêu diệt tất cả khổ
Môn giải thoát nầy của Bi Lực.
« Chúng sinh lưu chuyển trong hiểm nạn ». Chúng sinh tức là anh, tôi, họ, cũng bao quát hết tất cả chúng sinh; bạn, tôi, họ, là chúng duyên hoà hợp mà sinh, thiếu một duyên cũng không thể sinh, cho nên gọi là chúng sinh. Giống như ngũ cốc trồng xuống đất, phải có duyên trời che đất chở, duyên đất duyên nước, duyên ấm và duyên lạnh, và phải có duyên người làm, và duyên thời tiết. Ðầy đủ nhân duyên phối hợp rồi, thì mới sinh trưởng được. Chúng sinh cũng phải có duyên cha duyên mẹ hoà hợp, nếu không thì không thể sinh ra.
Lưu chuyển tức là lưu đi chuyển lại, chuyển đến chuyển đi. Tức cũng là đời nay làm người, đời sau làm trâu ngựa dê gà chó heo lục súc. Hoặc là đời trước làm lục súc, đời nay làm người, đó gọi là lưu chuyển. Có khi kiếp trước là ếch nhái hoặc chuột, nhưng vì gần gũi chùa chiền, cho nên có cơ hội nghe pháp nghe kinh. Thời gian lâu rồi chúng đều có công đức, gieo trồng căn lành, đời sau bèn chuyển sinh làm người, không những làm người mà còn xuất gia làm Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni.
Trước đây mấy hôm tôi thấy hai người xuất gia. Một vị kiếp trước là ếch nhái, phước báu rất lớn, cho nên mập mạp. Một vị kiếp trước là chuột, phước báu rất nhỏ, cho nên gầy ốm, nhưng vị đó rất thông minh.
Chuyện nầy nghe qua giống như là kể chuyện, giống như nói chuyện tiếu, nhưng là sự thật. Khi nào bạn chân chánh biết được, thì mới tin là có thật, chớ chẳng phải giả. Tuy nhiên họ xuất gia làm hòa thượng, nhưng lại tạo nhiều nghiệp ác, tương lai nói không nhầm thì, chưa chắt đã làm được ếch nhái hoặc là chuột, có thể phải làm con giòi trong hầm phân. Ðó là vì không tu công đức cho nên bị đoạ lạc, nếu siêng tu công đức, rộng gieo căn lành, thì phước báu đời đời tăng thêm, nói cho dễ hiểu, tu công đức thì có phước báu, không tu công đức thì chẳng có phước báu, đó là đạo lý lưu chuyển.
Chúng ta là người tu đạo, phải càng ngày càng sinh tâm tinh tấn, sinh đại đạo tâm, sinh tâm vui mừng, thì căn lành càng bám càng sâu. Căn lành sâu rồi, thì cành lá càng sum sê tươi tốt. Nếu hôm nay không tu hành, ngày mai không dụng công, ngày mốt lại giải đãi, cứ như thế thì, đạo nghiệp một ngày không như một ngày. Do đó, có thể chứng minh, bạn đời đời kiếp kiếp đều là hoà thượng lười như thế. Nếu tu đạo, lúc tiến lúc lùi, tiến tới một bước, lùi về sau hai bước, thì vĩnh viễn không đạt đến bờ kia. Công đức mình tu chẳng bao nhiêu, mà tạo tội thì nhiều, thì chắc chắn sẽ đọa lạc, tơ hào chẳng có gì nghi vấn. Ðó gọi là lưu chuyển.
Trong hiểm nạn tức là chỉ sự lưu chuyển trong các đường, con đường nầy rất nguy hiểm và gian nan, lang, trùng, hổ, báo, sư tử, rắn độc, thú dữ gì cũng đều có. Nếu gặp rắn độc sẽ bị rắn độc cắn chết, gặp thú dữ thì sẽ bị thú dữ cắn nuốt. Cho nên nói trong hiểm nạn.
Chúng ta người tu đạo, bất cứ xử lý việc gì, nên nhớ đừng có chút tâm đố kị, đừng có tâm cầu danh cầu lợi. Nếu có tâm cầu danh cầu lợi, hoặc tâm đố kị, vì cầu danh hoặc vì cầu lợi để tu đạo, thì chắc chắn sẽ đọa lạc, hoặc đoạ lạc vào điạ ngục, ngạ quỷ, súc sinh, đều không nhất định. Vì tu đạo phải tu nhẫn nhục Ba la mật, nếu không nhẫn được thì không bằng chết thanh tịnh; nếu không tinh tấn được, thì tu đạo có ích gì ? Nếu không rõ sự lý, thì càng ngày càng chẳng có ý nghĩa; nếu không hiểu Phật Pháp thì càng ngày càng đọa lạc, thậm chí đọa lạc vào trong hầm phân làm giòi, trải qua vô lượng kiếp rồi chuyển làm người, thân thể của họ sẽ toả ra một mùi hôi thối vô vùng. Phàm là thân thể người nào có một thứ mùi lạ, hoặc hôi thối thì, đều là kiếp trước không giữ giới luật.
Vừa nói về ếch nhái và chuột tái sinh làm người, lại xuất gia tu hành. Chắc chắn có người khởi hoài nghi: Làm sao biết được họ là ếch nhái tái sinh ? Làm sao biết được họ là chuột tái sinh ? Vấn đề nầy rất là đơn giản, rất dễ biết. Ai dũng mãnh tinh tấn, dụng công ngồi thiền, thì sẽ biết cảnh giới nầy. Ví như súc sinh sinh làm người, thì sau lưng xương sống của người đó, lưu lại bóng hình kiếp trước. Kiếp trước là súc sinh gì ? Thì hiện ra hình bóng đó. Song, phải là minh nhãn thiện tri thức mới biết được.
Nếu muốn biết mình kiếp trước là gì ? Thì hãy xem đời nầy mình làm những việc gì để quyết định, nếu bạn có tâm làm việc thiện, giữ quy cụ, thì bạn nhất định kiếp trước là người trồng căn lành. Nếu bạn không muốn làm việc thiện và không giữ quy cụ, thì nhất định kiếp trước là người chẳng trồng căn lành.
Người xuất gia, nhất định phải giữ gìn giới luật, dụng công tu hành, dù một giây một phút thời gian cũng đừng để luống qua, mỗi người phải có mỗi thời khóa biểu nhất định : Khi nào tọa thiền, khi nào tụng kinh, khi nào lễ Phật, khi nào trì Chú, đều phải làm đúng giờ. Bất cứ khổ như thế nào, mệt nhọc như thế nào, đều phải tự mình dụng công, tu pháp của mình. Không những một ngày có tâm thành, mà mỗi ngày đều có tâm thành, không những một ngày phải nhẫn nhục, mà mỗi ngày đều phải nhẫn nhục. Thành tâm nhẫn nhục là tại nơi mình, không thể gạt người. Phải dũng mãnh tu hành, mới mong thành tựu.
Làm sao biết được kiếp trước ? Phải xem họ giữ hay không giữ giới luật ? Giữ hay không giữ quy cụ ? Giữ được giới luật là có căn lành, giữ được quy cụ là thiện tri thức. Phàm là không giữ giới luật, vạch lộng tìm vết, làm cho người phiền não thì chẳng có căn lành.
Con mắt của con người tức là gương sáng, có khi chiếu bên ngoài, có khi chiếu bên trong, phải chiếu ngược lại, chiếu chính mình. Ðừng làm máy nhiếp ảnh, chỉ chiếu người mà không chiếu chính mình. Bất cứ là người xuất gia hoặc tại gia, đều phải hồi quang phản chiếu. Nếu thường hồi quang phản chiếu, thì sẽ có ngày thành công. Nếu không hồi quang phản chiếu, thì chỉ là lãng phí thời gian quý báu, đều để luống qua.
« Như Lai thương xót hiện ra đời ». Tại sao Phật xuất hiện ra đời ? Vì muốn giáo hóa chúng sinh cang cường khó điều khó phục, Phật thương xót tất cả chúng sinh. Những chúng sinh nầy mê mà không tỉnh, bất cứ dùng pháp môn gì để giáo hóa, họ cũng không giác ngộ. Họ chỉ biết đọa lạc vào trong ba đường ác, nhận súc sinh làm cha mẹ, ngạ quỷ làm bạn bè, đến địa ngục để tham quan, đều muốn thưởng thức, đáo để mùi vị như thế nào ? Cho nên, Phật thương xót loại chúng sinh nầy, mới xuất hiện ra thế giới nầy.
« Khiến cho diệt trừ tất cả khổ ». Phật đều khiến cho tất cả khổ não của chúng sinh đều tiêu diệt, mà đắc được an vui.
Người không có khổ thì không có vô minh, phiền não, nóng giận. Người chẳng có khổ mới là người tự tại thật sự. Nếu y theo pháp mà tu hành, thì mới đoạn được vô minh, diệt phiền não, như vậy thì sự nóng giận chẳng tồn tại dấu vết. Lúc đó mới đắc được Ba la mật.
« Môn giải thoát nầy của Bi Lực ». Môn giải thoát nầy, vị Ðại Bi Oai Lực Chủ Trú Thần thấy rõ được.
Chúng sinh trôi chìm trong đen tối
Phật vì thuyết pháp khiến thông đạt
Ðều khiến được vui trừ các khổ
Thiện Căn Quang Thần vào môn nầy.
« Chúng sinh trôi chìm trong đen tối ». Lúc chẳng có Phật ra đời, thì tất cả chúng sinh đều bị hãm ở trong thế giới đen tối, bị vô minh che đậy, trôi nổi ở trong ba đường ác, trong ba đường ác chẳng có ánh sáng, đen tối như ban đêm, chúng sinh vĩnh viễn chịu khổ ở trong ba đường ác, chẳng được tự do, càng không được ánh sáng.
Ba đường ác là gì ? Tức là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Ba đường ác nầy do tội nghiệt tạo thành. Vậy tại sao phải tạo tội nghiệt ? Vì tham sân si ba độc tác quái, tham thì chuyển làm ngạ quỷ, sân thì đọa vào địa ngục, si thì đọa làm súc sinh.
« Phật vì thuyết pháp khiến thông đạt ». Vì chúng sinh tạo tội nghiệt, mà đọa lạc vào ba đường ác. Dù ở trong ba đường lành cũng bị vô minh che đậy, cho nên cũng chẳng có trí huệ. Phật phát tâm thương xót vì những chúng sinh nầy, mà thuyết pháp khiến cho họ bỏ mê về giác, cải tà quy chánh, phát tâm bồ đề, cứu kính thành Phật.
Phật giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho họ hiểu đạo lý chân chánh, thì họ không còn tạo tội nghiệt nữa, muốn diệt trừ tham sân si, thì phải siêng tu giới định huệ, thực tiễn tín hạnh nguyện.
« Ðều khiến được vui trừ các khổ ». Phật giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho họ lìa khổ được vui, diệt sạch tất cả sự thống khổ.
« Thiện Căn Quang Thần vào môn nầy ». Vị Thiện Căn Quang Chiếu Chủ Trú Thần, đắc được cảnh giới nầy, minh bạch được Phật vì khiến cho tất cả chúng sinh dứt khổ được vui, mà xuất hiện ra đời. Vị nầy vào môn giải thoát nầy.
Phước Như Lai lường đồng hư không
Phước của thế gian từ đây sinh
Phàm ai làm được không luống qua
Hoa Anh đắc được giải thoát nầy.
« Phước Như Lai lường đồng hư không ». Tất cả phước của Phật đều là phước thanh tịnh. Tất cả phước của chúng sinh là phước không thanh tịnh. Song, phước không thanh tịnh là từ phước thanh tịnh sinh ra. Phước thanh tịnh cứu kính lớn cỡ nào ? Rộng cỡ nào ? Dài cỡ nào ? Có hạn lượng chăng ? Chẳng có ! Cho nên nói phước Như Lai lường đồng hư không. Hư không thì chẳng có số lượng, hư không thì chẳng cách chi tính được, cũng chẳng có bờ mé có thể tìm được.
« Phước của thế gian từ đây sinh ». Tất cả phước của thế gian đều chẳng thanh tịnh. Song, tất cả phước báu của thế gian, đều từ trong phước thanh tịnh của Phật sinh ra.
Phàm ai làm được không luống qua ». Bất cứ làm việc công đức gì, đều có phước báo không luống qua. Tuy nhiên, phước báu là từ trong phước thanh tịnh của Phật sinh ra, nhưng cũng phải tự mình đi làm công đức lành, thì mới được phước báo. Bằng không, thì đừng hy vọng có phước báo, phước báu chẳng phải ngẫu nhiên có được, mà là phải thực hành !
Nếu chúng ta làm việc thiện, lập công, tích tập công đức, thì mới có phước báo. Một số người thế gian chỉ biết tu phước trước mắt, mà không biết tài bồi phước báo cho tương lai.
Phước báo trước mắt là từ đâu đến ? Là từ vô lượng kiếp tài bồi mà đến. Tức là trong đời quá khứ tu đủ thứ căn lành, lập nhiều công, tích nhiều đức, cho nên đời này mới có phước báo. Vậy thì hãy nhớ phước báu cố hữu để tu phước báo vị lai. Ðó là phước lại thêm phước, trong phước tích phước, thì phước báu đời sau chắc chắn càng lớn.
Nếu không tiếp tục làm lành lập công tích đức, hưởng hết phước thì đời sau phải chịu khổ. Cho nên mới nói:
« Chịu khổ thì hết khổ,
Hưởng phước thì hết phước ».
Hai câu nầy rất quang trọng, hy vọng mọi người ghi nhớ, hiểu ý nghĩa hai câu nầy, thì cũng hiểu được đạo lý làm người.
Trồng nhân lành thì kết quả tốt, trồng nhân ác thì kết quả ác, đó là luật nhân qủa. Tuy nhiên đạo lý nầy rất đơn giản, dễ hiểu, song không thực hành thì chẳng ích gì! Cho nên chịu khổ thì hết khổ, hưởng phước thì hết phước, hai câu nầy rất là hệ trọng, nên nhớ ! không thể như gió qua tai!
Giống như bạn hiếu thuận với cha mẹ, thì con cái cũng sẽ hiếu thuận, do đó:
« Hiếu thuận thì sinh con hiếu thuận,
Con cháu hiếu thuận bồi đáp lại ».
Bạn hiếu thuận với cha mẹ như thế nào, thì con cháu của bạn sẽ hiếu thuận với bạn như thế đó, đó cũng là đạo lý nhân quả.
Dù con cái không biết hiếu thuận, thì bạn cũng nên hiếu thuận với cha mẹ, lấy thân làm gương ngày lại ngày, lâu dần thì từ từ sẽ cảm hóa con cái bất hiếu, mà biết hiếu thuận.
Tại nước Mỹ nầy, người dân chẳng có quan niệm về luân lý phải hiếu thuận với cha mẹ, tôn kính sư trưởng, mọi người đều cho rằng là xã hội bại hoại, ngựa hại bầy. Do đó, đều đồng loã, mắng họ chưởi họ, nói họ ngu si quá, cho rằng tuy cha mẹ sinh ra mình, nuôi dưỡng dạy dỗ mình, đó là trách nhiệm của họ, cho nên người già chẳng ai chiếu cứ, thật đáng thương xót ! Khoa học của nước Mỹ là nhất thế giới, nhưng người già chẳng ai trông, đó cũng là nhất thế giới. Ở nước Mỹ, ai hiếu thuận với cha mẹ là kẻ địch của mọi người, khắp nơi chịu kỳ thị, chịu bài bác, chịu phỉ báng, bị người phê bình là ngoan cố, bảo thủ, lạc hậu, không theo thời đại. Thanh niên nước Mỹ tìm hết phương pháp thanh toán cha mẹ, đấu tranh cha mẹ. Tóm lại, không những không báo ân dưỡng dục của cha mẹ, ngược lại bất hiếu với cha mẹ. Người làm cha mẹ, sinh ra con cái không giáo dục, để mặc chúng tự do phát triển, thì những con cái đó làm sao biết ý nghĩa chữ hiếu là gì ? Do đó, nuôi mà không dạy là lỗi của cha mẹ vậy.
Tại đất nước nầy, nếu đề xướng về hiếu đạo, thì một số thanh niên sẽ phản đối. Nếu đề xướng về làm “hippi” hoặc hút độc .v.v., thì họ hoan nghênh, nhiệt liệt ủng hộ. Dạy họ hướng về hạ lưu thì cho rằng tốt, dạy họ hướng về thượng lưu thì cho rằng xấu, chẳng phải là đáng thương xót chăng ?
Pháp luật trên thế giới đều khác nhau. Ðồng thế ấy, tại nước nầy thì hợp pháp, đến nước khác thì phạm pháp. Có nước cho đàn ông để tóc dài râu dài, cho rằng là tiến bộ, hiện đại, tân thời. Có nước cho rằng sẽ ảnh hưởng trị an xã hội. Ðất nước nầy không hoan nghênh người hiếu thuận, nước nọ thì hoan nghênh người hiếu thuận. Cho nên, trên thế giới nầy rất nhiều việc quái lạ, do đó:
“Mười dặm không đồng phong,
Trăm dặm không đồng tục”.
Viêc trên thế gian trăm kỳ ngàn quái rất khó nói, chẳng phải một đạo lý mà nói xong.
Tại đất nước tây phương trước kia chẳng có Phật giáo, ai ai cũng đều không cảm thấy thế nào là không tốt, bây giờ có Phật giáo, ai ai cũng không cảm thấy thế nào là tốt. Ðó là điên đảo tướng của chúng sinh. Có khi thật thì họ cho rằng giả, có khi giả lại cho là thật. Cho nên, một sự việc dùng một đạo lý nói thì không xong được. Song, dùng lý luận Phật giáo nói thì viên mãn được. Nếu bạn tạo tội nghiệt thì đọa lạc vào ba đường ác. Nếu bạn làm công đức lành thì vượt ra tam giới. Cho nên nói, phàm là làm việc gì cũng không luống qua.
« Hoa Anh đắc được giải thoát nầy ». Ðạo lý môn giải thoát đã nói ở trước, vị Hoa Anh Lạc Chủ Trú Thần minh bạch, hiểu rõ được.
Lại nữa, Chủ Dạ Thần Phổ Ðức Tịnh Quang, được môn giải thoát, vui tịch tĩnh thiền định đại dũng kiện.
Nghĩa lý ở trên chưa nói hết, bây giờ tiếp tục nói, cho nên gọi là lại nữa.
Ở trên đã giảng qua Chủ Trú Thần, là Thần quản lý ban ngày. Ðương nhiên cũng phải có Thần quản lý ban đêm. Những vị Chủ Dạ Thần nầy, phân làm đầu hôm, giữa đêm và cuối đêm ba phần. Các vị Thần nầy quan sát chúng sinh vào ban đêm, xem họ có tạo tội nghiệt chăng ? Nếu tạo tội nghiệt thì ghi nhớ. Tương lai khiến cho họ thọ quả báo. Có khi thấy chúng sinh tạo tội nhẹ thì không ghi nhớ, tựa như không biết.
Trong các vị Chủ Dạ Thần nầy, trong đó có bảy vị là thiện hữu của Thiện Tài đồng tử, trong năm mươi ba vị thiện tri thức. Vị Phổ Ðức Tịnh Quang Chủ Dạ Thần nầy, đức tính phổ biến để lợi ích chúng sinh, để cứu hộ chúng sinh, để khiến cho chúng sinh phát tâm đại bồ đề. Quang minh của vị nầy thanh tịnh vô ngại, ở trong quang minh lại hiện quang minh, hiện ra đủ thứ quang minh vô ngại, thật là diệu không thể tả.
Vị nầy đắc được môn giải thoát, vui tịch tĩnh thiền định. Tịch là lặng yên không động, tĩnh là tĩnh mà thông đạt, do đó Ềtĩnh cực quang thông đạtỀ, nghĩa là lặng đến chỗ cùng cực, thì trí huệ quang sẽ hiện tiền. Tịch nhiên tức là :
« Chư pháp tùng bản lai,
Thường tự tịch diệt tướng ».
Vì tịch diệt, cho nên là tĩnh. Vì tịch tĩnh thì được thiền lạc.
Thiền định là gì ? Thiền là tiếng Phạn, đầy đủ là Thiền na, dịch là “tĩnh lự”. Vì tĩnh lự mới có thiền, không tĩnh lự thì không có thiền. Ðịnh nghĩa là bất động, tóm lại, không động tức là định, động thì chẳng phải định. Có thiền mà không định, có định mà không thiền, thì không thể đắc được cảnh giới thiền duyệt vi thực. Công phu tu thiền định là ngồi thiền. Thiền là phải ngồi xuống, thì công phu mới hiện tiền, chẳng phải ngồi thiền là ngủ. Ngủ chẳng phải là ngồi thiền, mà là thiền ngủ. Ngủ chẳng phải thiền, thiền không thể ngủ. Khi nhập định thì lưng phải thẳng, đầu phải ngay, ngồi thẳng ngay ngắn, đầu không chúi, thân không nghiêng, hai mắt nửa nhắm nửa mở, đó là tư thế nhập định. Nhập định và ngủ khác nhau, ngủ thì mất đi linh tri linh giác, hồ đồ trong hồ đồ nhập mộng, gì cũng chẳng biết. Ðó là ngủ, chẳng phải định, nhập định cần có sức lực. Sức lực nầy chi trì thân thể không nghiêng ngã, không ngã về trước, không nghiêng về sau. Như thế, thì mới đắc được công phu thiền định.
Vui thiền định là gì ? Tức là ở trong định đắc được một thứ khoái lạc không gì so sánh được. Thứ khoái lạc nầy, không cách chi có thể hình dung, vượt ra khỏi sự suy nghĩ. Do đó :
« Ngôn ngữ đạo đoạn,
Tâm hành xứ diệt ».
Thứ vui thiền định nầy, là sự khoái lạc liên tục không ngừng, phải là người trải qua cảnh giới nầy, mới biết được diệu lạc của nó. Giống như:
« Như người uống nước,
Nóng lạnh tự biết ».
Thiền chẳng phải nói, mà là thực hành.
Có vui thiền định rồi, thì sinh ra một thứ tâm dũng mãnh tinh tấn, thứ dũng mãnh tinh tấn nầy chẳng phải là tầm thường, mà rất đặc thù, là một thứ đại dũng mãnh tinh tấn, là một thứ đại thiền định khoái lạc. Thứ tinh tấn nầy là kiên cố nhất, sự khoái lạc nầy là hằng thường nhất.
Ðại dũng kiện tức là định dụng, tức cũng là kham được chẳng sợ. Sức lực nầy rất rộng lớn, chẳng có sức lực nào cản trở được. Vị Chủ Dạ Thần nầy, đắc được môn giải thoát nầy. Vị nầy là thiện tri thức thứ ba mươi hai của Thiện Tài đồng tử, tức cũng là thiện hữu Ly Cấu Ðịa, đã chứng đắc địa thứ hai của bậc Bồ Tát.
Chủ Dạ Thần Hỉ Nhãn Quán Thế, được môn giải thoát, tướng công đức thanh tịnh rộng lớn đáng ưa thích.
Vị Hỉ Nhãn Quán Thế Chủ Dạ Thần nầy, mắt luôn luôn hoan hỉ. Vị nầy dùng mắt hoan hỉ, để quán sát tất cả chúng sinh thế gian. Nếu có chúng sinh ở trong hoạn nạn, thì vị nầy duỗi tay ra cứu giúp chúng sinh ra khỏi dầu sôi lửa bỏng, khiến cho họ được mát mẻ. Vì nhân duyên đó, cho nên mới đắc được công đức tướng thanh tịnh rộng lớn đáng ưa thích, đó là tâm của Bồ tát. Vị nầy đắc được môn giải thoát nầy, và còn là thiện tri thức thứ ba mươi ba của Thiện Tài đồng tử, tức cũng là Thiện Hữu Phát Quang Ðịa, đã chứng địa thứ ba của bậc Bồ tát.
Chủ Dạ Thần Hộ Thế Tinh Khí, được môn giải thoát, hiện khắp thế gian để điều phục chúng sinh.
Vị Hộ Thế Tinh Khí Chủ Dạ Thần nầy, bảo hộ tinh khí tất cả hữu tình chúng sinh thế gian, khiến cho tinh khí của tất cả chúng sinh không mất đi. Vì vị nầy phát nguyện bảo hộ tinh khí của chúng sinh, cho nên hiện khắp trong thế gian. Vậy hiện khắp trong thế gian để làm gì ? Ðể điều phục chúng sinh cang cường. Vì tướng ngã của chúng sinh quá sâu, ngã kiến quá nặng, cho nên dính mắc tại ngã tướng và ngã kiến, dù thiệt thòi đi một chút cũng không được : “Ðây là ta, kia là của ta”. Tóm lại, không chịu mình thiệt thòi, không muốn mình chịu khổ, đó đều là tác dụng của sự cang cường chấp trước. Vị Chủ Dạ Thần nầy phát nguyện để điều phục chúng sinh, khiến cho họ đều vào môn giải thoát, đều được lợi ích. Vị nầy là thiện tri thức thứ ba mươi bốn của Thiện Tài đồng tử, tức cũng là thiện hữu Diệm Huệ Ðịa, đã chứng địa thứ tư của bậc Bồ tát.
Chủ Dạ Thần Tịch Tĩnh Hải Âm, được môn giải thoát, tích tập tâm vui mừng rộng lớn.
Vị Tịch Tĩnh Hải Âm Chủ Dạ Thần. Tịch tĩnh hải âm là trong biển chẳng có âm thanh sóng gió. Biển cũng nhập định, chẳng có âm thanh, không nghe mà nghe, chẳng phải chẳng có âm thanh, mà là âm thanh tịch tĩnh, ban đêm chẳng có âm thanh gì hết, cho nên gọi là Tịch Tĩnh Hải Âm.
Vị nầy đắc được tâm vui mừng rộng lớn, tâm vui mừng nầy, do từng chút từng chút tích tập mà thành, tức cũng là tích ít thành nhiều, do đó: « Tích cát thành tháp », cho nên tụ tập tâm vui mừng rộng lớn.
Ai ai cũng biết vui mừng là tốt, song nhiều khi vẫn bi ai hoặc buồn phiền, tâm không vui mừng. Tại sao không vui mừng ? Vì chẳng tích tập tâm vui mừng rộng lớn. Nếu tích tập được tâm vui mừng rộng lớn, thì sẽ không buồn phiền.
« Tự cổ thần tiên vô biệt pháp,
Quảng sinh hoan hỉ không sinh sầu ».
Thần tiên thì tiêu dao tự tại, khoái lạc vô ngần, vì họ có tâm vui mừng. Tại sao chúng sinh có khổ não? Vì có tâm bi ai, cho nên không được khoái lạc luôn luôn.
Vị Chủ Dạ Thần nầy, đắc được tam muội tâm vui mừng rộng lớn, mà vào môn giải thoát tâm vui mừng rộng lớn, vị nầy là thiện tri thức thứ ba mươi lăm của Thiện Tài đồng tử, tức cũng là thiện hữu Nan Thắng Ðịa, đã chứng đắc địa thứ năm của bậc Bồ tát.
Chủ Dạ Thần Phổ Hiện Cát Tường, được môn giải thoát, lời nói vừa ý tự tại thâm sâu.
Vị Phổ Hiện Cát Tường Chủ Dạ Thần. Cát tường là hiện tượng tốt, hung ác là hiện tượng xấu, cho nên ai ai cũng thích cát tường mà chẳng thích hung ác. Do đó : « Cát tường như ý », cát tường là chẳng có việc xấu, như ý là toại tâm như ý. Vị nầy hiện ra khắp các hiên tượng cát tường, nếu ai gặp được vị nầy, thì chắt chắn sẽ cát tường, sẽ khoái lạc. Vị nầy đắc được tự tại thâm hậu phi thường, trong tâm có sự cảm giác hoan hỉ. Ai nghe được lời nói và âm thanh cũng đều vừa ý, đều vui mừng, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được. Vị nầy là thiện tri thức thứ ba mươi sáu của Thiện Tài đồng tử, cũng là thiện hữu Hiện Tiền Ðịa đã chứng được địa thứ sáu của bậc Bồ Tát.
Chủ Dạ Thần Phổ Phát Thụ Hoa, được môn giải thoát, quang minh đầy khắp hoan hỉ tạng rộng lớn.
Vị Phổ Phát Thụ Hoa Chủ Dạ Thần nầy, khiến cho tất cả cây cối đồng thời nở hoa. Môn giải thoát của vị nầy đắc được là, phóng quang minh đầy khắp pháp giới. Và còn đắc được hoan hỉ tạng rộng lớn, tức cũng là hoan hỉ vô cùng vô tận. Vị nầy là thiện tri thức thứ ba mươi bảy của Thiện Tài đồng tử, tức cũng là thiện hữu Viễn Hành Ðịa, đã chứng được địa thứ bảy của bậc Bồ Tát.
Chủ Dạ Thần Bình Ðẳng Hộ Dục, được môn giải thoát, khai ngộ chúng sinh, khiến cho căn lành thành thục.
Vị Bình Ðẳng Hộ Dục Chủ Trú Thần nầy, bình đẳng bảo hộ và giáo dục đối với tất cả chúng sinh, chẳng có tâm phân biệt, do đó: ỂMắt từ trông chúng sinhỀ, khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được khai ngộ và chứng quả bình đẳng.
Vị nầy đắc được môn giải thoát, khai ngộ chúng sinh, khiến cho chúng sinh khai mở tri kiến của Phật, ngộ tri kiến của Phật, vào tri kiến của Phật. Tức cũng là khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật. Khiến cho tất cả chúng sinh, không trồng căn lành thì khiến cho họ trồng, người đã trồng căn lành thì khiến cho tăng trưởng, đã tăng trưởng thì khiến cho thành thục, đã thành thục thì khiến cho họ được giải thoát. Vị nầy thường khiến cho căn lành của chúng sinh được thành tựu viên mãn, vào môn giải thoát nầy. Vị nầy là thiện tri thức thứ ba mươi tám của Thiện Tài đồng tử, tức cũng là thiện hữu Bất Ðộng Ðịa đã chứng được địa thứ tám của bậc Bồ Tát.
Chủ Dạ Thần Du Hí Khoái Lạc, được môn giải thoát, vô biên từ cứu hộ chúng sinh.
Vị Du Hí Khoái Lạc Chủ Dạ Thần nầy, thích du hí và khoái lạc. Giống như trong đạo tràng của chúng ta, có những trẻ em chạy qua chạy lại chơi đùa, chúng cho rằng đó là chơi vui, đó là du hí. Trẻ con đến đây chẳng nghe kinh, mà chỉ đùa giỡn chạy la ồn ào, đó là khoái lạc.
Chúng ta chúng sinh ở trong thế giới nầy cũng thế. Chư Phật Bồ Tát xem chúng ta cũng như trẻ con, chạy nhảy đùa giỡn, suốt ngày điên đảo thị phi. Chúng ta đều cảm thấy là khoái lạc. Vì chúng sinh thích du hí khoái lạc, cho nên vị Chủ Dạ Thần nầy, dùng sự du hí khoái lạc để giáo hóa chúng sinh, để khai đạo chúng sinh.
Vị nầy đắc được môn giải thoát, vô biên từ cứu hộ chúng sinh, dùng vô biên từ để ái hộ tất cả trẻ con. Có những vị cư sĩ thấy có trẻ con thì không vui, cho nên không đến nghe kinh. Họ không những chẳng đến nghe kinh, mà còn kêu người khác cũng đừng đến nghe kinh. Thật ra, dù không có trẻ con, họ cũng không đến nghe kinh, cũng không đến nghiên cứu Phật pháp, đó là khéo từ chối mà thôi. Vậy họ nghiên cứu gì ? Nghiên cứu nhảy đầm, nghe âm nhạc, xem truyền hình, họ dồn hết thời giờ vào những việc du hí vô ích, cho rằng đó là khoái lạc.
Bây giờ, có những người tại gia và xuất gia rất tệ hại, họ chẳng tinh tấn, không lạy Phật, không nghe kinh, không nghiên cứu Phật pháp, ngược lại còn ganh ghét người khác đến đây nghe kinh nghe pháp, còn khuyên họ đừng đến vô tri vô thức, nghe họ nói thế bèn tin, cho rằng họ nói có lý. Họ nói: « Trẻ con ở trong đạo tràng vừa khóc vừa la ồn ào, sư phụ giảng kinh lại nghe không rõ, không bằng ở nhà xem truyền hình còn khoái lạc hơn ». Thật ra, đó là mượn cớ không đến nghe kinh. Thứ người nầy, họ vốn chẳng muốn tu học Phật pháp, còn làm ảnh hưởng đến người khác không học Phật pháp, cho nên mới có tư tưởng như thế. Thật là dẫn người vào địa ngục, dẫn người vào đường tà. Cho nên, các vị phải chú ý loại người nầy, đừng để mắc lừa họ mà thối đạo tâm.
Vô biên từ tức là tha thứ cho người, bất cứ ai khinh thường ta, hoặc phỉ báng, vu cáo đều phải nhẫn nại.
Giống như trẻ con khóc, đừng đánh nó, cũng đừng chưởi nó, dùng lời từ bi để nói với nó, thì từ từ nó sẽ hết khóc, đó là vô biên từ.
Chủ Dạ Thần Chư Căn Thường Hỉ, được môn giải thoát, môn đại bi hiện khắp trang nghiêm.
Vị Chư Căn Thường Hỉ Chủ Dạ Thần nầy, mắt tai mũi lưỡi thân ý các căn luôn luôn biểu hiện sự hoan hỉ. Sự hoan hỉ nầy là pháp hỉ sung mãn. Nhãn căn thấy được pháp thì đắc được pháp hỉ sung mãn. Nhĩ căn mà nghe được pháp thì đắc được pháp hỉ sung mãn. Tĩ căn mà ngửi được pháp thì đắc được pháp hỉ sung mãn. Thiệt căn mà nếm được pháp thì đắc được pháp hỉ sung mãn. Thân căn mà giác được pháp thì đắc được pháp hỉ sung mãn. Ý căn mà biết được pháp thì cũng đắc được pháp hỉ sung mãn. Cho nên gọi là Chư Căn Thường Hỉ Chủ Dạ Thần.
Tâm từ bi của vị nầy rất lớn, luôn luôn giáo hóa chúng sinh, ban đêm bố thí tất cả pháp để gia bị cho tất cả chúng sinh, hoặc khiến cho chúng sinh ở trong mộng, đắc được lợi ích pháp thí, hoặc là trong sự ngồi nằm, cũng đắc được lợi ích pháp thí. Vị nầy thí pháp âm bình đẳng, khiến cho chúng sinh phát tâm bồ đề, cải ác hướng thiện.
Chữ « chư » của chư căn nầy, có thể làm từ trợ ngữ để nói. Từ trợ ngữ là nói một căn, tức là nói riêng về nhãn căn thường hỉ. Vậy vừa mới giảng “chư căn”, là nói nhãn nhĩ tĩ thiệt thân ý sáu căn. Bây giờ lại nói là nhãn một căn. Nếu nói riêng nhãn căn tức là từ trợ ngữ. « Chư » tức là chỉ một, cho nên nói nhãn căn thường thường hoan hỉ.
Vị Chủ Dạ Thần nầy làm việc ban đêm. Làm việc gì ban đêm ? Vị nầy dùng pháp thí để cứu hộ tất cả chúng sinh, cho nên đắc được môn giải thoát, hiện khắp tất cả các nơi để trang nghiêm cõi Phật. Tất cả công đức của vị nầy làm, đều hồi hướng cõi nước chư Phật mười phương, đều trang nghiêm cõi nước chư Phật trong mười phương. Ðó gọi là dùng sự trang nghiêm cho Phật, mà tự trang nghiêm cho mình, trang nghiêm cõi nước chư Phật, tức là trang nghiêm cõi nước chính mình. Tại sao ? Vì khi tương lai thành Phật, thì cõi nước của mình càng tô điểm trang nghiêm mỹ lệ. Vì phát tâm lớn vô lượng vô biên không thể tả, cho nên đắc được sự trang nghiêm cũng vô cùng vô tận không thể tả.
Vị nầy dùng môn đại bi trang nghiêm, để phổ độ tất cả chúng sinh. Ðại bi tức là cứu khổ chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui, vị nầy dùng pháp môn nầy, minh bạch được cảnh giới nầy mà đắc được môn giải thoát nầy.
Vị nầy dùng môn đại bi hiện thân trang nghiêm, để cảm hóa chúng sinh, cho nên có câu chuyện « Thạch ốc lưu ảnh, độc long hoa tâm ». Phật nói với tôn giả A Nan rằng: Trước kia, Như Lai đến núi Cổ Tiên, nước Na Càn Ha La, tại rừng Hoa Ðảm Bặc, bên hồ của rồng độc ở phía sau suối thanh liên hoa. Ở trong động La Sát, có năm con quỷ La Sát, biến hóa làm long nữ và thông dâm với rồng độc. Rồng độc làm mưa đá, khiến cho quỷ La Sát chạy tán loạn, do đó tạo thành tai nạn đói khát và bệnh ôn dịch. Hoạn nạn trải qua hơn bốn năm, vị quốc vương sợ hãi bèn khấn vái thần linh nhưng chẳng kết quả.
Lúc đó, có vị Phạm Chí tán thán công đức của Phật, cho nên vị quốc vương mới đốt hương khấn vái ở xa thỉnh đức Như Lai. Như Lai nhận sự thỉnh mời của quốc vương Phất Ba Phù Ðề nước Na Càn Ma La, thị hiện thần thông biến hóa rộng lớn. Quỷ La Sát và rồng độc đều thọ sự cảm hóa, cải tà quy chánh. Lúc đó, Long vương quỳ chắp tay ở trước Phật, thỉnh Phật ở lâu chỗ nầy, nói : « Nếu Phật không ở thì tôi sẽ phát tâm ác, không thể đắc được Vô thượng bồ đề, cho nên Phật mới hứa khả mà không rời hang rồng ».
Một lần nọ, Phật nhận lời mời của Long Vương vào thành giáo hóa, du hành đến những nơi mà đã từng hành Bồ Tát đạo trong qúa khứ, lúc đó, các loài rồng thấy được Phật muốn bỏ đi, mới khóc lóc thỉnh cầu đức Phật từ bi ở lâu, bèn nói với Phật: « Tại sao muốn bỏ chúng tôi mà đi ? Mỗi ngày tôi không thấy được tôn dung của Phật, thì sẽ làm việc ác, chắt sẽ phải đọa vào ba đường ác ».
Lúc đó, Phật an ủi Long Vương nói: « Ta đã nhận sự thỉnh cầu của nhà ngươi rồi, ngồi ở trong hang của nhà ngươi một ngàn năm trăm năm », đức Phật nói xong, bèn vọt thân nhập vào trong đá, tượng đó sáng rõ như gương. Do đó, các loài rồng luôn luôn thấy được đức Phật ngồi kiết già ở trên vách đá, bóng hiện ra ngoài. Nhờ đó, loài rồng chắp tay vui mừng, về sau không ra khỏi nơi đó.
Chủ Dạ Thần Thị Hiên Tịnh Phước, được môn giải thoát, khiến khắp tất cả chúng sinh đầy đủ sự vui thích.
Vị Thị Hiện Tịnh Phước Chủ Dạ Thần nầy, thường thị hiện ra cõi nước thanh tịnh. Chúng sinh có phước đức đều được độ đến bờ kia. Vậy, chúng sinh chẳng có phước đức thì không được độ chăng ? Cũng được độ, nhưng thời gian phải chậm một chút, chẳng phải được độ cùng lúc. Trước hết, độ chúng sinh bậc thượng, sau mới độ chúng sinh bậc trung, cuối cùng thì độ chúng sinh bậc hạ, độ có thứ tự.
Thị hiện cũng như thế, trước hết thị hiện cõi thanh tịnh, sau mới thị hiện cõi nước nửa tịnh nửa uế, cuối cùng thị hiện cõi đời ác năm trược. Ðời ác năm trược là thế giới của chúng ta đây. Năm trược là: Kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược, năm thứ cấu trược. Vì có năm thứ không thanh tịnh, cho nên ảnh hưởng thế giới của chúng ta đang ở, thành là đời ác năm trược.
Vị Chủ Dạ Thần nầy, hiện sức đại thần thông, quán sát khắp tất cả chúng sinh, ai có duyên chín mùi, thì đi độ chúng sinh đó. Chúng sinh cơ duyên chưa chín mùi, thì phải chờ đợi. Chúng sinh căn tánh kém nhất, thì đợi cuối cùng mới độ. Tóm lại, bất cứ căn lành lợi, hoặc hạ liệt, đều được độ, song chia ra độ trước độ sau mà thôi.
Phàm là việc chúng sinh ưa thích, thì vị Chủ Dạ Thần nầy, sẽ khiến cho họ mãn nguyện. Ví như bạn thích chó, thì cho bạn một con chó xinh đẹp, bạn thích mèo thì cho bạn một con mèo đáng mến. Có người nói: ỂPháp sư giảng pháp gì vậy ?Ề Tức là giảng pháp chó mèo. Ðộ người không được, thì độ chó mèo cũng không sai. Bạn đừng khinh thường chó mèo, Phật Thích Ca trong quá khứ, vừa làm chó vừa làm mèo, vừa làm nai, vừa làm rồng, cho nên tại Ấn Ðộ còn có cổ tích Lộc dã uyển. Các bạn đừng xem thường tất cả chúng sinh, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật.
Trên thế gian nầy, những gì con người mong muốn mà được mãn nguyện thì vui vẻ, còn không được điều mà mình mong muốn thì buồn rầu, đó là việc thường tình ! Trừ khi, người tu hành đã đến nhà rồi thì miễn bàn.
Vị Chủ Dạ Thần nầy, đắc được môn giải thoát nầy. Chỉ cần chúng sinh thích gì, thì vị nầy nhất định sẽ làm cho họ tùy tâm mãn nguyện.
Bấy giờ, Chủ Dạ Thần Phổ Ðức Tịnh Quang, nương oai lực của đức Phật, quán khắp tất cả chúng Chủ Dạ Thần, mà nói ra bài kệ.
Lúc đó, là lúc nào ? Tức là khi vị Thị Hiện Tịnh Phước Chủ Dạ Thần, nói kinh trường hàng xong rồi, thì lúc đó, vị Phổ Ðức Tịnh Quang Chủ Dạ Thần, nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp tất cả đại chúng Chủ Dạ Thần, mà nói ra bài kệ để tán thán Phật.
Các ông hãy quán Phật tu hành
Rộng lớn tịch tĩnh như hư không
Biển dục vô tận đều trị tịnh
Ly cấu đoan nghiêm chiếu mười phương.
« Các ông hãy quán Phật tu hành ». Vị Phổ Ðức Tịnh Quang Chủ Dạ Thần nói : Các ông hãy quán sát hạnh môn tu hành của Phật. Những pháp môn Phật tu hành, là khó hành mà hành được, khó nhẫn mà nhẫn được. Người chịu khổ không được mà Ngài chịu được. Hạnh người tu không được mà Ngài tu được, cho nên hãy quán sát những khổ hạnh khó hành của Phật tu.
Ðây chẳng phải nói suông là được, mà phải y pháp tu hành, tự mình hỏi mình, Phật tu khổ hạnh khó hành mà tu được, ta có thể tu được chăng ? Chẳng phải chỉ quán sát là xong, mà phải thực hành. Nếu không thể y pháp tu hành, thì nên sinh tâm sám hối.
« Rộng lớn tịch tĩnh như hư không ». Hạnh môn của Phật tu là rộng lớn nhất, tịch tĩnh nhất, giống như hư không. Hư không thì rộng lớn không bờ mé, hư không thì tịch tĩnh không âm thanh. Tướng của hư không là rộng lớn mà tịch tĩnh.
Phật chẳng có sự chấp trước, tu mà không tu, chứng mà không chứng. Không tu, không chứng, không chấp trước, cho nên giống như hư không. Hư không thì chẳng có tướng, nhưng không lìa tất cả tướng, cũng là: « Tức tất cả tướng, lìa tất cả tướng ».
« Biển dục vô tận đều trị tịnh ». Dục vọng của con người chẳng có bờ mé, cũng chẳng biết đủ, do đó:
« Nhân tâm bất túc xà thôn tượng ».
Dục niệm của con người chẳng có khi nào ngừng nghỉ, không bờ bến giống như biển cả, cho nên gọi là biển dục. Biển dục của chúng sinh tuy nhiên chẳng có bờ bến, song Phật dùng phương tiện pháp môn, làm cho biển dục của chúng sinh đều được thanh tịnh, khiến cho chúng sinh trở về cội nguồn, khôi phục lại bản lai chân diện mục, khiến cho chúng sinh giác ngộ tất cả, biết rõ pháp thế gian là vô thường.
« Ly cấu đoan nghiêm chiếu mười phương ». Phật là pháp thân ly cấu thanh tịnh, cho nên đoan chánh trang nghiêm đầy đủ, tức cũng là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân. Trí huệ quang minh chiếu soi khắp mười phương thế giới. Bây giờ, chúng ta đang giảng Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật, tức cũng là nơi trí huệ quang của Phật chiếu.
Tất cả thế gian đều thích thấy
Trong vô lượng kiếp gặp một lần
Ðại bi nghĩ nhớ khắp hết thảy
Môn giải thoát nầy Quán Thế thấy.
« Tất cả thế gian đều thích thấy ». Tất cả thế gian dù hữu tình hay vô tình thế gian, bao quát tất cả chúng sinh trong mười phương. Ðều thích thấy, tức là tất cả chúng sinh đều thích thấy được Phật.
« Trong vô lượng kiếp gặp một lần ». Song, trong vô lượng vô biên đại kiếp, mới có thể gặp được Phật, chẳng phải thường gặp được Phật.
« Ðại bi nghĩ nhớ khắp chúng sinh ». Phật dùng tâm đại bi để giáo hóa chúng sinh, nghĩ chúng sinh, tưởng chúng sinh, cho nên mới độ chúng sinh. Phật đều tưởng nhớ tất cả hết thảy chúng sinh khắp mọi nơi, cho nên nói đại bi nghĩ nhớ khắp chúng sinh.
« Môn giải thoát nầy Quán Thế thấy ». Môn giải thoát nầy, vị Hỉ Nhãn Quán Thế Chủ Dạ Thần thấy hiểu biết được.
Người tu đạo phải ngày càng tinh tấn, ngày càng có tâm thành, ngày càng có tâm sám hối. Nếu ngày càng lười biếng giải đãi, ngày càng cẩu thả, tu hành như thế, thì vĩnh viễn chẳng có tiến bộ, đừng nói đến sự thành tựu. Phải luôn luôn giữ chánh niệm, đừng khởi vọng tưởng, đừng sinh dục niệm. Nếu muốn đừng sinh dục niệm, thì trước hết phải giữ quy cụ. Quy cụ nầy chẳng phải là quy cụ của một người, mà là quy cụ của mọi người. Mọi người phải giữ quy cụ, vì không nương quy cụ thì không thể thành vuông tròn. Do đó, người tu đạo không giữ quy cụ, thì cũng giống như gỗ mục, không thể đẽo gọt được, cùng đạo lý ấy.
Nếu làm thầy Tỳ kheo mà không giữ quy cụ, thì chẳng có chút giá trị gì. Thầy Tỳ Kheo mà không giữ quy cụ, thì người tại gia học Phật pháp với thầy Tỳ kheo đó, càng không giữ quy cụ. Cử chỉ hành động nói năng của thầy Tỳ Kheo, đều là mô phạm cho người, cho nên đi đứng nằm ngồi, đều phải hợp với quy cụ, đó là oai nghi đại biểu của người xuất gia.
Nếu Tỳ Kheo khinh sư mạn pháp, chẳng tôn trọng đối với sư phụ, cũng chẳng cung kính đối với pháp, thì đó là làm Tỳ Kheo gì ? Ðừng nói đến muốn khai ngộ, muốn thành Phật. Như thế chỉ là càng ngày càng đọa lạc, làm Tỳ Kheo không hiểu quy cụ, thật không bằng người tại gia. Người tại gia đều hiểu được quy cụ, đều biết đi thỉnh pháp, phải đắp y trì cụ. Ngược lại, làm Tỳ Kheo mà không hiểu quy cụ nầy, vậy làm Tỳ Kheo gì vậy ? Tôi thấy thứ người nầy, thật rất là đau lòng !
Ðạo Sư cứu hộ các thế gian
Chúng sinh đều thấy ở trước họ
Khiến cho các cõi đều thanh tịnh
Hộ Thế quán sát được như vậy.
« Ðạo sư cứu hộ các thế gian ». Ðạo sư tức là sư tiếp dẫn, tức cũng là đức Phật. Vị Phật nầy tức là Phật Thích Ca Mâu Ni, chẳng phải mười phương ba đời tất cả chư Phật. Song, mười phương ba đời tất cả chư Phật, và Phật Thích Ca Mâu Ni, đều cứu hộ các thế gian, cứu tất cả các chúng sinh ra khỏi biển khổ, đồng thời bảo hộ tất cả chúng sinh và tất cả hữu tình thế gian.
« Chúng sinh đều thấy ở trước họ ». Phật xuất hiện ra đời, tất cả chúng sinh đều thấy được Phật ở trước mặt họ, để vì họ thuyết pháp. Ðây cũng giống như mặt trăng hiện khắp ở trong tất cả nước. Mặt trăng trong tất cả nước, vẫn do một mặt trăng hiện ra. Bây giờ, Phật hiện ra ở trước mặt chúng sinh. Tâm của chúng sinh tức là nước, Phật là mặt trăng, nếu tâm nước của chúng sinh lắng trong không đục, thì mặt trăng sẽ hiện tiền. Do đó:
« Phật thị thanh lương nguyệt,
Thường du tất kính không,
Chúng sinh tâm cấu tịnh,
Bồ đề ảnh hiện trung ».
Nghĩa là:
Phật như mặt trăng mát mẻ,
Thường lơ lửng trong hư không,
Tâm nước chúng sinh lắng trong,
Bồ đề giác đạo sẽ hiện ra.
« Khiến cho các cõi đều thanh tịnh». Phật khiến cho tất cả chúng sinh ở trong các đường ác, đều được tội diệt phước sinh, nghiệp sạch tình không, đều đắc được nghiệp báo thanh tịnh.
« Hộ Thế quán sát được như vậy ». Cảnh giới nầy, vị Hộ Thế Tinh Khí Chủ Dạ Thần quán sát được, hiểu biết được.
Xưa Phật tu trị biển hoan hỉ
Rộng lớn vô biên không thể dò
Nên ai thấy được đều vui thích
Tịch Tĩnh Hải Âm ngộ thấy được.
« Xưa Phật tu trị biển hoan hỉ ». Ðức Phật trong vô lượng kiếp về trước, khi bắt đầu tu hành và trị lý, thì tu hành hoan hỉ. Do đó:
« Tự cổ thần tiên vô biệt pháp,
Quảng sinh hoan hỉ bất sinh sầu ».
Thần tiên thì chẳng còn sinh tử, các Ngài đều tu hành hoan hỉ.
Hạnh hoan hỉ tức là đối với bất cứ người nào, cũng luôn luôn sinh tâm hoan hỉ, dù họ đối với mình không tốt, mình cũng sinh tâm hoan hỉ đối với họ. Tu hạnh hoan hỉ phải có tâm thường hằng mới thành tựu. Chẳng phải tu mười ngày, hai mươi ngày thì thành công, mà là phải tu hạnh nầy đời đời kiếp kiếp, tức là không nóng giận đối với bất cứ ai, không sinh phiền não với bất cứ ai. Chỉ tu hành tiến tới, không thối lùi về sau, tinh tấn tinh tấn càng tinh tấn, dũng mãnh dũng mãnh càng dũng mãnh !
Trong quá khứ, Ðức Phật tu hành hoan hỉ, thì bất cứ ai đối với Ngài không tốt, Ngài cũng đều sinh tâm hoan hỉ, mà không sinh tâm phiền não, cũng chẳng nóng giận. Chúng ta là đệ tử của Phật, thì hãy y theo hạnh của Phật tu mà tu hành.
Trong Thái Căn Ðàm có mấy câu :
« Quang phong tế nguyệt, thảo mộc hân hân
Nộ vũ tật phong, cầm điểu thê thê
Cố thiên địa bất khả nhất nhật vô hoà khí,
Nhân tâm bất khả nhất thời vô hỉ thần ».
Ðại ý là: Trời chẳng có mây gió, thì ánh trăng rạng soi, cỏ cây đều vui vẻ hớn hở. Khi cuồng phong bạo vũ nổi lên, thì cầm thú chim chóc đều bị thảm thê lương. Vì nguyên nhân đó, cho nên giữa trời đất, một ngày không thể chẳng có hòa khí; trong tâm con người, phải luôn luôn hoan hỉ vui vẻ.
« Rộng lớn vô biên không thể dò ». Biển hoan hỉ rộng lớn chẳng có bờ bến, không thể đo lường.
« Nên ai thấy được đều vui thích ». Vì nhân duyên đó, cho nên chúng sinh thấy được Phật, đều sinh tâm hoan hỉ vui vẻ.
« Tịch Tĩnh Hải Âm ngộ thấy được ». Cảnh giới nầy, môn giải thoát nầy, vị Tịch Tĩnh Hải Âm Chủ Dạ Thần minh bạch được.
Cảnh giới Như Lai không thể lường
Tịch mà diễn được khắp mười phương
Khiến khắp chúng sinh tâm thanh tịnh
Thi Lợi Dạ Thần nghe nhảy nhót.
« Cảnh giới Như Lai không thể lường ». Như Lai tức là:
“Không từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu”.
Bậc Như Lai giống như đến mà chẳng đến. Có đi chăng ? Cũng chẳng đi. Không đến không đi, cho nên gọi là Như Lai. Như Lai là một trong mười hiệu của Phật, tức cũng là Phật. Cho nên, Như Lai tức là Phật, Phật tức là Như Lai.
Một số người không hiểu Phật pháp, gọi Phật là Như Lai Phật. Thật ra, tức là Phật Phật, Phật Phật đạo đồng, Phật Phật đều như nhau. Phật và Phật là một thể, giống như quang minh với quang minh là một. Tuy nhiên quang minh có màu đỏ, màu vàng, màu trắng, màu tía, nhưng quang minh tương hợp, đều là quang minh. Phật với Phật chẳng phân biệt đó đây, cho nên mới nói:
« Ba đời mười phương Phật,
Ðều cùng một pháp thân ».
Tức cũng là một pháp thân, một quang minh.
Phật thì một quang minh, tại sao chúng ta chẳng phải là một quang minh ? Song, quang minh chẳng phải là một, nhưng khí là một. Khí là gì ? Tức là nóng giận. Bạn có nóng giận, tôi cũng có nóng giận, y cũng có nóng giận, mọi người cũng có nóng giận. Nếu biến sự nóng giận nầy, thành quang minh thì tốt biết bao ! Nếu tiêu diệt được sự nóng giận thì là quang minh, tức là trí huệ. Tại sao con người ngu si ? Vì có nóng giận. Nóng giận là do vô minh phiền não tích tập mà thành. Có sự nóng giận thật là đáng thương xót, phải biết lửa vô minh thường thiêu đốt rừng công đức. Vì có sự nóng giận cho nên sinh tâm sân hận. Tâm sân hận sinh ra rồi, thì tâm sát hại cũng sinh ra. Phải biết : Tâm sát hại, trộm cắp, dâm dục, nói dối, uống rượu, đều từ vô minh, phiền não, nóng giận, mà biến thành.
Cho nên, tôi mới nói sự nóng giận của con người là như nhau. Nhất là, tôi là người xuất gia tâm tham dễ sợ. Tham gì ? Tham sự nóng giận của người khác. Tôi muốn hết thảy mọi người, hãy đem tâm nóng giận bố thí cho tôi. Song, các bạn những người Mỹ đều xả bỏ chẳng đặng. Ôm ấp sự nóng giận, so với trân châu đá quý còn quý hơn. Bây giờ, nói với các bạn, xả bỏ không được cũng xả bỏ, không xả bỏ không được, không xả bỏ thì chẳng có phần thành Phật. Nếu xả bỏ được thì sẽ có phần thành Phật.
Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, song tất cả chúng sinh đều có ma tánh. Ma tánh tức là nóng giận. Bạn hãy nghĩ xem, có nóng giận thì sẽ tác quái, không có nóng giận, thì trở về nguồn cội, hiện ra đại quang minh tạng, Bát nhã trí huệ.
Tôi giảng nãy giờ quên mất thời gian, quên mất đề mục, nhưng hiện tại lìa đề chưa xa lắm, bây giờ trở lại ! Trở lại đâu ? Trở lại cảnh giới của Phật ở trên. Có người nói : Hòa Thượng có hiểu biết cảnh giới của Phật chăng ? Tôi chỉ hiểu biết chút chút cảnh giới của Phật, nhưng không nhiều. Người khác lại hỏi: ỂTại sao nói hiểu biết chút chút ?Ề Vì cảnh giới không thể lường được, chẳng có số lượng, chẳng có bờ bến, hoặc là không thể nói không thể nói. Tôi chỉ hiểu được cảnh giới không thể nói. Cảnh giới nầy tức là chỗ tôi biết. Nếu bạn truy cứu gốc rễ, thì cứu kính không thể nói ! Có người lại hỏi: ’’Tức nhiên là không thể nói, sao còn phải nói” ? Tôi cũng không thể nói, bạn cũng không cần hỏi. Tôi cũng không thể nói, đó là cảnh giới của Phật, bạn cũng không cần hỏi, đó tức là cảnh giới của Phật. Biết được chút chút nầy thì khá rồi, đừng biết quá nhiều, quá nhiều thì có phiền não. Lại có người hỏi : ‘’Chút chút nầy là gì ? ‘’Tức là phá vô minh, hiển pháp tánh. Phá được vô minh, thì pháp tánh tự nhiên sẽ hiển hiện ra, đó tức là chút chút cảnh giới của Phật. Minh bạch được cũng là cảnh giới của Phật, tất cả tất cả đều là cảnh giới của Phật. Nếu không minh bạch, cũng là cảnh giới của Phật. Bất quá bạn không biết, tạm thời chẳng thấu hiểu mà thôi. Ðó là đạo lý cảnh giới của Phật không thể lường.
‘’Tịch mà diễn được khắp mười phương’’. Cảnh giới của Phật là:
’’Tĩnh lặng không động,
Cảm mà toại thông.’’
Tĩnh lặng không động, mà chẳng có tướng tịch diệt, cảm mà toại thông, mà chẳng có tướng động. Cho nên mới nói: Tịch mà diễn được khắp mười phương. Nghĩa là : Không động đạo tràng mà khắp cùng pháp giới. Ðạo tràng, vì tịch mà diễn được, ở trong tĩnh lặng, Phật vì chúng sinh trong mười phương pháp giới, mà diễn nói diệu pháp.
Chúng ta đến chỗ nầy, thì chỗ kia chẳng có, đến chỗ nọ, thì chỗ nầy chẳng có. Vì không thể phân thân, cho nên không thể tịch mà diễn được. Ðộng tức là ngồi máy bay đến nơi nào đó để diễn nói, hoặc ngồi thuyền đến nơi đó để diễn nói. Phật có trăm ngàn ức hóa thân, cho nên tịch mà diễn được, không cần mua vé máy bay, hoặc tàu, mà đến khắp cùng mười phương thế giới, vì chúng sinh diễn nói diệu pháp.
Có người nói: ’’Ðó thật là quá thần diệu ! Nhưng bây giờ là thời đại khoa học, con người đi đến được mặt trăng mà còn giảng như thế, thật là không thực tế’’! Tức nhiên bạn nói điều nầy không thực tế, vậy thì bạn hãy đi tìm thực tế ! Tôi tin rằng bạn tìm chẳng được. Tự tánh của chúng ta có sự diệu dụng như vậy. Song, bạn chẳng minh bạch được đạo lý nầy. Giống như trong túi áo của bạn có hạt minh châu, mà bạn chẳng biết dùng nó, tuy là có mà giống như không có. Nếu bạn dùng được nó, thì ngàn biến vạn hóa, tùy tâm mãn nguyện, nhưng bạn phải biết dùng. Nếu không dùng được, thì như ý cũng không như ý, còn dùng được, thì không như ý cũng như ý.
Tại sao chúng ta có vô minh ? Vì ‘’ý‘’ chẳng thanh tịnh. Tại sao chúng ta có phiền não ? Vì ‘’ý‘’ chẳng thanh tịnh. Nếu ý thanh tịnh, thì vô minh cũng phá tan, phiền não cũng dứt. Vô minh không thể phá tan, thì phiền não không thể dứt. Tại sao ? Vì phiền não phải biến, biến gì ? Biến phiền não thành bồ đề, phá vô minh thành trí huệ.
Nếu đoạn được phiền não, làm sao biến thành bồ đề ? Cho nên không cần đoạn trừ, mà biến nó thành bồ đề. Phiền não tức là không minh bạch, mới sinh phiền não, bồ đề tức là minh bạch, mới sinh bồ đề. Ví như băng là phiền não, nước là bồ đề. Chẳng phải bảo đem băng nấu cho khô sạch, thì gọi là đoạn phiền não, không phải vậy !
Hãy làm cho băng tan thành nước, do đó : ’’Băng tức là nước, nước tức là băng’’. ‘’Phiền não tức là bồ đề, bồ đề tức là phiền não.’’
Tóm lại, bạn minh bạch tức là bồ đề, bạn hồ đồ tức là phiền não. Phiền não và bồ đề chẳng hai, mà là một. Cho nên đừng “đầu lại thêm đầu”, ở ngoài phiền não đi tìm bồ đề. Kinh văn ở trên nói khắp mười phương. Phiền não cũng khắp mười phương, bồ đề cũng khắp mười phương, trí huệ quang minh của Phật cũng khắp mười phương, đó đều có mối quan hệ với nhau.
Tại sao nói phiền não, vô minh, nóng giận, đều khắp mười phương ? Lý nầy rất đơn giản, vì trong mười phương đều có chúng sinh, có chúng sinh thì có phiền não, vô minh, nóng giận. Bồ đề cũng như thế, cũng khắp mười phương. Có chúng sinh thì có tánh bồ đề, tánh bồ đề tức là Phật tánh, do đó:
“Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh,
Ðều có thể thành Phật”.
“Khiến khắp chúng sinh tâm thanh tịnh”. Trong Kinh Hoa Nghiêm có câu:
“Nếu ai muốn biết cảnh giới Phật,
Hãy tịnh ý mình như hư không”.
Bạn muốn minh bạch cảnh giới của Phật, thì hãy làm cho ý thanh tịnh, thanh tịnh như hư không, dù một cũng chẳng chỗ thanh tịnh, bị bụi khói làm ô nhiễm. Tuy hư không bị ô nhiễm, đó là tính tạm thời, từ từ sẽ thanh tịnh, không khí không thanh tịnh, không lâu thì sẽ thanh tịnh. Phật khiến cho ý thức của tất cả chúng sinh được thanh tịnh, chẳng có chút ô nhiễm tồn tại.
“Thi Lợi Dạ Thần nghe nhảy nhót”. Thi Lợi tức là Phổ Hiện Các Tường, vị Dạ Thần nầy nghe được cảnh giới không thể tả nầy, mà vui mừng nhảy nhót, do đó: “Nghe pháp tâm quá đỗi vui mừng mà nhảy múa”.
Tôn giả Ðại Ca Diếp, là đệ tử lớn của đức Phật, chuyên tu khổ hạnh, cho nên xưng là đầu đà đệ nhất. Tôn giả nghe được pháp diệu quá êm tai, chẳng kiềm chế được bèn nhảy múa lên, cho nên pháp khiến cho ngu si chuyển thành trí huệ. Mục đích chúng ta học Phật pháp là học trí huệ. Có trí huệ rồi, thì sẽ không tạo các nghiệp ác mà tạo các nghiệp thiện. Vì có trạch pháp nhãn phân biệt được thiện và ác, đó là tác dụng của trí huệ.
“Bày pháp tịch diệt lìa trần cấu”. Phật mở bày cho chúng sinh vô phước, phải lìa bỏ tất cả nhiễm trước. Nhiễm trước tức là trần cấu, trần cấu thì không thanh tịnh, tức cũng là đời ác năm trược. Trần cấu nhiều thì sẽ đọa lạc, đọa đi xuống tức là trần cấu. Ðọa lạc vào đâu ? Vào ba đường ác. Bụi trần tuy nhiên từng hạt từng hạt, song, nhiều rồi thì trọng lượng cũng không nhẹ, cho nên phải lìa khỏi sự bám níu, sự bám níu tức là nghiệp chướng, lìa khỏi nghiệp chướng thì đắc được pháp tịch diệt.
“Phổ Phát Hoa Thần ngộ môn này”. Ðạo lý vừa giảng ở trên, vị Phổ Phát Thụ Hoa Chủ Dạ Thần, minh bạch cảnh giới nầy, mà vào môn giải thoát nầy.
Ðại thần thông hiện khắp mười phương
Tất cả chúng sinh đều điều phục
Các loại sắc tướng đều khiến thấy
Bình Ðẳng Hộ Dục quán sát được.
“Ðại thần thông hiện khắp mười phương”. Phật có thể hiện thần thông rộng lớn khắp trong mười phương. Tại sao phải hiện khắp thần thông rộng lớn ? Vì muốn độ khắp chúng sinh, khiến cho họ lìa khổ được vui.
“Tất cả chúng sinh đều điều phục”. Hết thảy chúng sinh không dễ gì điều phục. Trong Kinh Ðịa Tạng nói: “Chúng sinh ở cõi Nam Diêm Phù Ðề cang cường khó điều khó phục”.
“Các loại sắc tướng đều khiến thấy”. Phật thị hiện đủ loại pháp thân. Tại sao ? Vì khiến cho chúng sinh thấy được thân của Phật, mới tín ngưỡng Phật pháp. Trong Kinh Pháp Hoa nói : “Ðáng dùng thân gì độ được, thì hiện ra thân đó mà vì họ thuyết pháp”.
“Bình Ðẳng Hộ Dục quán sát được”. Cảnh giới nầy, vị Bình Ðẳng Hộ Dục Chủ Dạ Thần, quán sát được mà vào môn giải thoát nầy.
Mỗi niệm của Như Lai xưa kia
Ðều tịnh phương tiện biển từ bi
Cứu hộ khắp hết thảy thế gian
Giải thoát nầy của Phước Lạc Thần.
“Mỗi niệm của Như Lai xưa kia”. Phật ở trong vô lượng kiếp quá khứ, mỗi niệm đều không quên cứu độ chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui.
“Ðều tịnh phương tiện biển từ bi”. Tu pháp môn phương tiện nầy, đều hoàn toàn thanh tịnh. Dùng phương tiện để tăng trưởng tâm từ bi, dùng tâm từ bi để trợ giúp phương tiện, tương trợ lẫn nhau. Từ bi nhiều thì giống như biển cả, cho nên gọi là biển từ bi.
“Cứu hộ khắp hết thảy thế gian”. Phật vì cứu hộ chúng sinh hữu tình thế gian, nơi nào có chúng sinh, thì Phật đều thị hiện pháp thân, hoặc hóa thân. Trên thế gian, chẳng có nơi nào mà Phật không hiện thân. Phật là Ðạo sư vĩ đại nhất, từ bi nhất. Ngài tuyệt đối không bỏ một chúng sinh nào, dù chúng sinh này đã tạo ác nghiệp, chướng che bản tâm, không kham nạp thọ, thế mà Phật cũng nguyện cứu hộ họ. Hạnh của Phật là không thể giáo hóa mà giáo hóa, không thể độ mà độ hóa, vì tinh thần vĩ đại, nguyện lực vĩ đại, từ bi vĩ đại nầy, cho nên cứu hộ khắp hết thảy thế gian.
“Giải thoát nầy của Phước Lạc Thần”. Môn giải thoát nầy, vị Du Hí Khoái Lạc Chủ Dạ Thần đã chứng nhập được.
Chúng ta có muốn vào môn giải thoát nầy chăng ? Nếu muốn vào thì có thể vào, không muốn vào thì không thể vào. Tại sao ? Vì tất cả đều do tâm đạo, do đó:
“Người có chí, việc tất thành”.
Chí muốn thành Phật, thì sẽ thành Phật; chí muốn thành Bồ Tát, thì sẽ thành Bồ tát. Hãy xem chí nguyện của bạn để quyết định. Môn giải thoát nầy, ai ai cũng có cơ hội vào. Nếu chẳng có hy vọng, thì Phật giảng pháp môn nầy để làm gì ? Mục đích của Phật nói pháp, là dạy chúng sinh y pháp tu hành. Nếu không y pháp tu hành, thì pháp vốn chẳng có ích gì. Tức nhiên, Phật nói ra môn giải thoát nầy, thì bạn, tôi, họ, đều có tư cách vào môn nầy. Song, phải phát tâm tinh tấn dũng mãnh, tiến về trước, đừng lùi về sau. Như vậy, thì sẽ có hy vọng vào môn giải thoát nầy.
Chúng sinh ngu si thường loạn trược
Tâm họ cứng độc rất đáng sợ
Như Lai thương sót mà ra đời
Chư Căn Thường Hỉ Thần ngộ được.
“Chúng sinh ngu si thường loạn trược”. Chúng sinh tức là Phật, Phật tức là chúng sinh, đừng ở ngoài chúng sinh mà đi tìm Phật, cũng đừng ở ngoài Phật, mà đi tìm chúng sinh, cho nên, mười pháp giới không lìa một tâm niệm, một tâm niệm đầy đủ mười pháp giới. Do đó, tâm, Phật và chúng sinh là ba, chứ chẳng khác biệt, đó là chúng sinh.
Ngu si tức là trí huệ, trí huệ tức là ngu si. Ðạo lý nầy không dễ gì hiểu được. Ví như bề mặt bàn tay, và bề trái bàn tay, chuyển qua được tức là trí huệ, không chuyển qua được tức là ngu si. Ngu si và trí huệ là một thể hai mặt. Nếu hiểu thì là trí huệ, không hiểu thì là ngu si, chẳng có diệu lý gì thâm áo ! Cho nên, đừng đầu lại thêm đầu, ở ngoài ngu si đi tìm trí huệ, ở ngoài trí huệ lại đi tìm ngu si. Ðạo lý nầy, tức là tâm, Phật, chúng sinh, cả ba không khác biệt.
Phiền não tức bồ đề, bồ đề tức phiền não, phiền não tức là ngu si, bồ đề tức là trí huệ. Cho nên, phiền não và bồ đề là hai mà chẳng hai, chẳng hai mà hai. Nói ra lời nầy, giống như chẳng có ý nghĩa là bao, tức là ở trong cái chẳng có đại ý nghĩa, lại có đại ý nghĩa. Nếu riêng ngoài tìm cái có đại ý nghĩa, thì đó tức là đầu lại thêm đầu. Giống như sự ngu si của Diễn Nhã Ðạt Ða trong Kinh Lăng Nghiêm, chạy khắp các đường phố đi tìm đầu, gặp người bèn hỏi : “Ðầu của tôi chạy đi đâu mất rồi” ?
Thường loạn trược, tức là thường hỗn loạn mà ô trược, nghĩa là không thanh tịnh. Thường và ngắn đều khác nhau, song kéo dài một niệm làm tám vạn kiếp, thu tám vạn kiếp lại làm một niệm, chẳng có mục đích nhất định là thường, là ngắn. Tức nhiên chẳng có thường và ngắn, vậy, tại sao phải nói thường loạn trược ? Ðó là đối với tư tưởng của chúng sinh mà nói. Nếu nói ra thường loạn trược, thì chúng sinh nghĩ ta phải ngắn loạn trược, ngắn lại ngắn đi thì chẳng có, tức là ý nghĩa nầy.
Tôi là pháp sư không biết giảng kinh, cũng chẳng biết giảng giải, song tôi dùng tri kiến ngu si của tôi, để giải thích diệu pháp của Như Lai. Tận hết sở tri kiến của tôi giảng ra, để làm tư liệu cho mọi người tham khảo.
“Tâm họ cứng độc rất đáng sợ”. Ðộc nầy không thể phá hoại, giống như sự cứng rắn của đá kim cương, bất cứ vật gì cũng không thể phá hoại được, cho nên gọi là cứng độc. Sự cứng độc nầy ở đâu ? Ở trong tâm của chúng ta. Làm sao tâm sinh ra cứng độc ? Vì do tham sân si mà có, cho nên gọi là ba độc. Chỉ có sự ngu si, thì chưa có vấn đề là bao. Lão Tử nói: “Trí huệ xuất hữu đại ngụy”. Nếu bạn ngu si thì chẳng hư ngụy. Người có trí huệ mới làm điều hư ngụy. Lão Tử đã từng nói đoạn nầy :
“Ðại đạo phế, hữu nhân nghĩa.
Trí huệ xuất, hữu đại ngụy.
Lục thân bất hòa, hữu hiếu tử.
Quốc gia hỗn loạn, hữu trung thần”.
Tâm của chúng ta vì quá thông minh, cho nên mới có hư ngụy. Nếu ngu si thì chẳng có hư ngụy. Nhưng ngu si không thể đầy đủ tham sân si ba độc. Nếu ba độc đầy đủ, thì tâm cứng độc rất đáng sợ. Có gì đáng sợ ? Vì sớm phải đọa địa ngục, có thể nói không đáng sợ chăng ? Nếu làm ngạ quỷ, có thể nói không đáng sợ chăng ? Nếu biến thành súc sinh, có thể nói không đáng sợ chăng ? Nếu có người cho rằng không đáng sợ, vậy đừng ngại hãy thử xem, cứu kính đáng sợ hay chăng ?
“Như Lai thương xót mà ra đời”. Như Lai thương chúng sinh như mẹ thương con. Chúng sinh ở thế giới nầy tác quái, khi thì sinh về cõi trời, khi thì làm người, khi thì làm quỷ, khi thì làm A Tu La, khi thì làm súc sinh, khi thì đọa địa ngục. Du hí ở trong sáu nẻo, trôi nổi ở trong luân hồi mà không biết về nhà. Như Lai ở cõi Thường Tịch Quang đợi chờ, đợi rất lâu mà cũng chẳng thấy trở về, cho nên mới đến thế giới của chúng ta. Ðến nơi chúng ta ở để làm gì ? Thương xót chúng sinh, rờ đầu bạn, rờ đầu tôi, rờ đầu họ, đó là rờ đầu gia bị, nói : “Thiện nam tử ! Thiện nữ nhân ! Các con sớm tỉnh ngộ ! Ðừng tham luyến hồng trần, mau trở về cõi Thường Tịch Quang ! “Ðó là Như Lai thương xót chúng sinh mà xuất hiện ra đời.
Cõi Phật chia ra làm bốn thứ :
1. Cõi phàm, Thánh đồng ở : Tức là nơi Thánh nhân và phàm phu cùng ở với nhau.
2. Cõi phương tiện hữu dư : Tức là nơi Thanh Văn và Duyên Giác ở.
3. Cõi thật báo trang nghiêm : Tức là nơi Bồ Tát ở.
4. Cõi Thường Tịch Quang : Là nơi chư Phật ở.
“Chư Căn Thường Hỉ Thần ngộ được”. Vị Chư Căn Thường Hỉ Chủ Dạ Thần, ngộ được cảnh giới nầy, mà vào môn giải thoát nầy.
Vị Chủ Dạ Thần nầy đã phát bồ đề tâm, chẳng có tư tưởng ích kỷ, không muốn tự lợi, mà muốn lợi tha, cho nên nói lại môn giải thoát nầy, để cho tất cả chúng sinh đều nghe, mỗi chúng sinh đều muốn nghe môn giải thoát nầy.
Bạn muốn vào môn giải thoát nầy chăng ? Rất hoan nghênh ! Bất cứ ai vào cũng đều chẳng có vấn đề, hoan nghênh mọi người đều vào, nguyện tất cả chúng sinh đồng vào môn Bát Nhã Ba La Mật, hoan nghênh tất cả các vị thiện tri thức, đồng vào môn Bát Nhã Ba La Mật.
Xưa Phật tu hành vì chúng sinh
Tất cả mong cầu đều khiến đủ
Do đó thành tựu công đức tướng
Thị Hiện Tịnh Phước vào môn nầy.
“Xưa Phật tu hành vì chúng sinh”. Phật tức là đức Phật Thích Ca, cũng là mười phương ba đời tất cả chư Phật.
Vì Phật Phật đồng nhau. Một vị Phật tức là tất cả Phật. Tất cả Phật là một vị Phật. Phật và Phật giống như quang minh với quang minh, quang quang hợp với nhau, Phật Phật đồng nhau.
Xưa tức là trước kia, khi mỗi vị Phật chưa thành Phật, hoặc gọi là xưa kia, tức cũng là thời gian vô lượng kiếp.
Tu hành tức là tu chân hành đạo, đời đời kiếp kiếp đều tu hành như thế. Trước kia, khi chưa thành Phật, dù việc rất nhỏ cũng chú ý cẩn thận, tụ ít thành nhiều, từ từ biến thành đại tu hành. Ðại tu hành lâu dần, thành pháp thân vạn đức trang nghiêm, cuối cùng thành Phật.
Tu hành tự mình hiểu chân lý, giác ngộ chân lý, vẫn không quên chúng sinh, khiến cho chúng sinh cũng giác ngộ, đó là tư tưởng tự giác giác tha của Bồ Tát. Bồ Tát có ba mục tiêu lớn là : Tự độ độ tha, tự lợi lợi tha, tự giác giác tha. Tóm lại, tất cả đều vì lợi ích chúng sinh, tuyệt đối không vì lợi ích cho chính mình.
Giác ngộ có bắt đầu, có giữa, có cuối, tức cũng là tự giác, giác tha, giác mãn. Cuối cùng đắc được giác hạnh viên mãn. Lúc đó, tự giác cũng viên mãn, giác tha cũng viên mãn. Tám vạn bốn ngàn pháp môn đều tu hành viên mãn. Tại sao phải như thế ? Vì muốn độ chúng sinh, cho nên Phật mới tu hành.
Tại sao Phật không có việc tìm việc làm ? Ðã thành Phật rồi, thì ngồi tại đó tiếp nhận sự cúng dàng của tất cả chúng sinh không tốt chăng ? Bất tất phải đi cứu độ chúng sinh ? Vì Phật thấy tất cả chúng sinh với mình là một thể, cho nên phải độ mọi người đều thành Phật, đó là hoài bão của Phật. Bất cứ chúng sinh không nghe lời như thế nào, Phật cũng không thay đổi, vẫn thương xót chúng sinh, cứu độ chúng sinh. Làm thế nào Phật cứu độ chúng sinh ? Ở dưới đây đã nói ra.
“Tất cả mong cầu đều khiến đủ”. Tất cả những gì trong tâm của chúng sinh ưa thích, Phật đều khiến cho họ toại tâm mãn nguyện. Nguyện vọng của chúng sinh đầy đủ, thì sẽ cảm tạ công đức Phật, thì sẽ gần gũi Tam Bảo. Mục đích Phật tu hành là muốn độ chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khỏi biển khổ, chỉ cần quay đầu thì đến bờ kia.
“Do đó trọn thành công đức tướng”. Vì Phật muốn cứu độ chúng sinh, cho nên khiến cho cúng sinh đầy đủ mãn nguyện, chính Phật cũng đắc được công đức tướng, Công đức tướng là gì ? Do nhân duyên nầy, cho nên thành tựu đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm tướng tốt, mà làm Ðạo Sư của trời người.
Những công đức tướng nầy, đều do quá khứ tu hành mà thành tựu. Nếu có một pháp môn tu hành không thành tựu, thì công đức tướng trang nghiêm nầy, cũng không viên mãn. Nếu nói như thế thì có tướng chăng ? Phật là vô tướng. Tức nhiên là vô tướng, sao còn nói công đức tướng ? Nếu Phật vô tướng, vậy bạn lại tin Phật gì ? Phật là vô tướng vô bất tướng, chẳng có tướng vẫn tích tập tất cả tướng. Vì tích tập tất cả tướng, thì trong đó bao quát có công đức tướng.
“Thị Hiện Tịnh Phước vào môn nầy”. Môn giải thoát nầy, vị Thị Hiện Tịnh Phước Chủ Dạ Thần, thấy rõ mà ngộ nhập.
Bốn câu kệ nầy, đã giảng sơ lược xong, nếu giảng tỉ mỉ vẫn chưa giảng hết. Ðạo lý của Kinh Hoa Nghiêm là đầy khắp pháp giới. Nghĩa lý của mỗi câu kệ đều đầy khắp pháp giới, đầy đủ tám vạn bốn ngàn pháp môn. Cho nên, nếu giảng tỉ mỉ thì hết thuở kiếp vị lai, cũng không thể giảng hết được. Tôi chỉ có thể nói chút chút nầy, nếu nói nhiều tôi cũng không hiểu. Tuy nhiên nghĩa lý rộng lớn, song tri thức của tôi có hạn, không thể giảng nhiều.
Vậy, tại sao tôi nói có nhiều nghĩa lý như thế ? Vì khuyên các bạn tự đi nghiên cứu, tự phát huy, tự tìm ở trong thật tạng. Vì nguyên nhân đó, cho nên tôi mới giảng chút chút. Song, người nghe kinh, tất phải nghiên cứu minh bạch chút chút đạo lý nầy, thì được ích lợi chẳng nhỏ. Nếu chút chút đạo lý nầy mà không hiểu, thì làm sao hiểu vô lượng vô biên đạo lý ?
Tuy nhiên thường nói : “Một làm vô lượng, vô lượng làm một”. Nhưng thế nào là một làm vô lượng ? Thế nào là vô lượng làm một ? Ðạo lý nầy, dạy bạn tự mình đi thể nghiệm, đi lĩnh hội. Giống như ăn đồ ăn, có ăn mới no, không ăn thì không no. Ăn rồi mới biết mùi vị, trước khi ăn không cách chi biết được mùi vị gì, cho nên nói: Phải vào sâu tạng kinh, thì trí huệ sẽ như biển. Phải sớm nghiền ngẫm, luôn luôn nghiền ngẫm thì mới đắc được trí huệ.
Lại nữa, Chủ Phương Thần Biến Trụ Nhất Thiết, được môn giải thoát, sức cứu hộ khắp hết thảy chúng sinh.
Nghĩa văn ở trước chưa giảng xong, nay tiếp tục giảng, cho nên gọi là lại nữa.
Vị Biến Trụ Nhất Thiết Chủ Phương Thần. Phương là phương hướng. Phương hướng tức là mười phương, mười phương là nơi ở của tất cả chúng sinh. Phương có sự phân biệt một phương, bốn phương, tám phương, mười phương. Bây giờ là biến trụ nhất thiết, có thể nói đến mười phương. Không có biến trụ nhất thiết, thì có thể nói đến một phương.
Mười phương thế giới, đều là chỗ ở của vị Chủ Phương Thần nầy. Vị nầy ở trong mười phương thế giới để làm gì ? Phải chăng hy vọng người đốt cho mình chút hương ? Cúng kiến ? Lễ lạy ? Cung kính ? Chẳng phải ! Vị nầy đắc được sức cứu hộ khắp tất cả chúng sinh, phải chăng sức lực nầy chính vị nầy đắc được ? Chẳng phải, là nhờ thần lực của Phật gia bị, khiến cho vị nầy minh bạch cảnh giới này. Vị nầy đắc được môn giải thoát nầy.
Cảnh giới và môn giải thoát nầy, là một trong vô lượng pháp môn của Phật. Cho nên vị nầy đắc được sức cứu hộ khắp hết thảy. Sức cứu hộ nầy là khắp hết thảy, chẳng có lựa chọn, chẳng có phân biệt. Chẳng phải nói chúng sinh nầy đốt hương, cúng kiến, và lễ lạy tôi, thì tôi cứu hộ cho, còn chúng sinh kia, không lễ lạy tôi, không cung kính tôi, thì tôi không cứu hộ họ, chẳng phải như thế, mà là khắp hết thảy. Bất cứ cúng dường hay không cúng dường, chỉ cần chúng sinh có tai nạn, thì vị Chủ Phương Thần nầy đến cứu bạn. Bất cứ có tai nạn hoặc không có tai nạn, vị nầy cũng đều đến cứu hộ chúng sinh. Nếu có tai nạn thì có thể làm cho tiêu tai nạn, không có tai nạn thì có thể khiến cho tai nạn không hiện tiền. Tóm lại, chúng sinh đã phát sinh tai nạn, thì vị nầy cũng đến cứu, chúng sinh sẽ phát sinh tai nạn, thì vị nầy cũng đến cứu, chúng sinh chưa phát sinh tai nạn, thì vị nầy cũng đến cứu. Cho nên, gọi là sức cứu hộ khắp hết thảy, không phân biệt chúng sinh thiện ác, cũng không lựa chọn chúng sinh thiện ác, mà bình đẳng cứu hộ đồng đều, cho nên gọi là môn giải thoát, sức cứu hộ khắp hết thảy chúng sinh.
Chủ Phương Thần Phổ Hiện Quang Minh, được môn giải thoát, nghiệp thần thông thành tựu biện tài giáo hóa tất cả chúng sinh.
Vị Phổ Quang Minh Chủ Phương Thần nầy, quang minh hiện khắp trong mười phương, khiến cho tất cả chúng sinh trong mười phương, thấy được quang minh nầy, thì thành tựu nghiệp thiện, thành tựu nghiệp thanh tịnh, thành tựu nghiệp thần thông. Thành tựu nghiệp thiện, khiến cho tất cả chúng sinh, sinh phát tâm thiện, làm công đức thập thiện, tu giữ năm giới. Thành tựu nghiệp thanh tịnh, thì khiến cho nghiệp nhiễm ô của tất cả chúng sinh đều không, thì nghiệp thanh tịnh sẽ có sở thành tựu. Thành tựu nghiệp thần thông, khiến cho tất cả chúng sinh xa lìa ngu si, đắc được thần thông trí huệ. Cho nên nói, vị nầy đắc được nghiệp thần thông thành tựu biện tài giáo hóa tất cả chúng sinh.
Nghiệp thần thông trợ giúp cho người tu đạo quả bồ đề, có thể dùng: “Sở tác dĩ biện, đại sự dĩ tất, bất thọ hậu hữu”. Những việc gì đáng làm đã làm xong, tất cả mọi việc cũng đều hoàn thành, không còn trôi nổi trong sáu nẻo sinh tử luân hồi nữa. Lúc đó, đắc được quả viên mãn không sinh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm.
Vị Chủ Phương Thần nầy, đắc được cảnh giới nầy, vào môn giải thoát nầy. Môn giải thoát nầy, là một pháp môn trong tám vạn bốn ngàn pháp môn. Bất cứ người nào, chỉ cần chuyên tâm để tu pháp môn nầy, thì đều có thể thành tựu, đều có thể vào môn giải thoát nầy.
Chủ Phương Thần Quang Hành Trang Nghiêm, được môn giải thoát, đại quang minh phá tan tất cả ám chướng sinh hỉ lạc.
Vị Quang Hành Trang Nghiêm Chủ Phương Thần nầy, cũng phóng đại quang minh, do định sinh huệ. Giới định huệ mà tu thành rồi, thì đắc được quang minh, cho nên gọi là môn giải thoát đại quang minh.
Ðắc được đại quang minh mới có trí huệ, thì tự nhiên được giải thoát. Tại sao chúng ta không được giải thoát ? Vì chúng ta chẳng có trí huệ chân chánh. Vị Chủ Phương Thần nầy, nói ra cảnh giới nầy, chúng ta cũng nên y pháp tu hành, thì cũng phá trừ được tất cả ám chướng, chứng được môn giải thoát nầy.
Bây giờ, thời giờ còn lại là vấn đề nghiên cứu kinh văn, hy vọng mọi người nêu ra vấn đề, để cùng nhau nghiên cứu, để mọi người phát biểu ý kiến. Hôm nay giảng Kinh Hoa Nghiêm, có những chỗ nào không đúng thì mọi người hãy thảo luận.
Giảng kinh văn không cần giảng quá nhiều, phải chân chánh hiểu rõ nghĩa kinh, thì mới đắc được pháp ích. Nếu có chỗ nào không hiểu, tôi sẽ không ngại giảng lại lần nữa, đến khi bạn minh bạch mới thôi. Bây giờ, mọi người đều có quyền nói, đều có tư cách phê bình. Mọi người hãy đưa ra nghi vấn để thảo luận. Nhất định phải phát huy hết nghĩa lý kinh văn, khiến cho ai nấy cũng đều minh bạch hiểu rõ triệt để, như vậy thì không uổng thời gian chúng ta ngồi lâu tại chỗ nầy.
Bây giờ có người đưa ra vấn đề. Làm thế nào được làm thần ? Có thể nói “Thông minh chánh trực gọi là thần”, chỉ cần thông minh, lời nói lại ngay thẳng, đó tức là thần. Thần chẳng phải là kỳ quái gì, cũng chẳng phải huyền diệu. Người trong âm là quỷ, người trong dương là thần. Có đen tối tức là quỷ, có quang minh tức là thần. Thần chẳng phải là đi tìm ở bên ngoài, chính mình có trí huệ tức là thần, chính mình ngu si tức là quỷ. Chúng sinh ngu si lấy tham sân si làm chủ, đó tức là chúng sinh quỷ ngu si. Chúng sinh thông minh lấy giới định huệ làm chủ, đó tức là chúng sinh thần thông minh.
Thần có nhiều loại, nào là: Sơn thần, thổ thần, thiên thần, địa thần, thảo thần, thụ thần, phong thần, vũ thần, thủy thần, hỏa thần .v.v. Thần của Lão Tử nói là Cốc thần, thần của nhà nho nói là Thiên thần. Lão Tử đã từng nói :
“Cốc thần bất tử, thị vị nguyên tẫn.
Nguyên tẫn chi môn, thị vị thiên địa căn”.
Cốc thần là ngoài trời đất, sức đại khí. Cốc thần là không chết cũng không sinh, cho nên nói là cốc thần bất tử. Nguyên tẫn tức là con đường sinh giữa trời đất, cho nên nói là làm căn bản của trời đất, đó tức là Thiên địa căn.
Nhà nho nói :
“Sung thật nhi hữu quang huy chi vị đại,
Ðại hóa chi chi vị Thánh,
Thánh nhi bất khả tri vị chi thần”.
Sung thật mà vẻ vang, đó là đại nhân. Lớn rồi lại khởi biến hóa, đó là Thánh nhân, Thánh nhân chẳng kiêu ngạo, lớn mà nhỏ, nhỏ mà lớn. Vị Thánh nhân nầy, tức là Khổng Lão Phu Tử. Thánh nhân cũng chẳng biết, biến hóa cũng biến không ra, đó đều là không thể nghĩ bàn, đó gọi là Thần.
Các bạn nói Thần cứu kính là gì ? Muốn biết vấn đề làm thế nào mà thành Thần chăng ? Bây giờ không cần nghiên cứu họ, chỉ cần nỗ lực dụng công tu hành, đến khi thành Phật, thì lúc đó chẳng có gì mà không biết, chẳng có gì mà không thấy, đó mới là Chánh Biến Tri, mà không phải là tà biến tri. Lúc đó, trên thì biết được nhân duyên vô lượng kiếp, dưới thì biết được nhân duyên vô lượng kiếp. Ðừng nói là Thần những gì cũng đều biết ! Bây giờ lại hà tất không việc tìm việc làm ? Muốn biết pháp môn làm thần ? Phải chăng muốn làm thần ?
Vị Chủ Phương Thần nầy, với Thần vừa mới nói chẳng giống nhau, chẳng phải Thần của bạn, cũng chẳng phải Thần của tôi, càng không phải thần của họ, mà là Bồ Tát thị hiện làm thần. Những vị pháp thân Ðại sĩ thị hiện làm thần, đến thế gian để giáo hóa tất cả chúng sinh. Các Ngài vốn cũng là chúng sinh, vì tu hành mà thành Bồ Tát, tại sao phải hỏi chúng sinh làm sao làm thần ? Tại sao không nghiên cứu chúng sinh làm thế nào để thành Phật ? Tức nhiên, biết đạo lý chúng sinh làm thế nào để thành Phật, thì cũng biết đạo lý chúng sinh làm thế nào để làm thần. Vì Phật cao hơn Thần mấy vạn lần, do đó vấn đề nầy chẳng phải là vấn đề.
Chủ Phương Thần Du Hành Vô Ngại, được môn giải thoát, hiện khắp tất cả chỗ mà không mệt nhọc.
Vị Du Hành Vô Ngại Chủ Phương Thần nầy, bất cứ đi đến cõi nào cũng đều không chướng ngại. Tại sao ? Vì vị nầy có thần thông biến hóa diệu dụng, đến khắp tất cả cõi nước trong mười phương giáo hóa chúng sinh, chịu mệt chịu nhọc, không sợ khổ, không sợ gian nan, chỉ cần chúng sinh cải ác hướng thiện, thì dù khổ nhọc mấy cũng tình nguyện. Thần mà Bồ Tát hóa hiện đều có tâm từ bi, xem chúng sinh như quyến thuộc, cứu chúng sinh lìa khỏi lò lửa tam giới. Vị Chủ Phương Thần nầy vào môn giải thoát nầy không mệt nhọc.
Hôm nay báo cáo với mọi người, một tin mới về Quả Du (Hằng Cụ) và Quả Ðạo (Hằng Do) hai vị “Tam bộ nhất bái”. Hai vị nầy lạy từ San Francisco thẳng đến tiểu bang Seattle. Không ngờ lạy giữa đường quần của Quả Ðạo bị rách nát, tình hình rách rất là nghiêm trọng, không thể nào mặc quần rách rưới mà lạy, như vậy thì mất oai nghi. Hai vị suy nghĩ tìm cách mãi mà chẳng có kết quả gì, chính lúc hết cách suy nghĩ tìm tòi, thì hốt nhiên phát hiện ở giữa đường có một cái quần, lượm lên xem thì cái quần đó không lớn không nhỏ, không dài không ngắn, kích thước vừa vặn cho Quả Ðạo mặc. Các bạn nói có lạ chăng ?
Chủ Phương Thần Vĩnh Ðoạn Mê Hoặc, được môn giải thoát, thị hiện số danh hiệu đồng tất cả chúng sinh, mà phát sinh công đức.
Vị Vĩnh Ðoạn Mê Hoặc Chủ Phương Thần nầy, vĩnh viễn đoạn tuyệt mê hoặc. Mê hoặc là gì ? Mê hoặc tức là chẳng thấy rõ gì hết, cũng chẳng biết gì hết. Hoặc là mê hoặc, gì cũng chẳng rõ ràng, phải thì cho là trái, trái thì cho là phải. Trắng thì cho là đen, đen thì cho là trắng, nghĩa là nhận lý không thật, sinh khởi mê hoặc. Lại có thể nói, lấy sự nhận làm lý, lấy lý nhận làm sự, sự lý chẳng phân biệt rõ ràng, trắng đen chẳng phân biệt rõ ràng, thậm chí, ta, người, cũng không phân biệt rõ ràng. Tại sao chẳng rõ ràng ? Vì sinh ra hồ nghi, cho nên không tin bất cứ lý và sự. Giống như hồ ly mùa đông đi qua sông, đi trên băng mà luôn luôn vẫn hoài nghi, sợ băng tan thì lọt xuống nước, cho nên đi một bước, thì phải lắng nghe thử băng có âm thanh gì chăng, nếu có âm thanh thì chứng minh băng không chắc chắn, dễ lọt xuống nước, hành vi như thế là hồ nghi. Hồ ly khéo nghi, đó là biểu hiện sự hoài nghi.
Trong Kinh Kim Cang có nói : “Ðoạn nghi sinh tin”. Nghĩa là đoạn được mê hoặc, thì sẽ sinh tín tâm, như thế thì có Bát nhã trí huệ chân chánh.
Vị Chủ Phương Thần nầy, thường đoạn mê hoặc cho ai ? Thường đoạn mê hoặc cho chúng sinh, khiến cho chúng sinh bỏ mê về giác, cải ta quy chánh, cho nên tên của vị nầy là Vĩnh Ðoạn Mê Hoặc Chủ Phương Thần.
Vị Chủ Phương Thần nầy, đắc được môn giải thoát: Thị hiện số danh hiệu đồng tất cả chúng sinh, mà phát sinh công đức, tức cũng là Phật hiện khắp số danh hiệu của tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều phát sinh công đức tâm bồ đề. Phật khiến cho chúng sinh, chưa phát công đức bồ đề tâm, thì phát bồ đề tâm. Chẳng phải khiến cho một chúng sinh phát bồ đề tâm, mà là khiến cho hết thảy chúng sinh đều phát bồ đề tâm. Phát bồ đề tâm chẳng phải hôm nay tu hành, thì hôm sau mới phát bồ đề tâm, mà là trong vô lượng kiếp về trước, đã phát bồ đề tâm. Bất quá, đến bây giờ mới sinh ra một sức lực bồ đề, tương lai sẽ kết quả giác bồ đề.
Có người nói : “Chẳng phải ! Lúc nào đó, tôi nghe kinh gì đó, thì tôi phát tâm tin Phật”. Bạn nghe được kinh, là nhân bồ đề xa. Nếu chẳng có nhân bồ đề xa, thì vốn không cách chi nghe được kinh. Bạn hãy nhìn xem ! Trên thế gian nầy có bao nhiêu người chẳng nghe được kinh ? Có bao nhiêu chúng sinh chẳng nhìn thấy được Phật ? Chẳng nghe được pháp ? Chẳng thấy được Tăng ? Những chúng sinh nầy, nhiều vô lượng vô biên. Vậy họ đã phát bồ đề tâm chăng ? Ðã gieo hạt giống bồ đề chăng ? Họ đều đã phát bồ đề tâm, và đã trồng xuống hạt giống bồ đề. Song, giống như nhân sâm, nếu thấy người thì ẩn tàng dưới đất sáu mươi năm, qua sáu mươi năm sau mới đội lên. Nếu như người không thấy nó, thì mỗi năm nó sẽ lên.
Bồ đề tâm cũng như thế, nếu không gặp ma, thì nó luôn luôn đều phát triển, nhưng khi gặp ma, thì cũng phải ẩn tàng lại, ẩn tàng bao nhiêu năm ? Hoặc là ẩn tàng sáu mươi năm, hoặc lâu hơn, chẳng có nhất định.
Có người nói : “Hòa Thượng ! Ðạo lý mà Hòa Thượng vừa nói nằm ở trong bộ kinh nào” ? Nằm ở trong bộ kinh của tôi đây. Bạn muốn đọc bộ kinh nầy của tôi, thì có đoạn kinh văn nầy. Bạn cũng có bộ kinh điển nầy, nhưng kinh của bạn và tôi không dễ gì đọc.
Chủ Phương Thần Biến Du Tịnh Không, được môn giải thoát, luôn luôn phát ra âm thanh vi diệu, khiến cho người nghe đều vui mừng.
Vị Biến Du Tịnh Không Chủ Phương Thần, thích du khắp hư không thanh tịnh, cho nên gọi là Biến Du Tịnh Không Chủ Phương Thần.
Vị Chủ Phương Thần nầy, khắp cùng tất cả mọi nơi, minh bạch được cảnh giới của Phật là, luôn luôn phát ra âm thanh vi diệu. Thứ diệu âm nầy, cũng không nhất định, bất cứ loài chúng sinh nào nghe được, cũng đều vừa ý của họ mà sinh vui mừng.
Bây giờ, nói về một chút cảnh giới vi diệu không thể nghĩ bàn. Phàm là pháp sư giảng kinh thuyết pháp, đều có hộ pháp. Có chư Phật đến hộ pháp, có Bồ Tát đến hộ pháp, có Thanh Văn đến hộ pháp, có trời người đến hộ pháp, có A Tu La đến hộ pháp, có một số người đến hộ pháp, có quỷ đến hộ pháp. Vậy, làm sao biết được ? Nếu bạn đắc được thiên nhãn thông, thì sẽ biết vị pháp sư giảng kinh pháp, là do một giới Thánh hiền trong mười pháp giới, đến ủng hộ đạo tràng.
Pháp sư có đạo đức, thì khi giảng kinh ở trong đạo tràng, luôn luôn phóng quang minh, chiếu khắp chúng sinh trong và ngoài hội, khiến cho họ đều đắc được lợi ích, đều tiêu trừ nghiệp chướng. Có pháp sư khi giảng kinh ở trong đạo tràng, cũng có chút quang minh như khói sương không rõ ràng, chỉ có chút chút quang minh nhỏ, hoặc là quang trắng, quang đỏ, quang tía. Tại sao ? Vì bồ đề tâm của vị pháp sư đó, chưa phát triển lớn, cho nên quang phát ra rất nhỏ. Tóm lại, tâm lượng của pháp sư lớn bao nhiêu, thì quang minh trong pháp hội lớn bấy nhiêu, ngược lại, tâm lượng nhỏ thì quang minh nhỏ, tâm lượng lớn thì quang minh lớn, do đó : “Tất cả do tâm tạo”.
Căn cứ chỗ tôi biết, kinh nghiệm thấy được một số pháp sư giảng kinh thuyết pháp, đa số đều do trời người đến hộ pháp, hoặc do chim tước trên trời đến hộ pháp, đến ủng hộ đạo tràng. Nếu vị pháp sư giảng kinh thuyết pháp biện tài vô ngại, thao thao bất tuyệt, đầu đầu thị đạo, giảng đến mỗi chư Thiên rải hoa cúng dường, âm thanh như chim hót, êm tai vô cùng, khiến cho người nghe sinh tâm hoan hỉ, đó gọi là thảy đều vui mừng.
Tại sao hôm nay phải nói những điều nầy ? Vì hiện tại giảng đến luôn luôn phát âm thanh vi diệu. Trong Kinh A Di Ðà có nói : “Chim Bạch hạt, Khổng tước, Anh vũ, Xá lợi, Ca lăng tần già, Cộng mệnh; các loại chim nầy ngày đêm sáu thời phát ra âm thanh hòa nhã”. Những thứ chim nầy, đều phát ra âm thanh vi diệu không thể nghĩ bàn. Những âm thanh nầy, đều do Ðức Phật A Di Ðà muốn khiến cho pháp âm tuyên lưu mà biến hóa làm ra.
Vị Chủ Phương Thần nầy, luôn luôn phát ra diệu âm, cũng là muốn cho pháp âm tuyên lưu, do Phật Tỳ Lô Giá Na biến hóa làm ra, khiến cho người nghe được diệu âm nầy mà tu hành, thì sẽ có sở thành tựu. Nếu không nghe được diệu âm nầy, thì cũng phải tu hành, cảm ứng đạo giao, ở trong định bèn nghe được mười phương chư Phật thường phát diệu âm.
Chủ Phương Thần Vân Tràng Ðại Âm, được môn giải thoát, như rồng mưa khắp hết thảy, khiến cho chúng sinh đều vui mừng.
Vị Vân Tràng Ðại Âm Chủ Phương Thần nầy, âm thanh rất vang dội, giống như tiếng sấm ở trên mây, xa gần đều nghe. Trong Kinh Ðịa Tạng có nói : “…Vân lôi âm, đại vân lôi âm…” (tiếng mây sấm, tiếng mây sấm lớn). Vị Chủ Phương Thần nầy, có tiếng mây sấm lớn vi diệu. Làm sao biết được ? Vì cảnh giới của Kinh Hoa Nghiêm không thể nghĩ bàn. Cho nên âm thanh lớn nầy, với tiếng mây sấm lớn trong Kinh Ðịa Tạng có chỗ chẳng giống nhau. Ðây là Ðại Vân Lôi Âm Chủ Phương Thần.
Vị Chủ Phương Thần nầy, đắc được cảnh giới của Phật là gì ? Tức là như rồng mưa khắp hết thảy, đượm nhuần vạn vật. Rồng có thần thông rưới mưa pháp, khiến cho chúng sinh phàm phu, đất mỏng đắc được đượm nhuần của mưa pháp, mà sinh tâm hoan hỉ. Có người ở tại đây phát sinh tâm hoài nghi nói : “Tất cả sự mong muốn đều khiến cho đầy đủ”. Vậy tại sao sự mong muốn của tôi chẳng đầy đủ ? Tôi hỏi y là “mong muốn gì” ? Y đáp : “Muốn thành Phật”. Bạn muốn thành Phật thì phải tu hành, không tu hành thì làm sao đầy đủ được nguyện vọng của bạn ? Giống như ăn cơm, cơm thì ngon nhưng phải ăn, bụng mới no được, nếu không ăn thì bụng làm sao no ?
Hiện tại, chúng ta giảng Kinh Hoa Nghiêm, tức như rồng mưa khắp hết thảy. Nghe được Kinh Hoa Nghiêm nầy, thì đắc được đượm nhuần của pháp vũ. Nghe kinh hiểu rõ đạo lý, thì trong tâm sinh ra tâm vui mừng, đó chẳng phải là như rồng mưa khắp hết thảy chăng ? Còn phải đi đâu tìm ? Bây giờ đang ở trước mắt. Bất quá đắc được pháp vũ mà không nhận ra mà thôi.
Các bạn phải minh bạch đạo lý nầy, nghe Kinh Hoa Nghiêm đại pháp rồi, trong tâm cảm thấy có một không khí pháp hỉ tràn trề, đó chẳng phải như rồng mưa khắp chăng ? Khiến cho tất cả chúng sinh sinh hoan hỉ chăng ? Song, còn cách môn giải thoát nầy xa lắm. Nếu chân chánh đắc được pháp hỷ sung mãn, thì hợp vào môn giải thoát nầy. Khi nào các bạn vào môn giải thoát nầy, thì lúc đó sẽ đắc được pháp hỷ sung mãn.
Có câu rằng :
“Tánh định ma phục triều triều lạc,
Vọng niệm bất khởi xứ xứ an”.
Nghĩa hai câu nầy là: Tánh không định thì ma không phục, khi tánh định thì ma phục và luôn luôn đều an lạc. Không khởi vọng tưởng, thì bất cứ ở đâu cũng đều chẳng có sự phân biệt, đều tốt hết. Hai câu nầy nên làm pháp môn để mọi người tu tâm.
– Có người hỏi tôi: “Hòa Thượng cảm thấy ở San Francisco tốt chăng”?
– Tôi nói: “Tốt lắm”.
– Y lại hỏi: “Hòa Thượng cảm thấy Hương Cảng tốt chăng” ?
– Tôi nói: “Cũng tốt lắm”.
Tóm lại, bất cứ ở đâu, chỉ cần đừng sinh vọng tưởng, thì nơi nào cũng tốt.
Chúng ta nghiên cứu Phật pháp ở tại đây, phải học chí nguyện của Phật, phải học hành vi của Phật. Cử chỉ động niệm của Phật đều là Phật pháp. Phật đem phương pháp của Ngài đã khai ngộ, nói ra hết chẳng lưu lại chữ nào, nên y theo pháp mà tu hành, cung hành thực tiễn, đừng chú trọng nói suông. Nói suông cũng giống như ăn bánh vẽ, nói no mà chẳng no. Phật pháp là thực hành chẳng phải nói suông, do đó:
“Nói một trượng, không bằng hành một thước”.
Khoảng hai mươi hai năm về trước, khi tôi ở Hương Cảng, tại núi Ðạo Phong, có vị Mục Sư đạo Cơ Ðốc, nhiệm vụ của Y là chuyên môn dạy những người xuất gia hoàn tục. Phương pháp của Y là dùng tiền bạc và sắc đẹp để dẫn dụ người xuất gia, nếu ý chí không kiên cường thì bị gạt, lầm lỡ cơ hội một đời tu.
Người xuất gia thích tiền tài sắc đẹp thì ở tại nơi đó, đam vui hưởng thụ, gọi là “Lưu liên vong phản”. Lưu liên vong phản là gì ? Trong Mạnh Tử có nói :
“Từ hạ lưu mà vong phản gọi là lưu,
Từ thượng lưu mà vong phản gọi là liên,
Từ (loài) thú mà không chán gọi là hoang,
Thích rượu mà không chán gọi là vong”.
Nghĩa là: Hoàng đế thời xưa rất dễ phạm những mao bệnh nầy. Song, những vị pháp sư xuất gia nầy, cũng chạy theo “Lưu liên vong phản” đó. Tại sao ? Thứ nhất là vị Mục Sư đó cho tiền bạc, thứ hai là cho con gái; tức nhiên có tiền dùng, lại có con gái.
Sau khi tôi biết tin đó, cũng muốn đi thử nghiệm một phen. Tôi đến đó xem, phát giác chẳng có duyên với tôi, lúc đó, tôi với vị Mục Sư đó biện luận. Tôi chẳng e dè phê bình nói : “Ông ở đây làm những việc đó, là trái với tâm của Chúa. Chúa là cứu người chớ chẳng phải hại người. Tác phong của ông là phá hoại người, chứ chẳng phải cứu người, cho nên ông chẳng phải là tín đồ của đạo Cơ Ðốc, cũng không đủ tư cách làm tín đồ của đạo Cơ Ðốc. Ông dạy người xuất gia hoàn tục, phá hoại phạm hạnh của người xuất gia, việc làm của ông có lợi cho đạo Cơ Ðốc chăng ? Ðối với Phật giáo có hại chăng ? Tơ hào chẳng ăn thua gì. Tôi cũng chẳng phải là Phật giáo đồ, tại sao ? Vì chẳng có lòng từ bi giống như Phật để cứu ông, thật đáng tiếc ! Tôi cứu không được ông, cũng chẳng có sức cứu ông, cho nên nói tôi chẳng phải là Phật giáo đồ”.
Tôi nói một phen như vậy, y chẳng có lời gì để đáp, ngước mắt nhìn tôi, câm miệng không nói. Cuối cùng, y yêu cầu chụp chung một tấm hình làm kỷ niệm, nhưng bị tôi cự tuyệt. Tôi nói: “Ông là thứ bại hoại của đạo Cơ Ðốc, tôi là bại hoại của Phật giáo, chụp hình ra để cho Phật giáo đảo lộn, cho Cơ Ðốc giáo đảo lộn, không chụp là tốt hơn”. Ðó là vấn đề chúng ta không nên nghiên cứu, bất quá nói ra để mọi người biết, ở Hương Cảng có sự việc quái lạ như thế phát sinh.
Chủ Phương Thần Kế Mục Vô Loạn, được môn giải thoát, sức tự tại thị hiện nghiệp vô sai biệt của tất cả chúng sinh.
Vị Kế Mục Vô Loạn Chủ Phương Thần nầy, trong kế tóc sinh ra tám vạn bốn ngàn con mắt, tức cũng là trên mỗi sợi tóc sinh ra nhiều con mắt như thế, tuy nhiên là nhiều như thế, nhưng không tạp loạn, cho nên có tên nầy.
Giảng kinh, mỗi người có mỗi ý, có trí huệ vốn có, phát huy đạo lý vốn có. Nhưng đạo lý của kinh, mỗi chữ mỗi câu kinh, mỗi đoạn kinh, đều đầy đủ tánh pháp giới. Muốn biểu lộ ra hết nghĩa lý của kinh, đừng nói đến một tuần giảng chín tiếng, dù hết thuở vị lai cũng nói không hết.
Bây giờ giảng chữ “kế” cũng có đạo lý vô cùng vô tận. Kế thì có kế tóc, nhục kế, bảo kế. Kế tóc tức là búi tóc, cuốn tóc lại thành hình tròn cao ở trên đỉnh đầu. Nhục kế là cục thịt lồi hình tròn sinh ra trên đỉnh đầu, Phật mới có tướng cát tường nầy, do đó: “Vô kiến đảnh tướng”. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói: “Nhĩ thời Thế Tôn, tùng nhục kế trung, dũng bách bảo quang, quang trung dũng xuất, thiên diệp bảo liên”. (Lúc đó, từ trong nhục kế của đức Thế Tôn, vọt ra trăm luồng quang minh báu, trong quang minh báu đó, vọt ra hoa sen báu ngàn cánh). Nghĩa là, từ trong nhục kế của đức Phật, vọt ra hoa sen báu ngàn cánh, ở trong mỗi cánh hoa sen, lại có hóa thân Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi. Mỗi hóa thân lại có ba mươi hai tướng tám mươi vẻ đẹp, làm sao mà nói hết được ? Bảo kế tức là dùng bảy báu để trang nghiêm, để thành tựu.
Chữ kế ở đây có thể giảng là kế tóc, lại có thể nói là nhục kế. Chỉ nói về kế tóc, thì diệu lý đã vô cùng vô tận. Nói huyền diệu một chút, ở trên mỗi sợi tóc, có thể trang nghiêm vô lượng mười phương pháp giới, do đó: “Ư nhất mao đoan hiện bảo vương sát” (Nơi đầu sợi lông hiện ra cõi Bảo Vương). Trên mỗi đầu sợi tóc, có vô lượng vô biên con mắt. Trên mỗi đầu sợi tóc, sinh ra tám vạn bốn ngàn con mắt. Tuy nhiên, mỗi đầu sợi tóc đầy đủ tám vạn bốn ngàn con mắt, song vẫn không rối, không tạp loạn, mỗi con mắt quán sát việc nên quán của mỗi con. Chẳng phải nói bạn nhìn tôi cũng nhìn, nhìn chẳng rõ ràng, nhìn hồ đồ, không phải vậy, mà là phân biệt rất rõ ràng sáng suốt.
Phân biệt gì ? Sức tự tại phân biệt nghiệp sai biệt của chúng sinh. Vị Chủ Phương Thần nầy có nhiều kế mục như thế, đối với chúng sinh nghiệp nhiều như vậy vẫn chưa phân biệt hết. Nhưng ở trong sự không phân biệt, mà quả báu của chúng sinh không sai mảy may, mỗi người chịu quả báu của mình. Bổn lai:
“Thấu rõ thì nghiệp chướng vốn không,
Không thấu rõ thì phải sớm hoàn trả”.
Nếu thấu rõ thì nghiệp chướng sẽ không. Nghiệp tính vốn không là vốn chẳng có. Nghiệp thì chẳng có hình tướng, nếu có hình tướng thì tận hư không khắp pháp giới, cũng không có chỗ chứa. Vì nghiệp của mỗi người đều đầy khắp pháp giới. Sở hạnh nghiệp chẳng có hình tướng, cho nên không cần chứa tại nguyệt cầu hoặc tinh cầu. Vì nghiệp có thể cuốn theo trong sự ẩn mật, nhưng không thể phóng thì hợp trong di lục.
Có người nói: “Tôi không tin trên đầu sợi tóc có tám vạn bốn ngàn con mắt. Cần nhiều con mắt như thế để làm gì” ? Bạn có nhìn thấy trong phòng lái của phi cơ có nhiều nút bấm chăng ? Bạn có nhìn thấy trong buồn lái tàu ngầm có nhiều nút bấm chăng ? Ðó tức là con mắt. Biểu pháp nầy, chẳng phải như nút bấm của phi cơ và tàu ngầm. Hôm nay là thời đại khoa học tiến bộ, đều có những vật cổ linh tinh quái xuất hiện, hà huống có thần thông. Trên đầu một sợi tóc, có tám vạn bốn ngàn con mắt chẳng phải nhiều, vì có thần thông, không thể nhìn lộn, tóc cũng chẳng loạn, con mắt cũng chẳng loạn. Mỗi sợi tóc chẳng rối loạn, mắt thì nhìn chân chánh mà chẳng quán loạn xạ. Quán gì ? Quán sát nghiệp của tất cả chúng sinh, bất cứ chúng sinh làm nghiệp gì, cũng đều biết được.
Vị Kế Mục Vô Loạn Chủ Phương Thần, có một sự tác dụng là, thị hiện được nghiệp của tất cả chúng sinh. “Thị” là chỉ thị “tương có kim vô”, tức là tương lai sẽ có, nhưng bây giờ thì chưa hiện. Vị nầy chỉ thị chúng sinh nói: “Nói với các vị ! Chúng sinh gieo nghiệp gì, thì tương lai phải thọ quả báo như thế đó”. “Hiện” là nay có xưa không, nghĩa là bây giờ có, nhưng trong quá khứ thì không, tức cũng là hiện ra. Hiện ra cái gì ? Hiện ra nghiệp của chúng sinh. Nghiệp của chúng sinh mỗi người đều khác nhau, ai nấy đều có nghiệp của mình, song, thọ quả báo thì cùng một đạo lý: Thiện thì có thiện báo, ác thì có ác báo. Quả báo tuy nhiên khác nhau, nhưng đạo lý không khác nhau. Tại sao nói chẳng có khác nhau ? Vì tạo nghiệp như thế nào, thì thọ quả báo như thế đó, tuyệt đối không sai lầm, mà là rất tự nhiên. Chúng sinh không chịu ngoại lực chi phối, mà chịu nghiệp lực của mình để chi phối mình. Nói về sự thật thì nghiệp tính vốn không, tức nhiên nghiệp tính ác vốn không, thì tính thiện cũng không tồn tại, cho nên đây gọi là vô sai biệt tự tại lực. Vị Chủ Phương Thần nầy đắc được môn giải thoát nầy.
Chủ Phương Thần Phổ Quán Thế Nghiệp, được môn giải thoát, quán sát đủ thứ nghiệp sinh trong tất cả các cõi.
Vị Phổ Quán Thế Nghiệp Chủ Phương Thần, quán sát khắp nhân duyên của tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới, khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo. Vị nầy dùng phương pháp gì để giác ngộ chúng sinh, khiến cho họ y pháp tu hành ? Vì vị Chủ Phương Thần nầy là Bồ Tát thị hiện, cho nên minh bạch cảnh giới của Phật. Do đó, dùng cảnh giới của Phật, để khiến cho chúng sinh giác ngộ, khiến cho chúng sinh tu hành.
Cảnh giới của Phật là khéo quán sát tất cả các cõi. Cõi nầy đi hướng về trước, đi về đâu ? Hoặc là vào trong ba đường ác ? Hoặc vào trong bốn đường ác ? Hoặc là thăng lên trời ? Hoặc làm người ? Con người cứ nghĩ như vậy không ngừng, đó gọi là cõi.
Vị chủ Phương Thần nầy, dùng mắt trí huệ để quán sát trong tất cả các cõi, dùng trí huệ quang minh chiếu soi, phá tan đen tối trong các đường ác, khiến cho chúng sinh có nghiệp ác bỏ mê về giác, cải tà quy chánh, và khiến cho chúng sinh nghiệp thiện chưa phát bồ đề tâm, thì phát bồ đề tâm. Chúng sinh chưa trồng căn lành, thì dạy họ trồng căn lành; chúng sinh đã trồng căn lành, thì dạy họ làm cho căn lành tăng trưởng; chúng sinh căn lành đã tăng trưởng, thì trợ giúp cho họ căn lành sớm thành thục; chúng sinh căn lành đã thành thục, thì trợ giúp cho họ đắc được giải thoát. Vị Chủ Phương Thần nầy, dùng đủ thứ pháp để đối trị nghiệp của chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh cùng tu môn Bát Nhã Ba La Mật, cùng chứng được cảnh giới không thể nghĩ bàn nầy, cùng vào môn giải thoát nầy.
Chủ Phương Thần Chu Biến Du Lãm, được môn giải thoát, những việc làm đều rốt ráo, tất cả chúng sinh đều sinh hoan hỉ.
Vị Chu Biến Du Lãm Chủ Phương Thần nầy, thích du hành, du lãm khắp nơi. Song, sự du lãm của vị nầy, chẳng giống sự du lãm của chúng sinh. Chúng sinh muốn du hành, thì trước hết đến tòa đại sứ xin kiểm chứng (visa), nếu lãnh sự quán không phê chuẩn thì không được đi. Sau đó phải mua vé máy bay, hoặc vé tàu, hoặc vé xe lửa .v.v., phải trải qua nhiều thủ tục mới đi được.
Vị Chủ Phương Thần nầy, khi muốn du hành thì chẳng có rắc rối như thế, được tự do thật sự, không có gì hạn chế, muốn đi thì đi. Chẳng tốn kém gì cả, mà còn rất được hoan nghênh. Vị nầy đi du lãm tận hư không khắp pháp giới. Tại sao vị nầy phải đi du lãm ? Vì muốn trợ giúp tất cả chúng sinh làm việc. Vị nầy đắc được cảnh giới của Phật, những gì làm đều được rốt ráo, như là mười Ba La Mật rốt ráo, tứ vô lượng tâm rốt ráo, cho nên sinh tất cả sự hoan hỉ, tức cũng khiến cho tất cả chúng sinh đều sinh tâm hoan hỉ. Hoan hỉ cái gì ? Hoan hỉ đắc được pháp ích. Vị nầy khiến cho tất cả mọi việc đều rốt ráo, cho nên tất cả chúng sinh đều sinh đại hoan hỉ. Vị nầy vào môn giải thoát nầy.
Bây giờ, mọi người cùng nghiên cứu về mười Ba La Mật và tứ vô lượng tâm. Tôi nhớ bắt đầu giảng kinh từ năm 1968, mười Ba la mật nầy đã giảng qua ba lần và bốn vô lượng tâm đã giảng qua năm lần. Nay nghiên cứu lại một lần nữa. Nghiên cứu Phật pháp thì phải giành trước đừng lạc về sau. Ai nhớ thì người đó nói trước, nói sai cũng chẳng quan hệ gì, vì chúng ta đang nghiên cứu vấn đề.
Mười ba la mật là :
1. Bố thí.
2. Trì giới.
3. Nhẫn nhục.
4. Tinh tấn.
5. Thiền định.
6. Bát nhã.
7. Phương tiện.
8. Nguyện.
9. Lực.
10. Trí.
Sáu ba la mật trước đã giảng nhiều lần. Bây giờ, chỉ giảng sơ lược về bốn Ba la mật sau cùng.
Trước hết, chúng ta phải biết tại sao Bồ Tát phải tu mười pháp Ba la mật ? Vì tâm của Bồ Tát quá từ bi, không đành để chúng sinh chịu khổ đói rét, cho nên phải bố thí. Không nhẫn tâm làm thương hại sinh mạng chúng sinh, cho nên phải trì giới. Thương xót chúng sinh vô tri và phiền não, cho nên phải nhẫn nhục. Muốn rộng độ chúng sinh, tự cầu giải thoát cho nên phải tinh tấn. Vì cầu đại trí huệ, đại thần thông, cho nên phải thiền định. Vì lãnh đạo năm Ba la mật ở trên, đạt đến cảnh giới chí chân chí thiện chí mỹ, cho nên tu Bát Nhã. Ðó là chí nguyện của Bồ Tát tu sáu Ba la mật.
Phương tiện Ba la mật : Tức là phương tiện khéo léo đến bờ kia, có phương tiện hồi hướng và cứu tế, có phương tiện bất xả bất thọ.
Nguyện Ba la mật : Là phát nguyện đến bờ kia, có nguyện cầu bồ đề, và lợi lạc cho kẻ khác.
Lực Ba la mật: Là sức lực đến bờ kia, có lực tu tập, lực hóa độ, lực nghĩ chọn ba sức lực.
Trí Ba la mật: Là trí huệ đến bờ kia, có hai thứ trí là trí thọ dụng pháp lạc, và trí thành thục hữu tình.
Bốn vô lượng tâm là:
1. Từ
2. Bi
3. Hỉ
4. Xả
Tu hành bốn hạnh nầy, đối tượng là tất cả chúng sinh, cho nên chẳng có giới hạn, chẳng có số lượng, chẳng có thời gian .v.v., cho nên gọi là bốn vô lượng. Bốn hạnh nầy là tự phát nơi tâm của mình, tức cũng là cam tâm tình nguyện làm bốn việc nầy, cho nên mới gọi là bốn vô lượng tâm.
Từ vô lượng tâm: Là ban sự an vui cho tất cả chúng sinh, bất cứ là chúng sinh có duyên hay là vô duyên, đều ban cho sự an vui, đó gọi là vô duyên đại từ.
Bi vô lượng tâm: Là cứu mọi sự thống khổ của tất cả chúng sinh, thấy chúng sinh chịu khổ giống như chính mình chịu khổ không khác, cho nên không màng là chúng sinh thiện hay là chúng sinh ác, thảy đều cứu trừ sự khổ của họ, đó là đồng thể đại bi.
Hỉ vô lượng tâm: Là gặp chúng sinh làm việc thiện, đắc được cảnh giới khoái lạc, phải biểu thị sự vui mừng, pháp môn nầy đối trị tâm đố kị, chúng ta đừng có tâm lý vui mừng khi họ gặp tai họa.
Xả vô lượng tâm: Là đồi với chúng sinh, chẳng sinh tâm thương ghét, không phân biệt kẻ oán người thân, đều xem bình đẳng. Xả bỏ tất cả mà không chấp trước, chỉ bố thí cho chúng sinh mà chẳng có xí đồ, do đó : “Thi ân bất cầu báo” (giúp đỡ người chẳng mong họ đền đáp).
Bốn tâm nầy, mà tu đến giai đoạn vô lượng, thì chúng sinh mới cung kính bạn, tin bạn, sau đó mới cảm hóa họ tín ngưỡng Tam Bảo, quy y Tam Bảo, cung kính Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, làm Phật giáo đồ thuần thành.
Người tu hành phải hành pháp môn mười Ba la mật, và phối hợp với bốn vô lượng tâm và bốn nhiếp pháp, như thế thì mới có sự thành tựu, bằng không thì tất cả chỉ là nói suông, tuyệt đối chẳng có gì thành tựu đáng nói.
Bấy giờ, Chủ Phương Thần Biến Trụ Nhất Thiết, nương oai lực của đức Phật, quán khắp tất cả chúng Chủ Phương Thần, mà nói ra bài kệ.
Lúc bấy giờ là lúc nào ? Tức là lúc vị Chu Biến Du Lãm Chủ Phương Thần vừa nói xong, thì lúc đó, vị Biến Trụ Nhất Thiết Chủ Phương Thần, nương đại oai thần lực của đức Phật, mà nói ra bài kệ.
Sức lực của vị thần nầy, có được là nhờ đức Phật gia bị, được Phật trợ giúp. Phật dùng đại oai thần lực để gia bị cho vị nầy, cho nên vị nầy mới có trí huệ như thế, mới quán sát khắp tất cả chúng Chủ Phương Thần, dùng kệ bốn câu để tụng lại, diễn đạt rõ nghĩa lý trong trường hàng ở trên.
Bây giờ nói cho quí vị biết một tin tức. Tại sao Thiện Tài đồng tử luôn luôn đến pháp hội Hoa Nghiêm của chúng ta ? Chẳng có ý nghĩa gì khác, chỉ là vì đến ủng hộ pháp hội, ủng hộ đại đạo tràng Hoa Nghiêm của thế giới. Bạn thấy được Thiện Tài đồng tử, tức là có duyên thù đặc với Thiện Tài. Có người nói : “Tôi chẳng thấy được Thiện Tài đồng tử”. Vì công phu tu hành của bạn chưa đến nhà, cho nên bạn chẳng thấy. Nếu khai mở ngũ nhãn thì sẽ thấy được, không những thấy được mà còn là bạn tốt. Bạn muốn làm bạn với Thiện Tài đồng tử chăng ? Vậy thì phải dũng mãnh tinh tấn tu hành, tham thiền đả tọa, tâm chẳng vọng tưởng, thì sẽ khai ngộ, thì sẽ thấy được Thiện Tài đồng tử.
Như Lai tự tại hiện ra đời
Giáo hóa tất cả các quần sinh
Bày hết pháp môn khiến ngộ nhập
Ðều khiến sẽ thành vô thượng trí.
“Như Lai tự tại hiện ra đời”. Phật rất tự nhiên tự tại đến thế giới Ta Bà trong đời ác năm trược. Tại sao ? Trong Kinh Pháp Hoa có nói: “Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời”. Ðại sự gì ? Tức là sinh tử đại sự.
“Giáo hóa tất cả các quần sinh”. Vì chúng sinh bị vô minh che, suốt ngày điên đảo, khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, lưu chuyển trong vòng sinh tử, chẳng biết cầu giải thoát. Phật ôm lòng thương xót chúng sinh, đến đời ác năm trược, giáo hóa chúng sinh bị tình dục mê hoặc, khiến cho họ sớm tỉnh ngộ. Do đó :
“Biển khổ bao la, quay đầu thì thấy bờ”.
Quay đầu tức là tu hành. Người tu đạo biết đi sai đường, thì phải sớm quay trở lại, không thể bế tắc giữa đường, phải siêng tinh tấn thì mới đạt đến bờ giác ngộ.
“Bày hết pháp môn khiến ngộ nhập”. Phật mở bày hết phương pháp, cho chúng sinh bị tình dục mê hoặc, để vượt ra khỏi biển khổ, tức là tám vạn bốn ngàn pháp môn, nói đơn giản là:
“Ðừng làm điều ác, hãy làm các điều lành”.
Và :
“Siêng tu giới định huệ, dứt sạch tham sân si”.
Ðó là pháp cơ bản tu hành, có cơ sở rồi thì mới hành Bồ Tát đạo, công đức viên mãn thì mới ngộ nhập vào môn giải thoát.
“Ðều khiến sẽ thành vô thượng trí”. Nếu được như thế, thì đều khiến cho họ thành tựu trí huệ vô thượng, tức cũng là chuyển thức thành trí, chuyển tám thức thành bốn trí, đem năm thức trước chuyển thành Thành sở tác trí, thức thứ sáu chuyển thành Diệu quán sát trí, thức thứ bảy chuyển thành Bình đẳng tánh trí, thức thứ tám chuyển thành Ðại viên cảnh trí.
Thần thông vô lượng đồng chúng sinh
Tuỳ chúng sinh thích hiện các tướng
Ai thấy cũng lìa các sự khổ
Giải thoát lực nầy của Hiện Quang.
“Thần thông vô lượng đồng chúng sinh”. Thần thông là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Phật có thần thông của Phật, Bồ Tát có thần thông của Bồ Tát, La Hán có thần thông của La Hán, trời có thần thông của trời, người có thần thông của người, quỷ có thần thông của quỷ, tuy nhiên đều có thần thông, nhưng đều khác nhau, có thần thông cứu kính, thần thông không cứu kính.
Phật thì có vô lượng vô biên đại thần thông cứu kính, vì muốn cứu độ chúng sinh, cho nên có bao nhiêu chúng sinh, thì Phật có bấy nhiêu thần thông. Nếu Phật không có thần thông nhiều như thế, thì làm sao cứu độ chúng sinh ? Chúng sinh vô lượng thì thần thông của Phật cũng vô lượng. Dùng vô lượng thần thông để giáo hóa vô lượng chúng sinh, cho nên nói thần thông vô lượng đồng chúng sinh.
Bây giờ, đưa ra một ví dụ nông cạn dễ hiểu, để thuyết minh về đạo lý thần thông, hiểu rõ đạo lý nông cạn thì tự nhiên sẽ hiểu đạo lý thâm sâu. Các bạn đều thấy rõ công dụng của máy lôi đạt (radar), là hành động trinh sát máy bay và tàu ngầm. Nếu máy bay của địch đến phạm vi bầu trời của nước mình, thì máy lôi đạt lập tức phát hiện. Hoặc là tàu địch xâm phạm đến hải phận của nước mình, thì máy lôi đạt hiện ra, đó tức là thần thông, bất quá đó là thần thông khoa học, cũng là thần thông nhân tạo, mà không phải là thần thông tự nhiên.
Thần thông của Phật là thần thông tự nhiên, là vốn có, không cần bấm nút, là tự tánh vốn có sẵn đầy đủ. Thần thông của Phật là vì cứu độ tất cả chúng sinh. Do đó:
“Nhất thiết chúng sinh,
Nhược can chủng tâm,
Như Lai tất tri tất kiến”.
Nghĩa là :
Tất cả chúng sinh,
Có bao nhiêu thứ tâm
Như Lai thảy đều thấy biết hết.
Vì tâm của Phật và chúng sinh có lưới lôi đạt (radar) tương giao với nhau, có quan hệ tâm điện cảm ứng, cho nên Phật biết được việc suy nghĩ trong tâm của chúng sinh, đều rõ ràng không sai lầm mảy may, đó là tác dụng của thần thông.
“Tùy chúng sinh thích hiện các tướng”. Mười phương ba đời tất cả chư Phật, tùy theo sự ưa thích của chúng sinh, cho nên mới thị hiện đủ thứ tướng, khiến cho chúng sinh minh bạch tất cả tướng.
Tôi thường nói với các bạn :
Kiến sự tỉnh sự xuất thế gian,
Kiến sự mê sự đọa trầm luân.
Nghĩa là : Nếu thấy việc gì mà giác ngộ việc đó, thấu rõ nguyên lai là như thế, minh bạch được, thì chẳng có vấn đề gì. Nếu thấy việc mà hồ đồ, thì bị cảnh giới chuyển, mà chẳng chuyển được cảnh giới, thì phải đọa lạc vào ba đường ác chịu khổ.
“Nhãn quán hình sắc nội vô hữu,
Nhĩ thính trần sự tâm bất tri”.
Nghĩa là :
Mắt thấy hình sắc chẳng dính mắc,
Tai nghe chuyện đời tâm chẳng hay.
Tâm của bạn một thời thanh tịnh, thì một thời tại núi Linh Sơn. Luôn luôn thanh tịnh, thì luôn luôn tại Linh Sơn. Phật Thích Ca Mâu Ni đang ở trên pháp hội Linh Sơn, vẫn còn đang thuyết pháp chưa giải tán. Cảnh giới nầy, vị Trí Giả đại sư vào đời Tùy thấy được. Nếu bạn thấy việc tỉnh việc, thì cũng sẽ có sự cảm ứng nầy. Vì pháp hội Linh Sơn chưa tan, cho nên mới nói, tùy chúng sinh thích hiện các tướng, tức là thị hiện tất cả các tướng. Tất cả tướng tức là tất cả pháp. Minh bạch được tất cả tướng, thì minh bạch được tất cả pháp.
“Ai thấy cũng lìa các sự khổ”. Bạn thấy được Phật, nghe được pháp, khai mở trí huệ, thì lìa khổ được vui, liễu sinh thoát tử. Nếu bạn ngu si, thì ở trong địa ngục đen tối, giống như ở trong phòng đen tối chẳng có ánh đèn. Nếu thắp lên một cây đèn cầy, thì có chút chút ánh sáng Bát nhã. Chút ánh sáng Bát nhã nầy, khiến cho bạn nhìn thấy được chữ. Bạn nên khai mở ánh sáng của tâm, nếu ánh sáng của tâm khai mở, thì không cần đèn cầy, cũng chẳng cần đèn điện, cũng chiếu sáng như thường. Ðó là đắc được cảnh giới vô thượng trí. Ðắc được vô thượng trí, thì dù ở trong thế giới đen tối, cũng có đại quang minh tạng chiếu khắp như thường.
“Giải thoát lực nầy của Hiện Quang”. Cảnh giới nầy vị Phổ Hiện Quang Minh Chủ Phương Thần, thấy rõ giải thoát lực nầy.
Phật trong biển ám chướng chúng sinh
Vì hiện đuốc pháp đại quang minh
Quang nầy chiếu soi khắp hết thảy
Giải thoát nầy của Hành Trang Nghiêm.
“Phật trong biển ám chướng chúng sinh”. Chúng sinh ngu si quá nhiều, ám chướng cũng quá nhiều, nhiều sâu rộng như biển cả. Phật ở trong biển đen tối nghiệp chướng của chúng sinh, phóng đại quang minh, khiến cho chúng sinh quay đầu thấy bờ kia.
“Vì hiện đuốc pháp đại quang minh”. Phật thương xót tất cả chúng sinh, vì chúng sinh mà hiện đuốc pháp. Ðuốc pháp tức là trí huệ quang minh. Ðuốc pháp tức là đèn pháp, do đó đèn pháp thường sáng. Phật vì chúng sinh mà phóng đại quang minh, hiện ra đèn sáng trí tuệ, tức cũng là Phật quang phổ chiếu.
“Quang nầy chiếu soi khắp hết thảy”. Ðen tối tức là ngu si, Bát nhã tức là trí huệ. Chúng sinh có trí huệ thì phá trừ đen tối. Phá trừ đen tối rồi, thì Bát nhã quang minh sẽ chiếu khắp tất cả chúng sinh trong mười phương, khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được Bát nhã quang minh, đó là đạo lý khắp hết thảy, tức cũng là chẳng có một chúng sinh nào, mà không đắc được lợi ích Bát nhã quang minh.
“Giải thoát nầy của Hành Trang Nghiêm”. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Quang Hành Trang Nghiêm Chủ Phương Thần đắc được.
Ðầy đủ các âm thanh thế gian
Chuyển pháp luân khắp thảy đều hiểu
Chúng sinh nghe được phiền não diệt
Sở ngộ nầy của Du Hành Thần.
“Ðầy đủ các âm thanh thế gian”. Phật dùng một âm diễn nói pháp, chúng sinh tùy loại đều hiểu được. Một âm thanh của Phật tức là tất cả âm thanh. Tất cả âm thanh tức là một âm thanh. Cho nên nói đầy đủ các âm thanh thế gian. Các thứ âm thanh nầy, đều đầy đủ trong một âm thanh của Phật.
“Chuyển pháp luân khắp thảy đều hiểu”. Phật chuyển đại pháp luân khắp hết thảy. Chuyển pháp luân tức là đầy đủ các thứ âm thanh thế gian. Dùng đủ loại âm thanh, đủ thứ pháp để chuyển đại pháp luân, khiến cho chúng sinh đều được ngộ hiểu, đều được cứu.
Chuyển đại pháp luân là gì ? Nói đơn giản, phàm là vì sự nghiệp Phật giáo mà nỗ lực, tức là chuyển pháp luân. Ví như : Giảng kinh thuyết pháp, phiên dịch kinh điển, ấn tống kinh điển, truyền bá kinh điển, đó tức là thay thế mười phương chư Phật để chuyển pháp luân. Thành lập đạo tràng, thổi đại pháp loa, đánh đại pháp cổ, đều là chuyển đại pháp luân.
“Chúng sinh nghe được phiền não diệt”. Chúng sinh nghe được pháp âm nầy, thì phiền não sẽ tiêu diệt, vô minh cũng phá tan. Phá vô minh hiển pháp tính, thì trở về cội nguồn, nhận ra bộ mặt thật của mình trước khi cha mẹ sinh ra.
Bây giờ chúng ta tự hỏi mình, nghe cảnh giới không thể nghĩ bàn của Kinh Hoa Nghiêm, phiền não của mình đã tiêu diệt chưa ? Phải hồi quang phản chiếu, kiểm thảo chính mình. Nếu phiền não của mình tiêu diệt rồi, thì nên lên thêm một từng lầu, do đó :
“Ðầu sào trăm thước,
Tiến thêm một bước”.
Nếu không diệt thì hãy sinh tâm sám hối, phải dùng trí huệ của mình để tiêu diệt phiền não. Ðây là điểm quan trọng nhất. Học Phật pháp thì phải không có phiền não, không có phiền não mới khai ngộ được, khai ngộ mới có đại trí huệ, tức cũng là diệu dụng của thần thông.
“Sở ngộ nầy của Du Hành Thần”. Cảnh giới nầy, vị Du Hành Vô Ngại Chủ Phương Thần, ngộ hiểu minh bạch được.
Tất cả hết thảy tên chúng sinh
Ðều đồng tên Phật mà sinh ra
Tất khiến chúng sinh lìa si hoặc
Nơi sở hành của Ðoạn Mê Thần.
“Tất cả hết thảy tên chúng sinh”. Tất cả chúng sinh hữu tình thế gian, đều có tên của mình. Có vô lượng vô biên chúng sinh, thì có vô lượng vô biên tên, tất cả tên tức là bao quát tên của hết thảy chúng sinh.
“Ðều đồng tên Phật mà sinh ra”. Tên của chúng sinh có rất nhiều, song, tên Phật và tên chúng sinh đều nhiều như nhau. Phật xuất hiện ra đời, để giáo hóa nhiều chúng sinh như thế.
“Tất khiến chúng sinh lìa si hoặc”. Phật hoàn toàn khiến cho chúng sinh, đều thoát khỏi ngu si, vô minh, nghi hoặc. Do đó :
“Tu đạo thì tâm chớ nghi,
Nếu khởi tâm nghi tức mê đồ”.
Người tu đạo, thì phải y pháp tu hành, đừng khởi tâm hoài nghi. Có Phật chăng ? Ai cũng đều nói có Phật, sao tôi chẳng thấy Phật ? Là giả chăng ? Kinh điển có phải Phật nói chăng ? Sinh ra đủ thứ tâm nghi hoặc, đó là nhân duyên chướng ngại đạo.
Có rất nhiều người nói Kinh Lăng Nghiêm là giả, đáo để là giả chăng ? Hãy nghiên cứu xem. A ! Ðại khái là giả, đó là sinh nghi. Sự nghi nầy sinh ra, thì nhận thức không rõ ràng, đó chẳng khác nào như kẻ mù đi đường, chẳng biết đi về hướng nam hay là hướng bắc ? Ði về hướng đông hay là hướng tây ? Người mù mắt vì không thấy được ánh sáng, cho nên cho rằng khắp nơi đều là đen tối, chính y chẳng thấy được ánh sáng, mà cho rằng tất cả mọi người đều giống như y, không thấy được ánh sáng.
Làm thế nào lìa được si hoặc ? Vì có si mới có hoặc. Nếu không có ngu si, thì chẳng có hoặc, do đó :
“Trí hiện hoặc đoạn,
Đoạn hoặc chứng chân”.
Nói về chữ hoặc có rất nhiều ý nghĩa, nào thô hoặc, tế hoặc, kiến tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc .v.v… Tóm lại, có trí huệ thì đoạn sạch tất cả hoặc.
“Nơi sở hành của Ðoạn Mê Thần”. Hoặc mà đoạn trừ thì trí huệ sẽ hiện tiền. Cảnh giới nầy, là nơi sở hành của vị Vĩnh Ðoạn Mê Hoặc Chủ Phương Thần.
Nếu có chúng sinh đến trước Phật
Nghe được mỹ diệu âm Như Lai
Thảy đều sinh tâm đại hoan hỉ
Biến Du Hư Không ngộ pháp nầy.
“Nếu có chúng sinh đến trước Phật”. Nếu như có chúng sinh đến trước mặt đức Phật. Ðể làm gì ? Nghe Phật nói pháp vi diệu thâm sâu vô thượng.
“Nghe được mỹ diệu âm Như Lai”. Ðến trước đức Phật, cung kính nghe Phật diễn nói pháp âm mỹ diệu không thể nghĩ bàn, nghe được rồi thì sinh trí huệ.
“Thảy đều sinh tâm đại hoan hỉ”. Chúng sinh nghe được Phật thuyết pháp, thì chẳng có một chúng sinh nào mà trong tâm không sinh đại hoan hỉ, đắc được pháp hỷ sung mãn.
“Biến Du Hư Không ngộ pháp nầy”. Vị Biến Du Hư Không Chủ Phương Thần, tỏ ngộ cảnh giới nầy của Phật, mà ngộ nhập vào môn giải thoát nầy.
Phật ở trong mỗi một sát na
Rưới khắp vô biên mưa pháp lớn
Đều khiến chúng sinh diệt phiền não
Pháp nầy Vân Tràng Thần biết rõ.
“Phật ở trong mỗi một sát na”. Một sát na là thời gian rất ngắn. Phật ở trong mỗi một sát na làm gì ? Chuyển đại pháp luân, mưa đại pháp vũ, phổ độ chúng sinh.
“Rưới khắp vô biên mưa pháp lớn”. Phật ở trong mỗi một sát na, luôn luôn không nghỉ, nói pháp không ngừng, mưa khắp vô biên đại pháp vũ, trong mỗi niệm đều giáo hóa, trong mỗi sát na đều thức tỉnh chúng sinh, mà không cảm thấy mỏi mệt.
“Ðều khiến chúng sinh diệt phiền não”. Phật dùng nước Bát nhã trí huệ, để dập tắt lửa vô minh phiền não, làm cho phiền não của chúng sinh hoàn toàn tiêu diệt.
“Pháp nầy Vân Tràng Thần biết rõ”. Vị Vân Tràng Ðại Âm Chủ Phương Thần, biết rõ cảnh giới nầy mà vào môn giải thoát nầy.
Tất cả các biển nghiệp thế gian
Phật đều khai thị đồng không khác
Khiến khắp chúng sinh trừ nghiệp hoặc
Môn nầy Kế Mục Thần thấy rõ.
“Tất cả các biển nghiệp thế gian”. Tất cả chúng sinh hữu tình thế gian, đã tạo nghiệp chướng như biển cả, vừa sâu vừa rộng lớn. Tại sao có nghiệp ? Vì mê hoặc, cho nên mới tạo nghiệp, do đó :
“Khởi cảm, tạo nghiệp, thọ báo”.
“Phật đều khai thị đồng không khác”. Nghiệp của chúng sinh tạo ra như biển cả. Song, Phật vẫn khai thị chúng sinh, tạo đủ thứ nghiệp, thì thọ đủ thứ quả báo. Chúng sinh đều có nghiệp khác nhau, cho nên thọ quả báo cũng khác nhau, rất là bình đẳng và công đạo. Trồng nhân gì, thì kết quả đó. Trồng nhân thiện, thì kết quả thiện, trồng nhân ác, thì kết quả ác. Tuy nhiên quả báo không giống, là tùy theo việc làm của họ, mà thọ lấy quả báo. Cho nên nói, Phật đều khai thị đồng không khác.
“Ðều khiến chúng sinh trừ nghiệp hoặc”. Phật khiến cho khắp hết thảy tất cả chúng sinh, đều trừ khử sạch nghiệp hoặc. Trừ khử nghiệp hoặc thì đắc được bổn thể thanh tịnh. Không trừ khử nghiệp hoặc thì không đắc được bổn thể thanh tịnh.
“Môn nầy Kế Mục Thần thấy rõ”. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Kế Mục Vô Loạn Chủ Phương Thần thấy rõ được.
Nhất thiết trí địa không bờ bến
Tất cả tâm niệm của chúng sinh
Như Lai chiếu thấy đều rõ ràng
Môn rộng lớn nầy Quán Thế vào.
“Nhất thiết trí địa không bờ bến”. Nhứt thiết chủng trí địa nầy vô lượng vô biên. Ðây là Phật trí, là Phật địa, là vô thượng trí, vô thượng trí tức là Phật trí, chẳng có gì cao hơn được. Cho nên nói Nhất thiết trí địa không bờ bến.
Trí huệ nầy tùy cơ hóa đạo, tuỳ duyên dẫn độ, đều hiện ở trong tất cả tâm của chúng sinh. Do đó :
“Thiên đầm hữu thủy thiên đầm nguyệt,
Vạn lý vô vân vạn lý thiên”.
Nghĩa là:
Ngàn đầm có nước đều hiện mặt trăng
Ngàn dặm không mây, ngàn dặm trời xanh.
Trí huệ nầy là diệu trí vô tác, diệu huệ vô tác. Vô tác tức là không cần tạo tác. Trí huệ của Phật không cần suy nghĩ, bất cứ cảnh giới gì đến, đều tiếp nhận mà giải quyết, vừa cấp tốc vừa nhanh chóng. Ðó gọi là Nhất thiết trí địa không bờ bến. Ðó là nói đại khái, nếu nói tỉ mỉ thì hết thuở vị lai cũng nói không hết. Vì nó chẳng có bờ bến, làm sao nói xong được ?
“Tất cả chúng sinh đủ thứ tâm”. Do đó :
“Chúng sinh nhược can chủng tâm,
Như Lai tất tri tất kiến”.
Nghĩa là:
Chúng sinh có bao nhiêu thứ tâm
Như Lai đều biết đều thấy.
Làm sao biết ? Vì có vô thượng trí. Làm sao thấy được ? Vì có mắt trí huệ.
“Như Lai chiếu thấy đều rõ ràng”. Mắt trí huệ của Phật chiếu thấy được tất cả, hoàn toàn đều thấy rõ. Do đó :
“Không gì mà không biết,
Không chỗ nào mà không thấy”.
“Môn rộng lớn nầy Quán Thế vào”. Môn Bát Nhã rộng lớn nầy, vị Phổ Quán Thế Nghiệp Chủ Phương Thần, tỏ ngộ mà vào được môn giải thoát nầy.
Phật trong quá khứ tu các hạnh
Vô lượng các độ đều viên mãn
Đại từ thương xót lợi chúng sinh
Giải thoát nầy của Biến Du Thần.
“Phật trong quá khứ tu các hạnh”. Phật ở trong vô lượng kiếp thuở xa xưa, tu tất cả hạnh môn. Hạnh môn là gì ? Tức là tám vạn bốn ngàn hạnh môn, cho nên gọi là các hạnh. Lại có thể nói là, một môn trong tám vạn bốn ngàn hạnh môn, tức là một môn nầy. Tu một môn nầy thành công rồi, thì tu môn khác, môn này tu thành công rồi, thì tu môn khác nữa. Cho nên chữ “các” (chư) nầy, có thể nói là nhiều, lại có thể nói là một. Chữ một nầy là từ trợ ngữ, tức là một môn nầy.
Vì nếu nói nhiều hạnh môn, thì chúng ta phát sợ. Chao ôi ! Có nhiều hạnh môn như thế làm sao mà tu ? Chúng ta tuyệt đối không thể thành Phật. Ðừng quan tâm, đừng sợ ! Tu từng môn từng môn, tu môn nầy thành rồi, thì môn khác cũng thành. Tại sao ? Vì một môn là tất cả môn, tất cả môn là một môn. Một thông thì tất cả thông, tất cả thông là một thông, do đó :
“Một pháp thông,
Thì trăm pháp đều thông”.
Trong Kinh Hoa Nghiêm nói :
“Tự tánh như hư không,
Chân vọng tại kỳ trung,
Ngộ triệt bổn lai thể,
Nhất thông nhất thiết thông”.
Nghĩa là :
Tánh mình như hư không
Chân vọng đều có hết
Thấu triệt thể vốn có,
Một thông vạn sự đều thông.
Ðắc được một, thì việc gì cũng đều chẳng có. Giống như ăn cơm no rồi, thì chẳng muốn ăn gì nữa.
Phật tu tất cả hạnh, trước hết bắt đầu tu từ đâu ? Trước hết bắt đầu từ nhẫn nhục mà tu, do đó :
“Nhẫn là báu vô giá,
Mọi người đối không tốt,
Phải thường dùng được nó,
Vạn sự đều thành công”.
Tại sao chúng ta buông bỏ chẳng đặng ? Vì nhẫn không đặng.
“Vô lượng các độ đều viên mãn”. Ðộ là gì ? Tức là Ba La Mật. Các độ tức là vô lượng vô biên Ba La Mật. Ba la mật dịch là “đến bờ kia”, tức là từ bờ sinh tử bên nầy, qua dòng sinh tử phiền não, đạt đến bờ Niết Bàn bên kia. Các độ tức là lục độ (Ba la mật), cũng là thập độ (Ba la mật). Bạn thấy độ nào tốt thì tu độ đó, tu từng độ từng độ, nếu không tu thì tuyệt đối không đến được bờ kia. Nhất định trước phải tu một độ, tu độ nầy xong thì tu độ khác, từ từ tu viên mãn hết các độ, đó là đạo lý hòa tu pháp môn đồng một dạng. Một dạng tu viên mãn, thì dạng dạng cũng đều viên mãn, chúng đều hỗ tương thông đạt, hỗ tương trợ giúp, cũng giống như bạn giúp tôi, tôi giúp bạn, hợp tác với nhau. Bạn mượn chút sức của tôi, tôi mượn chút sức của bạn. Sức này viên mãn, thì vô lượng vô biên Ba la mật đều tu viên mãn.
“Ðại từ thương xót lợi chúng sinh”. Phật dùng tâm đại từ ban vui cho chúng sinh, dùng tâm thương xót (đại bi) cứu khổ của chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui, khiến cho chúng sinh liễu sinh thoát tử, đó tức là lợi ích chúng sinh.
“Giải thoát nầy của Biến Du Thần”. Vị Chu Biến Du Lãm Chủ Phương Thần đắc được môn giải thoát nầy.
Lại nữa, Chủ Không Thần Tịnh Quang Phổ Chiếu, được môn giải thoát, biết khắp tâm chúng sinh trong tất cả các cõi.
Lại nữa, tức là tiếp tục nói, Vị Tịnh Quang Phổ Chiếu Chủ Không Thần nầy, có quang minh thanh tịnh. Quang minh nầy do Bát Nhã trí huệ hiện ra, mà chiếu sáng khắp mười phương.
Trong Kinh Lăng Nghiêm nói : “Thuấn Nhã Ða tính khả tiêu vong, Thước ca la tâm vô động chuyển”. Thuấn Nhã Ða là Không Thần, vị Không Thần nầy có thể không còn, nhưng tâm kiên cố không thể lay động chuyển đổi. Con tin sâu vào đại định Lăng Nghiêm, tâm kiên cố của con không lay động chuyển đổi, đó là kệ của tôn giả A Nan nói.
Vị Chủ Không Thần nầy, biết khắp tâm của chúng sinh trong tất cả các cõi. Các cõi tức là sáu nẻo. Chúng sinh ở trong sáu nẻo đang khởi vọng tưởng gì, thì vị nầy đều biết. Nếu có chúng sinh khởi tâm tham, thì vị nầy ban bố cho họ. Tham một đồng tiền thì cho hai đồng tiền. Tại sao ? Vì:
“Muốn khiến vào Phật trí,
Trước dùng móc dục dắt”.
Chúng sinh thích gì, thì trước hết cho họ cái đó. Ví như muốn một bộ Phật học từ điển, thì có người mang đến cho bạn, hoàn thành tâm nguyện của bạn. Tóm lại, vị Chủ Không Thần nầy, có cầu thì tất ứng, song, chỉ mãn túc vọng tưởng thiện, chứ không phải là vọng tưởng ác. Vị nầy đắc được môn giải thoát, biết khắp tâm của tất cả chúng sinh.
Chủ Không Thần Phổ Du Thâm Quảng, được môn giải thoát, vào khắp pháp giới.
Vị Phổ Du Thâm Quảng Chủ Không Thần nầy, thích du hành, không những du hành khắp thế giới, mà còn đến các nơi rộng sâu, thậm chí cũng đi đến tham quan Long cung, xem thử có phải Long Vương đang ngủ, làm mưa sái giờ, hoặc là sai rồng khác đi làm mưa, còn mình thì lười ngủ khò ? Nếu Long Vương ngủ, thì vị Chủ Không Thần nầy đánh thức dậy nói : “Ê ! Ông bạn ! Hãy tỉnh dậy ! Ông phải chấp hành nhiệm vị của ông ! Ngủ nữa thì chúng sinh trong thiên hạ sớm phải chết đói” !
Tôi nói vị Phổ Du Thâm Quảng Chủ Không Thần đi xuống Long cung, chẳng phải người si nói mộng mà là có căn cứ. Căn cứ gì ? Căn cứ vị nầy đắc được môn giải thoát vào khắp pháp giới. Pháp giới thì bao quát tất cả, Long cung cũng ở trong pháp giới. Do đó, có thể chứng minh vị Chủ Không Thần nầy, đã đến Long cung thưởng thức phong cảnh, chẳng phải vui miệng nói bậy.
Các bạn ai muốn du hành đến Long cung, thì trước hết phải chứng được môn giải thoát vào khắp pháp giới. Có cảnh giới nầy rồi, thì mới toại tâm mãn nguyện, chẳng có gì hạn chế được, đến đi tự do. Ðó là môn giải thoát mà vị Chủ Không Thần nầy vào được.
Những người xuất gia và tại gia tại chùa Kim Sơn, đều dũng mãnh tinh tấn. Vì Phật giáo đang bắt đầu ở phương tây, cần người khai ngộ, cần người chứng quả. Có người khai ngộ và người chứng quả, thì phật giáo mới dễ dàng phát dương quang đại. Cho nên hy vọng Tỳ kheo và Tỳ Kheo Ni nỗ lực tham thiền, chí cầu khai ngộ, chứng đắc đạo quả.
Hiện tại có hai vị Tỳ Kheo phát tâm tam bộ nhất bái, cầu cho thế giới hoà bình vô tai nạn. Tỳ Kheo Ni không thể đứng đàng sau, vì tại nước Mỹ nầy nam nữ bình đẳng. Hiện tại đang khảo tuyển nhân tài khai ngộ và chứng quả, hy vọng mọi người nỗ lực tranh thủ.
Hiện tại có vị cư sĩ đưa ra vấn đề. Vị cư sĩ nầy không biết là cư sĩ nam hay là cư sĩ nữ ? y nói : “Tỳ kheo và Tỳ Kheo ni có thể khai ngộ, có thể chứng quả. Vậy, chúng tôi người cư sĩ có hy vọng chăng” ? Bây giờ bổ sung thêm, cư sĩ nam và cư sĩ nữ đều có hy vọng, đều có thể khai ngộ cũng có thể chứng quả, nhưng phải tu hành. Nếu không tu hành, thì dù Phật đích thân tới giáo hóa, cũng không thể thành Phật. Nếu thành tâm tu hành, thì Phật không đến cũng có thể thành Phật, chỉ xem bạn tu hành hay chăng, để quyết định thành Phật hay không thành Phật.
Chủ Không Thần Sanh Cát Tường Phong, được môn giải thoát, thấu rõ vô biên cảnh giới thân tướng.
Vị Sinh Cát Tường Chủ Không Thần. Cát Tường tức là gì cũng đều tốt, chẳng có xấu, nếu có xấu thì chẳng phải là cát tường. Vị Chủ Không Thần nầy, sinh được gió cát tường, gió nầy là pháp thanh tịnh, chứ chẳng phải là pháp nhiễm ô, cho nên gọi là gió cát tường.
Gió có rất nhiều loại. Có gió cuồng, gió bão, gió bắc, gió đông, gió tây, đều chẳng phải là gió cát tường. Gió từ, gió hòa, gió huệ, gió nam, đều là gió cát tường. Ðại Thuấn nói :
“Nam phong chi huân hề,
Khả dĩ giài ngô dân chi xấn hề.
Nam phong chi thời hề,
Khả dĩ phú ngô dân chi tài hề”.
Ông ta nói gió nam rất nhu hòa, rất dễ chịu, làm cho dân của tôi đều chẳng có nóng giận, mọi người đều hòa mục tương xứ; khi trời thổi gió nam, thì có thể khiến cho dân của tôi đều giàu có. Vị vua Thuấn nầy, là hoàng đế hiếu thuận nhất của Trung Quốc, cũng là hoàng đế dân chủ nhất. Ông ta là Bồ Tát đến giáo hóa chúng sinh, đến lợi ích chúng sinh. Cử chỉ hành động của ông ta là đại công vô tư, là hoàng đế được đời sau nầy tôn kính nhất, sùng bái nhất.
Có bài thơ rằng :
“Sơn ngoại thanh sơn, lầu ngoại lầu,
Tây hồ ca vũ ki thời hưu ?
Noãn phong huân đắc du nhân túy,
Trực bả Hàng Châu đương Biện Châu”.
Ðây là bài thơ vào đời Tống, người ái quốc sáng tác. チnh Sạ Thiên An hoàng đế tại Giang Nam, quên chinh phạt phía bắc, khôi phục đất nước, cho nên nhận lầm Hàng Châu (kinh đô Nam Tống gọi là Lâm An, nay gọi là Hàng Châu) làm Biện Châu (kinh đô bắc Tống gọi là Biện Lương nay là Khai Phong).
Bài thơ nầy cũng nói về gió. Ông ta nói bên ngoài núi còn có núi xanh, bên ngoài lầu còn có lầu các, giống như một bức họa tuyệt tác. Ðây là hình dung cảnh trí Tây Hồ. Gió ấm nhẹ nhàng dễ chịu, thổi vào mặt người làm cho thoải mái dễ chịu, khiến cho người viếng cảnh giống như uống say, chẳng biết đông tây nam bắc. Cho đến Hàng Châu mà nhận làm Biên Châu, vui mà quên về. Ðó là nói Nam Tống hoàng đế không có ý chí phạt bắc, mà nhớ nhung say sưa sự ca vũ.
Hiện tại chúng ta đang nói đến chữ phong, chữ nầy có rất nhiều danh từ, như : Phong tục, phong hóa, phong khí, phong tình, phong nguyệt, phong thủy, phong thổ, phong vân, phong cảnh, phong ba, phong tai .v.v. Muốn biết tỉ mỉ thì có thể tra từ điển ở trong đó, có đề cập đến rất nhiều.
Chúng ta phải quạt gió cát tường đến khắp mọi nơi. Làm sao sinh được gió cát tường ? Nếu bạn có sự khoái lạc thanh tịnh, tức là gió cát tường, không thanh tịnh không khoái lạc, thì chẳng phải là gió cát tường, mà là cuồng phong bạo vũ. Chúng ta phải làm cho gió cát tường hòa phong tế vũ cùng khắp pháp giới, khiến cho tất cả chúng sinh đắc được lợi ích ở trong gió cát tường.
Có câu : “Hàng như ý vũ ư trần hoàn”, (rưới mưa như ý khắp hoàn cầu). Khắp hoàn cầu đều rưới mưa như ý, tức cũng là rưới mưa châu như ý trong hoàn vũ. Bạn có châu như ý, tôi cũng có châu như ý. Hạt châu như ý nầy, tròn sáng lấp lánh đều ở trong tự tánh của chúng ta, bất tất phải cầu bên ngoài.
Muốn tận hư không khắp pháp giới, đều sinh ra thứ gió cát tường nầy, thì phải quạt gió cát tường làm cho tất cả tai nạn đều chẳng còn nữa, quạt hết khí xấu đi chẳng còn nữa, thì sẽ có hòa khí, hòa khí tức là cát tường, khí sấu tức là ách nạn. Trong Tâm Kinh có nói : “Độ tất cả khổ ách”, có khổ ách thì chẳng có cát tường, không có khổ ách thì có cát tường.
Chúng ta phải quạt gió cát tường đến khắp mọi nơi, rưới mưa như ý khắp mười phương, phải phát tâm như thế. Nếu không quạt gió cát tường, thì không thể rưới mưa như ý. Như vậy thì sao chổi sẽ đến. Hiện tại trong hư không xuất hiện sao chổi, con sao chổi nầy lợi hại nhất, lớn nhất, nó đã xuất hiện cách đây hai ngàn năm. Nó có thể hủy diệt quả địa cầu nầy, có thể khiến cho trời đất đảo ngược, trời ở dưới đất ở trên ! Ai có sức lực nầy ? Con sao chổi có oai lực nầy. Ðó là thế giới đã đến ngày cuối vậy.
Trong Kinh Lăng Nghiêm nó : “Tuệ bộc phi lưu”. (sao chổi bay chạy). Tia sáng nhoáng của sao chổi, là thiên sạ giống như hỏa tiển, ở đuôi đều phun ra lửa ngọn giống như cái chổi, cho nên gọi là sao chổi; là sao chẳng cát tường. Khi nó xuất hiện thì tạo thành đại kiếp vận. Sao bộc cũng một thứ sao chổi, tia sáng nhoáng tứ sạ cũng chẳng cát tường. Phi lưu tức là sao rớt. Vào tháng 10 năm 1973 con sao chổi nầy xuất hiện, đã đến gần bên cạnh quả địa cầu, xem ra tràng kiếp vận nầy không cách chi vãn hồi.
Những lời nầy tôi vốn không muốn nói, vì sao chổi quá nguy hiểm, lần kiếp vận nầy quá lớn. Song, nếu không nói thì tâm của mọi người vẫn chuyển không qua được. Nếu tâm của mọi người chuyển biến thành tâm thanh tịnh, thì mới khiến cho sao chổi nầy tiêu mất trong vô hình, mới tránh được tràng kiếp lớn nầy. Tai nạn nầy chẳng phải là một quốc gia, mà là tai nạn lớn của toàn thế giới. Lúc đó, là đầu mối sinh tử của nhân loại, có thể nói là vạn phần nguy hiểm.
Chùa Kim Sơn của chúng ta có hai vị Tỳ Kheo hành Bồ Tát đạo, vì cầu cho thế giới hòa bình, mà phát tâm tam bộ nhất bái, hiện thân thuyết pháp, có khả năng điều phục sao chổi lần nầy, khiến cho nó chuyển biến phương hướng, không để cho địa cầu hủy diệt. Một số người xem ra cho rằng việc làm hành vi nầy là ngu si nhất. Kì thật, hai vị nầy dùng phương pháp cổ lão ngu si nhất, để hàng phục sao chổi, khiến cho nó không đến xâm đánh quả địa cầu, nhờ đó mà cứu vãn sinh mạng của tất cả chúng sinh toàn thế giới.
Ðại kiếp vận nầy, là nghiệp tạo ra bởi chúng sinh toàn thế giới. Nếu ai ai cũng cải ác hướng thiện, thay đổi tâm tánh, thì tức là sinh gió cát tường. Thứ gió cát tường nầy, có thể làm cho vận nguy của thế giới xoay chuyển, không bị sao chổi lẻn đánh. Sự lẻn đánh nguy hại nầy, so với đạn nguyên tử, hoặc đạn kinh khí (nucléaire) còn lợi hại hơn gấp trăm ngàn vạn lần. Hãy nhìn hai vị hành giả nầy, công đức tam bộ nhất bái có thể vãn hồi kiếp vận chăng ?
Vị Chủ Không Thần nầy, đắc được môn giải thoát, thấu đạt vô biên cảnh giới thân tướng. Thấu đạt tức là tỏ ngộ triệt để, triệt ngộ đến vô biên cảnh giới. Vô biên cảnh giới là gì ? Tức là thân Phật như hư không. Vì thân Phật như hư không cho nên gọi là vô biên cảnh giới. Do đó :
Nếu ai muốn biết cảnh giới Phật,
Hãy tịnh ý mình như hư không”.
Vô biên cảnh giới cũng vô tướng. Tướng mà vô tướng, mà tướng cảnh giới nầy, tức là cảnh giới Hoa Nghiêm không thể nghĩ bàn. Cảnh giới vi diệu nầy, chẳng phải sự suy nghĩ của phàm phu mà minh bạch được. Vị Chủ Không Thần nầy, vào được môn giải thoát nầy.
Chủ Không Thần Ly Chướng An Trụ, được môn giải thoát, trừ được tất cả nghiệp, hoặc, chướng, của tất cả chúng sinh.
Vị Ly Chướng An Trụ Chủ Không Thần nầy, lìa khỏi tất cả chướng ngại, an trụ nơi bất động địa, an trụ nơi thiền định, an trụ nơi tịch tĩnh. Vị nầy đắc được trừ diệt nghiệp, hoặc, chướng, của tất cả chúng sinh, tức là trừ tất cả ác nghiệp, tất cả hoặc, tất cả chướng ngại của chúng sinh.
Nghiệp ác trừ khử được, thì tồn tại nghiệp thiện. Nghi hoặc tức là mê hoặc, chẳng thấy rõ gì hết, chướng là chướng ngại bồ đề đạo. Cái gì chướng ngại bồ đề đạo ? Tức là phiền não. Song, phiền não là bồ đề, làm sao trừ khử ? Không cần trừ khử mà phải chuyển hóa nó, chuyển phiền não thành bồ đề, chuyển vô minh thành trí tuệ, chuyển nghiệp ác thành nghiệp thiện. Cho nên vị Chủ Không Thần nầy, đắc được môn giải thoát nầy.
Chủ Không Thần Quảng Bộ Diệu Kế, được môn giải thoát, tư duy quán sát khắp biển hạnh rộng lớn.
Vị Quảng Bộ Diệu Kế Chủ Không Thần nầy, quán sát được sở tu hành biển hạnh rộng lớn của tất cả chúng sinh, suy gẫm căn tính rộng lớn của tất cả chúng sinh, bèn quán sát căn cơ vì người nói pháp, theo bệnh cho thuốc, mà phổ độ tất cả chúng sinh. Biển hạnh rộng lớn, tức là hạnh môn vô lượng vô biên. Mỗi một chúng sinh đều có một thứ nhân duyên, thì họ tu thứ pháp môn đó, cần nhất phải tương ưng. Nếu không tương ưng, thì đó đây đều chẳng ích lợi gì. Cho nên, vị Chủ Không Thần nầy, đắc được cảnh giới nầy, minh bạch được môn giải thoát nầy.
Chủ Không Thần Vô Ngại Quang Diệm, được môn giải thoát, đại bi quang cứu hộ hết thảy ách nạn của tất cả chúng sinh.
Vị Vô Ngại Quang Diệm Chủ Không Thần nầy, đắc được môn giải thoát đại bi quang. Ðại bi tức là cứu khổ. Vị nầy dùng Bát nhã quang minh, để cứu hộ hết thảy ách nạn của tất cả chúng sinh, khiến cho họ lìa khổ được vui. Tất cả chúng sinh, sinh tử ở trong biển khổ, sinh rồi chết, chết rồi sinh, tuần hoàn không ngừng ở trong sinh tử luân hồi, ở trong biển khổ bỏ thân nầy sinh thân khác, tự cho rằng đó là việc tốt, cho nên trôi nổi mà không nghĩ lìa khỏi. Ðó là ách nạn của tất cả chúng sinh. Trong Tâm Kinh nói : “Năm uẩn đều không, vượt qua tất cả khổ ách”. Khổ ách nầy tức là khổ ách sinh tử. Năm uẩn giống như năm bộ y phục mặc trên thân, phải cởi ra từng bộ từng bộ, đến khi chẳng còn đeo sợi tơ nào nữa, thì thấy được bổn lai bộ mặt thật, đắc được giải thoát, liễu sinh thoát tử, như thế thì vượt qua được sinh tử luân hồi, đạt đến bờ Niết Bàn bên kia. Vị Chủ Không Thần nầy, cứu hộ tất cả chúng sinh lìa khổ ách, đắc được môn giải thoát nầy.
Chủ Không Thần Vô Ngại Thắng Lực, được môn giải thoát, sức vào khắp tất cả phước đức mà chẳng chấp trước.
Vị Vô Ngại Thắng Lực Chủ Không Thần nầy, đắc được môn giải thoát, sức vào khắp tất cả phước đức mà không chấp trước. Tại sao chúng ta chấp trước ? Vì tồn tại cái ta. Ðây là ta, đó là của ta, chấp đông chấp tây, tất cả đều buông chẳng đặng, cho nên chẳng có phước, chẳng có đức.
Chúng ta người tu đạo, phải phá chấp trước, tu phước đức, chẳng còn chấp trước nơi năm uẩn, thì sẽ có sở thành tựu. Tóm lại, năm uẩn đều không tức là Bồ Tát, năm uẩn chưa không là phàm phu. Vị Chủ Không Thần nầy, tu vô lượng phước đức. Phước thì bên ngoài, đức thì bên trong, song cũng chẳng chấp trước.
Chủ Không Thần Ly Cấu Quang Minh, được môn giải thoát, khiến tất cả chúng sinh lìa chư cái, thì tâm được thanh tịnh.
Vị Ly Cấu Quang Minh Chủ Không Thần nầy, xa lìa trần cấu mà đắc được quang minh. Không thanh tịnh gọi là cấu, cấu nầy che đậy tâm tính của con người, che tính tịnh minh thể của chúng ta không sáng được, giống như trên gương có bụi bặm đóng, không thể chiếu soi tất cả tướng. Phải lau chùi bụi bặm trên gương, thì dụng đồ của gương sẽ hiện ra. Dụng đồ của gương là gì ? Tức là chiếu được mọi hình tướng. Nếu có một lớp bụi bặm, thì không thể chiếu soi tất cả hình tướng.
Tâm quang minh của chúng ta, vốn có tự tánh quang minh, vốn có trí huệ quang minh như tấm gương. Trí huệ vốn có, trạch pháp nhãn vốn có, cũng giống như gương. Song, bị trần cấu vô minh tập khí che lấp, cho nên không hiện ra quang minh.
Ly cấu quang minh tức là lìa cấu bẩn, quét sạch trần cấu, tức là đoạn trừ tập khí nhiều đời nhiều kiếp. Quét sạch cấu tham, cấu sân, cấu si, thì quang minh tự nhiên sẽ hiện ra. Cho nên, vị Chủ Không Thần nầy gọi tên nầy, tên nầy cũng là giả, vì vị nầy là Chủ Không Thần. Không tức là gì cũng chẳng có, một không thì tất cả đều không, ở đâu cũng chẳng có tình hình gì, sao lại có một cái tên gọi là ly cấu quang minh ? Bổn lai, thì gì cũng chẳng có, lại có cấu gì có thể lìa ? Còn có quang minh gì có thể hiện ? Ðó là nói tự tánh của con người, bổn lai là thanh tịnh, bổn lai là bất cấu bất tịnh, khiến cho con người đừng chấp trước.
Vị Ly Cấu Quang Minh Chủ Không Thần nầy, chỉ minh bạch được một pháp môn, trong vô lượng pháp môn của Phật. Vì vị nầy là Thần, cho nên chỉ minh bạch một bộ phận. Giống như chúng ta uống nước, chỉ cần uống đủ lượng nước, vừa đủ thì ngưng, không thể uống nhiều vì sức chứa của bụng có hạn.
Vị Chủ Không Thần nầy, tuy nhiên không như thế, song cũng không thể hoàn toàn thấy rõ, thông đạt hết pháp môn của Phật, chỉ minh bạch được cảnh giới môn giải thoát, khiến cho tất cả chúng sinh tâm lìa chư cái thanh tịnh mà thôi.
Chư cái tức là ngũ cái. Những gì là ngũ cái ? Tức là :
1) Tham dục cái : Có thứ cái nầy rồi, thì chấp trước vào cảnh giới năm dục.
2) Sân khuể cái : Có thứ cái nầy rồi, thì gặp nghịch cảnh tâm bèn phẫn nộ.
3) Thùy miên cái : Có thứ cái nầy rồi, thì thân tâm hôn trầm.
4) Trạo hối cái : Có thứ cái nầy rồi, thì tâm tánh nóng nảy, đối với những việc làm đều khởi ưu não.
5) Nghi pháp cái : Có thứ cái nầy rồi, thì khởi mê hoặc đối với các pháp, do dự không quyết định.
Năm thứ cái nầy che đậy tâm tánh nên không thể sinh ra pháp lành. Nếu không có năm thứ cái nầy, thì sẽ đắc được thanh tịnh, tâm quang minh sẽ hiện tiền, tâm quang minh hiện tiền, thì sẽ chiếu khắp pháp giới. Vị Chủ Không Thần nầy, vào môn giải thoát nầy.
Trí huệ quang minh bổn lai chiếu khắp pháp giới, song vì có thùng gỗ đen cho nên chẳng có quang minh. Trên thùng gỗ đen nầy có nắp đậy, bây giờ bị che đậy, cho nên một chút ánh sáng cũng chẳng có. Giống như ly trà nầy, bây giờ tôi đậy nắp lên, thì bên trong sẽ đen tối. Tâm của chúng ta cũng như thế, trí huệ của chúng ta cũng như thế. Sự che đậy tức là vô minh, ai phá được năm cái nầy, thì người đó được tự tại, không phá được năm cái nầy, thì chẳng được tự tại.
Phương thức giảng kinh hiện tại của chúng ta, có những điều khác với phương thức giảng kinh ở Trung Quốc. Chúng ta chọn lấy phương thức dân chủ, mọi người đều có quyền phát biểu, bất cứ ai giảng sai thì mọi người đều có quyền đưa ra thảo luận. Dù tôi cũng thế, nếu có chỗ nào giảng sai lầm, thì chỉ ra để nghiên cứu. Chúng ta đều bình đẳng, không có quan niệm giai cấp, đừng có phân biệt thầy trò, nên phá tư tưởng chuyên chế.
Trên lý luận, bất cứ ai cũng không thể cẩu thả lơ là, phô diễn mà phải nhận chân để nghiên cứu. Cho nên Vĩnh Gia Ðại Sư nói : “Có nghi bất quyết trực tu tranh”, chỗ nào không minh bạch hoài nghi thì phải tranh. Tranh gì ? Tranh chân lý. Nhất định phải phát huy ra chân lý. Kiến giải của tôi không nhất định đều là đúng, hãy dùng trí huệ của mọi người để phát minh. Trí huệ của một người có hạn, trí huệ của đại chúng vô hạn. Tôi nghĩ không tới mà bạn nghĩ tới, bạn nghĩ không đến mà họ nghĩ đến. Mọi người cùng nhau hợp thành một, đó gọi là tâm đại chúng, tức là Phật tâm. Lý luận của đại chúng là lý luận của Phật. Cho nên mọi người đừng khách sáo thảo luận, cùng nhau phát huy ra chân lý.
Tôi nhớ xưa kia, không rõ năm nào, tôi cảm thấy ai ai cũng đều phát nguyện muốn giỏi hơn người, thông minh hơn người, hy vọng có trí huệ hơn người. Do đó, tôi phát một lời nguyện đặc biệt là : “Nguyện ngu si hơn người, nguyện đem trí huệ của mình bố thí cho hết thảy mọi người”. Phát nguyện nầy rồi, quả nhiên ngu si thật, có tiền thì bố thí cho người dùng, có vật gì cũng thế, thậm chí sinh mạng cũng nguyện bố thí, đó là việc quá khứ của tôi.
Chủ Không Thần Thâm Viễn Diệu Âm, được môn giải thoát, trí quang minh thấy khắp mười phương.
Vị Thâm Viễn Diệu Âm Chủ Không Thần nầy, có cảnh giới sâu xa không thể nghĩ bàn. Cảnh giới nầy, vị nầy khéo nói các pháp, vì vị nầy có đại trí huệ, phá được tất cả ngu si, cho nên đắc được môn giải thoát, trí huệ quang minh thấy khắp mười phương, đó là một phần trong cảnh giới của Phật.
Chủ Không Thần Quang Biến Thập Phương, được môn giải thoát, không động bổn xứ mà hiện khắp thế giới.
Vị Quang Biến Thập Phương Chủ Không Thần nầy, có trí huệ quang minh đầy khắp mười phương, đắc được cảnh giới không động bổn xứ. Không động tức là tuy thân tâm không động, mà trí huệ quang biến khắp mười phương. Tuy nhiên biến khắp mười phương, mà trí huệ quang minh vốn có chẳng giảm bớt. Không động bổn xứ là chỗ chính không giao động, mà biến khắp mười phương, mà bổn xứ không động. Cho nên, vị nầy gọi là Quang Biến Thập Phương Chủ Không Thần.
Môn giải thoát nầy, ai muốn tu thì người đó đắc được. Tu đạo là từ nhỏ mà lớn, từ gần mà xa, từ tự mà tha, tu từng bước từng bước.
Bất động bổn xứ là gì ? Ví như làm rất nhiều công việc, mà trong tâm không cảm thấy mệt, không có ý niệm khổ nhọc mệt mỏi, đó là sở hành vô sự, dùng công việc làm vận động thân thể. Tuy làm việc mà không có việc để làm, đó là vô công dụng đạo, tức cũng là không động bổn xứ. Bổn xứ tức là tâm, tâm không động thì không động bổn xứ. Nếu tâm động thì động bổn xứ.
Bấy giờ, Chủ Không Thần Tịnh Quang Phổ Chiếu, nương oai lực của đức Phật, quán khắp tất cả chúng Chủ Không Thần, mà nói bài kệ rằng:
Lúc bấy giờ, là chỉ lúc nào ? Kì thật chẳng có một thời nào. Nếu nói là thời nầy đây, thì thời nầy đây đã qua rồi. Trong kinh Kim Cang nói :
“Quá khứ tâm bất khả đắc,
Hiện tại tâm bất khả đắc,
Vị lai tâm bất khả đắc”.
Tức nhiên là ba tâm bất khả đắc, sao lại chấp trước vào một thời ? Vậy tại sao trong kinh văn nói có một thời ? Lúc bấy giờ trong kinh văn, là vì lúc đó có trăm ngàn ức Bồ Tát và Thần chúng, Thiên Long bát bộ .v.v., đều vây quanh đức Phật, mọi người đồng thời tán thán Phật, chẳng phân biệt trước sau. Nhưng dùng văn tự ghi chép, thì có phân biệt trước sau, không thể biên chép ra nhiều kệ như vậy cùng một lúc, giống như ăn đồ ăn, phải ăn từng miếng từng miếng, không thể cùng lúc ăn một miếng mà no được. Cho nên có thứ lớp trước sau. Bổn lai, lúc bấy giờ nầy, là lúc đương thời tất cả Bồ Tát, tất cả Thiên Vương, tất cả Thần chúng, tất cả Thiên Long bát bộ, đồng thời tán thán Phật. Cho nên lúc đó chẳng có trước sau. Hơn nữa, lúc đó đã quá khứ rồi, chấp trước vào lúc đó lại có ích gì ?
Vị Tịnh Quang Phổ Chiếu Chủ Không Thần nầy, có quang minh thanh tịnh, chiếu khắp mười phương pháp giới. Vị nầy nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp tất cả chúng Chủ Không Thần, mà nói ra bài kệ, tán thán cảnh giới của Phật.
Mắt Như Lai rộng lớn
Thanh tịnh như hư không
Thấy khắp các chúng sinh
Hết thảy đều rõ ràng.
Bài kệ bốn câu nầy, là vị Tịnh Quang Phổ Chiếu Chủ Không Thần, tán thán những gì Phật nói. Những vị Thần chúng nầy đồng thời tán thán Phật, đều đồng thời nói kệ của mình, nhưng lúc ghi chép thì có phân ra thứ tự trước sau. Giống như chúng ta tụ hội lại với nhau, đồng thời tán thán một quốc gia, hoặc là một người. Thậm chí đối với một sự việc, mọi người đồng thời phát biểu, lại giống như mọi người đồng thời tán thán hoàng đế, hoàng đế là nhân vương, Phật là Pháp vương, dùng đạo lý nhân vương để ví dụ pháp lý Pháp vương.
Giống như hoàng đế xuất chinh đi đến đâu, thì dân chúng ở đó đều đến triều bái hoàng đế, mọi người dị khẩu đồng thanh nói : “Hoàng thượng vạn tuế, vạn vạn tuế”, bất cứ có bao nhiêu người, đều đồng thời cùng hô lên. Ðó là biểu thị cung kính chúc tụng. Nhân vương thì như thế, Pháp vương cũng như thế. Ðồng thời mỗi vị Thần đều dùng kệ bốn câu để tán thán Phật, tức là sự cảm tưởng và thấy pháp của mỗi người đối với Phật. Các ngài dùng kinh nghiệm sự chứng đạo của mình, môn giải thoát mình đắc được, làm kệ để tán thán đức Phật.
“Mắt Như Lai rộng lớn”. Phật có pháp nhãn rộng lớn vô biên, quán sát được mười phương pháp giới.
“Thanh tịnh như hư không”. Pháp nhãn của Phật thanh tịnh quang minh giống như hư không.
“Thấy khắp các chúng sinh”. Mắt rộng lớn của Phật, quán sát được khắp hết thảy chúng sinh.
“Tất cả đều thấy rõ”. Tất cả chúng sinh khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, Phật đều thấy rất rõ ràng, cho nên dùng đủ thứ pháp môn để giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh lìa khỏi khổ não, đắc được khoái lạc.
Con người thì có kỷ niệm sinh nhật, quốc gia thì có kỷ niệm ngày quốc khánh. Ngày sinh nhật thì các thân hữu đến chúc thọ, mọi người đều ca bài sinh nhật khoái lạc. Ngày quốc khánh thì nhân dân Trung Quốc hô to Trung Hoa Dân Quốc vạn tuế ! Quốc khánh của nước nào thì hô vạn tuế của nước đó ! Một sự chúc mừng thế tục còn như thế, huống hồ là Phật thành Phật, có vô lượng Bồ Tát, A la hán, Thiên vương, Thần chúng, Thiên Long bát bộ, đều đến vây chung quang Phật, tán thán Phật.
Vị Tịnh Quang Phổ Chiếu Chủ Không Thần nầy, dùng bốn câu nầy để tán thán Phật, biểu thị sự cảm tưởng và sự thấy pháp đối với Phật. Khi tôn giả A Nan kết tập kinh điển, thì ghi vào trong kinh điển. Bây giờ chúng ta đọc tụng ra, thì minh bạch chỗ diệu của KinhHoa Nghiêm. Kệ có nhiều như thế, song nếu thông đạt thấy rõ được một bài kệ, thì có thể đắc được giải thoát.
Thân Phật đại quang minh
Chiếu khắp trong mười phương
Nơi nơi đều hiện tiền
Phổ Du quán đạo nầy.
“Thân Phật đại quang minh”. Thân Phật phóng đại quang minh, vào khắp pháp giới. Trí huệ quang minh của Phật, cũng vào khắp pháp giới.
“Chiếu khắp trong mười phương”. Thân Phật phóng đại quang minh, chiếu soi khắp tất cả chúng sinh trong mười phương, khiến cho tất cả chúng sinh đắc được trí huệ.
“Nơi nơi đều hiện tiền”. Mỗi chúng sinh đều nói như vầy : “Phật ở trước mặt tôi, mà vì tôi nói diệu pháp”. Ðạo lý nầy giống như “Nguyệt ảnh thiên giang”. Nghĩa là: Một mặt trăng, hiện bóng xuống muôn ngàn con sông. Quang minh của Phật chiếu khắp, phàm là chúng sinh thì quang của Phật đều chiếu đến.
“Phổ Du quán đạo nầy”. Vị Phổ Du Thâm Quảng Chủ Không Thần, quán sát và minh bạch được đạo lý nầy, mà vào môn giải thoát nầy.
Thân Phật như hư không
Không sinh không thủ lấy
Không đắc không tự tánh
Cát Tường Phong thấy rõ.
“Thân Phật như hư không”. Thân của Phật giống như hư không, là vô tướng nhưng vô bất tướng, cho nên nói thật tướng.
“Không sinh không thủ lấy”. Tức nhiên là vô sinh, làm sao có sự thủ lấy ? Không sinh không nhiễm, tức là gió cát tường.
“Không đắc không tự tánh”. Cũng chẳng có đắc, bạn nói có sở đắc chăng ? Đắc gì ? Thân Phật chẳng có tự tánh, giống như hư không, hư không cũng chẳng có tự tánh.
“Cát Tường Phong thấy rõ”. Cảnh giới nầy, vị Sinh Cát Tường Phong Chủ Không Thần thấy rõ được.
Như Lai vô lượng kiếp
Rộng nói các Thánh đạo
Diệt khắp chúng sinh chướng
Viên Quang ngộ môn nầy.
“Như Lai vô lượng kiếp”. Như Lai là một trong mười danh hiệu của Phật, Phật từ trong vô lượng kiếp cho đến hiện tại.
“Rộng nói các Thánh đạo”. Phật luôn luôn rộng nói con đường tu hành của bậc Thánh, nghĩa là rộng nói chánh pháp.
“Diệt khắp chúng sinh chướng”. Khiến khắp hết thảy nghiệp chướng của chúng sinh đều tiêu diệt. Nghiệp chướng diệt rồi, thì sinh ra trí huệ. Có trí huệ thì có thể vào môn giải thoát của Phật.
“Viên Quang ngộ môn nầy”. Cảnh giới nầy, vị Viên Quang Chủ Không Thần minh bạch, và ngộ hiểu được.
Chùa Kim Sơn và Viện Dịch Kinh Quốc Tế, mỗi ngày đều giảng Kinh Hoa Nghiêm, nếu không giảng ở Chùa Kim Sơn, thì giảng ở Viện Dịch Kinh Quốc Tế. Giống như nước sông lớn, đều chảy hằng ngày không gián đoạn. Vào thời mạt pháp nầy, đệ tử Phật nên làm việc chánh pháp, đó là nguyện lực của tôi đã phát ra xưa kia. Tôi nguyện khi thời đại mạt pháp, thì duy trì chánh pháp. Bất cứ tôi đến đâu, chỉ có chánh pháp chứ không có mạt pháp tồn tại, đó là nguyện lực quá khứ của tôi, bây giờ, tôi cũng phát nguyện lực như vậy, vị lai, tôi cũng phát nguyện lực như vậy. Nguyện lực của tôi là diệt trừ mạt pháp, phải nối tiếp huệ mạng của Phật, thiệu long Tam Bảo, cho nên giảng kinh không ngừng.
Tôi quán Phật xưa kia
Tích tập hạnh bồ đề
Đều vì an thế gian
Diệu Kế hành môn nầy.
“Tôi quán Phật xưa kia”. Vị Quảng Bộ Diệu Kế Chủ Không Thần nói : “Tôi quán sát Phật thuở xa xưa, đời đời kiếp kiếp tu tập các hạnh môn”.
“Tích tập hạnh bồ đề”. Phật trong vô lượng kiếp đến nay, tích tập hạnh bồ đề chẳng có ai có thể sánh bằng, đó là hạnh môn vô thượng.
“Ðều vì an thế gian”. Tại sao Phật tu hạnh bồ đề ? Hoàn toàn vì khiến cho chúng sinh hữu tình thế gian đắc được an lạc.
“Diệu Kế hành môn nầy”. Ðây là cảnh giới tu hành của Quảng Bộ Diệu Kế Chủ Không Thần.
Tất cả cõi chúng sinh
Lưu chuyển biển sinh tử
Phật phóng quang diệt khổ
Vô Ngại Thần thấy được.
“Tất cả cõi chúng sinh”. Ðây là bao quát chúng sinh hữu tình và vô tình. Chúng sinh hữu tình là vì chúng sinh vô tình mà hữu tình, chúng sinh vô tình là vì chúng sinh hữu tình mà vô tình. Ðó là đạo lý hỗ tương với nhau, khiến cho người thấy rõ Phật pháp, do đó các pháp bổn lai là tướng tịch diệt. Vì có tất cả chúng sinh, ở trong pháp vốn chẳng có gì có thể nói, nhưng bất đắc dĩ mới nói ra. Cho nên nói tất cả cõi chúng sinh.
“Lưu chuyển biển sinh tử”. Chúng ta chuyển đi chuyển lại ở trong sáu nẻo luân hồi không thoát ra được. Sự sinh tử rộng lớn như biển cả, trôi đi trôi lại ở trong biển khổ sinh tử, hoặc lưu chuyển đến cõi trời, hoặc cõi người, cho đến địa ngục, vĩnh viễn ở trong sáu nẻo, không đắc được liễu sinh thoát tử.
“Phật phóng quang diệt khổ”. Vì chúng sinh quá ngu si, quá khổ não, không phân biệt được đâu là đúng, đâu là không đúng. Rõ ràng là đúng mà nói không đúng, rõ ràng là không đúng mà nói là đúng, đó là chuyển ở trong cảnh giới hư vọng không thật. Chuyển tức là khổ não, cho nên, Phật phóng ra một luồng quang minh diệt khổ, khiến cho chúng sinh giác ngộ, khiến cho họ phát tâm lìa khổ được vui.
“Vô Ngại Thần thấy được”. Vị Vô Ngại Quang Diệm Chủ Không Thần, thấy được cảnh giới nầy, mà vào được môn giải thoát nầy.
Tạng công đức thanh tịnh
Làm ruộng phước thế gian
Vì họ khai trí giác
Lực Thần ngộ môn nầy.
“Tạng công đức thanh tịnh”. Thanh tịnh là gì ? Tức là chẳng có nhiễm ô. Công đức là gì ? Tức là lập công tích đức, làm nhiều việc lợi ích chúng sinh. Do đó, công đức thiện, là làm hết những việc tốt tức là thiện, dũng cảm mà làm thiện tức là công, lập công nhiều rồi tức là đức. Mặt trái của công đức thiện, là tội nghiệt quá. Việc không nên làm mà làm, tức là tội nghiệt quá. Ví như, không nên giết hại chúng sinh mà bạn đi giết hại, đó là tội. Không nên tà dâm mà bạn tà dâm, đó là nghiệt. Có tội có nghiệt, tức là có lỗi lầm. Tóm lại, tu mười điều thiện tức là công đức thiện, tạo mười điều ác tức là tội nghiệt quá.
Công của Phật lập nên, thật là vô lượng vô biên, đức của Phật làm, cũng vô lượng vô biên. Bảo tạng công đức của Phật, cũng vô lượng vô biên. Tóm lại, công đức thanh tịnh, tức là trồng ruộng phước.
“Làm ruộng phước thế gian”. Phật Pháp Tăng Tam Bảo, là ruộng phước thù thắng nhất trong thế gian. Ai muốn gieo trồng ruộng phước, thì phải gần gũi Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, cung kính Tam Bảo, hộ trì Tam Bảo.
“Vì họ khai trí giác”. Tại sao phải trồng vào ruộng phước ? Vì cầu khai mở trí huệ. Phật tùy theo môn trí huệ Bát nhã, để khai đạo tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đắc được giác ngộ.
“Lực Thần ngộ môn nầy”. Cảnh giới nầy, vị Vô Ngại Thắng Lực Chủ Không Thần giác ngộ được, mà vào môn giải thoát nầy.
Chúng sinh bị si che
Lưu chuyển trong đường hiểm
Phật vì họ phóng quang
Ly Cấu Thần chứng được.
“Chúng sinh bị si che”. Chúng sinh đều bị vô minh ngu si che đậy. Vì trí huệ quang minh bị vô minh đen tối che lấp, cho nên gọi là bị si che.
“Lưu chuyển trong đường hiểm”. Vì hồ đồ mà điên đảo, cho nên lưu chuyển không ngừng trong sáu nẻo. Có lúc sinh vào ba đường lành, có lúc sinh vào ba đường ác, đó thật là nguy hiểm vô cùng, cho nên gọi là lưu chuyển trong đường hiểm.
“Phật vì họ phóng quang”. Phật thương xót chúng sinh, vì chúng sinh mà phóng đại trí huệ quang minh để cứu họ, khiến cho họ lìa xa đường hiểm nạn.
“Ly Cấu Thần chứng được”. Vị Ly Cấu Quang Minh Chủ Không Thần, chứng được cảnh giới nầy.
Trí huệ không ngằn mé
Đều hiện các cõi nước
Quang minh chiếu thế gian
Diệu Âm thấy như vậy.
“Trí huệ không ngằn mé”. Trí huệ của ai không có ngằn mé ? Ðương nhiên là trí huệ của Phật ! Trí huệ quang minh của Phật tận hư không khắp pháp giới, không có ngằn mé, cũng không cùng tận.
“Ðều hiện các cõi nước”. Vì trí huệ quang minh của Phật chẳng có ngằn mé, cho nên chiếu soi khắp các cõi nước chư Phật trong mười phương.
“Quang minh chiếu thế gian”. Trí huệ quang minh của Phật, chiếu soi khắp tất cả chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới.
“Diệu Âm thấy như vậy”. Vị Thâm Viễn Diệu Âm Chủ Không Thần, thấy được cảnh giới nầy, mà vào môn giải thoát nầy.
Phật vì độ chúng sinh
Tu hành khắp mười phương
Tâm nguyện lớn như vậy
Phổ Hiện quán sát được.
“Phật vì độ chúng sinh”. Phật vì độ tất cả chúng sinh, mà đến thế giới nầy, khiến cho tất cả chúng sinh, đều lìa khổ được vui, liễu sinh thoát tử.
“Tu hành khắp mười phương”. Phật dùng trí huệ để tu hành, đầy khắp trong cõi nước chư Phật mười phương.
“Tâm nguyện lớn như vậy”. Phật muốn độ khắp chúng sinh, mà phải tu hành khắp mười phương, tâm nguyện thật lớn vô cùng.
“Phổ Hiện quán sát được”. Vị Phổ Hiện Quang Biến Thập Phương Chủ Không Thần, quán sát được cảnh giới nầy, minh bạch được đạo lý nầy, mà vào môn giải thoát nầy.
Lại nữa, Chủ Phong Thần Vô Ngại Quang Minh, được môn giải thoát, vào khắp Phật pháp, và tất cả thế gian.
Người không biết Phật pháp, thì không biết có Chủ Trú Thần, Chủ Dạ Thần, Chủ Phương Thần, Chủ Không Thần, Chủ Phong Thần .v.v., có nhiều vị thần như thế. Người nghiên cứu Phật pháp, mới biết có các Thần chúng nhiều như thế. Riêng nói về Chủ Phong Thần, chẳng phải là một Chủ Phong Thần, mà là có vô lượng vô biên Chủ Phong Thần. Kinh văn ở trước, bất quá chỉ nói ra tên của mười vị Chủ Phong Thần mà thôi, không biết còn có bao nhiêu không đề ra ? Cho nên bây giờ lại nói lại nữa. Lại nữa có nghĩa là ý nghĩa ở trên chưa nói xong, bây giờ tiếp tục nói.
Các vị Thần đồng thời tán thán Phật, không những chỉ có Chủ Trú Thần, Chủ Dạ Thần, Chủ Phương Thần, Chủ Không Thần, mà còn có Chủ Phong Thần, và các vị Thần khác .v.v. Bây giờ nói về Chủ Phong Thần tán thán Phật.
Vị Chủ Phong Thần nầy, tên là Vô Ngại Quang Minh. Vì quang minh của vị nầy, chẳng có gì chướng ngại được, chiếu khắp được mọi nơi. Vị nầy đắc được tam muội vào khắp Phật pháp. Phật pháp tức là pháp xuất thế gian. Vị nầy còn vào được tất cả pháp thế gian. Cho nên ngài Lục Tổ nói :
“Phật pháp tại thế gian,
Không lìa thế gian giác,
Lìa thế cầu Bồ đề,
Ví như tìm sừng thỏ.
Phật pháp không lìa khỏi pháp thế gian. Nghĩa là ở trong pháp thế gian có pháp xuất thế, cho nên nói là tất cả thế gian. Vị Chủ Phong Thần nầy, đắc được môn giải thoát nầy.
Gió có nhiều loại, cho nên tên của Phong Thần (thần gió) cũng rất nhiều, gió cũng có thần để quản lý, không để cho nó thổi bậy. Nếu không có thần quản lý, thì nó sẽ gây ra cuồng phong bạo vũ, tạo thành tai hại. Trong ba nạn lớn mà lợi hại nhất là nạn gió, dù trên cõi trời Tam Thiền, cũng phải chịu nạn gió.
Trong thân thể của chúng ta cũng có gió, cho nên bên ngoài mới có gió. Thân thể của chúng ta do bốn đại giả hòa hợp mà thành. Bốn đại giả là đất nước gió lửa bốn yếu tố. Ðất tức là gân xương da thịt, nước là máu mồ hôi nước mắt, lửa là nhiệt độ của thân thể, gió là không khí hô hấp (hơi thở). Bốn đại điều hòa thì khỏe mạnh, bốn đại không điều hòa là bịnh hoạn. Bốn đại không nghe sự chỉ huy, mất đi tát dụng tức là lúc sắp chết. Vì quan hệ bốn đại giả hợp, cho nên trong thân thể của chúng ta có gió. Chúng ta ở trong gió mà nhìn chẳng thấy hình tướng của gió, giống như cá trong nước mà chẳng thấy hình tướng của nước. Con người ở trong gió (không khí) mới sinh tồn được, nếu không có gió thì không thể sống. Cá ở trong nước mới sinh tồn được, nếu chẳng có nước cũng không thể sống. Tóm lại, con người lìa khỏi không khí thì lập tức chết liền, giống như cá mà lìa khỏi nước không lâu sẽ chết. Cho nên, gió với con người có quan hệ mật thiết với nhau.
Chủ Phong Thần Phổ Hiện Dũng Nghiệp, được môn giải thoát, Phật xuất hiện ra đời trong vô lượng cõi nước, đều cúng dường rộng lớn.
Vị Phổ Hiện Dũng Nghiệp Chủ Phong Thần nầy, hiện ra dũng nghiệp khắp hết thảy. Dũng nghiệp tức là nghiệp dũng mãnh tinh tấn. Tinh tấn bồ đề, tinh tấn phạm hạnh, tinh tấn cúng dường Tam Bảo, tinh tấn cung kính Tam Bảo, đối với tất cả Phật pháp, đều tinh tấn không giải đãi. Khi Phật xuất hiện ra đời trong vô lượng vô biên cõi nước, thì vị nầy đều hoàn toàn cúng dường rộng lớn. Vị nầy dùng tâm pháp giới để cúng dường chư Phật pháp giới, không những cúng dường chư Phật trong quá khứ, chư Phật hiện tại, mà còn cúng dường chư Phật vị lai, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Chủ Phong Thần Phiêu Kích Vân Tràng, được môn giải thoát, dùng gió thơm tiêu diệt hết thảy bệnh của tất cả chúng sinh.
Vị Phiêu Kích Vân Tràng Chủ Phong Thần nầy, đắc được môn giải thoát, gọi là gió thơm diệt khắp bệnh của tất cả chúng sinh. Ở trong gió nầy có một mùi thơm, mùi thơm nầy là dược phẩm vô thượng, tiêu diệt khắp bệnh tham sân si ba độc của tất cả chúng sinh. Bệnh ba độc giải trừ rồi, thì sinh ra đức hạnh giới định huệ. Ðó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Chủ Phong Thần Tịnh Quang Trang Nghiêm, được môn giải thoát, hết thảy tất cả chúng sinh, đều sinh căn lành, khiến cho họ diệt trừ núi chướng nặng.
Vị Tịnh Quang Trang Nghiêm Chủ Phong Thần nầy, dùng quang minh thanh tịnh để trang nghiêm thân mình. Vị nầy đắc được môn giải thoát, khiến cho tất cả chúng sinh, đều phát bồ đề tâm, sinh căn lành lớn, cải ác hướng thiện, cải tà quy chánh, không làm các điều ác, làm các điều lành, cho nên khiến khắp tất cả chúng sinh, sinh ra căn lành. Căn lành tăng trưởng thì nghiệp ác tiêu diệt. Vị nầy khiến cho tất cả chúng sinh, diệt trừ núi chướng nặng.
Núi chướng nặng lợi hại nhất, là ngã chấp và pháp chấp. A la Hán đã đoạn được ngã chấp (chấp cái ta) mà chưa đoạn được pháp chấp. Bồ Tát không những đã đoạn được ngã chấp, mà còn đoạn được pháp chấp. Vị Chủ Phong Thần nầy, diệt trừ được ngã, pháp hai chấp, sang bằng núi chướng nặng, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Chủ Phong Thần Lực Năng Kiệt Thuỷ, được môn giải thoát, phá được vô biên chúng ác ma.
Vị Lực Năng Kiệt Thủy Chủ Phong Thần nầy, sức lực có thể thổi nước khô cạn. Vị nầy đắc được môn giải thoát, phá được vô biên chúng ác ma. Ác ma tức là ma lợi hại nhất, tức cũng là ma vô minh phiền não. Chúng ta người tu hành, phải luôn luôn hồi quang phản chiếu. Phản chiếu gì ? Phản chiếu trong tự tánh của mình có phiền não tồn tại chăng ? Nếu có người nói bạn không tốt, bạn có phiền não chăng ? Có người nói bạn không đúng, bạn có phiền não chăng ? Có người đến mắng bạn, bạn có phiền não chăng ? Có người đến đánh bạn, bạn có phiền não chăng ? Nếu bạn không sinh phiền não, tức là tiêu diệt được vô biên chúng ác ma. Nếu sinh phiền não, thì chẳng phá được chúng ác ma. Người tu đạo phải mỗi ngày hồi quang phản chiếu, nghĩa là kiểm thảo chính mình, phản tỉnh chính mình : Tại sao phải nóng giận ? Sao lại nổi giận ? Nên biết nóng giận là lửa vô minh, lửa vô minh thì thiêu hủy rừng công đức.
Nếu chúng ta không có phiền não, không nóng giận, thì người đó cao thượng, khiến cho người cung kính, nếu vô minh phiền não và nóng giận quá lớn, thì người đó chẳng có giá trị, không cao thượng, không đáng cho người cung kính. Ðức tánh thanh cao của người tu đạo là, chẳng có phiền não. Ai không có phiền não, thì người đó sớm chứng quả, sớm khai ngộ. Ai có phiền não thì chứng quả muộn, khai ngộ muộn. Ðó là đạo lý thực tế, ai ai cũng biết, nhưng chẳng ai thực hành được.
Tại nước Mỹ nầy, Phật pháp mới bắt đầu, chúng ta nhất định cần nhiều người chứng quả, nhiều người khai ngộ. Chúng ta phải tạo Thánh hiền, Bồ Tát, La Hán, tạo Thánh nhân sơ quả, nhị quả, tam quả, và tứ quả. Chúng ta phải tạo bậc Thánh hiền, chẳng phải tạo người dư thừa. Người dư thừa là gì ? Tức là người mà mọi người không cần.
Tại nước nầy, mọi người đừng bỏ qua cơ hội tốt. Bạn vốn có thể chứng quả, nhưng một khi nóng giận lên, thì chẳng có phần. Bạn hãy xem có vị Thánh nhân nào có vô minh, có phiền não, có nóng giận chăng ? Vì họ đã chứng đến cảnh giới người cũng không, pháp cũng không, thì tự nhiên chẳng còn vô minh phiền não và nóng giận. Bạn phải tôn trọng mình, đừng khinh mình, tìm cách để sớm chứng quả, đừng rơi vào phía sau. Bạn muốn chứng quả chăng ? Vậy trước hết phải phá ác ma. Ác ma tức là vô minh phiền não của bạn.
Khi tôi giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm Phổ Môn có nói rằng : “Ngàn ngày nhặt củi, chút lửa đốt sạch”. Khổ công nhặt củi cả ngàn ngày, chỉ một chút lửa thì thiêu sạch. Giống như công làm được ngàn ngày, đức tu được ngàn ngày, một khi phát lửa vô minh (nóng giận), thì bao nhiêu công đức tu được đều cháy sạch. Cho nên, người tu đạo, tối kị nhất là nóng giận, nhất định phải tu pháp môn nhẫn nhục !
Ác ma chuyên phá đạo nghiệp của bạn, nó thấy bạn tu được chút công đức, thì đến quấy nhiễu bạn, ngày ngày đợi cơ hội xem bạn chừng nào nổi nóng, thì nó thừa cơ mà vào trong tâm của bạn, khiến cho bạn thối đạo tâm. Bổn lai muốn tu hành, bây giờ suốt ngày đến tối muốn hoàn tục, không muốn tu hành nữa, đó là bị ma vương chi phối. Ma vương chuyên môn phá hoại đạo tâm. Nếu người tu hành ý chí không kiên cố, thì sẽ đầu hàng ma vương, làm quyến thuộc của chúng. Cho nên, muốn thoát khỏi khổ luân hồi, thì phải nhận chân tu hành.
Vị Chủ Phong Thần nầy, phá được vô biên chúng ác ma, bất cứ loại ma nào, vị nầy cũng hàng phục được, chẳng cho chúng tác quái, không để cho chúng đến nhiễu loạn tâm thanh tịnh của người tu đạo, gia bị cho người tu đạo sớm chứng quả, sớm khai ngộ, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Chủ Phong Thần Ðại Thanh Biến Hống, được môn giải thoát, vĩnh viễn diệt trừ sự sợ hãi của tất cả chúng sinh.
Vị Ðại Thanh Biến Hống Chủ Phong Thần nầy, khéo thổi gió lớn, cho nên âm thanh của gió rất lớn, khắp hư không đều có tiếng hống. Khi chúng sinh có sự sợ hãi, thì vị nầy bố thí không sợ hãi cho chúng sinh, khiến cho chúng sinh vĩnh viễn diệt trừ tâm sợ hãi, mà đắc được an lạc, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Chủ Phong Thần Thụ Diểu Thùy Kế, được môn giải thoát, biển biện tài vào thật tướng của tất cả các pháp.
Vị Thụ Diểu Thùy Kế Chủ Phong Thần nầy, thổi gió khiến cho các cành cây nhỏ rũ xuống. Vị nầy minh bạch được cảnh giới thật tướng của các pháp, tỏ ngộ biển biện tài thật tướng của các pháp, tức cũng là bổn thể của các pháp. Bổn thể của các pháp là gì ? tức là :
“Chư pháp tùng bản lai,
Thường tự tịch diệt tướng.
Không thể dùng lời nói, các pháp thật tướng là không thể nói, không thể nói. Tức nhiên không thể nói, sao còn có thể biện tài ? Vì không thể nói, cho nên mới có biện tài mà vào biện tài.
Biển biện tài nầy, là bổn thể thật tướng của các pháp, dùng để phát huy diệu dụng của nó. Ðạo lý nầy vô cùng vô tận, giảng cách nào cũng có đạo lý, cho nên gọi là biển biện tài. Vì chẳng phải một đạo lý có thể nói hết được, cho nên chẳng có định pháp. Giảng kinh thuyết pháp mỗi người đều có sở thấy, sở ngộ của mình, giảng ra nghĩa kinh không nhất định đều giống nhau. Nếu giảng giống nhau đó là kinh chết, chẳng minh bạch được nghĩa sâu rộng của kinh, cũng chẳng vào được bổn thể thật tướng của các pháp, cũng chẳng hiểu rõ nghĩa lý chân chánh.
Minh bạch được thật tướng của các pháp, thì vào được biển biện tài, tức là biện tài vô ngại, ai cũng giảng không bằng bạn, không bắt bẻ được lý luận của bạn, bạn luôn luôn là người thắng lợi. Nếu không như thế, thì chẳng đắc được biển biện tài. Vị Chủ Phong Thần nầy, đắc được môn giải thoát, biển biện tài vào thật tướng của tất cả các pháp.
Chủ Phong Thần Phổ Hành Vô Ngại, được môn giải thoát, tạng phương tiện điều phục tất cả chúng sinh.
Vị Phổ Hành Vô Ngại Chủ Phong Thần nầy, sức gió đi khắp mười phương pháp giới, mà chẳng chướng ngại. Vị nầy đắc được tạng phương tiện điều phục tất cả chúng sinh. Ðiều phục là gì ? Tức là khiến cho chúng sinh cang cường hết cang cường, chúng sinh ác hết ác, chúng sinh bại hoại hết bại hoại, điều phục chúng sinh, khiến cho họ nhu hòa mà nhẫn nhục, dũng mãnh tinh tấn, siêng tu đạo nghiệp. Khiến cho tất cả chúng sinh cải ác hướng thiện, bỏ tà về với chánh, bỏ tối về sáng đó là điều phục.
Dùng phương pháp gì để điều phục tất cả chúng sinh ? Tức dùng pháp môn phương tiện khéo léo để điều phục. Pháp môn phương tiện khéo léo nầy vô lượng vô biên, cho nên gọi là tạng. Gặp chúng sinh cang cường, thì dùng pháp môn nhu hòa nhẫn nhục để điều phục, gặp chúng sinh xấu thì dùng phương pháp tốt để điều phục. Tóm lại, dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, để điều phục tất cả chúng sinh. Vị Chủ Phong Thần nầy vào được môn giải thoát nầy.
Chủ Phong Thần Chủng Chủng Cung Ðiện, được môn giải thoát, vào môn thiền định tịch tĩnh diệt trừ ngu si ám cực nặng.
Vị Chủng Chủng Cung Ðiện Chủ Phong Thần nầy, vào môn thiền định tịch tĩnh. Tịch tĩnh tức là bất động, bất động tức là thiền định. Vị nầy diệt trừ ngu si ám cực nặng. Làm thế nào để diệt ? Vì vị nầy vào được môn thiền định, do giới sinh định, do định phát huệ. Vì có trí huệ cho nên tiêu trừ được ngu si ám cực nặng.
Ngu là rất ngốc nghếch, si là rất u mê. Ngu si tức là rất hồ đồ, chẳng có trí huệ, chẳng có quang minh. Nhập thiền định thì có trí huệ quang minh, có thể phá trừ ngu si ám cực nặng, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Chủ Phong Thần Ðại Quang Phổ Chiếu, được môn giải thoát, tùy thuận tất cả chúng sinh hành sức vô ngại.
Vị Ðại Quang Phổ Chiếu Chủ Phong Thần nầy, có đại trí huệ quang chiếu khắp tất cả chúng sinh. Vị nầy đắc được cảnh giới, tùy thuận tất cả chúng sinh. Phàm là việc gì chúng sinh muốn làm, vị nầy đều thuận theo họ, không làm cho họ sinh phiền não nóng giận. Tóm lại, khiến cho chúng sinh sinh tâm hoan hỉ, tức là sức vô ngại. Khiến cho chúng sinh sinh phiền não, tức là có chướng ngại. Vị nầy đắc được môn giải thoát nầy.
Bấy giờ, Chủ Phong Thần Vô Ngại Quang Minh, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Chủ Phong Thần, mà nói ra bài kệ.
Khi Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói Kinh Hoa Nghiêm, thì có vô lượng các Bồ Tát đến tụ tập tại Ðạo Tràng, có vô lượng chư Thiên Vương, vô lượng Thiên Long bát bộ, và các chúng Thần đến tụ tập tại Ðạo Tràng.
Lúc đó, vị Vô Ngại Quang Minh Chủ Phong Thần, nương đại oai thần lực của Phật Thích Ca Mâu Ni, quán sát khắp tất cả chúng Chủ Phong Thần, mà nói ra bài kệ.
Tất cả Phật pháp rất thâm sâu
Vô ngại phương tiện vào được khắp
Phật thường xuất hiện khắp thế gian
Không tướng không hình không bóng dáng.
“Tất cả các Phật pháp thâm sâu”. Hết thảy tất cả Phật pháp, của chư Phật trong mười phương ba đời nói, đều là pháp thâm sâu vi diệu. Trong Phật pháp lại sinh Phật pháp, trong Phật pháp lại hàm chứa Phật pháp, cho nên nói pháp của tất cả chư Phật, là không thể nghĩ bàn.
“Vô ngại phương tiện vào được khắp”. Phật có pháp môn vô ngại phương tiện, vào được khắp mọi nơi. Pháp môn nầy vào được khắp cõi nước, nhiều như hạt bụi chẳng có gì chướng ngại, không chỗ nào mà chẳng đến.
“Thường xuất hiện hết thảy thế gian”. Phật luôn luôn xuất hiện tại hữu tình thế gian, để giáo hóa chúng sinh, để phổ độ chúng sinh.
“Không tướng không hình không bóng dáng”. Tuy Phật thường xuất hiện, nhưng chẳng có tướng, chẳng có hình, tức nhiên không tướng không hình, làm sao có bóng dáng ? Cho nên nói không tướng không hình không bóng dáng.
Những gì Phật làm đều chẳng chấp trước, không giống như chúng ta có tâm chấp trước. Hôm nay ta nghĩ làm gì ? Ta tốt như thế nào ? Mà chẳng nghĩ đến chỗ nào mình không đúng. Ðó là biến thành có tướng, có hình, có bóng dáng.
Phật thì quét sạch tất cả pháp, lìa tất cả tướng, tuy là suốt ngày nói pháp, cũng chẳng nói câu pháp nào, suốt ngày ăn cơm, cũng chẳng ăn hạt gạo nào, suốt ngày mặt y phục, cũng chẳng mặc sợi tơ nào. Những gì Phật làm đều hành sở vô sự. Cảnh giới nầy, chẳng phải một số phàm phu minh bạch được.
Ông quán Như Lai trong quá khứ
Một niệm cúng dương vô biên Phật
Hạnh bồ đề dũng mãnh như vậy
Phổ Hiện Thần ngộ cảnh giới nầy.
“Ông quán Như Lai thuở xa xưa”. Vị Phổ Hiện Dũng Nghiệp Chủ Long Phong Thần nói : Các ông hãy quán sát, khi Phật ở tại nhân địa, thì tu những hạnh môn không thể nghĩ bàn.
“Một niệm cúng dường vô biên Phật”. Phật ở trong một niệm, cúng dường được vô biên chư Phật trong pháp giới. Ðều phát tâm cúng dường hết thảy các vị Phật đó, đó tức là : “Rộng tu cúng dường”.
“Hạnh bồ đề dũng mãnh như vậy”. Dũng mãnh tinh tấn không giải đãi như vậy, luôn luôn tu hạnh bồ đề. Hạnh bồ đề là gì ? Tức là giác đạo, tu pháp môn trí huệ.
“Phổ Hiện Thần ngộ cảnh giới nầy”. Vị Phổ Hiện Dũng Mãnh Chủ Phong Thần, minh bạch được cảnh giới môn giải thoát nầy.
Như Lai cứu thế không nghĩ bàn
Hết thảy phương tiện chẳng luống qua
Ðều khiến chúng sinh lìa các khổ
Giải thoát nầy của Vân Tràng Thần.
“Như Lai cứu thế không nghĩ bàn”. Như Lai tức là Phật, Phật tức là Như Lai. Tuy hai tên nhưng một thể. Nếu xưng Như Lai Phật, tức là người không hiểu Phật pháp. Phật xuất hiện nơi hữu tình thế gian, để cứu độ tất cả chúng sinh. Sức nhu hòa nhẫn nhục nầy không thể nghĩ bàn, chúng sinh không dễ gì minh bạch, cũng không thể tưởng tượng được cảnh giới nầy.
“Hết thảy phương tiện không luống qua”. Phật nói pháp là vì muốn cứu chúng sinh thế gian, cho nên dùng pháp quyền xảo phương tiện, tức cũng là nhân thời thuyết pháp, nhân sự thuyết pháp, nhân địa thuyết pháp, vì người thuyết pháp. Tất cả phương tiện pháp môn, chẳng có môn nào mà không sử dụng. Phật thấy loài chúng sinh gì, thì thuyết pháp đó, cho nên không luống qua.
“Giải thoát nầy của Vân Tràng Thần”. Vị Phiêu Kích Vân Tràng Chủ Phong Thần, minh bạch được cảnh giới nầy.
Chúng sinh vô phước chịu các khổ
Trọng cái mật chướng thường mê đậy
Tất cả đều khiến được giải thoát
Tịnh Quang Thần biết rõ môn nầy.
“Chúng sinh vô phước chịu các khổ”. Chúng sinh tức là chúng duyên hòa hợp mà sinh, cũng là chúng duyên hòa hợp mà tử. Tại sao chúng sinh chẳng có phước báo ? Vì không có trồng phước, sao chẳng trồng phước ? Vì không gặp được Phật, không nghe được Pháp, không thấy được Tăng, cho nên chẳng có chỗ đi trồng phước. Do đó, chẳng đắc được phước báo.
Chỗ nào không có Phật, không có Pháp, không có Tăng, thì sau khi chúng sinh hưởng hết phước báo, lại không thể tăng thêm phước báo nữa. Tại sao ? Vì chẳng có nơi trồng phước. Chẳng có phước thì chịu khổ, khổ có nhiều thứ gồm có: Ba thứ khổ, tám thứ khổ .v.v., cho nên gọi là các khổ.
Ba thứ khổ tức là: Khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. Tám thứ khổ là: Sinh, già, bệnh, chết, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thạnh.
“Trọng cái mật chướng thường mê đậy”. Trọng cái tức là vô minh phiền não, mật chướng tức là nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng, sở tri chướng, đủ thứ cái và chướng, che đậy rất nghiêm mật. Che đậy gì ? Che đậy tâm thanh tịnh của bạn. Bổn lai rất minh bạch, nhưng bây giờ khiến cho bạn luôn luôn mê hoặc không minh bạch, càng ngày càng hồ đồ, càng ngày càng nhiều vọng tưởng. Ai có trọng cái mật chướng thường mê đậy, thì bây giờ hãy giác ngộ, hãy minh bạch, đừng mê nữa, sớm tỉnh dậy, đừng ban ngày nằm mộng.
“Tất cả đều khiến được giải thoát”. Phật muốn tất cả những chúng sinh khổ, đều được giải thoát, tức cũng là lìa khổ được vui.
“Tịnh Quang Thần biết rõ môn nầy”. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Tịnh Quang Trang Nghiêm Chủ Phong Thần thấy rõ được.
Nghiệp gồm có định nghiệp và bất định nghiệp. Bất định nghiệp có thể thay đổi, có thể tiêu diệt. Ðịnh nghiệp thì không cách chi thay đổi được, phải chịu khổ, chịu tội để tiêu diệt.
Vào cuối đời nhà Minh, hoàng đế Sùng Trinh kiếp trước là một vị Sa Di, chưa đến lúc thọ giới cụ túc thì qua đời. Sư phụ của y là minh nhãn thiện tri thức, quán sát được nhân duyên quá khứ vị lai. Biết y có định nghiệp, đời sau sẽ làm hoàng đế, song có đức mà không có phước, cho nên dạy sư huynh của y hãy phanh thi thể của y ra, như thế thì có thể trợ giúp cho y tiêu trừ nghiệp chướng. Ðó là một phen khổ tâm của sư phụ y, xí đồ muốn thành tựu phước báo đời sau cho y. Lúc đó, sư huynh của y phát tâm từ bi không nhẫn tâm sư đệ của mình chết không toàn thây, mới đem xác sư đệ đi chôn. Ðời sau, sư huynh của y biết được sự việc, mới đến tranh ngôi hoàng đế, đó là Lý Tự Thành. Lý Tự Thành tấn công vào Bắc Kinh, thì hoàng đế Sùng Tring đến dưới cây núi than treo ngược mà chết, chỉ làm hoàng đế được 17 năm.
Nếu như lúc đó sư huynh của y, đem thi thể của y phanh ra, thì đời nầy y làm hoàng đế, vừa có đức vừa có phước, làm vị hoàng đế anh minh . Bất hạnh thay, vì nghiệp đã đến, nên làm vua bị mất nước. Ðó là sự việc có thật, để cho mọi người hiểu rõ đạo lý định nghiệp.
Sức thần thông Như Lai rộng lớn
Khắc phục tất cả chúng ma quân
Hết thảy các phương tiện điều phục
Dũng Kiện Oai Lực quán sát được.
“Sức thần thông Như Lai rộng lớn”. Phật có sức thần thông biến hóa rộng lớn vô lượng vô biên.
“Khắc phục tất cả chúng ma quân”. Thần thông của Phật không thể nghĩ bàn, có đại oai lực khắc phục tiêu diệt hết tất cả quân chúng thiên ma.
“Hết thảy các phương tiện điều phục”. Phật dùng tất cả pháp môn phương tiện, để điều phục ma quân, khiến cho chúng tâm phục khẩu phục. Ðó là dùng oai đức để cảm hóa.
“Dũng Kiện Oai Lực quán sát được”. Cảnh giới nầy, vị Dũng Kiện Oai Lực Chủ Phong Thần quán sát được.
Trong lỗ lông Phật diễn diệu âm
Âm đó vang khắp trong thế gian
Tất cả khổ sợ đều dứt trừ
Cảnh giới nầy của Biến Hống Thần.
“Trong lỗ lông Phật diễn diệu âm”. Chúng ta muốn nói thì dùng miệng để nói, dùng lưỡi để giảng giải, đó là bản năng của một số phàm phu tục tử. Phật thì không những miệng thuyết pháp được, mà tất cả lỗ chân lông khắp toàn thân, cũng diễn nói diệu pháp được. Mỗi lỗ chân lông đều có thể diễn nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, mỗi lỗ chân lông lại có thể dung nạp ba ngàn đại thiên thế giới. Mỗi lỗ chân lông của Phật, đều có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sinh, hơn nữa, trong mỗi lỗ chân lông đều có vô lượng chúng sinh đang ở trong đó để nghe pháp. Nếu chỉ có Phật thuyết pháp, mà chẳng có chúng sinh nghe pháp, thì cũng chẳng ích gì.
Có người nói : “Trong một lỗ chân lông của Phật, có vô lượng chúng sinh đang nghe Phật thuyết pháp tại đó, đó là chuyện không thể có”. Cảnh giới của phàm phu, thì đương nhiên bạn không tin có cảnh giới như thế, dù chứng được quả A La Hán, còn không biết cảnh giới pháp hội Hoa Nghiêm của Phật, phải là Bồ Tát thì mới minh bạch được cảnh giới nầy. Cho nên bạn không tin cũng không trách bạn, đợi khi nào bạn tu đến quả vị Bồ Tát thì sẽ tin.
Diệu âm là gì ? Tức là đối cơ thuyết pháp, vừa đúng cơ của bạn tức là pháp diệu; không đúng cơ thì chẳng phải pháp diệu, đó tức là quán cơ đầu giáo, vì người thuyết pháp, cho nên gọi là diệu âm.
“Âm đó vang khắp trong thế gian”. Diệu âm nầy, vang khắp tất cả mọi nơi, tất cả mọi nơi đều có diệu âm nầy. Chúng sinh hữu tình thế gian, nghe được diệu âm nầy mà khai ngộ, bỏ mê về giác.
“Tất cả khổ sợ đều dứt trừ”. Tất cả thống khổ và sợ hãi, đều hoàn toàn tiêu diệt. Không có khổ não thì chẳng có sợ hãi, tức cũng là độ tất cả khổ ách. Trong Kinh Bát Nhã nói : “Tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu kính Niết Bàn”. Không có quái ngại thì không có sợ hãi; không có sợ hãi mới xa lìa điên đảo mộng tưởng; xa lìa được điên đảo mộng tưởng rồi, mới đắc được cứu kính Niết Bàn. Chứng đắc được cứu kính Niết Bàn, đó là đắc được Thường Lạc Ngã Tịnh bốn đức Niết Bàn. Thường Lạc Ngã Tịnh là gì ? Thường tức là phần đoạn sinh tử và biến dịch sinh tử đều chẳng còn. Lạc tức là giải thoát thọ dụng, tức cũng là trí huệ giải thoát, đắc được vui chân thật, thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn. Ngã tức là chứng được pháp thân. Tịnh tức là tuyệt đối chẳng còn nhiễm ô chướng ngại.
“Giải thoát nầy của Biến Hống Thần”. Vị Ðại Thanh Biến Hống Chủ Phong Thần nầy, thấy rõ được cảnh giới nầy, vào được môn giải thoát nầy.
Hôm nay chỉ giảng bốn câu kệ, mọi người có ý kiến gì chăng ? Ðừng ngại hãy đưa ra nghiên cứu, phát huy trí huệ vốn có của các bạn, để giảng kiến giải đặc biệt của bạn trước mọi người. Bây giờ là đúng lúc, nếu có một chữ hoặc là một câu kinh văn không hiểu, thì có thể nêu ra nghiên cứu, không thể nuốt trựng mà không hay biết được mùi vị được. Nếu chẳng có ý kiến gì, thì sẽ tiếp tục giảng tiếp theo.
Chúng ta là dân chủ giảng kinh, mọi người đều có quyền nói, mọi người đều có cơ hội giảng kinh, mỗi ngày chỉ nghe mình tôi giảng kinh, do đó:
“U mê truyền u mê,
Một truyền hai không hiểu,
Sư phụ đọa địa ngục,
Ðồ đệ cùng đi theo.
Ðó là lấy bậy truyền bậy, càng truyền càng xa lìa kinh. Cho nên, có chỗ nào nghi vấn, phải nêu ra để cùng nhau nghiên cứu !
Phật trong tất cả các cõi nước
Bất tư nghì kiếp thường diễn nói
Là diệu biện tài của Như Lai
Thụ Diểu Kế Thần ngộ hiểu được.
“Phật trong tất cả các cõi nước”. Phật ở trong đại kiếp, các cõi nước nhiều vô lượng không thể nghĩ bàn.
“Bất tư nghì kiếp thường diễn nói”. Trong đại kiếp không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời luận bàn, Phật luôn luôn diễn nói diệu pháp thâm sâu vô thượng.
“Là diệu biện tài của Như Lai”. Phật nói pháp là có diệu biện tài, bất cứ nói pháp gì, thì lý luận vô cùng tận, như vào sâu ra cạn, khiến cho người nghe đều hiểu rõ. Phật nhập vào tam muội biện tài thuyết pháp.
“Thụ Diểu Kế Thần ngộ hiểu được”. Cảnh giới nầy, vị Thụ Diểu Kế Chủ Phong Thần ngộ hiểu được.
Phật trong tất cả môn phương tiện
Trí vào trong đó đều không ngại
Cảnh giới vô biên không ai bằng
Giải thoát nầy của Phổ Hành Thần.
“Phật trong tất cả môn phương tiện”. Ðây là kệ của vị Phổ Hành Vô Ngại Chủ Phong Thần tán thán Phật. Ngài nói Phật ở trong tất cả đủ thứ môn phương tiện.
“Trí vào trong đó đều vô ngại”. Tất cả trí huệ của Phật vào tất cả môn phương tiện. Phương tiện pháp môn tức là vô ngại pháp môm, cho nên nói đều vô ngại.
“Cảnh giới vô biên chẳng ai bằng”. Cảnh giới của Phật vô lương vô biên, không thể nghĩ bàn, cũng chẳng có vị Bồ Tát nào, hoặc vị La Hán nào có thể sánh với Phật, cho nên gọi là không gì bằng. Nghĩa là chẳng có cảnh giới của ai đồng với cảnh giới của Phật.
“Giải thoát nầy của Phổ Hành Thần”. Vị Phổ Hành Vô Ngại Chủ Phong Thần, đắc được môn giải thoát nầy.
Cảnh giới Như Lai chẳng bờ mé
Nơi nơi phương tiện đều khiến thấy
Mà thân tịch tĩnh không hình tướng
Chủng Chủng Cung Thần môn giải thoát.
“Cảnh giới Như Lai chẳng bờ mé”. Cảnh giới của Phật chẳng có bờ mé, Ngài là tùy duyên không đổi, không đổi mà tùy duyên; một làm vô lượng, vô lượng làm một, cho nên cảnh giới của Phật là vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn.
“Nơi nơi phương tiện đều khiến thấy”. Nơi nơi tức là khắp mọi nơi. Khắp mọi nơi là mười phương pháp giới. Tận hư không biến pháp giới, khắp mọi nơi Phật dùng phương tiện pháp môn viên dung vô ngại, khiến cho chúng sinh đều thấy được sắc thân của Phật, pháp thân của Phật, hóa thân của Phật, đồng thời có thể thấy được pháp, báo, hóa, ba thân, chỉ xem nhân duyên của chúng sinh mà định.
“Mà thân tịch tĩnh chẳng có tướng”. Tuy nhiên thấy được ba thân của Phật, nhưng bổn thân của Phật tịch tĩnh chẳng chấp trước tướng. Bổn thân của Phật chẳng có tướng. Tại sao ? Vì là tịch tĩnh, là không. Tuy nhiên là không, nhưng không mà chẳng không, mà hay sinh ra diệu hữu, diệu hữu ấy chẳng phải hữu, cho nên nói diệu hữu phi hữu, không ngại chân không. Chân không chẳng không, không ngại diệu hữu. Ðó là không, hữu (có) chẳng hai, tức không tức có, tức có tức không. Không, hữu (có) chẳng hai, tức là trung đạo liễu nghĩa. Cho nên nói, bổn thân Phật là tịch tĩnh vô tướng, chẳng có tướng. Song, tuy chẳng có tướng nhưng chẳng lìa tất cả tướng.
“Chủng Chủng Cung Thần môn giải thoát”. Vị Chủng Chủng Cung Ðiện Chủ Phong Thần, đắc được môn giải thoát nầy.
Như Lai biển kiếp tu các hạnh
Tất cả các lực đều viên mãn
Tùy theo thế pháp ứng chúng sinh
Cảnh giới nầy của Phổ Chiếu Thần.
“Như Lai biển kiếp tu các hạnh”. Phật trong vô lượng đại kiếp về trước, tu hành tất cả hạnh môn, hết thảy đều viên mãn. Phật không chê việc thiện nhỏ mà không đi làm, cũng không xem thường việc ác nhỏ mà đi làm. Cho nên Phật tu hết thảy các hạnh, không bỏ pháp nào, tu hết tất cả pháp, tu hết tất cả phương tiện pháp môn.
“Tất cả các lực đều viên mãn”. Các lực tức là : Ðại từ lực, đại bi lực, đại hỉ lực, đại xả lực, đại tín lực, đại nguyện lực, đại hạnh lực, đại vô uý lực, đại vô ngại lực .v.v. Phật tu tất cả các lực đều viên mãn mà thành tựu.
“Tùy theo thế pháp ứŨng chúng sinh”. Phật thường tùy thuận tất cả chúng sinh, để giáo hóa tất cả chúng sinh. Ðó tức là vì thế pháp mà nói pháp xuất thế, ấy chẳng phải lìa thế pháp mà tu pháp xuất thế. Cho nên nói, tùy theo pháp thế gian để tùy cơ ứng hóa. Tóm lại, thấy căn tánh chúng sinh như thế nào, thì vì họ mà nói pháp. Cho nên dùng pháp hành phương tiện thiện xảo, để giáo hóa tất cả chúng sinh.
“Cảnh giới nầy của Phổ Chiếu Thần”. Ðây là vị Ðại Quang Phổ Chiếu Chủ Phong Thần, thấy được cảnh giới môn giải thoát nầy.
Bây giờ là lúc thảo luận vấn đề, ai có vấn đề thì đưa ra, để mọi người nghiên cứu. Có người đưa ra vấn đề : “Niệm Phật là ai” ? Trong Kinh Kim Cang nói : “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”. Có một nơi nào đó tức là trụ. Vô sở trụ, tức là không nghĩ thiện, không nghĩ ác, là tại chỗ nầy mà dụng công. Nếu chú ý vào một nơi, nghĩ tốt nghĩ không tốt, đó đều là chấp trước. Tu hành tức là tu chẳng chấp trước vào gì hết, chấp trước gì cũng chẳng có, ngay cả thân thể của mình cũng quên luôn, cho đến thân thể cũng chẳng có, thì còn chấp trước vào cái gì ?
Khi tham thiền thì chẳng nhớ gì hết, chỉ nhớ : “Niệm Phật là ai” ? Tìm cái “ai”? nầy, khi nào mà tìm được “ai”? Thì lúc đó sẽ khai ngộ, tìm không được thì một ngày cũng phải tìm, mười ngày cũng phải tìm, trăm ngày cũng phải tìm, ngàn ngày cũng phải tìm, vạn ngày cũng phải tìm, cho đến một năm, mười năm, trăm năm, ngàn năm, vạn năm, cũng đều tìm cái nầy. Khi nào tìm được thì lúc đó mới thôi.
Ðừng muốn nhanh, chẳng như hút nha phiến, hút xong thì ghiền; sự việc chẳng dễ dàng như thế, đó là pháp môn gạt người. Tu pháp môn chân chánh, phải tự mình nỗ lực dụng công, đừng nhổ mầm giúp cho mau lớn, muốn cho mau lớn lên một chút ! Mau cao lên một chút ! Ðó là tư tưởng sai lầm. Câu “Niệm Phật là ai”? Là chém chặt hết tất cả mọi vọng tưởng, chém chặt hết tất cả mọi dục niệm, tức là chém hết mười đại ma quân. Chữ “ai” nầy, tức là kim cang vương bảo kiếm, gì cũng đều chém sạch hết, gì cũng chẳng còn. Ấy chẳng phải chấp trước một nơi nào.
“Phàm tất cả tướng đều là hư vọng,
Nếu thấy các tướng phi tướng,
Tức thấy Như Lai”.
Tất cả chấp trước đó là nhân tâm. Chẳng chấp trước đó là đạo tâm. Ngồi thiền mà không tham chữ “ai” thì vọng tưởng sẽ sinh ra, như vậy thì suốt đời cũng chẳng khai ngộ. Tham thoại đầu tức là dùng độc trị độc, dùng vọng tưởng để khống chế vọng tưởng, nghĩa là dùng một vọng tưởng điều phục nhiều vọng tưởng, đến được sơn cùng thủy tận, hết đường đi thì sẽ khai ngộ.
Giảng kinh chẳng phải là việc dễ, không giảng thì chẳng biết không dễ dàng, đợi khi nào bạn giảng thì mới biết là không dễ, nhất là người chưa nghe giảng kinh, càng không biết việc giảng kinh là không dễ dàng. Giảng kinh thì chẳng biết thế nào là đúng ? Thế nào là không đúng ? Thậm chí, chữ kinh hoặc kinh văn in sai cũng đều không biết, cho nên nói giảng kinh là không dễ dàng.
Không những tôi giảng kinh có chỗ sai, mà nhiều vị pháp sư có khi cũng đều giảng sai. Giảng sai là giảng sai, nhưng hy vọng các bạn đừng nghe sai. Ðợi khi nào các bạn phiên dịch, thì phải cải chính lại mới đúng. Nếu biết sai mà không cải chính, đó là quả báo của tôi. Vì trước kia tôi nghe người ta giảng kinh, tôi cũng đều chê họ giảng sai. Bây giờ đồ đệ cũng chê sư phụ giảng sai. Vì tôi không sợ đọa địa ngục, cho nên phê bình người khác giảng kinh sai. Bây giờ đồ đệ của tôi, cũng chẳng sợ đọa địa ngục, đến phê bình sư phụ. Ðợi tương lai bạn giảng kinh, thì không những đồ đệ của các bạn đến phê bình bạn, mà đồ đệ tôn của các bạn, cũng đến phê bình các bạn giảng sai. Ðó là quả báo, tương lai các bạn sẽ biết, bây giờ tôi biết tôi đang thọ quả báo.
Hôm nay nhận được thư của Quả Du nói : Y tam bộ nhất bái, thì mũi và miệng của y thường tiếp hợp với đất, nghĩ đến sự tu hành nghiên cứu Phật pháp ở tại chùa Kim Sơn rất là quan trọng. Y không thể tiếp hợp với Phật pháp, đại khái rất là khổ tâm ! Y muốn các bạn hãy nỗ lực nghiên cứu Phật pháp, và hợp với Phật pháp mà làm một, đả thành một khối, đó là đại ý trong thư của y.
Các bạn hãy nghĩ xem ! Chùa Kim sơn có hai vị xuất gia, dùng công đức tam bộ nhất bái, để cầu cho thế giới hòa bình, tu hành Bồ Tát đạo khó hành. Chúng ta hằng ngày ở tại đây làm biếng, gì cũng chẳng làm, làm sao ăn nói với hai vị đó ? Chúng ở ngoài mưa ngoài gió hành Bồ Tát đạo, vì nhân loại thế giới mà cầu bình an, chứ chẳng phải vì hạnh phúc của mình. Các bạn hãy phản tỉnh một phen, nên tu hạnh môn gì, mới giúp được hai vị sớm hoàn thành hạnh nguyện to lớn nầy ? Có phải nghĩ biện pháp khiến cho Phật giáo phát dương quang đại ? Có phải dùng tâm từ bi để phổ độ tất cả chúng sinh ? Bất cứ tu pháp môn gì, chỉ cần tinh tấn đừng giải đãi, thì có thể trực tiếp hoặc gián tiếp, đều trợ giúp cho hai vị công đức được viên mãn.
Hai vị tam bộ nhất bái trên xa lộ, có các nhà báo đến phỏng vấn, lại có ký giả đài truyền hình đến nhiếp ảnh, hai vị gây sức ảnh hưởng rất lớn cho Phật giáo ! Thành công của hai vị, tức là của mỗi người chúng ta. Chúng ta phải phát nguyện trợ giúp hạnh môn của hai vị, cho sớm được thành công. Ở tại đất nước nầy, tu hạnh môn tam bộ nhất bái, là kỷ lục từ trước chẳng có mà mới sáng tạo, hy vọng từ nay về sau, Phật giáo lấy họ làm mô phạm. Ðây mới là bắt đầu ! Về sau nhất định sẽ có người phá kỷ luật.
Mọi người nghĩ xem, hai vị tu hạnh môn thế nầy, còn chúng ta thì tu hạnh môn ngủ chăng ? Hạnh môn lười biếng ? Tu hạnh môn đố kị ? Mọi người phải hồi quang phản chiếu. Cho nên tôi phát tâm vì họ mà giảng kinh nhiều lần, Mỗi chiều thứ bảy một giờ bắt đầu giảng kinh (hiện tại một tuần giảng kinh chín lần). Tôi đem công đức nầy, hồi hướng cho hai vị. Quả Du (Hằng Cụ) là người hồ đồ trong hồ đồ, không biết sự quan trọng học Phật pháp. Bây giờ, đi tam bộ nhất bái hơn một tháng, đã hiểu nhiều hơn so với lúc trước, có thể nói là khai ngộ một chút, Y biết bỏ lỡ cơ hội học Phật pháp, không những y bỏ lỡ cơ hội, mà cũng liên lụy đến Quả Ðạo (Hằng Do), cũng bỏ lỡ cơ hội nầy. Ðó là chỗ họ khai ngộ, cho nên hy vọng mọi người cố gắng học Phật pháp, nỗ lực tham thiền đả tọa. Y còn hy vọng mọi người giúp y học chút Phật pháp.
Trong sự cảm giác của tôi, tướng mạo của Quả Du chẳng giống lúc trước, bây giờ hiện ra tướng Tỳ Kheo. Quả Ðạo cũng khác với lúc trước, không cần nhìn họ, chỉ nghe âm thanh của họ, thì biết khác hẳn lúc trước nhiều, đó là đạo lý công chẳng luống mất.
Quả Du lúc trước, tuyệt đối không biên thư được như thế, bây giờ thư của y có ý nghĩa khai ngộ, song chẳng phải khai đại ngộ, mà là khai tiểu ngộ. Bất cứ pháp môn gì, cũng đều có cảm ứng đạo giao.
Lại nữa, Chủ Hỏa Thần Phổ Quang Diệm Tạng, được môn giải thoát, phá trừ đen tối của tất cả thế gian.
Ý nghĩa ở trên chưa nói hết, lại tiếp tục nói. Vị Phổ Quang Diệm Tạng Chủ Hỏa Thần này, quang minh chiếu soi khắp hết thảy. Quang minh của vị này trùng trùng vô tận, cho nên gọi là Phổ Quang Diệm Tạng. Vì vị này là Phổ Quang Diệm Tạng, cho nên chiếu phá trừ đen tối của tất cả thế gian, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Phổ Tập Quang Tràng Chủ Hỏa Thần, được môn giải thoát, diệt trừ các hoặc phiêu lưu nhiệt não khổ, của tất cả chúng sinh.
Vị Phổ Tập Quang Tràng Chủ Hỏa Thần này, quang minh tụ lại với nhau như tràng báu. Vị này diệt trừ được đủ thứ mê hoặc, vô minh, ngu si, ám chướng, của tất cả chúng sinh, khiến cho họ thoát khỏi phiêu lưu nhiệt não trong biển khổ, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Vì chúng sinh sanh ra các hoặc, cho nên luân hồi trong sáu nẻo, lúc làm người, làm quỷ, làm súc sinh, làm A tu la, làm người trời, đọa địa ngục, cho nên gọi là phiêu lưu. Trong địa ngục là nơi nhiệt não khổ nhất, chịu khổ chẳng khi nào hết được. Phàm là người không hiếu thuận với cha mẹ, không cung kính sư trưởng, cho nên mới vào địa ngục thọ quả báo.
Chủ Hỏa Thần Ðại Quang Biến Chiếu, được môn giải thoát, không động phước lực đại bi tạng.
Vị Ðại Quang Biến Chiếu Chủ Hỏa Thần này, có hỏa quang chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Vị này đắc được môn giải thoát, không động phước lực đại bi tạng. Không động phước lực là gì ? Tức là phước lực này vĩnh viễn không dứt, không động. Vì tu phước lực này, cho nên đắc được môn giải thoát đại bi tạng. Ðại bi tạng là gì ? Tức là tâm thương xót muốn giáo hóa cứu độ chúng sinh. Vị Chủ Hỏa Thần này, dùng phước lực của mình để hộ trì tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều đắc được không động phước lực đại bi tạng, đó là tâm địa của Bồ Tát.
Chủ Hỏa Thần Chúng Diệu Cung Ðiện, được môn giải thoát, quán sức thần thông của Như Lai thị hiện không có bờ mé.
Vị Chúng Diệu Cung Ðiện Chủ Hỏa Thần này, dùng tất cả báu đẹp để trang nghiêm cung điện. Vị này đắc được sức thần thông tự tại của Phật, thị hiện được vô lượng vô biên cõi nước và chúng sinh, ở trong biển cõi giáo hóa tất cả chúng sinh, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Chủ Hỏa Thần Vô Tận Quang Kế, được môn giải thoát, quang minh chiếu sáng vô biên cõi hư không.
Vị Vô Tận Quang Kế Chủ Hỏa Thần này, quang minh vô tận, chiếu sáng vô tận cõi nước, vô lượng thế giới, vô lượng biển kiếp. Tận hư không khắp pháp giới đều chiếu soi đến, khiến cho tất cả chúng sinh đều phát tâm bồ đề, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Chủ Hỏa Thần Chủng Chủng Diệm Nhãn, được môn giải thoát, đủ thứ phước trang nghiêm tịch tĩnh quang.
Vị Chủng Chủng Diệm Nhãn Chủ Hỏa Thần này, mắt phóng ra đủ thứ quang minh lửa ngọn màu xanh vàng đỏ trắng đen. Vị này minh bạch được pháp thân của Phật, do vạn phước vạn đức trang nghiêm, do đó dùng đủ thứ phước để trang nghiêm thân Phật. Vị này có một thứ quang minh tịch tĩnh, tức cũng là định quang, thường phóng quang minh ở trong định, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Chủ Hỏa Thần Thập Phương Cung Ðiện Như Tu Di Sơn, được môn giải thoát, diệt trừ sự khổ nóng bức của tất cả chúng sinh trong các đường ác.
Vị Thập Phương Cung Ðiện Như Tu Di Sơn Chủ Hỏa Thần này, trang nghiêm tất cả cung điện trong mười phương, khiến cho nguy nga hùng vĩ như núi Tu di. Vị này diệt trừ được sự thống khổ thiêu đốt, của tất cả chúng sinh thế gian trong các cõi. Các cõi là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la. Ở trong các cõi này, thống khổ giống như bị lửa thiêu đốt. Ðó là môn giải thoát vị này đắc được.
Chủ Hỏa Thần Oai Quang Tự Tại, được môn giải thoát, tự tại khai ngộ tất cả thế gian.
Vị Oai Quang Tự Tại Chủ Hỏa Thần này, có uy đức cho nên quang minh phóng ra rất tự tại vô cùng. Vị này đắc được môn giải thoát, tự tại khai ngộ tất cả thế gian. Vị này khiến cho tất cả chúng sinh thế gian, cũng đều tự tại khai ngộ, thành tựu đạo nghiệp, vị Chủ Hỏa Thần này, không những oai quang tự tại, mà còn có tâm từ bi lớn, mình khai ngộ rồi, cũng muốn cho họ khai ngộ.
Chủ Hỏa Thần Quang Chiếu Thập Phương, được môn giải thoát, vĩnh viễn phá tất cả ngu si chấp trước sự thấy.
Vị Quang Chiếu Thập Phương Chủ Hỏa Thần này, hỏa quang chiếu khắp mười phương, vĩnh viễn phá trừ tất cả đen tối ngu si, của những kẻ chẳng có trí huệ. Kẻ ngu si, chính mình chẳng chịu mình là ngu si, ngược lại, nói người thông minh mới là ngu si, giống như con quạ ở trên lưng con heo đen, mà chẳng biết mình cũng là màu đen. Ðó tức là hành vi của kẻ ngu si. Kẻ ngu si, chính mình còn chẳng biết mình là ngu si, mà còn nói họ là ngu si, thật là quá ngu si !
Vì ngu si mới có chấp trước. Việc gì nhìn cũng không thấu, thấy việc gì cũng chẳng hiểu biết, do đó bị sự việc trói buộc, mà không được giải thoát, nhất là chấp trước sự thấy, chấp trước sự hiểu biết của mình là đúng, còn sự hiểu biết của họ là sai, đó là cố chấp không thông. Nếu có tư tưởng chấp trước sự thấy, thì không thể khai ngộ, không thể giải thoát. Vị Chủ Hỏa Thần này, đắc được môn giải thoát, phá trừ ngu si chấp trước sự thấy.
Chủ Hỏa Thần Lôi Âm Ðiện Quang, được môn giải thoát, thành tựu tất cả nguyện lực đại chấn hống.
Vị Lôi Âm Ðiện Quang Chủ Hỏa Thần này, có âm thanh như sấm sét, chấn động khắp pháp giới, và có quang minh như điện chiếu khắp pháp giới. Vị này thành tựu nguyện lực của tất cả chúng sinh, bất cứ bạn phát nguyện gì, thì vị này đều giúp cho bạn thành tựu. Âm thanh sư tử hống của vị này, chấn động pháp giới, đánh thức kẻ mê muội, khiến cho họ thức tỉnh, bỏ mê về giác, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Bây giờ, là thời gian để chúng ta nghiên cứu với nhau. Ai có ý kiến gì thì nói ra, đừng ngập ngừng, muốn nói lại không dám nói, không dám nói lại muốn nói, đó chẳng phải là thái độ học Phật pháp. Học Phật pháp phải hoạt bát, đừng học kiểu khúc gỗ, phải tiến về trước, đừng lùi về sau. Phải đưa ra ý kiến, đó mới là tinh thần học Phật pháp.
Người thối lùi về sau, thì sẽ bị người mới theo đuổi kịp, cho nên tự mình hỏi chính mình, có phải muốn thối lùi chăng ? Nếu muốn không thối lùi, thì phải dũng mãnh tinh tấn, đừng dậm chân tại chỗ. Do đó: “Dừng lại một bước, thì cách xa hai dặm rưỡi.’’ Tu đạo giống như thuyền đi ngược dòng, không tiến thì lùi, lại giống như hành giả tam bộ nhất bái, quy định mỗi ngày phải lạy hai dặm rưỡi, nếu không tinh tấn, thì không đạt được như đã quy định. Các vị phải tinh tấn đừng thối lùi về sau.
Bấy giờ ! Chủ Hỏa Thần Phổ Quang Diệm Tạng, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Chủ Hỏa Thần, mà nói ra bài kệ.
Lúc đó, vị Phổ Quang Diệm Tạng Chủ Hỏa Thần, nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp tất cả chúng Chủ Hỏa Thần rồi dùng kệ để thuật lại môn giải thoát.
Hiện tại, tôi giảng Kinh Hoa Nghiêm đã có chút nhập môn. Mỗi đoạn kinh văn, chỉ cần xem qua một lần thì nhớ, không cần xem lại lần thứ hai. Bây giờ giảng kinh thì nhìn qua một lần, sau đó thì tụng thuộc lòng lại được, đó là nhờ chư Phật, Bồ Tát của pháp hội Hoa Nghiêm gia bị, mới có sự cảm ứng như thế. Tôi vốn chẳng muốn nói tin này với các vị, song tôi hy vọng các vị cũng phải học theo, không cần nhìn kinh văn thì tụng ra được.
Tôi thấy khi các vị giảng kinh, thì hoàn toàn dùng tiếng Anh của tôi đã giảng đọc ra, như thế thì không đúng. Các vị nên phát huy trí huệ của mình, dùng kiến giải của mình để giảng mới sinh động được, mới có ý nghĩa. Những gì tôi giảng, có những chỗ không được viên mãn lắm, cho nên hy vọng các vị y chiếu ý nghĩa của mình để giảng, không thể chiếu theo ý nghĩa của tôi giảng đọc lại, như vậy chẳng khác gì là tôi giảng, chỉ bất quá các vị đọc lại mà thôi.
Giảng kinh không cần đọc thuộc chú giải, tôi giảng kinh thì chẳng nhìn chú giải, có khi nhìn nhưng cũng chẳng nhớ. Nghe nói có người khi giảng Ðại Thừa Khởi Tín Luận, thì trước hết họ xem qua nghĩa giảng giải của Khởi Tín Luận, như thế cũng được, nhưng nhìn tài liệu của người, chứ chẳng phải của mình, cuối cùng sẽ quên mất. Cho nên, tôi khuyên các vị, nên phát huy trí huệ của mình, xem chú giải phải thêm kiến giải của mình, nếu chỉ lập lại của người thì chẳng tác dụng gì.
Ông quán tinh tấn của Như Lai
Ức kiếp rộng lớn không nghĩ bàn
Vì lợi chúng sinh hiện ra đời
Tất cả ám chướng đều diệt trừ.
‘’Ông quán tinh tấn của Như Lai‘’. Ông quán là ai nói ông ? Ai quán ? Như Lai là vị Như Lai nào ? Những vấn đề này đều phải biết, thì sau đó mới minh bạch được nghĩa kinh.
Câu kệ này do ai nói ? Là vị Phổ Quang Diệm Tạng Chủ Hỏa Thần đã nói ở trên. Ngài nói: ‘’Các vị nhìn xem ! Xem gì ? Xem Như Lai. Vị Như Lai nào ? Là Thích Ca Mâu Ni Như Lai, xem ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Phật chăng ? Chẳng phải ! Xem sức tinh tấn của Như Lai tu vô lượng kiếp.’’
Phật vì cầu pháp mà hy sinh tất cả, buông bỏ tất cả, thậm chí, thân tâm tính mạng cũng đều xả bỏ, chỉ biết tinh tấn, ngày tinh tấn đêm tinh tấn, ngày đêm sáu thời đều tinh tấn, làm cho mười đại ma quân đều bỏ chạy. Phật dụng công tu hành những gì người làm không được, mà Ngài làm được, người nhẫn không được, mà Ngài nhẫn được.
Như Phật xả thân cứu cọp đói, theo sự suy nghĩ của mọi người thì cọp rất là hung ác, cứu nó làm gì ? Nó chết đói tốt biết chừng nào ! Thế giới sẽ bớt đi một thú dữ. Phật thì không nghĩ như thế, Ngài có tâm từ bi, xả bỏ thân thể của mình để cứu cọp đói, và Phật còn lóc thịt cứu chim ưng. Phần đông đa số đều nghĩ, chim ưng cũng là thứ chim ác, chuyên môn ăn thịt động vật nhỏ, nhưng Phật lóc thịt mình để cứu nó. Bạn thấy đó ! Sức tinh tấn này có ai sánh bằng ?
Các vị chỉ biết ích kỷ, mà chẳng biết vô tư, chỉ biết lợi mình, mà chẳng biết lợi người, còn tồn tại tư tưởng như thế, thì chẳng tinh tấn được. Cho nên chúng ta phải tinh tấn dụng công tu đạo. Tất cả hãy vì người đừng vì mình, như vậy thì mới hành Bồ Tát đạo được.
‘’Ức kiếp rộng lớn không nghĩ bàn‘’. Phật ở trong quá khứ vô lượng kiếp tu hành, hạnh môn sức tinh tấn không thể nghĩ bàn.
‘’Vì lợi chúng sinh hiện ra đời‘’. Tại sao Phật xuất hiện ra đời ? Vì muốn lợi ích chúng sinh. Tại sao chúng ta hiện ra đời ? Vì đến để làm tổn hại chúng sinh. Phật thì đến để giáo hóa chúng sinh, phổ độ chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui, liễu sinh thoát tử, còn chúng ta chỉ biết ích kỷ lợi mình, đem những gì ích lợi chúng sinh, để làm của riêng mình, chỉ biết có mình mà chẳng biết có kẻ khác.
Có lẽ chúng ta có những tư tưởng này đối với chúng sinh: “Ông phải chết đi cho sớm ! Những đồ vật tôi cần đều bị ông xử dụng. Nếu ông chết đi, thì tôi hưởng thụ nhiều hơn một chút. Thậm chí giữa cha với con cũng có tư tưởng như thế, cha giàu có thì con mong cho cha chết sớm để tiền tài thuộc hết về mình. Chao ôi ! Sao ông không chết ? Ðã già mà không chết cho rồi, sống để báo hại”. Con cái trông mong cha mẹ chết sớm một chút. Các vị nghĩ xem, chúng ta xuất hiện ra đời có phải để tổn hại chúng sinh chăng ?
‘’Tất cả ám chướng đều diệt trừ‘’. Ám chướng tức là phiền não chướng, sở tri chướng, nghiệp chướng, báo chướng .v.v. Vị Chủ Hỏa Thần này, khiến cho tất cả ám chướng của chúng sinh đều tiêu diệt. Ám chướng không còn nữa, thì xuất hiện quang minh, đắc được trí huệ, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Chúng sinh ngu si khởi chư kiến
Phiền não tuông trào như lửa thiêu
Ðạo Sư phương tiện đều diệt trừ
Sở ngộ này của Phổ Quang Tràng.
‘’Chúng sinh ngu si khởi chư kiến‘’. Chư kiến tức là thân kiến, biên kiến, tà kiến .v.v. Tức cũng là tà tri tà kiến. Chúng sinh ngu si thì nhiều, còn chúng sinh thông minh thì ít. Trong một vạn người, khó tìm được một người thông minh. Chúng sinh thông minh có đủ chánh tri chánh kiến, chúng sinh ngu si có đủ tà tri tà kiến.
‘’Phiền não tuông trào như lửa thiêu‘’. Có tà tri tà kiến thì có phiền não. Phiền não giống như nước chảy cuồn cuộn, có thể làm cho nhà xập, cây ngã. Lại giống như lửa lớn thiêu đốt tất cả mọi vật.
‘’Ðạo Sư phương tiện đều diệt trừ‘’. Phật là tiếp dẫn đạo sư, Ngài dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để diệt trừ phiền não tuông trào và lửa lớn.
‘’Sở ngộ này của Phổ Quang Tràng’’. Vị Phổ Tập Quang Tràng Chủ Hỏa Thần, tỏ ngộ cảnh giới này, vào sâu môn giải thoát này.
Phước đức như không chẳng bờ bến
Muốn tìm bờ mé không thể được
Là Phật đại bi sức bất động
Quang Chiếu ngộ nhập tâm vui mừng.
‘’Phước đức như không chẳng bờ bến‘’. Phước đức của Phật như hư không, chẳng có bờ bến, chẳng phải tính đếm ví dụ mà biết được.
‘’Muốn tìm bờ mé không thể được‘’. Muốn biết phước đức của Ðức Phật có bao nhiêu ? Không thể biết được, vì như hư không, cho nên không cách chi tính được.
‘’Là Phật đại bi sức bất động‘’. Ðây là sức đại bi tâm tịch nhiên bất động của Phật.
‘’Quang Chiếu ngộ nhập tâm vui mừng.’’ Vị Ðại Quang Biến Chiếu Chủ Hỏa Thần, minh bạch cảnh giới này, trong tâm sinh vui mừng.
Tôi quán việc làm của Như Lai
Trải qua biển kiếp không bờ mé
Như thế thị hiện sức thần thông
Chúng Diệu Cung Thần biết rõ được.
Tôn giả A Nan khi kết tập kinh điển, thì sợ rằng ý nghĩa của kinh trường hàng có người không hiểu, cho nên dùng kệ tụng lại. Hiện tại đang giảng mười bài kệ, tuy nhiên do Ngài A Nan nói ra, nhưng là ý nghĩa đại biểu của mười vị Chủ Hỏa Thần. Bất quá, Ngài A Nan là người ghi nhớ, mà chẳng phải là người thuyết pháp.
Mỗi vị Chủ Hỏa Thần nói ra cảnh giới đắc được của mình, mà vào môn giải thoát đó. Bài kệ thứ nhất vì ở trước đã nói ra tên của vị Thần đó, cho nên câu cuối chẳng có tên, chín bài kệ còn lại đều có tên. Vì nguyên nhân này mà có người cho rằng, mười bài kệ là chỉ một vị Thần nói, đó là sai, không hợp với nghĩa kinh. Bây giờ giảng bốn câu kệ.
‘’Tôi quán việc làm của Như Lai‘’. Tôi quán này là do ai nói ? Là vị Chúng Diệu Cung Ðiện Chủ Hỏa Thần nói, đây là tôn giả A Nan biên kệ thế Ngài nói. Tôi quán sát hạnh môn của Phật tu. Hạnh môn gì ? Ở dưới đây có nói rõ.
‘’Trải qua biển kiếp không bờ mé‘’. Nên đọc, xem lại kinh trường hàng mới minh bạch được đại ý. Trong trường hàng ở trên nói, Chúng Diệu Cung Ðiện Chủ Hỏa Thần, đắc được môn giải thoát, quán sát sức thần thông của Như Lai thị hiện không bờ mé. Như Lai đắc được sức thần thông, tức là hạnh môn của Như Lai tu.
Biển kiếp tức là đại kiếp nhiều như biển cả, vô cùng vô tận không bờ mé, số lượng không thể nghĩ bàn, cho nên gọi là biển kiếp. Trải qua biển kiếp thời gian dài như thế. Cứu kính có bao nhiêu đại kiếp ? Không thể biết được, vì không có bờ bến.
‘’Như thế thị hiện sức thần thông‘’. Ở trong thời gian lâu dài này, Phật thị hiện đủ thứ sức thần thong, để giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh phát tâm bồ đề.
‘’Chúng Diệu Cung Thần biết rõ được.’’ Từ câu kệ này nhìn lại, chứng minh là kết tập kinh tạng do tôn giả A Nan nói. Trường hàng ở trước, đầu tiên nói tên của vị Chủ Hỏa Thần đó, nói là vị đó nương oai lực của Phật mà nói kệ. Tức nhiên vị đó nương oai lực của Phật mà nói kệ, vậy còn lại chín vị Chủ Hỏa Thần, sao lại không nương oai lực của Phật mà nói kệ ? Các bạn nghĩ thử thì sẽ minh bạch.
Ở trước, tôi chẳng giải thích tỉ mỉ, cho rằng các bạn sẽ minh bạch đạo lý này, không ngờ còn có người không minh bạch, mà đi xem chú giải, song chú giải cũng không chắc chắn là đúng. Vì mỗi người có lối nhìn của mỗi người, mỗi người có kiến giải của mỗi người, cho nên bạn có chú giải của bạn, tôi có chú giải của tôi, người khác có chú giải của họ. Chú giải này cũng không nhất định chính xác. Tức nhiên không chính xác, tại sao đem nó liệt vào trong Ðại Tạng Kinh ? Tuy nhiên liệt vào trong Ðại Tạng Kinh, cũng không nhất định hoàn toàn là đúng.
Mạnh Tử có nói câu này :
‘’Tận tín thư, bất như vô thư.’’
Nghĩa là:
Tin trong sách, tốt hơn đừng có sách.
Bạn tin đạo lý nói trong sách, chẳng bằng không có sách còn hơn, sẽ không làm cho người hồ đồ đến thế. Tại sao Mạnh Tử phải nói câu này ? Vì trong kinh sách có hai câu kinh văn như vầy :
‘’Võ Vương phạt Trụ, huyết lưu phiêu sử.’’
Là hình dung Chu Võ Vương chinh phạt vua Trụ, giết người vô số, máu chảy thành sông, còn chày sắt (vũ khí) thì trôi nổi bềnh bồng. Bạn có tin lời nói này chăng ? Cho nên nói tin trong sách tốt hơn đừng có sách.
Chu Võ Vương là ông vua có đạo đức, binh lính của ông đều rất nhân nghĩa, ông dùng nhân nghĩa làm thầy, đi đánh ông vua vô đạo đức là thế thiên hành đạo, thay dân phạt tội, cứu dân thoát khỏi biển khổ dầu sôi lửa bỏng, mà giết người khiến cho máu chảy khắp nơi, đến nỗi chày sắt nổi lên. Bạn thử nghĩ xem điều này có đạo lý chăng ? Sẽ phân tích kỹ càng dưới đây, sức nặng cái chày sắt ít nhất cũng vài chục cân, vì thời xưa vũ khí rất nặng, vậy cần bao nhiêu máu huyết mới làm cho chày sắt nổi lên ?
Ðạo lý nói ở trong kinh điển là phá chấp. Nếu bạn có sự chấp trước, thì sẽ không đắc được trí huệ chân chánh, do đó mê là chúng sinh, ngộ tức là Phật. Giác ngộ là gì ? Tức là chẳng có sự chấp trước. Cho nên, khi Phật đắc đạo dưới cội bồ đề, thì thốt lên ba lần lành thay. ‘’Lành thay ! Lành thay ! Lành thay ! Tất cả chúng sinh đều có trí huệ đức tướng của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước mà không chứng đắc.’’
Tại sao chúng ta ngu si ? Vì có chấp trước. Tại sao chẳng có trí huệ ? Vì có chấp trước. Chấp trước danh, chấp trước lợi; chấp trước danh thì chết vì danh, chấp trước lợi thì chết vì lợi, cho nên hai chữ danh lợi là kẻ giết người.
Ức kiếp tu hành không nghĩ bàn
Muốn tìm bờ mé chẳng biết được
Nói pháp thật tướng khiến vui mừng
Vô Tận Quang Thần quán thấy được.
Bốn câu kệ này, cũng ở trong ký ức của tôn giả A Nan. Khi kết tập kinh điển thì tôn giả nói, vị Vô Tận Quang Kế Chủ Hỏa Thần, đắc được một môn giải thoát. Môn giải thoát gì ? Kệ đã nói rõ ở dưới đây.
‘’ Ức kiếp tu hành không nghĩ bàn‘’. Ngài biết được Phật trong vô lượng kiếp về trước, tu hành các hạnh môn thành công không thể nghĩ bàn, thần thông không thể nói, diệu dụng không thể nghĩ bàn. Nói tóm lại, tất cả tất cả đều không thể nghĩ bàn.
‘’Muốn tìm bờ mé chẳng biết được‘’. Muốn biết bờ mé thần thông diệu dụng, và phước đức trang nghiêm của Phật, thì chẳng cách chi có thể biết được.
‘’Nói pháp thật tướng khiến vui mừng‘’. Phật diễn nói diệu pháp thật tướng, diễn nói diệu pháp thật tướng vô tướng, diễn nói diệu pháp vô tướng vô bất tướng, khiến cho tất cả chúng sinh nghe được pháp âm này, đều hớn hở vui mừng tin nhận phụng hành.
‘’Vô Tận Quang Thần quán thấy được.’’ Vị Vô Tận Quang Kế Chủ Hỏa Thần, quán sát thấy được cảnh giới này, đắc được môn giải thoát này.
Khi các bạn nghe kinh, nếu có chỗ nào không hiểu thì biên ra, song hiểu rồi thì phải đốt đi. Tại sao ? Vì khi mê thì xem ngàn quyển cũng cảm thấy ít, khi ngộ rồi thì một chữ cũng cảm thấy nhiều. Như còn có một chữ, tức là còn chướng ngại trong tự tánh. Các bạn nghĩ xem phải làm sao ?
Các bạn phải biết những gì đã hiểu, những gì không hiểu ? Khi không hiểu, thì đối với Phật pháp chẳng vào sâu kinh tạng, chẳng có trí huệ như biển, đó tức là lúc nên ghi chép. Khi nào bạn vào sâu kinh tạng, trí huệ như biển, thì kinh tức là bạn, bạn tức là kinh, những gì ghi chép đều nhớ ở trong tự tánh, vĩnh viễn không quên mất, vậy bạn còn lưu lại những gì ghi chép để làm gì ? Cho nên, kêu bạn đốt sạch những gì ghi chép là vì lý do này.
Mười phương tất cả chúng rộng lớn
Hết thảy chiêm ngưỡng ở trước Phật
Quang minh tịch tĩnh chiếu thế gian
Diệu Diệm Thần thấu rõ môn này.
‘’Mười phương tất cả chúng rộng lớn‘’. Mười phương tức là: Trên, dưới, đông, tây, nam, bắc, sáu phương và đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, cộng thành mười phương. Tất cả chúng sinh rộng lớn vô biên ở trong mười phương.
‘’Hết thảy chiêm ngưỡng ở trước Phật‘’. Hết thảy vô biên chúng sinh rộng lớn này, đều hiện ở trước Phật để chiêm ngưỡng Phật.
‘’Quang minh tịch tĩnh chiếu thế gian‘’. Tịch tĩnh là định. Phật ở trong định phóng quang, chiếu soi tất cả hữu tình thế gian.
‘’Diệu Diệm Thần thấu rõ môn này.’’ Cảnh giới này, vị Chủng Chủng Diệm Nhãn Chủ Hỏa Thần thấy rõ, đắc được môn giải thoát này.
Mâu Ni xuất hiện các thế gian
Ngự trong tất cả các cung điện
Mưa khắp vô biên pháp rộng lớn
Cảnh giới này của Thập Phương Thần.
‘’Mâu Ni xuất hiện các thế gian‘’. Mâu Ni tức là Phật Thích Ca Mâu Ni. Thích Ca dịch là “năng nhân”, Mâu Ni dịch là “tịch mặc”, tức là vị Phật này năng nhân tịch mặc, Ngài xuất hiện đến hết thảy tất cả thế gian.
‘’Ngự trong tất cả các cung điện‘’. Phật xuất hiện ra đời, Ngài thị hiện trong dòng dõi vua. Nơi của vua ở đều là cung điện, Phật ra đời cũng ở nơi cung điện, hoặc khi Phật ngồi dưới cội bồ đề, cung điện trang nghiêm bằng bảy báu cũng hiện ra. Phật ngồi trrong cung điện bảy báu, diễn nói diệu pháp Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật.
‘’Mưa khắp vô biên pháp rộng lớn‘’. Phật ra đời vì chúng sinh diễn nói vô biên pháp môn rộng lớn. Phật nói pháp như ý, giống như rưới mưa cát tường khắp hết thảy, khiến cho tất cả chúng sinh nghe pháp, đều đắc được lợi ích của pháp. Giống như cây lớn (chúng sinh lợi căn), thì thấm nhuần pháp vũ cam lồ nhiều hơn một chút, cây nhỏ (chúng sinh độn căn), thì thấm nhuần pháp vũ cam lồ ít hơn một chút. Pháp vũ là bình đẳng, chẳng qua căn tánh có sự khác biệt mà thôi.
‘’Cảnh giới này của Thập Phương Thần.’’ Tôn giả A Nan nói: ‘’Cảnh giới này, vị Thập Phương Cung Ðiện Như Tu Di Sơn Chủ Hỏa Thần đắc được.’’
Trí huệ chư Phật thâm sâu nhất
Nơi pháp tự tại hiện thế gian
Ðều xiển minh được lý chân thật
Oai Quang ngộ được tâm hớn hở.
‘’Trí huệ chư Phật thâm sâu nhất‘’. Chư Phật có thể nói là mười phương tất cả chư Phật, lại có thể nói là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Bát nhã trí huệ của Phật thâm sâu nhất, chẳng có ai có trí huệ cao hơn Phật. Phật là đại đạo sư thế gian và xuất thế gian, Ngài có thể khai mở trí huệ của tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh trở về nguồn cội, nhận ra bộ mặt thật của chính mình. Phật dùng đủ thứ ví dụ để vì chúng sinh thuyết pháp, khiến cho tất cả chúng sinh đều minh bạch Phật pháp.
‘’Nơi pháp tự tại hiện ra đời‘’. Phật chứng đắc quả giác viên mãn, Ngài thấu rõ pháp thế gian và pháp xuất thế gian, cho nên tự tại nơi các pháp. Sao gọi là tự tại nơi các pháp ? Tức là không cần miễn cưỡng, không cần tạo tác, rất là tự nhiên, rất là tự tại. Phật hiện ra đời, khiến cho tất cả chúng sinh đều khai mở tri kiến của Phật, ngộ vào tri kiến của Phật.
‘’Ðều xiển minh được ý chân thật‘’. Phật giảng pháp thì biểu hiện rõ ràng lý chân thật. Lý chân thật tức là lý không biến đổi, lý này là chân lý xưa nay trước sau đều tôn theo.
‘’Oai Quang ngộ được tâm hớn hở’’. Vị Oai Quang Tự Tại Chủ Hỏa Thần, minh bạch được cảnh giới này, cho nên trong tâm của Ngài hớn hở vui mừng vô cùng.
Chư kiến ngu si là ám cái
Chúng sinh mê hoặc thường lưu chuyển
Phật vì khai xiển diệu pháp môn
Sở ngộ này của Chiếu Phương Thần.
‘’Chư kiến ngu si là ám cái‘’. Chư kiến tức cũng là các thứ tà kiến, trước có tà tri, sau có tà kiến, thấy hiểu mà tà thì sẽ ngu si, thấy hiểu mà chánh thì sẽ có trí huệ. Cho nên nói có tà kiến thì có ngu si. Ngu si tức là vô minh, tức là đen tối, tức là cái, cái thì che lấp quang minh trí huệ của chúng sinh, cho nên nói là ám cái.
‘’Chúng sinh mê hoặc thường lưu chuyển‘’. Chúng ta vì có tà tri tà kiến, cho nên từ vô thủy đến nay, chưa thoát khỏi sáu nẻo luân hồi, không dứt sinh tử, do đó chuyển đi chuyển lại ở trong sáu nẻo luân hồi, khi thì ở cõi trời, cõi người, ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục, A tu la. Sự vô minh ngu si ám chướng này, chướng ngại bạn không thể vượt khỏi sáu nẻo luân hồi, đó gọi là thường lưu chuyển.
‘’Phật vì khai xiển diệu pháp môn‘’. Phật vì chúng sinh ngu si, mà khai xiển diệu pháp môn diệu nhất không thể nghĩ bàn: Dạy người niệm Phật vãng sinh thế giới Cực Lạc, dạy người trì Chú tức thân thành Phật, dạy người tu đủ thứ hạnh môn, đều liễu sinh thoát tử, vượt khỏi luân hồi.
‘’Sở ngộ này của Chiếu Phương Thần.’’ Cảnh giới này, môn giải thoát này, vị Quang Chiếu Thập Phương Chủ Hỏa Thần ngộ nhập được.
Nguyện môn rộng lớn không nghĩ bàn
Lực, độ, tu hành đều thanh tịnh
Như tâm nguyện xưa đều xuất hiện
Môn này Chấn Âm Thần thấy rõ.
‘’Nguyện môn rộng lớn không nghĩ bàn‘’. Có tín môn, nguyện môn, và hạnh môn, đó là ba điều kiện để vãng sinh thế giới Cực Lạc. Bạn muốn thành Phật, muốn liễu sinh tử, muốn tu hành, thì trước hết phải có tín tâm, không những chỉ có tín tâm, mà còn phải có nguyện tâm, phát nguyện sinh tây phương Cực Lạc thế giới, phát nguyện sinh đông phương thế giới Lưu Ly. Cho nên nguyện môn rộng lớn không thể nghĩ bàn.
‘’Lực, độ, tu hành đều thanh tịnh‘’. Lực tức là mười lực, độ tức là mười độ. Mười độ và mười lực Phật đều tu hành viên mãn. Vì viên mãn cho nên đắc được bổn thể thanh tịnh.
‘’Như tâm nguyện xưa đều xuất hiện‘’. Nguyện lực phát ra, những gì tu hành thuở xưa, đời đời kiếp kiếp vô lượng đại kiếp trong quá khứ, đã hoàn toàn thanh tịnh. Bây giờ đều hiển hiện ra, giống như chiếu phim xuất hiện ra từng thứ lớp trên màn ảnh, lại giống như máy thu âm, phát ra từng câu từng câu nghe rất rõ ràng.
‘’Môn này Chấn Âm Thần thấy rõ.’’ Cảnh giới này, vị Lôi Âm Ðiện Quang Chủ Hỏa Thần thấy rõ, vào được môn giải thoát này.
Lại nữa, Chủ Thủy Thần Phổ Hưng Vân Tràng, được môn giải thoát, lòng từ bình đẳng lợi ích tất cả chúng sinh.
Ðạo lý ở trên nói chưa hết, cho nên tiếp tục nói. Vị Phổ Hưng Vân Tràng Chủ Thủy Thần này, nổi mây lên che khắp hết thảy trang nghiêm như tràng báu. Vị này là thần quản lý nước. Nếu nước chẳng có thần cai quản, thì sẽ tràn ngập gây tai nạn, gây lụt lội khắp thiên hạ, đâu đâu cũng là nước, thì chúng sinh không được an cư lạc nghiệp. Vì có Thần cai quản, cho nên nước chảy có chỗ nhất định và có phương hướng.
Ða số đều cho rằng nước chảy đi xuống, song có lúc cũng chảy đi lên, ví như suối vọt, tức là từ dưới đất chảy đi lên. Tôi kinh nghiệm đã từng xem qua nước giếng chảy vọt đi lên : Lúc đó, tôi ở tại quê của tôi miền Ðông bắc, tại thôn Ðông Tĩnh, thấy được cảnh giới kỳ lạ này. Tôi với các vị sư huynh năm người, đến các nơi truyền giáo, đến thôn Ðông Tĩnh nhà cư sĩ nọ. Lúc đó, gặp ma ở trong nước, y muốn dùng nước để giết chết chúng tôi. Trời mưa lớn giống như dùng bồn đổ nước xuống. Nước dưới giếng vọt lên cao hơn hai trượng, giống như trụ nước, chưa bao lâu mà thành đầm nước, nước ào tới tấp dữ dội như vạn mã, làm xập hết hơn tám chục nóc nhà, người bị nước ngập chết hơn ba mươi người, dù đứng ở trên bục cũng bị ngập chết, thật là tai nạn ghê gớm. Song, phòng của chúng tôi ở là nơi thấp nhất, tường chung quanh làm bằng gỗ, giống như tre làm bờ rào, giữa có lỗ trống. Nước ở ngoài bờ rào gỗ cao khoảng một trượng, nước ở trong bờ rào gỗ chỉ cao hơn một thước, cho nên chỉ sợ hãi mà chẳng có gì nguy hiểm, chẳng bao lâu thì tạnh mưa.
Nước có thể lợi người, cũng có thể hại người. Nước lớn thì hại người, nước nhỏ thì lợi người. Cho nên Lão Tử có nói :
‘’Thượng thiện nhược thủy,
Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh.
Xứ chúng nhân chi sở ác, cố cơ ư đạo.’’
Nghĩa là nói: Người thiện bậc trên hết giống như nước, nước lợi ích tất cả chúng sinh, song nó cũng chẳng tranh công. Nó chẳng nói bạn sống là nhờ tôi, nếu chẳng có tôi thì bạn đã không tồn tại, cho nên tôi có công với bạn. Nơi của nước ở, chẳng ai muốn ở, tại sao ? Vì là chỗ thấp nhất, nước tình nguyện chảy xuống chỗ thấp, cho nên nó hợp với đạo. Người thiện bậc trên cũng như thế.
Vị Chủ Thủy Thần này, đắc được môn giải thoát, từ bi bình đẳng lợi ích tất cả chúng sinh.
Chủ Thủy Thần Hải Triều Vân Âm, được môn giải thoát, vô biên pháp trang nghiêm.
Vị Hải Triều Vân Âm Chủ Thủy Thần, có một sức lực như hải triều vân âm. Vị này dùng vô lượng vô biên pháp môn để trang nghiêm Phật đạo, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Chủ Thủy Thần Diệu Sắc Luân Kế, được môn giải thoát, quán sát chúng sinh nào giáo hóa được, thì dùng phương tiện nhiếp hết thảy.
Vị Diệu Sắc Luân Kế Chủ Thủy Thần này, có quang diệu sắc và kế vòng tròn. Vị này quán sát chúng sinh nào cơ duyên chín mùi, thì đến giáo hóa trước, dùng đủ thứ phương tiện pháp môn để phổ nhiếp chúng sinh này, khiến cho họ giác ngộ, được giải thoát, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Chủ Thủy Thần Thiện Xảo Tuyền Phục, được môn giải thoát, diễn nói khắp cảnh giới thâm sâu của chư Phật.
Vị Thiện Xảo Tuyền Phục Chủ Thủy Thần này, minh bạch pháp môn thiện xảo phương tiện, cho nên nói pháp này lần thứ nhất, rồi lần thứ hai, vì sợ chúng sinh không hiểu, cho nên nói đi nói lại. Vị này dùng pháp thiện xảo phương tiện để giáo hóa chúng sinh, vì Ngài đắc được tam muội thiện xảo. Vị này dùng đủ thứ pháp phương tiện, để diễn nói cảnh giới thâm sâu của mười phương chư Phật, có khi dùng quang minh để diễn nói pháp môn thiện xảo, có khi dùng âm thanh để diễn nói pháp môn thiện xảo, có khi dùng âm thanh nước chảy, để diễn nói pháp môn thiện xảo, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Chủ Thủy Thần Ly Cấu Hương Tích, được môn giải thoát, hiện khắp đại quang minh thanh tịnh.
Vị Ly Cấu Hương Tích Chủ Thủy Thần này, đã lìa khỏi tất cả nhiễm ô, mà đắc được thanh tịnh. Vì thanh tịnh cho nên sinh ra năm thứ mùi hương điều hòa. Những mùi hương này tụ lại, thì khiến cho pháp giới đều thanh tịnh không nhiễm, ở trong tận hư không khắp pháp giới, đều hiện ra đại quang minh tạng, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Chủ Thủy Thần Phước Kiều Quang Âm, được môn giải thoát, thanh tịnh pháp giới chẳng có tướng, cũng chẳng có tánh.
Vị Phước Kiều Quang Âm Chủ Thủy Thần này, phước như kiều lương (nhiều vô lượng), lợi ích đối với chúng sinh. Quang minh của vị này giống như thuyết pháp, có lợi ích đối với chúng sinh. Vị này đắc được môn giải thoát, thanh tịnh pháp giới chẳng có tướng, chẳng có tánh. Pháp giới thanh tịnh thì hợp với hư không làm một, cũng chẳng có tướng, cũng chẳng có tánh, nó là:
‘’Chư pháp tùng bản lai,
Thường tự tịch diệt tướng,’’
Không thể dùng lời để nói. Vậy, vô tướng có tánh chăng ? Cũng chẳng có tánh, cho nên mới hợp với hư không làm một thể.
Chủ Thủy Thần Tri Túc Tự Tại, được môn giải thoát, biển đại bi vô tận.
Vị Tri Túc Tự Tại Chủ Thủy Thần này, đắc được tri túc, đắc được tự tại, cho nên Ngài là Thần khoái lạc. Vị này dùng tâm đại bi để giáo hóa chúng sinh, cho nên luôn luôn nghĩ nhớ chúng sinh, không quên chúng sinh, thường ban vui cho chúng sinh, thường cứu khổ cho chúng sinh, chẳng có thời giờ nghỉ ngơi. Do đó, gọi là biển đại bi vô tận, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Con người thì sợ chẳng biết đủ, không biết đủ tức là khổ, biết đủ thì vui, do đó:
‘’Tri túc thường lạc, năng nhẫn tự an.’’
Nghĩa là:
Biết đủ thì vui, nhịn được thì yên.
Vui vẻ tức là biết đủ, yên ổn tức là tự tại. Không biết đủ là một việc thống khổ nhất, sao gọi là không biết đủ ? Ví như, có người vốn chẳng có nhà để ở, chẳng có cơm ăn, chẳng có đồ mặc, nghèo mạt rệp. Y bèn nghĩ : Uớc gì có cái phòng nhỏ để ở, thì sướng biết mấy, do đó tối ngày khởi vọng tưởng về phòng ở. Nếu có bộ đồ mặc thì ấm biết bao, tối ngày cứ khởi vọng tưởng về quần áo. Uớc gì có vật gì ăn thì sướng biết mấy, do đó tối ngày khởi vọng tưởng ăn. Một ngày nọ, phòng ở cũng có, đồ mặc cũng có, vật ăn cũng có. Phòng thì có thể che mưa che gió, y phục thì có thể che thân, vật ăn thì có thể ăn cho khỏi đói. Nếu biết đủ thì chẳng cần cầu gì nữa. Song, y lại khởi vọng tưởng, ta ở nhà lớn thì tốt biết mấy, mặc đồ quý giá thì tốt biết mấy, ăn vật ngon thì tốt biết mấy, đó là biểu hiện không biết đủ.
Lúc trước không có phòng ở, bây giờ đã có phòng ở, còn muốn ở nhà lớn. Trước kia chẳng có quần áo mặc, bây giờ có quần áo mặc, còn nghĩ muốn mặc đồ quý giá, trước kia chẳng có cơm ăn, bây giờ có cơm ăn, còn nghĩ muốn ăn đồ ngon. Ðó là tâm tham không đáy, cho nên nói không biết đủ là khổ.
Có phòng ở, có đồ mặc, có cơm ăn, lại muốn làm quan, được làm huyện trưởng, hiềm chê chức nhỏ, muốn làm tỉnh trưởng, được làm tỉnh trưởng hiềm chê nhỏ, lại muốn làm tổng thống, lại muốn làm người lãnh đạo thế giới, được làm người lãnh đạo thế giới, lại muốn làm thượng đế trên trời. Các bạn thấy đó ! Không biết đủ là khổ như thế. Song, chỉ có vị Chủ Thủy Thần này biết đủ, cho nên tự tại, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Chủ Thủy Thần Tịnh Hỷ Thiện Âm, được môn giải thoát, ở trong đạo tràng chúng hội Bồ Tát, làm đại hoan hỷ tạng.
Vị Tịnh Hỷ Thiện Âm Chủ Thủy Thần này, thường sinh tâm hoan hỷ thanh tịnh, khéo diễn nói diệu pháp âm. Vị này ở trong đạo tràng chúng hội Bồ Tát, khiến cho tất cả đại chúng hải hội đều đắc được đại hoan hỷ. Vì đắc được đại hoan hỷ, cho nên gọi là tạng, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Chủ Thủy Thần Phổ Hiện Oai Quang, được môn giải thoát, dùng sức phước đức rộng lớn vô ngại, xuất hiện khắp các cõi.
Vị Phổ Hiện Oai Quang Chủ Thủy Thần, xuất hiện khắp, lại có đại oai quang. Vị này dùng sức phước đức, vô lượng vô biên vô ngại, xuất hiện khắp trong mười phương cõi nước. Phước là do tu, đức là do làm mới có. Vị này minh bạch được cảnh giới này, mà vào môn giải thoát này.
Chủ Thủy Thần Hống Thanh Biến Hải, được môn giải thoát, quán sát tất cả chúng sinh, dùng phương tiện để điều phục, phát khởi như hư không.
Vị Hống Thanh Biến Hải Chủ Thủy Thần này, âm thanh như tiếng hống của sư tử, làm chấn động vô lượng chúng sinh, trong các cõi nước nhiều như số hạt bụi. Vị này quán sát được hết thảy tất cả chúng sinh trong mười phương, dùng phương tiện điều phục để giáo hóa tất cả chúng sinh. Tuy nhiên giáo hóa tất cả chúng sinh, song tất cả chúng sinh tự giáo tự hóa, cho nên Ngài hành sở vô sự, chẳng chấp trước tướng, đó gọi là phát khởi như hư không. Trong Kinh Kim Cang có nói :
‘’Diệt độ tất cả chúng sinh rồi,
Mà chẳng có chúng sinh nào thật diệt độ.’’
Tất cả cõi chúng sinh đều không ! Nhưng nguyện lực của Phật vẫn chưa tròn đầy. Cho nên, vị Thần này quán sát tất cả chúng sinh, phát khởi nguyện rộng lớn, thần thông rộng lớn như hư không, dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để điều phục tất cả chúng sinh, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Bấy giờ, Chủ Thủy Thần Phổ Hưng Vân Tràng, nương oai lực của đức Phật, quán khắp tất cả chúng Chủ Thủy Thần, mà nói ra bài kệ.
Tôn giả A Nan đã nhớ kinh trường hàng ở trước, lúc này dùng kệ để tuyên lại ý nghĩa của kinh trường hàng. Vị Phổ Hưng Vân Tràng Chủ Thủy Thần, nương đại oai thần lực của Phật (những vị Chủ Thủy Thần kia, cũng nương đại oai thần lực của Phật), quán sát khắp tất cả nhân duyên và căn tánh của chúng Chủ Thủy Thần, mà nói kệ rằng.
Môn từ thanh tịnh nhiều như bụi
Ðều sinh trong một tướng của Phật
Mỗi mỗi các tướng đều như thế
Vì thế người thấy chẳng nhàm chán.
‘’Từ môn thanh tịnh nhiều như bụi‘’. Từ môn này thanh tịnh, chẳng có pháp nhiễm ô. Chẳng có pháp nhiễm ô, tức là chẳng có tâm tham dục. Từ bi môn này dùng để làm gì ? Ðể lợi ích tất cả chúng sinh, để bình đẳng lợi ích tất cả chúng sinh, để từ bi bình đẳng lợi ích tất cả chúng sinh. Từ môn này có bao nhiêu ? Nhiều như bụi trong cõi nước. Làm thế nào sinh ra môn từ thanh tịnh nhiều như thế ?
‘’Ðều sinh trong một tướng của Phật‘’. Trên mỗi một đầu sợi lông của Phật, đều đầy đủ nhiều môn từ bi như thế, vô lượng vô biên đầu sợi lông, đều đầy đủ môn từ bi nhiều như số hạt bụi.
‘’Mỗi mỗi các tướng đều như thế‘’. Ở trong mỗi một tướng của Phật, đều đầy đủ vô biên môn từ thanh tịnh rộng lớn, để giáo hóa lợi ích tất cả chúng sinh, mỗi một tướng đều như thế. Bạn nghĩ thử môn từ này có bao nhiêu ?
‘’Vì thế người thấy chẳng nhàm chán.’’ Vì mỗi một tướng tốt của Phật, đều đầy đủ vô lượng vô biên môn từ thanh tịnh, cho nên phàm là ai thấy được Phật đều muốn thấy mãi, đều muốn nghe pháp mãi. Khi chúng sinh thấy được Phật, thì mắt tựa như nhập định, mắt chiêm ngưỡng Phật chẳng nhấp nháy, do đó ‘’mắt không tạm rời.’’ Tại sao ? Vì không nhàm chán. Chúng sinh đều chấp trước tướng, thấy tướng tốt của Phật, thì sinh tâm chẳng muốn lìa xa, muốn luôn luôn nhìn thấy Phật.
Thuở xưa khi Thế Tôn tu hành
Ðều đến tất cả chỗ Như Lai
Tu hành đủ thứ chẳng lười mỏi
Phương tiện như thế Vân Âm vào.
‘’Thuở xưa khi Thế Tôn tu hành‘’. Thế Tôn tức là bậc tôn kính nhất trong thế gian và xuất thế gian, tức là bậc được sự tôn kính của người thế gian và người xuất thế gian, cũng là một trong mười hiệu của Phật. Thuở xưa tức là trong quá khứ, tức là lúc Phật ở tại nhân địa. Bây giờ Phật thành Phật là tại quả địa, lúc Phật tại nhân địa thì tu hành như thế nào ?
‘’Ðều đến tất cả chỗ Như Lai’’. Có Phật ở chỗ nào, thì đến chỗ vị Phật đó. Trong lúc, Phật Thích Ca Mâu Ni chưa thành Phật, cho nên Ngài đến gần gũi tất cả chư Phật, đến cúng dường cung kính tất cả chư Phật.
‘’Tu hành đủ thứ chẳng lười mỏi‘’. Ðủ thứ là chỉ những pháp môn làm được, ví như gần gũi, cúng dường, cung kính, tất cả chư Phật. Phật vì pháp mà quên mình, vì cầu pháp mà không ngủ, vì cầu pháp mà không ăn cơm, quên mất thân thể của mình. Dù có bệnh cũng chẳng màng đến. Có người nói : ‘’Phật còn có bệnh chăng‘’? Lúc đó, Phật chưa thành Phật. Dù thành Phật rồi, có lúc còn đau đầu. Trong đời quá khứ, khi Phật chưa thành Phật, làm một đồng tử. Lúc đó, trong thôn nọ có người đi đánh cá, được một con cá lớn. Vị đồng tử đó thấy cá thích đùa chơi, mới dùng cây gậy đánh lên đầu con cá ba cái, do đó mà trồng xuống nhân quả. Khi thành Phật rồi đầu bị đau ba ngày, vì đánh lên đầu con cá ba cái. Do đó, có thể chứng minh nhân quả báo ứng tơ hào không sai mảy may. Mọi người phải tin nhân quả, đừng bác không có nhân quả.
Tóm lại, khi Phật ở tại nhân địa tu hành, thì chẳng lười biếng, chẳng phạm giới, dũng mãnh tinh tấn chẳng thối lùi.
‘’Phương tiện như thế Vân Âm vào’’. Ðủ thứ phương tiện pháp môn vừa nói ở trên, vị Hải Triều Vân Âm Chủ Thủy Thần vào được môn giải thoát này.
Phật ở trong tất cả mười phương
Tịch nhiên bất động chẳng đến đi
Chúng sinh độ được đều khiến thấy
Ðây là chỗ biết của Luân Kế.
‘’Phật ở trong tất cả mười phương‘’. Thế giới của chúng ta có mười phương, những thế giới khác cũng có mười phương, Phật ở trong tất cả mười phương.
‘’Tịch nhiên bất động chẳng đến đi‘’. Vì Phật tịch nhiên bất động, cho nên không đến cũng không đi, do đó:
‘’Bậc Như Lai !
Chẳng từ đâu đến,
Cũng chẳng đi về đâu.’’
‘’Chúng sinh độ được đều khiến thấy‘’. Tuy Phật không đến không đi, nhưng chúng sinh nào đáng được Phật giáo hóa, thì Phật bèn dùng sức đại thần thông, khiến cho họ đều thấy được Phật.
‘’Ðây là chỗ biết của Luân Kế’’. Cảnh giới này, vị Diệu Sắc Luân Kế Chủ Thủy Thần, biết được mà vào môn giải thoát này.
Cảnh giới Như Lai vô biên lượng
Tất cả chúng sinh chẳng biết được
Diễn nói diệu âm khắp mười phương
Sở hành này của Thiện Tuyền Thần.
‘’Cảnh giới Như Lai vô biên lượng‘’. Ðây là nói cảnh giới của Phật không thể nghĩ bàn, vô lượng vô biên, vô biên vô lượng.
‘’Tất cả chúng sinh chẳng biết được‘’. Tất cả chúng sinh chưa khai thị ngộ nhập Phật tri kiến, thì không thể hiểu biết được cảnh giới của Phật. Khi nào khai tri kiến của Phật, mở tri kiến của Phật, ngộ tri kiến của Phật, vào tri kiến của Phật, thì mới thật sự hiểu biết cảnh giới của Phật.
‘’Diễn nói diệu âm khắp mười phương‘’. Phật dùng âm vi diệu để nói pháp vi diệu, không những chỉ nói pháp tại một thế giới, mà là nói pháp khắp mười phương thế giới.
‘’Sở hành này của Thiện Tuyền Thần.’’ Cảnh giới này, là đạo lý tu hành của vị Thiện Xảo Tuyền Phục Chủ Thủy Thần. Ngài vào được môn giải thoát này.
Quang minh Thế Tôn không cùng tận
Ðầy khắp pháp giới không nghĩ bàn
Nói pháp giáo hóa độ chúng sinh
Tịnh Hương Thần quán thấy như vậy.
‘’Quang minh Thế Tôn không cùng tận‘’. Thế Tôn tức là Phật, quang minh của Phật hiện ra vô lượng vô tận. Vì quang minh trùng trùng vô tận, cho nên nói chẳng cùng tận.
‘’Ðầy khắp pháp giới không nghĩ bàn‘’. Quang minh của Phật tận hư không khắp pháp giới. Cảnh giới này không thể suy nghĩ, không thể luận bàn, diệu đến cực điểm.
‘’Thuyết pháp giáo hóa độ chúng sinh‘’. Phật diễn nói đủ thứ diệu pháp, để giáo hóa tất cả chúng sinh, để độ thoát tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều lìa khổ được vui, liễu sinh thoát tử.
‘’Tịnh Hương Thần quán thấy như vậy.’’ Cảnh giới này, vị Ly Cấu Hương Tích Chủ Thủy Thần thấy được, minh bạch được, chứng đắc được.
Như Lai thanh tịnh đồng hư không
Không tướng không hình khắp mười phương
Mà khiến chúng hội thảy đều thấy
Phước Quang Thần quán sát thấy được.
‘’Như Lai thanh tịnh đồng hư không‘’. Pháp thân của Như Lai thanh tịnh như hư không, vô tại vô bất tại, nhưng biến khắp trong mười phương pháp giới, tại sao ? Vì đồng hư không.
‘’Không tướng không hình khắp mười phương‘’. Pháp thân của Phật tuy khắp mười phương pháp giới, nhưng chẳng có hình, chẳng có tướng. Tuy không hình không tướng, mà biến khắp mười phương pháp giới, cho nên nói cảnh giới của Phật diệu là như thế.
‘’Mà khiến chúng hội thảy đều thấy‘’. Tuy không hình không tướng, nhưng khiến chúng sinh trong chúng hội đạo tràng, chẳng có người nào mà chẳng thấy được Phật.
‘’Phước Quang Thần quán sát thấy được.’’ Cảnh giới này, vị Phước Kiều Quang Âm Chủ Thủy Thần, quán sát thấy và minh bạch được.
Xưa Phật tu tập môn đại bi
Nên tâm rộng khắp đồng chúng sinh
Giống như vầng mây hiện ra đời
Môn giải thoát này Tri Túc rõ.
‘’Xưa Phật tu tập môn đại bi‘’. Thuở xa xưa, Phật tu tập hạnh môn đại bi, cứu khổ cho chúng sinh, ban vui cho chúng sinh.
‘’Nên tâm rộng khắp đồng chúng sinh‘’. Khi Phật tu môn đại bi, thì tâm của Ngài rộng lớn vô cùng. Có bao nhiêu chúng sinh, thì tu bấy nhiêu môn đại bi, cho nên nói đồng chúng sinh.
‘’Giống như vầng mây hiện ra đời‘’. Vì nhân duyên đó, cho nên giống như vầng mây trên bầu trời xuất hiện trong thế gian, che làm cho tất cả nhiệt não nóng bức của chúng sinh, đều biến thành sự mát mẻ.
‘’Môn giải thoát này Tri Túc rõ.’’ Phật giống như vầng mây hiện ra đời, che khắp tất cả chúng sinh, khiến cho họ đắc được sự mát mẻ. Môn giải thoát này, vị Tri Túc Tự Tại Chủ Thủy Thần thấy rõ.
Mười phương tất cả các cõi nước
Ðều thấy Như Lai ngự tòa sen
Minh bạch khai ngộ đại bồ đề
Hỷ Âm vào được cảnh giới này.
‘’Mười phương tất cả các cõi nước‘’. Tất cả các cõi nước của chư Phật trong mười phương.
‘’Ðều thấy Như Lai ngự tòa sen‘’. Tất cả chúng sinh đều thấy Phật ngồi trên tòa sen, diễn nói diệu pháp rất thâm sâu không gì bằng.
‘’Minh bạch khai ngộ đại bồ đề‘’. Phàm là chúng sinh thấy và nghe được pháp của Phật, thì đều minh bạch mà khai ngộ, đắc được đạo lý đại giác.
‘’Hỷ Âm vào được cảnh giới này.’’ Cảnh giới này, vị Tịnh Hỷ Thiện Âm Chủ Thủy Thần đắc được, vào được môn giải thoát này.
Những gì Phật làm chẳng quái ngại
Ðến khắp mười phương tất cả cõi
Nơi nơi thị hiện đại thần thông
Phổ Hiện Oai Quang đã ngộ được.
‘’Những gì Phật làm chẳng quái ngại‘’. Bất cứ những gì Phật làm, đều chẳng quái ngại.
‘’Ðến khắp mười phương tất cả cõi‘’. Phật ngự trên tòa sen tịch nhiên bất động, cảm mà toại thông, khắp mười phương. Tuy Phật không lìa khỏi tòa ngồi, nhưng có cảm ứng nơi chúng sinh. Nếu có chúng sinh muốn thấy Phật, muốn nghe Phật pháp thì có cảm thông, có cầu tất ứng. Ai kiền thành muốn cầu nơi Phật, thì người đó sẽ thấy được Phật.
‘’Nơi nơi thị hiện đại thần thông‘’. Trong tất cả cõi nước, nhiều như số hạt bụi trong mười phương pháp giới, nơi nơi Phật đều hiện đại thần thông. Ðại thần thông là gì ? Tức là lớn dung được nhỏ, nhỏ dung được lớn, nhỏ lớn dung nhiếp với nhau. Cõi nước mười phương không ra ngoài một hạt bụi, một hạt bụi lại dung nạp được cõi nước mười phương ở bên trong. Một hạt bụi thì nhỏ, nhưng dung nạp được lớn. Cõi nước mười phương là lớn, nhưng dung nạp được nhỏ. Ðó là cảnh giới trong lớn hiện nhỏ, trong nhỏ hiện lớn, cho nên gọi là đại thần thông.
‘’Phổ Hiện Oai Quang đã ngộ được.’’ Ðạo lý này nghe coi bộ rất dễ dàng, kỳ thật không dễ gì hiểu được. Nhỏ sao dung nạp được lớn ? Lớn sao dung nạp được nhỏ ? Có người nói : ‘’Lớn dung nạp được nhỏ thì có thể, nhỏ dung nạp lớn thì chẳng có lý.’’ Nói về phần của Phật thì không lớn không nhỏ, không trong ngoài, cũng chẳng có lớn, cũng chẳng có nhỏ, cũng chẳng có trong, cũng chẳng có ngoài, hổ tương viên dung vô ngại. Cảnh giới này, vị Phổ Hiện Oai Quang Chủ Thủy Thần, đã minh bạch hiểu rõ được.
Tu tập vô biên hạnh phương tiện
Ðều đầy khắp đồng cõi chúng sinh
Thần thông diệu dụng chẳng tạm ngừng
Hống Thanh Biến Hải nhập vào được.
‘’Tu tập vô biên hạnh phương tiện‘’. Vị Hống Thanh Biến Hải Chủ Thủy Thần nói : ‘’Phật tu tập đủ thứ vô biên hạnh môn phương tiện.’’
‘’Ðều đầy khắp đồng cõi chúng sinh‘’. Có bao nhiêu chúng sinh, thì tu bấy nhiêu phương tiện hạnh môn, số mục nhiều như cõi chúng sinh, hoàn toàn đều đầy khắp pháp môn này.
‘’Thần thông diệu dụng chẳng tạm ngừng‘’. Thần thông diệu dụng của chư Phật là không thể nghĩ bàn, chẳng có khi nào tạm thời ngừng nghỉ, luôn thị hiện thần thông diệu dụng để giáo hóa chúng sinh.
‘’Hống Thanh Biến Hải nhập vào được.’’ Vị Hống Thanh Biến Hải Chủ Thủy Thần, vào được môn giải thoát này.
Lại nữa, Chủ Hải Thần Xuất Hiện Bảo Quang, được môn giải thoát, dùng tâm bình đẳng bố thí biển phước đức cho tất cả chúng sinh, và dùng các thứ báu trang nghiêm thân.
Ðạo lý ở trước chưa nói hết, bây giờ tiếp tục nói. Vị Xuất Hiện Bảo Quang Chủ Hải Thần này, hiện ra được đủ loại quang minh báu. Vị này đắc được cảnh giới, dùng tâm bình đẳng để bố thí cho tất cả chúng sinh. Bố thí gì cho tất cả chúng sinh ? Bố thí biển phước đức. Vị này dùng vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, các thứ báu, để trang nghiêm thân, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Chủ Hải Thần Bất Khả Hoại Kim Cang Tràng, được môn giải thoát, dùng phương tiện khéo léo, để giữ gìn bảo hộ căn lành của tất cả chúng sinh.
Vị Bất Khả Hoại Kim Cang Tràng Chủ Hải Thần này, công đức kiên cố như tràng báu kim cang, vĩnh viễn không thể hoại. Vị này dùng phương tiện pháp môn khéo léo, để giữ gìn bảo hộ căn lành cho tất cả chúng sinh, khiến cho căn lành của chúng sinh không hủy hoại, và còn giúp tất cả chúng sinh thành tựu căn lành. Vị này đắc được môn giải thoát này.
Chủ Hải Thần Bất Tạp Trần Cấu, được môn giải thoát, cạn biển phiền não của tất cả chúng sinh.
Vị Bất Tạp Trần Cấu Chủ Hải Thần, rất thanh tịnh vô cùng, chẳng nhiễm bụi trần. Vị này khiến cho biển phiền não của tất cả chúng sinh đều khô cạn, nếu biển phiền não khô cạn rồi, thì sẽ đắc được trí huệ. Ðó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Tại sao chúng ta chẳng khai mở trí huệ ? Vì phiền não của chúng ta quá nặng, cho nên biển phiền não chẳng khô cạn được. Ðại khái vị Chủ Hải Thần này chẳng lo cho chúng ta, nếu Ngài lo cho chúng ta, thì biển phiền não cũng sẽ khô cạn, đều sẽ đắc được môn giải thoát này.
Hiện tại chúng ta đã nghe đến Kinh Hoa Nghiêm, vị Chủ Hải Thần này nhất định sẽ làm cho biển phiền não của chúng ta khô cạn. Song, chúng ta đừng ỷ lại vị Chủ Hải Thần này, mà phải ỷ lại tín tâm và sức lực của chính mình. Mình hãy tự làm cạn biển phiền não của mình, đừng đợi vị Chủ Hải Thần này đến giúp đỡ, Ngài còn có nhiều công việc phải làm, đừng làm phiền đến Ngài, mình phải tự cạn biển phiền não, thì trí huệ quang minh sẽ hiện tiền.
Chủ Hải Thần Hằng Trụ Ba Lãng, được môn giải thoát, khiến cho tất cả chúng sinh lìa khỏi đường ác.
Vị Hằng Trụ Ba Lãng Chủ Hải Thần này, thường sinh sống ở trong sóng. Vị này đắc được một môn giải thoát, khiến cho tất cả chúng sinh xa lìa ba đường ác, thành tựu ba đường lành.
Chủ Hải Thần Cát Tường Bảo Nguyệt, được môn giải thoát, diệt trừ khắp hết thảy đại si ám.
Vị Cát Tường Bảo Nguyệt Chủ Hải Thần này, bảo kế đẹp như diệu hoa long. Vị này diệt trừ khổ của chúng sinh trong bốn đường ác, tức là khiến cho họ lìa khổ được vui, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Chủ Hải Thần Phổ Trì Quang Vị, được môn giải thoát, tịnh trị chư kiến và tánh ngu si, của tất cả chúng sinh.
Vị Phổ Trì Quang Vị Chủ Hải Thần này, quang minh khắp hết thảy mà giữ được lâu. Vị này thanh tịnh trị lý chư kiến (sáu mươi hai kiến) của tất cả chúng sinh, và điều hòa tính ngu si của chúng sinh, khiến cho họ biến thành trí huệ tính, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Chủ Hải Thần Bảo Diệm Hoa Quang, được môn giải thoát, xuất sinh tất cả giống tánh báu bồ đề tâm.
Bảo Diệm Hoa Quang Chủ Hải Thần, có hoa quang bảo diệm, chiếu khắp tất cả chúng sinh. Vị này thường sinh ra giống tánh báu tâm bồ đề (kiên cố), thứ tâm bồ đề này kiên cố như kim cang. Lại có lối giải thích khác, giống tánh báu này tức là bổn thể của giới. Người xuất gia thọ giới, tức là thọ giống tánh báu. Giống tánh báu này phải khiến cho nó ngày càng một lớn thêm, phải khiến cho bồ đề ngày càng tăng trưởng, tập ít thành nhiều. Vị này đắc được môn giải thoát này.
Chủ Hải Thần Kim Cang Diệu Kế, được môn giải thoát, tâm bất động biển công đức.
Kim Cang Diệu Kế Chủ Hải Thần, có bảo kế kim cang kỳ diệu, vị này đắc được cảnh giới của Phật, là tâm bất động biển công đức. Tâm của vị này luôn luôn tịch tĩnh bất động, công đức cũng đặc biệt nhiều như biển, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Chủ Hải Thần Hải Triều Lôi Âm, được môn giải thoát, vào khắp pháp giới môn tam muội.
Hải Triều Lôi Âm Chủ Hải Thần này, âm thanh như hải triều, như tiếng sấm sét, xa gần đều nghe. Chúng sinh nghe được diệu âm này, thì có thể khai ngộ, vị này vào khắp pháp giới môn tam muội.
Bấy giờ, Chủ Hải Thần Xuất Hiện Bảo Quang, nương oai lực của đức Phật, quán khắp tất cả chúng Chủ Hải Thần, mà nói ra bài kệ.
Ðương lúc đó, vị Xuất Hiện Bảo Quang Chủ Hải Thần, nương đại oai thần lực của Phật, mà quán sát khắp tất cả chúng Chủ Hải Thần, dùng kệ thuật lại ý nghĩa của trường hàng.
Biển đại kiếp không thể nghĩ bàn
Cúng dường tất cả các Như Lai
Dùng công đức thí khắp quần sinh
Nên đoan nghiêm nhất chẳng ai bằng.
Bốn câu kệ này, là người kết tập kinh điển thuật lại ý nghĩa trường hàng ở trên, tổng hợp lại rồi nói ra. Tuy là tôn giả A Nan nói, nhưng đó là căn cứ theo ý nghĩa của Chủ Hải Thần mà nói, chứ tôn giả A Nan bất quá chỉ là người ghi nhớ thuật lại mà thôi.
‘’Biển đại kiếp không thể nghĩ bàn‘’. Vị Xuất Hiện Bảo Quang Chủ Hải Thần nói: ‘’Phật ở trong biển đại kiếp, không thể dùng tâm suy lường, không thể dùng lời luận bàn.’’ Biển đại kiếp tức là vô lượng vô biên đại kiếp như biển, không cách chi biết được cứu kính có bao nhiêu ? Cho nên dùng chữ “biển” để hình dung.
‘’Cúng dường tất cả các Như Lai‘’. Phật ở trong biển đại kiếp xa xưa, thời gian lâu dài như thế, cúng dường mười phương ba đời tất cả các đức Phật. Có khi dùng tiền tài để cúng dường, có khi dùng pháp để cúng dường, có khi dùng thân tâm tính mạng để cúng dường, thời khắc luôn luôn siêng cầu Phật đạo.
Giống như người xuất gia và tại gia, của chùa Kim Sơn chúng ta, đều bận rộn học Phật pháp, hành trì Phật pháp. Ðó cũng là cúng dường tất cả chư Phật, chúng ta hãy dùng tiền tài để cúng dường Tam Bảo, dùng pháp để cúng dường Tam Bảo, dùng thân tâm tính mạng để cúng dường Tam Bảo, đó là việc Phật giáo đồ nên làm.
‘’Dùng công đức thí khắp quần sinh‘’. Phật tu đủ thứ công đức, đều hồi hướng cho chúng sinh, bố thí cho chúng sinh. Nói tóm lại, vì tất cả chúng sinh mà tu công đức. Tất cả công đức của Phật thuở xưa cúng dường tất cả chư Phật, chẳng lưu lại chút nào cho chính mình, hoàn toàn hồi hướng cho chúng sinh, mong muốn chúng sinh lìa khổ được vui, nghiệp chướng tiêu trừ, căn lành tăng trưởng, siêng tu chánh đạo, sớm chứng quả vị Phật.
‘’Nên đoan nghiêm nhất chẳng ai bằng.’’ Vì Phật đem tất cả công đức hồi hướng cho pháp giới chúng sinh, bố thí cho pháp giới chúng sinh, cho nên thân của Phật đoan chánh trang nghiêm, chẳng ai sánh bằng. Bất cứ chúng sinh trên trời, dưới trời, đều chẳng có ba mươi hai tướng tốt quang minh, và tám mươi vẻ đẹp như đức Phật. Quang minh này trang nghiêm tướng tốt đẹp, bất cứ ai cũng không thể sánh được, cho nên nói đoan nghiêm nhất chẳng ai bằng.
Tất cả thế gian đều xuất hiện
Căn tánh chúng sinh đều biết hết
Khắp vì tuyên dương biển đại pháp
Ðây là sở ngộ của Kiên Tràng.
‘’Tất cả thế gian đều xuất hiện‘’. Phật xuất hiện trong hết thảy tất cả thế gian. Xuất hiện để làm gì ? Ðể giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được giải thoát, khiến cho tất cả chúng sinh, không còn bị năm dục trói buộc.
‘’Căn tánh chúng sinh đều biết hết‘’. Căn tánh của mỗi chúng sinh, có căn lành, hoặc chẳng có căn lành, Phật đều biết rõ, vì Phật có sức thần thông, cho nên chúng sinh mong muốn những gì, Phật cũng đều biết hết.
‘’Khắp vì tuyên dương biển đại pháp‘’. Phật vì khắp hết thảy chúng sinh hoằng dương tuyên nói đại pháp, pháp này như biển cả, cho nên gọi là biển đại pháp, tức cũng là pháp vô lượng vô biên không cùng tận.
‘’Ðây là sở ngộ của Kiên Tràng.’’ Ðạo lý này, vị Kiên Tràng Chủ Hải Thần hiểu rõ, cho nên ngộ nhập vào môn giải thoát này.
Tất cả chúng Đạo sư thế gian
Mây pháp mưa lớn không lường được
Tiêu trừ dứt sạch các biển khổ
Ly Cấu Trần vào pháp môn này.
‘’Tất cả chúng Đạo sư thế gian‘’. Chúng Đạo sư tức là Phật, tức cũng là hết thảy Phật trong tất cả thế gian.
‘’Mây pháp mưa lớn không lường được‘’. Chư Phật nổi mây đại pháp khắp hết thảy, mưa xuống đại pháp. Cảnh giới này, chẳng phải phàm phu tục tử minh bạch được, dò lường được, cho nên nói không lường được.
‘’Tiêu trừ dứt sạch các biển khổ‘’. Mây pháp này, mưa xuống đại pháp, tiêu trừ phiền não của tất cả chúng sinh, tức cũng khiến cho phiền não tham sân si, tiêu trừ sạch sành sanh, chẳng còn tơ hào. Vì chúng sinh có sự khổ vô cùng tận, cho nên gọi là biển.
‘’Ly Cấu Trần vào pháp môn này.’’ Pháp môn này vị Ly Cấu Trần Chủ Hải Thần, thấy rõ mà vào môn giải thoát này.
Tất cả chúng sinh phiền não che
Lưu chuyển các cõi thọ khổ nhiều
Vì họ khai thị cảnh Như Lai
Phổ Thủy Cung Thần vào môn này.
‘’Tất cả chúng sinh phiền não che‘’. Chúng sinh vốn đều có trí huệ, vốn với Phật không hai không khác, nhưng vì phiền não che lấp trí huệ, cho nên trí huệ quang minh không thể hiện ra, giống như mây che lấp mặt trời, thì ánh sáng mặt trời không hiện ra.
‘’Lưu chuyển các cõi thọ khổ nhiều‘’. Chúng sinh vì phiền não che đậy, do đó trôi đi trôi lại ở trong sáu nẻo luân hồi, lưu chuyển không ngừng ở trong các cõi, thọ tất cả mọi sự khổ.
‘’Vì họ khai thị cảnh Như Lai‘’. Tại sao Phật phải khai thị tất cả chúng sinh ? Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được cảnh giới của Như Lai, nghĩa là khai ngộ thành Phật.
‘’Phổ Thủy Cung Thần vào môn này.’’ Vị Phổ Thủy Cung Chủ Hải Thần, vào được môn giải thoát này.
Phật trong biển kiếp khó nghĩ bàn
Tu hành các hạnh không cùng tận
Cắt lưới si hoặc của chúng sinh
Bảo Nguyệt thấu rõ vào môn này.
‘’Phật trong biển kiếp khó nghĩ bàn‘’. Thuở xưa Phật ở trong biển kiếp lâu dài, biển kiếp thời gian dài bao lâu ? Sự lâu dài này, tâm của con người suy lường không biết được, cho nên gọi là biển kiếp.
‘’Tu hành các hạnh không cùng tận‘’. Phật ở trong biển kiếp tu tất cả pháp môn, khó xả bỏ mà Ngài xả bỏ được, khó hành mà Ngài hành được, khó nhẫn mà Ngài nhẫn được, khó nhường mà Ngài nhường được. Tóm lại, pháp môn không dễ tu, không dễ dàng làm được, mà Ngài đều làm được, đều tu xong hết hoàn toàn. Pháp môn chẳng cùng tận, Phật đều tu được viên mãn.
‘’Cắt lưới si hoặc của chúng sinh‘’. Si là ngu si, hoặc là mê hoặc. Hai thứ này giống như tấm lưới ví bắt chúng sinh, do đó nhảy chẳng khỏi sáu nẻo luân hồi. Phật cắt đứt lưới si hoặc của chúng sinh, không phải cắt đứt tạm thời, mà là cắt đứt vĩnh viễn, nghĩa là phá hủy lưới si hoặc của chúng sinh, khiến cho chúng sinh đắc được tự tại.
‘’Bảo Nguyệt thấu rõ vào môn này.’’ Vị Cát Tường Bảo Nguyệt Chủ Hải Thần, minh bạch được cảnh giới này, mà vào được môn giải thoát này.
Phật thấy chúng sinh thường sợ hãi
Lưu chuyển trong biển lớn sinh tử
Mở bày đạo vô thượng của Phật
Long Kế ngộ hiểu sinh vui mừng.
‘’Phật thấy chúng sinh thường sợ hãi‘’. Phật nhìn thấy chúng sinh, thường sinh sợ hãi vấn đề sinh tử không dứt được, chứ chẳng phải sợ pháp môn khó tu. Vì chúng sinh còn chưa biết gì là pháp, gì là môn, cho nên ở trong sáu nẻo sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh, lưu chuyển không ngừng, không muốn lìa khỏi tam giới.
‘’Lưu chuyển trong biển lớn sinh tử‘’. Ở trong biển lớn sinh tử là đáng sợ nhất. Sợ gì ? Sinh sinh tử tử, tử tử sinh sinh, chẳng có khi nào chấm dứt, đó là đáng sợ nhất, hơn nữa thọ đủ thứ tội ở trong ba đường ác, nhất là chịu đủ thứ hình phạt ở trong địa ngục, thật là khiến người phải khiếp sợ.
Tại nhân gian một trăm năm, thì chỉ một ngày đêm trên trời Ðao Lợi, cho nên người trời xem tuổi thọ của chúng ta giống như con phù du, sáng sinh chiều chết. Chúng ta thấy con phù du sáng sớm sinh ra, đến tối thì chết mất, cảm thấy thọ mạng của chúng quá ngắn ngủi, nhưng trong quá trình một ngày, chúng cảm thấy thời gian rất là dài. Tuổi thọ của chúng ta chẳng phải như thế chăng ? Sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh, thật là khiếp sợ ! Cho nên Phật sợ hãi thế cho chúng sinh, thường vì sinh tử của chúng sinh không dứt được mà sợ hãi.
‘’Mở bày đạo vô thượng của Phật‘’. Phật từ bi mở bày đạo vô thượng của Như Lai. Ðạo vô thượng là gì ? Tức là siêng tu giới định huệ, sẽ diệt tham sân si, đó là đạo vô thượng vượt ra thế gian. Ðừng làm các điều ác, hãy làm các điều lành, đó là vô thượng đạo của thế gian.
‘’Long Kế ngộ hiểu sinh vui mừng.’’ Vị Diệu Hoa Long Kế Chủ Hải Thần, minh bạch cảnh giới này, trong tâm sinh vui mừng hớn hở.
Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Phật
Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Pháp
Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Tăng
Nam Mô Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
Nam Mô Hoa Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát.
Ðó là kệ cầu nguyện. Khi tôi vừa đến Mỹ, thì gặp lúc Mỹ và Cu Ba muốn phát sinh chiến tranh, tình hình thập phần nguy hiểm, có một sự cảm xúc phát hiện. Lúc đó, tôi nghĩ, vừa mới đến nước này, cũng chẳng có chút giúp đỡ gì. Nếu chiến tranh bùng nổ, thì hai bên không biết phải hy sinh bao nhiêu mạng người ?
Do đó, tôi mới đến trước bàn Phật đốt hương phát nguyện, vì cầu cho tiêu diệt chiến tranh và thế giới hòa bình, mà tuyệt thực năm tuần lễ, nghĩa là ba mươi lăm ngày không ăn. Mãn hạn rồi thì Cu Ba chẳng phát sinh chiến tranh, không biết có phải sự thành tâm của tôi có sở cảm ứng chăng, nhưng chẳng có chiến tranh là sự thật.
Bây giờ, Trung Ðông lại phát sinh chiến tranh (1973), vì tôn giáo và dân tộc mà chiến tranh. Do Thái Giáo và Hồi Giáo hai tín ngưỡng khác nhau, tư tưởng dân tộc cũng khác nhau, cho nên đó đây thường phát sinh chiến tranh. Cho nên chúng ta phải nỗ lực cầu cho thế giới hòa bình, nguyện cho chiến tranh này sớm ngưng chiến, sinh linh không chịu lầm than.
Cảnh giới chư Phật không nghĩ bàn
Pháp giới hư không tướng bình đẳng
Tịnh lưới si hoặc của chúng sinh
Phổ Trì diễn nói được như vậy.
‘’Cảnh giới chư Phật không nghĩ bàn‘’. Chúng sinh thì có cảnh giới của chúng sinh, Bồ Tát thì có cảnh giới của Bồ Tát, chư Phật thì có cảnh giới của chư Phật. Cảnh giới của chúng sinh không thể nghĩ bàn, cảnh giới của Bồ Tát không thể nghĩ bàn, cảnh giới của chư Phật cũng không thể nghĩ bàn. Cảnh giới không nghĩ bàn, chẳng phải sự suy lường và luận bàn của phàm phu mà minh bạch được, cho nên nói cảnh giới diệu không thể tả.
‘’Pháp giới hư không tướng bình đẳng‘’. Chư Phật tức là pháp giới, pháp giới tức là chư Phật. Pháp giới và chư Phật đồng như hư không, là tướng bình đẳng, không thiếu không thừa, không nhiều không ít, là bình đẳng nhất.
‘’Tịnh luới si hoặc của chúng sinh‘’. Thần thông diệu dụng của chư Phật tu trị, làm cho ngu si và mê hoặc của chúng sinh được thanh tịnh, chẳng còn pháp nhiễm ô nào.
Chúng sinh giống như con nhặng, bay đông, bay tây. Tại sao ? Vì tìm thực vật, có khi bay không rất nhiều đường oan uổng, cũng tìm chẳng được vật ăn. Tại sao chúng lại làm nhặng ? Vì sự ngu si và mê hoặc của chúng quá sâu, bay loạn khắp nơi, chẳng thành công, cho nên làm nhặng, hơn nữa, khi tại nhân địa thì chúng vọng tưởng quá nhiều, thích làm nhặng được tự do tự tại, chẳng có ai quản lý, thích như thế nào thì như thế đó, do đó cứ làm nhặng mãi, ngày nào cũng bay, mà bay không vượt khỏi ngoài lưới si hoặc. Vì vậy mà Phật tịnh lưới si hoặc của chúng sinh, để cho chúng tương lai còn có cơ hội thành Phật.
‘’Phổ Trì diễn nói được như vậy.’’ Vị Phổ Trì Quang Chủ Hải Thần, hiểu rõ đạo lý này, mà diễn nói được pháp môn này.
Phật nhãn thanh tịnh không nghĩ bàn
Tất cả cảnh giới đều hiện ra
Bày khắp chúng sinh các diệu đạo
Ðây là sở ngộ của Hoa Quang.
‘’Phật nhãn thanh tịnh không nghĩ bàn‘’. Phật có ngũ nhãn lục thông. Phật nhãn thanh tịnh quán khắp tất cả, là không thể nghĩ bàn.
‘’Tất cả cảnh giới đều hiện ra‘’. Tất cả cảnh giới, tức là cảnh giới của chúng sinh, cũng là cảnh giới của chư Phật, bất cứ cảnh giới gì, cũng đều hiện ra ở trong Phật nhãn. Phật nhãn như là tấm gương lớn, tất cả cảnh giới của chúng sinh Phật đều thấy được.
‘’Bày khắp chúng sinh các diệu đạo‘’. Căn tánh của chúng sinh, căn lành nhiều hay căn ác nhiều, Phật đều biết, dục niệm của chúng sinh nhiều hay ít, Phật cũng đều biết. Cho nên, Phật khắp vì tất cả chúng sinh, khai thị đủ thứ diệu đạo.
Diệu đạo là gì ? Nói cho dễ hiểu, tức là đạo mà hằng ngày thường làm, đạo mà hằng ngày chúng ta đều dùng, những việc làm đều rất là diệu. Nếu không chú ý nghiên cứu nó, thì chẳng biết chỗ diệu của nó. Phải chú ý nghiên cứu nó, thì bất cứ gì cũng đều diệu, diệu không thể tả. Ví như, vật mà hằng ngày chúng ta dùng từ đâu đến ? Nơi đến rất diệu, lại ra đi như thế nào ? Chỗ đi cũng rất diệu, tóm lại đều là diệu đạo.
Cảnh giới mà mỗi ngày chúng ta thấy, đó tức là diệu đạo, giống như không ăn cơm thì bụng đói, tại sao phải đói ? Ðó tức là diệu, ăn no rồi cũng là diệu, cho đến mặc áo, hoặc uống trà, cũng đều diệu như thế. Nếu không diệu tại sao phải dùng nó ? Dù dùng nó rồi cũng chẳng lâu dài, chỉ là tạm thời mà thôi, bạn nói đó có diệu chăng ? Có người nói : ‘’Thứ đạo lý này ai cũng hiểu.’’ Nhưng chỗ bạn hiểu chỉ là ngoài da, chứ chẳng phải là cứu kính, chỗ diệu thì chẳng biết. Tại sao muốn ăn vật ngon ? Ðó là diệu, tại sao muốn mặc đồ đẹp ? Ðó là diệu. Tại sao muốn ở nhà tốt ? Ðó là diệu.
Ý nghĩa chữ diệu là không hiểu biết nó cho lắm, không minh bạch nó cho lắm. Tóm lại, minh bạch tức là diệu, không minh bạch thì chẳng diệu. Giống như hai vị tam bộ nhất bái, trên đường lạy thì bị rách quần, không thể che thân thể, lúc đó bên cạnh lề đường xuất hiện một cái quần, đó cũng là diệu. Có người ném họ mảnh chai mà không trúng, đó cũng là diệu. Ðã giảng ý nghĩa chữ diệu ra quá nhiều rồi, bây giờ trở lại kinh văn.
‘’Ðây là sở ngộ của Hoa Quang.’’ Ðạo lý này, vị Bảo Diệm Hoa Quang Chủ Hải Thần ngộ được, mà vào môn giải thoát này.
Ma quân quảng đại vô lượng số
Trong một sát na đều phá sạch
Tâm chẳng khuynh động khó lường được
Phương tiện này của Diệu Kế Thần.
‘’Ma quân quảng đại vô lượng số‘’. Ma quân tức là mười đại ma quân (tham dục, buồn lo, đói khát, khát thọ, ngủ nghỉ, sợ sệt, nghi, hàm độc, lợi dưỡng, tự cao). Trong mỗi thứ ma quân, lại biến thành mười đại ma quân, mà thành trăm đại ma quân. Trăm đại ma quân lại biến thành ngàn đại ma quân, ngàn đại ma quân lại biến thành vạn đại ma quân, càng biến càng nhiều, càng sinh càng nhiều ma con ma cháu, ma vua ma dân, chẳng biết bao nhiêu, cho nên nói là vô lượng số.
Mỗi con ma có thể biến thành trăm ngàn vạn ức, vì sức thần thông của ma cũng rất lớn, đáng tiếc thuộc về phương diện ác. Nếu làm lợi ích cho chúng sinh thì tốt biết bao, đằng này chúng hại người, cho nên ma vương là kẻ giết người. Người tu đạo sắp thành tựu, thì ma vương bèn dùng đủ thứ phương pháp đến phá hoại đạo tâm, khiến cho người định lực không đủ, thì mất đi cơ hội khai ngộ.
Thiền sư Huệ Ngôi đang ngồi thiền ở trong rừng, bỗng cò một con ma không đầu đến dọa nạt uy hiếp Thiền sư, nhưng Thiền sư tâm chẳng giao động, mới nói với ma : ‘’Ngươi chẳng có bệnh đau đầu.’’ Lúc đó, ma lại biến thành ác tướng chẳng có bụng, thiền sư lại nói : ‘’Cung hỷ, ngươi chẳng có chứng lục phủ.’’ Ma lại biến hóa ra rất nhiều tướng khiến cho người khiếp sợ, để uy hiếp đều bị Thiền sư dùng định lực hàng phục, chẳng bị chúng làm mê hoặc. Cuối cùng, ma lại biến thành tiên nữ nói với Thiền sư : ‘’Tôi phụng mạng Thiên Ðế đến để hầu hạ Thiền sư.’’ Thiền sư nói : ‘’Tâm của ta như đại địa, tuyệt đối chẳng khuynh động.’’ Ma nữ hết cách, bèn bay lên không mà đi. Thiền sư an nhiên không sợ, đó là định lực công phu thâm hậu, không bị cảnh giới làm lay chuyển.
‘’Trong một sát na đều phá sạch‘’. Có câu rằng : ‘’Ðạo cao một thước, ma cao một trượng‘’, nhưng tà không thắng chánh, cuối cùng tà cũng phải đầu hàng. Vì thần thông của Phật chỉ trong một sát na hàng phục hết vô lượng số ma quân, khiến cho chúng thay đổi tư tưởng, sửa đổi hành vi, làm kẻ hộ pháp.
‘’Tâm chẳng khuynh động khó lường được‘’. Tâm chẳng khuynh động, tức là như như bất động, liễu liễu thường minh. Nếu tâm chẳng giao động, thì chứng tỏ đã đắc được định lực. Tâm không khuynh động, thì nhất định rất khó dò lường được.
Tâm không khuynh động tức là một niệm không sinh. Khi một niệm không sinh thì quỷ thần nhìn chẳng thấy bạn, sẽ không tìm đến quấy nhiễu bạn. Giống như biển chẳng có sóng, gió yên sóng lặng, lúc đó thì chẳng cách chi dò lường được.
‘’Phương tiện này của Diệu Kế Thần.’’ Phương tiện pháp môn này, vị Kim Cang Diệu Kế Chủ Hải Thần, đắc được mà vào môn giải thoát này.
Khắp trong mười phương diễn diệu âm
Âm đó pháp giới thảy đều nghe
Ðó là cảnh tam muội của Phật
Là sở hành của Hải Triều Âm.
‘’Khắp trong mười phương diễn diệu âm‘’. Hết thảy tất cả âm thanh trong mười phương thế giới, đều là pháp âm tuyên lưu biến hóa làm ra, gồm có hữu tình thuyết pháp và vô tình thuyết pháp, thuyết pháp có âm thanh và thuyết pháp chẳng có âm thanh, tóm lại, tất cả đều đang thuyết pháp. Diệu âm này, là Phật dùng một âm diễn nói pháp, tùy loài chúng sinh đều hiểu rõ. Loài chúng sinh nào nghe pháp, thì nghe được tiếng của loài đó, đều đắc được lợi ích của pháp.
‘’Âm đó pháp giới thảy đều nghe‘’. Phật ở trong mười phương diễn diệu âm, không những khắp pháp giới đều nghe được, mà tận hư không cũng nghe được âm đó, chẳng có một nơi nào, mà chẳng phải là chỗ Phật diễn diệu âm.
‘’Ðó là cảnh tam muội của Phật‘’. Ðó là cảnh giới định lực thành tựu của Như Lai.
‘’Là sở hành của Hải Triều Âm.’’ Cảnh giới tam muội hạnh môn này, là sở tu sở hành của vị Hải Triều Lôi Âm Chủ Hải Thần.
Diệu âm của Phật pháp, chúng ta không nhất định nghe được, dù nghe được cũng chẳng biết. Giống như máy truyền hình, không những có âm thanh mà còn có hình. Nếu như ba trăm năm về trước, có người nói tương lai sẽ có một vật, vừa có người nói, vừa có người biểu diễn, giống như thật. Con người lúc đó nhất định cho rằng bạn nói ngông cuồng, người ngu nói mộng, sao lại có sự việc đó ? Sao lại có thứ cảnh giới diệu như thế ? Ba trăm năm sau, hôm nay ai ai cũng đều tin, đó là đạo lý diễn diệu âm. Phật pháp hợp với khoa học, khoa học càng tiến bộ thì càng chứng minh Phật pháp là khoa học. Hơn hai ngàn năm trăm năm về trước, Ðức Phật đã biết bí mật trong vũ trụ, khẳng định rằng có ba ngàn đại thiên thế giới. Một mặt trời là một thế giới, một ngân hà là một tiểu thiên thế giới, còn có trung thiên thế giới và đại thiên thế giới, hiện nay nhân loại đang phát hiện tương lai cảnh giới ba ngàn đại thiên thế giới, sẽ giống như máy truyền hình, sẽ xuất hiện ở trước mắt. Người có ngũ nhãn lục thông thấy ba ngàn đại thiên thế giới rất rõ ràng, giống như xem truyền hình. Nhân quả ba đời đều hiện ra trong máy truyền hình. Thuở xưa cho rằng sự việc không thể có, mà bây giờ đã có. Bây giờ cho rằng không thể có, tương lai sẽ có. Cho nên, Phật pháp càng chịu sự khảo nghiệm càng hiển lộ ra chân lý.
Lại nữa, Chủ Hà Thần Phổ Phát Tấn Lưu, được môn giải thoát, mưa khắp vô biên pháp vũ.
Kinh nghĩa ở trên chưa nói hết, bây giờ tiếp tục nói. Vị Phổ Phát Tấn Lưu Chủ Hà Thần, là thần quản lý về sông ngòi, vị này làm cho nước chảy khắp nơi rất là nhanh chóng và đắc được cảnh giới khắp rưới mưa vô biên đại pháp vũ. Vô biên pháp vũ tức là tận hư không biến pháp giới, chẳng có nơi nào mà không đắc được pháp vũ của Phật. Pháp vũ này, tuy là pháp vũ mưa xuống hiện tại, nhưng quá khứ cũng đắc được pháp vũ này, vị lai cũng đắc được pháp vũ này, đồng thời hiện tại đều đắc được pháp vũ này. Ðó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Chủ Hà Thần Phổ Khiết Tuyền Giản, được môn giải thoát, hiện khắp trước tất cả chúng sinh, khiến cho họ vĩnh viễn lìa phiền não.
Nước suối và nước khe, có khi không được trong sạch, rất dơ đục. Nhưng vị Phổ Khiết Tuyền Giản Chủ Hà Thần này, khiến cho nước suối và nước khe trong sạch, ví như tâm của chúng sinh trong sạch, thì trừ khử tất cả phiền não. Vị này khắp thị hiện ở trước tất cả chúng sinh, khiến cho họ vĩnh viễn lìa khỏi phiền não. Lìa khỏi phiền não, tức là lìa khỏi tham, sân, si, ba độc. Ba độc này đều lìa khỏi rồi, thì vĩnh viễn lìa khỏi phiền não, đắc được bổn thể thanh tịnh, bèn sinh ra đại trí huệ, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Chủ Hà Thần Ly Trần Tịnh Nhãn, được môn giải thoát, dùng đại bi phương tiện, quét sạch các hoặc trần cấu của tất cả chúng sinh.
Vị Ly Trần Tịnh Nhãn Chủ Hà Thần. Ly trần gọi là gì ? Tức là lìa khỏi tất cả bụi bặm và vọng tưởng, cũng có thể nói là lìa khỏi tất cả mọi tư tưởng nhiễm ô. Bụi bặm bên ngoài phải lìa khỏi, đồng thời nhiễm ô bên trong cũng phải lìa khỏi, được như thế thì tâm mới thanh tịnh mà đắc được tịnh nhãn.
Tịnh nhãn là gì ? Tức là thanh tịnh nhãn, cũng gọi là ngũ nhãn. Có tịnh ngũ nhãn mới đắc được ngũ lực.
Ngũ nhãn tức là: Thiên nhãn, nhục nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn. Người mở ngũ nhãn thì mới lìa khỏi tâm nhiễm ô. Nếu giải thích tỉ mỉ về ngũ nhãn thì vô cùng vô tận, không cách chi nói hết được. Bây giờ nói một cách tổng quát.
1). Thiên nhãn : ‘’Thiên nhãn thông phi ngại.’’ Tức là chẳng có chướng ngại, không những quán được vật xa hàng ngàn vạn dặm, mà vật trong mười phương pháp giới cũng đều thấy được rõ ràng, quán được tất cả đều không, chẳng có chướng ngại.
2). Nhục nhãn : ‘’Nhục nhãn ngại phi thông.’’ Nhục nhãn ở đây, chẳng phải là nhục nhãn của phàm phu, phàm phu chỉ thấy vật hữu hình, mà chẳng thấy được vật vô hình; chỉ thấy hữu sắc mà chẳng thấy được vô sắc. Nhục nhãn ở đây, không những thấy được vật có chướng ngại, mà còn thấy được vật vô chướng ngại, bất cứ là hữu hình vô hình, hữu sắc vô sắc, đều có thể thấy được.
Hữu hình là gì ? Ví như con người có hình tướng, nhìn thấy được. Vô hình là gì ? Ví như quỷ, là vô hình không thể nhìn thấy đặng. Tuy nhiên một số người chẳng nhìn thấy quỷ thần, nhưng người khai mở ngũ nhãn, thì nhìn thấy được quỷ thần, lại thấy được Phật Bồ Tát.
3). Pháp nhãn : ‘’Pháp nhãn duy quán tục.’’ Pháp nhãn quán sát được pháp thế gian và xuất thế gian. Không những quán được tục đế, mà còn quán được chân đế, bất quá quán tục đế rõ ràng hơn so với quán chân đế.
4). Huệ nhãn : ‘’Huệ nhãn liễu chân không.’’ Huệ nhãn thấy rõ đạo lý chân không. Chân không chẳng không, chẳng không mà không, không mà chẳng không, không những hiểu mà còn nhìn thấy rõ ràng.
5). Phật nhãn : ‘’Phật nhãn như thiên nhật.’’ Phật nhãn sáng giống như ngàn mặt trời, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, chẳng có gì mà không biết, chẳng có gì mà không thấy.
Ngũ lực tức là:
1. Tín lực.
2. Tấn lực.
3. Niệm lực.
4. Ðịnh lực.
5. Huệ lực.
Năm sức lực này làm tăng trưởng mầm bồ đề, không bị pháp bên ngoài làm giao động.
Tín lực phá được nghi hoặc.
Tấn lực phá được giải đãi.
Niệm lực phá được tà kiến.
Ðịnh lực chuyển được cảnh giới.
Huệ lực phá được các chấp.
Vị Chủ Hà Thần này, đắc được cảnh giới của Phật, dùng tâm đại bi và phương tiện pháp môn, tẩy sạch các hoặc khắp hết thảy tất cả chúng sinh trong mười phương ba đời, đồng thời cũng tẩy sạch trần cấu mê hoặc, khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được môn giải thoát ly trần tịnh nhãn này.
Chủ Hà Thần Thập Phương Biến Hống, được môn giải thoát, luôn vang ra âm thanh lợi ích chúng sinh.
Vị Thập Phương Biến Hống Chủ Hà Thần này, âm thanh rất lớn, vang khắp mười phương, chúng sinh nghe được tiếng hống này, đều được lợi ích. Lợi ích gì ? Tức là chúng sinh có tâm tham, nghe được tiếng hống này, thì tâm tham bớt đi một chút, chúng sinh có tâm sân, nghe được tiếng hống này, thì tâm sân giảm đi một chút, chúng sinh có tâm si, nghe được tiếng hống này, thì tâm si giảm bớt đi một chút. Tham sân si chẳng còn nữa trong vô hình, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Chủ Hà Thần Phổ Cứu Hộ Chúng Sinh, được môn giải thoát, ở trong tất cả hàm thức, luôn luôn khởi từ bi không não hại.
Vị Phổ Cứu Hộ Chúng Sinh Chủ Hà Thần này, cứu hộ khắp hết thảy chúng sinh. Vị này chẳng có tâm phân biệt kẻ thân người oán, đều xem như nhau. Vị này đắc được môn giải thoát, ở trong tất cả hàm thức chẳng có não hại. Hàm thức là gì ? Tức là chúng sinh có tính tri giác, nghĩa là chúng sinh: Noãn, thai, thấp, hóa. Tóm lại, phàm là có huyết, có khí, hoặc có huyết chẳng có khí .v.v., đều là hàm thức. Vị Chủ Hà Thần này, thường khởi từ bi chẳng não hại, vị này đắc được cảnh giới này, mà vào môn giải thoát này.
Chủ Hà Thần Vô Nhiệt Tịnh Quang, được môn giải thoát, khắp thị hiện tất cả căn lành mát mẻ.
Vị Vô Nhiệt Tịnh Quang Chủ Hà Thần, quang thanh tịnh là vô nhiệt, vô nhiệt tức là vô nhiệt não, vô nhiệt phiền não tức đắc được thanh lương mát mẻ, đắc được mát mẻ mới có quang minh thanh tịnh. Vị này đắc được cảnh giới của Phật, thị hiện khắp tất cả căn lành thanh lương, để trừ khử nhiệt phiền não, mà đắc được trí huệ.
Căn lành thanh lương là gì ? Tức là căn lành Bát nhã, cũng là căn lành bồ đề, cũng là: Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn năm căn.
1). Tín căn : Căn này sinh ra một sức lực tín ngưỡng, tín căn này kiên cố vô cùng, không dễ gì phá hoại, chẳng phải nửa tin nửa ngờ, mà là tin một cách vĩnh viễn.
2). Tấn căn : Tức là căn lành tinh tấn. Thân cũng tinh tấn, tâm cũng tinh tấn, ngày cũng tinh tấn, đêm cũng tinh tấn, ngày đêm đều tinh tấn, tinh tấn như thế mới có sự thành tựu.
3). Niệm căn : Niệm là gì ? Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, giờ phút đều niệm Tam Bảo, mà niệm niệm không quên Tam Bảo.
4). Ðịnh căn : Có định thì không bị tất cả cảnh giới làm giao động, do đó :
‘’Bát phong suy bất động,
Ðoan tọa tử kim liên.’’
Tức cũng là như như bất động, liễu liễu thường minh, đó là căn lành của định sinh ra. Bát phong là gì ? Giải thích sơ lược sau đây :
A. Xưng : Tức là xưng tán ca ngợi, đây là gió thuận, gió thuận dễ khiến cho con người sanh tâm vui mừng.
B. Cơ : Tức là chê bai, đây là gió nghịch, gió nghịch dễ khiến cho người sinh tâm sân hận.
C. Khổ : Tức là khổ sở, thứ gió này rất khó mà chịu được, cũng là gió nghịch, lại có thể nói là gió bắc, lạnh thấu xương.
D. Lạc : Tức là vui sướng, thứ gió thuận này rất là tự tại, cũng là gió thuận, cũng có thể nói là gió nam, ôn hòa dễ chịu.
E. Lợi : Tức là lợi ích, thứ gió này có lợi cho người, khiến cho người sinh tâm vui vẻ.
F. Suy : Tức là suy bại, thứ gió này có hại cho người, khiến cho người sinh tâm buồn rầu.
G. Ðắc : Tức là đắc được, thứ gió này là gió có tất cả mọi thứ gió, tức cũng là gió thuận hy vọng.
H. Thất : Tức là mất mát, thứ gió này là gió chẳng có mọi thứ gió, tức cũng là gió nghịch thất vọng.
5). Huệ căn : Tức là căn lành trí huệ. Muốn có trí huệ thì phải đọc nhiều kinh điển, tu nhiều Bát nhã, do đó :
“Vào sâu tạng kinh,
Trí huệ như biển”.
Nếu đầy đủ tín, tấn, niệm, định, huệ, năm căn lành này, tức là căn lành thanh lương. Vị Chủ Hà Thần này, đắc được môn giải thoát này.
Chủ Hà Thần Phổ Sinh Hoan Hỷ, được môn giải thoát, tu hành bố thí đầy đủ, khiến cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn lìa xan tham và chấp trước.
Vị Phổ Sinh Hoan Hỷ Chủ Hà Thần này, được hết thảy chúng sinh đều sinh tâm vui mừng, vui mừng lìa xan tham, vui mừng lìa chấp trước. Vị này đắc được cảnh giới của Phật, tức là tu hành pháp môn bố thí đầy đủ, bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy, ba thứ bố thí nầy đều tu được viên mãn.
1). Bố thí tài : Gồm có nội tài và ngoại tài. Nội tài tức là : Ðầu, mắt, tủy não, đem thân thể tính mạng đều xả thí hết. Ngoại tài là : Ngôi vua, vợ con, bố thí hết vinh hoa phú quý.
2). Bố thí pháp : Gồm có hữu vi và vô vi. Pháp hữu vi tức là có hình tướng; pháp vô vi tức là vô vi mà vô bất vi, lại có thể nói pháp hữu vi là pháp thế gian, pháp vô vi là pháp xuất thế gian, giảng kinh thuyết pháp bố thí cho tất cả chúng sinh.
3). Bố thí không sợ hãi : Tức là gặp người kinh hãi sợ sệt thì an ủi họ, làm cho tâm họ hết sợ sệt, hoặc là bị hoàn cảnh uy hiếp, bạn khiến cho họ được an toàn, không còn sợ hãi nữa. Vị Chủ Hà Thần này, khiến cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn xa lìa khỏi san tham và chấp trước, mà đắc được khoái lạc.
Chủ Hà Thần Quảng Ðức Thắng Thành, được môn giải thoát, làm tất cả ruộng phước hoan hỷ.
Vị Quảng Ðức Thắng Thành Chủ Hà Thần này, có công đức rộng lớn trang nghiêm như tràng báu. Vị này đắc được cảnh giới của Phật, Phật vì chúng sinh mà làm ruộng phước hoan hỷ, khiến cho chúng sinh gieo trồng phước căn lành bồ đề. Chúng sinh thành tựu vô biên công đức, thì đều đại hoan hỷ. Ðó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Chủ Hà Thần Quang Chiếu Phổ Thế, được môn giải thoát, khiến cho tất cả chúng sinh, ai tạp nhiễm thì được thanh tịnh, ai sân độc thì được hoan hỷ.
Vị Quang Chiếu Phổ Thế Chủ Hà Thần này, có quang minh chiếu khắp thế gian, khiến cho tất cả chúng sinh, đều lìa khỏi tạp nhiễm mà đắc được thanh lương. Tạp nhiễm tức là không thanh tịnh, có thiện có ác, có tốt có xấu, có chánh có tà, tức cũng là không thuần. Trong niệm thiện lẫn lộn chút niệm ác, trong niệm ác lẫn lộn chút niệm thiện; trong niệm chánh lẫn lộn chút niệm tà, trong niệm tà lẫn lộn chút niệm chánh; trong tốt có chút xấu, trong xấu có chút tốt, đó là tạp nhiễm.
Vị Chủ Hà Thần này, lại khiến cho tất cả chúng sinh, chẳng có tâm sân hận mà sinh tâm hoan hỷ. Nên biết tâm sân hận như rắn độc đáng sợ, khiến cho người không dám đến gần. Phàm là người có tâm sân hận, thì rất ít tâm hoan hỷ. Vị Chủ Hà Thần này đắc được môn giải thoát này.
Chủ Hà Thần Hải Ðức Quang Minh, được môn giải thoát, khiến cho tất cả chúng sinh vào biển giải thoát, luôn luôn được đầy đủ sự vui sướng.
Vị Hải Ðức Quang Minh Chủ Hà Thần này, đức hạnh như biển cả, mà còn phóng đại quang minh chiếu soi tất cả. Vị này khiến cho tất cả chúng sinh vào biển giải thoát. Vì môn giải thoát rất nhiều, cho nên vị này thường được đầy đủ sự khoái lạc, tức cũng là khoái lạc viên mãn, cũng là khoái lạc vô thượng, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Bấy giờ, Chủ Hà Thần Phổ Phát Tấn Lưu, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Chủ Hà Thần, mà nói ra bài kệ.
Lúc đó, vị Phổ Phát Tấn Lưu Chủ Hà Thần, nương đại oai lực của Phật, quán sát khắp tất cả căn cơ của chúng Chủ Hà Thần, dùng kệ để thuật lại ý nghĩa của trường hàng ở trên.
Như Lai thuở xưa vì chúng sinh
Tu hành biển pháp vô biên hạnh
Như mưa thuấm nhuần dứt nóng bức
Diệt phiền não nhiệt của chúng sinh.
‘’Như Lai thuở xưa vì chúng sinh‘’. Phật trong vô lượng kiếp về trước tu hành. Tại sao phải tu hành ? Vì Phật thấy chúng sinh thọ khổ, chẳng biết cách nào để lìa khổ được vui, do đó Phật mới phát nguyện tu hành, nguyện khai ngộ thành Phật rồi, sẽ cứu độ tất cả chúng sinh ra khỏi biển khổ. Phật thì vì chúng sinh mà tu hành, chẳng phải vì mình mà tu hành, đó là hành Bồ Tát đạo, tất cả vì người chẳng vì mình.
‘’Tu hành biển pháp vô biên hạnh‘’. Pháp môn của Phật tu hành vô lượng vô biên như biển cả, cho nên gọi là biển pháp. Phật trước hết tu pháp môn lục độ vạn hạnh.
Ðộ đầu tiên trong sáu độ là bố thí, phải bố thí cho người, chẳng phải kêu người bố thí cho mình.
Ðộ thứ hai là trì giới, phải thật thà giữ gìn giới luật, chẳng phải kêu người giữ giới, còn mình thì chẳng giữ giới.
Ðộ thứ ba là nhẫn nhục, phải nhẫn những gì người khác không nhẫn được, phải chịu đựng những gì người khác không chịu đựng được, nhẫn tức là khảo nghiệm, trải qua sự khảo nghiệm mới hợp cách. Thọ tức là nhẫn thọ, một số người không nhẫn thọ được, mà bạn nhẫn thọ được mới hợp cách, hợp cách mới thông qua được. Trong sáu độ quan trọng nhất là nhẫn nhục, nếu không nhẫn được, thì năm độ kia dù tu như thế nào, cũng không thể có sự thành tựu.
Ðộ thứ tư là tinh tấn, tức là không giải đãi, luôn luôn tham thiền, niệm Phật, trì Chú, nghiên cứu kinh điển, phiên dịch kinh điển.
Ðộ thứ năm là thiền định, có định lực thì không bị cảnh giới chuyển.
Ðộ thứ sáu là trí huệ, có trí huệ thì không điên đảo mộng tưởng, sẽ đắc được Niết Bàn cứu kính.
Hạnh môn của Phật tu là như thế. Người khác nhẫn không được mà Ngài nhẫn được, người khác chịu đựng không được mà Ngài chịu đựng được. Tại sao ? Vì vô ngã, chẳng còn có tướng ta thì ai nhẫn ? Ai chịu đựng ? Chẳng còn cái năng nhẫn sở nhẫn, chẳng còn cái năng thọ sở thọ. Khi Phật tu hành biển pháp, thì không biết chịu đựng được bao nhiêu sự người ta đánh Ngài, mắng ngài, Ngài cũng đều thản nhiên, bất động, tu vô biên hạnh môn, cuối cùng Ngài đắc được thần thông diệu dụng để giáo hóa chúng sinh.
‘’Như mưa thuấm nhuần dứt nóng bức‘’. Trong Mạnh Tử có nói :
‘’Thiên du nhiên tác vân, phái nhiên hạ vũ,
Tắc miêu bột nhiên hưng chi hĩ‘’!
Nghĩa là trời ùn ùn nổi mây, lại mưa xuống ầm ầm, chẳng phải thái quá, chẳng phải bất cập, vừa lượng nước cần đến, mầm non đột nhiên sinh sôi nẩy nở lớn dần. Phật giáo hóa chúng sinh cũng giống như trời mưa đúng thời, khiến cho sự nóng bức đều tiêu trừ, đắc được sự mát mẻ.
‘’Diệt phiền não nhiệt của chúng sinh.’’ Phật dùng Phật pháp mát mẻ, để tiêu diệt tất cả phiền não nhiệt của chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được mát mẻ, không những thân mát mẻ mà tâm cũng mát mẻ.
Khó nói Phật vô lượng kiếp xưa
Dùng nguyện quang minh tịnh thế gian
Những ai thành thục khiến khai ngộ
Sở ngộ này của Phổ Khiết Thần.
‘’Khó nói Phật vô lượng kiếp xưa‘’. Phật ở trong vô lượng kiếp xa xưa, có bao nhiêu kiếp ? Khó mà nói được bao nhiêu vô lượng kiếp.
‘’Dùng nguyện quang minh tịnh thế gian‘’. Phật dùng đại nguyện lực, đại trí huệ quang minh, để giáo hóa thế gian, để thanh tịnh thế gian, khiến cho tất cả thế gian lìa khổ được vui, liễu sinh thoát tử.
‘’Những ai thành thục khiến khai ngộ‘’. Chúng sinh nào các căn lành thành thục, thì Phật khiến cho chúng sinh đó giác ngộ đại đạo. Ðại đạo gì ? Tức là đạo lý sinh tử đại sự.
‘’Sở ngộ này của Phổ Khiết Thần.’’ Vị Phổ Khiết Tuyền Giản Chủ Hà Thần, trong tâm minh bạch ngộ được cảnh giới này, mà vào môn giải thoát này.
Ðại bi phương tiện đồng chúng sinh
Ðều hiện trước họ thường hóa dụ
Khiến cho tiêu sạch dơ phiền não
Tịnh Nhãn thấy được sinh vui mừng.
‘’Ðại bi phương tiện đồng chúng sinh‘’. Phật dùng tâm đại bi để cứu độ tất cả chúng sinh. Tâm đại bi tức là cứu khổ chúng sinh, ban cho họ an vui. Phật dùng phương tiện pháp môn, để giáo hóa tất cả chúng sinh. Phương tiện tức là quyền xảo phương tiện, là pháp môn tính biến thông, hoạt động tạm thời, chẳng phải pháp môn bất biến thông. Ðồng chúng sinh tức là có bao nhiêu chúng sinh, thì có bấy nhiêu tâm đại bi và phương tiện pháp môn.
‘’Ðều hiện trước họ thường hóa dụ‘’. Phật thường thị hiện ở trước chúng sinh, thường dùng đủ thứ phương pháp để giáo hóa chúng sinh, dẫn dụ chúng sinh, khiến cho chúng sinh biết đạo cải tà quy chánh, sửa đổi lỗi lầm làm con người mới, cho nên nói thường hóa dụ.
‘’Khiến cho tiêu sạch dơ phiền não‘’. Phật khiến cho tập khí mao bệnh của tất cả chúng sinh đều tiêu trừ, trở về cội nguồn. Phiền não dơ bẩn giống như rác, cho nên nói dơ phiền não. Phật thường khiến cho chúng sinh quét sạch phiền não dơ bẩn, thì sẽ được thanh tịnh chẳng còn nhiễm chút bụi trần nào.
‘’Tịnh Nhãn thấy được sinh vui mừng.’’ Vị Ly Trần Tịnh Nhãn Chủ Hà Thần này, đắc được cảnh giới này, trong tâm sinh ra sự vui mừng khoái lạc.
Phật diễn diệu âm thảy đều nghe
Chúng sinh vui thích tâm hoan hỷ
Ðều khiến trừ sạch vô lượng khổ
Giải thoát này của Biến Hống Thần.
‘’Phật diễn diệu âm thảy đều nghe‘’. Phật diễn nói pháp âm thanh tịnh vi diệu, khiến khắp tất cả chúng sinh, thảy đều nghe được diệu âm không thể nghĩ bàn này.
‘’Chúng sinh vui thích tâm hoan hỷ‘’. Chúng sinh nghe được diệu âm này rồi, thì trong tâm sinh hoan hỷ và khoái lạc, hoan hỷ âm thanh vi diệu này, nghe hoài chẳng biết chán.
‘’Ðều khiến trừ sạch vô lượng khổ‘’. Khi chúng sinh nghe được diệu âm của Phật, thì gốc rễ của vô lượng sự khổ đều hoàn toàn tẩy trừ sạch sẽ. Gốc rễ sự khổ đã tẩy sạch rồi, thì căn lành sẽ sinh ra.
‘’Giải thoát này của Biến Hống Thần.’’ Vị Thập Phương Biến Hống Chủ Hà Thần, đắc được môn giải thoát này.
Xưa Phật tu tập hạnh bồ đề
Vì lợi chúng sinh vô lượng kiếp
Thế nên quang minh khắp thế gian
Hộ Thần nghĩ nhớ sinh hoan hỷ.
‘’Xưa Phật tu tập hạnh bồ đề‘’. Khi Phật tại nhân địa, thì tu tập hạnh môn giác ngộ, tu tập hạnh môn tự giác giác tha, tu tập hạnh môn lợi ích chúng sinh. Tóm lại, tu tập đủ thứ hạnh môn giác đạo.
‘’Vì lợi chúng sinh vô lượng kiếp‘’. Phật vì lợi ích tất cả chúng sinh, mà trải qua vô lượng vô biên đại kiếp tu tập hạnh bồ đề.
‘’Thế nên quang minh khắp thế gian‘’. Vì nhân duyên đó, cho nên quang minh chiếu soi khắp hữu tình thế gian trong mười phương.
‘’Hộ Thần nghĩ nhớ sinh hoan hỷ.’’ Vị Phổ Cứu Hộ Chúng Sinh Chủ Hà Thần này, nghĩ nhớ cảnh giới này, do đó, trong tâm sinh vô lượng vô biên sự hoan hỷ, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Ai có vấn đề gì, thì đưa ra để mọi người cùng nhau nghiên cứu. Quả Hộ pháp sư hỏi : ‘’Sinh nhẫn là gì ? Pháp nhẫn là gì ? Vô sinh pháp nhẫn là gì ? Mong Hòa Thượng khai thị.’’
Sinh nhẫn : Tức là chúng sinh nhẫn. Ai mắng bạn, bạn nhẫn được; ai đánh bạn, bạn nhẫn được; ai giết bạn, bạn cũng nhẫn được, đó là chúng sinh nhẫn.
Pháp nhẫn : Tức là học pháp cũng phải nhẫn. Phật pháp sâu như biển, nếu không có sự nhẫn nại, thì không thể học Phật pháp. Phật pháp nhiều như thế, tôi làm sao mà học ? Tôi chẳng có cách nào học, đó là chẳng có pháp nhẫn.
Vô sinh pháp nhẫn : Là chứng được một thứ cảnh giới. Cảnh giới này chẳng thấy có chút pháp sinh, chẳng thấy có chút pháp diệt, lúc đó, người cũng không, pháp cũng không, người và pháp đều không, đó là vô sinh pháp nhẫn.
Sinh nhẫn tức là người không. Có được cảnh giới người không, thì mới đắc được pháp nhẫn. Có được người không rồi, thì có sinh nhẫn, có pháp không nữa tức là pháp nhẫn. Người không pháp không, đó là vô sinh pháp nhẫn.
Không thấy có chút pháp sinh, cũng chẳng thấy có chút pháp diệt, nhẫn nại nơi tâm. Ðối với cảnh giới này muốn nói lại nói không ra, đó là vô sinh pháp nhẫn.
Xưa Phật tu hành vì chúng sinh
Ðủ thứ phương tiện khiến thành thục
Tịnh khắp biển phước trừ các khổ
Vô Nhiệt thấy được tâm hớn hở.
‘’Xưa Phật tu hành vì chúng sinh‘’. Phật vì chúng sinh mà tu hành, chẳng phải vì mình mà tu hành. Tại sao Phật vì chúng sinh mà tu hành ? Vì Phật thấy tất cả chúng sinh đang chịu khổ, giống như chính mình chịu khổ. Nếu không trừ khổ cho chúng sinh, thì Phật cảm thấy khổ của mình vẫn còn, cho nên Phật phát nguyện phải trừ khổ cho chúng sinh. Do đó, Phật trong quá khứ tu hành đều vì chúng sinh.
‘’Ðủ thứ phương tiện khiến thành thục‘’. Phật dùng đủ thứ pháp môn phương tiện khéo léo, khiến cho chúng sinh căn cơ sớm thành thục, tức cũng là chúng sinh chưa có căn lành, thì khiến cho họ trồng căn lành, chúng sinh đã trồng căn lành, thì trợ giúp căn lành của họ tăng trưởng; chúng sinh căn lành đã tăng trưởng, thì giúp cho căn lành của họ thành thục; chúng sinh căn lành đã thành thục, thì khiến cho họ được giải thoát, đắc được Phật quả.
‘’Tịnh khắp biển phước trừ các khổ‘’. Khiến cho khắp hết thảy chúng sinh, đều đắc được ruộng phước thanh tịnh, thành tựu đạo nghiệp vô thượng, mà trừ khử tất cả sự khổ.
‘’Vô Nhiệt thấy được tâm hớn hở.’’ Vị Vô Nhiệt Tịnh Quang Chủ Hà Thần, thấy được và minh bạch cảnh giới này, cho nên trong tâm hoan hỷ hớn hở vô cùng.
Thí môn rộng lớn vô cùng tận
Tất cả chúng sinh đều lợi ích
Khiến cho người thấy không tham chấp
Sở ngộ này của Phổ Hỷ Thần.
‘’Thí môn rộng lớn vô cùng tận‘’. Vị Chủ Hà Thần này, thấy pháp môn bố thí của Phật tu, rộng lớn vô cùng vô tận. Thí môn tức là pháp môn tài thí, vô úy thí. Sự bố thí vô cùng tận.
‘’Tất cả chúng sinh đều lợi ích‘’. Bất cứ loài chúng sinh nào cũng đều đắc được lợi ích. Sự lợi ích này là bình đẳng, chẳng có sự phân biệt.
‘’Khiến cho người thấy không tham chấp‘’. Ðại oai thần lực, đại trí huệ lực, đại quang minh của Phật chiếu soi, phá tan tất cả đen tối. Sự đen tối này tức là san tham. Phàm là chúng sinh thấy được quang minh của Phật, nghe được pháp của Phật, nghe được âm thanh của Phật, đều lìa khỏi san tham chấp trước.
Người tu hành phải lợi ích kẻ khác, đừng lợi ích chính mình, do đó:
‘’Từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa.’’
Phải luôn luôn giúp đỡ người. Việc gì mình làm được thì cố gắng giúp đỡ người, dù là việc mình làm không được cũng phải giúp đỡ người, nghĩa là tận hết khả năng, như thế tức là không san tham. Cho nên Phật giáo đồ phải có tâm từ bi, không những tu pháp môn tĩnh, mà cũng tu pháp môn động, như thế mới trừ khử được san tham, trừ khử được chấp trước.
San tham tức là xả bỏ chẳng đặng. Nếu xả bỏ được thì sẽ đắc được, xả bỏ gì ? Xả bỏ nội tài và ngoại tài, đắc được gì ? Ðắc được đức hạnh, đắc được công đức. Cho nên, người tu đạo nên bố thí tất cả tài sản sở hữu bên ngoài, thân tâm tính mạng bên trong cũng phải bố thí, bố thí được như thế thì còn có tham chấp chăng ?
‘’Sở ngộ này của Phổ Hỷ Thần.’’ Ðạo lý này nói thì dễ, mà thực hành chẳng phải dễ, cho nên nói chẳng dễ gì minh bạch được, nhưng vị Phổ Sinh Hoan Hỷ Chủ Hà Thần này, minh bạch được và ngộ được, cho nên nói chẳng dễ dàng.
Xưa Phật tu hành thật phương tiện
Thành tựu vô biên biển công đức
Khiến cho người thấy đều vui mừng
Thắng Tràng Thần ngộ được môn này.
‘’Xưa Phật tu hành thật phương tiện‘’. Thuở xưa, Phật tu hành đủ thứ phương tiện pháp môn, tại sao lại nói thật phương tiện ? Vì thật mà thí quyền, cho nên vì thật giáo mà tu phương tiện pháp môn.
‘’Thành tựu vô biên biển công đức‘’. Phật lợi ích chúng sinh, bố thí cho chúng sinh, làm đủ thứ công đức. Phàm là việc có lợi cho chúng sinh đều đi làm, chẳng phải chuyên vì lợi mình, còn phải lợi người, cho nên thành tựu vô biên biển công đức.
‘’Khiến cho người thấy đều vui mừng‘’. Phàm là chúng sinh thấy được Phật, đều khiến cho họ sinh tâm vui mừng.
‘’Thắng Tràng Thần ngộ được môn này.’’ Cảnh giới này, vị Quảng Ðức Thắng Tràng Chủ Hà Thần, ngộ được mà vào môn giải thoát này.
Chúng sinh nhiễm ô đều thanh tịnh
Tất cả oán hại sinh từ bi
Nên được quang chiếu đầy hư không
Phổ Thế Hà Thần thấy hoan hỷ.
‘’Chúng sinh nhiễm ô đều thanh tịnh‘’. Nhiễm ô tức là dơ bẩn. Vì chúng sinh có tâm nhiễm ô, cho nên Phật khiến cho họ hoàn toàn biến thành thanh tịnh.
‘’Tất cả oán hại sinh từ bi‘’. Oán hại tức là oán độc và sân hại. Chúng sinh có tâm sân hận oán hại này, thì phật khiến cho biến thành tâm từ bi.
‘’Nên được quang chiếu đầy hư không‘’. Phật khiến cho tất cả chúng sinh nhiễm ô, đều đắc được thanh tịnh, tất cả chúng sinh sân độc, đều đắc được vui mừng, cho nên đại trí huệ quang minh của Phật, khắp cùng hư không biến pháp giới.
‘’Phổ Thế Hà Thần thấy hoan hỷ.’’ Vị Quang Chiếu Phổ Thế Chủ Hà Thần, thấy được cảnh giới này mà sinh tâm hoan hỷ.
Phật là ruộng phước biển công đức
Khiến cho hết thảy lìa điều ác
Cho đến thành tựu đại bồ đề
Giải thoát này của Hải Quang Thần.
‘’Phật là ruộng phước biển công đức‘’. Phật là ruộng phước của chúng sinh, tức là ruộng đất để cho chúng sinh gieo trồng công đức, còn là biển công đức của chúng sinh.
‘’Khiến cho hết thảy lìa điều ác‘’. Vì chúng sinh mà nói giới luật, tức là không làm các điều ác, ngăn ngừa việc quấy. Nếu đừng làm các điều ác, mà làm các điều thiện, thì sẽ lìa khỏi mọi điều ác.
‘’Cho đến thành tựu đại bồ đề‘’. Không những lìa khỏi các điều ác, mà còn thành tựu đại bồ đề, trong tương lai sẽ thành tựu quả Phật.
‘’Giải thoát này của Hải Quang Thần.’’ Vị Hải Ðức Quang Minh Chủ Hà Thần, minh bạch môn giải thoát này.
Lại nữa, Chủ Giá Thần Nhu Nhuyến Thắng Vị, được môn giải thoát, làm cho tất cả chúng sinh được pháp từ vị, khiến cho thành tựu thân Phật.
Ở trên đã giảng qua mười vị Chủ Hà Thần, các Ngài mỗi vị đều nói một bài kệ, để ca ngợi công đức của Phật, sau đây lại có mười vị Chủ Giá Thần, tiếp tục diễn xướng nghĩa lý đại hội Hoa Nghiêm. Bây giờ dùng trường hàng để nói rõ cảnh giới Hoa Nghiêm là không thể nghĩ bàn. Ðạo lý cảnh giới này, chẳng phải phàm phu và người nhị thừa hiểu rõ được, cho nên ‘’lại nữa‘’ nghĩa là ý nghĩa ở trên chưa nói xong, nay lại tiếp tục nói.
Vị Nhu Nhuyến Thắng Vị Chủ Giá Thần. Nhu nhuyến tức là pháp phương tiện, khiến cho chúng sinh nghe pháp, đều có cảm giác dễ chịu thư thái. Thắng vị tức là vị đạo thù thắng, tức cũng là : Chua, ngọt, đắng, cay, mặn, năm vị. Giá tức là giá sắc, “giá” là trồng trọt ; “sắc” là thu hoạch. Thần Nông thời xưa, dạy nhân dân phương pháp trồng trọt thu hoạch; cách thức gieo giống, chăm sóc, tưới nước, bón phân, thu hoạch .v.v. Vị Thần này tức là Thần quản lý trồng trọt thu hoạch.
Người thế gian ưa thích năm mùi vị này, mỗi người đều có sở thích khác nhau. Có người thích mặn, có người thích ngọt, có người thích đắng, có người thích chua, có người thích cay. Song, vị mà mọi người thích đó, là vị bình thường, chẳng phải là thắng vị. Thắng vị là gì ? Tức là phương tiện trong sự phương tiện, liễu nghĩa trong sự liễu nghĩa. Vị này thắng hơn tất cả các vị, là một thứ pháp từ vị đặc biệt thù thắng.
Căn tánh của mọi người đều khác nhau, do đó sự ưa thích cũng khác nhau. Người thích Thiên Chúa giáo, thì cho rằng Thiên Chúa giáo chí cao vô thượng, người thích Cơ Ðốc giáo, thì cho rằng Cơ Ðốc giáo là đệ nhất thế giới, người thích Nho giáo, thì cho rằng: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, ngũ thường là đạo đức toàn thiện nhất, người thích Ðạo giáo, thì cho rằng luyện đan là thuốc tiên trrường sinh bất lão, người thích Phật giáo, thì cho rằng đạo Phật cứu kính liễu sinh thoát tử.
Chúng ta người tu đạo, tức là người làm ruộng đất, hãy tự làm tự ăn, hãy tự lực cánh sinh. Ðem hạt giống bồ đề trồng vào ruộng phước của Phật, khiến cho nó nảy mầm đâm chồi lớn lên thành cây bồ đề, kết quả bồ đề thật, đắc được cảnh giới giải thoát. Do đó : ‘’Người chưa trồng căn lành, thì khiến cho trồng căn lành, người đã trồng căn lành, thì khiến cho lớn lên, đã lớn lên thì khiến cho chín mùi, đã chín mùi thì khiến cho giải thoát.’’ Vị Chủ Giá Thần này, quản lý về việc này. Ai trồng nhân bồ đề, thì tương lai sẽ đắc được quả bồ đề. Tóm lại, ai tu hành thì người đó đắc được; ai chẳng tu thì người đó chẳng đắc được. Ðắc được hay không đắc được, chỉ xem tu hay không tu. Nếu y giáo phụng hành, y pháp tu hành thì sẽ đắc được thứ pháp từ vị này.
Pháp từ vị này ngon ngọt nhất, thù thắng nhất. Nếu hoàn toàn nếm được, thì vị đó là thắng vị trong thắng vị. Pháp từ vị này có tám vạn bốn ngàn pháp môn, hãy vun bồi, tưới nước vào ruộng pháp tính để thành tựu Phật quả. Thành Phật rồi sẽ giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh cũng thành Phật. Công tác của Phật là phổ độ giáo hóa chúng sinh.
Vị Chủ Giá Thần này, khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được pháp từ vị mà thành tựu thân Phật. Ngài minh bạch cảnh giới này mà vào môn giải thoát từ vị.
Chủ Giá Thần Thời Hoa Tịnh Quang, được môn giải thoát, khiến cho tất cả chúng sinh, thọ vui sướng rộng lớn.
Vị Thời Hoa Tịnh Quang Chủ Giá Thần này, có hoa sen lớn đẹp, một năm bốn mùa đều thường nở hoa. Ðóa hoa sen đẹp này, phóng ra quang minh thanh tịnh, chiếu soi tất cả chúng sinh trong mười phương pháp giới, khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được vui sướng rộng lớn, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Tất cả chúng sinh tức là bạn, tôi, họ, đều bao quát hết thảy. Vị Chủ Giá Thần này, khiến cho chúng ta thọ được sự chiếu sáng của quang minh, mà đắc được pháp ích. Chỉ cần tinh tấn tu hành, thì cuối cùng sẽ đắc được môn giải thoát vui sướng rộng lớn.
Chủ Giá Thần Sắc Lực Dũng Kiện, được môn giải thoát, dùng tất cả pháp môn viên mãn, tịnh các cảnh giới.
Sắc Lực Dũng Kiện Chủ Giá Thần, sắc lực tức là thân thể, dũng kiện tức là dũng mãnh tráng kiện, cho nên thân thể của vị này, cường tráng vô cùng. Vì giáo hóa chúng sinh, mà Ngài ngày đêm luôn luôn tinh tấn, không ngại gian lao, cũng chẳng thối tâm, cho nên Ngài tu viên mãn tất cả pháp môn, để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh trở về nguồn cội, đắc được bổn thể thanh tịnh, tức cũng khiến cho chúng sinh bỏ mê về giác, cải tà quy chánh, hành Bồ Tát đạo, thành tựu Phật quả, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Cảnh giới của Kinh Hoa Nghiêm diệu không thể tả, không thể nghĩ bàn, chẳng phải tri kiến của phàm phu chúng ta có thể nói được viên mãn, dù chư Phật ở cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ, giờ phút đều giảng, cũng nói không hết đạo lý Hoa Nghiêm. Hiện tại chỉ bất quá nói đại khái một ít trong vạn phần mà thôi.
Các vị thiện tri thức, nếu cảm thấy có vấn đề gì, thì hãy đưa ra để mọi người cùng dụng chân tâm nghiên cứu. Chỗ vĩ đại của Phật giáo là, dù có nghi vấn thì có thể nghiên cứu, chẳng giống như các tôn giáo khác, chỉ cho nghe giảng mà không cho nghi vấn, đó mới là mê tín.
Chủ Giá Thần Tăng Ích Tinh Khí, được môn giải thoát, thấy sức đại bi vô lượng thần thông biến hóa của Phật.
Vị Tăng Ích Tinh Khí Chủ Giá Thần. Tăng ích tức là tăng thêm lợi ích, lợi ích gì ? Lợi ích tăng thêm tinh khí. Vị Chủ Giá Thần này quản lý trồng trọt và thu hoạch, khiến cho ngũ cốc phong phú, cho nên tăng thêm tinh khí. Tinh khí sung túc thì thân thể kiện khang, thân thể kiện khang mới tu hành được. Nếu thân thể suy nhược, có muốn dụng công tu hành cũng bất tiện. Thân thể đau ốm thì không thể chuyên tâm tu hành. Cho nên nói tu hành chẳng dễ dàng, chẳng phải là việc đơn giản.
Vị Chủ Giá Thần này, đắc được cảnh giới của Phật, thấy được đời quá khứ của Ðức Phật tu pháp môn đại bi tâm, được vô lượng vô biên sức thần thông biến hóa không thể nghĩ bàn. Vị này tăng thêm pháp thân huệ mạng, lại trợ giúp cho chúng sinh tăng thêm bồ đề tâm, tức cũng khiến cho chúng sinh tăng thêm tâm thiện pháp, tiêu diệt tất cả pháp ác. Pháp thiện tức là bồ đề tâm, pháp ác tức là tâm sân hận, cho nên khiến cho chúng sinh trồng ruộng công đức kết công đức quả.
Nếu chúng ta nương theo pháp tu hành, siêng tu tâm đại bi, thì cũng đắc được vô lượng vô biên sức thần thông biến hóa. Biến hóa là chẳng có pháp nhất định. Một số người biến hóa, thì ở trong động biến hóa, mà ở trong tĩnh không biến hóa được. Cảnh giới của Phật thì không những ở trong động thiên biến vạn hóa, mà ở trong tĩnh cũng có thần thông biến hóa, bất cứ động tĩnh đều biến hóa được, cho nên Phật theo căn cơ mà thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh. Vị Chủ Giá Thần này, minh bạch Phật pháp một phần nhỏ mà vào môn giải thoát này.
Người xưa nói : ‘’Ðộng tắc biến, biến tắc hóa, vi thiên hạ chí thành.’’ Tôi thường nói, động thì có biến hóa.
Các bạn không ngại tu thần thông để xem thử, tu được thần thông thì sẽ hiểu sự biến hóa này. Bạn hiểu được tức là chí thành, đạo chí thành thì có thể biết trước. Thành đến cực điểm thì việc gì cũng đều biết trước được, nhưng cứ lo đắc được sự biết trước, thì cũng đừng biết quá nhiều, biết quá nhiều cũng có phiền não, đó tức là động, cũng là vọng tưởng.
Chủ Giá Thần Phổ Sinh Căn Quả, được môn giải thoát, hiện khắp ruộng phước của Phật, khiến cho hạt giống trồng xuống không hư hoại.
Vị Phổ Sinh Căn Quả Chủ Giá Thần, không những năng động mà cũng năng sinh. Sinh gì ? Sinh căn, sinh quả. Sinh căn gì ? Sinh căn quả. Sinh quả gì ? Sinh quả căn. Có căn mới có quả, có quả tất có căn. Căn là căn gì ? Là căn bồ đề, quả là quả gì ? Là quả bồ đề. Ðạo lý này không hiểu tức là ngu si. Tại sao ? Trường hàng ở dưới đây nói rất rõ ràng.
Vị Chủ Giá Thần này, đắc được môn giải thoát, hiện khắp ruộng phước của Phật, khiến cho hạt giống gieo xuống không hư hoại, những gì trồng ở trong ruộng phước của Phật, đều là căn bồ đề, thì sẽ kết quả bồ đề, không thể hư hoại, không thể không sinh ra, cũng không thể mất đi. Bất cứ lúc nào, chắc chắn sẽ sinh căn bồ đề, mà kết quả bồ đề. Chỉ cần tinh tấn thì sớm sẽ sinh căn, sớm sẽ nở hoa, sớm sẽ kết quả.
Vị Chủ Giả Thần này, thường giúp đỡ chúng sinh trồng căn bồ đề, trừ khi chẳng nghe được Kinh Hoa Nghiêm, đó là chuyện khác, tạm thời không bàn tới. Chỉ cần nghe được Kinh Hoa Nghiêm, một khi lọt vào tai, thì đã trồng xuống hạt giống thành đạo, đó tức là hạt giống trồng xuống không hư mất. Giống như nuốt chất kim cang vào trong bụng, bất cứ bộ tiêu hóa mạnh như thế nào, cũng không thể tiêu hóa được chất kim cang, cho nên chất kim cang không bao giờ hư hoại. Căn và quả bồ đề cũng chẳng hư hoại như kim cang, cho nên nói một khi Kinh Hoa Nghiêm nghe lọt vào tai, thì nhất định sẽ phát bồ đề tâm. Giống như các vị phát bồ đề tâm, đó đều là căn lành đã thành thục. Các bạn ở trong quá khứ có đủ thứ nhân duyên khác nhau, có đủ thứ nhân duyên chẳng giống nhau. Cho nên có người phát tâm rất thuân lợi công đức viên mãn, có người muốn phát tâm thì có nhiều sự chướng ngại phát sinh. Nhưng nếu đã trồng xuống hạt giống bồ đề này, thì sẽ chẳng mất đi. Hạt giống này cuối cùng sẽ mọc rễ, đâm chồi, đơm hoa, kết quả; đừng lo lắng, sớm hay muộn gì đều sẽ thành Phật. Ai muốn vào môn giải thoát này, thì phải sớm phát bồ đề tâm.
Chủ Giá Thần Diệu Nghiêm Hoàn Kế, được môn giải thoát, khiến khắp chúng sinh phát hoa tịnh tín.
Vị Diệu Nghiêm Hoàn Kế Chủ Giá Thần này, có công đức vi diệu không thể nghĩ bàn, để trang nghiêm hoàn kế. Hoàn kế là đồ trang sức hình tròn, “hoàn” là biểu thị sự vô tận, “kế” là biểu thị tướng công đức trang nghiêm. Nói tóm lại, nếu nói tỉ mỉ thì khó mà nói hết được.
Vị này minh bạch một cảnh giới của Phật, đó là khiến khắp chúng sinh phát hoa tịnh tín. Hoa tịnh tín là gì ? Tức là trước kia rất nhiều sự nhiễm ô, rất nhiều vọng tưởng, rất nhiều lòng tham muốn cho riêng mình, mà không thể phát hoa tịnh tín. Bây giờ đã phát rồi, thì chúng sinh chưa trồng căn lành, khiến cho họ trồng căn lành, chúng sinh chưa phát tâm lành, thì khiến cho họ phát tâm lành, đó là tác dụng của sự phát khởi. Giống như trồng ngũ cốc xuống đất, được sự trợ duyên của ánh sáng mặt trời, được sự trợ duyên của nước, và các sự trợ duyên khác, thì mới đâm chồi nảy lộc lớn lên, phát hoa tịnh tín thì kết quả tịnh tín. Không thể có hoa mà chẳng có quả, trừ khi đó là hoa dại, cũng không thể có quả mà chẳng có hoa. Hoa tịnh tín này là công đức thành tựu. Ðó là một sự biểu hiện thành tựu đạo bồ đề, tức cũng là hoa kết quả giác viên mãn.
Vị Chủ Giá Thần này, minh bạch hoa tịnh tín thì kết quả giác đạo, tức cũng là thành Phật quả. Vị này liễu ngộ cảnh giới này, mà vào môn giải thoát này.
Chủ Giá Thần Nhuận Trạch Tịnh Hoa, được môn giải thoát, đại từ thương xót cứu độ các chúng sinh, khiến cho họ tăng trưởng biển phước đức.
Vị Nhuận Trạch Tịnh Hoa Chủ Giá Thần này, thường nhuận trạch hoa tịnh tín. Làm sao để nhuận trạch ? Là dùng đủ thứ công đức để nhuận trạch. Ðầy đủ vô lượng công đức, thì đóa hoa tịnh tín này tươi tốt. Vị này đắc được pháp môn đại từ thương xót cứu độ các chúng sinh. Phật giáo thì thương xót cứu hộ chúng sinh đều bình đẳng. Ví như có người qua bờ sinh tử, cũng chẳng đến bờ bên kia, cũng chẳng ở bờ bên này, đang ở giữa dòng sắp chết đuối, lúc đó dùng cái phao cứu sống họ, hoặc vớt họ lên thuyền, đưa họ từ bờ này qua bờ kia, đó là cứu độ.
Bất hạnh thay, thuyền đến giữa dòng thì lủng lỗ, chẳng có sức lực đến được bờ kia. Lúc đó, lại dùng chiếc thuyền khác đưa họ qua bờ bên kia, đó gọi là tế độ. Phật giáo dùng giới định huệ ba học vô lậu, làm thuyền cứu độ chúng sinh, khiến cho họ đến được bờ bên kia cứu kính Niết Bàn.
Thời xưa, có câu chuyện về qua sông rồi đốt hết thuyền. Có vị đại tướng quân xuất lãnh đội quân đi chinh phạt nước khác, qua sông lớn rồi ra lệnh cho quân lính đốt sạch hết các chiếc thuyền, đó là biểu thị tuyệt lộ, chỉ có tiến chứ không thể lùi, vị tướng quân nói với quân lính : ‘’Các anh em phải dũng mãnh đánh địch, thì còn có hy vọng sống sót; nếu bị bại thì chẳng có cơ hội về nước.’’ Ðó là cảnh cáo quân đội phải bỏ sự sống quên sự chết, gác sự sống chết ra ngoài, mới có thể chiến thắng khải hoàn trở về.
Chúng ta người tu đạo, phải có sự phát tâm phá vỡ thuyền chìm, mới đạt đến bờ bên kia Niết Bàn. Ðến được bờ bên kia rồi, thì đừng nghĩ trở lại thế giới Ta Bà nữa, cho nên qua được rồi, thuyền cũng đốt sạch, đó là biện pháp một khi đã dứt, thì vĩnh viễn dứt hẳn, một phen lao nhọc vĩnh viễn an nhàn.
Chẳng phải tế độ một chúng sinh đến bờ kia, mà là tế độ tất cả chúng sinh đến bờ kia. Tế độ chúng sinh đến bờ kia để làm gì ? Khiến cho họ tăng trưởng biển phước đức. Ví như độ chúng sinh về thế giới Cực Lạc tu hành, khi phước đức của họ tăng trưởng rộng lớn như biển, thì có thể thành Phật. Vị Chủ Giá Thần này, minh bạch cảnh giới này mà vào môn giải thoát này.
Chủ Giá Thần Thành Tựu Diệu Hương, được môn giải thoát, rộng khai thị tất cả pháp môn tu hành.
Vị Thành Tựu Diệu Hương Chủ Giá Thần này, thành tựu đủ thứ diệu hương, khiến cho chúng sinh ngửi được thứ diệu hương này, thì sẽ cải ác hướng thiện, phát bồ đề tâm, cho nên gọi là diệu hương. Thứ diệu hương này, tức là giới hương, định hương, huệ hương, giải thoát hương, giải thoát tri kiến hương.
Vị này đắc được một cảnh giới của Phật, cho nên rộng khai thị pháp môn tu hành cho tất cả chúng sinh, chỉ bày cho tất cả chúng sinh, vô lượng vô biên pháp môn của chư Phật tu hành trong quá khứ, hiện tại và vị lai, ba đời chư Phật đều từ pháp môn này mà ngộ đạo.
Chúng ta đừng sinh tâm sợ hãi đối với pháp môn tu hành, thấy biển mà thở dài, tức là nói Phật pháp như biển cả, vừa rộng lớn lại vừa sâu thăm thẳm, chừng nào mới có thể học hết những pháp môn nhiều như thế ? Ví như có người đứng ở bờ biển, thấy biển cả rộng lớn mênh mông vô tận thì trong tâm nghĩ : ‘’Biết bao giờ mới có thể qua được biển này‘’ ? Do đó mà thở dài, đó là ý nghĩa thấy biển mà thở dài.
Vậy làm thế nào để biết ? Ðừng hấp tấp, chỉ cần cung hành tực tiễn, chân thật dụng công tu hành, cuối cùng sẽ có ngày thành tựu. Do đó:
‘’Ðàn chỉ viên thành tám vạn môn‘’.
Nghĩa là thời gian khoảng khảy móng tay, thì có thể viên mãn thành tựu tám vạn pháp môn. Tại sao ? Vì :
“Nhất thông nhất thiết thông”.
Một pháp môn mà tu thành công, thì tất cả pháp môn đều thông đạt vô ngại, đều thành công. Cho nên nói :
‘’Sát na diệt trừ tam kỳ kiếp.’’
Trong khoảng một sát na, thì công đức tu trong ba đại A tăng kỳ kiếp đều viên mãn. Cho nên, đừng sinh tâm khó tu hành đối với Phật pháp.
Vị Chủ Giá Thần này, khai thị cho tất cả chúng sinh tu tám vạn bốn ngàn pháp môn, mà không sinh tâm sợ hãi. Vị này minh bạch đạo lý này, mà vào được môn giải thoát này.
Hôm nay, tôi có vấn đề này muốn hỏi các bạn, mong các bạn nói ra ! Tôi không biết trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, pháp môn nào là đệ nhất ?
– Có vị đệ tử đáp : ‘’Tám vạn bốn ngàn pháp môn, chẳng có môn nào đệ nhất, nhưng đều là đệ nhất.’’
– Tại sao có nhiều đệ nhất như thế ?
– Lại đáp : ‘’Vì có nhiều chúng sinh, mỗi chúng sinh đều có pháp môn của họ, khiến cho họ thành Phật. Cho nên pháp nào hợp với họ là đệ nhất, do đó mới nói đều là đệ nhất.’’
– Vậy pháp môn đệ nhất của bạn là gì ?
– Ðáp : ‘’Là ngủ‘’.
– Bạn có thật ngủ chăng ?
– Ðáp : ‘’Không’’.
– Vậy không ngủ sao lại có pháp môn ngủ ? Nếu có pháp môn ngủ thì sẽ đắc được “ngủ tam muội”. Ngủ tức cũng là tỉnh, tỉnh cũng tức là ngủ, tỉnh ngủ nhất như, chẳng có phân biệt. Khi tỉnh và ngủ chẳng có phân biệt, khi ngủ và tỉnh cũng chẳng phân biệt, đó tức là đắc được “ngủ tam muội”. Ðắc được ngủ tam muội thì tỉnh ngủ, ngủ tỉnh đều là một.
– Pháp môn của bạn có phải như thế chăng ?
– Ðáp : ‘’Chẳng phải như thế.’’
– Vậy ra làm sao ?
– Ðáp : ‘’Vọng tưởng lung tung.’’
– Vọng tưởng cũng là pháp môn, thêm một cái đệ nhất. Tại sao phải nói như thế ? Vì đó là căn cứ, chẳng phải tùy tiện nói, cũng chẳng phải nói vu vơ, càng chẳng phải nói bậy bạ, mà là căn cứ kinh điển nói. Trong Kinh Kim Cang có nói:
‘’Là pháp bình đẳng, chẳng có cao thấp.’’
Chẳng có pháp nào đệ nhất, cũng chẳng có đệ nhị. Nếu không tin thì hãy đi nghiên cứu. Pháp môn nào hợp với bạn thì là đệ nhất; ngủ. Pháp môn nào hợp với tôi thì là đệ nhất; ăn cơm. Pháp môn nào hợp với họ thì là đệ nhất; mặc áo. Ăn cơm, ngủ nghỉ, mặc áo, đều là đệ nhất, chẳng có gì khác, tức là ba việc này.
Chủ Giá Thần Kiến Giả Ái Lạc, được môn giải thoát, khiến tất cả chúng sinh trong pháp giới, bỏ lìa giải đãi ưu não các ác, thảy đều sinh ra thanh tịnh.
Vị Kiến Giả Ái Lạc Chủ Giá Thần, bất cứ loại chúng sinh nào, thấy được Ngài đều sinh tâm ái mộ vui vẻ, vị này đắc được một cảnh giới của Phật là, khiến cho tất cả chúng sinh thấy, hoặc nghe được Phật pháp, thì đều bỏ lìa giải đãi ưu não và các ác, thảy đều sinh ra thanh tịnh, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Chúng ở chùa Kim Sơn, có thể nói là bỏ lìa sự giải đãi. Tại sao ? Vì những người trẻ này, trước kia chưa nghe được Phật pháp, với các bạn bè người Mỹ ăn thì có phần, làm việc chẳng có phần. Ăn thì vô nhân tướng (chỉ biết có mình, chẳng biết có người khác); làm việc thì vô ngã tướng (chỉ dạy họ làm mà mình thì chẳng làm); hại người thì vô chúng sinh tướng, ăn thịt thì vô thọ giả tướng. Bây giờ đến chùa Kim Sơn rồi, tác phong hoàn toàn khác hẳn lúc trước. Ăn thì vô ngã tướng, mình ăn hay không ăn chẳng quan hệ gì, chỉ cần người khác ăn no thì tốt, làm việc thì vô nhân tướng, tất cả việc làm tự mình đi làm, không sai họ làm, chẳng tranh luận với người vì có chúng sanh tướng, cũng chẳng ăn thịt vì có tướng thọ mạng. Không những không sát sinh, mà còn bảo hộ chúng sinh, nguyện tất cả chúng sinh sống lâu trăm tuổi. Những người trẻ này đều siêng năng cực nhọc, không sợ làm việc nhiều, đó tức là bỏ lìa sự giải đãi, tức cũng là vì pháp quên mình, vì học Phật pháp, nhẫn việc người không thể nhẫn, chịu những sự khổ người không chịu được.
Ưu não tức là ưu sầu phiền não. Người tu đạo không nên có tâm ưu bi khổ não. Hai thứ này là đá cột chân.
Thời xưa có ngụ ngôn rằng, có người nước Kỷ suốt ngày đến tối ưu tư sầu muộn, có người hỏi y ưu sầu việc gì ? Y đáp : ‘’Tôi lo trời sẽ xập xuống, lúc đó tôi biết làm sao‘’ ? Cho nên y cũng chẳng đi làm ruộng, việc gì cũng chẳng làm, chỉ ngồi ở nhà ưu sầu. Do đó, thiên hạ vốn vô sự, người ngu tự quấy nhiễu, người sau gọi là “người nước Kỷ lo trời”.
Có người tự tìm phiền não, sáng sớm soi gương phát hiện lỗ mũi chúc xuống, y nghĩ : ‘’Nếu như lỗ mũi dài uốn lên, khác với mọi người thì tốt biết mấy‘’ ! Do đó, bèn sinh ra phiền não, đó là ăn cơm no, không việc làm, mới sinh vọng tưởng và phiền não. Nếu có việc làm, thì chẳng nhàn rỗi để khởi vọng tưởng và sinh phiền não.
Chủ Giá Thần Ly Cấu Quang Minh, được môn giải thoát, quán sát căn lành của tất cả chúng sinh, theo căn cơ mà thuyết pháp, khiến cho chúng hội đều hoan hỷ đầy đủ.
Vị Ly Cấu Quang Minh Chủ Giá Thần, lìa khỏi tất cả trần cấu mà đắc được quang minh. Trần cấu là gì ? Tức là những sự nhiễm ô. Trong Chứng Ðạo Ca của Ngài Vĩnh Gia có nói :
‘’Tâm là căn, pháp là trần,
Hai thứ này như vết trên gương,
Vết bẩn tẩy sạch thì quang thủy hiện,
Tâm pháp đều quên thì tánh tức chân.’’
Lìa cấu thì tâm và pháp đều phải quên, tức cũng là lìa khỏi ngã, pháp, hai chấp. Ngã chấp như là cấu, pháp chấp cũng là cấu. Nếu lìa khỏi ngã, pháp, hai chấp, người cũng không, pháp cũng không, thì tự tánh quang minh sẽ hiện tiền.
Vị này đắc được môn giải thoát, dùng trí huệ để quán sát căn cơ của tất cả chúng sinh. Vì căn cơ của chúng sinh có sâu có cạn, có nhiều có ít. Cho nên, phải dùng Phật pháp để vun bồi, để tưới, mới khiến cho tăng trưởng mà tươi tốt. Vun bồi tưới nước là gì ? Tức là theo căn cơ thuyết pháp, theo bệnh cho thuốc, khiến cho đại chúng trong pháp hội đều hoan hỷ đầy đủ.
Bấy giờ, Chủ Giá Thần Nhu Nhuyến Thắng Vị, nương oai lực của đức Phật, quán khắp tất cả chúng Chủ Giá Thần, mà nói ra bài kệ.
Lúc đó, đại chúng trong pháp hội có vị Nhu Nhuyến Thắng Vị Chủ Giá Thần, nương đại oai thần lực của Phật, quán khắp tất cả chúng Chủ Giá Thần, lại dùng kệ để nói.
Như Lai biển công đức vô thượng
Hiện đèn sáng chiếu khắp thế gian
Tất cả chúng sinh đều cứu hộ
Thảy đều an lạc không sót thừa.
‘’Như Lai biển công đức vô thượng‘’. Như Lai là ba giác và vạn đức đều viên mãn, cho nên nói biển công đức vô thượng. Vô thượng có nghĩa là chẳng có gì cao hơn được. Công đức của Như Lai chẳng thể so sánh được. Công đức nhiều như biển cả, vô luợng vô biên, vô cùng vô tận. Cho nên gọi là biển công đức.
‘’Hiện đèn sáng chiếu khắp thế gian‘’. Phật thị hiện bình đẳng khắp thế gian. Tại sao ? Vì giáo hóa tất cả chúng sinh cải ác hướng thiện, bỏ mê về giác. Trí huệ quang của Phật như đèn sáng phá tan đen tối vô minh.
Khi Phật chưa ra đời, thế gian giống như chẳng có ánh sáng của mặt trời mặt trăng, chẳng có ánh đèn, chúng sinh sống ở trong đêm dài tăm tối. Từ khi Phật ra đời, thì thế gian có ánh sáng mặt trời, mặt trăng, lại có ánh đèn, chiếu sáng tất cả thế giới, đều đắc được quang minh, do đó Phật quang phổ chiếu.
‘’Tất cả chúng sinh đều cứu hộ’’. Mục đích Phật phải thành Phật, là vì cứu độ chúng sinh. Ðộ chúng sinh là công việc của Phật. Chúng sinh trôi nổi ở trong biển ái dục, không thể thoát khỏi biển khổ, Phật nương thuyền từ bi đến cứu hộ tất cả chúng sinh. Cho nên nói đều cứu hộ. Chẳng có một chúng sinh nào, mà chẳng phải là đối tượng sự cứu hộ của Phật. Nghĩa là dù chúng sinh ác, Phật cũng cứu hộ họ. Phật chẳng nói con là chúng sinh quá ác, ta chẳng cứu con, Phật chẳng có tâm phân biệt như thế. Phật xem chúng sinh đều như là con cái của Ngài. Bất cứ con cái bất hiếu, không giữ quy cụ, Ngài cũng đều cứu hộ họ ra khỏi biển khổ, đắc được giải thoát.
‘’Thảy đều an lạc không sót thừa.’’ Phật hoàn toàn ban cho chúng sinh khoái lạc, chẳng bỏ sót một chúng sinh nào, cũng chẳng quên một chúng sinh nào, trừ khi chẳng phải là chúng sinh, cho nên nói thảy đều an lạc không sót thừa.
Công đức Thế Tôn không bờ mé
Chúng sinh nghe được chẳng luống qua
Ðều khiến lìa khổ thường an vui
Ðây là sở nhập của Thời Hoa.
‘’Công đức Thế Tôn không bờ mé‘’. Thế Tôn là bậc tôn kính của thế gian và xuất thế gian, là đại đạo sư của tam giới. Công đức của Ngài vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn.
‘’Chúng sinh nghe được chẳng luống qua‘’. Hết thảy chúng sinh kể cả bạn, tôi và họ, nghe được danh hiệu của Phật, hoặc nghe được kinh điển của Phật, đều chẳng luống qua, mà đắc được lợi lạc.
‘’Ðều khiến lìa khổ thường an vui‘’. Phật hoàn toàn khiến cho tất cả chúng sinh, đều lìa khỏi tất cả khổ, mà đắc được tất cả an vui, tức cũng là chẳng có sự khổ, mà chỉ hưởng sự an vui, cho nên nói là thường an vui.
‘’Ðây là sở nhập của Thời Hoa.’’ Cảnh giới này, vị Thời Hoa Tịnh Quang Chủ Giá Thần, minh bạch được mà vào môn giải thoát này.
Thiện Thệ các lực đều viên mãn
Công đức trang nghiêm hiện thế gian
Tất cả chúng sinh đều điều phục
Pháp này Dũng Lực chứng đắc được.
‘’Thiện Thệ các lực đều viên mãn‘’. Thiện Thệ là một trong mười danh hiệu của Phật. Các lực tức là mười lực. Phật tu tất cả các lực đều viên mãn.
‘’Công đức trang nghiêm hiện thế gian‘’. Phật thành tựu là nhờ tất cả công đức trang nghiêm. Phật dùng công đức để trang nghiêm thân, xuất hiện ở trong hữu tình thế gian.
‘’Tất cả chúng sinh đều điều phục‘’. Chúng sinh ở thế giới Ta Bà cang cường khó điều phục. Bạn dùng đủ thứ pháp môn quyền xảo phương tiện, nói thiện pháp cho họ nghe, thì họ cũng chẳng tin. Nhưng nếu gặp ác duyên tà dâm không thanh tịnh, thì chạy theo như phát cuồng, giống như người cuồng chạy về hướng nào đó, loại người này khó điều phục nhất. Song, Phật hoàn toàn điều phục được tất cả chúng sinh. Phật dùng hai phương pháp để điều phục, một là dùng văn để độ, hai là dùng võ để độ. Hiển giáo là dùng văn để độ, mật giáo là dùng võ để độ. Bồ Tát là mắt hiền lành để độ chúng sinh, Kim cang là mắt giận dữ để độ chúng sinh. Tóm lại, đều vì khiến cho chúng sinh thoát khỏi tam giới, bất quá phương pháp chẳng giống nhau mà thôi. Hiển giáo giống như toa thuốc, theo sự chỉ dẫn trong toa mà uống thuốc. Mật giáo giống như thuốc đã làm xong, uống thuốc thì hết bệnh.
‘’Pháp này Dũng Lực chứng đắc được.’’ Pháp môn này, vị Sắc Lực Dũng Kiện Chủ Giá Thần, minh bạch mà chứng đắc được môn giải thoát này.
Xưa Phật tu hành biển đại bi
Tâm Phật niệm niệm đồng thế gian
Cho nên thần thông vô cùng tận
Tăng Ích Tinh Khí quán thấy được.
‘’Xưa Phật tu hành biển đại bi‘’. Thuở xưa Phật tu hành pháp môn đại bi. Pháp môn đại bi tức là pháp môn ban vui cho chúng sinh, cứu khổ cho chúng sinh, tu tập thành biển đại bi.
‘’Tâm Phật niệm niệm đồng thế gian‘’. Mỗi tâm niệm của Phật, đều nghĩ cứu hộ chúng sinh, nghĩ khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui, liễu sinh thoát tử, đắc được giải thoát, cho nên niệm niệm đồng thế gian.
‘’Cho nên thần thông vô cùng tận‘’. Nghĩ muốn giáo hóa chúng sinh cang cường khó điều phục, thì phải có đủ thứ thần thông, đủ thứ phương tiện pháp môn, để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh thấy được thần thông diệu dụng mà sinh niềm tin, cho nên thần thông của Phật vô cùng tận.
‘’Tăng Ích Tinh Khí quán thấy được.’’ Cảnh giới này, vị Tăng Ích Tinh Khí Chủ Giá Thần quán sát thấy được.
Phật thường hiện tiền khắp thế gian
Tất cả phương tiện chẳng luống qua
Ðều tịnh chúng sinh các hoặc não
Giải thoát này của Phổ Sinh Thần.
‘’Phật thường hiện tiền khắp thế gian‘’. Phật thì vô tại vô bất tại, Phật thì khắp cùng tất cả mọi mơi, cho nên nói Phật hiện khắp thế gian. Tại sao chúng sinh chẳng nhìn thấy Phật ? Vì có các hoặc não che đậy, giống như mây che mặt trời không khác.
Tuy nhiên Phật khắp cùng tất cả mọi nơi, thường hiện trước chúng sinh, nhưng chúng sinh nhìn chẳng thấy Phật. Nếu diệt trừ được hoặc nghiệp vô minh các chướng ngại, thì sẽ thấy được Phật.
‘’Tất cả phương tiện chẳng luống qua‘’. Phật dùng tất cả phương tiện để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh phát bồ đề tâm, thành tựu quả vị Phật. Những pháp phương tiện Phật dùng, chẳng có luống qua, thảy đều có hiệu quả.
‘’Ðều tịnh chúng sinh các hoặc não‘’. Các hoặc tức là kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc. Phật khiến các hoặc của tất cả chúng sinh, đều hoàn toàn thanh tịnh, chẳng còn tạp nhiễm. Giống như mây tan hết thì mặt trời hiện ra. Các phiền não hoặc tiêu diệt hết, thì trí huệ sẽ hiện tiền.
‘’Giải thoát này của Phổ Sinh Thần.’’ Cảnh giới này, vị Phổ Sinh Căn Quả Chủ Giá Thần minh bạch được.
Phật là biển trí của thế gian
Phóng tịnh quang minh chiếu hết thảy
Tin hiểu rộng lớn đều sinh ra
Diệu Nghiêm Kế Thần thấu rõ được.
‘’Phật là biển trí của thế gian‘’. Phật là bậc có trí huệ nhất trong thế gian, Phật là bậc giác ngộ ở trong chúng sinh. Chẳng có gì mà Phật không biết, chẳng có gì mà Phật không thấy, cho nên gọi là biển trí. Phật Pháp Tăng là biển đại trí huệ của thế gian, cũng là đèn sáng vô tận của thế gian.
‘’Phóng tịnh quang minh chiếu hết thảy‘’. Phật là biển đại trí, phóng quang minh trí huệ thanh tịnh. Chiếu soi khắp hết thảy mọi nơi, lại chiếu soi tâm của chúng sinh, khiến cho họ phát bồ đề tâm, thành đạo vô thượng.
‘’Tin hiểu rộng lớn đều sinh ra‘’. Phật phóng quang minh thanh tịnh chiếu tâm chúng sinh, thì chúng sinh sinh ra tâm tin hiểu rộng lớn. Sự tin hiểu này không thể nghĩ bàn, là đắc được trí huệ quang minh gia bị của Phật mà sinh ra.
‘’Diệu Nghiêm Kế Thần thấu rõ được.’’ Cảnh giới này, vị Diệu Nghiêm Hoàn Kế Chủ Giá Thần, minh bạch được mà vào môn giải thoát này.
Như Lai quán thế khởi tâm từ
Vì lợi chúng sinh mà xuất hiện
Mở bày yên vui đạo tối thắng
Giải thoát này của Tịnh Hoa Thần.
‘’Như Lai quán thế khởi tâm từ‘’. Như Lai tức là Phật Thích Ca, Ngài quán sát chúng sinh thế gian quá khổ, suốt ngày tranh giành ở trong biển khổ, mà chẳng đắc được giải thoát, do đó Phật sinh khởi tâm đại từ bi, ban vui cho chúng sinh, cứu mọi sự khổ của chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui.
‘’Vì lợi chúng sinh mà xuất hiện‘’. Phật vị lợi ích chúng sinh, vì cứu hộ chúng sinh mà xuất hiện ra đời, để giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh đều có trí huệ mà ngộ đạo.
‘’Mở bày yên vui đạo tối thắng‘’. Phật vì chúng sinh mà mở bày đại đạo yên vui nhất, thù thắng nhất, quang minh nhất. Chỉ cần tinh tấn dũng mãnh tiến về trước, thì nhất định sẽ đạt được bờ bên kia cứu kính Niết Bàn.
‘’Giải thoát này của Tịnh Hoa Thần.’’ Vị Nhuận Trạch Tịnh Hoa Chủ Giá Thần, đắc được môn giải thoát này.
Thiện Thệ tu tập hạnh thanh tịnh
Dưới cội bồ đề diễn nói đủ
Như vậy giáo hóa khắp mười phương
Sự nghe thọ này của Diệu Hương.
‘’Thiện Thệ tu tập hạnh thanh tịnh‘’. Phật trong quá khứ tu hạnh môn thanh tịnh, là chẳng làm các điều ác, làm hết các điều lành; tức cũng là xa lìa tất cả pháp ác, tu trị tất cả pháp lành. Tất cả pháp ác tức là pháp nhiễm ô, tất cả pháp lành tức là pháp thanh tịnh. Pháp thế gian là pháp nhiễm ô, pháp xuất thế gian là pháp thanh tịnh. Pháp nhiễm ô có dục niệm, pháp thanh tịnh chẳng có dục niệm. Tóm lại, có tâm dục niệm tức là nhiễm ô, chẳng có tâm dục niệm tức là thanh tịnh, mục đích của chúng ta tu là đoạn dục khử ái.
‘’Dưới cội bồ đề diễn nói đủ‘’. Phật ở dưới cội bồ đề thấy sao mai mọc mà ngộ đạo. Thốt lên ba lần lành thay ! ‘’Tất cả chúng sinh đều có đủ trí huệ đức tướng Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước không thể chứng đắc.’’ Do đó, có thể thấy vọng tưởng chấp trước là vật chướng ngại lớn của sự tu đạo.
Nếu chúng ta chẳng có vọng tưởng chấp trước, thì sớm sẽ chứng quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Tại sao chúng ta chẳng chứng đắc ? Vì tâm vọng tưởng quá nhiều, tâm chấp trước quá nặng, cho nên vẫn còn là phàm phu.
Ðức Phật thành đạo dưới cội bồ đề rồi, trong thời gian hai mươi mốt ngày, diễn nói Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật. Lúc đó, người nhị thừa tuy cũng ở trong pháp hội, song có mắt mà chẳng thấy Lô Xá Na, có tai chẳng nghe giáo viên đốn. Tại sao ? Vì căn tánh chẳng giống nhau. Bồ Tát là lợi căn, tiếp thọ được đốn giáo; nhị thừa thì độn căn chỉ tiếp thọ được tiệm giáo, cho nên như mù như điếc.
‘’Như vậy giáo hóa khắp mười phương‘’. Phật nói Kinh Hoa Nghiêm và tất cả tạng kinh, là vì giáo hóa tất cả chúng sinh trong mười phương, khiến cho hết thảy đều được độ.
‘’Sự nghe thọ này của Diệu Hương.’’ Vị Thành Tựu Diệu Hương Chủ Giá Thần, nghe thọ được pháp môn này, mà lãnh ngộ được môn giải thoát này.
Phật trong tất cả các thế gian
Ðều khiến hết lo sinh vui mừng
Hết thảy căn dục đều tịnh trị
Khả Ái Lạc Thần ngộ vào được.
‘’Phật trong tất cả các thế gian‘’. Phật chẳng riêng gì xuất hiện ở thế giới Ta Bà này, mà đều xuất hiện khắp hết thảy thế giới trong mười phương. Hiện ra thế gian để làm gì ? Sẽ nói rõ dưới đây.
‘’Ðều khiến hết lo sinh vui mừng‘’. Phật thương xót chúng sinh, thấy chúng sinh chẳng dứt được sinh tử, luân hồi trong đường hiểm, lưu chuyển ở trong sáu nẻo luân hồi, thật rất đáng lo âu. Cho nên, Phật không ngại gian lao khổ nhọc, nghĩ hết biện pháp để độ chúng sinh, khiến cho chúng sinh xa lìa tất cả lo âu khổ não, mà sinh tâm vui mừng.
‘’Hết thảy căn dục đều tịnh trị‘’. Căn tính của chúng sinh chẳng giống nhau, có người thì thiện căn, có người thì ác căn. Người có căn lành thì Phật dùng phương tiện pháp môn, khiến cho họ tăng trưởng. Kẻ chẳng có căn lành, thì Phật dùng phương tiện, khiến cho họ trồng căn lành. Dục niệm của chúng sinh cũng khác nhau; có người thích tiền tài, có người thích sắc đẹp, có người thích danh lợi, có người thích ăn ngon, có người thích ngủ nhiều. Ðủ thứ căn tánh và đủ thứ dục này Phật đều biết, cho nên khiến cho tất cả tập khí mao bệnh nhiều đời nhiều kiếp của chúng sinh, đều tu trị thanh tịnh, từ nhiễm ô biến thành thanh tịnh. Ví như có người vốn chẳng tu hành, cũng chẳng giữ quy cụ, thích ăn thịt, uống rượu, hút thuốc, nhưng khi nghe được Phật pháp rồi, thì giữ quy cụ, thành thật tu hành, trừ khử tập khí, buông xả tâm nhiễm ô. Như thế thì tâm thanh tịnh sẽ hiện tiền. Cho nên nói Phật giáo là đèn sáng, là bảng đi đường, chỉ đường mê cho chúng sinh, đi trên con đường sáng, tức cũng là con đường giác ngộ vô thượng.
‘’Khả Ái Lạc Thần ngộ vào được.’’ Vị Kiến Giả Ái Lạc Chủ Giá Thần này, minh bạch lãnh ngộ được cảnh giới này, cho nên vào được môn giải thoát này.
Như Lai xuất hiện trong thế gian
Quán khắp sở thích của chúng sinh
Ðủ thứ phương tiện khiến thành thục
Giải thoát này của Tịnh Quang Thần.
‘’Như Lai xuất hiện trong thế gian‘’. Tại sao Phật phải xuất hiện nơi thế giới Ta Bà ? Vì muốn cứu hộ chúng sinh ra khỏi biển phiền não.
‘’Quán khắp sở thích của chúng sinh‘’. Phật quán sát hết thảy tâm của chúng sinh, xem trong tâm của chúng sinh thích những gì ? Phàm là những gì chúng sinh muốn, Phật đều khiến cho họ được đầy đủ mà đắc được yên vui.
‘’Ðủ thứ phương tiện khiến thành thục‘’. Phật dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để giáo hóa chúng sinh, khiến cho căn lành của họ được thành thục, mà đắc được giải thoát. Do đó, đủ thấy chứng minh Phật giáo hóa chúng sinh cũng chẳng dễ dàng. Nếu như dễ dàng thì Phật chẳng cần đủ thứ phương tiện pháp môn để giáo hóa, chỉ cần dùng một phương tiện pháp môn, thì có thể độ hết tất cả, lại hà tất phải dùng đủ thứ phương tiện để độ ? Ðủ thấy chúng sinh là khó độ. Phương tiện pháp môn này dùng xong, mà chúng sinh chưa độ được, thì dùng pháp môn khác để độ. Ðều muốn khiến cho chúng sinh này tin pháp này, hiểu pháp này, hành pháp này, chứng pháp này, kiên trì mãi đến khi chúng sinh được độ mới thôi. Cho nên, dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, khiến cho chúng sinh thành thục quả vị Phật.
Lại có lối giảng khác, là dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để giáo hóa đủ loại chúng sinh. Vì căn tánh của chúng sinh khác nhau, cho nên phải dùng đủ thứ phương tiện pháp môn. Loại chúng sinh nào thì dùng pháp môn đó để giáo hóa, cho nên nói đủ thứ phương tiện khiến thành thục.
Trong hai lối giảng này, lối giảng sau viên mãn hơn. Lối giảng ở trước là nói, Phật phải dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để giáo hóa một chúng sinh. Ðiểm này có vấn đề : Có phải Phật không biết căn dục của chúng sinh ? Vì Phật biết căn dục của chúng sinh, cho nên mới dùng một phương tiện pháp môn, để độ chúng sinh này, chẳng cần dùng đủ thứ phương tiện pháp môn. Vậy đủ thứ pháp môn, là vì giáo hóa đủ loại chúng sinh. Giáo hóa rồi, còn phải luôn luôn trợ giúp cho chúng sinh này tu hành, tu hành rồi mới được thành thục, thành tựu đạo nghiệp.
‘’Giải thoát này của Tịnh Quang Thần.’’ Vị Ly Cấu Quang Minh Chủ Giá Thần, đắc được môn giải thoát này.
Lại nữa, Chủ Dược Thần Cát Tường, được môn giải thoát, quán khắp tất cả tâm chúng sinh mà siêng nhiếp thủ.
Ðạo lý ở trên chưa nói hết, cho nên lại tiếp tục nói. Vị Cát Tường Chủ Dược Thần, là thần quản lý về dược thảo (cỏ thuốc). Dược có công năng trị bệnh. Có bệnh gì thì phải hốt thuốc đó. Ví như bệnh cảm thì phải uống thuốc giải độc, ho thì uống thưốc cao tỳ bà, mới có công hiệu, thuốc đến thì hết bệnh. Thuốc có thuốc hay và thuốc độc, cho nên phải có Thần đến cai quản. Không có Thần đến quản lý, thì dễ có hại cho chúng sinh.
Vị Thần này tên là Cát Tường. Cát tường tức là bình an chẳng bệnh, thân thể khỏe mạnh, vạn sự như ý. Nếu có bệnh thì có thể uống thuốc này, thì sẽ hết bệnh. Không có bệnh cũng có thể uống thuốc này, uống rồi thì vĩnh viễn chẳng sinh bệnh. Vậy thuốc này là thuốc gì ? Ðó là thuốc hoan hỷ, người người hoan hỷ thì vĩnh viễn chẳng đau bệnh; người người ưu sầu thì luôn luôn đau bệnh. Cho nên hoan hỷ tức là cát tường, chẳng hoan hỷ thì chẳng cát tường.
Người xưa từng nói :
‘’Tự cổ thần tiên chẳng phép mầu,
Luôn sinh hoan hỷ chẳng sinh sầu.’’
Thần tiên là gì ? Tức là người bất tử. Tại sao thần tiên bất tử ? Vì họ ngày ngày sinh hoan hỷ mà chẳng biết sầu muộn. Các bạn muốn trường sinh bất lão chăng ? Vậy thì ngày ngày phải uống thuốc hoan hỷ, tức cũng chẳng nóng giận. Vui cười là linh đan trường sinh bất lão.
Vị Chủ Dược Thần này, quán sát khắp tất cả bệnh của chúng sinh. Nếu người có bệnh tham, thì cho uống thuốc ‘’giới‘’, nếu người có bệnh sân, thì cho uống thuốc ‘’định’’, nếu có người bệnh si, thì cho uống thuốc ‘’huệ’’. Thuốc hay giới định huệ này, chuyên trị bệnh nhiệt tham sân si.
Bệnh tham sân tương đối còn dễ trị, chỉ có bệnh si khó trị nhất. Bệnh si là gì ? Ví như có người khởi vọng tưởng, chẳng muốn học mà muốn đỗ trạng nguyên, chẳng trồng trọt mà muốn gặt hái ngũ cốc, chẳng tu hành mà muốn khai ngộ, đó là bệnh si. Tâm của người si vọng tưởng ước rằng :
‘’Hoa nở mãi đừng bao giờ tàn,
Trăng rằm sáng mãi đừng khuyết,
Nước sông ngòi ao hồ đều hóa thành rượu,
Lá cây trong rừng đều biến thành tiền.’’
Ðó là bệnh si, cũng có thể nói là bệnh tâm lý biến thái.
Vị Thần này, nhiếp tất cả chúng sinh si tâm vọng tưởng, đến con đường bằng phẳng bồ đề đại đạo, nói với họ : ‘’Hãy tỉnh dậy ! Ðừng nằm mộng giữa ban ngày.’’ Nhân sinh tức là mộng, ngày nào thức tỉnh thì ngày đó giác ngộ. Vị này đắc được môn giải thoát siêng nhiếp thủ.
Chủ Dược Thần Chiên Ðàn Lâm, được môn giải thoát, dùng quang minh nhiếp thủ chúng sinh, khiến cho người thấy được chẳng luống qua.
Vị Chiên Ðàn Lâm Chủ Dược Thần. Chiên đàn là tên cây, cây này có hương thơm đặc biệt; rễ, cành và hoa đều có thể chế thành dầu thơm, hương thơm tỏa ra hàng mấy dặm, còn có tác dụng làm thuốc. Thuốc phân ra : Hàn, nhiệt, ôn, bình, bốn loại. Ví như Xuyên quân là dược tính hàn, có tác dụng làm giảm bớt, có thể trị như thần, gọi là mãnh tướng. Cam thảo là thuốc bình hòa, trị được trăm chất độc gọi là Cát lão. Tê giác là thuốc giải nhiệt. Nhân sâm là thuốc bổ. Có bệnh gì thì dùng thuốc đó để đối trị, phải hiểu chứng bệnh và biết rõ tính thuốc, thì dù thuốc độc cũng là tiên đan (thuốc tiên), nếu không thì thuốc tiên cũng biến thành thuốc độc, lầm lỡ mạng sống của người.
Vị Chủ Dược Thần này, minh bạch cảnh giới của Phật, dùng quang minh để nhiếp thủ chúng sinh, khiến cho tâm niệm của chúng sinh không luống qua, mà đắc được diệu dụng, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Chủ Dược Thần Ly Trần Quang Minh, được môn giải thoát, dùng tịnh phương tiện, diệt tất cả phiền não của chúng sinh.
Vị Ly Trần Quang Minh Chủ Dược Thần này, lìa khỏi sự nhiễm ô thế gian, mà đắc được quang minh thanh tịnh. Vị này dùng phương tiện pháp môn thanh tịnh, để diệt trừ tất cả phiền não của chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được quang minh thanh tịnh, trừ khử sạch bệnh ngu si phiền não, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Chủ Dược Thần Danh Xưng Phổ Văn, được môn giải thoát, dùng tiếng đồn lớn làm tăng trưởng vô biên biển căn lành.
Vị Danh Xưng Phổ Văn Chủ Dược Thần này, tiếng đồn rất lớn, xa gần đều nghe. Ở trong chúng Chủ Dược Thần, vị này rất có danh vọng, ai cũng đều biết. Vì thuốc của vị này trị được tập khí mao bệnh của chúng sinh, hết thảy đều sinh ra đủ thứ căn lành. Vị này đắc được cảnh giới của Phật, dùng tiếng đồn lớn để trị bệnh chúng sinh, khiến cho chúng sinh nghe được tiếng đồn của Ngài mà phát tâm bồ đề, làm tăng trưởng vô biên biển căn lành, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Hôm nay là ngày đầu tiên chúng ta cử hành niệm Phật thất. Trong bảy ngày này, mọi người tụ hội lại với nhau, đều là có duyên cùng nhau thành tâm niệm ‘’Nam mô A Di Ðà Phật’’, đây là cơ hội khó có được, đừng để luống qua. Cho nên người tin Phật mượn sự nhàn rỗi trong sự bận rộn để tham gia niệm Phật.
Tại sao phải tham gia niệm Phật thất ? Vì dùng sức của một người niệm Phật có lúc sẽ gián đoạn, đề chẳng lên niệm này. Mọi người niệm với nhau thì không thể gián đoạn. Do đó :
‘’Niệm Phật niệm được chẳng gián đoạn,
Miệng niệm Di Ðà thành một phiến,
Tạp niệm chẳng sinh đắc tam muội,
Vãng sinh Tịnh Ðộ chắc có phần,
Cuối cùng nhàm chán khổ Ta Bà,
Mới dứt tâm niệm cõi hồng trần,
Bèn cầu vãng sinh cõi Cực Lạc,
Buông bỏ nhiễm niệm quy tịnh niệm.’’
Trong bảy ngày này, chúng ta phải đắc được ‘’Niệm Phật tam muội’’, thì mới chẳng lãng phí công phu. Càng khổ càng phải niệm, càng khó càng phải niệm. Ðừng sợ khổ ! Ðừng sợ khó ! Ðừng coi trọng cái túi da hôi thối này. Ngồi xuống thì cảm thấy lưng đau, đi thì cảm thấy chân đau, niệm nhiều thì cảm thấy cổ khô và khan tiếng, chịu không thấu. Chịu không thấu là ai ? Hà tất xem cái túi da hôi thối này quá quý trọng ? Hãy vì pháp mà quên mình ! Thân này là giả, là vô thường, đến lúc nó cũng sẽ bỏ đi.
Bây giờ bạn khách sáo với nó, bảo hộ nó, thương tiếc nó, chẳng muốn nó chịu lạnh, chẳng muốn nó đói, chẳng muốn nó khát, càng chẳng muốn nó bệnh. Bạn trợ giúp nó không ngừng, coi chừng nó. Song, thời gian lâu dần thì nó từ từ suy giảm từng bộ phận, mắt nhìn chẳng rõ ràng, tai nghe chẳng rõ, cho đến tứ chi chẳng linh hoạt, thậm chí chẳng làm gì được. Ðến lúc đó bạn càng đối với nó tốt, nó cũng chẳng nghe sự sai khiến của bạn, chẳng nghe lời bạn. Vì vậy, cho nên chúng ta phải thừa lúc thân thể còn khỏe mạnh, thì cố gắng tinh tấn niệm Phật, phải mượn cái giả tu cái thật. Ðiểm này các bạn nên chú ý.
Có người nói : ‘’Năm ngoái tôi tham gia niệm Phật thất, chẳng có cảm ứng gì, năm nay tôi không tham gia nữa.’’ Ðây là quan niệm sai lầm. Chính vì năm ngoái chẳng đắc được diệu dụng gì, cho nên năm nay càng phải nỗ lực niệm Phật, thì nhất định sẽ đắc được diệu dụng. Người tu đạo phải tinh tấn hướng về trước, đừng thối lùi về sau, phải ngày càng tinh tấn, phải ngày càng thành tâm. Như thế thì mới có sự thành tựu.
Hai vị Tỳ Kheo ba bước một lạy, vì thế giới hòa bình, lạy ở trong mưa trong gió, cũng chẳng cảm thấy là khổ, đó là cảm ứng sự thành tâm. Các bạn niệm Phật ở trong phòng, chẳng thể nói là khổ, cho nên phải nỗ lực niệm Phật, niệm được cảnh giới ‘’Niệm Phật tam muội‘’, thì mới có công đức. Mọi người hãy nhất tâm nhất ý niệm !
Chủ Dược Thần Mao Khổng Hiện Quang, được môn giải thoát, đại bi tràng chạy nhanh đến tất cả cảnh giới bệnh.
Vị Mao Khổng Hiện Quang Chủ Dược Thần này, mỗi lỗ chân lông của Ngài đều hiện ra đại quang minh. Quang minh này, khéo về chữa trị bệnh tật của tất cả chúng sinh. Bất cứ chứng bệnh gì, chỉ cần quang minh này chiếu đến thì sẽ khỏi. Vị Dược Thần này đắc được đại bi tràng, cũng là từ bi tràng. Từ là ban vui, bi là cứu khổ. Từ bi hỷ xả là bốn tâm vô lượng của Bồ Tát. Hết thảy tất cả căn lành, đều từ bốn tâm vô lượng này sinh ra. Nhất là tâm từ càng quan trọng, trong sớ văn có nói :
‘’Dùng sức từ căn lành,
Phóng nguyệt ái đẳng quang,
Thân tâm hai bệnh vừa niệm liền diệt.’’
Tâm từ là mẫu thể của căn lành, nếu chẳng có tâm từ thì tất cả căn lành không thể tăng trưởng, cho nên phải tu ‘’Từ tâm tam muội,’’ mới tăng trưởng căn lành được.
Tất cả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và chư Phật, đều từ tâm từ mà thành tựu. Tâm từ hay sinh căn lành, có công đức căn lành thì sẽ chứng Phật quả. Cho nên, từ bi là pháp môn căn bản nhất, quan trọng nhất của người tu đạo. Thường dùng tâm từ bi để hành bố thí, thì công đức sẽ vô lượng vô biên, cho đến Bát Nhã cũng lại như thế. Do đó, có thể biết tâm từ bi là hạnh môn quan trọng nhất, cho nên người tu đạo phải:
‘’Lấy từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa.’’
Người hành Bồ Tát đạo phải đầy đủ từ bi hỷ xả bốn tâm vô lượng. Dùng bốn tâm vô lượng này làm gốc, thì tất cả căn lành sẽ sinh ra. Sinh ra rồi thì một thứ thần thông diệu dụng cũng đầy đủ, đây đều có mối quan hệ với nhau. Thần thông diệu dụng chẳng phải vô duyên cớ mà có, có tu hành mới có được. Các bạn nghĩ muốn có thần thông diệu dụng chăng ? Thì hãy tu từ bi hỷ xả bốn tâm vô lượng. Khi nào tu viên mãn thì lúc đó sẽ có thần thông. Vì thế, công phu tu hành là “cước đạp thật địa”, chứ chẳng phải may mắn mà có được.
Từ tức là Phật, Phật tức là từ, lại có thể nói từ tức là pháp môn đại thừa, pháp môn đại thừa cũng chẳng vượt ra khỏi từ này. Vì thế nói từ là hạnh môn quan trọng nhất. Nếu lìa bỏ từ bi thì miễn bàn. Các bạn thấy đó, Ðức Phật tu hạnh môn ‘’Từ tâm tam muội.’’ và ‘’Nguyệt ái tam muội.’’
Bây giờ dùng công án để giải thích, gì là ‘’Từ tâm tam muội‘’? Ðức Phật có vị đệ tử thông minh nhất đó là Ðề Bà Ðạt Ða (anh em chú bác với Ðức Phật). Tuy Ðề Bà Ðạt Ða thông minh, nhưng tâm đố kỵ quá nặng, ông ta muốn hại chết đức Phật để tự mình làm Phật, nên xúi dục vua A Xà Thế thả voi say để hại chết đức Phật. Ðức Phật bèn nhập ‘’Từ tâm tam muội’’, duỗi năm ngón tay ra hóa thành năm con sư tử ! Sư tử hống lên một tiếng, thì lập tức voi say không dám hoành hành nữa, mà cúi đầu quỳ xuống, bị đức Phật hàng phục.
Phật nói với đệ tử : ‘’Lúc đó, ngón tay của ta hóa thành sư tử, đó là do sức căn lành mà thành tựu, ta dùng tâm đại từ bi để hàng phục voi say.’’
Lại dùng công án nữa để giải thích, gì là ‘’Nguyệt ái tam muội‘’? Khi Phật tại rừng Sa La song thọ, ở trong định quán sát thấy vua A Xà Thế mắc bệnh nặng muốn tắt thở (vua A Xà Thế phạm trọng tội : Giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, phá hoà hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu). Phật mới nhập ‘’Nguyệt ái tam muội’’, phóng đại quang minh. Thứ quang minh này mát mẻ giống như ánh sáng mặt trăng, chiếu đến thân vua A Xà Thế, ông ta cảm thấy mát mẻ vô cùng, bệnh lập tức khỏi ngay.
Trong pháp bốn mươi hai tay và mắt, có một tay gọi là Nguyệt tinh ma ni thủ, hay trừ khử tất cả bệnh nhiệt. Chân ngôn rằng : ‘’Úm, tô tất địa yết lý. Tát phạ hạ,’’ có hiệu quả không thể nghĩ bàn.
Vua A Xà Thế khỏi bệnh rồi, mới hỏi Kỳ Bà (ông ta là bác học đa văn) : Gì gọi là ‘’Nguyệt ái tam muội ?‘’ Phật dùng ‘’Nguyệt ái tam muội‘’ chữa lành bệnh của ta, ta chẳng hiểu đạo lý ‘’Nguyệt ái tam muội,’’ ông hãy vì ta nói được chăng ? Kỳ Bà nói : ‘’Nguyệt ái tam muội‘’ có sáu nghĩa :
1). Ánh sáng của mặt trăng, khiến cho hoa Ưu bát la nở tươi đẹp rực rỡ. Nguyệt ái tam muội cũng như thế, khiến cho tất cả chúng sinh mở rộng tâm lành, phát triển sâu xa bồ đề tâm, vĩnh viễn chẳng thối chuyển.
2). Ánh sáng của mặt trăng, khiến cho người đi đường hoan hỷ, phát ra ánh sáng vui mừng. Nguyệt ái tam muội khiến cho người tu tập đạo Niết Bàn đều hoan hỷ, ai tu tập Phật pháp, thì người đó bèn sinh tâm hoan hỷ.
3). Từ mồng một cho đến ngày rằm, đoạn thời gian này, ánh sáng của mặt trăng càng ngày càng sáng, càng ngày càng tròn đầy. Nguyệt ái tam muội cũng khiến cho căn lành của tất cả chúng sinh tăng trưởng.
4). Từ ngày 16 đến 30, đoạn thời gian này ánh sáng mặt trăng càng ngày càng giảm bớt, nguyệt ái tam muội cũng khiến cho phiền não của tất cả chúng sinh giảm bớt.
5). Ánh sáng mặt trăng hay trừ khử sự bực tức, tức cũng là trừ sạch sự nóng bức. Nguyệt ái tam muội hay trừ khử bệnh nhiệt độc tham não của tất cả chúng sinh, khiến cho tâm được mát mẻ.
6). Ánh sáng mặt trăng là vua trong các vì sao, như cam lồ, ai ai cũng ưa thích. Nguyệt ái tam muội là vua trong các điều thiện, cũng ví như cam lồ hay khiến cho trong tâm của tất cả chúng sinh phát sinh cảm giác vui thích.
Ðây là Kỳ Bà trả lời cho vua A Xà Thế, hỏi về đạo lý nguyệt ái tam muội. Bây giờ giải thích đạo lý : ‘’Thân tâm hai bệnh, vừa niệm liền diệt.’’ Thân có ba bệnh tức là giết hại, trộm cắp, tà dâm. Tâm có ba bệnh tức là tham sân si. Niệm từ tâm tam muội và nguyệt ái tam muội, thì sẽ làm cho hai bệnh này tiêu diệt mà đắc được mát mẻ. Người khoẻ mạnh, không những thân khoẻ mạnh, mà tâm cũng phải khoẻ mạnh. Học Phật pháp thì hay khiến cho thân tâm đều khoẻ mạnh. Tham thiền đả tọa là khiến cho sinh lý khỏe mạnh, nghiên cứu kinh điển khiến cho tâm lý kiện toàn, cho nên nói Phật pháp là thuốc diệu vô thượng, khiến cho thân tâm khoẻ mạnh.
Vị Mao Khổng Hiện Quang Chủ Dược Thần này, khiến cho tất cả chúng sinh có bệnh hoạn, thấy được quang minh của Ngài rồi, thì hết thảy bệnh đều khỏi hẳn. Thân tâm chẳng có bệnh, thì tinh thần mới thoải mái, sinh hoạt an lạc, vị này đắc được môn giải thoát này.
Chủ Dược Thần Phá Ám Thanh Tịnh, được môn giải thoát, chữa trị tất cả chúng sinh mù tối, khiến cho khai mở mắt trí huệ thanh tịnh.
Vị Phá Ám Thanh Tịnh Chủ Dược Thần này, hay phá tất cả vô minh, cho nên đắc được thanh tịnh. Thanh tịnh là gì ? Ở trong sớ văn có nói :
‘’Mê lý mê báo, nhị ngu manh minh,
Khởi hoặc tạo nghiệp, bị thọ chúng khổ,
Phật dĩ chánh pháp kim bài, khai kỳ trí nhãn,
Khiến minh kiến tam đế, cố vân thanh tịnh.’’
Mê lý mê báo, tức là chẳng minh bạch chân lý cũng chẳng hiểu quả báo, hai thứ ngu này giống như kẻ mù tối. Manh là người mù, gì cũng chẳng nhìn thấy, minh là tối tăm chẳng linh, là người ngu si, gì cũng chẳng hiểu, thấy cảnh khởi tham ái là kiến hoặc, mê lý khởi phân biệt là ngu si. Hai hoặc này tức là ngu, cho nên nói nhị hoặc manh minh, khởi hoặc tạo nghiệp thì thọ quả khổ.
Trong Kinh Niết Bàn quyển thứ tám, có một đoạn kinh văn : ‘’Bồ Tát Ca Diếp bạch Phật rằng : Thưa Thế Tôn ! Phật tánh vì sao thâm sâu ? Khó thấy khó vào ? Phật nói : Thiện nam tử ! Như trăm người mù, vì muốn trị mắt, đi tìm lương y, lúc đó vị lương y dùng dụng cụ lôi màng mắt ra, dùng một ngón tay chỉ ra, hỏi có thấy chăng ? Người mù đáp, tôi chưa thấy, lại dùng hai ngón, ba ngón tay chỉ ra, mới nói là thấy chút chút.’’
Trăm người mù là người chẳng thấy Phật tánh, cũng là Bồ Tát chẳng minh tâm kiến tánh. Ví như thập địa Bồ Tát, tại mỗi địa phải tu thập độ, thập địa, thành một trăm, cho nên gọi là trăm người mù. Ðây là nói thập địa Bồ Tát chẳng thấy được Phật tánh, cũng chẳng hiểu Phật tánh, đợi khi Phật chỉ thị cho các Ngài rồi, thì mới cảm thấy kỳ quái, các Ngài từ vô thủy đã tu hành, còn bị vô minh hoặc loạn, không thể minh bạch triệt để Phật tánh. Thập địa Bồ Tát còn không dễ gì thấy được Phật tánh, hà huống là Thanh Văn Duyên Giác, càng không dễ gì thấy được Phật tánh.
Có người nói rằng, ba ngón tay là biểu thị ba đại A tăng kỳ kiếp, nhưng Ngài Thanh Lương quốc sư dùng tam đế dụ cho ba ngón tay. Ngón thứ nhất là biểu thị tục đế, ngón thứ hai biểu thị chân đế, ngón thứ ba biểu thị trung đạo. Tục đế là nói, phàm là có đạo tâm, thì chắc chắn sẽ thành Phật, đều có Phật tánh. Chân đế là biểu thị Phật tánh, là đệ nhất nghĩa không. Trung đạo là nói Phật tánh, là hạt giống bồ đề vô thượng.
Chữa trị tất cả chúng sinh mù tối, tức là phá hết thảy đen tối, phá vô minh, thì trí huệ sẽ hiện tiền. Mỗi chúng sinh đều có mắt trí huệ, nếu khai mở mắt trí huệ, thì chiếu thấy năm uẩn đều không, chiếu thật tướng của các pháp, vào sâu tạng kinh, trí huệ như biển. Phàm là người trí huệ như biển, thì chắc chắn biện tài vô ngại, bất cứ kinh điển gì đã học qua, hay chưa học qua, đều giảng giải được. Ðạo lý giảng ra với đạo lý học được, đều hoàn toàn khác nhau, vì những gì học được, là học theo sở học của người khác, chứ chẳng phải là của mình. Nếu người khai mở mắt trí huệ, thì những gì hiểu biết, đều từ trong tự tánh phát huy ra, cho nên chẳng giống với những người khác.
Mắt trí huệ thì phá ngu si, ngu si như là đen tối. Chúng sinh tối tăm chẳng linh, thì chẳng nghe sự giáo hóa, chẳng nghe lời của bất cứ ai, chẳng giữ quy cụ. Hàn Dũ ở trong văn cúng cá sấu có nói : ‘’Nếu ngươi tối tăm chẳng linh, thì ta dùng tên độc bắn chế ngươi.’’ Khi ông ta nổi nóng dọa nạt quả nhiên cá sấu bỏ chạy. Cá sấu là động vật tối tăm chẳng linh, còn có tri giác, huống gì con người là loài linh trong vạn vật. Nếu chẳng giữ quy cụ, chẳng y giáo phụng hành, tức là người tối tăm, tức cũng là người chẳng cách chi giáo hóa. Nho Giáo có nói : ‘’Ðã không thể khiến, lại chẳng nghe lời, là tuyệt vật vậy.’’ Nghĩa là kêu y đi chi phối người, y chẳng có khả năng để chi phối người, nhưng y lại không nghe sự giáo hóa của người, loại người này là vật vô dụng, là vật chết.
Mắt của con người bị mù chẳng quan trọng, bất quá nhìn chẳng thấy vật gì. Tâm mà mù là mao bệnh quan trọng nhất, tức chẳng rõ chân lý, chẳng hiểu nhân quả, tức cũng là mê lý mê báo.
Khai mở mắt trí huệ, thì bất cứ đạo lý gì, cũng đều tiếp nhận mà giải, chẳng có chướng ngại gì cả. Có người nhìn thấy quỷ thần, đó chẳng phải một số nhục nhãn của phàm phu thấy được, mà là do có thần thông. Người tu đạo, ngoài ra còn có ngũ nhãn tức là: Phật nhãn, pháp nhãn, huệ nhãn, thiên nhãn và nhục nhãn. Nhục nhãn trong ngũ nhãn chẳng phải nhục nhãn của phàm phu chúng ta. Nhục nhãn này thấy được vật hữu hình và vật có chướng ngại. Nhục nhãn này là một, còn bốn nhãn kia đều là một, chẳng phải hai hàng cùng nhau. Phàm là người đắc được ngũ nhãn, đều biết cảnh giới này. Người chẳng khai mở ngũ nhãn, thì chỉ hiểu theo ở trong kinh điển đã nói, chớ chẳng biết cứu kính. Cứu kính ngũ nhãn ở tại đâu ? Là ở trong tâm, chẳng lìa khỏi tâm. Tự tâm này vốn có đủ, song tự tâm bị vô minh che lấp, cho nên ngũ nhãn giống như mất hẳn. Nếu tu đạo hoặc tu quán chữ Phạn, quán đi quán lại, thời gian lâu thì sẽ quán thành công, thì sẽ khai mở ngũ nhãn đắc lục thông. Quán như thế nào ? Tức là quán tưởng chữ Phạn, Lục tự đại minh chân ngôn : ‘’Úm ma ni bát mê hùm,’’ sáu chữ Phạn. Lại có thể quán chữ Phạn tâm chú của Chú Lăng Nghiêm : ‘’Ðát điệt tha ! Án, A na lệ, tỳ xá đề …’’ Lại có thể quán bốn mươi hai chữ tự mẫu diệu đà la ni của Hoa Nghiêm. Mỗi chữ đều bao hàm vô biên nghĩa lý. Quán một chữ thành công, thì biết được cảnh giới ngũ nhãn lục thông.
Lúc này có người hỏi : ‘‘Pháp sư ! Thầy thế nào ? Có ngũ nhãn lục thông chăng‘’? Tôi và bạn chẳng giống nhau, chẳng có gì phân biệt. Người chẳng khai mở ngũ nhãn, thì muốn khai mở ngũ nhãn. Song, người đã khai mở ngũ nhãn, cũng có rất nhiều việc phiền phức, có thể nhìn thấy thiên đường, có thể nhìn thấy địa ngục, lại có thể thấy người, thấy quỷ, nhìn thấy rất nhiều sự vật. Nếu không thể nhiếp tâm, định lực không đủ, thì dễ bị ma, đạo lý này các bạn cần phải biết. Việc khai ngũ nhãn chẳng khai ngũ nhãn, đều chẳng quan trọng, đừng cho rằng khai ngũ nhãn thì có nhiều lợi ích. Khai ngũ nhãn giống như xem phim, xem truyền hình, bất quá xem nhiều một chút mà thôi. Lại giống như máy lôi đạt (radar), bất quá phát giác việc trước mà thôi. Người chẳng khai ngũ nhãn, giống như người nhà quê, biết ít thì phiền não ít. Khi lên đến đô thị thì nhìn thấy có ca vũ, có chiếu phim, có đánh bạc, nhìn thấy hàng trăm ngàn việc kỳ quái, thì sinh ra phiền não.
Người đô thị và người nhà quê, vì hoàn cảnh sinh sống chẳng giống nhau, sự cảm thọ cũng chẳng giống nhau, người nhà quê trong tâm chẳng có nhiều phiền não, người khai ngũ nhãn trong tâm có năm tấm lưới lôi đạt (radar), phải luôn luôn chiếu cứ năm máy lôi đạt, sợ máy bay của địch hoặc hỏa tiển đến, đều phải xem giữ máy lôi đạt, một bước cũng chẳng lìa, bạn nói phiền phức chăng ? Nếu chẳng có máy lôi đạt, thì gì cũng chẳng biết, căn bản vật gì cũng chẳng biết, như thế so ra rất tự tại hơn nhiều.
Vị Phá Âm Thanh Tịnh Chủ Dược Thần này, chữa trị tất cả chúng sinh mù tối, khiến cho họ khai mở mắt trí huệ, minh bạch chân lý, hiểu quả báo mà chẳng thọ các sự khổ, vị này đắc được môn giải thoát này.
Chủ Dược Thần Phổ Phát Hống Thanh, được môn giải thoát, hay diễn âm thanh của Phật, nói nghĩa sai biệt của các pháp.
Vị Phổ Phát Hống Thanh Chủ Dược Thần này, phát ra tiếng hống có thể truyền đạt khắp hết thảy pháp giới, chúng sinh trong mê mộng bị tiếng hống đánh thức, do đó mau làm việc cần làm trong ngày, giống như chúng ta sáng sớm đánh bản gỗ, đó là vô tình thuyết pháp, người tu đạo phải tinh tấn tu học, không thể tham ngủ, ngủ là một lối đọa vào địa ngục.
Vị Chủ Dược Thần này, đắc được môn giải thoát, hay diễn âm thanh của Phật, nói nghĩa sai biệt của các pháp.
Âm thanh của Phật là gì ? Tức là tất cả âm thanh của thế gian, đều là tướng lưỡi rộng dài của Phật. Nếu nói chẳng phải âm thanh của Phật, thì bạn nói là âm thanh gì ? Có người nói : ‘’Người có âm thanh của người, ngựa có âm thanh của ngựa, bò có âm thanh của bò.’’ Không sai, mỗi loài đều có âm thanh của mỗi loài. Song, đó đều là thần thông diệu dụng của Phật biến hóa làm ra. Giống như thế giới Cực Lạc ‘’Chim Bạch hạc, Khổng tước, Oanh vũ, Xá lợi, Ca lăng tần già, Cộng mệnh, các loài chim, sáu thời phát ra âm thanh hòa nhã, diễn nói pháp: Năm căn, năm lực, bảy bồ đề phần, tám thánh đạo. Những pháp như thế, đều do Phật A Di Ðà muốn khiến cho pháp âm tuyên lưu mà biến hóa làm ra.’’ Thế giới Cực Lạc là như thế, thế giới Ta Bà của chúng ta cũng như thế. Nếu biết nghe, thì tất cả âm thanh đều là âm thanh của Phật, chẳng biết nghe, thì tất cả âm thanh đều là âm thanh của quỷ.
Các pháp là gì ? Tức là: ‘’Sắc pháp mười một, tâm pháp tám, năm mươi mốt tâm sở pháp, hai mươi bốn pháp bất tương ưng, sáu pháp vô vi, cộng thành một trăm pháp.’’ Trăm pháp này tức cũng là các pháp, các pháp ở đây là nói một pháp, chứ chẳng phải nói nhiều pháp. Song, ý nghĩa một pháp này chẳng đồng, do đó:
‘’Một gốc tán làm vạn thù,
Vạn thù quy về một gốc.’’
Một có thể làm vô lượng, vô lượng có thể làm một, cho nên nói các pháp sai biệt.
Sai biệt là gì ? Tức là có sự phân biệt. Một làm vô lượng, tức là nhiều pháp; vô lượng làm một tức là một pháp. Một chẳng ngại nhiều, nhiều chẳng ngại một. Một pháp tức là tất cả các pháp, tất cả các pháp tức là một pháp. Chiếu theo Phật pháp mà nói, thì có tám vạn bốn ngàn pháp môn là các pháp, các pháp mà phân biệt ra, thì cùng tận kiếp cũng khó nói hết được.
Tu pháp môn tĩnh lự (thiền) mà thành công rồi, thì sẽ minh bạch tất cả các pháp, đây gọi là :
‘’Chỉ đắc được gốc, chớ lo ngọn.’’
Ðắc được gốc rễ, thì chẳng lo về ngọn ngành. Gốc tức là một pháp. Do đó :
‘’Ðược một vạn sự đều xong,’’
Ðắc được số ‘’một‘’ này rồi, thì việc gì cũng chẳng còn nữa. Song, đắc được số ‘’một‘’ vẫn chưa xong. Có người nói: ‘’Sao lại chưa xong ? Trời được một nên trời thanh. Ðất được một nên đất yên.’’ Ý nghĩa tôi nói chưa được, tức là đem số ‘’một‘’ biến thành số ‘’O.’’ Nếu minh bạch ý nghĩa số ‘’O‘’ thì đắc được gốc. Cho nên chúng ta là người tu đạo, thì phải tu số ‘’O‘’ này, tu số ‘’O’’ cho viên mãn, thì tất cả mọi vấn đề, đều chẳng có vấn đề gì cả, chẳng có vấn đề gì cả, tức là buông xả hết, thì chẳng có quái ngại.
Chủ Dược Thần Tế Nhật Quang Tràng, được môn giải thoát, làm thiện tri thức cho tất cả chúng sinh, khiến cho người thấy đều sinh căn lành.
Vị Chủ Dược Thần Tế Nhật Quang Tràng này, có thể che lấp ánh sáng mặt trời và mặt trăng, giống như vầng mây che mặt trời. Còn có lối giảng khác là tràng báu của vị Chủ Dược Thần này, phóng ra ánh sáng, còn sáng hơn là mặt trời. Một câu trong kinh văn có rất nhiều ý nghĩa, xem kiến giải của mỗi người như thế nào, do đó :
‘’Nhân giả kiến nhân, trí giả kiến trí’’.
Nghĩa là :
Người kiến giải sâu thì thấy sâu,
Người nông cạn thì thấy cạn.
Tôi là người nông cạn, do đó kiến giải cạn. Con người tôi chẳng phải nhân của nhân từ, mà là một người như bao nhiêu người, cho nên chỗ thấy với chỗ thấy của một số người đều giống nhau. Nói về trí huệ thì đừng nói đến, chẳng phải là khiêm nhường, cũng chẳng phải là khách sáo. Mỗi người đều có sự hiểu biết của người đó, cho nên tôi cũng như thế.
Vị Chủ Dược Thần này, Ngài minh bạch một phần cảnh giới của Phật, Ngài hay vì tất cả chúng sinh mà làm thiện tri thức. Thiện tri thức thì hay khiến cho tất cả chúng sinh, xa lìa mười điều ác, mà tu hành mười điều thiện, tức cũng là “đừng làm các điều ác mà làm các điều lành”. Ðây là cảnh giới của một vị đại Bồ Tát, nếu chẳng phải là Bồ Tát thì không làm thiện tri thức của tất cả chúng sinh. Tất cả chúng sinh ở đây là bao quát : Phi, cầm, tẩu, thú, thai, noãn, thấp, hóa, Ngài đều tùy theo loài hóa hiện mà vì họ nói pháp.
Thiện tri thức phân làm ba hạng, đó là: Ðại, trung và tiểu. Ðại thiện tri thức là quán căn cơ mà thí giáo, vì người nói pháp. Trung thiện tri thức là tùy lòng mong muốn của chúng sinh, mà vì họ nói pháp, khiến cho chúng sinh cải biến tâm ô nhiễm, thành tâm thanh tịnh. Tiểu thiện tri thức hay khiến cho chúng sinh, trừ khử tập khí mao bệnh nhỏ.
Vị Chủ Dược Thần này là đại thiện tri thức, hay khiến cho người thấy được đều sinh căn lành, hoặc là nghe nói pháp bèn sinh tâm từ bi hỷ xả, đầy đủ bốn tâm vô lượng, thì sẽ gieo trồng đầy đủ căn lành.
Có người giảng đạo lý chánh tri chánh kiến, hay làm thiện tri thức của chúng sinh, có người giảng đạo lý tà tri tà kiến, chỉ làm ác tri thức của chúng sinh. Ác tri thức hay dẫn chúng sinh đi vào đường tà, khiến cho người chẳng có tâm tham, thì sinh ra tâm tham, khiến cho người chẳng có tâm sân, thì sinh ra tâm sân, khiến cho chúng sinh chẳng có tâm si, thì sinh ra tâm si, khiến cho chúng sinh chẳng có tâm đố kỵ, thì sinh ra tâm đố kỵ, khiến cho chúng sinh chẳng có vọng tưởng, thì sinh ra vọng tưởng, đó là hành vi của ác tri thức, trái ngược lại với thiện tri thức. Công hiệu của thiện tri thức là chúng sinh có tham sân si thì khiến cho họ tiêu diệt, chúng sinh có đố kỵ vọng tưởng, thì khiến cho tiêu diệt. Dùng đạo lý chân chánh để giáo hóa, khiến cho họ cải tà quy chánh.
Khi tôi ở tại quê hương miền Ðông bắc Trung Quốc, thì có gặp một thứ ngoại đạo, chuyên môn dạy tín đồ làm hoàng đế. Họ nói: ‘’Nếu tin theo đạo của ta, thì tương lai sẽ được làm hoàng đế, nếu chẳng tin đạo của ta, thì muốn làm dân cũng chẳng làm được.’’ Thứ tư tưởng tà kiến mê hoặc dân chúng này, khiến cho họ sinh tâm tham dục, đó là ác tri thức. Cho nên, người tu đạo phải có con mắt chọn pháp, thấu rõ chánh tà thị phi, phải đạo thì tiến, trái đạo thì lùi, bằng không thì nguy hại suốt đời, chẳng đắc được chánh đạo.
Vị Chủ Dược Thần này, vì chúng sinh mà làm thiện tri thức, khiến cho chúng sinh phát tâm bồ đề, tương lai sẽ thành Phật, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Dược Thần Minh Kiến Thập Phương, được môn giải thoát, thanh tịnh đại bi tạng, hay dùng phương tiện, khiến cho chúng sinh, sinh tâm tin hiểu.
Vị Chủ Dược Thần Minh Kiến Thập Phương này, vì Ngài có trí huệ quang minh, cho nên thấy được tất cả chúng sinh trong mười phương, tức cũng hiểu rõ căn tánh của tất cả chúng sinh trong mười phương. Ngài đắc được thanh tịnh đại bi sám. Thanh tịnh tức là chẳng có nhiễm ô, nhiễm ô tức là có ái và kiến. Ðại bi tức là đại từ đại bi. Tạng tức là bao dùng hàm tạng. Bao dung đại từ, hàm tạng đại bi, từ hay ban vui, bi hay cứu khổ. Tại sao phải nói thanh tịnh đại bi tạng ? Vì chẳng có nhiễm ô kiến và ái. Ái mà một số chúng sinh minh bạch là ái nhiễm ô, chứ chẳng phải ái thanh tịnh. Kiến (sự thấy) mà một số chúng sinh minh bạch, là tà tri tà kiến, chứ chẳng phải chánh tri chánh kiến. Từ ái thanh tịnh ở đây, chẳng có chút tạp niệm nhiễm ô; kiến giải thanh tịnh ở đây, chẳng tạp lộn tơ hào tư tưởng bất chánh đáng, cho nên mới gọi là thanh tịnh đại bi tạng.
Từ ái xuất thế gian và ái nhiễm ô của thế gian, chỉ trong một niệm. Một niệm thiện thì thanh tịnh, một niệm ác thì nhiễm ô. Niệm nhiễm ô và thanh tịnh là một niệm, chứ chẳng phải hai niệm. Trong một niệm chẳng nhiễm ô, tức là thanh tịnh; chẳng thanh tịnh tức là nhiễm ô. Cho nên ái của từ bi, hay cứu chúng sinh lìa khổ được vui, đó tức là công đức. Có công đức từ ái chúng sinh rồi, thì mới có thể dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để khiến cho chúng sinh sanh tâm tin hiểu. Chúng sinh chẳng có tâm tin, thì khiến cho họ sinh tâm tin, chúng sinh chẳng thấu hiểu, thì khiến cho họ thấu hiểu. Vị Chủ Dược Thần này, minh bạch cảnh giới này, đắc được môn giải thoát này.
Chủ Dược Thần Phổ Phát Oai Quang, được môn giải thoát, phương tiện khiến cho họ niệm Phật, để tiêu diệt bệnh tật của tất cả chúng sinh.
Vị Chủ Dược Thần Phổ Phát Oai Quang, có quang minh oai đức chiếu soi khắp, khiến cho chúng sinh thấy được thứ oai quang này, thì trừ khử đi tất cả bệnh tật. Ngài đắc được một phương tiện pháp môn, hay khiến cho chúng sinh, sinh tâm tin niệm Phật, tâm nguyện niệm Phật, tâm hạnh niệm Phật. Tóm lại, trước hết Ngài khiến cho chúng sinh hoan hỷ, sau đó dạy chúng sinh niệm Phật, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Hiện nay chúng ta đang đả Phật thất, đây là pháp môn phương tiện. Có người nói: ‘’Pháp môn niệm Phật chẳng phải là pháp môn phương tiện.’’ Bất cứ một pháp môn nào, đều có thể nói là pháp môn phương tiện, cũng có thể nói đều là chẳng phải pháp môn phương tiện. Vì Phật pháp là hoạt động, chẳng phải cố định, cho nên pháp chẳng có nhất định. Nếu nói Phật pháp nhất định, thì biến thành chấp trước, đừng nên chấp trước, tất cả đều chẳng chấp trước phương tiện niệm Phật.
Trước kia đả Phật thất, lúc bắt đầu ở Trung Quốc, có rất nhiều người đắc được ‘’Niệm phật tam muội’’. ‘’Niệm Phật tam muội‘’, tức là cảnh giới nhất tâm bất loạn, một bụi trần không nhiễm. Hiện tại ở tây phương đề xướng pháp môn tịnh độ, cũng dạy người phát tâm niệm Phật, song pháp môn niệm Phật ở đây, chẳng phải là niệm một niệm là thôi, mà là niệm từ từ, niệm Phật niệm đến lúc gió thổi chẳng vào, mưa rơi chẳng lọt, thì sẽ chuyển được cảnh giới sáu trần. Ví dụ như hiện nay ở tại Phật đường, có các trẻ con chơi ồn ào, nếu bạn đắc được ‘’Niệm Phật tam muội‘’, thì cảm thấy rằng đều đang niệm Phật, đang niệm A Di Ðà Phật. Trong pháp môn niệm Phật, mà niệm một tiếng Phật, thì diệt trừ được tội nặng tám mươi ức kiếp sinh tử, cho nên công đức niệm Phật không thể nghĩ bàn. Song, phải thành tâm để niệm Phật, phải đem chân tâm ra để niệm Phật, thì mới có cảm ứng.
Hiện tại, Phật giáo ở tây phương mới bắt đầu, nhất định phải đào tạo những đại Bồ Tát, đại Tổ Sư, đại Thánh nhân, những đại Bồ Tát, đại Tổ sư, đại Thánh nhân ở trong chùa Kim Sơn. Ai chẳng sợ khổ, chẳng sợ khó, chân thật tu hành, dụng công đến cực điểm, thì nhất định sẽ thành tựu. Bất luận tu thiền, niệm Phật, tụng kinh hoặc trì chú, tu pháp môn nào, cũng phải nhận chân tu hành, tơ hào đừng cẩu thả, dù một giây phút cũng đừng bỏ qua, tinh tấn chuyên tâm nhất chí, thì chắc chắn sẽ thành công. Tại sao chúng ta chẳng thành tựu ? Là vì chẳng có dụng công tu hành như các đại Bồ Tát, đại tổ sư, đại Thánh nhân. Người tu hành, nếu mà lười biếng giải đãi, thì tự mình lừa dối mình, do đó có câu:
‘’Ông tu ông đắc,
Bà tu bà đắc,
Không tu không đắc.’’
Cho nên, tu hành là chân thật công phu, tu một phần thì có ích lợi một phần, tiến về trước một bước, cách gần Phật một bước. Dũng mãnh tinh tấn thẳng đến bờ kia.
Niệm Phật hay chữa trị được các bệnh tật, bất cứ bệnh gì cũng đều có thể chữa, do đó một niệm trăm bệnh tiêu trừ. Có người nói : ‘’Có thật chăng ! Ông thầy này phải chăng là gạt người ! Chẳng niệm Phật thì chưa có bệnh, bây giờ đả Phật thất, ngược lại có bệnh, làm sao có thể diệt trừ các chứng bệnh ? Ðó chẳng phải là gạt người chăng‘’? Vì sinh bệnh mới diệt bệnh. Nếu chẳng sinh bệnh thì làm sao diệt bệnh ? Các bạn hãy nghĩ kỹ xem, sinh bệnh rồi sau đó chẳng còn nữa, đó tức là diệt bệnh. Nói cho bạn biết : Chẳng những sẽ sinh bệnh mà còn phải chết, cho nên phải mau dụng công tu hành, đến lúc quỷ vô thường đến, thì muốn tu hành cũng tu chẳng kịp nữa. Ðến lúc đó, chẳng làm chủ được nữa, khổ sở khó tả. Sinh bệnh là báo cho biết trước, kêu bạn phải mau tu hành, dụng công, đừng bị mê mộng làm mê hoặc, đừng có cái này cũng buông chẳng đặng, cái kia cũng xả không xong. Buông xả được thì sẽ khai ngộ, buông chẳng đặng thì hồ đồ. Ðến lúc chết, buông chẳng đặng cũng phải buông. Tôi thường nói với các bạn bài kệ này :
‘’Khuyên bạn làm thiện,
Bạn nói chẳng có tiền,
Ðây là có cũng không.
Khi tai họa xảy đến,
Thì dùng ngàn vạn,
Ðây là không cũng có.
Nếu nói với bạn làm việc thiện,
Bạn bảo chẳng có thời gian,
Ðây là đi cũng bận;
Một khi hết số tắt thở thì phải ra đi,
Ðây là bận cũng đi.’’
Bạn nghĩ xem, vì sao mà phải tu hành ? Tức là muốn liễu sinh thoát tử, trừ khử đi những phiền não này.
Vị Chủ Dược Thần Phổ Quát Oai Quang này, hay diệt trừ bệnh khổ hoạn nạn của tất cả chúng sinh, cho nên đắc được môn giải thoát này.
Bấy giờ, Chủ Dược Thần Cát Tường, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Chủ Dược Thần, mà nói ra bài kệ.
Lúc đó, vị Chủ Dược Thần Cát Tường, nương oai thần lực của Phật, quán khắp tất cả chúng Chủ Dược Thần, mà nói ra bài kệ, để khen ngợi công đức của Phật.
Trí tuệ Như Lai không nghĩ bàn
Ðều biết tất cả tâm chúng sinh
Hay dùng đủ thứ sức phương tiện
Diệt sạch quần mê vô lượng khổ.
‘’Trí huệ Như Lai không nghĩ bàn.’’ Viên mãn trí huệ của Phật không thể nghĩ bàn. Chúng ta chúng sinh cũng có thứ không thể nghĩ bàn, đó là ngu si, chẳng phân biệt thị phi, chẳng rõ chánh tà, cũng chẳng rõ trắng đen, chẳng phân biệt thiện ác, màu đen nói là màu trắng, màu trắng nói là màu đen, thiện nói là ác, ác nói là thiện, đó là tư tưởng của người ngu si. Còn có một loại người ngu si nữa, không tốt mà họ cho là tốt, tốt mà họ cho là không tốt. Pháp xuất thế nên tu hành, mà họ nói là sai lầm chẳng đúng, pháp thế gian nên buông xả, mà họ cứ khăng khăng ôm giữ chấp trước, đó là chỗ không thể nghĩ bàn của chúng sinh.
Chúng sinh có trí huệ chăng ? Có. Có trí huệ của Phật chăng ? Cũng có, bất quá bị vô minh che lấp mà thôi, cho nên tạm thời chẳng hiện ra. Nếu tu hành thì lập tức sẽ hiện tiền. Giống như ánh sáng mặt trời bị mây che lấp, ánh sáng mặt trời tức là trí huệ của chúng sinh vốn có, vầng mây tức là ngu si. Ngu si là từ trong tham sân si sinh ra, cho nên phải tu giới định huệ, thì tiêu diệt tham sân si.
Chúng ta hết thảy chúng sinh, nếu muốn khôi phục trí huệ vốn có, thì nhất định phải tu giới, tu định, tu huệ. Giới tức là phòng ngừa làm các điều ác, làm các điều lành. Bạn không làm các điều ác tức là sinh định. Bạn hay làm các việc lành thì có công đức. Ðịnh phải có nội công ngoại quả. Bên ngoài phải tu lục độ. Tu lục độ có chút cơ sở thì có định. Cho nên phải dùng công đức bố thí, công đức trì giới, công đức nhẫn nhục, công đức tinh tấn, để trợ giúp thiền định. Thiền định sung túc thì sẽ sinh ra trí huệ. Nếu chẳng có bốn công đức này, thì rất dễ lạc vào đường tà, vì sáu độ này là pháp môn tu hành quan trọng nhất.
Người tu đạo nên nhớ đừng có tâm san tham, phải có tâm bố thí. Xả được, xả được, phải xả thì mới được. Không xả thì không thể được. Do đó, phải tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn. Những pháp môn này đều trợ giúp cho sinh ra định, sau đó do định mà sinh ra huệ. Công phu định lực sâu dày, thì sẽ sinh ra trí huệ. Ðịnh lực sâu dày cũng giống như đọc sách, đọc nhiều rồi thì sẽ có tu dưỡng, cho nên nói:
‘’Học vấn thâm sâu, thì ý khí bình.’’
Tu dưỡng tức là chẳng có tham sân si, chẳng có vô minh. Vô minh tuy chẳng dễ gì đoạn, nhưng có thể khiến cho nó ngày càng giảm bớt, giảm lại giảm đi thì chẳng còn nữa, công đáo tự nhiên thành. Dùng phương pháp gì để giảm bớt vô minh ? Tức là dùng pháp môn Bát Nhã trí huệ, có trí huệ Bát Nhã, thì sẽ phá trừ được đen tối vô minh, hiện ra quang minh.
Cảnh giới không thể nghĩ bàn này, vốn không thể nói, vì không thể nghĩ bàn. Hiện tại tôi trên đầu lại thêm đầu, nói ra mấy câu. Các bạn đừng giống như tôi, cái đầu ở trên cái đầu, lại thêm cái đầu nữa, biến thành ba cái đầu. Hai cái đầu đã không ít, lại thêm ba cái đầu, trở thành ba đầu sáu tay. Các bạn xem ! Thánh tượng của Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng những chỉ có ba đầu sáu tay, mà còn có mười một mặt, ngàn tay ngàn mắt, Bồ Tát Chuẩn Ðề cũng có nhiều tay như thế, nhưng đó là thật có ba cái đầu. Bạn mà gắn lên ba cái đầu là chết, chẳng tác dụng được gì cả.
‘’Ðều biết tất cả tâm chúng sinh’’. Trí huệ của Phật biết được tâm của tất cả chúng sinh. Trong Kinh Kim Cang có nói :
‘’Tất cả chúng sinh,
Có bao nhiêu thứ tâm,
Như Lai đều biết đều thấy.’’
Có bao nhiêu chúng sinh, thì có bấy nhiêu thứ tâm. Làm sao Phật biết được tâm của chúng ta chúng sinh ? Kỳ lạ thật ! Vậy thì chúng ta làm gì, Phật cũng đều biết hết chăng ? Không sai. Chúng sinh làm gì, nghĩ gì, Phật đều biết rõ ràng. Phật chẳng những biết tâm của chúng sinh, mà còn thấy được việc làm của chúng sinh.
Mới vừa hỏi: ‘’Làm sao Phật biết được tâm của chúng sinh‘’? Vấn đề này tạm thời chẳng nói, bây giờ cử ra hai ví dụ khoa học để nói rõ về vấn đề này. Song, ví dụ này vốn chẳng đúng, nhưng vì tôi chẳng có cách gì có thể dùng đúng để ví dụ, chỉ có thể nói cái không đúng. Ví dụ không đúng này là gì ? Tức là máy lôi đạt (radar), công năng của máy lôi đạt, bất cứ có bao nhiêu sóng điện, nó đều có thể thu được, trên gương phát hiện hình ảnh. Lại giống như máy vô tuyến điện, chỉ cần mở đúng tần số, thì tin tức các nước đều thu được.
Ðức Phật là nhà khoa học vĩ đại, chẳng những Ngài có máy lôi đạt (radar) hữu hình, mà còn có máy lôi đạt (radar) vô hình. Máy lôi đạt vô hình này, hiện ra một cách tự nhiên. Trong mỗi tự tánh của chúng sinh, đều có Phật tánh, Phật tánh tức là máy lôi đạt vô hình, song, chúng sinh không thể quan sát, cho nên chẳng biết. Ðức Phật nhìn thấy được máy lôi đạt vô hình, cho nên xưng là nhà khoa học vĩ đại.
Máy lôi đạt vô hình của Phật là gì ? Tức là con mắt trí huệ. Vì mắt trí huệ đầy đủ, nên quán sát được nhân duyên ngoài tám vạn đại kiếp, do đó siêu hơn là máy lôi đạt hữu hình. Phàm là người khai mở ngũ nhãn, tức là trạm máy lôi đạt, biết được nhân duyên ba đời.
Có người nói: ‘’Ví dụ này là sai lầm, hoàn toàn không đúng.’’ Lại có người nói: ‘’Tức nhiên là biết không đúng, tại sao phải đưa ra làm ví dụ‘’ ? Vì tìm chẳng ra ví dụ thứ hai, chỉ có thể dùng nó để làm thí dụ. Hy vọng bạn đưa ra một thí dụ đúng, để nói cho tôi biết. Về sau khi giảng kinh, thì tôi dùng ví dụ đúng đó của bạn để giảng. Hiện tại tôi chẳng biết ví dụ gì đúng để hình dung, chỉ nói cái ví dụ không đúng.
‘’Hay dùng đủ thứ sức phương tiện.’’ Sau khi Phật biết tâm của chúng sinh rồi, thì mới dùng phương tiện để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui, liễu sinh thoát tử, sớm thành Phật đạo. Phật biết trong tâm chúng sinh bị vô minh khóa chặt, mới dùng chìa khóa trí huệ để mở. Cửa trí huệ của chúng sinh mở rồi, thì cửa ngu si đóng lại. Chúng ta người tu hành, tức là tìm chìa khóa trí huệ. Khi nào tìm được thì khi đó sẽ khai mở, cho nên cần phải nỗ lực niệm Phật, dụng công ngồi thiền, tức là phương pháp tìm chìa khóa.
‘’Diệt sạch quần mê vô lượng khổ’’. Quần mê tức là bạn, tôi, họ, tất cả chúng sinh. Phàm là người chưa chứng quả, chưa ra khỏi tam giới, đều là chúng sinh mê. Khổ là gì ? Khổ tức là chẳng hiểu biết chân lý. Nếu hiểu biết chân lý thì khổ chẳng còn nữa. Làm thế nào có thể minh bạch được chân lý ? Thì phải học tập Phật pháp. Học tập Phật pháp như thế nào ? Tức là phải phát tâm trường viễn, suốt thuở vị lai, phát nguyện học tập Phật pháp: ‘’Con muốn đời đời kiếp kiếp xuất gia tu hành, làm Tỳ Kheo hoặc làm Tỳ Kheo Ni; con muốn đời đời kiếp kiếp làm cư sĩ nam hoặc cư sĩ nữ, con muốn đời đời kiếp kiếp huân tu ở trong Phật pháp, chẳng lìa khỏi Phật pháp. Sau khi con minh bạch Phật pháp, thì phải hoằng dương Phật pháp, khiến cho ai ai cũng đều hiểu được chân thật nghĩa của Phật pháp.’’ Phải phát nguyện như thế, thì mới có thể thành tựu. Tu hành chẳng phát nguyện thì giống như hoa nở mà chẳng kết trái, chẳng ích lợi gì.
Diệt vô lượng khổ, nói sao mà dễ quá. Ðức Phật tâm niệm luôn luôn muốn diệt khổ của chúng sinh. Song, khổ của chúng sinh này diệt rồi, thì khổ của chúng sinh kia lại xuất hiện. Khổ của chúng sinh đó diệt rồi, thì khổ của chúng sinh nọ lại hiện ra, giống như sóng, sóng trước diệt rồi, thì sóng sau sinh ra, sinh sinh không ngừng, sóng cũng giống như chúng sinh, vĩnh viễn chẳng gián đoạn. Song, vẫn phải tiêu diệt vô lượng khổ của chúng sinh. Tuy diệt chẳng hết, nhưng nhất định cũng phải diệt. Vì Phật biết khổ của chúng sinh chẳng dễ gì diệt, cho nên muốn làm công việc khó làm này, để giáo hóa chúng sinh.
Hiện tại có người phát tâm cứu thế giới, hạo kiếp (tai nạn lớn của nhân gian) này chẳng phải sức của một người làm được, phải cần sự kết hợp sức lực của mọi người lại, mới có thể vãn hồi hạo kiếp. Song, bạn thì chờ tôi, tôi thì chờ họ, cứ trông chờ với nhau, ai cũng chẳng phát tâm bồ đề, để cứu độ tất cả chúng sinh, thì thế giới này sớm sẽ đến ngày tàn.
Cứu vãn thế giới, ai ai cũng đều có trách nhiệm, chẳng màng có ai làm việc này hay không, tôi trước hết phải tận hết trách nhiệm của mình, chẳng chờ người khác làm. Như thế, thì mới có hy vọng vãn hồi thế giới này, nếu không như thế, thì mọi người chẳng có cơ hội sinh tồn.
Ðại hùng khéo léo khó dò lường
Phàm có làm gì chẳng luống qua
Ðều khiến chúng sinh diệt các khổ
Chiên Ðàn Lâm Thần ngộ như thế.
‘’Ðại hùng khéo léo khó dò lường‘’. Ðại hùng tức là Phật. Vì Phật là đại anh hùng, đại trượng phu, đại đạo sư. Ba tên gọi này chỉ có Phật mới đủ tư cách để thọ nhận. Chúng ta một số chúng sinh, tự cho là anh hùng, tự cho là trượng phu, tự cho là đạo sư, kỳ thật đều chẳng có đủ tư cách. Chỉ có Phật mới đảm đương được tên gọi này.
Thế nào mới gọi là đại anh hùng ? Anh hùng ở đây chẳng phải vung đao múa kiếm, dùng sức phục người, mà là tu hạnh người khác không thể tu, nhẫn điều mà người khác không thể nhẫn, chịu các sự khổ mà người khác không chịu được. Tóm lại, việc mà người khác làm không được mà Ngài đều làm được. Nếu người khác làm được, Ngài cũng làm được; người khác không làm được, Ngài cũng làm không được, thì đó chẳng phải là đại anh hùng.
Giống như đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ba A tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp trồng tướng tốt. Trong thời gian dài như thế chỉ có tinh tấn, chẳng giải đãi. Trong quá khứ, Phật tu đủ thứ khổ hạnh, tuy là khổ nhưng chẳng sinh tâm thối chuyển, cho nên cuối cùng Ngài đã thành Phật, đó là tu hạnh môn mà người khác không thể tu được.
Thế nào là nhẫn nhục được, mà người khác không thể nhẫn ? Giống như đức Phật trong quá khứ tu hành, thì bị vua Ca Lợi chặt đứt tứ chi thân thể, đó là sự nhẫn nhịn mà một số người không thể nhẫn thọ, song Ngài đều nhẫn thọ được, chẳng những nhẫn thọ được, mà còn phát nguyện : ‘’Khi tôi thành Phật, sẽ độ ông trước nhất.’’ Tại sao Phật phát nguyện như thế ? Vì vua Ca Lợi là thiện tri thức của Ngài, trợ giúp Ngài tăng trưởng tâm bồ đề, thành thục đạo quả. Tâm từ bi của Ngài thật là vĩ đại ! Chẳng những chẳng sân hận vua Ca Lợi, ngược lại còn độ vua Ca Lợi trước.
Thế nào là chịu các thứ khổ mà người khác không chịu được ? Chúng ta chẳng biết sám hối, cho rằng một ngày ăn một bữa, ngủ ngồi, là có sự tu hành, cho rằng đó là thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn. Hãy xem đức Phật tu hành ở trong núi Tuyết, mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, mà chẳng cảm thấy khổ, vì pháp quên mình. Chúng ta có sữa bò uống, có gạo ăn, có bánh mì, có rau tươi, muốn ăn mặn thì thêm chút muối, muốn ăn ngon thì thêm chút gia vị, hằng ngày trong đầu óc đều nghĩ món ăn, hôm nay có đậu hũ ăn chăng ? Cứ vọng tưởng về ăn uống, thì làm sao mà tu hành.
Bây giờ đang đả Phật thất, thân đang đi nhiễu Phật, miệng đang niệm Phật, mà tâm thì đi xuống nhà bếp, rằng hôm nay buổi trưa như thế nào ? Có ai đến cúng dường chăng ? Ðó chẳng phải là đả Phật thất, mà là “thực thất”. Chúng ta phải nghĩ xem, đức Phật chịu đựng các thứ khổ, mà người khác không chịu được, đó mới là một vị đại anh hùng, đại trượng phu, đại đạo sư, được làm thầy của chúng ta. Chúng ta có vị thầy anh hùng như thế, thì nên vui mừng, thật là may mắn. Chúng ta nên làm đồ đệ của vị đại anh hùng, nên tranh đệ nhất với đức Phật. Ðức Phật xưa kia chịu khổ như thế, tại sao ta chịu không được ? Chúng ta nhất định phải làm đồ đệ của vị đại anh hùng, mới không hổ thẹn lương tâm.
Phương tiện thiện xảo của Phật nói pháp, là quán sát căn cơ giáo hóa chúng sinh, pháp môn này khó dò lường được. Pháp môn phương tiện của Phật dung, chẳng giống phương tiện pháp môn của chúng ta chúng sinh dùng. Pháp môn phương tiện của Phật dùng, thì có chúng sinh tiếp thọ giáo hóa; phương tiện pháp môn của chúng ta chúng sinh, chẳng có chúng sinh tiếp thọ giáo hóa. Tại sao ? Ðây là vấn đề ‘’duyên‘’, vì Phật kết duyên với chúng sinh, cho nên chúng sinh muốn tiếp thọ sự giáo hóa của Phật; chúng ta chẳng kết duyên với chúng sinh, cho nên chúng sinh chẳng hoan hỷ nghe sự giáo hóa của chúng ta. Từ điểm này mà nhìn, thì chúng ta phải rộng kết chúng duyên, rộng mở cửa phương tiện, chứ chẳng phải cho chúng sinh thêm phiền não.
Phật trong ba A tăng kỳ tu phước tu huệ, trong trăm kiếp trồng ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp. Công đức viên mãn lấy đạo đức để cảm hóa người, chẳng dùng sức bức bách đi chinh phục người, cho nên trong thâm tâm của chúng sinh sinh ra bội phục, đều tôn kính Ngài, tín ngưỡng Ngài. Nho Giáo cũng có nói rằng:
‘’Dùng sức mà phục người,
Thì tâm họ chẳng phục,
Sức chẳng thiện vậy.
Dùng đức phục người,
Thì tâm họ vui vẻ mà thành phục vậy.’’
Từ điểm này thấy rằng, chúng ta phải tu phước tu huệ, mới phục được người. Tu như thế nào ? Tức là cứ làm lợi ích cho mọi người, đó là tu phước; tu trì lợi cho chính mình, đây là tu huệ. Tức là dùng trí huệ Bát Nhã để trợ giúp chính mình, dùng từ bi hỷ xả để giúp đỡ người.
Vậy cứu cánh dùng pháp môn phương tiện nào, để đúng với căn cơ của chúng sinh ? Ðó thì Phật mới biết được, chúng ta chúng sinh chẳng có trí huệ, cho rằng là đúng, ngược lại biến thành không đúng; cho rằng là không đúng, ngược lại biến thành đúng. Cho nên, pháp môn thiện xảo phương tiện rất khó dò lường.
‘’Phàm có làm gì chẳng luống qua.’’ Nhất cử nhất động của Phật, cho đến lời nói việc làm, đều là lợi ích chúng sinh, cho nên phàm là làm gì, đều chẳng luống qua vô dụng. Chúng ta chúng sinh làm gì cũng đều luống qua, uổng phí công phu, song chính mình chẳng biết được.
‘’Ðều khiến chúng sinh diệt các khổ.’’ Hy vọng duy nhất của Phật là, muốn giáo hóa chúng sinh lìa khổ được vui. Mục đích duy nhất của Phật là, muốn cứu được chúng sinh liễu sinh thoát tử, như thế thì, tất cả khổ não của chúng sinh chẳng còn nữa.
‘’Chiên Ðàn Lâm Thần ngộ như thế.’’ Các đạo lý như thế, các cảnh giới như thế, vị Chủ Dược Thần Chiên Ðàn Hương Lâm, minh bạch nên vào được môn giải thoát này.
Ông quán các Phật pháp như thế
Thuở xưa siêng tu vô lượng kiếp
Mà trong các cõi chẳng chấp trước
Ly Trần Quang Thần vào môn này.
‘’Ông quán các Phật pháp như thế.’’ Hiện tại kêu hết thảy chúng sinh hãy quán sát, quán sát Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật vị lai, pháp của tất cả chư Phật ba đời đều như thế.
Như thế là như thế nào ? Nói tóm gọn tức là ba thân, bốn trí, năm nhãn, sáu thông. Thần thông biến hóa của Phật, tám vạn bốn ngàn pháp môn đều như thế. Như thế lại như thế nào ? Tức là: ‘’Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt,’’ do đó có câu : ‘’Khẩu dục ngôn nhi từ tán, tâm dục duyên nhi lự vong.’’ Nghĩa là chẳng có gì đáng nói, cũng tức là như thế. Vậy các Phật pháp như thế, thì làm thế nào đắc được pháp như thế ? Lại làm thế nào đắc được pháp như như bất động, liễu liễu thường minh ? Một câu dưới đây nói rất rõ ràng.
‘’Thuở xưa siêng tu vô lượng kiếp.’’ Làm thế nào đắc được pháp như thế ? Là trong vô lượng kiếp về trước, chư Phật siêng tu giới định huệ, tiêu diệt tham sân si mà đắc được. Từ vô lượng kiếp đến hiện tại, trải qua thời gian dài như thế, siêng tu các pháp, siêng tu pháp như thế, siêng tu đạo như thế, cho nên hiện tại mới thành tựu quả vị Phật như thế. Công phu quả vị Phật như thế, tức là từ hai chữ ‘’siêng tu‘’ mà đắc được.
Khi Phật tu đạo thì chẳng những ngày tinh tấn, mà đêm cũng tinh tấn. Phật vì cầu Phật pháp, vì thành Phật đạo mà bố thí hết thảy tất cả, cung hành thực tiễn, cước đạp thật địa, lão lão thật thật đi tu hành.
‘’Mà trong các cõi chẳng chấp trước.’’ Các cõi tức là tam giới các cõi. Tam giới là dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Trong dục giới có mười bốn cõi (bốn đường ác, bốn đại châu, sáu cõi trời). Ở sắc giới có bảy cõi (bốn cõi trời thiền, trời Vô Tưởng, trời Tịnh Không, trời Phạm Thiên). Tại vô sắc giới có bốn cõi (trời Không vô biên xứ, trời Thức vô biên xứ, trời Vô sở hữu xứ, trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ) cộng lại là hai mươi lăm cõi.
Chẳng chấp trước tức là chẳng chấp người, cũng chẳng chấp pháp, hai chấp đều không. Nếu như có chấp ngã và chấp pháp, thì không thể nào được giải thoát, cho nên chẳng chấp trước bất cứ gì.
‘’Ly Trần Quang Thần vào môn này.’’ Vị Chủ Dược Thần Ly Trần Quang Minh, ngộ vào được môn giải thoát này.
Phật trăm ngàn kiếp khó gặp được
Nếu ai thấy được và nghe danh
Thảy đều lợi ích chẳng luống qua
Môn này Phổ Xưng Thần thấu rõ.
‘’Phật trăm ngàn kiếp khó gặp được.’’ Phật pháp khó nghe, thân người khó được, thiện tri thức khó gặp, do đó:
‘’Pháp nhiệm mầu thâm sâu vô thượng,
Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được,
Nay con thấy nghe được thọ trì,
Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai.’’
Pháp này, trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được, trăm ngàn vạn kiếp chẳng dễ gì gặp được Phật, có khi gặp được Phật cũng chẳng biết, vì căn lành không đầy đủ, nhân duyên chẳng thành thục, cho nên thấy mà chẳng thấy, nghe mà chẳng nghe, bỏ lỡ cơ hội, cho nên nói khó gặp được. Việc qua rồi mới biết, nhưng lúc đó thì chẳng biết, do đó:
‘’Người trong cuộc thì mê,
Người bàng quan thì rõ.’’
‘’Nếu ai thấy được và nghe danh.’’ Nếu như gặp được Phật, hoặc nghe danh của Phật, thì chúng sinh đó đều đắc được vô lượng lợi ích.
‘’Thảy đều lợi ích chẳng luống qua.’’ Phàm là chúng sinh thấy Phật nghe danh, thì sẽ không luống qua, nhất định sẽ đắc được lợi ích, khiến cho tất cả chúng sinh lìa khỏi phiền não, đắc được giải thoát.
‘’Môn này Phổ Xưng Thần thấu rõ.’’ Vị Chủ Dược Thần Danh Xưng Phổ Văn, thấu rõ được môn giải thoát này.
Trong mỗi lỗ lông của Như Lai
Ðều phóng quang minh diệt các nạn
Phiền não thế gian đều khiến sạch
Môn này Hiện Quang Thần vào được.
‘’Trong mỗi lỗ lông của Như lai.’’ Trong mỗi lỗ chân lông của Phật, đều phóng ra trí huệ quang minh để nói pháp.
‘’Ðều phóng quang minh diệt các nạn.’’ Phật dơ tay, dở chân, hoặc phóng quang động địa, đều có nhân duyên, tức là muốn lợi ích chúng sinh, để diệt các hoạn nạn. Có hoạn nạn thì chẳng cát tường. Phật khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được cát tường, tiêu diệt sạch hết tất cả hoạn nạn. Phật phóng đại quang minh chiếu khắp thân chúng sinh. Bất cứ loài chúng sinh nào, cũng đều đắc được lợi ích, cứu ra khỏi ba cõi, liễu sinh thoát tử, vĩnh viễn thoát khỏi khổ nạn trong luân hồi.
‘’Phiền não thế gian đều khiến sạch.’’ Tại thế gian rất nhiều phiền não, phiền não này chẳng dễ gì tiêu sạch được, song Phật hiện đại thần thông, tiêu trừ tất cả chướng phiền não của chúng sinh. Phiền não chướng tiêu trừ, thì trí huệ sẽ tăng trưởng.
‘’Môn này thiện Quang Thần vào được.’’ Cảnh giới này, vị Chủ Dược Thần Mao Khổng Hiện Quang đắc được.
Tất cả chúng sinh ngu si mù
Hoặc nghiệp các khổ vô lượng biệt
Phật đều trừ sạch khai trí huệ
Như thế Phá Ám Thần thấy được.
‘’Tất cả chúng sinh ngu si mù.’’ Chúng sinh thật đáng thương xót, tự mình cho rằng mình có trí huệ, kỳ thật là ngu si nhất, hồ đồ nhất. Ði vào hầm sinh tử mà tự mình chẳng hay biết. Tại sao lạc vào hầm sinh tử ? Vì quá ngu si, ngu si như là kẻ mù, người mù đi thì rất dễ rớt xuống sông, hoặc rớt xuống giếng, chẳng biết sự nguy hiểm chết bất cứ lúc nào. Chúng ta chúng sinh ngu si muốn chấm dứt sinh tử, mà tìm chẳng được lối ra, chẳng biết làm thế nào có thể liễu sinh thoát tử ? Thoát khỏi sáu nẻo luân hồi ?
‘’Hoặc nghiệp các khổ vô lượng biệt’’. Mê hoặc tức là ngu si. Vì chúng sinh khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, ở trong vòng sinh tử, không vượt ra được, ở trong đó chuyển lại chuyển đi, chẳng biết làm gì, cho nên các sự khổ vô lượng vô biên khác nhau.
‘’Phật đều trừ sạch khai trí huệ.’’ Phật thấy chúng sinh đáng thương như thế, cho nên diệt trừ các hoặc nghiệp khổ và ngu si mù tối của tất cả chúng sinh, như ánh sáng mặt trời chiếu khắp, khiến cho chúng sinh khai mở đại trí huệ.
‘’Như thế Phá Ám Thần thấy được.’’ Cảnh giới này, vị Chủ Dược Thần Phá Ám Thanh Tịnh, quán sát và thấy được.
Tiếng nói Như Lai không hạn lượng
Khai mở tất cả biển pháp môn
Chúng sinh nghe được đều hiểu rõ
Môn giải thoát này của Ðại Âm.
‘’Tiếng nói Như Lai không hạn lượng.’’ Phật dùng một âm thanh diễn nói pháp, chúng sinh tùy loài đều hiểu được, cho nên nói chẳng có hạn lượng.
‘’Khai mở tất cả biển pháp môn’’. Một âm thanh này, đầy đủ tất cả âm thanh, tất cả pháp, tất cả nghĩa, cho nên nói khai mở tất cả biển pháp môn.
‘’Chúng sinh nghe được đều hiểu rõ.’’ Hết thảy chúng sinh nghe được âm thanh của Phật, giống như thấy được mặt trời, cảm thấy mặt trời chiếu soi đến mình, Phật đang vì mình nói pháp, hoàn toàn minh bạch hiểu rõ.
‘’Môn giải thoát này của Ðại Âm’’. Cảnh giới này, vị Chủ Dược Thần Phổ Phát Hống Thanh đắc được.
Ông quán Phật trí khó nghĩ bàn
Hiện khắp các cõi cứu quần sinh
Khiến cho người thấy được cảm hóa
Ðây sở ngộ của Tế Nhật Tràng.
‘’Ông quán Phật trí khó nghĩ bàn.’’ Bạn hãy quán sát Phật từ vô lượng kiếp đến nay, đều tu đại trí đại huệ, tâm không thể nghĩ được, không thể nói được. Cảnh giới này, trí huệ của chúng ta chẳng đạt đến được, cho nên mới nói khó nghĩ bàn.
‘’Hiện khắp các cõi cứu quần sinh’’. Các cõi tức là bốn đường ác, tức cũng là chúng sinh tội nghiệp sâu nặng. Tâm bi thiết thiết của Phật, thấy các cõi chúng sinh điên đảo, Phật bèn dùng đại oai thần lực, thị hiện đủ loại thân ở trong các cõi, để giáo hóa chúng sinh.
Trong đường A tu la, thì Phật thị hiện A tu la cang cường khó điều phục, dùng thân đồng loại để giáo hóa chúng, khiến cho chúng cải ác hướng thiện. Ðến địa ngục cũng lại như thế. Tóm lại, ở trong cõi nào thì Phật thị hiện thân đó, để giáo hóa chúng sinh đó, vì như thế thì dễ giáo hóa hơn.
‘’Khiến cho người thấy được cảm hóa’’. Phật dùng sức thần thông để giáo hóa chúng sinh, cho nên tất cả chúng sinh đều được Phật cảm hoá, y theo pháp mà tu hành, không sinh ác niệm.
‘’Ðây sở ngộ của Tế Nhật Tràng’’. Cảnh giới này, vị Chủ Dược Thần Tế Nhật Tràng giác ngộ thâm sâu.
Như Lai đại bi biển phương tiện
Vì lợi thế gian mà xuất hiện
Rộng mở chánh đạo dạy chúng sinh
Kiến Thập Phương Thần thông đạt được.
‘’Như Lai đại bi biển phương tiện’’. Phật dùng pháp môn đại bi phương tiện để cứu độ chúng sinh. Pháp môn phương tiện này, rộng lớn như biển cả, cho nên nói là biển phương tiện.
‘’Vì lợi thế gian mà xuất hiện.’’ Phật vì lợi ích chúng sinh hữu tình thế gian, mà xuất hiện ra đời, rộng nói pháp phương tiện, khiến cho chúng sinh đi trên con đường bồ đề giác ngộ.
‘’Rộng mở chánh đạo dạy chúng sinh.’’ Chánh đạo tức là chánh pháp, Phật rộng mở chánh pháp, để chỉ thị cho chúng sinh con đường thoát khỏi ba cõi, tức cũng là đi đến cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ.
‘’Kiến Thập Phương Thần thông đạt được.’’ Cảnh giới này, vị Chủ Dược Thần Minh Kiến Thập Phương, thông đạt thấu rõ được.
Như Lai khắp phóng đại quang minh
Chiếu soi khắp tất cả mười phương
Khiến chúng niệm Phật sinh công đức
Giải thoát này của Phát Oai Quang.
‘’Như Lai khắp phóng đại quang minh.’’ Phật trụ ở trong đại quang minh tạng, tận hư không khắp pháp giới, đều ở trong đại quang minh tạng của Phật, cho nên nói Như Lai khắp phóng ra đại quang minh.
Tôi vì các bạn giảng đạo lý mà một số người không tin, song quỷ sẽ tin, thần cũng sẽ tin. Tại sao ? Vì con người quá thông minh, cũng có thể nói là quá ngu si. Người quá thông minh thì lại thái quá, không tin; người quá ngu si lại bất cập cũng chẳng tin. Là đạo lý gì ? Tức là “thư viện”. Khắp nơi ở nhân gian của chúng ta đều có thư viện. Thư viện phải có người quản lý, để quản lý giữ gìn, không để cho thư viện sinh trùng làm tổn hại, mà phải làm cho sạch sẽ, đẹp đẽ. Song, có những người giữ gìn quá độ, thậm chí đem sách ở thư viện về nhà, để trên đầu giường để giữ gìn, như thế cũng sẽ có sự tổn thất.
Có người nói: ‘’Pháp sư ! Thầy giảng những đạo lý đó chẳng cao siêu, ai cũng biết, rất là nông cạn.’’ Bạn đừng gấp vội. Bây giờ tôi nói đạo lý cao siêu. Giống như Ðại Tạng Kinh, nhất định phải giữ gìn chu toàn. Nước này không được thái bình, thì chuyển đến nước khác để bảo tồn. Nếu nước đó cũng không thái bình, thì chuyển đến nước thái bình để bảo tồn. Giữ đi giữ lại đến khi chết, thì bộ Ðại Tạng Kinh đó, chẳng biết do ai đến giữ gìn ? Lúc đó, có người nghĩ, đây là nói đạo lý gì ? Càng nói càng bình thường. Hiện tại, tôi đang nói cái thư viện chẳng bình thường. Nếu bạn khai mở pháp nhãn, thì sẽ nhìn thấy thư viện tận hư không khắp pháp giới, chẳng biết có bao nhiêu ? Song, những thư viện đó chẳng cần người giữ gìn, cũng chẳng tổn thất. Mỗi ngày đều có vô số các vị A La Hán và Bồ Tát ở tại đó, xem vô lượng pháp tạng. Mỗi vị Thánh nhân đều đang ở tại đó, đọc kinh mà đọc chẳng hết. Song, bộ kinh đó chẳng cần giữ gìn. Nếu người chẳng có Phật nhãn, pháp nhãn, huệ nhãn, thì chẳng biết được cảnh giới này. Cho nên, nếu nói ra cảnh giới này thì chẳng có ai tin. Tôi biết các bạn chẳng tin, nhưng không thể không nói, đến lúc nói thì nhất định phải nói.
Vậy những kinh điển này ở đâu ? Nói là tận hư không khắp pháp giới, song, trong hư không gì cũng chẳng có, làm sao có nhiều kinh điển như thế ? Bạn nói trong hư không gì cũng chẳng có, song, trong hư không gì cũng đều có, chỉ là người mù mắt nhìn chẳng thấy cảnh giới diệu hữu. Giống như, Như Lai khắp phóng đại quang minh, mà người chẳng có mắt, thì nhìn chẳng thấy quang minh.
‘’Chiếu soi khắp tất cả mười phương.’’ Tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới, đều được đại quang minh của Phật chiếu đến. Do đó ‘’Phật quang phổ chiếu.’’ Quang minh của Phật siêu hơn ánh sáng mặt trời ngàn vạn lần. Ánh sáng mặt trời chỉ chiếu dương chẳng chiếu âm, quang minh của Phật thì chẳng những chiếu dương mà còn chiếu âm, cho nên nói chiếu khắp hết thảy.
‘’Khiến chúng niệm Phật sinh công đức.’’ Phật hay khiến cho tất cả chúng sinh đều phát tâm niệm Phật, hay niệm Phật thì diệt trừ được tất cả bệnh tật, tất cả tội nghiệt và tất cả nghiệp chướng. Tội nghiệt diệt trừ, bệnh cũng chẳng còn, thì sẽ sinh ra công đức. Công đức sinh ra thì sẽ phát bồ đề tâm, tu vô thượng đạo, cứu kính thành Phật.
Chúng ta người tu đạo đừng háo cao vụ viễn, cao rồi lại muốn cao, xa rồi lại càng muốn xa. Sự việc trước mắt còn chẳng minh bạch, suốt ngày đến tối cứ muốn xem đá ở trên mặt trăng như thế nào ? Song, đá ở trái đất còn chưa biết rõ nguồn gốc của nó, thành phần của nó, cấu tạo của nó, lại hà tất phải biết đá trên mặt trăng ? Ðó tức là bỏ gần cầu xa, bỏ gốc tìm ngọn. Loại chúng sinh đó, Phật cũng chẳng có biện pháp. Làm thế nào ? Những chúng sinh đó, đã quên chính mình mà nương tựa người, tức cũng là bỏ đất của mình, mà trồng đất của người khác.
‘’Giải thoát này của Phát Oai Quang.’’ Cảnh giới này, vị Chủ Dược Thần Phổ Phát Oai Quang đắc được.
Ðại sư Thiên Thai Trí Giả, lúc đọc tụng Kinh Pháp Hoa, tụng đến Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương : ‘’Là chân tinh tấn, gọi là chân pháp cúng dường Như lai’’, khi ấy thân tâm khoát nhiên nhập định, thấy pháp hội Linh Sơn vẫn chưa tan. Trí Giả đại sư bèn đến chỗ của Ngài Huệ Tư đại sư thỉnh cầu ấn chứng.
Ðại sư nói:
‘’Phi nhữ mạc thức, phi ngã mạc chứng.‘’
Nghĩa là:
Chẳng phải ông không ngộ,
Chẳng phải ta không chứng.
Bèn đem tông pháp yếu truyền thọ cho Ngài, về sau làm Tổ thứ ba của tông Thiên Thai.
Lại nữa, Chủ Lâm Thần Bố Hoa Như Vân, được môn giải thoát, trí hải tạng rộng lớn vô biên.
Vị Chủ Lâm Thần Bố Hoa Như vân, Ngài phân bố biển hoa sen như mây. Ngài là vị Thần thống lãnh quản lý cây rừng, ở trong Phật giáo đại thụ (cây lớn) gọi là cây quỷ thần, vì quỷ thần đều ở trong cây lớn. Cho nên khi gặp cây lớn, thì phải đặc biệt coi chừng. Vị Thần cây này đắc được môn giải thoát, trí huệ hải tạng rộng lớn vô biên. Trí hải tạng là gì ? Vì trí huệ lớn như biển, ở trong trí hải lại hàm tàng công đức, lại phóng quang minh, cho nên gọi là trí hải tạng.
Chủ Lâm Thần Diệu Cán Thư Quang, được môn giải thoát, tu trị khắp thanh tịnh rộng lớn.
Vị Chủ Lâm Thần Diệu Cán Thư Quang, Ngài có thể khiến cho hết thảy Thần cây, càng ngày càng lớn lên, và phóng ra quang minh thanh tịnh. Ngài tu pháp môn thanh tịnh rộng lớn, thanh tịnh tức là chẳng có tâm nhiễm ô. Tâm nhiễm ô là gì ? Tức là có tư tưởng nhiễm ô về ái tình, cho nên người tu đạo, trước hết là phải tu đoạn dục khử ái, công phu này mà tu viên mãn, thì tất cả đều thanh tịnh. Vị Chủ Lâm Thần Diệu Cán Thư Quang này, hay khiến cho khắp hết thảy chúng sinh, đắc được pháp môn thanh tịnh không nhiễm, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Lâm Thần Sinh Nhạ Phát Diệu, được môn giải thoát, tăng trưởng các thứ mầm niềm tin thanh tịnh.
Vị Chủ Lâm Thần Sinh Nhạ Phát Diệu, hay sinh ra mầm thanh tịnh, phát sáng trí huệ quang minh. Thứ quang minh này, hay tăng trưởng mầm bồ đề tín tâm thanh tịnh, khiến cho chúng sinh tương lai đắc được quả bồ đề. Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Lâm Thần Cát Tường Tịnh Diệp, được môn giải thoát, tất cả công đức thanh tịnh trang nghiêm tụ.
Vị Chủ Lâm Thần Cát Tường Tịnh Diệp, cây rừng của Ngài quản lý, vừa thanh tịnh vừa trang nghiêm, nhất là khiến cho lá cây rất sạch sẽ, có thể nói là một hạt bụi cũng không nhiễm. Ngài đắc được môn giải thoát này, là do thanh tịnh, công đức, trang nghiêm, ba thứ tích tụ lại với nhau.
Chủ Lâm Thần Thuỳ Bố Diễm Tạng, được môn giải thoát, phổ môn thanh tịnh, môn giải thoát tu trị khắp thanh tịnh huệ, luôn du lãm khắp cùng pháp giới.
Vị Chủ Lâm Thần Thùy Bố Diễm Tạng, Ngài có diễm tạng thùy bố. Thứ ánh sáng lửa ngọn này chiếu khắp mười phương, khiến cho hết thảy cây rừng đều thanh tịnh, giống như đắc được trí huệ, Ngài hay du lãm khắp pháp giới. Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Lâm Thần Diệu Trang Nghiêm Quang, được môn giải thoát, biết khắp tất cả biển hạnh của chúng sinh, mà giăng bủa mây pháp.
Vị Chủ Lâm thần Diệu Trang Nghiêm Quang, có quang minh vi diệu trang nghiêm, biết được tất cả biển hạnh môn tu hành của hết thảy chúng sinh, lại giăng bủa tất cả pháp như mây, khiến cho chúng sinh đắc được thanh lương. Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Lâm Thần Khả Ý Lôi Thanh, được môn giải thoát, nhẫn thọ tất cả tiếng nói bất như ý, diễn nói âm thanh thanh tịnh.
Vị Chủ Lâm Thần Khả Ý Lôi Thanh, khả ý nghĩa là toại tâm như ý. Âm thanh của Ngài tuy là như tiếng sấm, nhưng khiến cho tất cả chúng sinh nghe được, mà sinh tâm hoan hỷ, Ngài hay nhẫn thọ được tất cả âm thanh bất như ý. Âm thanh khả ý là âm thanh thuận, âm thanh bất như ý là âm thanh nghịch. Âm thanh thuận là âm thanh hoan hỷ, âm thanh nghịch là âm thanh phỉ báng. Chẳng màng là âm thanh khả ý hay bất khả ý, Ngài đều nhẫn thọ được, lại có thể diễn nói âm thanh vi diệu thanh tịnh, khiến cho chúng sinh biết được lợi ích của Phật pháp. Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Lâm Thần Hương Quang Phổ Biến, được môn giải thoát, hiện khắp mười phương những cảnh giới hạnh môn, rộng lớn tu hành trong quá khứ.
Vị Chủ Lâm Thần Hương Quang Phổ Biến, có phảng phất mùi thơm, lại có trí huệ quang minh, chiếu soi đến khắp mười phương. Trong mười phương thị hiện khắp những hạnh môn tu hành trong quá khứ. Những cảnh giới hạnh môn này rộng lớn vô biên, không thể nghĩ bàn, bất khả thuyết, tất cả tập khí mao bệnh đều tu trị chẳng còn nữa, thanh tịnh minh bạch, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Lâm Thần Diệu Quang Hướng Diệu, được môn giải thoát, dùng tất cả pháp công đức nhiêu ích tất cả thế gian.
Vị Chủ Lâm Thần Diệu Quang Hướng Diệu, có trí huệ quang chiếu soi tất cả cây rừng của đại địa, tức cũng là chiếu soi tất cả chúng sinh. Ngài dùng tất cả pháp công đức, để nhiêu ích hết thảy chúng sinh thế gian, khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được lợi ích. Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Lâm Thần Hoa Quả Quang Vị, được môn giải thoát, hay khiến cho tất cả chúng sinh, đều thấy Phật xuất hiện ra đời, thường cung kính niệm chẳng quên trang nghiêm công đức tạng.
Vị Chủ Lâm Thần Hoa Quả Quang Vị, hay khai hoa Bát Nhã của chúng sinh, để chúng sinh kết quả bồ đề. Ngài hay phóng ra quang minh Bát Nhã, hiện ra vị đề hồ. Ngài đắc được cảnh giới của Phật, hay khiến cho tất cả chúng sinh, đều gặp Phật xuất hiện ra thế giới này. Ngài lại luôn cung kính nghĩ nhớ Phật, luôn luôn chẳng quên Phật. Vì có công đức cho nên đặc biệt trang nghiêm, công đức tích tụ nhiều thành tạng. Tạng tức là công đức bao hàm trang nghiêm, vi diệu, thù thắng. Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chúng ta học Phật pháp, học được một chút mà thực hành một chút, thì mới có lợi ích. Nếu học mà chẳng thực hành, thì giống như chẳng học. Nghe kinh nghe pháp, thì nên cung hành thực tiễn, y giáo phụng hành. Ðừng sợ biết ít, chỉ sợ không tu hành; biết nhiều mà chẳng tu hành, thì cũng chẳng ích gì. Cho nên phải lão lão thật thật tu hành, như thế thì mới tiến bộ; tụ cát thành tháp, dần dần sẽ tu thành chánh quả.
Tại chùa Kim Sơn hàng ngày giảng kinh thuyết pháp, các bạn hằng ngày nghe kinh nghe pháp, không ngại gió mưa, chưa từng gián đoạn. Cho nên, Phật pháp ở chùa Kim Sơn giống như mạch máu trên thân người, không thể đoạn tuyệt. Hy vọng các bạn mọi người sau khi nghe rồi, thì nên y chiếu đạo lý Phật pháp để tu hành. Dụng công như thế, thì mới không lãng phí thời gian quý báu. Các bạn đều là thanh niên trẻ, mà đến học Phật pháp thật là hiếm có. Nếu chẳng nhận chân tu hành thì chẳng có chút giá trị gì.
Bất cứ là Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Sa di, Sa di ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, đều nên sinh tâm đại tinh tấn, sinh tâm đại dũng mãnh, để học tập Phật pháp, mới không cô phụ tâm ý phát nguyện lúc ban đầu. Các bạn hãy xem thế giới hiện tại, chẳng có nơi nào được an lạc, ai ai cũng ôm ấp sợ chiến tranh thế giới thứ ba. Ai ai cũng đều ôm lòng sợ hãi, nghĩ muốn đi tránh tai nạn này. Người người nên hồi quang phản chiếu, sửa đổi tâm địa của mình. Như thế thì sẽ có cơ hội cứu vãn.
Vậy thế giới có loạn chăng ? Thế giới chẳng loạn. Người có loạn chăng ? Người cũng chẳng loạn. Bất quá là tâm của con người loạn, nên làm cho thế giới chẳng an ninh. Chúng ta là người học Phật pháp, phải khơi dậy trách nhiệm tâm chân chánh, phải trị bệnh tâm là tham sân si. Nếu ai ai cũng chẳng bệnh ba độc này, thì gia đình sẽ hạnh phúc, xã hội an ninh, nước nhà giàu mạnh, thế giới hòa bình. Như thế thì sẽ trở thành thế giới đại đồng.
Hiện tại Phật giáo ở Á châu ngày càng suy đồi. Phật giáo ở Mỹ Châu thì ngày càng hưng thịnh, muốn Phật giáo hưng thịnh, thì nhất định phải nhận chân tu hành. Cho nên chúng ta những người xuất gia và tại gia của chùa Kim Sơn, đừng nên giải đãi, làm biếng, mọi người cùng nhau tu hành, có việc thì mọi người làm, có pháp thì mọi người học, đừng đố kỵ chướng ngại. Nếu không như thế, thì sống ở đây chẳng có đại ý nghĩa gì. Chúng ta ngày ăn một bữa, ngủ ngồi, nếu không nhận chân tu hành, thì chẳng có giá trị. Các vị thiện tri thức ! Thời gian quý báu, không thể tùy tiện để cho trôi qua, phải luôn luôn tự cảnh tỉnh mình, tự hỏi mình đang ở đây làm gì ?
Bấy giờ, Chủ Lâm Thần Bố Hoa Như Vân, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Chủ Lâm Thần, mà nói ra bài kệ.
Lúc đó, vị Chủ Lâm Thần Bố Hoa Như Vân, nương đại oai thần lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Chủ Lâm Thần, lại dùng kệ để giảng giải đạo lý ở trên chưa nói hết.
Xưa Phật tu tập hạnh bồ đề
Phước đức trí huệ đều viên mãn
Tất cả các lực đều đầy đủ
Phóng đại quang minh hiện ra đời.
‘’Xưa Phật tu tập hạnh bồ đề.’’ Thuở xưa Phật tu hành, tích tập hạnh bồ đề, là từ gần đến xa, từ cạn vào sâu. Thuở xưa Phật và chúng ta đều là phàm phu, bất quá Phật siêng năng tinh tấn tu đủ thứ hạnh. Khi Phật chưa tu hành thì chẳng có hạnh bồ đề. Nhưng về sau dần dần tích tu hạnh bồ đề, do đó ‘’Từ không mà có.’’ Về sau lại tu đủ thứ hạnh bồ đề, do đó ‘’Từ một mà nhiều.’’ Có một hạnh bồ đề thì tụ tập nhiều hạnh bồ đề. Vì khi Phật tu hành, thì chẳng bỏ việc thiện nhỏ mà không làm, tức là việc thiện dù nhỏ như sợi tóc, cũng phải đi làm công đức, cho nên tập ít thành nhiều. Các khổ hạnh mà Phật tu, chẳng phải là một số người chịu đựng được. Một số người không tu được, mà Ngài tu được, do đó mà hạnh bồ đề tụ tập thành nhiều.
‘’Phước đức trí huệ đều viên mãn.’’ Phật tu phước đức đầy đủ, trí huệ cũng đầy đủ, đây gọi là phước huệ đều đầy đủ. Phước đức viên mãn, trí huệ cũng viên mãn, đây gọi là phước huệ song viên.
‘’Tất cả các lực đều đầy đủ.’’ Phật tu mười lực đều đầy đủ viên mãn, chỉ có Phật mới tu đầy đủ mười lực. Mười lực này ở trước đã giảng qua rồi.
‘’Phóng đại quang minh hiện ra đời.‘’ Sau khi Phật tu thành Phật rồi, thì liền phóng đại quang minh mà xuất hiện ra thế gian, để giáo hóa chúng sinh, nói với chúng sinh rằng :
‘’Biển khổ mênh mông, quay đầu là bờ.’’
Cửa bi vô lượng đồng chúng sanh
Thuở xưa Như Lai khắp tịnh trị
Cho nên hay lợi ích cho đời
Ðây sở ngộ của Diệu Cán Thần.
‘’Cửa bi vô lượng đồng chúng sinh.’’ Bi hay cứu khổ tất cả chúng sinh, cửa bi có nhiều vô lượng vô biên, tức là có bao nhiêu chúng sinh, thì có bấy nhiêu cửa từ bi.
‘’Thuở xưa Như Lai khắp tịnh trị.’’ Như Lai tức là “thừa như thật đạo, lai thành chánh giác”. Thuở xưa Phật tu đủ thứ hạnh môn, cho nên khiến khắp tất cả hạnh môn thanh tịnh mà trị lý.
‘’Cho nên hay lợi ích cho đời.’’ Vì nguyên nhân đó, cho nên Phật ở trên thế gian, đều có lợi ích cho tất cả chúng sinh. Lợi ích gì ? Khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui.
Nếu có chúng sinh gặp được Phật
Ðều khiến họ vào biển tin sâu
Mở bày tất cả đạo Như Lai
Giải thoát này của Diệu Nhạ Thần.
‘’Nếu có chúng sinh gặp được Phật.’’ Tất cả chúng sinh chẳng dễ gì gặp được Phật, nghe được Phật pháp càng khó hơn. Bất cứ đến nơi nào, có tháp hoặc có chùa, thấy tượng Phật, thì đều là người có căn lành lớn. Người chẳng có căn lành, thì chẳng có cơ hội gặp Phật, nghe pháp, thấy Tăng. Phật Pháp Tăng Tam Bảo chẳng dễ gì gặp được. Nếu như có chúng sinh gặp được Phật, hoặc tượng Phật, thì đó là nhờ căn lành đời trước gieo trồng.
‘’Ðều khiến họ vào biển tin sâu.’’ Nhất định khiến cho chúng sinh đó minh bạch Phật pháp, tin sâu Phật pháp, niềm tin lớn như biển, vĩnh viễn chẳng thối chuyển, chẳng khô cạn.
‘’Mở bày tất cả đạo Như Lai.’’ Phật từ bi chỉ thị cho tất cả chúng sinh, khiến cho họ minh bạch đạo của Phật tu hành, thành tựu quả vị Phật.
‘’Giải thoát này của Diệu Nhạ Thần.’’ Môn giải thoát này, vị Sinh Nhạ Phát Diệu Chủ Lâm Thần đắc được.
Một lỗ lông tụ các công đức
Biển kiếp tuyên dương không hết được
Chư Phật phương tiện khó nghĩ bàn
Tịnh Diệp thấu rõ nghĩa lý này.
‘’Một lỗ lông tụ các công đức.’’ Trong một lỗ lông của Phật, hiện được mười phương cõi nước. Cảnh giới này chẳng phải phàm phu minh bạch được, trong một lỗ lông của Phật có thể tụ tập tất cả công đức.
‘’Biển kiếp tuyên dương không hết được.’’ Kiếp không thể nói nhiều như biển cả, tuyên dương công đức trong một lỗ lông của Phật cũng không thể nào hết được. Tại sao nói không hết được ? Vì vô lượng vô biên.
‘’Chư Phật phương tiện khó nghĩ bàn.’’ Cho nên cảnh giới pháp môn phương tiện của Phật không thể nghĩ bàn.
‘’Tịnh Diệp thấu rõ nghĩa lý này.’’ Vị Chủ Lâm Thần Cát Tường Tịnh Diệp, thấu rõ được đạo lý thâm sâu này.
Tôi nhớ Như Lai thuở quá khứ
Cúng dường bụi cõi vô lượng Phật
Mỗi chỗ đức Phật trí sáng dần
Ðây sở ngộ của Diễm Tạng Thần.
‘’Tôi nhớ Như Lai thuở quá khứ.’’ Vị Chủ Lâm Thần Thùy Bố Diễm Tạng nói: ‘’Tôi nhớ Như Lai ở trong vô lượng kiếp về trước.’’
‘’Cúng dường sát trần vô lượng Phật.’’ Từng dùng đủ thứ đồ bố thí, để cúng dường chư Phật, nhiều như số hạt bụi của cõi nước.
‘’Mỗi chỗ đức Phật trí sáng dần.’’ Ở mỗi chỗ Ðức Phật cúng dường rồi, phước cũng trang nghiêm, trí cũng trang nghiêm; phước huệ đều đủ, trí huệ quang minh ngày càng tăng dần.
‘’Ðây sở ngộ của Diễm Tạng Thần.’’ Cảnh giới này, vị Chủ Lâm Thần Thùy Bố Diễm Tạng thấu rõ được.
Tất cả chúng sinh các biển hạnh
Thế Tôn một niệm đều biết rõ
Trí vô ngại rộng lớn như thế
Diệu Trang Nghiêm Thần ngộ vào được.
‘’Tất cả chúng sinh các biển hạnh.’’ Tất cả chúng sinh tức là: Thai, noãn, thấp, hóa, đều bao quát ở trong đó. Các biển hạnh tức là tất cả hành vi của mỗi chúng sinh, nghiệp tạo của mỗi chúng sinh, tư tưởng của mỗi chúng sinh, do đó : ‘’Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo,’’ tức cũng do tạo vô lượng vô biên nghiệp, cho nên thọ vô lượng vô biên quả báo.
‘’Thế Tôn một niệm đều biết rõ.’’ Phật ở trong một niệm, hoàn toàn biết tâm của chúng sinh, do đó:
‘’Tất cả chúng sinh, bao nhiêu thứ tâm,
Như Lai đều biết đều thấy.’’
Cho nên, Phật chẳng có gì mà không biết, chẳng có gì mà không thấy.
‘’Trí vô ngại rộng lớn như thế.’’ Trí huệ vô chướng ngại rộng lớn vô biên như thế.
‘’Diệu Trang Nghiêm Thần ngộ vào được.’’ Môn giải thoát này, vị Chủ Lâm Thần Diệu Trang Nghiêm Quang, minh bạch mà ngộ nhập.
Hằng diễn Như Lai tịch diệu âm
Khắp sinh hoan hỷ không sánh được
Tùy sở thích hiểu đều khiến ngộ
Ðây pháp tu hành của Lôi Âm.
‘’Hằng diễn Như Lai tịch diệu âm.’’ Hằng thường bất biến, diễn nói tịch diệu âm của Như lai. Âm thanh của Như lai tịch tĩnh vi diệu.
‘’Khắp sinh hoan hỷ không sánh được.’’ Hay khiến cho tất cả chúng sinh, đều sinh ra một thứ đại hoan hỷ không thể sánh được.
‘’Tùy sở thích hiểu đều khiến ngộ.’’ Chúng sinh nghe được tịch diệu âm của Như lai, tùy thuận âm thanh hoan hỷ, đều hiểu đạo lý thâm sâu này mà khai ngộ, do đó :
‘’Phật dùng một âm diễn nói pháp,
Chúng sinh tùy loài đều hiểu được.’’
‘’Ðây pháp tu hành của Lôi Âm.’’ Phương pháp này vị Chủ Lâm Thần Khả Ý Lôi Âm tu hành.
Như Lai thị hiện đại thần thông
Mười phương cõi nước khắp hết thảy
Xưa Phật tu hành đều khiến thấy
Phổ Hương Quang Thần vào môn này.
‘’Như Lai thị hiện đại thần thông.’’ Như Lai tức là Phật, Phật tức là Thế Tôn, Thế Tôn tức là Như Lai. Ba tên mà một thể, danh xưng tuy nhiều, kỳ thật tức là Phật. Phật là nửa chữ Phạn, đầy đủ là Phật đà gia, dịch nghĩa là “giác giả”, tức là người giác ngộ. Phật là người có trí huệ nhất của thế gian và xuất thế gian. Song, mình có trí huệ cũng dạy chúng sinh có trí huệ, mình đã thành Phật cũng dạy chúng sinh thành Phật. Cho nên nói, Phật giáo là nhân giáo, là chúng sinh giáo. Vì Phật pháp rộng lớn vô biên, chẳng màng bạn tin Phật cũng tốt, đều ở trong Phật giáo, chẳng vượt ra ngoài phạm vi Phật giáo. Cho nên tất cả chúng sinh đều có cơ hội thành Phật, bất quá thời gian sớm muộn mà thôi.
Phật giáo là bình đẳng nhất, vô tư nhất, ai mà chiếu theo Phật pháp tu hành, thì người đó sẽ được trí huệ. Ai không tu hành, thì chẳng đắc được trí huệ chân chánh. Ðược trí huệ chân chánh, thì được giải thoát chân chánh, được giải thoát chân chánh, thì lìa khổ được vui.
Chúng ta chúng sinh tại sao vẫn là chúng sinh ? Vì điên điên đảo đảo, lấy phải làm trái, lấy trái làm phải, khi chẳng phân biệt được phải trái rõ ràng, thì rất dễ làm việc điên đảo. Chúng ta học Phật pháp, tức là học không điên đảo, không điên đảo tức là được thanh tịnh, được thanh tịnh tức là an vui.
Phật chẳng động đạo tràng thị hiện đại thần thông; thần thông tức là trong không biến có, trong có biến không, biến hóa vô cùng, ẩn hiển khó dò.
‘’Mười phương cõi nước khắp hết thảy.’’ Phật ở trong mười phương cõi nước, khắp hết thảy đều hiện pháp thân.
‘’Xưa Phật tu hành đều khiến thấy.’’ Những hạnh môn thuở xưa Phật tu hành, đều khiến cho tất cả chúng sinh hoàn toàn thấy được.
‘’Phổ Hương Quang Thần vào môn này.’’ Môn giải thoát này, vị Hương Quang Phổ Biến Chủ Lâm Thần vào được.
Chúng sinh xiểm nịnh chẳng tu đức
Mê hoặc trầm luân trong sinh tử
Vì họ xiển minh các trí đạo
Ðây sở thấy của Diệu Quang Thần.
‘’Chúng sinh xiểm nịnh chẳng tu đức.’’ Xiểm nịnh chẳng nói lời chân thật, tâm của chúng sinh chẳng ngay thẳng, thích nói lời giả dối, cho nên chẳng tu đức. Dạy họ tâm ngay thẳng tu chánh đạo, nhưng chẳng dễ gì học được. Nếu dạy họ tâm quanh co tu tà đạo, thì họ sẽ biết rành. Tại sao ? Vì tâm quanh co ai cũng có, cho nên nói chúng sinh xiểm nịnh chẳng tu đức.
‘’Mê hoặc trầm luân trong sinh tử.’’ Mê tức là chẳng hiểu rõ sự lý. Mê nghi về lý là kiến hoặc, mê nghi về sự là tư hoặc. Vì chẳng minh bạch lại nghi hoặc, cho nên trầm luân ở trong biển khổ sinh tử.
‘’Vì họ xiển minh các trí đạo.’’ Phật vì những chúng sinh mê hoặc đó, mà xiển minh nói rõ tất cả đạo lý có trí huệ, khiến cho họ ngộ hiểu, đắc đạo bồ đề.
‘’Ðây sở thấy của Diệu Quang Thần.’’ Cảnh giới này, vị Chủ Lâm Thần Diệu Quang Hướng Diệu thấy được.
Phật vì chúng sinh nghiệp chướng nặng
Trải qua ức kiếp mới xuất hiện
Khiến cho họ thường gặp được Phật
Ðây vị Quang Thần quán sát được.
‘’Phật vì chúng sinh nghiệp chướng nặng.’’ Phật niệm niệm chẳng quên chúng sinh nghiệp chướng sâu nặng, ở trong niệm niệm đều muốn cứu họ ra khỏi biển khổ, song, nghiệp chướng của chúng sinh vừa sâu vừa nặng, cho nên không thể cảm ứng đạo giao.
‘’Trải qua ức kiếp mới xuất hiện.’’ Vì chúng sinh nghiệp chướng quá nặng, cho nên phải trải qua thời gian lâu dài, thậm chí ức kiếp, Phật mới xuất hiện ra đời.
‘’Khiến cho họ thường gặp được Phật.’’ Tất cả chúng sinh ở trong niệm niệm muốn gặp được Phật, thì Phật cũng ở trong niệm niệm khiến cho chúng sinh thường thấy được Phật.
‘’Ðây vị Quang Thần quán sát được.’’ Ðạo lý này, vị Chủ Lâm Thần Hoa Quả Quang Vị, quán sát được cảnh giới này.
Lại nữa, Chủ Sơn Thần Bảo Phong Khai Hoa, được môn giải thoát, nhập vào đại tịch định quang minh.
Vị Chủ Sơn Thần Bảo Phong Khai Hoa, Ngài ở trên ngọn núi báu có thể khai nở hoa sen lớn, chẳng những tươi thắm mà còn trang nghiêm. Ngài là Thần quản lý núi, nếu chẳng có Thần quản lý thì núi sẽ dời đi. Hiện tại có Thần quản lý, cho nên chẳng dám di động. Chủ Sơn Thần đa số là loài thú chúa ở trong núi, như cọp, xưng là Thần núi. Vị Chủ Sơn Thần này, đắc được đại tịch định quang minh. Ðại tịch định tức là tịch nhiên bất động. Ngài ở trong định phóng quang để trông giữ núi, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Sơn Thần Hoa Lâm Diệu Kế, được môn giải thoát, tu tập từ thiện căn, thành thục số chúng sinh không thể nghĩ bàn.
Vị Chủ Lâm Thần Hoa Lâm Diệu Kế, những núi của Ngài quản lý đều khai phô hoa mỹ lệ. Trên đầu của Ngài có búi tóc vi diệu trang nghiêm, Ngài tu hành học tập từ thiện căn, khiến cho căn lành thành thục, có thể cứu bất khả tư nghì số chúng sinh thoát khỏi biển khổ, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Sơn Thần Cao Tràng Phổ Chiếu, được môn giải thoát, quán sát tất cả tâm sở thích của chúng sinh, để nghiêm tịnh các căn.
Vị Chủ Sơn Thần Cao Tràng Phổ Chiếu, cao tràng của Ngài phóng ra quang minh, chiếu soi khắp tất cả thân của chúng sinh. Ngài quán sát tất cả tâm của chúng sinh, hoan hỷ thích gì thì đều khiến cho họ đầy đủ. Sau đó, lại trang nghiêm mắt tai mũi lưỡi thân ý sáu căn cho thanh tịnh. Sáu căn nghiêm tịnh là do giữ giới luật, mắt chẳng tùy tiện nhìn sắc đẹp, tai chẳng tùy tiện nghe tiếng, mũi chẳng tùy tiện ngửi mùi, lưỡi chẳng tùy tiện nếm vị, thân chẳng tùy tiện xúc giác, ý chẳng tùy tiện biết pháp, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Sơn Thần Ly Trần Bảo Kế, được môn giải thoát, trong vô biên biển kiếp siêng tinh tấn chẳng nhàm mỏi.
Vị Chủ Sơn Thần Ly Trần Bảo Kế, Ngài đã lìa khỏi thế giới hồng trần, đắc được cảnh giới thanh lương. Ngài có búi tóc bảy báu trang nghiêm, một bụi trần cũng không nhiễm, thanh tịnh quang minh. Ngài thấy được khi Phật ở trong vô biên biển kiếp, luôn luôn đều tu hành tinh tấn, chẳng khi nào nhàm chán, từng phút từng giây đều tinh tấn dũng mãnh, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Sơn Thần Quang Chiếu Thập Phương, được môn giải thoát, dùng vô biên công đức quang minh khắp giác ngộ.
Vị Chủ Sơn Thần Quang Chiếu Thập Phương, trí huệ quang minh của Ngài chiếu khắp mười phương thế giới. Ngài dùng vô lượng vô biên công đức quang minh, chiếu soi khắp hết thảy chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh thấy được quang minh này, thì đều có thể giác ngộ. Giác ngộ thế giới Ta Bà khổ nhiều vui ít, thế giới Cực Lạc chỉ có vui mà chẳng có khổ, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Sơn Thần Ðại Lực Quang Minh, được môn giải thoát, hay tự thành thục, lại khiến cho chúng sinh bỏ lìa hạnh ngu mê.
Vị Chủ Sơn Thần Ðại Lực Quang Minh, có sức lực dời núi, phóng ra quang minh rất mãnh liệt, khiến cho yêu ma quỷ quái ở trong núi và lị mị vọng lượng đều chẳng dám tác quái. Ngài tự thành thục quả giác vô thượng viên mãn, và cũng khiến cho tất cả chúng sinh, xả bỏ lìa khỏi hành vi ngu si mê hoặc, mà khai mở đại trí huệ, thấu rõ thị phi, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Sơn Thần Oai Quang Phổ Thắng, được môn giải thoát, cứu tất cả mọi sự khổ, khiến cho chẳng còn dư thừa.
Vị Chủ Sơn Thần Oai Quang Phổ Thắng, đại oai quang của Ngài phổ khắp thù thắng. Ngài đắc được cảnh giới, thấu rõ Phật cứu tất cả khổ của chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đắc được an lạc. Ngài hay khiến cho chúng sinh chẳng còn khổ nữa, hoàn toàn tiêu diệt sạch. Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Sơn Thần Vi Mật Quang Luân, được môn giải thoát, diễn nói giáo pháp quang minh, hiển thị tất cả công đức của Như Lai.
Vị Chủ Sơn Thần Vi Mật Quang Luân, có quang luân vi diệu nghiêm mật. Quang luân đó phóng ra vô lượng trí huệ quang, chiếu soi hữu tình và vô tình ở trong núi đều nghe được Phật pháp. Ngài diễn nói tất cả giáo pháp, diễn nói tam tạng mười hai bộ tất cả kinh điển. Ngài dùng quang để nói pháp, dùng quang để hiển thị tất cả công đức của Như lai tu hành trong quá khứ, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chúng ta phàm phu chẳng đắc được thần thông, cho nên không hiểu được cảnh giới này. Nếu đắc được ngũ nhãn lục thông, thì sẽ nhìn thấy trong quang minh cũng có Phật, cũng có Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, cũng có tất cả chúng sinh. Có Thánh nhân ở trong đó, đang diễn nói giáo pháp, cũng có chúng sinh đang ở đó nghe pháp, đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Phàm là cao tăng thời xưa đều có thần thông diệu dụng. Vào đời nhà Tấn, có vị cao tăng hiệu là Phật Ðồ Trừng Tam Tạng, vì cảm hóa kẻ giết người là Thạch Lặc và Thạch Hổ mà hiện đủ thứ thần thông, khiến cho hai người đó kiền thành tín ngưỡng Phật giáo, sửa đổi tánh ác tàn nhẫn. Hiện đại, lão hòa thượng Hư Vân cũng có thần thông diệu dụng, mọi người muốn biết thì hãy đọc quyển tự truyện của Ngài Hư Vân thì sẽ biết.
Chủ Sơn Thần Phổ Nhãn Hiện Kiến, được môn giải thoát, khiến cho tất cả chúng sinh, cho đến ở trong mộng cũng tăng trưởng căn lành.
Vị Chủ Sơn Thần Phổ Nhãn Hiện Kiến, mắt của Ngài có thể quán sát khắp cảnh giới hiện ra gần hoặc xa. Ngài đắc được cảnh giới của Phật, khiến cho tất cả chúng sinh, chẳng những lúc tỉnh làm việc thiện, tăng trưởng căn lành, tu phước tu huệ, bố thí thuyết pháp, lợi ích chúng sinh, mà dù ở trong mộng cũng khiến cho chúng sinh đắc được pháp ích. Ngài vì chúng sinh mà nói pháp khổ, không vô thường vô ngã .v.v., khi chúng sinh tỉnh dậy liền chứng đạo quả, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Có khi Phật Bồ Tát ở trong mộng của chúng sinh, hiện ra Dạ xoa, hoặc La sát đáng sợ để uy hiếp người. Người bị uy hiếp thì sẽ sợ hãi tâm nghĩ : ‘’Hãy mau sớm tu hành, đây là quỷ vô thường đến nhiễu loạn, mình chẳng cách chi ứng phó với nó.’’ Do đó, mà sinh tâm tu đạo.
Ðừng cho rằng nằm mộng sợ hãi là điềm không cát tường, kỳ thật là cát tường nhất. Vì dạy bạn phát bồ đề tâm, hiểu rõ đời người là hư vọng, như thế mới khiến cho bạn tăng trưởng căn lành, phát tâm bồ đề, cầu đạo vô thượng đắc quả bồ đề. Ðó là pháp môn phương tiện của Phật, Bồ Tát.
Chủ Sơn Thần Kim Cang Kiên Cố Nhãn, được môn giải thoát, xuất hiện vô biên biển đại nghĩa lý.
Vị Chủ Sơn Thần Kim Cang Kiên Cố Nhãn, mắt của Ngài sáng như kim cang, rất là kiên cố, bất cứ vật gì cũng phá chẳng được. Mắt kim cang kiên cố này, biết rõ tất cả ma vương, Dạ xoa, La sát, quỷ quái. Vì có sự tác dụng như thế, cho nên Ngài quản lý núi đều rất an ninh. Ngài xuất hiện vô lượng vô biên nghĩa lý đại pháp, sâu rộng như biển cả, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Bấy giờ, Chủ Sơn Thần Bảo Phong Khai Hoa, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Chủ Sơn Thần, mà nói bài kệ rằng.
Lúc đó, vị Chủ Sơn Thần Bảo Phong Khai Hoa, nương đại oai thần lực của Phật Thích Ca Mâu Ni, quán sát khắp tất cả chúng Chủ Sơn Thần ở trong hội Hoa Nghiêm. Tại sao chẳng nói là sức lực của mình, sức thần thông của mình ? Vì Phật Thích Ca là thuyết pháp chủ của pháp hội Hoa Nghiêm, vì tôn trọng mà nói như thế. Mười vị Chủ Sơn Thần này, là đại biểu cho vô lượng vô biên chúng Chủ Sơn Thần, làm thượng thủ của họ. Nếu ai ai cũng đều nói ra, thì e rằng suốt thuở vị lai cũng nói chẳng hết. Bài kệ này là vị Chủ Sơn Thần Bảo Phong Khai Hoa nói, còn các Chủ Sơn Thần kia, mỗi người nói ra một bài kệ, để khen ngợi cảnh giới của Phật.
Xưa tu thắng hạnh không bờ mé
Nên được thần thông cũng vô lượng
Pháp môn rộng mở như số bụi
Ðều khiến chúng sinh thâm ngộ hỷ.
‘’Xưa tu thắng hạnh không bờ mé.’’ Thuở xưa Phật tu đủ thứ hạnh môn thù thắng. Song, thắng hạnh này chẳng có bờ mé, chẳng có số lượng.
‘’Nên được thần thông cũng vô lượng.’’ Vì thuở xưa Phật tu thắng hạnh vô biên, cho nên đắc được thần thông cũng vô lượng, chẳng cách chi biết được.
‘’Pháp môn rộng mở như số bụi.’’ Pháp môn khai mở rộng lớn, nhiều như số hạt bụi. Tại sao phải có nhiều pháp môn như thế ? Vì chúng sinh nhiều như hạt bụi, cho nên dùng số pháp môn nhiều như hạt bụi, để giáo hóa số chúng sinh nhiều như hạt bụi.
‘’Ðều khiến chúng sinh thâm ngộ hỷ.’’ Tuy có pháp môn nhiều như số hạt bụi, nhưng khiến cho tất cả chúng sinh, hoàn toàn minh bạch được chân thật nghĩa của Phật pháp, đều liễu ngộ thâm sâu mà sinh hoan hỷ.
Các tướng nghiêm thân khắp thế gian
Quang minh lỗ lông đều thanh tịnh
Ðại từ phương tiện bày tất cả
Hoa Lâm Diệu Kế ngộ môn này.
‘’Các tướng nghiêm thân khắp thế gian.’’ Các tướng tức là ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp. Nghiêm thân tức là trang nghiêm thân Phật, khắp thế gian tức là đầy khắp tất cả thế gian. Thân Phật là tướng tốt quang minh chẳng gì sánh bằng, vô tại vô bất tại, cho nên khắp cùng thế gian.
‘’Quang minh lỗ lông đều thanh tịnh.’’ Mỗi lỗ lông của Phật, đều phóng ra vô lượng quang minh. Ở trong vô lượng quang minh, lại phóng ra vô lượng quang minh, đủ thứ vô tận, quang minh chiếu với nhau, chiếu soi tất cả thế gian đều thanh tịnh.
‘’Ðại từ phương tiện bày tất cả.’’ Phật dùng tâm đại từ bi, để ban cho chúng sinh mọi niềm vui, cứu mọi sự khổ của chúng sinh. Phật dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, khiến cho chúng sinh sinh ra niềm tin, tâm nguyện và tâm hạnh. Lại dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để khai thị chúng sinh, khiến cho họ giác ngộ pháp thế gian là: Vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, pháp xuất thế là: Thường, lạc, ngã, tịnh, bất không.
‘’Hoa Lâm Diệu Kế ngộ môn này.’’ Vị Chủ Sơn Thần Hoa Lâm Diệu Kế, ngộ được môn giải thoát này.
Thân Phật hiện khắp không bờ mé
Mười phương thế giới đều sung mãn
Các căn nghiêm tịnh thấy được vui
Pháp này Cao Tràng Ngộ vào được.
‘’Thân Phật hiện khắp không bờ mé.’’ Pháp thân của Phật tận hư không khắp pháp giới; chẳng có chỗ hạt bụi nào, mà chẳng phải là pháp thân của Phật ở tại đó, cho nên nói thân Phật hiện khắp chẳng bờ mé.
‘’Mười phương thế giới đều sung mãn.’’ Pháp thân của Phật chẳng phải chỉ xuất hiện trong một thế giới, mà là hết thảy thế giới trong mười phương, đều sung mãn pháp thân của Phật.
‘’Các căn nghiêm tịnh thấy được vui.’’ Ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Phật, đều trang nghiêm thanh tịnh. Phàm là chúng sinh nào thấy được Phật, thì đều sinh tâm hoan hỷ.
‘’Pháp này Cao Tràng ngộ vào được.’’ Cảnh giới môn giải thoát này, vị Chủ Sơn Thần Cao Tràng Phổ Chiếu, ngộ hiểu thấu rõ mà vào được.
Nhiều kiếp siêng tu chẳng giải đãi
Chẳng nhiễm thế pháp như hư không
Ðủ thứ phương tiện hóa quần sinh
Ngộ pháp môn này tên Bảo Kế.
‘’Nhiều kiếp siêng tu chẳng giải đãi’’. Nhiều kiếp tức là vô lượng đại kiếp, tức cũng là từ vô thủy kiếp đến nay. Siêng tu tức là chẳng giải đãi, thời khắc siêng năng tu hành. Phật trải qua vô lượng đại kiếp, siêng tu hành chẳng giải đãi, tinh tấn lại tinh tấn.
Chúng ta đả Phật thất, từ bốn giờ sáng bắt đầu đến mười giờ khuya mới nghỉ, suốt ngày chẳng có thời gian nghỉ ngơi, đều dụng công niệm Phật, đó là siêng tu. Siêng tu giới định huệ, sẽ diệt tham sân si, đây là pháp môn cơ bản của Phật giáo.
Chúng ta đả thiền thất, dù một giây thời gian cũng không để luống qua. Có thể trong một giây thời gian đó bạn sẽ khai ngộ, cho nên càng phải tinh tấn. Sáng sớm từ hai giờ rưỡi đã bắt đầu, đến mười hai giờ đêm mới đi ngủ, mỗi ngày chỉ ngủ hơn hai tiếng, đó tức là siêng tu. Tại sao phải khổ như thế ? Vì khổ hành mới là chìa khóa khai ngộ, có thể khai mở cửa trí huệ.
Sự siêng tu của chúng ta có thời gian, đả Phật thất là một tuần lễ, còn đả thiền thất là hai tuần lễ (về sau tăng lên ba tuần lễ), nhưng Phật chẳng có thời gian định kỳ, mà là ngày ngày tinh tấn, tháng tháng tinh tấn, năm năm tinh tấn, tức cũng là thời khắc siêng tinh tần, chẳng có chút giải đãi.
‘’Chẳng nhiễm thế pháp như hư không‘’. Pháp thế gian là : Tài, sắc, danh, thực, thùy, năm dục; hư không thì thanh tịnh chẳng ô nhiễm. Phật chỉ biết siêng tu pháp xuất thế, cho nên chẳng nhiễm pháp thế gian, giống như hư không.
Chúng ta người thế gian hay thích ăn đồ ngon, mặc đồ đẹp, ở nhà tốt. Vì có pháp nhiễm ô như thế, cho nên tu pháp xuất thế chẳng thành công. Nếu xem nặng bên pháp thế gian, thì bên kia pháp xuất thế sẽ nhẹ đi; còn nếu xem pháp xuất thế nặng, thì pháp thế gian sẽ nhẹ đi. Ðạo lý này rất nông cạn, chỉ cần buông bỏ được năm dục, thì mọi vấn đề giải quyết được.
‘’Ðủ thứ phương tiện hóa quần sinh‘’. Vì Phật siêng tu vô thượng đạo, chẳng nhiễm pháp thế gian, nên thành tựu Phật đạo. Sau khi thành Phật, Ngài dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để giáo hóa quần sinh. Tại sao phải dùng đủ thứ phương tiện pháp môn ? Vì chúng sinh quá nhiều loài, có tứ sinh cửu hữu, mười hai loại khác nhau, cho nên dùng đủ thứ phương tiện pháp môn để giáo hóa chúng sinh.
‘’Ngộ pháp môn này tên Bảo Kế‘’. Vị Chủ Sơn Thần liễu ngộ được môn giải thoát này, tên là Chủ Sơn Thần Ly Trần Bảo Kế, Ngài minh bạch được cảnh giới này.
Chúng sinh mù tối vào đường hiểm
Phật thương xót họ phóng quang minh
Khiến khắp thế gian ngủ tỉnh dậy
Oai Quang ngộ được sinh hoan hỷ.
‘’Chúng sinh mù tối vào đường hiểm‘’. Chúng sinh tức là động vật có máu, có khí, bạn, tôi, họ, đều bao quát trong đó. Mù tối tức là người chẳng có mắt, nhìn chẳng thấy ánh sáng. Ðường hiểm là con đường nguy hiểm eo hẹp chẳng bằng phẳng. Chúng sinh quá ngu si, tuy nhiên muốn đi con đường bằng phẳng, nhưng vì chẳng có mắt, cho nên đi trên con đường đen tối. Con đường nguy hiểm đó, chẳng những có hầm hố, lại có đá, hoặc có sài lang hổ báo, hoặc có yêu ma quỷ quái, cũng có Dạ xoa, La sát đang ở trên đường hiểm đợi bạn.
Tất cả chúng sinh trong thế gian, vốn muốn tìm cầu thiện pháp tu hành, đắc được giải thoát. Song, vì quá ngu si, nên pháp hay cũng chẳng biết, cho nên dễ lầm vào đường tà, lạc vào bàng môn tả đạo, mà mình vẫn không hay biết, cho rằng pháp của mình tu là chánh pháp, đạo của mình hành là chánh đạo. Kết quả, sau khi chết rồi rớt vào địa ngục, mà cũng chẳng biết là đường hiểm. Do đó, người tu đạo phải có mắt chọn pháp, mới có thể hướng đi trên con đường chánh, thẳng đến Niết Bàn.
‘’Phật thương xót họ phóng quang minh‘’. Phật thương xót chúng sinh mù tối, cho nên phóng ra quang minh chiếu soi loại chúng sinh này, khiến cho họ khai mở mắt trí huệ. Ðừng lấy phải làm trái, lấy trái làm phải; càng đừng lấy đen làm trắng, lấy trắng làm đen, lìa khỏi mộng tưởng điên đảo, đắc được cứu kính Niết Bàn.
‘’Khiến khắp thế gian ngủ tỉnh dậy‘’. Phật phóng quang minh chiếu soi chúng sinh, để khiến cho chúng sinh trong thế gian, từ trong mộng mà giác ngộ, minh bạch thế gian là khổ, là vô thường.
‘’Oai Quang ngộ được sinh hoan hỷ‘’. Cảnh giới này, vị Chủ Sơn Thần Quang Chiếu Thập Phương, thấu rõ ngộ được, nên sinh tâm đại hoan hỷ.
Xưa trong các cõi rộng tu hành
Cúng dường bụi cõi vô số Phật
Khiến chúng sinh thấy phát nguyện lớn
Môn này Ðịa Ðại Lực ngộ được.
‘’Xưa trong các cõi rộng tu hành‘’. Xưa kia, khi Phật chưa thành Phật, cũng giống như chúng ta. Phật ở trong tam giới hai mươi lăm cõi, phát tâm nguyện rộng lớn, tu hạnh môn rộng lớn, cho nên thành Phật.
‘’Cúng dường bụi cõi vô số Phật‘’. Thuở xưa Phật tu hành như thế nào ? Là cúng dường nhiều vị Phật như số hạt bụi. Tại sao phải cúng dường Phật ? Vì Phật là người có đạo đức nhất, của thế gian và xuất thế gian, là người có tu hành nhất, là người có trí huệ nhất. Phật là đại Thánh nhân Lưỡng Túc Tôn viên mãn giác, phước cũng đủ, huệ cũng đủ, chứng được quả vị viên mãn đại giác, cho nên phải cúng dường Phật.
Có người nói: ‘’Tôi muốn cúng dường chúng sinh, không biết được chăng‘’? Ðược ! Cho con chó ăn, hoặc cho con mèo ăn, đều là cúng dường, nhưng chẳng có công đức, trong Kinh Bốn Mươi Hai Chương nói rất rõ ràng : Cúng dường cho một trăm người ác, chẳng bằng cúng dường cho một người thiện; cúng dường cho một ngàn người thiện, chẳng bằng cúng dường cho một người giữ năm giới; cúng dường cho một vạn người giữ năm giới, không bằng cúng cho một vị Tỳ Kheo hoặc Tỳ Kheo Ni; Cúng dường cho một trăm vạn vị Tỳ Kheo hoặc Tỳ Kheo Ni, chẳng bằng cúng dường cho một vị Thánh nhân sơ quả; cúng dường cho một ngàn vạn Thánh nhân sơ quả, chẳng bằng cúng cho một vị Thánh nhân nhị quả; cúng dường cho một vạn vạn vị Thánh nhân nhị quả, chẳng bằng cúng cho một vị Thánh nhân tam quả; cúng dường cho một trăm vạn vạn vị Thánh nhân tam quả, chẳng bằng cúng dường cho một vị Thánh nhân tứ quả A La Hán; cúng dường vô lượng vị tứ quả A La Hán, chẳng bằng cúng dường cho một vị vô tu vô chứng (tức là Phật, chẳng cần tu, cũng chẳng cần chứng). Vì Phật mọi việc đã làm xong, chẳng còn thọ thân sau nữa, ba giác tròn, vạn đức đầy, cho nên phải cúng dường Phật.
Cho nên, khi Ðức Phật tu hành ở tại nhân địa, thì cúng dường Phật, chẳng phải chỉ cúng dường một vị Phật, mà là cúng dường vô lượng vị Phật, nhiều như hạt bụi trong cõi nước. Vì cúng dường Phật nhiều như thế, cho nên tăng trưởng vô lượng căn lành, và tướng tốt trang nghiêm.
‘’Khiến chúng sinh thấy phát nguyện lớn‘’. Khiến cho chúng sinh thấy được Phật, đều phát nguyện lớn. Nguyện tức là chiếc thuyền qua sông, chẳng phát nguyện thì không thể qua sông sinh tử, đến bờ bên kia. Do đó, quy cụ của chùa Kim Sơn chúng ta là : Phàm là xuất gia Sa Di hoặc Sa di ni, nhất định phải phát nguyện lớn, sau đó mới thành tựu quả vị lớn, chẳng phát nguyện thì chẳng thành quả. Bồ Tát Phổ Hiền phát mười đại hạnh nguyện, Bồ Tát Quán Thế Âm phát mười hai đại nguyện, Bồ Tát Ðịa Tạng phát mười tám đại nguyện. Ít nhất cũng phải phát bốn hoằng thệ nguyện :
1). Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.
2). Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
3). Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
4). Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Người xuất gia ở chùa Kim Sơn chúng ta, ít nhất phải chứng tứ quả A La Hán, mới không cô phụ tâm thành của thiện tín mười phương đến cúng dường, do đó đều phải phát đại nguyện, thành đại Bồ Tát.
‘’Môn này Ðịa Ðại Lực ngộ được.’’ Pháp môn này, cảnh giới này, môn giải thoát này, vị Chủ Sơn Thần Ðại Lực Quang Minh minh bạch ngộ vào được.
Thấy các chúng sinh trôi nổi khổ
Tất cả nghiệp chướng luôn trói che
Dùng trí huệ quang diệt trừ sạch
Giải thoát này của Phổ Thắng Thần.
‘’Thấy các chúng sinh trôi nổi khổ‘’. Phật thấy tất cả chúng sinh, trôi qua trôi lại ở trong sáu nẻo luân hồi chẳng dứt.
‘’Tất cả nghiệp chướng luôn trói che‘’. Tại sao chúng sinh trôi nổi trong sinh tử ? Vì có tất cả nghiệp chướng. Nghiệp chướng này từ đâu đến ? Là từ mê hoặc đến. Có mê hoặc thì chẳng thể tu đạo, chẳng tu đạo thì luôn luôn bị nghiệp hoặc trói buộc che đậy.
‘’Dùng trí huệ quang diệt trừ sạch‘’. Phật dùng trí huệ quang minh, để phá trừ vô minh của chúng sinh, diệt trừ ngu si ám chướng của chúng sinh, hết thảy tất cả chướng ngại đều tiêu diệt trừ sạch.
‘’Giải thoát này của Phổ Thắng Thần.’’ Môn giải thoát này, vị Chủ Sơn Thần Oai Quang Phổ Thắng thấu rõ được.
Trong mỗi lỗ lông vang diệu âm
Tùy tâm chúng sinh khen chư Phật
Thảy khắp mười phương vô lượng kiếp
Quang Luân Thần vào được môn này.
‘’Trong mỗi lỗ lông vang diệu âm‘’. Trong mỗi lỗ chân lông của Phật, đều vang ra âm thanh vi diệu không thể nghĩ bàn, diệu âm đó diễn nói diệu pháp không thể nghĩ bàn cho chúng sinh nghe.
‘’Tùy tâm chúng sinh khen chư Phật‘’. Hay tùy thuận tâm chúng sinh, để khen ngợi tất cả các Ðức Phật.
‘’Thảy khắp mười phương vô lượng kiếp‘’. Chẳng những Phật ở trong một thế giới vang ra diệu âm, giáo hóa chúng sinh, mà là khắp hết thảy mười phương thế giới, vì chúng sinh mà nói pháp, cũng chẳng phải trong thời gian ngắn diễn nói diệu âm, mà là thời gian dài trong vô lượng kiếp giáo hóa chúng sinh.
‘’Quang Luân Thần vào được môn này.’’ Vị Chủ Sơn Thần Vi Mật Quang Luân, thấu rõ cảnh giới này, mà vào được môn giải thoát này.
Khắp mười phương Phật đều hiện tiền
Ðủ thứ phương tiện nói diệu pháp
Rộng ích chúng sinh các biển hạnh
Sở ngộ này của Hiện Kiến Thần.
‘’Khắp mười phương Phật đều hiện tiền‘’. Pháp thân của Phật tận hư không khắp pháp giới, cho nên đầy khắp mười phương, thị hiện khắp ở trước chúng sinh.
‘’Ðủ thứ phương tiện nói diệu pháp‘’. Phật dùng đủ thứ pháp môn phương tiện khéo léo, để diễn nói diệu pháp, giáo hóa chúng sinh. Cho đến chúng sinh ở trong mộng, Phật cũng vào trong mộng, để vì chúng sinh nói diệu pháp, hà huống là lúc chúng sinh tỉnh, Phật càng dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để giáo hóa chúng sinh ngu si.
‘’Rộng ích chúng sinh các biển hạnh‘’. Phật vì muốn rộng lợi ích chúng sinh, cho nên tu đủ thứ hạnh môn, hạnh môn tu không bờ bến như là biển cả, cho nên nói các biển hạnh.
‘’Sở ngộ này của Hiện Kiến Thần.’’ Môn giải thoát này, vị Chủ Sơn Thần Phổ Nhãn Hiện Kiến ngộ hiểu được.
Pháp môn như biển vô biên lượng
Một âm nói ra khiến hiểu rõ
Trong tất cả kiếp nói chẳng hết
Kim Cang Mục vào phương tiện này.
‘’Pháp môn như biển vô biên lượng‘’. Pháp môn của Phật như biển cả, vô lượng vô biên, cũng chẳng có bờ mé, cũng chẳng có hạn lượng.
‘’Một âm nói ra khiến hiểu rõ‘’. Phật dùng một âm diễn nói pháp, chúng sinh tùy loài đều hiểu rõ. Người trời nghe thì ngôn ngữ trên trời, con người nghe thì ngôn ngữ của nhân gian, súc sinh nghe thì ngôn ngữ của súc sinh, chúng sinh trong sáu nẻo nghe đều hiểu rõ.
‘’Trong tất cả kiếp nói chẳng hết‘’. Phật nói pháp chẳng nhàm mỏi, chẳng mệt nhọc, luôn luôn vì chúng sinh nói pháp, luôn luôn giáo hóa chúng sinh. Diệu pháp này trải qua tất cả đại kiếp cũng nói chẳng hết.
‘’Kim Cang Mục vào phương tiện này.’’ Vị Chủ Sơn Thần Kim Cang Kiên Cố Nhãn, minh bạch cảnh giới này, mà vào được môn giải thoát phương tiện này.
Lại nữa, Chủ Ðịa Thần Phổ Ðức Tịnh Hoa, được môn giải thoát, dùng tâm từ bi, niệm niệm quán sát khắp tất cả chúng sinh.
Nghĩa lý trên chưa nói hết lại tiếp tục nói. Vị Chủ Ðịa Thần Phổ Ðức Tịnh Hoa, hay khiến khắp trong tâm của tất cả chúng sinh, sinh ra công đức, nở hoa thanh tịnh trang nghiêm. Ngài là Thần chủ quản đất đai. Nếu chẳng có Thần đến quản lý đất đai, thì bụi đất sẽ bay tán đi hết, địa cầu chẳng còn tồn tại. Ngài đắc được cảnh giới, ở trong Phật pháp biết được, Phật dùng tâm từ bi ở trong niệm niệm, quán sát khắp chúng sinh, cứu khổ chúng sinh, ban vui cho chúng sinh, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Ðịa Thần Kiên Phước Trang Nghiêm, được môn giải thoát, hiện khắp tất cả chúng sinh phước đức lực.
Vị Chủ Ðịa Thần Kiên Phước Trang Nghiêm, hay khiến cho tất cả chúng sinh phát tâm bồ đề, mà vào biển công đức, đắc được phước trang nghiêm kiên cố. Ngài khắp khiến cho chúng sinh tăng trưởng sức phước đức, tức là tu phước tu huệ tu đức, tu đến khi viên mãn thì sẽ giải thoát, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Ðịa Thần Diệu Hoa Nghiêm Thụ, được môn giải thoát, khắp vào các pháp, sinh ra tất cả cõi Phật trang nghiêm.
Chủ Ðịa Thần Diệu Hoa Nghiêm Thụ, những cây của Ngài lớn lên rất trang nghiêm, hoa nở cũng rất vi diệu thanh tịnh. Ngài có thể vào khắp tất cả các pháp, mà sinh ra tất cả các cõi Phật trong mười phương, rất trang nghiêm vi diệu, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Ðịa Thần Phổ Tán Chúng Bảo, được môn giải thoát, tu tập đủ thứ các tam muội, khiến cho chúng sinh tiêu trừ chướng cấu.
Vị Phổ Tán Chúng Bảo Chủ Ðịa Thần này, biết chúng sinh thích bảo bối, cho nên rải khắp vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não, bảy báu, để bố thí cho chúng sinh. Ngài minh bạch được, Phật thuở xưa ở tại nhân địa, tu đủ thứ các tam muội, hay ở trong định khiến cho tất cả chúng sinh, tiêu trừ chướng cấu chẳng còn tâm nhiễm ô, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Ðịa Thần Tịnh Mục Quán Thời, được môn giải thoát, khiến cho tất cả chúng sinh thường du hí khoái lạc.
Vị Chủ Ðịa Thần Tịnh Mục Quán Thời, mắt của Ngài thanh tịnh quán sát được nhân duyên ba đời. Ngài hay quán căn cơ của chúng sinh, biết chúng sinh thích du hí, thích khoái lạc, Ngài dùng tam muội này để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh thường du hí thường khoái lạc. Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Ðịa Thần Kim Sắc Diệu Nhãn, được môn giải thoát, thị hiện tất cả thân thanh tịnh, để điều phục chúng sinh.
Vị Chủ Ðịa Thần Kim Sắc Diệu Nhãn, thân của Ngài phóng ra sắc vàng, mắt vi diệu của Ngài quán sát được căn tính của chúng sinh trong mười phương. Ngài hiện khắp tất cả diệu pháp thân thanh tịnh, để điều phục tất cả chúng sinh khó điều phục, khiến cho chúng sinh cang cường biến thành nhu hòa, khiến cho chúng sinh sân hận sinh tâm hoan hỷ, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Ðịa Thần Hương Mao Phát Quang, được môn giải thoát, biết rõ biển công đức của tất cả chư Phật có đại oai lực.
Chủ Ðịa Thần Hương Mao Phát Quang, lỗ lông của Ngài đều phóng ra hương thơm, vì Ngài giữ giới luật tinh nghiêm. Nếu chúng ta giữ giới thanh tịnh, thì thân thể sẽ tỏa ra mùi thơm. Người giữ giới chẳng thanh tịnh, thì thân thể tỏa ra mùi hôi hám. Vị Chủ Ðịa Thần này chẳng những tỏa ra mùi thơm, mà còn phóng quang minh. Quang minh hương thơm này, chiếu khắp chúng sinh, khiến cho chúng sinh hoan hỷ học tập Phật pháp. Ngài biết rõ biển công đức của chư Phật tu, có sức đại oai đức. Sức đại oai đức này, nếu chúng ta tu hành thì sẽ có đủ. Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Ðịa Thần Tịch Âm Duyệt Ý, được môn giải thoát, khắp nhiếp trì biển lời nói âm thanh của tất cả chúng sinh.
Vị Chủ Ðịa Thần Tịch Âm Duyệt Ý, tuy âm thanh của Ngài chẳng nghe được, song, khiến cho người sinh tâm hoan hỷ. Ngài khắp nhiếp trì biển lời nói âm thanh của tất cả chúng sinh, thu hết lời nói âm thanh của chúng sinh lại. Ðây là dùng âm tịch tĩnh mà thu âm thanh động của chúng sinh. Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Ðịa Thần Diệu Hoa Toàn Kế, được môn giải thoát, sung mãn cõi Phật lìa tính cấu bẩn.
Vị Chủ Ðịa Thần Diệu Hoa Toàn Kế, có hương hoa vi diệu không thể nghĩ bàn. Hương hoa này hướng về bên phải du chuyển, kết thành bảo kế. Ngài đắc được cảnh giới của Phật, cảm thấy Phật là hương quang phổ chiếu. Mỗi lỗ chân lông đều phóng ra mây hương hoa, đầy khắp mười phương thế giới, cho nên sung mãn cõi Phật, khiến cho tất cả chúng sinh thấy được thứ mây này, thì đều xa lìa tất cả tâm ô nhiễm, mà đắc được bổn thể thanh tịnh. Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Ðịa Thần Kim Cang Phổ Trì, được môn giải thoát, pháp luân của tất cả chư Phật nhiếp trì khắp xuất hiện.
Vị Chủ Ðịa Thần Kim Cang Phổ Trì, đất đai của Ngài quản lý cứng chắc như kim cang, chẳng cách chi phá hoại được. Ngài đắc được pháp luân sở nhiếp trì, của tất cả chư Phật mười phương ba đời. Tuy nhiên, chúng ta đang ở thời mạt pháp, nhưng hiện tại giảng Phật pháp, tức cũng như pháp của chư Phật quá khứ đã giảng. Những pháp này hổ tương nhiếp trì, pháp này thông với pháp kia, pháp kia cũng thông với pháp này, viên dung với nhau, hổ tương vô ngại. Vì Phật Phật đạo đồng, cho nên bánh xe pháp của Phật cũng tuần hoàn không ngừng, hết rồi lại bắt đầu. Khi Phật chuyển bánh xe pháp, thì nhiếp trì tất cả chúng sinh, khiến cho họ y pháp tu hành, khắp xuất hiện thành Phật đạo, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Bấy giờ, Chủ Ðịa Thần Phổ Ðức Tịnh Hoa, nương oai lực của Phật, quán sát tất cả chúng Chủ Ðịa Thần, mà nói bài kệ rằng.
Lúc đó, vị Chủ Ðịa Thần Phổ Ðức Tịnh Hoa, nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp tất cả chúng Chủ Ðịa Thần, mà nói ra bài kệ bốn câu, tán thán cảnh giới của Phật.
Thuở xưa Như Lai trong niệm niệm
Môn đại từ bi không thể nói
Tu hành như thế không ngừng nghỉ
Nên được thân kiên cố bất hoại.
‘’Thuở xưa Như Lai trong niệm niệm‘’. Trong quá khứ ở tại nhân địa, Phật tu đủ thứ hạnh môn, ở trong niệm niệm chẳng quên chúng sinh. Phật thường tu từ bi hỷ xả bốn tâm vô lượng, thường tu pháp từ bi tam muội, để cứu độ chúng sinh ra khỏi biển khổ mà được giải thoát.
‘’Môn đại từ bi không thể nói‘’. Môn đại từ bi tức là dùng tâm đại từ và tâm đại bi, để đối đãi bình đẳng với chúng sinh. Tức cũng là vô duyên đại từ, đồng thể đại bi. Môn đại từ bi tức cũng chẳng có biểu hiện tâm sân hận. Giống như Bồ Tát Thường Bất Khinh, khi Ngài tu Bồ Tát đạo, gặp chúng sinh thì lễ lạy, miệng nói: ‘’Tôi không dám khinh các vị, các vị đều sẽ thành Phật.’’ Song, có người mắng chửi Ngài quá ngu si, có người đánh Ngài quá điên khùng. Nhưng bất cứ họ đối đãi bất kính với Ngài như thế nào, Ngài vẫn dùng tâm từ bi để tha thứ họ, tuyệt đối chẳng sinh tâm sân hận. Và giống như Tiên ông nhẫn nhục tu đạo ở trong núi, bị vua Ca Lợi chặt đứt chi thể, mà Ngài cũng chẳng sinh tâm sân hận, đó đều là biểu hiện tu môn đại từ bi.
‘’Tu hành như thế không ngừng nghỉ‘’. Giống như tu từ tâm tam muội, tức là đối với tất cả chúng sinh, sinh ra tâm đại từ bi, hạnh môn như thế, dù tu vô lượng vô biên đại kiếp, cũng chẳng khi nào tu xong, cho nên nói không ngừng nghỉ. Tóm lại, dù tu thành Phật, vẫn phải tu từ bi hỷ xả bốn tâm vô lượng không ngừng.
‘’Nên được thân kiên cố bất hoại.’’ Vì Phật chẳng bao giờ giết hại sinh mạng của chúng sinh, cho nên thân của Phật kiên cố như kim cang, chẳng bao giờ tổn hại. Thân thể của chúng ta, tại sao chẳng kiên cố mà nhiều bệnh ? Là vì chẳng tu giới sát sinh cho viên mãn. Phải minh bạch nhân quả, vì sao bị người ta giết ? Là vì trong quá khứ đã từng giết người. Tại sao bị người ta đánh chưởi ? Là vì trong quá khứ đã từng đánh chưởi người. Khi nhân duyên đến thì phải chịu quả báo, do đó :
‘’Trồng dưa được dưa,
Trồng đậu được đậu.’’
Nếu chúng ta tu từ tâm tam muội, chẳng sát sinh, chẳng sân hận, thì tương lai thân thể cũng sẽ kiên cố bất hoại, chẳng bệnh tật mà mạnh khoẻ.
Ba đời chúng sinh và Bồ Tát
Hết thảy tất cả các phước tụ
Ðều thấy trong lỗ lông Như Lai
Phước Nghiêm thấy rồi sinh hoan hỷ.
‘’Ba đời chúng sinh và Bồ Tát‘’. Ba đời tức là đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Hết thảy chúng sinh và Bồ Tát ba đời, Phật đều nhìn thấy rất rõ ràng, vì Phật quán sát được nhân duyên vô lượng đại kiếp.
‘’Hết thảy tất cả các phước tụ’’. Chúng sinh và Bồ Tát ba đời, hết thảy tất cả phước tụ Phật đều biết.
‘’Ðều thấy trong lỗ lông Như Lai‘’. Ðều hiện ra ở trong lỗ chân lông của Phật.
‘’Phước Nghiêm thấy rồi sinh hoan hỷ.’’ Vị Chủ Ðịa Thần Kiên Phước Trang Nghiêm, thấy được cảnh giới này, trong tâm bèn sinh ra đại hoan hỷ.
Có người sinh tâm hoài nghi đối với bốn câu kệ này, hoài nghi Phật chỉ có thể nhìn thấy chúng sinh và Bồ Tát quá khứ, cùng với chúng sinh và Bồ Tát hiện tại, chứ không thể nhìn thấy chúng sinh và Bồ Tát vị lai. Vì vị lai thì chưa đến, làm sao có thể hiện ra ? Bạn nên biết cảnh giới của Phật không thể nghĩ bàn, Phật có thể dời quá khứ đến hiện tại, dời hiện tại về vị lai, lại dời vị lai về quá khứ, đây là đạo lý ba mà một, một mà ba. Do đó, làm cho công đức của chúng sinh và Bồ Tát vị lai, đều hiển hiện ra trong một lỗ chân lông.
Ví như máy truyền hình, chiếu sự việc, phim ảnh ba đời hợp lại với nhau. Ðem việc quá khứ dời về hiện tại diễn ra, việc vị lai cũng dời về hiện tại diễn ra, khiến cho ba đời thành một thể. Máy truyền hình còn có công năng như thế, huống chi là lỗ lông của Phật, càng có cảnh giới không thể nghĩ bàn. Mỗi lỗ chân lông của Phật, đều giống như một máy truyền hình.
Lại có người nói : ‘’Tôi vẫn không tin đạo lý này.’’ Vậy tôi đưa ra một ví dụ nữa. Giống như nằm mộng, trong mộng thấy việc vị lai, sự việc mười mấy năm sau, mà hiện tại ở trong mộng hiện ra. Lại có thể mộng thấy việc quá khứ, sự việc mười mấy năm về trước, mà hiện tại ở trong mộng hiện ra. Ðó tức là dời quá khứ đến hiện tại, dời vị lai đến hiện tại. Cảnh giới này ai ai cũng đều nằm mộng thấy, chẳng có gì là huyền diệu, bạn đã tin thì phải !
Tôi còn nhớ bốn mươi năm về trước, gặp một giấc mộng không thể nghĩ bàn, mộng thấy tôi ngồi ở trên pháp tòa, giảng kinh thuyết pháp cho rất nhiều người ngoại quốc nghe, giảng Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật. Lúc đó, cũng chẳng cảm thấy ly kỳ, vẫn cho rằng chỉ là một giấc mộng mà thôi. Hiện tại, cảnh giới đó quả nhiên hiện thật. Chẳng những mộng thấy cảnh giới đó, mà còn mộng thấy rất nhiều cảnh giới. Bây giờ nghĩ lại, nguyên lai là như thế.
Người ở trong mộng, còn có thể biết được quá khứ hiện tại vị lai, hà huống là Phật. Phật có thể trong một lỗ lông khắp cùng pháp giới, làm cho hết thảy phước đức của chúng sinh và Bồ Tát, trong quá khứ hiện tại vị lai ba đời, đều hiện ra trong một lỗ chân lông. Phàm là người khai mở ngũ nhãn, đều có thể nhìn thấy tất cả sự việc ba đời, thậm chí mình ở trên đất bò như thế nào, hoặc là mình ngồi ở nơi nào đó chết đi, đều nhìn thấy rất rõ ràng, chẳng có chút gì kỳ lạ.
Tam ma địa tịch tĩnh rộng lớn
Không sinh không diệt không đến đi
Nghiêm tịnh cõi nước bày chúng sinh
Giải thoát này của Thụ Hoa Thần.
‘’Tam ma địa tịch tĩnh rộng lớn‘’. Tam ma địa nghĩa là định. Tịch tĩnh tức là chẳng có âm thanh, nghĩa là vắng lặng. Rộng lớn là từ hình dung, nghĩa là vừa rộng vừa lớn. Thứ định này vắng lặng rộng lớn, không thể nghĩ bàn.
‘’Không sinh không diệt không đến đi‘’. Tam ma địa tức là không sinh, không diệt, không đến, không đi, đây là nói định của Phật là cảnh giới như thế.
‘’Nghiêm tịnh cõi nước bày chúng sinh‘’. Trang nghiêm tất cả cõi nước chư Phật, thanh tịnh tất cả cõi nước của chư Phật, để mở bày cho chúng sinh pháp môn liễu sinh thoát tử.
‘’Giải thoát này của Thụ Hoa Thần.’’ Môn giải thoát này, vị Chủ Ðịa Thần Diệu Hoa Nghiêm Thụ đắc được.
Thuở quá khứ Phật tu các hạnh
Muốn khiến chúng sinh tiêu chướng nặng
Chủ Ðịa Thần Phổ Tán Chúng Bảo
Thấy Giải thoát này sinh hoan hỷ.
‘’Thuở quá khứ Phật tu các hạnh‘’. Phật là vì chúng sinh mà tu hành, vì Phật thấy nghiệp chướng của chúng sinh quá nặng, cho nên thuở xưa Phật tu đủ thứ hạnh môn, để cứu độ chúng sinh, khiến cho chúng sinh tiêu trừ nghiệp chướng mà được giải thoát.
‘’Muốn khiến chúng sinh tiêu chướng nặng‘’. Chúng sinh chẳng biết cách để tiêu trừ nghiệp chướng nặng, nhưng Phật từ bi giúp chúng sinh tiêu trừ nghiệp chướng, đắc được thanh tịnh.
‘’Chủ Ðịa Thần Phổ Tán Chúng Bảo‘’. Vị Chủ Ðịa Thần Phổ Tán Chúng Bảo, nhìn thấy được cảnh giới này của Phật.
‘’Thấy Giải thoát này sinh hoan hỷ.’’ Vị Chủ Ðịa Thần này, thấy được môn giải thoát này, tâm đại hoan hỷ.
Cảnh giới Như Lai chẳng bờ mé
Niệm niệm hiện khắp trong thế gian
Chủ Ðịa Thần Tịnh Mục Quán Thời
Thấy Phật tu hành tâm vui mừng.
‘’Cảnh giới Như Lai chẳng bờ mé‘’. Cảnh giới của Như Lai tu chẳng có bờ mé.
‘’Niệm niệm hiện khắp trong thế gian‘’. Phật ở trong niệm niệm nghĩ nhớ chúng sinh, cho nên hiện khắp trong mười phương thế giới.
‘’Chủ Ðịa Thần Tịnh Mục Quán Thời‘’. Vị Chủ Ðịa Thần Tịnh Mục Quán Thời, đắc được cảnh giới của Phật.
‘’Thấy Phật tu hành tâm vui mừng.’’ Ngài thấy được hạnh môn của Phật tu hành trong quá khứ, và pháp môn hiện tại giáo hóa chúng sinh, nên trong tâm rất hoan hỷ vui mừng.
Diệu âm vô hạn không nghĩ bàn
Khắp vì chúng sinh diệt phiền não
Kim Sắc Nhãn Thần tỏ ngộ được
Thấy Phật vô biên thắng công đức.
‘’Diệu âm vô hạn không nghĩ bàn‘’. Phật diễn nói âm thanh vi diệu chẳng có hạn lượng, không thể nghĩ bàn.
‘’Khắp vì chúng sinh diệt phiền não‘’. Diệu âm của Phật nói, là vì tiêu diệt phiền não chướng của chúng sinh.
‘’Kim Sắc Nhãn Thần tỏ ngộ được‘’. Vị Chủ Ðịa Thần Kim Sắc Diệu Nhãn, tỏ ngộ được đạo lý này.
‘’Thấy Phật vô biên thắng công đức.’’ Ngài thấy được vô lượng vô biên công đức thù thắng của Phật.
Hết thảy hình sắc đều hóa hiện
Mười phương pháp giới đều sung mãn
Hương Mao Phát Quang thường thấy Phật
Như thế hóa khắp các chúng sinh.
‘’Hết thảy hình sắc đều hóa hiện‘’. Hết thảy tất cả chúng sinh có hình có sắc, Phật đều tùy theo loài mà hóa hiện để giáo hóa họ.
‘’Mười phương pháp giới đều sung mãn‘’. Chẳng những Phật hóa hiện trong một thế giới, mà còn hóa hiện trong mười phương pháp giới, do đó mà hoàn toàn sung mãn khắp pháp giới.
‘’Hương Mao Phát Quang thường thấy Phật‘’. Phàm là ngũ cốc và hoa quả lớn lên ở trên đất, đều có hương thơm. Vị Chủ Ðịa Thần Hương Mao Phát Quang này, luôn luôn thấy được cảnh giới này của Phật.
‘’Như thế hóa khắp các chúng sinh.’’ Phật đại từ đại bi giáo hóa khắp tất cả chúng sinh, chẳng những giáo hóa chúng sinh hữu tình, mà còn giáo hóa chúng sinh vô tình.
Diệu âm khắp cùng trong mười phương
Trong vô lượng kiếp vì chúng nói
Duyệt Ý Ðịa Thần tâm thấu đạt
Nghe được lời Phật rất kính vui.
‘’Diệu âm khắp cùng trong mười phương‘’. Âm thanh vi diệu của Phật nói, vang khắp cùng trong mười phương.
‘’Trong vô lượng kiếp vì chúng nói‘’. Diệu âm của Phật vang khắp mười phương, thời gian nói pháp dọc cùng tam tế, trong vô lượng kiếp đều vì chúng sinh nói diệu pháp.
‘’Duyệt Ý Ðịa Thần tâm thấu đạt‘’. Vị Chủ Ðịa Thần Tịch Âm Duyệt Ý, trong tâm của Ngài thấu đạt được cảnh giới này.
‘’Nghe được lời Phật rất kính vui.’’ Ở chỗ Ðức Phật nghe được diệu pháp này, nên Ngài cung kính hoan hỷ rất thâm sâu.
Lỗ lông Phật sinh mây hương diễm
Tùy tâm chúng sinh khắp thế gian
Hết thảy thấy được đều thành thục
Môn này Hoa Toàn quán sát được.
‘’Lỗ lông Phật sinh mây hương diễm‘’. Trong mỗi lỗ lông của Phật, đều sinh ra mây hương diễm.
‘’Tùy tâm chúng sinh khắp thế gian‘’. Tùy thuận tâm của chúng sinh, mà đi khắp thế gian.
‘’Hết thảy thấy được đều thành thục‘’. Khiến cho tất cả chúng sinh, thấy được cảnh giới của Phật, thì căn lành đều thành thục.
‘’Môn này Hoa Toàn quán sát được.’’ Vị Chủ Ðịa Thần Diệu Hoa Toàn Kế, quán sát minh bạch được đạo lý này.
Cứng chắc khó hoại như kim cang
Không thể khuynh động như Tu Di
Thân Phật như thế nơi thế gian
Phổ Trì thấy được sinh hoan hỷ.
‘’Cứng chắc khó hoại như kim cang‘’. Thân Phật cứng chắc không thể hoại như chất kim cang. Thân Phật tại sao cứng chắc như thế ? Vì Phật tu hạnh môn đại từ đại bi, tu từ tâm tam muội, cho nên mới được thân cứng chắc bất hoại. Phật còn phát tâm hộ pháp, cho nên thành tựu thân kim cang bất hoại. Vì hộ trì chánh pháp, giữ gìn giới luật, tu oai nghi, tay cầm đao kiếm cung tên, để bảo hộ cho Tỳ Kheo giữ giới thanh tịnh.
Thuở xưa, có vị Tỳ Kheo Giác Ðức giữ giới thanh tịnh, Ngài đi đứng nằm ngồi, bốn đại oai nghi đều rất trang nghiêm. Song, có những vị Tỳ Kheo chẳng giữ giới luật phản đối Ngài, khinh khi Ngài. Ông vua đương thời tên là Hữu Ðức hộ pháp cho Ngài. Ông vua đó và những vị Tỳ Kheo không giữ giới luật đánh với nhau, bất hạnh bị đánh trọng thương. Tỳ Kheo Giác Ðức rất khen ngợi ông vua, ông vua nghe pháp rồi thì qua đời.
Vị vua đó vì hộ pháp có công đức, cho nên sau khi chết đi, được sinh về thế giới Ðông Phương cõi của Ðức Phật A Súc Bệ, làm đại đệ tử thứ hai của Phật A Súc Bệ. Do đó, đủ biết công đức hộ pháp lớn hơn người bị hộ.
‘’Không thể khuynh động như Tu Di‘’. Thân kim cang của Phật giống như núi Tu Di, không thể nào lay động được.
‘’Thân Phật như thế nơi thế gian‘’. Thân Phật giống như núi Tu Di ở nơi thế gian, rất an ổn vững chắc.
‘’Phổ Trì thấy được sinh hoan hỷ.’’ Vị Chủ Ðịa Thần Kim Cang Phổ Trì, thấy được cảnh giới này của Phật, nên sinh tâm đại hoan hỷ.
Lại nữa, Chủ Thành Thần Bảo Phong Quang Diệu, được môn giải thoát, phương tiện lợi ích chúng sinh.
Ðạo lý ở trên nói chưa hết, nên tiếp tục nói. Vị Chủ Thành Thần Bảo Phong Quang Diệu, đỉnh núi bảy báu của Ngài phóng ra quang minh rất sáng, chiếu soi khắp mười phương thế giới. Ngài là người quản lý thành quách, hay phá tan mùi hôi hám tất cả phiền não ở trong thành, khiến cho sinh ra mùi hương thơm tất cả trí huệ, làm cho chúng sinh ở trong thành đều đắc được giải thoát. Ngài dùng đủ thứ phương tiện pháp môn để lợi ích chúng sinh, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Thành Thần Diệu Nghiêm Cung Ðiện, được môn giải thoát, biết căn tánh của chúng sinh, giáo hóa khiến cho họ thành thục.
Vị Chủ Thành Thần Diệu Nghiêm Cung Ðiện, hay khiến cho tất cả cung điện đều tốt đẹp trang nghiêm. Ngài biết căn tánh của mỗi chúng sinh, bất cứ là chúng sinh căn lành sâu dày, hay là chúng sinh căn lành cạn mỏng, họ hoan hỷ pháp môn gì, thì Ngài dùng pháp môn đó để giáo hóa họ, khiến cho căn lành của họ được thành thục, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Thành Thần Thanh Tịnh Hỷ Bảo, được môn giải thoát, thường hoan hỷ, khiến cho tất cả chúng sinh thọ các phước đức.
Vị Chủ Thành Thần Thanh Tịnh Hỷ Bảo, có hỷ bảo thanh tịnh, hay khiến cho chúng sinh thường hoan hỷ. Ngài hay khiến cho chúng sinh căn lành tăng trưởng, tăng phước tăng huệ tăng đức, khiến cho chúng sinh thọ được tất cả lợi ích phước đức, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Thành Thần Ly Ưu Thanh Tịnh, được môn giải thoát, cứu các sự sợ hãi đại bi tạng.
Vị Chủ Thành Thần Ly Ưu Thanh Tịnh, Ngài hay bảo hộ an toàn cho chúng sinh ở trong thành, tiêu tai giải nạn, gặp hung hóa cát, khiến cho tất cả chúng sinh lìa khỏi ưu sầu lo lắng mà được tâm thanh tịnh. Ngài dùng vô úy thí để cứu hộ chúng sinh, khiến cho chúng sinh chẳng sợ hãi lo âu. Vì Ngài rất từ bi, cho nên gọi là đại bi tạng, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Thành Thần Hoa Ðăng Diễm Nhãn, được môn giải thoát, khắp thấu rõ đại trí huệ.
Vị Chủ Thành Thần Hoa Ðăng Diễm Nhãn, Ngài hay dùng đèn làm bằng hoa, phóng ra ánh sáng lửa ngọn, khiến cho tất cả chúng sinh, thấu rõ diệu dụng của đại trí huệ, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Thành Thần Diễm Tràng Minh Hiện, được môn giải thoát, phương tiện thị hiện khắp.
Vị Chủ Thành Thần Diễm Tràng Minh Hiện, tràng báu lửa ngọn của Ngài phóng ra quang minh, hiện khắp trong thế gian. Ngài dùng khắp pháp môn phương tiện để thị hiện, khiến cho chúng sinh từ những phương tiện này mà được cứu độ, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Thành Thần Thịnh Phước Oai Quang, được môn giải thoát, khắp quán sát tất cả chúng sinh, khiến cho họ tu biển phước đức rộng lớn.
Vị Chủ Thành Thần Thịnh Phước Oai Quang, phước đức thịnh của Ngài có sức đại oai quang, hay khiến cho phước đức của chúng sinh tăng thêm. Ngài quán sát khắp tất cả chúng sinh trong mười phương, chúng sinh nào cơ duyên thành thục, thì sẽ hóa độ chúng sinh đó, khiến cho họ tu phước tu huệ, tu rộng lớn như biển cả, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Thành Thần Tịnh Quang Minh Thân, được môn giải thoát, khai ngộ tất cả những chúng sinh ngu tối.
Vị Chủ Thành Thần Tịnh Quang Minh Thân, thân thể của Ngài vừa thanh tịnh vừa quang minh. Ngài hay khiến cho chúng sinh ngu si đắc được trí huệ, chúng sinh mù tối được ánh sáng. Khiến cho chúng sinh ngu si và mù tối đều có thể khai ngộ, đắc được trí huệ giải thoát, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chúng sinh mù tối tức là người sinh ra chẳng có mắt, gì cũng chẳng thấy, gì cũng chẳng biết. Người chẳng hiểu biết Phật pháp, chẳng hiểu biết tí nào về đạo lý Phật pháp, thì cũng giống như người mù, thật đáng thương xót.
Trong Kinh Niết Bàn có ghi rằng: ‘’Có một người mù từ lúc mới sinh ra, chẳng biết màu sắc của sữa bò như thế nào ?
– Bèn hỏi người khác, có người nói với y rằng : Trắng giống như con sò.’’
– Người mù lại hỏi : ‘’Vậy màu sắc của sữa bò cứng giống như là con sò chăng ?
– Người đó đáp : ‘’Chẳng phải.’’
– Người mù lại hỏi : ‘’Màu sắc của con sò lại như thế nào‘’?
– Người kia đáp : ‘’Giống như bột gạo.’’
– Người mù lại hỏi : ‘’Màu sắc sữa bò mềm dịu, giống như sự mềm dịu của bột gạo chăng ? Vậy bột gạo lại như thế nào ?
– Người kia đáp: ‘’Giống như tuyết.’’
– Người mù lại hỏi : ‘’Bột gạo có lạnh chăng ? Tuyết lại như thế nào‘’?
– Người kia đáp : ‘’Trắng như hạc.’’
– Người mù lại hỏi : ‘’Con hạc là động chăng‘’? Kết quả đưa ra bốn ví dụ mà người mù cũng chẳng hiểu, cứu kính màu sắc của sữa bò như thế nào ? Vẫn chẳng biết.
Ðó là nói về kẻ ngoại đạo chẳng hiểu biết về Niết Bàn: Thường, lạc, ngã, tịnh, là gì ? Giống như người mù chẳng biết màu sắc của sữa bò, thật là ngu si. Con sò biểu hiện cho thường đức, bột gạo biểu thị cho lạc đức, tuyết biểu thị cho tịnh đức, con hạc biểu thị cho ngã đức.
Một số người ngu si chẳng hiểu biết Phật pháp, chẳng biết Phật pháp là gì ? Nếu đối với họ nói ra pháp xuất thế thì họ nói : ‘’Pháp xuất thế là pháp bao quát ở trong pháp thế gian.’’ Không sai ! Nói cũng đúng. Lục Tổ Huệ Năng đã từng nói :
‘’Phật pháp tại thế gian,
Chẳng lìa thế gian giác,
Lìa thế gian cầu bồ đề,
Ví như tìm sừng thỏ.’’
Ý nghĩa của bốn câu kệ này, tức là ở trong pháp thế gian có thể tìm ra pháp xuất thế, chứ chẳng phải nói chẳng có pháp xuất thế, đem pháp thế gian chuyển qua, tức là pháp xuất thế ; đem pháp xuất thế chuyển qua, thì lại trở về pháp thế gian. Nếu xả bỏ pháp thế gian, thì vĩnh viễn tìm chẳng được pháp xuất thế. Tuy nhiên pháp xuất thế bao quát ở trong pháp thế gian, song, bạn phải hiểu rõ. Nếu chẳng hiểu rõ thì vốn chẳng có pháp xuất thế. Sau khi thấu rõ rồi, thì mới ở trong pháp thế gian, mà tu pháp xuất thế gian, đó là đạo lý bổn lai của Phật pháp. Chủ yếu là trong thế gian giác mà dụng công phu. Thế gian thì không giác, căn bản thì chẳng có Phật pháp; nếu bạn giác thì có pháp xuất thế, cho nên không cần lìa khỏi thế giới này, mà đến thế giới khác tìm sự giác ngộ, như thế thì vĩnh viễn tìm chẳng được, giống như chẳng thể nào tìm được sừng trên đầu con thỏ.
Người chẳng hiểu biết Phật pháp, xem bốn câu kệ này, bèn cho rằng chẳng có pháp xuất thế, đó là vốn chẳng biết pháp xuất thế là gì, chỉ biết có pháp thế gian mà hiểu quanh co về ý nghĩa bài kệ của Lục Tổ.
Chủ Thành Thần Hương Tràng Trang Nghiêm, được môn giải thoát, quán sát sức tự tại của Như Lai, khắp điều phục chúng sinh thế gian.
Vị Chủ Thành Thần Hương Tràng Trang Nghiêm, Ngài dùng hương tràng để trang nghiêm thành. Ngài hay quán sát sức thần thông tự tại của Như Lai, khắp hết thảy mười phương thế giới, dùng sức đại oai thần tự tại để điều phục tất cả chúng sinh. Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chủ Thành Thần Bảo Phong Quang Mục, được môn giải thoát, hay dùng đại quang minh, để phá trừ núi chướng ngại của tất cả chúng sinh.
Vị Chủ Thành Thần Bảo Phong Quang Mục, bảo phong của Ngài phóng ra đại quang minh bảy báu, chiếu soi chúng sinh, để phá trừ tất cả núi chướng ngại. Núi chướng ngại là gì ? Tức là tham sân si, giống như núi, hay chướng ngại bồ đề giác đạo. Nếu phá được núi chướng ngại, thì sẽ hiện ra trí huệ đại quang minh, song làm thế nào để phá trừ núi chướng ngại ? Tức là phải siêng tu giới định huệ, tu đến lúc viên mãn, thì bồ đề đại đạo cũng chẳng còn chướng ngại. Vị Chủ Thành Thần này đắc được môn giải thoát này.
Bấy giờ, Chủ Thành Thần Bảo Phong Quang Diệu, nương oai lực của đức Phật, quán sát tất cả chúng Chủ Thành Thần, mà nói bài kệ rằng.
Lúc đó, vị Chủ Thành Thần Bảo Phong Quang Diệu, nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp hết thảy chúng Chủ Thành Thần, mà nói ra bài kệ bốn câu.
Ðạo Sư như thế không nghĩ bàn
Quang minh chiếu khắp trong mười phương
Chúng sinh hiện tiền đều thấy Phật
Giáo hóa thành thục vô lượng số.
‘’Ðạo sư như thế không nghĩ bàn‘’. Ðạo sư tức là người tiếp dẫn chúng sinh thành Phật đạo, là người vì chúng sinh làm lãnh tụ dẫn đường. Vì Phật đem hết thảy tất cả pháp môn tu hành thành Phật trong quá khứ, để giáo hóa tất cả chúng sinh, cũng thành tựu vô thượng đạo, cho nên gọi là Ðạo sư.
Như thế tức là trung đạo, tức cũng là phương pháp dụng công tu hành, để minh bạch trung đạo, tức là như thế; chẳng minh bạch thì chẳng như thế. Trung đạo là căn bản thành Phật, hay sinh ra vô lượng chư Phật, vô lượng Bồ Tát, vô lượng A la hán, vô lượng tổ sư. Tất cả chư Phật trong mười phương ba đời, đều từ trung đạo sinh ra, cho nên không nghĩ bàn.
Chỗ diệu không thể nghĩ bàn của trung đạo, là chẳng cách chi có thể nói hết được, chẳng cách chi có thể minh bạch, chẳng tu trung đạo, thì chẳng cách chi thành quả vị Phật. Do đó, trung đạo tức là chân không, tức cũng là diệu hữu; chân không chẳng không, mới sinh diệu hữu; diệu hữu chẳng hữu, chẳng ngại chân không, biến hóa vô cùng, áo diệu chẳng thể sánh được.
‘’Quang minh chiếu khắp trong mười phương‘’. Tất cả chư Phật đều tu trung đạo, khi tu thành công thì sẽ có đại định lực, đại huệ lực, đại quang minh, chiếu khắp mười phương pháp giới.
‘’Chúng sinh hiện tiền đều thấy Phật‘’. Hết thảy chúng sinh trong mười phương, đều thấy Phật ở trước mình, mỗi chúng sinh đều cảm thấy Phật đang ở trước họ nói pháp.
‘’Giáo hóa thành thục vô lượng số.’’ Phật giáo hóa chúng sinh, khiến cho họ thành thục quả vị Phật, chúng sinh đã thành thục quả vị Phật nhiều không thể nói, không thể nói cho nên nói là vô lượng số.
Các căn chúng sinh đều khác nhau
Phật đều biết rõ chẳng sót thừa
Chủ Thành Thần Diệu Nghiêm Cung Ðiện
Vào pháp môn này tâm vui mừng.
‘’Các căn chúng sinh đều khác nhau‘’. Chúng sinh mỗi người có nhân khác nhau, quả khác nhau, cho nên căn tánh cũng khác nhau. Nhân quả nghiệp báo của chúng sinh chẳng giống nhau, căn tánh của chúng sinh cũng chẳng giống nhau, có người căn lành sâu dày, có người căn lành cạn mỏng. Có người tu hành đã nhiều năm, có người mới bắt đầu tu hành, có người lợi căn, có người độn căn. Cho nên nói đều khác nhau.
‘’Phật đều biết rõ chẳng sót thừa‘’. Tuy căn tánh của chúng sinh chẳng giống nhau, song Phật hoàn toàn thấu rõ. Biết căn tánh của chúng sinh rồi, sau đó mới đối căn cơ mà nói pháp.
‘’Chủ Thành Thần Diệu Nghiêm Cung Ðiện‘’. Vị Chủ Thành Thần Diệu Nghiêm Cung Ðiện, biết được cảnh giới này.
‘’Vào pháp môn này tâm vui mừng.’’ Vị Chủ Thành Thần này, vào được pháp môn này, nên tâm sinh vui mừng.
Như Lai tu hành vô lượng kiếp
Thuở xưa hộ trì pháp chư Phật
Ý thường thừa cử sinh hoan hỷ
Diệu Bảo Thành Thần ngộ môn này.
‘’Như Lai tu hành vô lượng kiếp‘’. Từ vô lượng kiếp đến nay, Phật tu trì hạnh môn Phật pháp.
‘’Thuở xưa hộ trì pháp chư Phật‘’. Thuở xưa, Phật hết lòng hộ trì pháp của chư Phật nói, chẳng khiến cho Phật pháp tiêu diệt.
‘’Ý thường thừa cử sinh hoan hỷ‘’. Tâm ý của Phật thường thường nghinh thừa pháp của chư Phật, cử hành pháp của chư Phật, trong tâm sinh đại hoan hỷ.
‘’Diệu Bảo Thành Thần ngộ môn này.’’ Chủ Thành Thần Thanh Tịnh Diệu Bảo, minh bạch được cảnh giới của Phật, nên vào được môn giải thoát này.
Hộ pháp và giáo hóa chúng sinh, phải dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, mới có thể thành công, giống như tôn giả Ca Chiên Diên đại đệ tử của Phật, Ngài thường ở trong mộng giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh giác ngộ, phát bồ đề tâm, thành vô thượng đạo, có một câu chuyện có thể chứng minh. Tôn giả Ca Chiên Diên có vị đệ tử là ông vua Mi Hi La, vì nhìn thấu hồng trần mà buông bỏ tất cả, bỏ ngôi vua mà xuất gia tu hành, ngày ăn một bữa, đêm nghỉ dưới gốc cây, tu hạnh đầu đà, tóc cũng chẳng cắt, râu cũng chẳng cạo, giống như người nguyên thủy đời xưa.
Một ngày nọ, ông vua nước lân cận tên là A Bàn Ðịa, dẫn đội võ sĩ và cung nữ phi tần vào núi săn bắn, vì du hí tiêu khiển, nên cao hứng tha hồ bắn giết, chẳng bao lâu thì ông vua mệt mỏi và ngủ đi. Những cung nga thể nữ chẳng biết làm gì, bèn đi hái hoa bắt bướm, phát hiện dưới gốc cây có vị Tỳ Kheo tu khổ hạnh. Những cung nga thể nữ bèn vây quanh ông ta, yêu cầu khai thị chỉ dạy, do đó vị Tỳ Kheo vì họ mà giảng giải Phật pháp.
Lúc đó, ông vua tỉnh dậy, phát hiện ra bọn cung nga thể nữ chẳng ở kế bên mình, nên chạy đi tìm, thì thấy họ đang nói chuyện với quái vật, trong cơn thịnh nộ, bèn sai võ sĩ đánh vị Tỳ Kheo bị trọng thương. Vị Tỳ Kheo bèn sinh tâm sân hận, phát nguyện muốn báo thù ngày hôm nay, do đó đến chỗ sư phụ xin hoàn tục. Tôn giả Ca Chiên Diên bèn an ủi ông ta nói : ‘’Ðây là nhân quả, vì kiếp trước ông đã từng đánh ông ta, cho nên đời này ông ta phải đánh ông. Ông phải tin nhân quả tuần hoàn báo ứng.’’ Nhưng vị Tỳ Kheo đó vẫn quyết định phải báo thù. Tôn giả Ca Chiên Diên yêu cầu ông ta ở thêm một đêm nữa, ngày thứ hai hoàn tục trở về làm vua cũng chưa muộn.
Ðêm đó, tôn giả Ca Chiên Diên bèn vận dụng thần thông, ở trong mộng của vị Tỳ Kheo đó, giáo hóa cho ông ta biết nhân quả tơ hào chẳng sai. Vị Tỳ Kheo đó, mộng thấy ông ta trở về làm vua, thần dân đều hoan nghênh, lập ông ta làm vua. Sau khi ông ta lên ngôi rồi, bèn lập tức chuẩn bị chiến tranh, xuất lãnh mười vạn đại quân đến chinh phạt vua A Bàn Ðịa. Song, mỗi lần đánh đều bị thua, cuối cùng bị bắt nhốt, phán tội chém đầu thị chúng. Ðương lúc chấp hình, thì ông ta sinh tâm sám hối, hối hận rằng mình chẳng nghe lời sư phụ dạy bảo, mới có hậu quả ngày hôm nay. Do đó, bèn khẩn cầu sư phụ từ bi mau đến cứu. Ðang lúc cầu nguyện thì bị chém đầu, đầu người rơi xuống. Hốt hoảng tỉnh dậy, nguyên lai là giấc mộng !
Sáng sớm ngày thứ hai, ông ta nói với tôn giả cảnh giới ở trong mộng và đảnh lễ sám hối, quyết tâm chẳng hoàn tục nữa. Vị Tỳ Kheo đó tuy nhiên xuất gia, song tâm chưa được thanh tịnh, còn có sự chấp trước nghĩ không ra. Tôn giả Ca Chiên Diên dùng pháp phương tiện khéo léo, để giáo hóa ông ta, khiến cho ông ta giác ngộ, cho nên giáo hóa chúng sinh, phải dùng đủ thứ phương tiện khác nhau, mới có hiệu quả.
Tôn giả Ca Chiên Diên là luận nghị bậc nhất, có cảnh giới biện tài vô ngại, luận sư ngoại đạo đương thời đều bội phục, Ngài nghị luận rất cao minh.
Có một lần, luận sư chấp đoạn đến vấn nạn : ‘’Người ác chết rồi chịu khổ, thì nên về nói sự khổ. Chết mà không về, do đó chẳng có đời sau.’’
– Tôn giả đáp : ‘’Như tội nhân bị tù có được về chăng‘’ ?
– Lại hỏi : ‘’Người thiện sinh về cõi trời, sao cũng chẳng về báo cho biết sự sung sướng‘’?
– Ðáp : ‘’Như người rớt xuống hầm phân, có chịu trở xuống nữa chăng‘’?
Do đó, Ngài là luận nghị đệ nhất, chẳng có ai sánh bằng.
Thuở xưa Như Lai đã diệt trừ
Tất cả sợ hãi của chúng sinh
Mà luôn từ bi đối với họ
Ðây Ly Ưu Thần tâm ngộ vui.
‘’Thuở xưa Như Lai đã diệt trừ‘’. Lâu xa về trước, Phật hay trừ diệt tất cả sự sợ hãi của tất cả chúng sinh, hay cứu hộ tất cả chúng sinh, khiến cho họ đắc được an lạc.
‘’Tất cả sợ hãi của chúng sinh‘’. Khiến cho tất cả chúng sinh xa lìa tất cả sự ưu sầu, phiền não, sợ hãi.
‘’Mà luôn từ bi đối với họ‘’. Phật thương xót chúng sinh, mà sinh tâm đại từ bi. Có khi dùng từ bi hữu hình, để cứu sự ưu sầu khổ não của chúng sinh, có khi dùng từ bi vô hình, để ban vui vẻ khoái lạc cho chúng sinh.
‘’Ðây Ly Ưu Thần tâm ngộ vui.’’ Cảnh giới này của Phật, chúng sinh chẳng dễ gì minh bạch được, mà vị Chủ Thành Thần Ly Ưu Thanh Tịnh minh bạch được, cho nên tâm sinh hoan hỷ vui mừng.
Trí Phật rộng lớn chẳng bờ mé
Ví như hư không không thể lường
Hoa Mục Thành Thần tỏ ngộ được
Tu học diệu huệ của Như Lai.
‘’Trí Phật rộng lớn chẳng bờ mé‘’. Trí huệ của Phật rộng lớn chẳng có bờ mé, vị Thánh nhân nào cũng không thể so sánh với trí huệ của Phật được, vì trí huệ Phật không bờ mé.
‘’Ví như hư không không thể lường‘’. Trí huệ của Phật giống như hư không. Vì hư không không thể độ lượng, cho nên chẳng cách chi biết được lớn cỡ nào.
‘’Hoa Mục Thành Thần tỏ ngộ được‘’. Cảnh giới này, chỉ có Chủ Thành Thần Hoa Ðăng Diễm Mục tỏ ngộ được, cho nên sinh tâm vui mừng.
‘’Tu học diệu huệ của Như Lai.’’ Vị Chủ Thành Thần này, hay tu tập diệu trí huệ rộng lớn vô biên của Như Lai.
Sắc tướng Như Lai đồng chúng sinh
Tùy họ ưa thích đều khiến thấy
Diễm Tràng Minh Hiện tâm ngộ được
Tu phương tiện này sinh hoan hỷ.
‘’Sắc tướng Như Lai đồng chúng sinh‘’. Sắc thân của Như Lai tùy nơi nào hiện cũng được, chỉ cần chúng sinh hoan hỷ thấy Phật, thì Phật làm cho chúng sinh được mãn nguyện. Vì sắc thân của Phật đồng chúng sinh. Tóm lại, có bao nhiêu chúng sinh, thì Phật thị hiện bấy nhiêu sắc thân.
‘’Tùy họ ưa thích đều khiến thấy‘’. Phật hay tùy thuận nguyện vọng của chúng sinh, phàm là chúng sinh muốn nhìn thấy Phật, thì Phật đều khiến cho họ thấy.
‘’Diễm Tràng Minh Hiện tâm ngộ được‘’. Cảnh giới này, vị Chủ Thành Thần Diễm Tràng Minh Hiện, tỏ ngộ được đạo lý này.
‘’Tu phương tiện này sinh hoan hỷ.’’ Vị Chủ Thành Thần này, tu học phương tiện pháp môn này, nên tâm hoan hỷ vui mừng.
Xưa Như Lai tu các biển phước
Thanh tịnh rộng lớn không bờ mé
Phước Ðức Tràng Quang nơi môn này
Quán sát tỏ ngộ tâm vui mừng.
‘’Xưa Như Lai tu các biển phước‘’. Thuở xưa, khi Phật tu phước tu huệ, thì rất nhận chân tu hành, dù phước nhỏ như sợi tóc, như hạt bụi, cũng chẳng bỏ qua, cho nên tích tụ nhiều như biển cả.
‘’Thanh tịnh rộng lớn không bờ mé‘’. Cử chỉ hành động của Như Lai, đều hay khiến cho chúng sinh, rộng sinh hoan hỷ mà chẳng sinh phiền não, cho nên phước tu được đều thanh tịnh. Phước thanh tịnh đó, rộng lớn chẳng có bờ mé.
‘’Phước Ðức Tràng Quang nơi môn này‘’. Cảnh giới này, vị Chủ Thành Thần Phước Ðức Tràng Quang, minh bạch đắc được môn giải thoát này.
‘’Quán sát tỏ ngộ tâm vui mừng.’’ Ngài quán sát tỉ mỉ mà thấu rõ, trong tâm sinh ra vui mừng.
Chúng sinh ngu mê trong các cõi
Như kẻ đui mù chẳng thấy gì
Phật vì lợi ích hiện ra đời
Thanh Tịnh Quang Thần vào môn này.
‘’Chúng sinh ngu mê trong các cõi‘’. Hết thảy tất cả chúng sinh vì ngu si mê hoặc, cho nên lưu chuyển thọ khổ ở trong tam giới hai mươi lăm cõi, chẳng biết làm thế nào để thoát khỏi luân hồi.
‘’Như kẻ đui mù chẳng thấy gì‘’. Giống như người đui mù, khi sinh ra thì chẳng có mắt, tuy có thể nghe tiếng nói, nhưng chẳng nhìn thấy vật gì, chẳng thấy được mặt trời mặt trăng như thế nào, cho nên người đui mù rất là đau khổ.
Người chẳng hiểu biết Phật pháp, người chẳng biết ra khỏi ba cõi, thật đáng thương như người đui mù. Mục đích xuất gia tu hành, là ra khỏi hai mươi lăm cõi, đắc được pháp thân thanh tịnh. Song, xuất gia chẳng phải là việc dễ dàng. Nếu là người chẳng có căn lành, thì không thể nào xuất gia tu hành. Muốn xuất gia cũng chẳng thành tựu, càng không được mãn nguyện. Cho nên, phải có căn lành thì mới có đại thành tựu, mới mãn được đại nguyện lực.
Có người nói : ‘’Người đó xuất gia được cho nên anh ta xuất gia, tôi không thể xuất gia, cho nên tôi không xuất gia.’’ Tư tưởng này chẳng đúng. Gì là được ? Gì là không được ? Bạn xuất gia thì được, bạn không xuất gia thì không được, chỉ xem bạn có thực hành chăng. Giống như có vị nữ cư sĩ, cô ta xuất gia được, song chẳng ai dạy cô ta xuất gia, nên cô ta chẳng cách gì xuất gia được. Hôm nay, bất hạnh gặp tai nạn xe, đó là sự cảnh cáo. Cô ta đáng lẽ chết mà không chết, vì cô ta còn có tâm muốn xuất gia. Ở trong kinh có nói : ‘’Chẳng có pháp nhất định.’’ Người đáng chết, nhưng nếu tu hành thì không chết. Người không đáng chết, nhưng nếu không tu hành thì sẽ chết. Ðó là dùng công đức để tăng tuổi thọ, chứ chẳng phải uy hiếp. Ông Viên Liễu Phàm vào đời nhà Tống là một điển hình, ông ta đáng lẽ phải chết lúc năm mươi tuổi, nhưng về sau vì làm công đức, do đó sống đến tám mươi tuổi mới chết. Nếu vốn có tuổi thọ là tám mươi, mà làm nhiều chuyện bất nghĩa, thương trời hại lý, tổn người lợi mình, thì sớm sẽ chết yểu.
Lúc tôi ở Chùa Tam Duyên tại Ðông Bắc Trung Quốc, thì một ngày nọ đi hóa duyên với Hoà Thượng trụ trì, đến ngôi làng nọ hóa duyên tại một gia đình họ Vương. Khi chúng tôi đi vào cửa, thì thấy chủ nhà đang quỳ ở trước cửa, bèn hỏi họ sao lại quỳ ở trước cửa thì họ nói : ‘’Vì con của tôi đang mắc chứng bện nặng, bệnh đã lâu mà thầy thuốc đều bó tay. Hôm nay nghe nói lão thiện nhân (người hiểu biết Phật pháp gọi lão Hòa Thượng là lão tu hành; người chẳng hiểu biết Phật pháp gọi là lão thiện nhân) đến hóa duyên, thỉnh lão thiện nhân từ bi, cứu mạng đứa con của tôi‘’!
Lúc đó, Hòa Thượng trụ trì quay đầu lại nói với tôi : ‘’Con nên tìm cách chữa trị xem‘’!
– Tôi nói : ‘’Con chẳng biết trị bệnh ! Có cách gì mà có thể nghĩ‘’?
– Lúc đó, hoà thượng trụ trì lại nói : ‘’Con ở tại Ðại Bá, chẳng phải là đã cứu chữa được một đức bé chăng‘’?
– Tôi nói với người chủ nhà rằng : ‘’Hãy mang nó ra, trước hết xem bệnh tình rồi mới nói.’’
Cha con quỳ ở dưới đất đảnh lễ. Tôi nhìn đứa bé chắc khoảng mười tuổi, có tướng mạo xuất gia. Tôi bèn nói với chủ nhà rằng : ‘’Sau khi con của ông lành bệnh rồi, phải nhất định phải cho nó đi xuất gia, mới không có nguy hiểm, ông đồng ý chăng‘’ ?
Chủ nhà lúc đó chẳng suy nghĩ nói : ‘’Ðương nhiên là được, chỉ cần con của tôi hết bệnh, thì điều kiện gì tôi cũng đồng ý.’’
Tôi lại nói với ông ta rằng : ‘’Bệnh con của ông chẳng cần chữa trị, cũng chẳng cần uống thuốc, nửa tháng sau chắc chắn sẽ hết.‘’ Quả nhiên, chẳng bao lâu đứa con chẳng uống thuốc mà khỏi bệnh.
Hơn một tháng sau, tôi đi qua thôn trang đó, chủ ý đi xem bệnh của đức bé đó như thế nào ? (Lúc đó tôi rất chú ý đứa bé đó, hy vọng nó được xuất gia tu hành). Biết được nó đã hoàn toàn bình phục.
– Tôi nói với cha của đứa bé rằng : ‘’Hãy mau cho nó đi xuất gia.’’
– Ông ta nói : ‘’Ðợi mấy ngày nữa xem tình hình thế nào.’’ Ðứa con lành bệnh rồi, ông ta xả bỏ chẳng đặng, đó là thường tình của con người.
Quá một tháng sau, tôi lại đi xem tình trạng của đứa bé thế nào, lần này tinh thần của đứa bé tốt hơn, vui vẻ nói chuyện với tôi. Tôi lại thúc giục cha của đứa bé, sớm cho đứa bé đi xuất gia, cha của đứa bé chẳng có biểu thị gì. Tôi nói với ông ta rằng : ‘’Nếu chẳng cho nó đi xuất gia, mà bệnh của con ông tái phát, thì lúc đó tôi không còn lo được nữa. Ông nên nghĩ cho thật kỹ, đến lúc đó hối hận cũng chẳng còn kịp nữa.’’ Ông ta cho rằng tôi uy hiếp, cho nên không lý tới, sau đó tôi đi đến nơi khác làm Phật sự.
Khoảng nửa năm sau, tôi lại đi qua thôn trang đó, nhưng lần này chẳng đi xem đứa bé, vì tôi đã biết bệnh của đứa bé lại tái phát nữa. Ðứa bé đó bệnh nằm trên giường, mà biết được tôi đi ngang qua thôn trang, bèn nói với cha rằng : ‘’Vừa rồi có người ở Chùa Tam Duyên vừa mới đi ngang qua thôn của mình, nhưng vị đó không đến thăm con, bệnh của con sẽ không khỏi được.’’ Người cha an ủi nói : ‘’Không sao, mai cha sẽ đến Chùa Tam Duyên thỉnh ông ta đến.’’
Ngày thứ hai, cha của cậu bé đến Chùa Tam Duyên, lúc đó tôi đi ra ngoài chẳng có ở chùa, ông ta nói chuyện với Hoà Thượng trụ trì vài câu rồi đi về nhà.
Ông ta vừa về đến nhà, thì đứa bé nói với ông ta rằng : ‘’Ba ba ! Ba ba ! Con cũng vừa theo ba đến Chùa Tam Duyên.’’
– Ông ta nghe nói rất ngạc nhiên hỏi : ‘’Sao ba không thấy con đi‘’ ?
– Ðứa bé cười nói : ‘’Ba chẳng nhìn thấy con, mà con nhìn thấy ba nói chuyện với Lão thiện nhân ở căn phòng đó, có người nào kế bên cạnh, đi qua đâu, lại có Ðiện vãng sanh và bài vị công đức.’’ Nói rất rõ ràng (đứa bé đó chưa bao giờ đến Chùa Tam Duyên), cha của đứa bé cảm thấy rất là kỳ lạ.
Về sau, tôi lại đi ngang qua thôn trang đó, đứa bé đó nói với ba của y rằng : Người ở Chùa Tam Duyên, hôm nay lại đi ngang qua thôn trang của chúng ta, nhưng không đến nhà mình, đại khái con không được xuất gia‘’ ! Vào tối hôm đó, đứa bé nói với ba của y rằng : ‘’Ba ba ! Hãy thắp đèn lên sớm một chút, nhìn con ngồi có ngay thẳng chăng ? ‘’Ba của đứa bé thắp đèn dầu lên xem, thì đứa bé ngồi kiết già ở trên giường mà vãng sinh.
Ðứa bé đó vốn được xuất gia, nhưng chẳng có ai dạy y đi xuất gia. Bệnh khỏi nhưng cha của cậu bé chẳng nỡ cho con đi xuất gia, kết quả cậu bé chết đi. Từ chỗ này mà nhìn lại, xuất gia hay không xuất gia chẳng nhất định. Tuy đứa bé đã chết nhiều năm, nhưng luôn luôn theo bên cạnh tôi. Lúc đứa bé còn sống, chẳng có duyên đi xuất gia, sau khi chết rồi vẫn biết tu hành. Cho nên vấn đề sanh tử chẳng dễ gì giải quyết được.
‘’Phật vì lợi ích hiện ra đời‘’. Phật vì lợi ích tất cả chúng sinh mới hiện ra thế gian, do đó: ‘’Ðảo giá từ thuyền’’, trở lại bằng con thuyền từ bi, đến thế giới Ta Bà để độ chúng sinh có duyên.
‘’Thanh Tịnh Quang Thần vào môn này.’’ Vị Chủ Thành Thần Tịnh Quang Minh Thân, vào được môn giải thoát này.
Như Lai tự tại chẳng bờ mé
Như mây khắp cùng trong thế gian
Cho đến trong mộng cũng điều phục
Môn này Hương Tràng quán sát thấy.
‘’Như Lai tự tại chẳng bờ mé‘’. Phật dùng thần thông tự tại diệu dụng để giáo hóa tất cả hữu tình, khắp cùng mười phương chúng sinh trong pháp giới, cho nên nói là chẳng bờ mé.
‘’Như mây khắp cùng trong thế gian‘’. Giống như mây ở trong hư không, khắp cùng trong thế gian.
‘’Cho đến trong mộng cũng điều phục‘’. Phật chẳng những giáo hóa lúc chúng sinh tỉnh táo, dù chúng sinh trong giấc mộng, cũng có thể điều phục, khiến cho họ phát tâm bồ đề.
‘’Môn này Hương Tràng quán sát thấy.’’ Cảnh giới này của Phật, vị Chủ Thành Thần Hương Tràng Trang Nghiêm quán sát thấy được.
Chúng sinh ngu tối như đui mù
Ðủ thứ chướng cái trói che đậy
Phật quang chiếu phá khai trí huệ
Bảo Phong Thần vào được môn này.
‘’Chúng sinh ngu tối như đui mù‘’. Sự ngu si đen tối của chúng sinh giống như người đui mù.
‘’Ðủ thứ chướng cái trói che đậy‘’. Sự ngu si của chúng sinh giống như con khỉ, chẳng có lúc nào an tĩnh, tay này cầm lên thì tay kia bỏ xuống, không việc tìm việc làm. Tuy chẳng nhàn rỗi, nhưng chẳng làm được việc gì tốt. Chúng sinh cũng như thế, thứ dục này buông bỏ thì cầm thứ dục kia lên, ví như có người buông bỏ tài vật, lại ôm cầm sắc dục, thậm chí danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ, đủ thứ tâm tham cũng sinh ra. Năm dục này tức là chướng cái, trói buộc che đậy, vì có đủ thứ chướng cái và che đậy trói buộc, cho nên chẳng đắc được giải thoát.
‘’Phật quang chiếu phá khai trí huệ‘’. Phật phóng đại trí huệ quang minh, chiếu phá sự ngu si của chúng sinh, đen tối cũng chiếu phá, khiến cho khắp hết thảy chúng sinh đều khai mở trí huệ.
‘’Bảo Phong Thần vào được môn này.’’ Cảnh giới này, vị Chủ Thành Thần Bảo Phong Quang Mục, thấu rõ mà vào được môn giải thoát này.
Lại nữa, Ðạo Tràng Thần Tịnh Trang Nghiêm Tràng, được môn giải thoát, xuất hiện cúng dường Phật rộng lớn, đồ trang nghiêm thệ nguyện lực.
Nghĩa lý của bộ Kinh Hoa Nghiêm này trùng trùng vô tận, cho nên nghĩa lý ở trên chưa nói hết, lại tiếp tục nói, cho nên nói là lại nữa.
Vị Ðạo Tràng Thần Tịnh Trang Nghiêm Tràng, Ngài vừa thanh tịnh vừa trang nghiêm, như là tràng báu. Ngài là thần hộ trì đạo tràng, tức là nơi nào giảng kinh thuyết pháp tu hành đều là đạo tràng. Ví như, tham thiền tức là đạo tràng tham thiền, niệm Phật là đạo tràng niệm Phật, học giáo lý là đạo tràng giảng giáo lý, trì Chú là đạo tràng trì Chú, trì giới là đạo tràng trì giới. Tóm lại, tu pháp môn gì thì là đạo tràng đó.
Chúng ta người tu đạo, trước hết phải có đạo tràng mới có thể tu được, phải có hộ pháp. Nếu chẳng có hộ pháp thì phải chịu mọi sự chướng ngại. Do đó, phải có thiện thần hộ trì đạo tràng, các Ngài đuổi hết bàng môn tả đạo và thiên ma ngoại đạo đi, chẳng để cho chúng nhiễu loạn người tu đạo
Vị Ðạo Tràng Thần này, đắc được cảnh giới, biết Phật tu hạnh bồ đề trong quá khứ, tức là tu bố thí Ba la mật, trì giới Ba la mật, nhẫn nhục Ba la mật, tinh tấn Ba la mật, thiền định Ba la mật, Bát nhã Ba la mật. Khi tu sáu độ vạn hạnh này, thì hoan hỷ cúng dường tất cả chư Phật trong mười phương ba đời. Lại phát tâm rộng lớn để trang nghiêm tất cả đạo tràng, lại phát đại thệ nguyện lực, đại bồ đề tâm, để rộng độ tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều thành Phật đạo, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Ðạo Tràng Thần Tu Di Bảo Quang, được môn giải thoát, hiện ở trước tất cả chúng sinh, để thành tựu hạnh bồ đề rộng lớn.
Vị Ðạo Tràng Thần Tu Di Bảo Quang, đắc được cảnh giới của Phật. Khi Phật ở tại nhân địa tu hành, thì phát đại nguyện muốn thành tựu hạnh bồ đề rộng lớn của chúng sinh, cho nên hiện ở trước tất cả chúng sinh, khiến cho họ từ bậc phàm phu tu thành bậc Thánh, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Ðạo Tràng Thần Lôi Âm Tràng Tướng, được môn giải thoát, tùy tâm sở thích của tất cả chúng sinh, khiến cho họ thấy Phật ở trong mộng, để vì họ thuyết pháp.
Vị Ðạo Tràng Thần Lôi Âm Tràng Tướng, đắc được một cảnh giới của Phật, hay tùy thuận tâm sở thích của tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh ở trong mộng, thấy được Phật vì họ mà thuyết pháp, Ngài đắc được cảnh giới này.
Mộng có nhiều thứ, cảnh giới mà gặp ban ngày, ở trong mộng có thể hiện ra, đây là mộng hồi ý. Có khi cảnh giới chưa đến, song hiện ra trước ở trong mộng, về sau cảnh giới ở trong mộng mới hiện ra, đây là mộng thần thông. Một số cảnh giới mộng về ban ngày nghĩ gì, thì ban đêm sẽ nằm mộng, hoặc chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh. Ví như khí nóng nhiều thì mộng lửa, khí lạnh nhiều thì mộng nước, gió nhiều thì mộng bay .v.v…
Có mộng quá khứ, mộng hiện tại, mộng tương lai, những giấc mộng này là mộng chẳng thanh tịnh, cảnh mộng cũng chẳng rõ ràng. Nếu mộng thấy chư Phật, mộng thấy Bồ Tát, mộng thấy A La Hán, để vì bạn nói pháp, khiến cho bạn khai mở đại trí huệ, thì đây là mộng thanh tịnh, cảnh mộng rất rõ ràng, thậm chí có quang minh màu đỏ, hoặc quang minh màu vàng, đây là biểu hiện cảm ứng đạo giao. Nếu như kiền thành niệm, Phật thì nhất định sẽ mộng thấy thân Phật A Di Ðà, phóng kim quang để chiếu soi bạn.
Ðạo Tràng Thần Vũ Hoa Diệu Nhãn, được môn giải thoát, hay mưa xuống tất cả các báu vật trang nghiêm khó xả bỏ.
Vị Ðạo Tràng Thần Vũ Hoa Diệu Nhãn, đắc được cảnh giới hay đem báu vật hiếm có, bố thí cho tất cả chúng sinh. Ngài minh bạch đức Phật thuở quá khứ tu, ngoài thì xả bỏ đất nước vợ con, trong thì xả bỏ đầu mắt tuỷ não, cho nên, Ngài hay mưa xuống tất cả các báu vật trang nghiêm khó xả bỏ, Ngài đắc được cảnh giới nầy.
Ðạo Tràng Thần Thanh Tịnh Diễm Hình, được môn giải thoát, hay hiện đạo tràng vi diệu trang nghiêm, rộng độ chúng sinh, khiến cho họ thành thục.
Vị Ðạo Tràng Thần Thanh Tịnh Diễm Hình, đắc được cảnh giới, hiện ra khắp đạo tràng vi diệu trang nghiêm, để rộng độ giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều thành thục Phật đạo, Ngài đắc được môn giải thoát nầy.
Ðạo Tràng Thần Hoa Anh Thuỳ Kế, được môn giải thoát, tuỳ thuận căn cơ thuyết pháp, khiến cho chúng sinh sinh chánh niệm.
Vị Ðạo Tràng Thần Hoa Anh Thuỳ Kế, được cảnh giới tuỳ thuận căn tính của chúng sinh để thuyết pháp, đối với người đại căn đại trí, thì nói pháp tối thượng thừa, người trung căn trung trí, thì nói pháp trung thừa, người tiểu căn tiểu trí, thì nói pháp tiểu thừa, khiến cho tất cả chúng sinh cải tà theo chánh, Ngài đắc được môn giải thoát nầy.
Tà niệm là gì? Tức là tham sân si, chấp vào tham sân si, hành tham sân si. Chánh niệm là gì? Tức là giới định huệ, siêng tu giới định huệ để diệt trừ tham sân si, như thế thì sẽ được giải thoát, khiến cho tất cả chúng sinh, đều tu theo pháp môn giới định huệ.
Ðạo Tràng Thần Vũ Bảo Trang Nghiêm, được môn giải thoát, hay dùng biện tài mưa xuống khắp vô biên pháp hoan hỉ.
Vị Ðạo Tràng Thần Vũ Bảo Trang Nghiêm, đắc được cảnh giới, mưa xuống khắp tất cả diệu pháp, để trang nghiêm hết thảy đạo tràng, hay dùng biện tài vô ngại để rưới xuống vô biên pháp hoan hỉ, khiến cho chúng sinh nghe pháp đều được hoan hỉ, Ngài đắc được cảnh giới nầy.
Ðạo Tràng Thần Dũng Mãnh Hương Nhãn, được môn giải thoát, rộng khen ngợi công đức của chư Phật.
Vị Ðạo Tràng Thần Dũng Mãnh Hương Nhãn, minh bạch được cảnh giới của Phật, hay rộng khen ngợi công đức của chư Phật, ở trong cõi nước của chư Phật, trong mười phương tận hư không khắp pháp giới, đều khen ngợi công đức của chư Phật rộng lớn chẳng có bờ mé, như hư không, Ngài đắc được môn giải thoát nầy.
Có người dùng kiến giải thế tục nói: “Chư Phật cũng hoan hỉ người khác khen ngợi, đây là biểu hiện hữu tình, cho nên nói chư Phật cũng có tình cảm”. Phật giáo đồ nhận lầm mắt cá làm hạt châu cũng nói: “Phật tức là hữu tình, hữu tình tức là Phật”. Vậy, có phải như thế chăng? Chẳng phải! Phật là Thánh nhân, không hoan hỉ chúng sinh tán thán công đức của Ngài, dù khen ngợi Ngài cũng chẳng hoan hỉ, phỉ báng Ngài cũng chẳng giận, khen chê đều chẳng lay động, thuận nghịch đều như như. Bất cứ gặp cảnh giới thuận, hoặc cảnh giới nghịch, cũng đều như như bất động, cho nên chiếu rõ thật tướng của các pháp.
Ðức Phật là bậc giác ngộ vĩ đại nhất trên thế giới, minh bạch tất cả đạo lý, do đó thường vắng lặng không động, giác chiếu thường minh. Chẳng giống như chúng ta chúng sinh có sự chấp trước, nói họ hai câu tốt, thì họ vui mừng như ăn đường, nói họ một câu không tốt, thì họ khổ còn hơn là ăn bòn hòn, thậm chí còn cay đắng hơn là ăn ớt. Ðó là tri kiến của chúng sinh.
Tại sao chúng ta phải khen ngợi Phật? Vì khen ngợi công đức của Phật, thì có thể tăng trưởng công đức của mình, hơn nữa khen ngợi Phật tức là khen mình, khen mình tức là khen Phật, cho nên phải khen ngợi Phật.
Có người đang nghĩ tưởng: “A! Vậy, ta tự khen mình là ‘thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn’, là người có trí huệ nhất trên thế gian”. Nếu bạn có đại trí huệ chân chánh, thì có thể tự khen mình, song nếu chỉ nghĩ hồ đồ hư danh thì vô dụng, phải có công phu chân thật, thì mới có thể bách chiến bách thắng, chẳng có công phu chân thật, thì nhất định bách chiến bách bại.
Phật làm thế nào mà được thành Phật? Là rộng khen ngợi công đức của chư Phật, chẳng riêng gì khen ngợi công đức của chư Phật quá khứ, mà cũng khen ngợi công đức của chư Phật hiện tại, và chư Phật vị lai, đều khen ngợi công đức của chư Phật ba đời, thì sau đó mình cũng thành Phật.
Ðạo Tràng Thần Kim Cang Thải Vân, được môn giải thoát, thị hiện vô biên cây sắc tướng, để trang nghiêm đạo tràng.
Vị Ðạo Tràng Thần Kim Cang Thải Vân, đắc được cảnh giới của Phật, ở tại Bồ đề đạo tràng, thị hiện vô lượng vô biên cây tốt đẹp trang nghiêm, để trang nghiêm đạo tràng, khiến cho chúng sinh thấy cảnh tượng bảy hàng cây, mà phát tâm vô thượng bồ đề, đắc được vô thượng đạo, Ngài đắc được môn giải thoát nầy.
Ðạo Tràng Thần Liên Hoa Quang Minh, được môn giải thoát, dưới cội bồ đề tĩnh lặng không động, mà sung mãn khắp mười phương.
Vị Ðạo Tràng Thần Liên Hoa Quang Minh, đắc được cảnh giới của Phật, ngồi dưới cội bồ đề tĩnh lặng không động. Tuy nhập định, nhưng quang minh vẫn sung mãn khắp mười phương pháp giới, Ngài dùng quang minh để giáo hoá tất cả chúng sinh, Ngài đắc được môn giải thoát nầy.
Ðạo Tràng Thần Diệu Quang Chiếu Diệu, được môn giải thoát, hiển bày đủ thứ lực của Như Lai.
Vị Ðạo Tràng Thần Diệu Quang Chiếu Diệu, đắc được đủ thứ lực của Như Lai. Tuy Như Lai có mười lực, song, nếu nói ra tỉ mỉ thì Như Lai có trăm lực, ngàn lực, vạn lực, vô lượng lực, Ngài đắc được môn giải thoát nầy.
Bấy giờ, Ðạo Tràng Thần Tịnh Trang Nghiêm Tràng, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Ðạo Tràng Thần, mà nói bài kệ rằng.
Lúc đó, vị Ðạo Tràng Thần Tịnh Trang Nghiêm Tràng, nương sức đại oai thần của Phật, quán sát khắp tất cả chúng Thần ở trong đạo tràng, mà dùng kệ để khen ngợi công đức của Phật.
Tôi nhớ Như Lai thuở xa xưa
Trong vô lượng kiếp siêng tu hành
Chư Phật ra đời đều cúng dường
Nên được công đức như hư không.
“Tôi nhớ Như Lai thuở xa xưa”. Vị Ðạo Tràng Thần Tịnh Trang Nghiêm Tràng nói: “Tôi nhớ lại khi Phật ở trong vô lượng kiếp về trước, tu hành vô lượng hạnh môn”.
“Trong vô lượng kiếp siêng tu hành”. Khi Phật ở tại nhân địa, thì trải qua thời gian vô lượng kiếp, tu hành pháp môn rộng lớn cúng dường chư Phật, tức là hạnh môn “Rộng tu cúng dường”, trong mười đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền.
“Chư Phật ra đời đều cúng dường”. Khi Phật Thích Ca Mâu Ni tại nhân địa tu hành, thì thảy đều cúng dường mười phương chư Phật. Mỗi vị Phật xuất hiện ra đời, Ngài đều cúng dường vị Phật đó.
“Nên được công đức như hư không”. Cho nên, mới được công đức lớn, bất khả thuyết bất khả thuyết, vô lượng vô biên, như tận hư không khắp pháp giới.
Xưa Phật tu hành vô tận thí
Ðồng số hạt bụi vô lượng cõi
Tu Di Quang Chiếu Bồ Ðề Thần
Nhớ nghĩ Thiện Thệ tâm hoan hỉ.
“Xưa Phật tu hành vô tận thí”. Thuở xưa Phật tu hành pháp môn bố thí, thậm chí đất nước vợ con, đầu mắt tuỷ não, thảy đều bố thí cho chúng sinh, cho nên nói tu hành vô tận thí.
“Ðồng số hạt bụi vô lượng cõi”. Phật tu vô tận thí, nhiều như số hạt bụi trong vô lượng cõi.
“Tu Di Quang Chiếu Bồ Ðề Thần”. Vị Ðạo Tràng Thần Tu Di Quang Chiếu minh bạch cảnh giới nầy.
“Nhớ nghĩ Thiện Thệ tâm hoan hỉ”. Vị Ðạo Tràng Thần nầy nói : “Hiện tại, tôi nghĩ nhớ lại thuở xưa hạnh môn của Phật tu, trong tâm rất hoan hỉ vô cùng, nguyện sẽ tu tập pháp môn nầy.
Sắc tướng Như Lai không cùng tận
Biến hoá lưu khắp tất cả cõi
Cho đến trong mộng thường thị hiện
Lôi Tràng thấy được sinh hoan hỉ.
“Sắc tướng Như Lai không cùng tận”. Thanh tịnh pháp thân, trang nghiêm báo thân, thiên bách ức hoá thân, đủ thứ sắc thân của Phật đều không cùng tận.
“Biến hoá lưu khắp tất cả cõi”. Thần thông biến hoá của Phật diệu không thể tả, giống như nước chảy khắp mọi nơi, chu biến khắp cùng các cõi, để giáo hoá tất cả chúng sinh.
“Cho đến trong mộng thường thị hiện”. Chẳng những chúng sinh lúc tỉnh táo, Phật đều giáo hoá cứu độ tất cả chúng sinh, mà cho đến ở trong mộng của chúng sinh, Phật cũng thị hiện để giáo hoá họ, khiến cho chúng sinh phát bồ đề tâm, hành Bồ Tát đạo, cầu vô thượng đạo, chứng quả vô thượng.
“Lôi Tràng thấy được sinh hoan hỉ”. Vị Ðạo Tràng Thần Lôi Âm Tràng Tướng, thấy được cảnh giới nầy, trong tâm rất hoan hỉ, không cách chi hình dung được sự vui mừng ở trong nội tâm.
Xưa tu hạnh xả vô lượng kiếp
Xả mắt khó xả nhiều như biển
Hạnh xả như thế vì chúng sinh
Diệu Nhãn Thần ngộ được môn nầy.
“Xưa tu hạnh xả vô lượng kiếp”. Thuở xưa, đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tu hành hạnh môn xả bỏ, trải qua vô lượng vô biên biển kiếp.
“Xả mắt khó xả nhiều như biển”. Phật xả bỏ được những gì người khác không xả bỏ được, chỉ nội con mắt mà Ngài xả bỏ nhiều như biển. Con mắt là vật người không xả bỏ được, mà Phật xả bỏ được, chẳng những xả bỏ một, mà là xả bỏ con mắt nhiều như biển, hạnh xả bỏ nầy thật là vĩ đại.
“Hạnh xả như thế vì chúng sinh”. Hạnh môn bố thí như thế, chẳng phải vì mình, mà là vì tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh đắc được trí huệ quang minh. Phật giống như đèn cầy, hy sinh chính mình mà chiếu sáng thế gian.
“Diệu Nhãn Thần ngộ được môn nầy”. Vị Ðạo Tràng Thần Vũ Hoa Diệu Nhãn, lãnh ngộ được cảnh giới nầy, mà sinh vui thích.
Vô biên sắc tướng mây báu đẹp
Hiện bồ đề tràng khắp thế gian
Ðạo Tràng Thần Diễm Hình Thanh Tịnh
Thấy Phật tự tại sinh hoan hỉ.
“Vô biên sắc tướng mây báu đẹp”. Phật có vô lượng vô biên sắc tướng trang nghiêm như mây báu đẹp. Ngài du hoá trong vô lượng vô biên cõi nước, để giáo hoá chúng sinh, khiến cho chúng sinh đắc được trí huệ quang minh, mà chấm dứt sinh tử, đạt đến cứu kính Niết Bàn.
“Hiện bồ đề tràng khắp thế gian”. Thị hiện khắp bồ đề đạo tràng, khắp hết thảy tất cả thế gian.
“Ðạo Tràng Thần Diễm Hình Thanh Tịnh”. Vị Ðạo Tràng Thần Diễm Hình Thanh Tịnh, thấy được cảnh giới nầy.
“Thấy Phật tự tại sinh hoan hỉ”. Thấy được Phật có cảnh giới, biến hoá tự tại thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn nầy, nên tâm sinh hoan hỉ mà vui mừng.
Chúng sinh biển hạnh chẳng bờ mé
Phật tiêu diệt khắp rưới mưa pháp
Tuỳ căn tánh họ trừ nghi hoặc
Hoa Anh ngộ được tâm hoan hỉ.
“Chúng sinh biển hạnh chẳng bờ mé”. Chúng sinh tạo nghiệp và thọ quả báo, như biển cả chẳng có bờ mé.
“Phật tiêu diệt khắp rưới mưa pháp”. Phật khiến cho hết thảy chúng sinh, tiêu trừ sạch tất cả nghiệp chướng, để giáo hoá họ, khiến cho họ đắc được mưa pháp, thấm nhuần căn lành, khiến cho tăng trưởng, khiến cho thành thục, khiến cho họ được giải thoát.
“Tuỳ căn tánh họ trừ nghi hoặc”. Tuỳ theo căn tánh của chúng sinh, để giải trừ nghi hoặc của chúng sinh, tức là : Kiến, tư hoặc (hoặc về sự thấy và nghĩ), trần sa hoặc, vô minh hoặc. Tứ quả A la hán đã đoạn trừ được kiến tư hoặc, Bồ Tát đã đoạn trừ trần sa hoặc, Phật đã hoàn toàn đoạn trừ vô minh hoặc.
“Hoa Anh ngộ được tâm hoan hỉ”. Vị Ðạo Tràng Thần Hoa Anh Thuỳ Kế, minh bạch được đạo lý nầy, tâm sinh đại hoan hỉ.
Vô lượng pháp môn nghĩa khác nhau
Biện tài như biển đều vào được
Ðạo Tràng Thần Vũ Bảo Nghiêm Cụ
Trong mỗi tâm niệm luôn như thế.
“Vô lượng pháp môn nghĩa khác nhau”. Vì pháp môn vô lượng, nên nghĩa lý cũng vô lượng. Nghĩa lý vô lượng thì có rất nhiều sự khác nhau.
“Biện tài như biển đều vào được”. Tất cả pháp môn và diệu nghĩa của các pháp, cần có đầy đủ biện tài như biển cả, mới vào được tất cả pháp môn, hiểu rõ nghĩa chân thật của các pháp.
“Ðạo Tràng Thần Vũ Bảo Nghiêm Cụ”. Vị Ðạo Tràng Thần Vũ Bảo Nghiêm Cụ, minh bạch được cảnh giới nầy.
“Trong mỗi tâm niệm luôn như thế”. Ở trong tâm niệm của Ngài, niệm niệm luôn luôn không quên môn giải thoát nầy.
Trong bất khả thuyết tất cả cõi
Dùng hết lời lẽ khen ngợi Phật
Nên được tiếng khen đại công đức
Dũng Nhãn Thần nghĩ nhớ môn nầy.
“Trong bất khả thuyết tất cả cõi”. Vì cõi nước nhiều giống như bụi, cho nên gọi là bất khả thuyết bất khả thuyết tất cả cõi.
“Dùng hết lời lẽ khen ngợi Phật”. Khi Phật ở tại nhân địa, thì trong bất khả thuyết cõi, Phật dùng hết thảy lời lẽ thế gian để khen ngợi chư Phật, tức cũng là dùng đủ thứ ngôn ngữ, để khen ngợi công đức của chư Phật.
“Nên được tiếng khen đại công đức”. Vì thuở xưa tại nhân địa khen ngợi chư Phật, cho nên tại quả địa được tiếng khen tốt đẹp nhất, và công đức lớn nhất.
“Dũng Nhãn Thần nghĩ nhớ môn nầy”. Vị Ðạo Tràng Thần Dũng Mãnh Hương Nhãn, nghĩ nhớ lại môn giải thoát nầy.
Ðủ thứ cây sắc tướng vô biên
Hiện khắp dưới cội bồ đề vương
Kim Cang Thải Vân ngộ môn nầy
Thường quán đạo thụ sinh hoan hỉ.
“Ðủ thứ cây sắc tướng vô biên”. Trong Bồ đề đạo tràng, có đủ thứ cây vô biên sắc đẹp trang nghiêm.
“Hiện khắp dưới cội bồ đề vương”. Loại cây vô biên sắc tướng nầy, hiện khắp ở dưới cội bồ đề vương.
“Kim Cang Thải Vân ngộ môn nầy”. Vị Ðạo Tràng Kim Cang Thải Vân, minh bạch được môn giải thoát nầy.
“Thường quán đạo thụ sinh hoan hỉ”. Ngài thường quán xem sắc tướng cây thụ vương, mà sinh tâm hoan hỉ.
Mười phương bờ mé bất khả đắc
Phật ngồi đạo tràng trí cũng vậy
Liên Hoa Bộ Quang tịnh tín tâm
Vào giải thoát này rất vui mừng.
“Mười phương bờ mé bất khả đắc”. Bờ mé mười phương không cách chi lường được, chẳng biết cứu kính lớn cỡ nào? Ðó mới là không thể nghĩ bàn.
“Phật ngồi đạo tràng trí cũng vậy”. Phật ngồi đạo tràng trí huệ cũng như thế, chẳng có bờ mé.
“Liên Hoa Bộ Quang tịnh tín tâm”. Vị Ðạo Tràng Thần Liên Hoa Bộ Quang, thấy được cảnh giới nầy, minh bạch được pháp môn nầy, bèn sinh tín tâm thanh tịnh.
“Vào giải thoát nầy rất vui mừng”. Ngài vào môn giải thoát nầy, trong tâm rất hoan hỉ vui mừng.
Tất cả đạo tràng vang diệu âm
Khen Phật sức thanh tịnh khó nghĩ
Và còn thành tựu các nhân hạnh
Ðây Diệu Quang Thần nghe thọ được.
“Tất cả đạo tràng vang diệu âm”. Tất cả đạo tràng đều diễn xướng pháp âm vi diệu.
“Khen Phật sức thanh tịnh khó nghĩ “. Khen ngợi sức thanh tịnh của Phật không thể nghĩ bàn.
“Và còn thành tựu các nhân hạnh”. Và còn thành tựu tất cả nhân địa hạnh môn của chúng sinh, cũng thành tựu nhân địa hạnh môn của chính mình.
“Ðây Diệu Quang Thần nghe thọ được”. Vị Ðạo Tràng Thần Diệu Quang Chiếu Diệu, nghe được diệu âm nầy, mà thọ được pháp ích, y theo pháp mà tu hành.
Lại nữa, Túc Hành Thần Bảo Ấn Thủ, được môn giải thoát, mưa khắp các báu sinh hoan hỉ rộng lớn.
Lại nữa, là tiếp tục nói, vị Túc Hành Thần Bảo Ấn Thủ nầy có bảo ấn, hàng phục được bàng môn tả đạo, Ngài là Thần quản lý chúng sinh túc hành. Túc hành có rất nhiều loại: Có loài hai chân, bốn chân, sáu chân, tám chân, mười chân, thậm chí một trăm chân. Phàm là dùng chân để đi, đều gọi là túc hành. Giống như Thần đại phục hành, tức là Thần túc hành.
Vị Túc Hành Thần nầy khéo về bố thí, hay mưa xuống các châu báu, bố thí khắp cho chúng sinh cần dùng, khiến cho tất cả chúng sinh đều sinh tâm đại hoan hỉ. Ngài đắc được môn giải thoát nầy.
Túc Hành Thần Liên Hoa Quang, được môn giải thoát, thị hiện thân Phật, ngồi trên tất cả tòa hoa sen quang sắc, khiến cho ai thấy cũng đều hoan hỷ.
Vị Túc Hành Thần Liên Hoa Quang, có tòa hoa sen bốn màu, hay phóng ra quang minh bốn màu; màu xanh thì quang minh xanh, màu vàng thì quang minh vàng, màu đỏ thì quang minh đỏ, màu trắng thì quang minh trắng, mùi vị phảng phất hương thơm tinh khiết vi diệu. Ngài đắc được cảnh giới, thị hiện được thân Phật, ngồi ở trên tất cả tòa sen quang sắc, khiến cho tất cả chúng sinh ai thấy được, đều sinh tâm đại hoan hỷ, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Túc Hành Thần Tối Thắng Hoa Kế, được môn giải thoát, trong mỗi mỗi tâm niệm, kiến lập chúng hội đạo tràng của tất cả Như Lai.
Vị Túc Hành Thần Tối Thắng Hoa Kế, ở trong mỗi tâm niệm, kiến lập pháp hội đạo tràng của Phật, và pháp hội đạo tràng của mười phương chư Phật để diễn nói diệu pháp, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Túc Hành Thần Nhiếp Chư Thiện Kiến, được môn giải thoát, dở chân cất bước, điều phục được vô biên chúng sinh.
Vị Túc Hành Thần Nhiếp Chư Thiện Kiến, đắc được cảnh giới, hay nhiếp thọ một thứ thiện kiến giải của tất cả chúng sinh. Ngài mỗi lần dở tay, cất chân, đều điều phục được vô biên chúng sinh, khiến cho họ đắc được khoái lạc, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Túc Hành Thần Diệu Bảo Tinh Tràng, được môn giải thoát, trong niệm niệm hóa hiện ra đủ thứ lưới hoa sen quang minh, mưa xuống khắp các thứ châu báu, vang ra âm thanh vi diệu.
Vị Túc Hành Thần Diệu Bảo Tinh Tràng, ở trong niệm niệm, hay hóa hiện ra đủ thứ lưới hoa sen quang minh, tức cũng là vô lượng quang minh, mưa xuống vô lượng pháp bảo. Ở trong các báu, ở trong lưới hoa sen, ở trong quang minh, còn vang ra âm thanh diệu pháp thâm sâu vô thượng, để giáo hóa tất cả chúng sinh, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Túc Hành Thần Lạc Thổ Diệu Âm, được môn giải thoát, sinh ra vô biên biển hoan hỷ.
Vị Túc Hành Thần Lạc Thổ Diệu Âm, đắc được cảnh giới, hay khoái lạc vang ra vô biên diệu âm. Tất cả chúng sinh nghe được âm thanh vi diệu này, đều sinh tâm hoan hỷ rộng lớn như biển, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Túc Hành Thần Chiên Ðàn Thụ Quang, được môn giải thoát, dùng gió thơm giác ngộ khắp tất cả chúng hội đạo tràng.
Vị Túc Hành Chiên Ðàn Thụ Quang, đắc được cảnh giới, dùng gió thơm chiên đàn, để thuyết pháp khiến cho chúng sinh ở trong tất cả đạo tràng, ngửi được thứ gió thơm này rồi, thì đều phát tâm bồ đề, sinh tâm giác ngộ, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Túc Hành Thần Liên Hoa Quang Minh, được môn giải thoát, tất cả lỗ chân lông đều phóng quang minh, diễn nói pháp âm vi diệu.
Vị Túc Túc Hành Thần Liên Hoa Quang Minh, đắc được cảnh giới của Phật, ở trong mỗi lỗ chân lông của Phật, đều phóng ra đại quang minh, chiếu khắp mười phương mà diễn nói pháp âm thâm sâu vi diệu, khiến cho chúng sinh nghe được chân thật nghĩa Phật pháp, đều y theo pháp tu hành, ở trong định được giải thoát, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Túc Hành Thần Vi Diệu Quang Minh, được môn giải thoát, khắp thân Phật phóng ra đủ thứ lưới quang minh, chiếu sáng khắp mười phương.
Vị Túc Hành Thần Vi Diệu Quang Minh, đắc được cảnh giới của Phật, là thân Phật khắp phóng ra lưới quang minh, chiếu khắp ba ngàn thế giới phá trừ đen tối, khiến cho chúng sinh mười phương pháp giới, đều đắc được quang minh, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Túc Hành Thần Tích Tập Diệu Hoa, được môn giải thoát, khai ngộ tất cả chúng sinh, khiến cho sinh biển căn lành.
Vị Túc Hành Thần Tích Tập Diệu Hoa, đắc được cảnh giới, chẳng những hay khiến cho tất cả chúng sinh, khai ngộ đắc được trí huệ siêu nhân, mà còn khiến cho tất cả chúng sinh, chẳng có căn lành thì đều sinh ra căn lành lớn. Căn lành của Ngài sinh ra nhiều như biển cả, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Bấy giờ, Túc Hành Thần Bảo Ấn Thủ, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Túc Hành Thần, rồi nói bài kệ rằng.
Lúc đó, vị Túc Hành Thần Bảo Ấn Thủ, nương sức đại oai thần của Phật, quán sát khắp hết thảy nhân duyên của chúng Túc Hành Thần, rồi nói bài kệ bốn câu :
Xưa vô lượng kiếp Phật tu hành
Cúng dường tất cả các Như Lai
Tâm luôn vui mừng chẳng nhàm mỏi
Hạnh môn sâu lớn như biển cả.
‘’Xưa vô lượng kiếp Phật tu hành.’’ Phật từ vô lượng kiếp đến nay, tu tất cả hạnh môn cúng dường chư Phật.
‘’Cúng dường tất cả các Như Lai.’’ Khi Phật tu hành tại nhân địa, thì Ngài đều cúng dường hết thảy tất cả chư Phật.
‘’Tâm luôn vui mừng chẳng nhàm mỏi.’’ Tuy Phật cúng dường chư Phật, song tâm chẳng mỏi mệt. Cúng dường Phật càng nhiều, thì càng sinh tâm vui mừng.
‘’Hạnh môn sâu lớn như biển cả.’’ Hạnh môn của Phật tu rất là sâu xa, rất là rộng lớn, sâu rộng như biển cả.
Niệm niệm thần thông không thể lường
Hóa hiện hoa sen đủ thứ hương
Phật ngồi trên đó du vãng khắp
Hồng Sắc Quang Thần nhìn thấy được.
‘’Niệm niệm thần thông không thể lường.’’ Ở trong niệm niệm, nghĩ tưởng đến thần thông của Phật không thể suy lường, chẳng cách chi biết được cứu kính số lượng bao nhiêu.
‘’Hóa hiện hoa sen đủ thứ hương.’’ Dùng thần thông của Phật, để biến hóa thị hiện tất cả hoa sen, trên hoa sen còn phóng ra đủ thứ hương thơm, khiến cho người nghe thân tâm được thanh lương tự tại.
‘’Phật ngồi trên đó du vãng khắp.’’ Phật ngự trên tòa hoa sen, mà du vãng khắp hết thảy cõi nước trong mười phương pháp giới, để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui.
‘’Hồng Sắc Quang Thần nhìn thấy được.’’ Cảnh giới này diệu không thể tả, vị Túc Hành Thần Hồng Sắc Quang nhìn thấy được, nên Ngài minh bạch đạo lý này, mà vào môn giải thoát này.
Pháp chư Phật Như Lai như vậy
Chúng hội rộng lớn khắp mười phương
Thần thông hiện khắp không nghĩ bàn
Tối Thắng Hoa Thần thấy môn này.
‘’Chư Phật Như Lai pháp như vậy.’’ Mười phương chư Phật, tất cả Như Lai, hết thảy Phật pháp đều như vậy.
‘’Chúng hội rộng lớn khắp mười phương.’’ Bất cứ vị Phật nào, cũng đều hóa hiện chúng hội đạo tràng rộng lớn đầy khắp mười phương.
‘’Thần thông hiện khắp không nghĩ bàn.’’ Phật hiện ra sức thần thông rộng lớn, không thể sánh, khó nghĩ bàn.
‘’Tối Thắng Hoa Thần thấy môn này.’’ Vị Túc Hành Thần Tối Thắng Hoa Kế, thấy được và hiểu rõ đạo lý cảnh giới này.
Mười phương cõi nước khắp mọi nơi
Trong sự dở chân hoặc hạ chân
Thảy đều thành tựu các quần sinh
Thiện Kiến Thần ngộ được môn này.
‘’Mười phương cõi nước khắp mọi nơi.’’ Ở trong mười phương cõi nước hết thảy mọi nơi.
‘’Trong sự dở chân hoặc hạ chân.’’ Ở trong mỗi cõi nước, Phật dở chân hoặc hạ chân.
‘’Thảy đều thành tựu các quần sinh.’’ Mỗi cử chỉ, mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi việc làm, đều vì giáo hóa chúng sinh, thành tựu chúng sinh, khiến cho chúng sinh đắc được lợi ích.
‘’Thiện Kiến Thần ngộ được môn này.’’ Vị Túc Hành Thần Nhiếp Chư Thiện Kiến, ngộ được môn giải thoát này, mà sinh tâm hoan hỷ.
Hiện thân khắp như số chúng sinh
Mỗi mỗi thân hình đầy pháp giới
Ðều phóng tịnh quang mưa các báu
Tinh Tràng vào được giải thoát này.
‘’Hiện thân khắp như số chúng sinh.’’ Có bao nhiêu chúng sinh, thì Phật hiện bấy nhiêu thân, thân Phật và số lượng chúng sinh đều đồng nhau.
‘’Mỗi mỗi thân hình đầy pháp giới.’’ Tuy hiện số thân chúng sinh, song mỗi thân đều đầy khắp pháp giới.
‘’Ðều phóng tịnh quang mưa các báu.’’ Thân Phật đầy khắp pháp giới, đều phóng ra quang minh thanh tịnh, mưa xuống các báu vật.
‘’Tinh Tràng vào được giải thoát này.’’ Môn giải thoát này, vị Túc Hành Thần Diệu Bảo Tinh Tràng thâm nhập được.
Cảnh giới Như Lai không bờ mé
Khắp rưới mưa pháp đều sung mãn
Chúng hội thấy Phật sinh hoan hỷ
Ðây chỗ thấy của Diệu Âm Thanh.
‘’Cảnh giới Như Lai không bờ mé.’’ Cảnh giới của Phật như hư không, chẳng có bờ mé.
‘’Khắp rưới mưa pháp đều sung mãn.’’ Khắp rưới xuống mưa pháp, sung mãn mười phương pháp giới.
‘’Chúng hội thấy Phật sinh hoan hỷ.’’ Tất cả chúng hội đạo tràng trong mười phương pháp giới, thấy được Phật đều sinh đại hoan hỷ.
‘’Ðây chỗ thấy của Diệu Âm Thanh.’’ Vị Túc Hành Thần Diệu Âm Thanh Tràng, giác ngộ đạo lý này, mà thấy được cảnh giới này.
Âm thanh của Phật đồng hư không
Tất cả âm thanh đều ở trong
Ðiều phục khắp hết thảy chúng sinh
Chiên Ðàn nghe thọ được như vậy.
‘’Âm thanh của Phật đồng hư không.’’ Âm thanh của Phật tận hư không khắp pháp giới, chẳng có một nơi nào mà chẳng có âm thanh của Phật, cho nên nói âm thanh của Phật đồng như hư không.
‘’Tất cả âm thanh đều ở trong.’’ Phật dùng một âm diễn nói pháp, theo loài chúng sinh đều hiểu rõ. Người phương đông nghe được tiếng của người phương đông; người phương tây nghe được ngôn ngữ của người phương tây. Tóm lại, loài chúng sinh nào, thì nghe được tiếng của loài đó, không cần phiên dịch, song người nghe đều minh bạch hiểu rõ.
‘’Ðiều phục khắp hết thảy chúng sinh.’’ Âm thanh của Phật hàng phục được chúng sinh cang cường. Dù cọp nghe được tiếng của Phật, cũng quy y Tam Bảo, sư tử nghe được tiếng của Phật, cũng quy y Tam Bảo, tín thọ phụng hành. Âm thanh của Phật khắp hết thảy mọi nơi chốn, mà vì chúng sinh thuyết pháp, khiến cho chúng sinh khó điều khó phục, đều y theo pháp mà tu hành.
‘’Chiên Ðàn nghe thọ được như vậy.’’ Cảnh giới này, vị Túc Hành Thần Chiên Ðàn Thụ Quang, nghe thọ được mà hiểu rõ.
Cảnh giới của Kinh Hoa Nghiêm sung mãn pháp giới, đừng nói là nghe kinh, chỉ đọc kinh văn, hoặc nghe âm thanh này, thì đã trồng xuống vô lượng căn lành. Nếu hiểu được nghĩa lý nữa, thì sẽ tăng trưởng vô lượng căn lành, cho nên nói cảnh giới của Kinh Hoa Nghiêmdiệu không thể tả.
Sáng sớm dậy phải lên khóa lễ sáng, ngồi thiền, dịch kinh, tối thì phải dự khóa lễ tối, nghe kinh, đó đều là trừ khử tập khí mao bệnh của chúng ta, tức cũng dạy chúng ta không khởi vọng tưởng. Tại sao chúng ta không khai ngộ ? Vì có vọng tưởng. Phật pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn, môn nào cũng đều vì diệt vọng tưởng. Song, chúng ta vẫn đang khởi vọng tưởng, đó chẳng phải là đáng thương chăng ?
Tất cả lỗ lông vang hóa âm
Xiển dương danh hiệu Phật ba đời
Ai nghe âm này đều hoan hỷ
Liên Hoa Quang Thần thấy như vậy.
‘’Tất cả lỗ lông vang hóa âm.’’ Ở trong mỗi lỗ chân lông trên thân của Ðức Phật, đều sinh ra diệu âm biến hóa.
‘’Xiển dương danh hiệu Phật ba đời.’’ Diệu pháp âm biến hóa này, xiển dương khen ngợi danh hiệu của tất cả chư Phật ba đời.
‘’Ai nghe âm này đều hoan hỷ.’’ Khiến cho tất cả chúng sinh, phàm ai nghe được diệu âm này, đều sinh tâm hoan hỷ.
‘’Liên Hoa Quang Thần thấy như vậy.’’ Vị Túc Hành Thần Liên Hoa Quang Minh, thấy được cảnh giới này.
Thân Phật biến hiện không nghĩ bàn
Tất cả sắc tướng như biển cả
Tùy tâm chúng sinh đều khiến thấy
Ðây sở đắc của Diệu Quang Minh.
‘’Thân Phật biến hiện không nghĩ bàn.’’ Thân Phật biến hóa vô cùng, do đó có câu : ‘’Thiên bách ức hóa thân’’, cảnh giới này không thể nghĩ bàn.
‘’Hết thảy sắc tướng như biển cả.’’ Phật biến hóa tất cả diệu sắc tướng rộng lớn như biển cả.
‘’Tùy tâm chúng sinh đều khiến thấy.’’ Tùy theo tâm niệm của chúng sinh, đều khiến cho chúng sinh thấy được thân của Phật.
‘’Ðây sở đắc của Diệu Quang Minh.’’ Vị Túc Hành Thần Vi Diệu Quang Minh, minh bạch được môn giải thoát này.
Mười phương khắp hiện đại thần thông
Tất cả chúng sinh đều khai ngộ
Chúng Diệu Hoa Thần nơi pháp này
Thấy rồi tâm sinh đại hoan hỷ.
‘’Mười phương khắp hiện đại thần thông.’’ Phật thị hiện thần thông rộng lớn ở trong mười phương pháp giới.
‘’Tất cả chúng sinh đều khai ngộ.’’ Khiến cho tất cả chúng sinh, từ trong ngu si đắc được trí huệ.
‘’Chúng Diệu Hoa Thần nơi pháp này.’’ Vị Túc Hành Thần Tích Tập Diệu Hoa, rất hứng thú đối với diệu pháp này.
‘’Thấy rồi tâm sinh đại hoan hỷ.’’ Ngài nhìn thấy diệu pháp này rồi, đắc được pháp hỷ sung mãn, sinh tâm hoan hỷ.
Lại nữa, Thân Chúng Thần Tịnh Hỷ Cảnh Giới, được môn giải thoát, nhớ biển thệ nguyện thuở xưa của Phật.
Tiếp tục nói đạo lý nghĩa kinh ở trên. Vị Thân Chúng Thần Tịnh Hỷ Cảnh Giới, có cảnh giới thanh tịnh hoan hỷ, Ngài là Thần thiên biến vạn hóa nhiều thân, hay nhớ lại thệ nguyện thuở xưa của Ðức Phật đã phát ra, tức là : Rộng tu bố thí, cúng dường chư Phật, phổ độ chúng sinh, đều thành Phật đạo. Những thệ nguyện này rộng lớn thâm sâu như biển cả, chẳng có bờ mé, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chúng ta phải tu học theo Phật, Phật phát vô lượng đại nguyện, chúng ta là đệ tử của Phật, cũng phải phát vô lượng nguyện cầu vô thượng đạo. Nhất là người tu đạo, chúng ta cần phải phát đại nguyện, sau đó mới đắc được quả báo lớn, đại nguyện giống như chiếc thuyền qua biển, nếu muốn qua biển cả mà chẳng có thuyền, thì không cách chi đến được bờ kia, do đó phát nguyện rất là quan trọng.
Thân Chúng Thần Quang Chiếu Thập Phương, được môn giải thoát, quang minh chiếu khắp vô biên thế giới.
Vị Thân Chúng Thần Quang Chiếu Thập Phương, quang minh của Ngài chiếu sáng khắp mười phương thế giới. Hết thảy chúng sinh trong các cõi, đều đắc được quang minh này chiếu đến, mà sinh ra đại trí huệ, minh bạch pháp thế gian là : Vô thường, khổ, không, vô ngã; pháp xuất thế gian là : Thường, lạc, ngã, tịnh. Ngài đắc được môn giải thoát này.
Thân Chúng Thần Hải Âm Ðiều Phục, được môn giải thoát, âm thanh lớn giác ngộ khắp tất cả chúng sinh, khiến cho họ hoan hỷ mà điều phục được.
Vị Thân Chúng Thần Hải Âm Ðiều Phục này, có âm thanh như hải triều, khiến khắp tất cả chúng sinh nghe được, thì khai ngộ và điều phục được những chúng sinh cang cường, khiến cho họ đều sinh đại hoan hỷ, chịu nghe sự giáo hóa, sửa đổi tập khí mao bệnh không tốt, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Thân Chúng Thần Tịnh Hoa Nghiêm Kế, được môn giải thoát, thân như hư không, chu biến trụ khắp pháp giới.
Vị Thân Chúng Thần Tịnh Hoa Nghiêm Kế, minh bạch được thân của Phật như hư không, chẳng có bờ mé, không chỉ chu biến khắp mười phương pháp giới, mà còn trụ trong pháp giới, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Thân Chúng Thần Vô Lượng Oai Nghi, được môn giải thoát, mở bày cho tất cả chúng sinh cảnh giới của chư Phật.
Vị Thân Chúng Thần Vô Lượng Oai Nghi, minh bạch được Phật, chỉ thị cho tất cả chúng sinh pháp môn cải tà quy chánh, bỏ mê về giác, Ngài còn minh bạch cảnh giới của chư Phật không thể nghĩ bàn, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Thân Chúng Thần Tối Thắng Quang Nghiêm, được môn giải thoát, khiến cho tất cả chúng sinh, đói thiếu được đầy đủ sắc lực.
Vị Thân Chúng Thần Tối Thắng Quang Nghiêm, minh bạch Phật hay khiến tất cả chúng sinh bần cùng thiếu thốn, đều đắc được thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn; lấy niềm vui thiền định làm thức ăn, pháp hỷ tràn đầy, khí sắc và sức lực đều no nê đầy đủ. Chúng sinh chẳng đắc được thiền định, tức là đói pháp, chẳng đắc được pháp hỷ, tức là thiếu pháp. Tu đạo mà đắc được thiền định và pháp hỷ, thì mới đầy đủ sắc lực. Ngài đắc được môn giải thoát này.
Thân Chúng Thần Tịnh Quang Hương Vân, được môn giải thoát, trừ phiền não dơ bẩn của tất cả chúng sinh.
Vị Thân Chúng Thần Tịnh Quang Hương Vân, minh bạch được Phật diệt trừ phiền não dơ bẩn của tất cả chúng sinh. Phiền não tức là nhiễm ô, nhiễm ô tức là phiền não, cả hai đồng một thể. Mục đích chúng ta tu đạo, là biến phiền não thành bồ đề. Bồ đề tức là thanh tịnh, thanh tịnh tức là bồ đề, đồng thể nhưng khác tên, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Người tu đạo, nếu không xả đặng phiền não dơ bẩn, thì uổng phí công phu, giống như người chẳng tu hành, chẳng có chút giá trị gì. Những Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni và cư sĩ của Chùa Kim Sơn chúng ta, nhất định phải trừ sạch phiền não dơ bẩn, đừng tranh với mọi người, mà phải nhẫn nhục với mọi người, do đó có câu :
‘’Nhẫn phiến khắc phong bình lãng tịnh
Thối nhất bộ hải khoát thiên không.’’
Nghĩa là :
Nhịn một chút gió yên sóng lặng,
Lùi một bước biển rộng trời cao.
Ðược như thế thì mọi người hòa bình với nhau, hóa địch thành bạn. Phải biết rằng, có duyên mới sống với nhau, cùng nghiên cứu Phật pháp. Nếu dùng phiền não để làm việc, thì thủy chung sẽ không thành công, cũng không thể thành tựu được tam muội. Do đó, bất cứ làm việc gì, đều phải trừ khử phiền não mới sinh tâm bồ đề.
Có người nói : ‘’Hiện nay thế giới này đang hư hoại.’’ Ðây là quan niệm sai lầm.
Thế giới vốn chẳng hư hoại, có người nói : ‘’Thế giới chẳng hư hoại mà con người biến hoại.’’ Ðây cũng là sự phán đoán sai lầm, người cũng chẳng hư hoại.
Lúc này có người hỏi : ‘’Vậy, thế giới chẳng hư hoại, con người cũng chẳng hư hoại, song thế giới này chẳng thái bình, mọi người tranh đấu với nhau, bạn tranh tôi giành, cứu kính là gì hư hoại‘’?
Tức là tâm của con người hư hoại. Vì tâm của con người quá hư hoại, cho nên thế giới mới hư hoại, làm cho con người cũng hư hoại. Tâm hư hoại rồi, thì sẽ tạo nghiệp ác, tạo nghiệp ác thì phải chịu quả báo ác; thọ quả báo ác thì tạo thành thế giới không bình an. Muốn con người tốt, thế giới tốt, thì trước hết từ trong tâm của con người làm ra. Tâm con người tốt thì thế giới tự nhiên sẽ chẳng có chiến tranh.
Giống như chùa Kim Sơn có hai vị Tỳ Kheo phát tâm ba bước lạy một lạy, hướng về đỉnh núi cao nhất ở Tây Nhã Ðồ (Seatle, tiểu bang Washington nước Mỹ), đó là nơi chư Phật tụ hội. Song, hai vị hành giả Tỳ Kheo này chẳng phải lạy Phật, Bồ Tát, mà là vì cầu nguyện cho thế giới hòa bình, cầu nguyện cho tâm của con người trên thế giới cải ác hướng thiện, tiêu diệt tất cả tai nạn của thế giới, khiến cho nhân loại bình an, thế giới thái bình. Nếu ai ai trước hết cũng từ nội tâm của mình mà làm, chẳng có ích kỷ lợi mình, chẳng có tham sân si, thì thế giới sẽ thái bình.
Tại sao bây giờ thế giới chẳng thái bình ? Vì tâm tham của ai cũng lớn. Nhân vật lớn thì có tâm tham lớn, nhân vật nhỏ thì có tâm tham nhỏ, ai cũng đều có tâm tham. Tham tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều, hưởng thụ năm dục này. Người chấp chính thì tham vọng nước của mình rộng lớn, kinh tế phồn thịnh, cho nên tìm cách xâm lược nước yếu, hoặc là dùng văn hóa xâm lược, kinh tế xâm lược, chính trị xâm lược, cuối cùng dẫn đến chiến tranh bùng nổ. Do đó, thế giới không thể thái bình. Nhân dân muốn phát tài, muốn hưởng thụ, có xe hơi lại muốn nhà rộng, có vợ đẹp lại muốn thiếp xinh. Từ khi sanh ra cho đến chết, đều muốn nhiều tiền, cho rằng tiền là vạn năng, có tiền thì vạn sự đều hanh thông, tiền là trên hết, tiền là đệ nhất, cho nên tạo thành phong khí xã hội ngày nay không tốt, đánh mất đi quan niệm đạo đức hồi xưa. Tại sao có sự việc như vậy ? Vì vật chất dẫn dụ. Do đó, tâm của con người chẳng như xưa, dùng hết tâm cơ, tìm hết mưu kế, bất chấp thủ đoạn làm cho được mục đích. Có tâm tham như thế thì xã hội làm sao yên được ?
Người tu đạo phải chú trọng tu dưỡng về mặt tinh thần, chứ đừng chú trọng về hưởng thụ vật chất. Cho nên đề xướng ba y, ăn một bữa, khiến cho trừ khử đi tâm tham dục. Pháp môn hàng đầu trong lục độ là bố thí, bố thí cho chúng sinh, tức chẳng có tâm tham mà có tâm từ bi. Do đó, các bạn nên phát tâm cúng dường, tâm bố thí, tâm từ bi.
Thân Chúng Thần Thủ Hộ Nhiếp Trì, được môn giải thoát, chuyển được nghiệp ma ngu si của tất cả chúng sinh.
Vị Thân Chúng Thần Thủ Hộ Nhiếp Trì, chuyển biến được ngu si của tất cả chúng sinh, khiến cho họ sinh trí huệ, chuyển phiền não biến thành bồ đề, chuyển nghiệp ma (nhiễm ô) thành nghiệp thanh tịnh. Chỉ cần tu hành giới luật thì sẽ thành tựu, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Thân Chúng Thần Phổ Hiện Nhiếp Hóa, được môn giải thoát, ở trong khắp tất cả cung điện của thế chủ, hiển bày tướng trang nghiêm.
Vị Thân Chúng Thần Phổ Hiện Nhiếp Hóa, ở trong khắp tất cả cung điện của thế chủ ở, hiển bày ra cung điện trang nghiêm, khiến cho chúng sinh thấy mà sinh tín tâm và tâm cung kính, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Thân Chúng Thần Bất Ðộng Quang Minh, được môn giải thoát, nhiếp khắp tất cả chúng sinh, khiến cho họ sinh căn lành thanh tịnh.
Vị Thân Chúng Thần Bất Ðộng Quang Minh, hay nhiếp hóa khắp tất cả chúng sinh, khiến cho họ sinh ra căn lành thanh tịnh. Căn lành này đều là căn lành vô lậu, căn lành cứu kính. Tuy làm lành mà chẳng chấp trước vào tướng lành, làm qua rồi thì tốt, đó là căn lành thanh tịnh. Ngài đắc được môn giải thoát này.
Bấy giờ, Thân Chúng Thần Tịnh Hỷ Cảnh Giới, nương oai lực của đức Phật, quán sát tất cả đại chúng Thân Chúng Thần, rồi nói bài kệ rằng.
Lúc đó, vị Thân Chúng Thần Tịnh Hỷ Cảnh Giới, nương sức đại oai thần của Phật, quán sát khắp tất cả đại chúng Thân Chúng Thần, rồi dùng kệ để nói đạo lý trường hàng ở trên.
Tôi nhớ Tu Di bụi kiếp trước
Có Phật Diệu Quang hiện ra đời
Thế Tôn ở chỗ Như Lai đó
Phát tâm cúng dường tất cả Phật.
‘’Tôi nhớ Tu Di bụi kiếp trước.’’ Thân Chúng Thần Tịnh Hỷ Cảnh Giới nói : ‘’Tôi nhớ lại thuở xưa số kiếp nhiều như bạt bụi núi Tu Di.’’
‘’Có Phật Diệu Quang hiện ra đời.’’ Lúc đó, có vị Phật hiệu là Diệu Quang, Ngài đến thế giới này thành Phật.
‘’Thế Tôn ở chỗ Như Lai đó.’’ Khi vị Phật Diệu Quang ra đời, đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni bèn phát đại nguyện.
‘’Phát tâm cúng dường tất cả Phật.’’ Phát tâm cúng dường Phật Diệu Quang, và cúng dường tất cả chư Phật mười phương ba đời.
Thân Như Lai phóng đại quang minh
Quang đó sung mãn khắp pháp giới
Chúng sinh gặp được tâm điều phục
Ðây chỗ thấy của Chiếu Phương Thần.
‘’Thân Như Lai phóng đại quang minh.’’ Tại sao thân của Phật lại phóng quang minh ? Vì tất cả tập khí mao bệnh đều thanh tịnh. Tất cả phiền não đều biến thành bồ đề, tất cả đen tối u ám biến thành quang minh, cho nên thân của Như Lai phóng đại quang minh.
Người tu đạo, công phu đến nhà thì khai mở đại trí huệ. Có đại trí huệ thì trên thân sẽ phóng ra quang minh năm màu. Quang minh này, hay phá trừ đen tối và ai có duyên, thì người đó sẽ thấy được quang minh. Phàm là người thấy được quang minh, đều sẽ phát tâm bồ đề. Bây giờ, không phát tâm thì tương lai chắc chắn sẽ phát tâm, đời này không phát tâm thì đời sau nhất định sẽ phát tâm. Tóm lại, đợi khi nào cơ duyên chín mùi, thì nhất định sẽ xuất gia tu đạo, lấy sự cứu người cứu đời làm trách nhiệm của mình, cho nên Phật thường phóng đại quang minh, chiếu soi chúng sinh, khiến cho họ bỏ bụi trần hợp với giác ngộ, thì trở về ngôi nhà Như Lai.
‘’Quang đó sung mãn khắp pháp giới.’’ Quang minh của Phật tận hư không khắp pháp giới, chẳng có nơi nào mà chẳng có quang minh của Phật, do đó ‘’Phật quang phổ chiếu.’’ Nếu chúng ta quét sạch ngu si phiền não, thì sẽ chuyển phiền não thành trí huệ giác ngộ, lúc đó sẽ thấy được quang minh của Phật. Quang minh của Phật như ánh sáng mặt trăng, tâm của chúng sinh như nước, nếu nước thanh tịnh thì quang minh của Phật sẽ hiện tiền. Tâm chúng sinh thanh tịnh tức là nước lắng trong, thì mặt trăng tự hiện vào.
‘’Chúng sinh gặp được tâm điều phục.’’ Phàm ai gặp được quang minh của Phật, thì chúng sinh cang cường sẽ hết cang cường, chúng sinh ngu si cũng hết ngu si, chúng sinh phiền não cũng hết phiền não, tiếp thọ được quang minh của Phật cảm hóa, mà hàng phục được tập khí mao bệnh.
‘’Ðây chỗ thấy của Chiếu Phương Thần.’’ Vị Thân Chúng Thần Phổ Chiếu Thập Phương, thấy được cảnh giới của môn giải thoát này.
Tiếng Như Lai chấn mười phương cõi
Tất cả lời lẽ đều viên mãn
Giác khắp quần sinh chẳng thừa sót
Ðiều Phục nghe được tâm vui mừng.
‘’Tiếng Như Lai chấn mười phương cõi.’’ Quang minh của Như Lai sung mãn mười phương pháp giới, tiếng của Như Lai chấn động khắp mười phương cõi nước.
‘’Tất cả lời lẽ đều viên mãn.’’ Lời nói và âm thanh đều viên mãn.
‘’Giác khắp quần sinh chẳng thừa sót.’’ Giác ngộ khắp tất cả chúng sinh, chẳng để sót một chúng sinh nào mà chẳng được giác ngộ.
‘’Ðiều Phục nghe được tâm vui mừng.’’ Vị Thân Chúng Thần Hải Âm Ðiều Phục, nghe được âm thanh này, mà sinh tâm hoan hỷ vui mừng.
Thân Phật thanh tịnh thường vắng lặng
Hiện khắp sắc tướng vô các tướng
Trụ khắp như vậy nơi thế gian
Ðây chỗ nhập của Tịnh Hoa Thần.
‘’Thân Phật thanh tịnh thường vắng lặng.’’ Thân Phật thanh tịnh thường vắng lặng, thân Phật không lay động nơi bổn xứ.
‘’Hiện khắp các sắc vô các tướng’’. Thân Phật hiện ra khắp tất cả sắc thân diệu hữu, song sắc thân diệu hữu chẳng có tất cả tướng, vì là chân không. Trong chân không thấy diệu hữu, diệu hữu tức là chân không, cho nên chẳng có các tướng, do đó có câu :
‘’Chư pháp tùng bản lai,
Thường tự tịch diệt tướng,
Bất sinh diệc bất diệt,
Bất khả dĩ ngôn thuyên.’’
Nghĩa là :
Nguồn gốc của các pháp,
Tướng thường tự vắng lặng,
Không sinh cũng không diệt,
Không thể dùng lời nói.
Tức là đạo lý này.
‘’Trụ khắp như vậy nơi thế gian.’’ Chân không diệu hữu như vậy, trụ khắp hết thảy trong mười phương thế gian.
‘’Ðây chỗ vào của Tịnh Hoa Thần.’’ Vị Thân Chúng Thần Tịnh Hoa Nghiêm Kế, vào được môn giải thoát này.
Ðạo sư như vậy không nghĩ bàn
Tùy tâm chúng sinh đều khiến thấy
Hoặc ngồi hoặc đi hoặc khi đứng
Vô Lượng Oai Nghi ngộ môn này.
‘’Ðạo sư như vậy không nghĩ bàn.’’ Tiếp dẫn đại Ðạo sư không thể nghĩ bàn, có oai nghi như thế không thể tả, có uy đáng sợ có nghi dung đáng kính.
‘’Tùy tâm chúng sinh đếu khiến thấy.’’ Tùy theo tâm niệm của chúng sinh, mà khiến cho họ được thấy tướng đại oai nghi: Ði, đứng, nằm, ngồi của Phật.
‘’Hoặc ngồi hoặc đi hoặc khi đứng.’’ Chúng sinh thấy Phật, bất cứ đi đứng nằm ngồi, đều trang nghiêm đầy đủ oai nghi, tức cũng là ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh đều như pháp.
Ba ngàn oai nghi là gì ? Tức là Tỳ Kheo phải đầy đủ hai trăm năm mươi giới, mỗi giới đủ bốn oai nghi : Ði, đứng, nằm, ngồi, thành ra một ngàn, noi theo ba đời (quá khứ, hiện tại và vị lai), thành ra ba ngàn, đó là ba ngàn oai nghi.
Tám vạn tế hạnh là gì ? Tức là ba ngàn oai nghi phối hợp với thân nghiệp ba chi (sát, đạo, dâm) và khẩu nghiệp bốn chi (nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, chửi mắng) thành là hai vạn một ngàn, lại phối hợp ba độc (tham, sân, si) và bốn phiền não tức là tám vạn bốn ngàn oai nghi, nay chỉ lược nói tám vạn.
‘’Vô Lượng Oai Nghi ngộ môn này.’’ Vị Thân Chúng Thần Vô Lượng Oai Nghi, thấu rõ minh bạch được môn giải thoát này.
Trăm ngàn kiếp khó gặp được Phật
Ra đời lợi ích được tự tại
Khiến đời đều lìa khổ bần cùng
Tối Thắng Quang Nghiêm vào môn này.
‘’Trăm ngàn kiếp khó gặp được Phật.’’ Khi chúng ta ra đời thì Phật đã vào Niết Bàn, cho nên chẳng dễ gì thấy được Phật. Ở trong tám nạn thì chúng ta rơi vào nạn sinh ra sau Phật. Do đó, trong trăm ngàn kiếp cũng chẳng dễ gì gặp được Phật, dù gặp được Phật cũng chẳng nhận ra Phật.
‘’Ra đời lợi ích được tự tại.’’ Tại sao Phật phải hiện ra đời ? Vì muốn lợi ích chúng sinh, muốn độ chúng sinh lìa khổ được vui, Ngài dùng thần thông diệu dụng tự tại, để cứu khổ chúng sinh, ban vui cho chúng sinh.
‘’Khiến đời đều lìa khổ bần cùng.’’ Phật khiến cho hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới, đều lìa khỏi khổ về bần cùng, đắc được lợi ích của pháp. Không hiểu Phật pháp tức là bần cùng, hiểu Phật pháp tức là giàu sang. Do đó, người tu đạo là đại phú ông, là giàu sang thật.
‘’Tối Thắng Quang Nghiêm vào môn này.’’ Vị Thân Chúng Thần Tối Thắng Quang Nghiêm, vào được môn giải thoát này.
Mỗi mỗi tướng răng của Như Lai
Khắp phóng mây thơm đèn sáng rực
Tiêu diệt tất cả hoặc chúng sinh
Ly Cấu Vân Thần thấy như vậy.
‘’Mỗi mỗi tướng răng của Như Lai.’’ Phật có bốn mươi cái răng, mỗi cái răng đều phóng ra quang minh. Khi Phật diễn nói Kinh Hoa Nghiêm, hội thứ nhất tại Bồ Ðề Ðạo Tràng, thì phóng quang minh nơi răng.
‘’Khắp phóng mây thơm đèn sáng rực.’’ Khắp phóng ra một thứ mây thơm đèn sáng rực rỡ, do đủ thứ ánh sáng mà thành mây lửa ngọn.
‘’Diệt trừ tất cả hoặc chúng sinh.’’ Thứ mây lửa ngọn này, hay diệt trừ tất cả mê hoặc của chúng sinh. Mê hoặc tức là kiến tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc, và phiền não chướng, sở tri chướng.
‘’Ly Cấu Vân Thần thấy như vậy.’’ Vị Thân Chúng Thần Ly Cấu Vân, thấy được cảnh giới này, mà vào môn giải thoát này.
Chúng sinh nhiễm hoặc nên chướng nặng
Cứ theo đường ma lưu chuyển luôn
Như Lai mở bày đường giải thoát
Thủ Hộ Chấp Trì ngộ vào được.
‘’Chúng sinh nhiễm hoặc nên chướng nặng.’’ Vì chúng sinh bị pháp nhiễm ô mê hoặc, cho nên chẳng thanh tịnh. Không thanh tịnh thì sinh ra đủ thứ chướng nặng, thứ chướng nặng này, che đậy tự tính quang minh, cho nên trí huệ Bát nhã chẳng hiện tiền.
‘’Cứ theo đường ma lưu chuyển luôn.’’ Vì bị chướng nặng che đậy, vì chẳng có trí huệ, cho nên cứ theo đường ma mà lưu chuyển luôn.
Giống như tại chùa Kim Sơn chúng ta, là pháp hội nói chánh pháp, dạy người cải tà về chánh, song người đến nghe pháp chỉ có hai ba mươi vị, đến đây nghiên cứu Phật pháp. Nếu như mở đại hội ca múa, thì sẽ có mấy ngàn người tranh nhau đến thưởng thức biểu diễn những thứ chẳng thanh tịnh, thứ chẳng có ích gì đối với thân tâm. Vì tư tưởng của chúng sinh chẳng thanh tịnh, nên thích cảnh giới không thanh tịnh.
‘’Như Lai mở bày đường giải thoát.’’ Phật vì những chúng sinh điên đảo này, mà mở bày con đường giải thoát, khiến cho họ biết để mà đi.
‘’Thủ Hộ Chấp Trì ngộ vào được.’’ Vị Thân Chúng Thần Thủ Hộ Chấp Trì, vào được môn giải thoát này.
Tôi quán sức tự tại của Phật
Quang bủa pháp giới đều sung mãn
Nơi cung điện vua hóa chúng sinh
Cảnh giới này của Phổ Hiện Thần.
‘’Tôi quán sức tự tại của Phật.’’ Vị Thân Chúng Thần Phổ Hiện Nhiếp Hóa nói : ‘’Tôi quán sát sức tự tại đại thần thông của Như Lai.’’
‘’Quang bủa pháp giới đều sung mãn.’’ Ðại quang minh từ thân Phật phóng ra, đều bủa giăng che trùm khắp mười phương pháp giới, hết thảy pháp giới đều đầy dẫy quang minh của Phật.
‘’Nơi cung điện vua hóa chúng sinh.’’ Phật trụ ở trong cung điện của vua, để giáo hóa tất cả chúng sinh.
‘’Cảnh giới này của Phổ Hiện Thần.’’ Vị Thân Chúng Thần Phổ Hiện Nhiếp Hóa, thấu rõ cảnh giới này.
Chúng sinh mê vọng đủ thứ khổ
Phật ở trong đó thường cứu hộ
Ðều khiến diệt hoặc sinh vui mừng
Bất Ðộng Quang Thần quán thấy được.
‘’Chúng sinh mê vọng đủ thứ khổ.’’ Hết thảy chúng sinh vì điên đảo, mà mê mất con đường chân chánh, dẫn đến vọng tưởng lăn xăn, đầy dẫy tất cả mọi thứ khổ.
‘’Phật ở trong đó thường cứu hộ.’’ Phật luôn luôn ở trong sáu nẻo luân hồi, cứu hộ tất cả khổ não của chúng sinh.
‘’Ðều khiến diệt hoặc sinh vui mừng.’’ Khiến cho khắp hết thảy chúng sinh, đều diệt trừ mê hoặc mà sinh tâm hoan hỷ vui tươi.
‘’Bất Ðộng Quang Thần quán thấy được.’’ Vị Thân Chúng Thần Bất Ðộng Quang Minh, quán sát thấy được môn giải thoát này.
Lại nữa, Chấp Kim Cang Thần Diệu Sắc Khẩn Na La Diên, được môn giải thoát, thấy đức Như Lai thị hiện vô biên thân sắc tướng.
Nghĩa lý ở trên vẫn nói chưa hết, bây giờ tiếp tục nói. Vị Chấp Kim Cang Thần Diệu Sắc Khẩn Na La Diên. Na La Diên dịch là “kiên cố”, sắc tướng của Ngài rất kiên cố, chẳng dễ gì phá hoại, cho nên làm Chấp Kim Cang Thần, trong tay cầm chày báu bằng kim cang, hoặc là kim cang vương bảo kiếm, để làm thiện thần hộ pháp. Ngài minh bạch cảnh giới của Phật, thấy Phật thị hiện vô biên thân sắc tướng, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chấp Kim Cang Thần Nhật Luân Tốc Tật Tràng, được môn giải thoát, mỗi mỗi sợi lông trên thân của Phật, như bánh xe mặt trời, hiện ra đủ thứ mây quang minh.
Vị Chấp Kim Cang Thần Nhật Luân Tốc Tật Tràng, minh bạch cảnh giới của Phật. Mỗi sợi lông trên thân của Phật, đều có một luồng quang minh bánh xe, giống như quang minh của bánh xe mặt trời. Ở trong quang minh bánh xe hay phóng ra mây quang minh năm màu, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chấp Kim Cang Thần Tu Di Hoa Quang, được môn giải thoát, đại thần thông biến hóa hiện vô lượng thân.
Vị Chấp Kim Cang Thần Tu Di Hoa Quang, minh bạch cảnh giới của Phật, Phật hay hóa hiện vô lượng thân, hiển hiện đại thần thông biến hóa. Bổn lai, ma có tướng của ma, Phật có tướng của Phật, song có khi vì muốn hàng ma, thì Phật hiện ra tướng ma. Tướng ma hiện ra phải cao lớn hơn so với ma, ví như thân ma cao một trăm trượng, thì Phật hóa hiện ra thân ma cao một ngàn trượng, như thế mới hàng phục được ma, ma mới năm thể sát đất đảnh lễ, y giáo phụng hành. Ðó là phương tiện pháp môn hàng ma. Ngài đắc được môn giải thoát này.
Phật pháp ứng dụng thì áo diệu vô cùng, nếu chẳng ứng dụng thì giống như cùng tử, chẳng biết trong áo có hạt minh châu, vì không biết, cho nên là người nghèo, biết được thì là người giàu. Hạt minh châu này hay sinh ra tất cả châu báu, lấy không hết, dùng không xuể. Ai được hạt minh châu này, thì đó là người giàu có. Hạt minh châu này là Phật pháp, tức cũng là pháp bảo vô tận.
Chấp Kim Cang Thần Thanh Tịnh Vân Âm, được môn giải thoát, vô biên tùy loại âm thanh.
Vị Chấp Kim Cang Thần Thanh Tịnh Vân Âm, minh bạch cảnh giới của Phật, là hay tùy thuận đủ loại chúng sinh mà hiện thân thuyết pháp. Ví như Phật muốn độ loài cá, thì hiện thân cá mà nói pháp của cá, muốn độ rồng thì hiện thân rồng, mà nói pháp của rồng, muốn độ cọp thì hiện thân cọp, mà nói pháp của cọp, muốn độ chim thì hiện thân chim, mà nói pháp của chim. Cho nên, hiện vô biên thân nói vô biên thứ tiếng, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chấp Kim Cang Thần Diệu Tý Thiên Chủ, được môn giải thoát, hiện làm chủ tất cả thế gian, để khai ngộ chúng sinh.
Vị Chấp Kim Cang Thần Diệu Tý Thiên Chủ, minh bạch cảnh giới của Phật, biết rõ Phật thị hiện chủ của tất cả thế gian, để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh đều khai ngộ. Vì sao phải thị hiện chủ thế gian ? Vì chủ thế gian có sức lãnh đạo, chúng sinh tin lời ông vua của họ nói, rất dễ dàng dẫn dắt họ về với con đường chánh, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chấp Kim Cang Thần Khả Ái Lạc Quang Minh, được môn giải thoát, khai thị khắp tất cả môn khác nhau của Phật pháp, đều hoàn toàn hiểu rõ.
Vị Chấp Kim Cang Thần Khả Ái Lạc Quang Minh, minh bạch cảnh giới của Phật, là khiến cho khắp hết thảy tất cả chúng sinh, thấu rõ tất cả nghĩa lý Phật pháp. Tất cả pháp môn khác nhau, Ngài đều hoàn toàn minh bạch, chẳng có chỗ nào không hiểu, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chấp Kim Cang Thần Ðại Thụ Lôi Âm, được môn giải thoát, dùng đồ trang nghiêm đáng ưa thích, để nhiếp tất cả Thần cây.
Vị Chấp Kim Cang Thần Ðại Thụ Lôi Âm, minh bạch cảnh giới của Phật, dùng đồ trang nghiêm đáng ưa thích, để quản lý tất cả Thần cây. Vì đa số Thần cây thích đồ trang nghiêm, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chấp Kim Cang Thần Sư Tử Vương Quang Minh, được môn giải thoát, thấu rõ phước trang nghiêm tụ rộng lớn của Như Lai, đều đầy đủ.
Vị Chấp Kim Cang Thần Sư Tử Vương Quang Minh, minh bạch cảnh giới của Phật, là không xả bỏ phước nhỏ mà thành tựu phước rộng lớn. Vì phước nhiều rồi thì đầy đủ trang nghiêm, cõi nước cũng trang nghiêm, cung điện cũng trang nghiêm, pháp tướng cũng trang nghiêm, tất cả đều trang nghiêm. Chẳng những trang nghiêm mà còn phước huệ đầy đủ, thấu rõ căn tính của tất cả chúng sinh, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chấp Kim Cang Thần Mật Diễm Cát Tường Mục, được môn giải thoát, quán sát khắp tâm hiểm ác của chúng sinh, vì họ mà hiện thân oai nghi trang nghiêm.
Vị Chấp Kim Cang Thần Mật Diễm Cát Tường Mục, minh bạch cảnh giới của Phật, hay quán sát khắp tất cả tâm chúng sanh hiểm ác nhất, để hiện ra thân oai nghi và trang nghiêm, khiến cho loại chúng sinh này, thấy thân đại oai đức, đại thế lực, đại công đức, đại quyền oai, thì sinh ra tâm sợ hãi, cuối cùng bị hàng phục mà sinh ra tâm phục tùng, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Chấp Kim Cang Thần Liên Hoa Ma Ni Kế, được môn giải thoát, mưa khắp tất cả đồ trang nghiêm ma ni kế.
Vị Chấp Kim Cang Thần Liên Hoa Ma Ni Kế, minh bạch cảnh giới của Phật, mưa xuống khắp tất cả loại châu báu anh lạc đồ trang nghiêm. Ngài hiện ra kế báu ma ni rất trang nghiêm, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Bấy giờ, Chấp Kim Cang Thần Diệu Sắc Na La Diên, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Chấp Kim Cang Thần, rồi nói bài kệ rằng.
Lúc đó, vị Chấp Kim Cang Thần Diệu Sắc Na La Diên, nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp tất cả chúng Chấp Kim Cang Thần, rồi nói ra bài kệ.
Ông hãy quán Pháp Vương
Pháp của Phật như vậy
Sắc tướng chẳng bờ mé
Hiện khắp trong thế gian.
Vị Chấp Kim Cang Thần Diệu Sắc Na La Diên nói : ‘’Ông hãy quán đấng Pháp Vương, quán pháp của đấng Pháp vương. Pháp thân của đấng Pháp vương thị hiện sắc tướng chẳng có bờ mé, hiện khắp trong thế gian mười phương pháp giới, để giáo hóa tất cả chúng sinh.’’
Mỗi chân lông thân Phật
Lưới quang không nghĩ bàn
Ví như mặt trời sáng
Chiếu khắp mười phương cõi.
Thân Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, song mỗi chân lông của Phật, đều phóng đại quang minh mà thành lưới quang minh, quang minh chiếu với nhau, kết thành lưới quang minh không thể nghĩ bàn, giống như ánh sáng mặt trời thanh tịnh. Trong hư không chẳng phải chỉ có một mặt trời, mà có rất nhiều mặt trời (ở trong ngân hà có rất nhiều thái dương hệ). Lưới quang minh này, chiếu sáng khắp các cõi Phật trong mười phương thế giới, chúng sinh trong mười phương cõi nước, đều là Phật quang phổ chiếu.
Sức thần thông Như Lai
Ðến khắp cùng pháp giới
Trước tất cả chúng sinh
Thị hiện thân vô tận.
Ðại oai thần lực của Phật tận hư không khắp pháp giới, đến khắp cùng hết thảy. Tất cả chúng sinh trong pháp giới, đều thấy Phật hiện ở trước họ mà thuyết pháp. Vì chúng sinh là vô tận vô lượng, cho nên Phật hiện thân cũng vô tận vô lượng, dùng thân vô tận để độ vô lượng chúng sinh.
Tiếng Như Lai thuyết pháp
Mười phương đều nghe khắp
Tùy các loại chúng sinh
Ðều khiến tâm đầy đủ.
Vì thân của Phật là khắp cùng pháp giới, cho nên tiếng của Phật cũng khắp cùng pháp giới, diệu âm của Phật nói pháp, chúng sinh trong mười phương pháp giới đều nghe được. Tùy theo mỗi loài chúng sinh, đều đắc được pháp hỷ sung mãn, khiến cho tâm mãn ý túc, đều hoan hỷ, y pháp phụng hành.
Chúng thấy đấng Mâu Ni
Trong cung điện nơi đời
Khắp vì các quần sinh
Mà xiển dương pháp lớn.
Hết thảy chúng sinh, đều thấy Phật Thích Ca Mâu Ni, ở trong cung điện thế gian giảng kinh thuyết pháp, khắp vì tất cả chúng sinh xiển minh Phật pháp, tuyên dương quang đại.
Biển pháp lưu chảy mãi
Tất cả nghĩa khác biệt
Ðủ thứ môn phương tiện
Diễn nói chẳng cùng tận.
Pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn, dùng đủ thứ pháp phương tiện để tuyên nói, giống như nước chảy mãi, nói phen này rồi phen khác, nói rõ đạo lý khác nhau; dùng đủ thứ môn phương tiện để diễn nói đủ thứ nghĩa lý vô tận.
Vô biên đại phương tiện
ứng khắp mười phương cõi
Gặp quang minh của Phật
Tất thấy thân Như Lai.
Dùng vô lượng vô biên đại phương tiện pháp môn, ứng hóa khắp chúng sinh trong mười phương cõi nước, khiến cho họ nghe được tiếng của Phật nói pháp, hoặc gặp quang minh thanh tịnh của Phật, thì đều thấy được thân tướng tốt trang nghiêm của Phật.
Cúng dường các đức Phật
Như số bụi ức cõi
Công đức như hư không
Chỗ chiêm ngưỡng tất cả.
Phật Thích Ca Mâu Ni tại nhân địa tu hành, thì phát nguyện muốn cúng dường tất cả chư Phật mười phương ba đời, và cõi nước chư Phật, số đó vô lượng vô biên như hạt bụi, Phật đều cúng dường, do đó công đức rộng lớn như hư không. Cho nên, tất cả chúng sinh đều chiêm ngưỡng Phật, hâm mộ Phật, cung kính Phật, lễ lạy Phật.
Sức thần thông bình đẳng
Tất cả cõi đều hiện
An tọa diệu đạo tràng
Hiện khắp trước chúng sinh.
Ðại thần thông của Phật bình đẳng, cứu hộ tất cả chúng sinh. Vì phổ độ tất cả chúng sinh, mà ở trong hết thảy các cõi nước, Phật đều hiện thân thuyết pháp. Phật ngồi yên ổn trong đạo tràng tất cả cõi nước trong mười phương pháp giới, thành đạo dưới cội bồ đề, mà lại hiện khắp ở trước tất cả chúng sinh.
Mây sáng chiếu các cõi
Ðủ thứ quang viên mãn
Pháp giới đâu chẳng có
Chỉ bày Phật tu hành.
Phật có một thứ mây quang minh sáng, hay chiếu khắp mười phương pháp giới. Thứ mây quang minh sáng đó, do đủ thứ quang viên mãn thành tựu, thứ mây quang minh sáng đó, chiếu khắp hết thảy pháp giới, để chỉ bày cho chúng sinh rằng, Phật tu hành như thế nào mà thành Phật.
Trên đây là dị sinh chúng trong các vị Thần mười chín chúng, bây giờ đã giải thích xong. Dưới đây bắt đầu giải thích về pháp môn sở đắc, của hai mươi mốt vị đại Bồ Tát trong đồng sinh chúng.
Học Phật pháp, phải biết rõ tính quan trọng của Phật pháp. Nếu không nhận thức rõ ràng, hoặc chẳng hiểu biết triệt để, thì không thể nào lão lão thực thực mà tu hành, không tu hành thì chẳng có sở đắc, cũng chẳng có trí huệ.
Người có trí huệ thì không thể ở chỗ đen tối, người ngu si thì không thể ở chỗ ánh sáng. Tại sao ? Vì người ngu si ở chỗ đen tối, thì không cảm thấy rằng đen tối, do đó tập quán thành tự nhiên. Song, người có trí huệ biết đen tối là không đúng, cho nên phải tìm chỗ có ánh sáng mà ở. Ánh sáng thì chẳng có tâm sân hận, đen tối thì có tâm sân hận. Cho nên chánh đại quang minh tức là tâm địa quang minh, chẳng có đen tối chướng ngại.
Người tu đạo phải luôn luôn hồi quang phản chiếu, tức cũng là phản tỉnh những gì mình làm mỗi ngày, rằng có hợp với giới luật chăng ? Hợp thì khỏi, không hợp thì sửa đổi, luôn luôn quản thúc mình, đừng làm cho mình niệm niệm sinh ngu si, mà phải niệm niệm sinh trí huệ, sinh trí huệ thì không nóng giận, người ngu si mới nóng giận. Người có sự tu dưỡng, thì tuyệt đối chẳng sinh tâm nóng giận. Người có hàm dưỡng công phu, thì sẽ khiến cho người tự nhiên sinh tâm cung kính. Học Phật pháp, phải ngày càng thông minh, đừng ngày càng ngu si, về điểm này hãy nên nhớ, nên luôn luôn chú ý.
Nếu bị người mắng, thì không nên mắng lại người, đó mới là công phu nhẫn nhục thật sự, tức cũng là có định lực. Chẳng những đối đãi với huynh đệ phải hòa khí, mà đối đãi với đồ đệ đồ điệt, cũng phải hòa mục, đừng bao giờ sinh nóng giận. Cổ đức có nói : ‘’Lửa vô minh, thần cọp, đây là gốc tội nghiệt kiếp trước.’’ Tức nhiên biết có gốc tội nghiệt, thì hãy bứng gốc tội nghiệt lên, nếu không, thì sẽ biến thành đại chướng ngại cho sự tu đạo, không thể tăng trưởng căn lành.
Người tu đạo, bất cứ gặp cảnh nghịch như thế nào, đều phải thuận thọ, đừng động lửa trong gan, đừng sinh nóng giận. Ở trong Chứng Ðạo Ca của đại sư Vĩnh Gia có nói :
‘’Quán lời ác là công đức,
Ðó là thiện tri thức của ta,
Ðừng vì sự phỉ báng mà khởi oán thân,
Ðó là vô sinh từ nhẫn lực.’’
Ðại ý nói là : Nếu có người mắng bạn, thì đó là công đức. Người mắng bạn, tức là thiện tri thức của bạn, họ trợ giúp bạn tăng trưởng công đức, họ trợ giúp bạn tu đạo, đừng vì họ phỉ báng mà khởi tâm sân hận, nên sinh tâm từ bi, do đó có câu : ‘’Người xuất gia, dùng từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa.’’ Làm thế nào chứng minh có tâm từ bi ? Có người đến mắng bạn, có người đánh bạn, thậm chí có người giết bạn, đó là thử thách định lực của bạn có đủ hay không, người có định lực thì chẳng động tâm, tức là không nóng giận.
Bây giờ tôi nhớ lại, lúc tôi ở tại Tam Phan Thị (San Francisco), lúc đó chỉ có mình tôi ở đó, chẳng có ai trợ giúp, do đó mới mời một vị pháp sư từ Ðài Loan đến, hy vọng ông ta giúp tôi hoằng dương Phật pháp. Tôi nhờ luật sư làm giấy tờ để bảo lãnh ông ta đến Mỹ, sau khi ông ta nhận được giấy nhập cảnh, bèn đi các nơi hóa duyên, có được nhiều tiền rồi, ông ta bỏ kế hoạch đi Mỹ. Một năm sau, giấy tờ đã bỏ hết, lại muốn đi Mỹ, tôi lại nhờ luật sư để làm giấy tờ nữa, trước sau hai lần làm giấy tờ tốn khoảng hơn tám trăm đô la. Ban đầu ông ta muốn thành tâm hợp tác, vì Phật giáo cống hiến một phần sức lực. Thật không ngờ chưa đầy một tháng, thì đã hoàn toàn thay đổi, hằng ngày ông ta đi đến hội Phật Giáo khác, bí mật ký ước với người ta, muốn rời bỏ Giảng Ðường của tôi.
Lúc đó, tôi đã biết nội tình, một ngày nọ sau khi làm lễ buổi tối xong, khi đó có năm sáu vị cư sĩ cũng ở đó, có một nhóm người mang ông ta đến. Ông ta nổi giận lôi đình dùng cây đao (đao mang từ Ðài Loan đến, dài khoảng một thước), chỉ vào bụng của tôi nói : ‘’Tôi muốn giết ông‘’ ! Lúc đó, tôi nhắm mắt lại như nhập định, tâm nghĩ : Nếu tôi kiếp trước đã giết ông, thì đời này nhất định ông sẽ giết tôi, đó là nhân quả. Cho nên thái độ của tôi rất bình tĩnh, không sao, ông cứ tùy tiện ! Vị pháp sư đó la lên nói : ‘’Ðừng nhắm mắt ! Tại sao ông không nói‘’ ! Một mặt thì chửi, một mặt dùng đao để uy hiếp, trải qua ba ngày như thế, chẳng những mắng chửi mà còn muốn giết người. Ba ngày sau, ông ta thấy tôi chẳng có chút phản ứng gì, mới dọn đến hội Phật giáo mà ông ta đã ký ước để ở. Chưa đến một tháng, chịu khổ không được bèn yêu cầu muốn trở lại, tôi nói : ‘’Hoan nghinh ông trở lại, tôi đem Giảng Ðường đó cho ông ta vô điều kiện, tôi muốn đến nơi khác để ở.’’ Ông ta chẳng dám nhận, cho nên trở về Ðài Loan, bây giờ nghe nói ông ta điết, và mắc nhiều thứ bệnh tật.
Người tu đạo mà bị người ta mắng chửi, đó là thử thách định lực của bạn như thế nào ? Người có định lực, được người ta khen cũng chẳng mừng, bị người phỉ báng cũng chẳng giận, đó là cảnh giới tám gió thổi không lay động. Hãy xem những lời mắng chửi như tiếng ca hát để thưởng thức, hoặc coi như tiếng ngoại quốc nghe chẳng hiểu, có công phu như thế thì tự nhiên sẽ hóa “đao nhọn thành ngọc lụa”, có việc biến thành không việc.
Người tu đạo, tức là nhẫn nhục không được cũng phải nhẫn, chịu không được cũng phải chịu. Nhẫn được chịu được đó là có định lực, không nhẫn được không chịu được, thì chẳng có định lực. Ðịnh lực tu như thế nào ? Trước hết phải giữ giới, giữ giới thì không làm ác, ngừa việc quấy, tức cũng là ‘’Không làm các việc ác, làm các việc lành.’’ Giữ giới thì phải thường kiểm thảo mình, phải làm việc thiện, đừng làm việc ác. Ðối với thế giới có công, thì đừng ngại hãy tiếp tục làm, còn đối với thế giới có lỗi, thì lập tức hối cải, như thế thì sẽ sinh ra định lực. Sinh ra định lực rồi, thì còn phải trải qua sự thử thách. Nếu có người đến chửi bạn, hoặc đánh bạn, mà bạn như như không lay động, đến cảnh giới không người không ta, thì mới cho rằng là có định lực, do đó có câu :
‘’Tất cả là thử thách,
Xem thử bạn làm sao,
Trước mắt mà chẳng hay,
Phải luyện lại từ đầu.’’
Người tu đạo, không thể chướng ngại những người khác phát tâm bồ đề, nhất là không thể khiến cho người khác sinh đạo tâm thối lùi, nếu có những tư tưởng như thế, thì mình tu đạo cũng chẳng có sự thành tựu, bất cứ ai muốn phát bồ đề tâm, thì nên trợ giúp họ, thành tựu họ, không nên phá hoại họ, khiến cho cho họ sinh tâm thối lùi, nếu như thế thì chắc chắn sẽ đọa địa ngục.
Giữ giới phải thanh tịnh, phải từ bi, phải cung kính, phải hòa khí, do đó cần có tinh thần lục hòa. Người tu đạo lấy lục hòa làm tiêu chuẩn, mới là người giữ giới luật.
Lục hòa là gì ?
1). Thân hòa đồng trụ : Mọi người ở chung với nhau, tu với nhau, nghiên cứu với nhau. Không được nói chỗ này chỉ có tôi, chẳng có bạn, càng chẳng có ai khác, không được từ sáng đến tối, đấu tranh với sư huynh đệ, hoặc bạn đồng tu bằng thân khẩu ý, thứ tư tưởng này không nên tồn tại. Nếu có tình hình như thế, thì hãy mau sửa đổi. Không thể chỉ biết có mình, mà không biết có người khác, ngược lại dùng thế lực, địa vị để đè nén bức bách người, khiến cho họ phải phục tùng, như thế càng không thể được. Nếu đè nén bức bách người khác, thì đừng nói đến thân hòa đồng trụ.
2). Khẩu hòa vô tranh : Không được dùng miệng để tranh luận, dùng miệng để đấu tranh, đều cho rằng mình là đúng, còn người khác là sai, đó là biểu hiện miệng chẳng hòa hợp. Người tu đạo, phải tu tam muội không tranh, miệng hòa tức là chẳng tranh luận. Nếu có hàm dưỡng công phu, thì mọi người nhất định cung kính nhau như khách.
3). Ý hòa đồng duyệt : Ý niệm của bạn phải hòa hợp với ý niệm của người khác, đừng có chia rẽ ý kiến, được như thế thì mọi người thuận với nhau. Phải biết rằng, đạo tràng chẳng phải đạo tràng của một người, mà là đạo tràng của mọi người, đừng dùng thủ đoạn cưỡng bách bức ép người, khiến cho người không vui vẻ hòa thuận, mà gieo trồng xuống nhân ba đường ác.
4). Kiến hòa đồng giải : Không nên cho rằng kiến giải của người khác là không đúng, chỉ đặc biệt kiến giải của mình là hơn người khác, tư tưởng như thế không chấp nhận được. Phải minh bạch kiến giải của mọi người mới có thể thực hành, tức cũng là phục tùng ý kiến của đa số, không độc tài, không được chuyên chế.
5). Giới hòa đồng tu : Giới luật mọi người đều giữ, giống như luật pháp quốc gia, ai ai cũng phải giữ, không được nói giới này là bạn giữ, chứ chẳng phải tôi giữ. Những người có tư tưởng như thế là thứ bại hoại ở trong Phật giáo, mọi người nên cùng trừ khử ‘’trùng sư tử’’, khiến cho cửa Phật thanh tịnh.
6). Lợi hòa đồng quân : Tất cả lợi ích, mọi người nên cùng nhau chia đều, không thể chỉ một người có, một người có, đó là chẳng quân bình. Người xưa có nói :
‘’Bất hoạn quả, nhi hoạn bất quân.’’
Nghĩa là:
Không quân bình thì sẽ than oán,
Nếu đồng đều thì chẳng có lời oán trách.
Do đó có câu :
‘’Nhân bình bất ngữ,
Thủy bình bất lưu.’’
Nghĩa là :
Người hòa thì chẳng nói,
Nước bình thì không chảy.
Tức là đạo lý này.
Người tu đạo, phải minh bạch đạo lý sáu điều hòa hợp, mới không chướng ngại người khác đồng tu, không áp bức người khác đồng đạo, đó là việc rất quan trọng, mong rằng mọi người lưu ý, không được biết rõ mà cố ý phạm. Phải :
‘’Tính định ma phục triều triều lạc,
Vọng niệm bất khởi xứ xứ an.’’
‘’Tính định ma phục triều triều lạc‘’ là gì ? Giữ giới thì khiến cho tính an định. Tính an định thì ma gì cũng chẳng có. Tính không định thì mới có ma đến nhiễu loạn, tính định thì hàng phục được ma, do đó có câu :
‘’Ðạo cao long hổ phục,
Ðức trọnh quỷ thần khâm’’.
Nếu bạn có đạo nghiệp cao thâm, nói ra một câu thì chư Phật, Bồ Tát, Thiên long bát bộ, đều đến ủng hộ lời nói của bạn, lúc đó rồng cũng khoanh lại, cọp cũng nằm phục xuống. Nếu bạn có đức hạnh cao thượng, thì lời nói ra đều rất linh nghiệm. Do đó, quỷ thần cũng khâm phục bạn, thấy bạn liền cúi đầu đảnh lễ rất cung kính, cho nên nói tính định ma phục triều triều lạc.
‘’Vọng niệm bất khởi xứ xứ an’’ là gì ? Nếu tâm của bạn khởi vọng tưởng, thì bất cứ đi đến đâu, cũng chẳng được bình an, cũng chẳng được cát tường. Người có vọng tưởng tức là tham tâm bất túc, đứng núi này trông núi nọ cao, đến núi nọ rồi thì thấy núi khác cao hơn. Ðó là biểu hiện lòng tham của con người, giống như tâm tham của người làm ruộng, mùa xuân gieo xuống ít hạt giống, mà muốn mùa thu thu hoạch dồi dào. Người đi học có tâm tham là hy vọng đọc tứ thư ngũ kinh, để tương lai làm quan lớn. Người làm công có tâm tham của người làm công, người buôn bán thì có lòng tham của người buôn bán. Tóm lại, ai cũng hy vọng muốn kiếm được nhiều tiền, hưởng thụ cho nhiều. Song, dục vọng chẳng ngừng, vĩnh viễn chẳng bao giờ đầy đủ. Có bài thơ này khuyên người :
‘’Suốt ngày bận rận chỉ vì cơm
Ðược cơm no rồi lại nghĩ áo
Cơm áo hai thứ đều đầy đủ
Trong phòng lại thiếu người vợ đẹp
Cưới xong vợ đẹp và thiếp xinh
Ra vào không kiệu chẳng ngựa cưỡi
Lừa, ngựa một bầy kiệu có đủ
Lại chẳng quan chức bị người cười
Năm phẩm bốn phẩm chê quan nhỏ
Ba phẩm hai phẩm cũng hiềm thấp
Nhất phẩm đương triều làm tể tướng
Lại muốn làm vua một cõi nước
Một khi được lên làm ông vua
Lại muốn thần tiên xuống đánh cờ.’’
Ðây là vọng tưởng lòng tham của con người, do đó có câu : ‘’Tâm tham bất túc xà thôn tượng.’’ Nghĩa là, lòng tham chẳng biết đủ, thì giống như một con rắn nhỏ, mà muốn nuốt chửng một con voi lớn, làm sao mà làm được ? Cũng giống như kẻ ngu nói chuyện mộng mị.
Người tu đạo phải chú trọng đức hạnh, tức cũng là chú trọng về đạo đức. Ðạo đức là lợi ích kẻ khác, chẳng phải lợi ích chính mình, việc đối với mình có chỗ bất lợi, nhất định mình phải gánh lấy, việc đối với người có chỗ thiệt hại, thì mình nhất định trợ giúp giải quyết sự khó khăn. Tóm lại, đạo đức là lợi người, chẳng phải hại người, đây là nguyên tắc cơ bản.
Quan trọng nhất về việc tu đạo là tu đạo đức. Ðạo thì ở bên ngoài, đức thì ở bên trong; tài bồi đạo bên ngoài, tức là tu tất cả đạo, ở bên ngoài có đạo rồi, thì bên trong cảm thấy rất khoái lạc, có đức nơi tâm thì gọi là đức hạnh.
‘’Có đức ai ai cũng kính,
Có đạo ai ai cũng trọng.’’
Bạn có đức hạnh thì ai ai cũng kính phục bạn, sùng bái bạn, dù bạn mắng người hoặc đánh người, song người bị mắng hoặc bị đánh, đều cảm thấy rất vinh hạnh mà sinh hoan hỷ. Nếu chẳng có đức hạnh, dù hướng về người đảnh lễ, người ta còn muốn đá bạn hai đá, chán đánh bạn chẳng có đạo đức ! Cho nên, đức hạnh là hạnh môn người tu đạo phải tu.
Người tu đạo, phải treo hai chữ đạo đức lên giữa chân mày, khi mở mắt thì thấy ngay. Ở các nước phương tây, vốn chẳng chú trọng về đạo đức, chỉ đề cập đến khoa học, chứ chẳng đề cập đến đạo đức, nên đã quên mất đi nguồn gốc. Người tu hành chẳng có đạo đức, thì không thể thành tựu đạo nghiệp, không thể thành Phật làm Tổ. Phật là vạn đức trang nghiêm, vạn đức thành tựu, có nhiều đức hạnh nên mới có thể thành Phật.
Ðạo đức tức là chánh khí, đạo đức ví như mặt trời mặt trăng, đạo đức đồng như trời đất, cho nên hai chữ đạo đức mọi người không thể coi thường. Ðạo đức tức là đạo tràng, đạo đức tức là tu hành, phải tu hành mới có đạo đức.
‘’Ðạo thì phải hành,
Không hành đạo dùng làm gì ?
Ðức thì phải tu,
Không tu đức từ đâu đến‘’ ?
Cho nên người tu đạo, nếu không chú trọng về đạo đức, thì chẳng cách chi để tu hành.
Ðạo đức tức là xả mình vì người, chẳng có tâm ích kỷ lợi mình. Cho nên người tu đạo, mỗi cử chỉ hành động, lời nói, việc làm, đều phải chú trọng về đạo đức. Khi mình có sức lực, thì hết mình giúp đỡ người khác, hộ trì đạo tràng, cúng dường Tam Bảo, tức là hành vi giúp đỡ kẻ khác, khiến cho đạo tràng chẳng có chút phiền não gì, đó đều là phương pháp tu đạo đức tốt nhất. Do đó, các bạn nên đem hết sức mình, hết lòng tu cho được viên mãn, thì mới có sở thành tựu. Thiên ngôn vạn ngữ một câu nói :
‘’Tất cả vì chúng sinh mà chẳng vì chính mình.’’
Ðó là hành Bồ Tát đạo. Người hành Bồ Tát đạo, thì nhất định phải đừng có cái ta. Tự giác tuy quan trọng, song giác tha còn quan trọng hơn. Ðiểm này mong rằng mọi người hãy chú ý, tức là phải luôn luôn lợi ích chúng sinh.
Ở trên đã giải thích sơ lược dị sinh chúng rồi, bây giờ giải thích sơ lược về đồng sinh chúng. Ở trong đồng sinh chúng phân ra làm ba bộ phận :
1). Nói rõ tất cả pháp môn mà Bồ Tát Phổ Hiền đắc được.
2). Nói rõ pháp môn của mỗi mười vị Bồ Tát chữ Phổ đắc được.
3). Nói rõ mười vị Bồ Tát khác tên, mỗi vị đắc được một môn.
Môn giải thoát của các đại bồ tát
Lại nữa, đại Bồ Tát Phổ Hiền vào môn giải thoát, biển phương tiện không thể nghĩ bàn, vào biển công đức của Như Lai.
Nghĩa lý kinh văn ở trước chưa biểu đạt hết, nên bây giờ tiếp tục nói tiếp.
Vị Bồ Tát Phổ Hiền là một trong bốn vị đại Bồ Tát. Ngài và Bồ Tát Văn Thù hầu hai bên Ðức Phật Thích Ca. Bồ Tát Văn Thù ở bên trái, Bồ Tát Phổ Hiền ở bên phải. Bồ Tát Văn Thù đại biểu trí huệ chứng ba đức, cho nên nặng về tất cả Bát Nhã. Bồ Tát Phổ Hiền đại biểu lý định hạnh ba đức, cho nên nặng về tất cả Tam muội.
Ðại Bồ Tát Phổ Hiền lớn nhất về hạnh lực và nguyện lực, Ngài phát mười đại nguyện vương, bao quát tất cả hạnh nguyện ở trong đó, cho nên là vua trong các lời nguyện.
Mười hạnh nguyện là :
1). Lễ kính chư Phật.
2). Xưng tán Như Lai.
3). Quảng tu cúng dường.
4). Sám hối nghiệp chướng.
5). Tùy hỷ công đức.
6). Thỉnh chuyển pháp luân.
7). Thỉnh Phật trụ thế.
8). Thường tùy Phật học.
9). Hằng thuận chúng sinh.
10). Phổ giai hồi hướng.
Cảnh giới của Ngài tu không thể nghĩ bàn, cảnh giới của Ngài vào, cũng không thể nghĩ bàn. Vì tu cảnh giới không thể nghĩ bàn, nên vào cảnh giới không thể nghĩ bàn. Ngài tự vào cảnh giới không thể nghĩ bàn, đồng thời cũng muốn tất cả chúng sinh vào cảnh giới không thể nghĩ bàn. Vào như thế nào ? Tức là khuyên chúng sinh rộng tu mười đại hạnh nguyện, thì sẽ đạt đến môn giải thoát không thể nghĩ bàn.
Ðại Bồ Tát Phổ Hiền, Ngài đã vào môn giải thoát, biển phương tiện không thể nghĩ bàn. Không thể nghĩ bàn là gì ? Tức là không thể dùng tâm ý để suy lường, không thể dùng lời lẽ để nói rõ được. Biển phương tiện là gì ? Cảnh giới của Phật và cảnh giới của Bồ Tát Phổ Hiền vào, chẳng phải nói ở trong cõi Thường Tịch Quang, hoặc khởi một niệm, hoặc khởi một vọng tưởng, muốn đến thế giới này giáo hóa chúng sinh, Ngài chẳng cần như thế. Ở trong lý chân đế chẳng cần động, thì sẽ thành tựu việc tục đế, đây là cảnh giới lý sự vô ngại không thể nghĩ bàn, tức cũng là lý chẳng ngại sự, sự chẳng ngại lý, tức trong lý cũng có sự, trong sự cũng có lý. Cho nên đây là biển phương tiện lý sự vô ngại.
Còn có một thứ phương tiện là, trong nhân địa thành tựu quả giác viên mãn. Cho nên, tức nhân tức quả, tức quả tức nhân, nhân quả giao triệt, đây là biển phương tiện sự sự vô ngại (sự và sự vốn phải có chướng ngại, song chẳng chướng ngại, đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn). Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói : ‘’Không động đạo tràng, khắp mười phương cõi. Thân dung mười phương, vô tận hư không (đây là cảnh giới lý sự vô ngại). Nơi đầu sợi lông, hiện cõi bảo vương. Ngồi trong hạt bụi, chuyển bánh xe pháp (đây là cảnh giới sư sự vô ngại).’’ Ở trên là là cảnh giới lý sự vô ngại không thể nghĩ bàn, ở sau là cảnh giới sự sự vô ngại không thể nghĩ bàn, cho nên gọi là biển phương tiện.
Vào được môn giải thoát, biển phương tiện không thể nghĩ bàn, thì theo đó vào biển công đức của Phật. Khi Phật tu công đức, thì công đức dù nhỏ như hạt bụi, cũng chẳng bỏ qua, vì ngày tháng tích lũy công đức sẽ như biển cả, cho nên nói biển công đức của Như Lai.
Gồm có môn giải thoát tên là : Nghiêm tịnh tất cả cõi Phật, điều phục chúng sinh, khiến cho họ rốt ráo ra khỏi biển sinh tử.
Ðây là mười môn giải thoát, của đại Bồ Tát Phổ Hiền đã chứng được, Ngài chẳng lưu giữ mà nói ra. Chúng ta biết môn giải thoát này, thì cũng phải chiếu theo môn giải thoát này mà tu hành.
Môn giải thoát này, tên là Nghiêm tịnh tất cả cõi Phật, điều phục chúng sinh, khiến cho họ rốt ráo lìa khỏi biển sinh tử. Môn giải thoát này, hay khiến cho tất cả các cõi Phật, đặc biệt trang nghiêm và thanh tịnh, điều phục được chúng sinh cang cường, khiến cho họ rốt ráo lìa khỏi biển sinh tử.
Trang nghiêm thế gian và trang nghiêm xuất thế gian khác nhau. Sự trang nghiêm thế gian, vì chẳng lìa được pháp nhiễm ô, cho nên có vị khí trần tục bên trong. Sự trang nghiêm xuất thế gian, thì thanh tịnh chẳng có pháp nhiễm ô tồn tại. Nhiễm ô là gì ? Có tâm tham tức là nhiễm ô, có tâm sân cũng là nhiễm ô, có tâm si càng nhiễm ô. Thậm chí có tâm dâm dục, tâm đố kỵ, đều là nhiễm ô. Nếu có những thứ nhiễm ô này, thì tuyệt đối không thể lìa khỏi được khổ, trong sáu nẻo ba cõi.
Hiện tại trang nghiêm thanh tịnh tận hư không khắp pháp giới, tất cả cõi nước chư Phật. Tại sao phải trang nghiêm cõi nước chư Phật ? Phải chăng chư Phật thích đẹp đẽ ? Chẳng phải. Vì muốn giáo hóa những chúng sinh không dễ giáo hóa, khiến cho họ thấy được cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh, thì tự nhiên trừ khử tất cả ba độc tham sân si, khiến cho thân tâm mát mẻ.
Ðiều phục là gì ? Ðiều là điều thuận, phục là hàng phục; điều thuận và hàng phục những chúng sinh cang cường, tức cũng khiến cho chúng sinh có tập khí mao bệnh, tất cả mọi thứ nhiễm ô đều được thanh tịnh, thì có thể trở về nguồn cội, rốt ráo lìa khỏi biển sinh tử.
Chúng ta ở trên thế giới này, tức cũng là ở trong biển khổ, có khi cảm thấy như thế này là tốt, thế kia là không tốt; có khi thích việc này, chẳng đồng ý việc kia, đó đều là khổ, tức cũng là xoay vòng ở trong vọng tưởng, trôi nổi trong luân hồi. Luân hồi ở đây, chẳng phải luân hồi sau khi chết, mà là luân hồi của sự sống. Bạn sinh một niệm thiện, thì như sinh về cõi trời, do đó có câu :
‘’Vi thiện tối lạc.’’
Nghĩa là:
Làm một việc thiện,
Thì trong tâm rất vui vẻ,
Lâng lâng như thần tiên.
Nếu sinh một niệm ác, thì như là đọa địa ngục, phải chịu lương tâm cắn rứt, giống như thọ tội. Tóm lại, bạn khởi vọng tưởng gì, thì chuyển động ở trong sáu nẻo, vì trong thức thứ tám có vọng niệm này, sau đó tạo thành vọng nghiệp bên ngoài. Nếu chẳng có vọng niệm, thì vọng nghiệp cũng chẳng sinh. Cho nên, tất cả nghiệp đều do mê hoặc tạo thành. Tạo nghiệp rồi thì thọ quả báo, vĩnh viễn chẳng lìa khỏi được luân hồi sanh tử trong sáu nẻo. Vậy, làm thế nào để lìa khỏi ba cõi ? Muốn không thọ luân hồi, chỉ có một biện pháp tức là tu hành, siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si; diệt sạch ba độc, thì rốt ráo ra khỏi được tam giới và luân hồi.
Có môn giải thoát tên là: Ðến khắp tất cả cảnh giới, đầy đủ công đức ở chỗ của Như Lai tu.
Lại có môn giải thoát tên là : Ðến khắp tất cả cảnh giới, đầy đủ công đức ở chỗ của Như Lai tu, tức là đến khắp hết thảy chỗ của Phật ở, vì công đức của Phật tu đều viên mãn, phước cũng đầy đủ, huệ cũng đầy đủ, cho nên dùng phước huệ để trang nghiêm cảnh giới công đức.
Có môn giải thoát tên là: An lập các biển đại nguyện của tất cả Bồ Tát.
Lại có môn giải thoát tên là: An lập biển đại nguyện của tất cả Bồ Tát. Tu đủ thứ hạnh của Bồ Tát, mới thành tựu công đức của Bồ Tát, mới có các biển đại nguyện. Công đức của Bồ Tát có sáu thứ :
1). Ðịa vị.
2). Nguyện lực.
3). Mười hạnh thù thắng.
4). Mười phương tiện.
5). Mười như thị.
6). Chứng pháp giới.
Có môn giải thoát tên là: Hiện vô lượng thân, nhiều như số hạt bụi khắp pháp giới.
Lại có môn giải thoát tên là: Hiện vô lượng thân nhiều như số hạt bụi khắp pháp giới. Ngài hiện ra khắp hết thảy vô lượng vô biên hóa thân, nhiều như số hạt bụi trong pháp giới, hoặc hiện thân Phật, hoặc hiện thân Bồ Tát, hoặc hiện thân Duyên Giác, hoặc hiện thân Thanh Văn. Tóm lại, ứng cơ hiện khắp để diễn nói pháp.
Có môn giải thoát tên là: Diễn nói tên khác nhau, khắp tất cả các cõi không thể nghĩ bàn.
Lại có môn giải thoát tên là: Diễn nói tên khác nhau, khắp tất cả các cõi không thể nghĩ bàn. Hằng ngày diễn nói không thể nghĩ bàn, tên của Phật và Bồ Tát đủ thứ sự khác nhau, khắp tất cả cõi nước.
Có môn giải thoát tên là: Trong tất cả hạt bụi, đều hiện vô biên thần thông cảnh giới của các Bồ Tát.
Lại có môn giải thoát tên là: Trong tất cả hạt bụi đều hiện thần thông cảnh giới của các Bồ Tát. Có số thế giới nhiều như hạt bụi, mỗi hạt bụi làm một thế giới, ở trong mỗi thế giới có vô biên các Bồ Tát, đều hiện thần thông cảnh giới của mỗi vị. Hạt bụi tuy giống nhau, song các Bồ Tát hiện cảnh giới chẳng giống nhau, cho nên có vô lượng hạt bụi, lại hiện ra vô lượng Bồ Tát; vô lượng Bồ Tát, lại hiện ra vô lượng thần thông cảnh giới, đây là môn giải thoát không thể nghĩ bàn.
Có môn giải thoát tên là: Trong một niệm, hiện ra việc kiếp thành, kiếp hoại trong ba đời.
Lại có môn giải thoát tên là: Trong một niệm, hiện ra việc kiếp thành kiếp hoại trong ba đời. Ngài có thể ở trong thời gian ngắn nhất, hiện ra kiếp đời quá khứ, kiếp đời hiện tại, kiếp đời vị lai, đây là việc bốn trung kiếp thành trụ hoại không trong ba đời.
Kiếp là tiếng Phạn, dịch ra là “Thời phân”, tức cũng là thời gian phân biệt, ví như vô lượng kiếp tức là vô lượng thời gian. Kiếp ba đời tức là thời gian quá khứ, hiện tại và vị lai ba đời. Phương pháp tính kiếp có hai cách:
1). Lấy mười ba vạn chín ngàn sáu trăm năm làm một kiếp, một ngàn mười ba vạn chín ngàn sáu trăm năm làm một tiểu kiếp, hai mươi tiểu kiếp làm một trung kiếp, bốn trung kiếp làm một đại kiếp.
2). Lấy tuổi thọ của con người làm đơn vị, từ tám vạn bốn ngàn tuổi bắt đầu giảm. Mỗi một trăm năm giảm xuống một tuổi, độ cao của thân thể cũng giảm một tấc, giảm đến tuổi thọ của con người chỉ còn mười tuổi thì ngừng; sau đó mỗi một trăm năm tăng thêm một tuổi, thân cũng cao thêm một tấc, tăng đến tuổi thọ của con người là tám vạn bốn ngàn tuổi thì ngừng. Một lần tăng một lần giảm như thế là một kiếp, tám mươi tiểu kiếp làm một đại kiếp.
Khi thế giới thành, thời gian hai mươi tiểu kiếp, trụ cũng hai mươi tiểu kiếp, hoại cũng hai mươi tiểu kiếp, không cũng hai mươi tiểu kiếp, cho nên trong một đại kiếp có thành trụ hoại không bốn giai đoạn. Ðời quá khứ có thành trụ hoại không của quá khứ, đời hiện tại có thành trụ hoại không của hiện tại, vị lai có thành trụ hoại không của vị lai.
Thân thể của chúng ta cũng có thành trụ hoại không, song chẳng gọi thành trụ hoại không, mà gọi sinh trụ dị diệt. Khi sinh ra đến hai mươi tuổi là thành, đến khoảng bốn mươi tuổi là trụ, đến khoảng sáu mươi tuổi là dị, đến khoảng tám mươi tuổi là diệt. Dị là biến hoại, diệt là không, chẳng còn gì nữa. Ðây là pháp tính theo tuổi thọ của con người tám mươi tuổi. Tóm lại, trong sự vật thì có thành trụ hoại không, trong thân người thì có sinh trụ dị diệt, hoặc sinh già bệnh chết, đó là biểu hiện của sự vô thường. Ở trong một niệm hiện ra cảnh giới này.
Có môn giải thoát tên là: Thị hiện biển các căn của tất cả Bồ Tát, tự vào cảnh giới của mình.
Lại có môn giải thoát tên là: Thị hiện biển các căn của tất cả Bồ Tát, tự vào cảnh giới của mình. Các căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, của Bồ Tát xử dụng với nhau. Mắt của Bồ Tát chẳng những thấy, mà còn có thể: Nghe, ngửi, nếm, biết, đầy đủ năm thứ công năng. Lỗ tai cũng như thế, ngoài sự nghe ra, cũng có thể thấy ngửi nếm biết. Bốn căn kia cũng như thế, đều dụng với sáu căn, một căn đầy đủ năm căn. Cho nên cảnh giới của Bồ Tát, tự nhập vào cảnh giới của mình, mỗi một căn vào cảnh giới của mỗi căn, mỗi căn có sự khác nhau.
Có môn giải thoát tên là: Dùng sức thần thông hóa hiện đủ thứ thân, khắp vô biên pháp giới.
Lại có môn giải thoát tên là: Dùng sức thần thông hóa hiện đủ thứ thân, khắp vô biên pháp giới. Bồ Tát hay dùng sức thần thông, để biến hóa thị hiện đủ thứ thân. Có khi hiện thân Bồ Tát, có khi hiện thân trời rồng tám bộ. Tóm lại, người đáng dùng thân gì độ được, thì hiện thân đó mà độ họ, sự hóa thân này khắp hết thảy trong mười phương vô biên pháp giới.
Có môn giải thoát tên là: Hiển bày môn thứ lớp pháp tu hành của tất cả Bồ Tát, vào nhất thiết trí phương tiện rộng lớn.
Lại có môn giải thoát tên là: Hiển bày môn thứ lớp pháp tu hành của tất cả Bồ Tát, vào nhất thiết trí phương tiện rộng lớn. Chỉ bày rõ ràng pháp tu hành lục độ vạn hạnh của tất cả Bồ Tát, y theo thứ lớp pháp môn tu hành, tức là trước hết tu bố thí, sau đó trì giới, tu nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ. Tu hành viên mãn thì sẽ đắc được nhất thiết trí huệ, thứ trí huệ này, rộng nhất lớn nhất vô lượng môn phương tiện.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Phổ Hiền dùng công đức của mình, lại nương sức oai thần của đức Như Lai, quán khắp tất cả đại chúng hải hội, rồi nói bài kệ rằng.
Lúc đó, vị đại Bồ Tát Phổ Hiền, dùng công đức của mình tu hành trong quá khứ, đời đời kiếp kiếp trong tất cả biển kiếp, và nương đại oai thần lực của Như Lai, quán sát khắp đại chúng nhiều như biển cả ở trong pháp hội, quán sát xong rồi, bèn dùng kệ để nói rõ lại tỉ mỉ ý nghĩa trong trường hàng ở trên.
Ðức Phật trang nghiêm cõi rộng lớn
Ðồng như tất cả số hạt bụi
Phật tử thanh tịnh đầy trong đó
Mưa pháp diệu nhất không nghĩ bàn.
‘’Ðức Phật trang nghiêm cõi rộng lớn.’’ Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật, Ngài trang nghiêm các cõi Phật rộng lớn.
‘’Ðồng như tất cả số hạt bụi.’’ Cõi của Ngài trang nghiêm, đồng như số hạt bụi nhiều khắp tận hư không biến pháp giới.
‘’Phật tử thanh tịnh đầy trong đó.’’ Ở trong mỗi cõi, đều có Phật tử tu hạnh thanh tịnh. Thân thanh tịnh thì chẳng nhiễm ô: Sát sinh, trộm cắp, và dâm dục. Miệng thanh tịnh thì: Chẳng nói dối, nói thêu dệt, chửi mắng và hai lưỡi. Ý thanh tịnh thì: Chẳng có tham, sân, si. Những đại Bồ Tát như thế, đầy khắp ở trong tất cả cõi Phật.
Phật tử là gì ? Tức là đệ tử của Phật. Phật tử phân ra ba thứ :
1). Ngoại tử.
2). Giá tử.
3). Chân tử.
1. Ngoại tử : Tức là phàm phu, đệ tử ở ngoài Phật pháp. Tuy chẳng hiểu Phật pháp, song có Phật tánh. Cho nên Phật nói :
‘’Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh,
Ðều có thể thành Phật.’’
Chỉ cần là chúng sinh, chẳng màng tin Phật hay không tin Phật, tương lai đều có cơ hội thành Phật. Do đó, hết thảy chúng sinh đều là Phật tử.
- Giá tử : Tức là hàng nhị thừa Thanh Văn, Duyên Giác, chẳng phải từ đại pháp chân chánh của Phật sinh ra. Giá tử nói theo nghĩa thế tục là con của vợ lẽ sinh, chứ chẳng phải vợ chính, cho nên chẳng có quyền thừa kế.
- Chân tử : Tức là Bồ Tát, là chân Phật tử, từ miệng Phật sinh ra, từ Phật pháp hóa sinh, chân chánh từ đại pháp sinh ra. Hiện tại đang nói là thanh tịnh Phật tử, tức là chân tử, Phật tử chân chánh.
‘’Mưa pháp diệu nhất không nghĩ bàn.’’ Phật và Phật tử thanh tịnh, ở tại cõi thanh tịnh nói pháp diệu nhất không thể nghĩ bàn, giống như mưa xuống, khiến cho tất cả chúng sinh đắc được pháp ích, vi diệu nhất không thể nghĩ bàn, mà tăng trưởng căn lành.Như nơi hội này thấy Phật ngồi
Trong tất cả bụi đều như thế
Thân Phật không đến cũng chẳng đi
Hết thảy các cõi đều hiện rõ.
‘’Như nơi hội này thấy Phật ngồi.’’ Giả như bạn ở trong pháp hội này, thấy được Phật ngồi trên tòa sư tử, vì chúng sinh hiện thân thuyết pháp.
‘’Trong tất cả bụi đều như thế.’’ Trong hết thảy tất cả cõi hạt bụi cũng như thế, Phật đều vì chúng sinh diễn nói diệu pháp.
‘’Thân Phật không đến cũng chẳng đi.’’ Thân Phật như như bất động, liễu liễu thường minh, chẳng đến chẳng đi, chẳng đi chẳng đến.
‘’Hết thảy các cõi đều hiện rõ.’’ Tuy thân Phật chẳng đến cũng chẳng đi, song trong hết thảy các cõi, đều hiện ra thân Phật rõ ràng.
Hiển bày sở tu của Bồ Tát
Vô lượng thứ địa các phương tiện
Và nói lý chân thật khó nghĩ
Khiến các Phật tử vào pháp giới.
‘’Hiển bày sở tu của Bồ Tát.’’ Hiện ra rất rõ pháp môn tu hành của tất cả Bồ Tát.
‘’Vô lượng thứ địa các phương tiện.’’ Ðịa vị của Bồ Tát, nguyện lực của Bồ Tát, tu mười pháp môn Ba la mật thù thắng, và mười phương tiện đều là vô lượng vô biên.
Mười phương tiện tức là :
1). Phương tiện bố thí.
2). Phương tiện trì giới.
3). Phương tiện nhẫn nhục.
4). Phương tiện tinh tấn.
5). Phương tiện thiền định.
6). Phương tiện trí huệ.
7). Phương tiện đại từ.
8). Phương tiện đại bi.
9). Phương tiện giác ngộ.
10). Phương tiện chuyển bánh xe pháp bất thối.
‘’Và nói lý chân thật khó nghĩ.’’ Lại nói mười thứ như thị, chứng đắc đạo lý chân thật vi diệu không thể nghĩ bàn.
Mười như thị (như vậy) tức là :
1). Tướng như vậy.
2). Tánh như vậy.
3). Thể như vậy.
4). Lực như vậy.
5). Tác như vậy.
6). Nhân như vậy.
7). Duyên như vậy.
8). Quả như vậy.
9). Báo như vậy.
10). Gốc ngọn rốt ráo như vậy.
‘’ Khiến các Phật tử vào pháp giới.’’ Hay khiến cho tất cả Phật tử, đều nhập vào pháp giới. Tâm lượng của Ngài tràn đầy pháp giới, thần thông của Ngài tràn đầy pháp giới, sự thuyết pháp của Ngài tràn đầy pháp giới, tất cả hết thảy đều tràn đầy pháp giới.
Sinh ra hóa Phật nhiều như bụi
ứng khắp quần sinh tâm ưa thích
Vào sâu pháp giới môn phương tiện
Rộng lớn vô biên đều khai diễn.
‘’Sinh ra hóa Phật nhiều như bụi.’’ Vị Bồ Tát này, có thể hóa Phật nhiều như hạt bụi.
‘’Ứng khắp quần sinh tâm ưa thích‘’. Ngài ứng hiện khắp hết thảy sự ưa thích ở trong tâm của tất cả chúng sinh, tùy theo căn cơ mà thuyết pháp.
‘’Vào sâu pháp giới môn phương tiện.’’ Ngài vào được pháp môn phương tiện pháp giới sâu nhất, tức cũng là pháp môn quyền xảo phương tiện.
‘’Rộng lớn vô biên đều khai diễn.’’ Pháp môn này rộng lớn vô biên, đều khai thị diễn nói tất cả diệu pháp.
Danh hiệu Như Lai đồng thế gian
Cõi nước mười phương đều sung mãn
Tất cả phương tiện chẳng luống qua
Ðiều phục chúng sinh đều lìa cấu.
‘’Danh hiệu Như Lai đồng thế gian.’’ Danh hiệu của Phật nhiều đồng hết thảy số hạt bụi tại thế gian, chẳng cách chi tính đếm được.
‘’Cõi nước mười phương đều sung mãn.’’ Hết thảy cõi nước mười phương đều sung mãn danh hiệu của Phật.
‘’Tất cả phương tiện chẳng luống qua.’’ Phật dùng tất cả pháp môn phương tiện, để giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho chẳng có một chúng sinh nào luống qua.
‘’Ðiều phục chúng sinh đều lìa cấu.’’ Ðiều phục tất cả chúng sinh cang cường, khiến cho họ lìa khỏi tất cả pháp nhiễm ô, mà sinh tâm thanh tịnh. Pháp nhiễm ô tức là tất cả sự việc người thế gian làm. Pháp thanh tịnh tức là tất cả sự việc người xuất thế gian làm. Ðiểm này các bạn nên nhận thức rõ ràng, minh bạch hiểu rõ, gì là pháp nhiễm ô ? Gì là pháp thanh tịnh ?
Phật ở trong tất cả hạt bụi
Thị hiện vô biên sức thần thông
Ðều ngồi đạo tràng diễn nói pháp
Như hạnh bồ đề Phật thuở xưa.
‘’Phật ở trong tất cả hạt bụi.’’ Phật ở trong tất cả hạt bụi cõi nước.
‘’Thị hiện vô biên sức thần thông.’’ Thị hiện ra sức đại thần thông chẳng có bờ mé.
‘’Ðều ngồi đạo tràng diễn nói pháp.’’ Phật ngồi đạo tràng ở trong mỗi hạt bụi cõi nước, diễn nói pháp vi diệu vô thượng.
‘’Như hạnh bồ đề Phật thuở xưa.’’ Giống như hạnh bồ đề của Phật tu thuở xưa, chỉ bày cho chúng sinh, khiến cho họ phát tâm bồ đề.
Ba đời hết thảy kiếp rộng lớn
Trong niệm niệm Phật đều thị hiện
Tất cả các việc thành hoại đó
Trí không nghĩ bàn đâu chẳng thấu.
‘’Ba đời tất cả kiếp rộng lớn.’’ Thời gian lâu dài ba đời tất cả kiếp rộng lớn, ba đời thời gian đã rất dài, kiếp rộng lớn càng lâu dài hơn.
‘’Trong niệm niệm Phật đều thị hiện.’’ Phật ở trong mỗi niệm, đều thị hiện ra cảnh giới này.
‘’Tất cả các việc thành hoại đó.’’ Ở trong ba đời có thành trụ hoại không bốn trung kiếp. Kiếp thành là thành như thế nào ? Kiếp trụ là trụ như thế nào ? Kiếp hoại là hoại như thế nào ? Kiếp không là không như thế nào ? Phật đều nói rất rõ ràng.
‘’Trí không nghĩ bàn đâu chẳng thấu.’’ Phật có diệu trí huệ không thể nghĩ bàn, đối với cảnh giới này chẳng có gì mà chẳng thấu rõ.
Chúng hội Phật tử rộng vô hạn
Muốn cùng dò lường các Phật địa
Pháp môn chư Phật chẳng bờ mé
Ðều muốn biết rõ rất là khó.
‘’Chúng hội Phật tử rộng vô hạn.’’ Các vị đại Bồ Tát và hàng nhị thừa cùng với phàm phu, tất cả những Phật tử này, rất nhiều ở trong pháp hội, không biết là bao nhiêu, chẳng cách chi tính đếm được.
‘’Muốn cùng dò lường các Phật địa.’’ Các vị đó, đều muốn minh bạch cảnh giới các Phật địa, cứu kính như thế nào ?
‘’Pháp môn chư Phật chẳng bờ mé.’’ Song, cảnh giới chư Phật và pháp môn chư Phật vô lượng vô biên, chẳng cách chi dò lường được.
‘’Ðều muốn biết rõ rất là khó.’’ Nghĩ muốn dò lường cảnh giới của Phật, nghĩ muốn minh bạch pháp môn của Phật, đây là việc thật không dễ dàng.
Phật như hư không chẳng phân biệt
Ðồng chân pháp giới chẳng chỗ nương
Hóa hiện khắp hết đâu chẳng có
Ðều ngồi đạo tràng thành chánh giác.
‘’Phật như hư không chẳng phân biệt.’’ Pháp thân của Phật đầy khắp tất cả mọi nơi, vô sở tại, cũng vô sở bất tại, giống như hư không, nói nó có chăng ? Tức nhìn mà chẳng thấy, nói nó chẳng có chăng ? Lại đầy khắp hư không. Ví như hư không, nói nó chẳng có, nó vẫn tồn tại; nói nó có, nó lại là không. Pháp thân của Phật cũng như thế, với hư không chẳng có phân biệt.
‘’Ðồng chân pháp giới không chỗ nương.’’ Bình đẳng một chân pháp giới, nó vốn là không chỗ nương, mà là chỗ nương của tất cả vạn vật.
‘’Hóa hiện khắp hết đâu chẳng có.’’ Pháp thân của Phật, hóa hiện ở trong mỗi cõi nước, khắp trong pháp giới, chẳng có chỗ nào mà chẳng có hóa thân của Phật.
‘’Ðều ngồi đạo tràng thành chánh giác.’’ Pháp thân của Phật khắp hết trong tất cả cõi nước, đều ngồi dưới cội bồ đề thành chánh giác.
Phật dùng diệu âm rộng tuyên dương
Tất cả các địa đều thấy rõ
Hiện khắp trước mỗi mỗi chúng sinh
Ðồng với Như Lai pháp bình đẳng.
‘’Phật dùng diệu âm rộng tuyên dương.’’ Phật dùng pháp âm vi diệu, rộng tuyên dương Phật pháp khắp nơi, khiến cho Phật pháp lưu thông đến mọi nơi, khiến cho chúng sinh đều minh bạch nghĩa chân thật của Phật pháp.
‘’Tất cả các địa đều thấy rõ.’’ Từ sơ địa đến đẳng giác, địa vị pháp thân đại sĩ, đối với sở tu chân thật pháp và tất cả các địa, các Ngài đều thấu rõ.
‘’Hiện khắp trước mỗi mỗi chúng sinh.’’ Xuất hiện khắp ở trước tất cả chúng sinh, mà vì họ nói pháp.
‘’Ðồng với Như Lai pháp bình đẳng.’’ Vì chúng sinh nói diệu pháp bình đẳng, tức cũng chẳng có pháp phân biệt. Do đó có câu :
‘’Tâm, Phật, chúng sinh,
Cả ba chẳng khác biệt.’’
Khiến cho chúng sinh biết tự tánh, chỉ cần tu hành thì sẽ thành Phật.
Lại nữa, đại Bồ Tát Tịnh Ðức Diệu Quang, được môn giải thoát, đến khắp mười phương trang nghiêm đạo tràng chúng hội Bồ Tát.
Tiếp tục nói kinh văn ở trước. Vị đại Bồ Tát Tịnh Ðức Diệu Quang, là đại Bồ Tát trong hàng Bồ Tát, tức cũng là pháp thân Ðại sĩ. Ngài đắc được cảnh giới: Ðến khắp mười phương pháp giới, trang nghiêm đạo tràng pháp hội đại chúng Bồ Tát, Ngài vào môn giải thoát này.
Ðại Bồ Tát Phổ Ðức Tối Thắng Ðăng Quang Chiếu, được môn giải thoát, trong một niệm, hiện ra vô tận môn Phật thành chánh giác, giáo hóa thành thục chúng sinh giới không nghĩ bàn.
Vị đại Bồ Tát Phổ Ðức Tối Thắng Ðăng Quang Chiếu, đắc được cảnh giới, ở trong một niệm, hiện ra vô tận pháp môn Phật thành chánh giác, lại giáo hóa chúng sinh thành thục, đều được thành thục Phật quả, đây là một cảnh giới trong chúng sinh giới không thể nghĩ bàn, Ngài vào môn giải thoát này.
Ðại Bồ Tát Phổ Quang Sư Tử Tràng, được môn giải thoát, tu tập phước đức của Bồ Tát, để trang nghiêm hiện ra tất cả cõi Phật.
Vị đại Bồ Tát Phổ Quang Sư Tử Tràng, đắc được cảnh giới, tu tập phước đức của Bồ Tát, tức là tu lục độ vạn hạnh, đủ thứ việc lành, để trang nghiêm hiện ra tất cả cõi Phật, Ngài vào môn giải thoát này.
Ðại Bồ Tát Phổ Bảo Diễm Diệu Quang, được môn giải thoát, quán sát cảnh giới thần thông của Phật, mà chẳng mê hoặc.
Vị đại Bồ Tát Phổ Bảo Diễm Diệu Quang, đắc được cảnh giới, quán sát cảnh giới thần thông diệu dụng của Phật, mà chẳng mê hoặc, Ngài vào môn giải thoát này.
Ðại Bồ Tát Phổ Âm Công Ðức Hải Tràng, được môn giải thoát, ở trong một chúng hội đạo tràng, thị hiện tất cả cõi Phật trang nghiêm.
Vị đại Bồ Tát Phổ Âm Công Ðức Hải Tràng, đắc được cảnh giới, ở trong một đại chúng pháp hội, hiện ra tất cả cõi nước chư Phật trang nghiêm, tất cả đạo tràng trang nghiêm, Ngài vào môn giải thoát này.
Ðại Bồ Tát Phổ Trí Quang Chiếu Như Lai Cảnh, được môn giải thoát, tùy theo Như Lai quán sát pháp giới tạng thâm sâu rộng lớn.
Vị đại Bồ Tát Phổ Trí Quang Chiếu Như Lai Cảnh, đắc được cảnh giới: Quang minh của Ngài chiếu sáng cảnh giới của Phật, tùy theo Phật để quán sát pháp giới tạng rộng lớn thâm sâu vô thượng, mà minh bạch đạo lý pháp giới, Ngài vào môn giải thoát này.
Ðại Bồ Tát Phổ Giác Duyệt Ý Thanh, được môn giải thoát, gần gũi thừa sự cúng dường tất cả chư Phật.
Vị đại Bồ Tát Phổ Giác Duyệt Ý Thanh, đắc được cảnh giới, khiến khắp hết thảy chúng sinh giác ngộ, mà gần gũi chư Phật, thừa sự chư Phật, cúng dường chư Phật, tức cũng là luôn luôn hầu cận chư Phật, Ngài vào môn giải thoát này.
Ðại Bồ Tát Phổ Thanh Tịnh Vô Tận Phước Oai Quang, được môn giải thoát, dùng tất cả thần thông biến hóa rộng lớn, để gia trì chúng sinh.
Vị đại Bồ Tát Phổ Thanh Tịnh Vô Tận Phước Oai Quang, đắc được cảnh giới, dùng thần thông biến hóa rộng lớn, để gia trì tất cả chúng sinh, khiến cho họ phát tâm bồ đề, Ngài vào môn giải thoát này.
Ðại Bồ Tát Phổ Bảo Kế Hoa Tràng, được môn giải thoát, vào khắp tất cả hạnh thế gian, mà sinh ra vô biên hạnh môn của Bồ Tát.
Vị Ðại Bồ Tát Phổ Bảo Kế Hoa Tràng, đắc được cảnh giới, vào khắp tất cả hạnh môn sở hành của thế gian, mà sinh ra vô biên hạnh môn sở tu của Bồ Tát, Ngài vào môn giải thoát này.
Ðại Bồ Tát Phổ Tướng Tối Thắng Quang, được môn giải thoát, ở trong pháp giới vô tướng, xuất hiện cảnh giới của tất cả chư Phật.
Vị đại Bồ Tát Phổ Tướng Tối Thắng Quang, đắc được cảnh giới, ở trong pháp giới vô tướng, lại hiện ra cảnh giới của tất cả chư Phật. Vô tướng vốn chẳng có hình tướng có thể thấy, song ở trong vô tướng mà hiện ra có tướng, đây là thần thông diệu dụng, Ngài vào môn giải thoát này.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Tịnh Ðức Diệu Quang, nương oai thần lực của đức Phật, quán sát khắp biển môn giải thoát của tất cả Bồ Tát, rồi nói bài kệ rằng.
Lúc đó, đại Bồ Tát Phổ Tướng Tối Thắng Quang, nói xong môn giải thoát của Ngài đắc được rồi, thì vị đại Bồ Tát Tịnh Ðức Diệu Quang, nương đại oai đức thần lực của Phật, quán sát khắp biển môn giải thoát, của tất cả Bồ Tát rồi, bèn dùng kệ nói ra đạo lý này.
Mười phương hết thảy các cõi nước
Trong một sát na đều nghiêm tịnh
Dùng diệu âm thanh chuyển pháp luân
Khắp thảy thế gian chẳng gì bằng.
‘’Mười phương hết thảy các cõi nước.’’ Mười phương tức là trên, dưới, bốn phương, bốn hướng, cộng lại là mười. Ở trong mười phương hết thảy cõi nước chư Phật, trong mỗi cõi Phật, đều có Phật đang ở đó diễn nói diệu pháp.
‘’Trong một sát na đều nghiêm tịnh.’’ Ở trong thời gian rất ngắn, đều trang nghiêm cõi nước chư Phật trong mười phương, một hạt bụi chẳng nhiễm, vạn niệm không sinh.
‘’Dùng diệu âm thanh chuyển pháp luân.’’ Phật dùng âm thanh vi diệu không thể nghĩ bàn, để chuyển đại pháp luân, vì chúng sinh thuyết pháp.
‘’Khắp thảy thế gian chẳng gì bằng.’’ Khắp trong hết thảy mười phương thế giới cõi nước chư Phật, chẳng có âm thanh nào vi diệu sánh bắng âm thanh của Phật, cũng chẳng có đạo lý nào viên mãn bằng đạo lý của Phật nói.
Cảnh giới Như Lai chẳng bờ mé
Một niệm sung mãn khắp pháp giới
Trong mỗi hạt bụi lập đạo tràng
Ðều chứng bồ đề khởi thần biến.
‘’Cảnh giới Như Lai chẳng bờ mé.’’ Cảnh giới của Phật chẳng có bờ mé, chẳng cách chi biết được.
‘’Một niệm sung mãn khắp pháp giới.’’ Trong khoảng một niệm, đầy dẫy mười phương pháp giới ở trong tất cả hạt bụi.
‘’Trong mỗi hạt bụi lập đạo tràng.’’ Cảnh giới của Phật, có thể ở trong mỗi hạt bụi kiến lập đạo tràng, chuyển bánh xe pháp, giáo hóa chúng sinh.
‘’Ðều chứng bồ đề khởi thần biến.’’ Khiến tất cả chúng sinh, đều chứng được bồ đề, mà còn có thần thông biến hóa diệu dụng.
Thuở xưa Thế Tôn tu các hạnh
Trải qua trăm ngàn vô lượng kiếp
Tất cả cõi Phật đều trang nghiêm
Xuất hiện vô ngại như hư không.
‘’Thuở xưa Thế Tôn tu các hạnh.’’ Thuở xưa Thế Tôn tu tất cả hạnh môn, tức cũng là có bao nhiêu hạnh môn Phật đều tu, chẳng bỏ qua.
‘’Trải qua trăm ngàn vô lượng kiếp.’’ Phật trải qua trăm ngàn vô lượng đại kiếp, tu hành sáu độ vạn hạnh viên mãn.
‘’Tất cả cõi Phật đều trang nghiêm.’’ Vì có vô lượng công đức, cho nên khiến cho tất cả cõi Phật, đều trang nghiêm thanh tịnh.
‘’Xuất hiện vô ngại như hư không.’’ Pháp thân của Phật vô ngại, giống như hư không, thích đến cõi nào thì hiện thân ở cõi đó.
Thần thông của Phật vô hạn lượng
Sung mãn vô biên tất cả kiếp
Giả sử trải qua vô lượng kiếp
Niệm niệm quán sát không mỏi nhàm.
‘’Thần thông của Phật vô hạn lượng.’’ Pháp thân của Phật khắp hết thảy pháp giới, thần thông của Phật cũng chẳng hạn lượng, chẳng ai biết được, chẳng ai thấu được.
‘’Sung mãn vô biên tất cả kiếp.’’ Thần thông của Phật sung mãn vô biên vô bờ nhiều đại kiếp.
‘’Giả sử trải qua vô lượng kiếp.’’ Giả sử trải qua vô lượng vô biên nhiều đại kiếp, thời gian lâu dài.
‘’Niệm niệm quán sát chẳng mỏi nhàm.’’ Trong mỗi niệm, đều quán sát sức thần thông biến hóa của Phật, chẳng khi nào mỏi mệt hoặc nhàm chán.
Hãy quán cảnh giới thần thông Phật
Mười phương cõi nước đều nghiêm tịnh
Tất cả trong đó đều hiện tiền
Niệm niệm khác nhau vô lượng loài.
‘’Hãy quán cảnh giới thần thông Phật.’’ Các vị hãy quán sát cảnh giới thần thông diệu dụng của Phật, là không thể nghĩ bàn.
‘’Mười phương cõi nước đều nghiêm tịnh.’’ Thần thông của Phật, đều trang nghiêm thanh tịnh các cõi Phật trong mười phương.
‘’Thảy đều hiện tiền ở trong đó.’’ Phật có thể hiện ở trong tất cả các cõi, ở trước mặt mỗi chúng sinh nói diệu pháp.
‘’Niệm niệm khác nhau vô lượng loài.’’ Ở trong mỗi niệm hiện ra khác nhau, có vô lượng vô biên nhiều giống loài.
Quán Phật trăm ngàn vô lượng kiếp
Chẳng hết sợi lông nơi thân Phật
Phương tiện vô ngại của Như Lai
Quang này chiếu khắp khó lường được.
‘’Quán Phật trăm ngàn vô lượng kiếp.’’ Quán chư Phật, ở trong thời gian dài trăm ngàn vô lượng kiếp, đều chẳng nghỉ ngơi.
‘’Chẳng hết sợi lông nơi thân Phật.’’ Cho đến một sợi lông và khoảng cách một sợi lông, đều chẳng quán hết được.
‘’Phương tiện vô ngại của Như Lai.’’ Phật có pháp môn phương tiện, hổ tương vô ngại để giáo hóa chúng sinh.
‘’Quang này chiếu khắp khó lường được.’’ Thứ quang minh Bát nhã của Phật, trong trăm ngàn vô lượng kiếp, đều chiếu khắp các cõi Phật không thể nghĩ bàn.
Kiếp xưa Như Lai tại thế gian
Thừa sự vô biên biển chư Phật
Cho nên tất cả như nước chảy
Ðều đến cúng dường đức Thế Tôn.
‘’Kiếp xưa Như Lai tại thế gian.’’ Thuở xưa khi Phật tại thế gian, tu trì tất cả Phật pháp, và tất cả pháp môn.
‘’Thừa sự vô biên biển chư Phật.’’ Pháp môn của Phật tu hành, là cúng dường tất cả chư Phật, lễ kính tất cả chư Phật. Cúng dường chư Phật nhiều như biển cả, cho nên gọi là biển chư Phật.
‘’Cho nên tất cả như nước chảy.’’ Vì vậy cho nên tất cả Bồ Tát, A La Hán, chúng sinh giống như trăm sông đều chảy về biển cả.
‘’Ðều đến cúng dường đức Thế Tôn.’’ Ðức Thế Tôn tức là Phật, mọi người cùng nhau đến cúng dường Phật, thừa sự nơi Phật, lễ kính Phật.
Như Lai xuất hiện khắp mười phương
Trong mỗi hạt bụi vô lượng cõi
Cảnh giới trong đó đều vô lượng
Ðều trụ vô biên vô tận kiếp.
‘’Như Lai xuất hiện khắp mười phương.’’ Phật luôn luôn xuất hiện khắp trong mười phương, đến các cõi Phật để thuyết pháp.
‘’Trong mỗi hạt bụi vô lượng cõi.’’ Phật xuất hiện ở trong mỗi cõi hạt bụi, chuyển đại pháp luân ở trong đó.
‘’Cảnh giới trong đó đều vô lượng.’’ Cảnh giới ở trong đó đều khác nhau, vô lượng vô biên.
‘’Ðều trụ vô biên vô tận kiếp.’’ Thần thông biến hóa của Phật, đều là vô biên vô tận, ở trong vô biên vô tận kiếp đã tu hành.
Phật nơi kiếp xưa vì chúng sinh
Tu tập vô biên biển đại bi
Theo các chúng sinh vào sinh tử
Hóa khắp chúng hội khiến thanh tịnh.
‘’Phật nơi kiếp xưa vì chúng sinh.’’ Thuở xưa, khi Phật làm chúng sinh, thì có tâm từ bi rộng lớn.
‘’Tu tập vô biên biển đại bi.’’ Lúc đó, Phật tu pháp môn tâm đại bi, thấy chúng sinh chịu khổ thì sinh tâm đại bi, thương xót chúng sinh, nguyện cứu chúng sinh khổ, khiến cho chúng sinh được khoái lạc. Vì tích lũy tu hành pháp môn này, lâu dần thành biển cả, cho nên gọi là biển đại bi.
‘’Theo các chúng sinh vào sinh tử.’’ Vì giáo hóa chúng sinh, mà Phật nguyện xả mình vì chúng sinh, cho nên thường theo chúng sinh vào biển sinh tử.
‘’Hóa khắp chúng hội khiến thanh tịnh.’’ Phật giáo hóa khắp tất cả chúng sinh hữu tình, khiến cho họ đắc được bổn thể thanh tịnh.
Phật trụ chân như pháp giới tạng
Không tướng không hình lìa ô nhiễm
Chúng sinh quán thấy đủ thứ thân
Tất cả khổ nạn đều tiêu diệt.
‘’Phật trụ chân như pháp giới tạng.’’ Phật trụ trong chân như pháp giới tạng. Chân như tức là chân thật, lìa hư vọng, thường trụ bất biến. Pháp giới tức là bổn thể của tất cả thân tâm chúng sinh.
‘’Không tướng không hình lìa nhiễm ô.’’ Phật trụ trong chân như pháp giới tạng, không hình không tướng. Tại sao là không tướng không hình ? Vì lìa khỏi tất cả tướng và tất cả hình, cũng lìa khỏi tất cả pháp nhiễm ô không thanh tịnh, cho nên đắc được khoái lạc Niết Bàn, tức cũng là khoái lạc của tự tánh chân như bình đẳng.
‘’Chúng sinh quán thấy đủ thứ thân.’’ Chúng sinh quán thấy đủ thứ thân Phật, có thanh tịnh pháp thân, có viên mãn báo thân, có thiên bách ức hóa than, cho đến mười thân .v.v…
‘’Tất cả khổ nạn đều tiêu diệt.’’ Chúng sinh thấy được đủ thứ thân Phật, thì tất cả khổ nạn đều tiêu diệt chẳng còn sót.
Lại nữa, đại Bồ Tát Hải Nguyệt Quang Ðại Minh, được môn giải thoát, hiện ra các địa, các Ba la mật của Bồ Tát, giáo hóa chúng sinh, và phương tiện nghiêm tịnh tất cả cõi Phật.
Tiếp tục nói nghĩa lý kinh văn. Vị đại Bồ Tát Hải Nguyệt Quang Ðại Minh, đắc được cảnh giới, hiện ra các địa của Bồ Tát, từ sơ địa đến đẳng giác, lại hay sinh ra các Ba la mật, từ bố thí Ba la mật, đến Bát nhã ba la mật. Ba la mật là tiếng Phạn, dịch là “đến bờ kia”, dùng những phương pháp này, để giáo hóa chúng sinh, và pháp môn phương tiện trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi Phật, Ngài vào môn giải thoát này.
Ðại Bồ Tát Vân Âm Hải Quang Ly Cấu Tạng, được môn giải thoát, trong niệm niệm vào khắp pháp giới, đủ thứ nơi khác nhau.
Vị đại Bồ Tát Vân Âm Hải Quang Ly Cấu Tạng, đắc được cảnh giới, ở trong mỗi niệm vào khắp trong tất cả pháp giới, đủ thứ nơi khác nhau, và đủ thứ đạo tràng khác nhau, Ngài vào môn giải thoát này.
Ðại Bồ Tát Trí Sinh Bảo Kế, được môn giải thoát, nhiều kiếp không thể nghĩ bàn, ở trước tất cả chúng sinh, hiện ra đại công đức thanh tịnh.
Vị đại Bồ Tát Trí Sinh Bảo Kế, đắc được cảnh giới, thời gian lâu dài tâm không thể nghĩ, không thể luận bàn, hiện ra trước tất cả chúng sinh đại công đức thanh tịnh, chẳng có tham sân si, Ngài vào môn giải thoát này.
Ðại Bồ Tát Công Ðức Tự Tại Vương Tịnh Quang, được môn giải thoát, thấy khắp đủ thứ trang nghiêm, của tất cả Bồ Tát trong mười phương, lúc ban đầu đến đạo tràng.
Vị đại Bồ Tát Công Ðức Tự Tại Vương Tịnh Quang, đắc được cảnh giới, thấy khắp đủ thứ trang nghiêm, đủ thứ cảnh giới không thể nghĩ bàn, của tất cả Bồ Tát trong mười phương ba đời, lúc ban đầu đi đến đạo tràng của Phật, Ngài vào môn giải thoát này.
Ðại Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh Liên Hoa Kế, được môn giải thoát, tùy biển căn tánh hiểu biết của các chúng sinh, mà khắp vì họ hiển bày tất cả Phật pháp.
Vị đại Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh Liên Hoa, đắc được cảnh giới, tùy thuận căn tánh hiểu biết đạo lý, thấu rõ nghĩa lý của tất cả chúng sinh, như biển cả, cho nên gọi là biển căn tánh hiểu biết. Nếu hiển bày chút ít pháp, thì chúng sinh không thể nào mãn túc được, do đó mới hiển bày khắp tất cả các pháp, Ngài vào môn giải thoát này.
Chữ ‘’các‘’ của câu các chúng sinh nói là nhiều, lại có thể nói là một. Ý nghĩa nói chữ nhiều, là hết thảy tất cả chúng sinh, căn tánh của họ và sự hiểu biết của họ, rộng lớn như biển cả. Ý nghĩa nói chữ một, là chúng sinh này, căn tánh của họ lanh lợi chứ chẳng phải độn, sự hiểu biết đạo lý của họ rất rộng lớn, có hai ý nghĩa này, cho nên phải chú ý về phương diện này.
Tại sao chữ ‘’các‘’ này nói là một ? Vì nó tức nhiên là nhiều, cho nên nói nhiều, cũng có thể nói là một. Ở trong kinh có nói :
‘’Nhiều tức là một,
Một tức là nhiều,
Một nhiều không hai.’’
Vì nhiều là từ một mà ra, một là một bộ phận ở trong nhiều, cho nên một tức là nhiều, nhiều tức là một. Cảnh giới Kinh Hoa Nghiêm tức là như thế, quan trọng là phá nhân chấp (chấp trước về người). Cho nên, giảng kinh chỉ cần viên dung vô ngại, thì đều có thể giảng, do đó chữ ‘’các‘’ nói là chữ một.
Ðại Bồ Tát Phổ Trí Vân Nhật Tràng, được môn giải thoát, thành tựu trí của Như Lai, vĩnh viễn trụ trong vô lượng kiếp.
Vị đại Bồ Tát Phổ Trí Vân Nhật Tràng, đắc được cảnh giới, thành tựu trí huệ của Phật, vĩnh viễn trụ trong thời gian dài vô lượng kiếp, để hành Bồ Tát đạo, Ngài vào môn giải thoát này.
Ðại Bồ Tát Ðại Tinh Tấn Kim Cang Tề, được môn giải thoát, vào tất cả vô biên sức pháp ấn.
Vị đại Bồ Tát Ðại Tinh Tấn Kim Cang Tề, đắc được cảnh giới, vào khắp tất cả sức pháp ấn, tức cũng là vào khắp thật tướng của các pháp. Pháp pháp viên dung, tâm tâm tương ấn, pháp và tâm viên dung tương ấn, Ngài vào môn giải thoát này.
Ðại Bồ Tát Hương Diễm Quang Tràng, được môn giải thoát, hiển bày tất cả chư Phật hiện tại, bắt đầu tu hạnh Bồ Tát, cho đến thành tựu trí huệ.
Vị đại Bồ Tát Hương Diễm Quang Tràng, đắc được cảnh giới, hiển bày ra tất cả chư Phật hiện tại bắt đầu tu hạnh Bồ Tát, khi hành Bồ Tát đạo, cho đến khi thành tựu trí huệ của Phật, khoảng giữa thời gian của quả vị Phật này, phải trải qua thời gian rất dài, do đó có câu :
‘’Ba A tăng kỳ tu phước huệ,
Trăm kiếp vun trồng tướng tốt.’’
Ngài vào môn giải thoát này.
Ðại Bồ Tát Ðại Minh Ðức Thâm Mỹ Âm, được môn giải thoát, an trụ vào tất cả biển đại nguyện của đức Tỳ Lô Giá Na.
Vị đại Bồ Tát Ðại Minh Ðức Thâm Mỹ Âm, đắc được cảnh giới, an trụ vào trong biển đại nguyện của Phật Tỳ Lô Giá Na, tức cũng là thực hành tất cả đại nguyện lực, của Phật Tỳ Lô Giá Na đã phát ra. Phật Tỳ Lô Giá Na, là pháp thân của Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật Lô Xa Na, là báo thân của Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài nhập vào môn giải thoát này.
Ðại Bồ Tát Ðại Phước Quang Trí Sinh, được môn giải thoát, hiển bày cảnh giới thâm sâu của Như Lai khắp pháp giới.
Vị đại Bồ Tát Ðại Phước Quang Trí Sinh, đắc được cảnh giới, hiển bày thân Phật đầy khắp pháp giới, cảnh giới thâm sâu này, chẳng dễ gì minh bạch, tức là đại quang minh tạng của Phật, Ngài đắc được môn giải thoát này.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Hải Nguyệt Quang Ðại Minh, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả đại chúng Bồ Tát biển trang nghiêm, rồi nói bài kệ rằng.
Lúc đó, vị đại Bồ Tát Hải Nguyệt Quang Ðại Minh, nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp tất cả đại chúng Bồ Tát, trang nghiêm pháp hội đạo tràng nhiều như biển cả, cho nên gọi là biển trang nghiêm. Ngài quán sát nhân duyên này rồi, lập tức dùng kệ, để nói lại ý nghĩa trường hàng ở trên.
Các Ba la mật và các địa
Rộng lớn khó nghĩ đều viên mãn
Vô lượng chúng sinh thảy đều phục
Tất cả cõi Phật đều nghiêm tịnh.
‘’Các Ba la mật và các địa.’’ Tu pháp lục độ vạn hạnh, mới đến được bờ bên kia, mới chứng quả vị Thập địa. Thập địa là địa vị của Bồ Tát, tiêu diệt một phần vô minh hoặc, thì chứng một phần pháp thân, tiến lên một địa vị.
‘’Rộng lớn khó nghĩ đều viên mãn.’’ Tuy các Ba la mật và các địa, đều là cảnh giới rộng lớn khó nghĩ lường, song hiện tại đều viên mãn.
‘’Vô lượng chúng sinh thảy đều phục.’’ Hết thảy tất cả chúng sinh đều được điều phục, chúng sinh cang cường đều nhu hòa, chúng sinh có tâm tham thì không còn tham nữa, chúng sinh có tâm si cũng chẳng còn si mê nữa.
‘’Tất cả cõi Phật đều nghiêm tịnh.’’ Tất cả các cõi Phật đều trang nghiêm thanh tịnh.
Như Phật giáo hóa cõi chúng sinh
Cõi nước mười phương đều đầy dẫy
Trong một tâm niệm chuyển pháp luân
Ứng khắp quần sinh khắp hết thảy.
‘’Như Phật giáo hóa cõi chúng sinh.’’ Giống như Phật, vì giáo hóa chúng sinh, mà vào tất cả cõi chúng sinh.
‘’Cõi nước mười phương đều đầy dẫy.’’ Hết thảy cõi nước mười phương, đều đầy dẫy pháp của Phật giáo hóa.
‘’Trong một tâm niệm chuyển pháp luân.’’ Ở trong một tâm niệm chuyển bánh xe pháp.
‘’Ứng khắp quần sinh khắp hết thảy.’’ Cảm ứng khắp hết thảy chúng sinh, chẳng có một chúng sinh nào, mà không nghe được chánh pháp.
Phật trong vô lượng kiếp rộng lớn
Hiện khắp trước tất cả chúng sinh
Như Phật thuở xưa rộng tu hành
Chỉ bày nơi tu hành thanh tịnh.
‘’Phật trong vô lượng kiếp rộng lớn.’’ Phật ở trong vô lượng vô biên kiếp rộng lớn về trước, làm gì ?
‘’Hiện khắp trước hết thảy chúng sinh.’’ Thị hiện khắp ở trước tất cả chúng sinh, giáo hóa chúng sinh tu học Phật pháp như thế nào ?
‘’Như Phật thuở xưa rộng tu hành.’’ Giống như Phật thuở xưa rộng tu lục độ vạn hạnh tất cả các pháp, trừ khử tập khí mao bệnh.
‘’Chỉ bày nơi tu hành thanh tịnh.’’ Chỉ bày cho tất cả chúng sinh, nơi Phật tu hành thanh tịnh.
Tôi thấy mười phương chẳng còn sót
Cũng thấy chư Phật hiện thần thông
Ðều ngồi đạo tràng thành chánh giác
Chúng hội nghe pháp cùng vây quanh.
‘’Tôi thấy mười phương chẳng còn sót.’’ Tôi nhìn thấy hết thảy chư Phật trong mười phương, chẳng có chỗ nào mà chẳng thấy, cho nên nói là chẳng còn sót.
‘’Cũng thấy chư Phật hiện thần thông.’’ Cũng nhìn thấy chư Phật hiện thần thông, thiên biến vạn hóa, không thể nghĩ bàn.
‘’Ðều ngồi đạo tràng thành chánh giác.’’ Tất cả chư Phật đang ngồi tại đạo tràng, mà thành chánh giác.
‘’Chúng hội nghe pháp cùng vây quanh.’’ Tất cả Bồ Tát trong chúng hội, và Thanh Văn, Duyên Giác, Thiên long bát bộ, nhân, phi nhân .v.v., nghe pháp rồi, hết thảy đều cùng nhau vây quanh chư Phật, cúng dường chư Phật.
Pháp thân Phật quang minh rộng lớn
Thường dùng phương tiện hiện thế gian
Khắp tùy chúng sinh tâm ưa thích
Theo căn tính họ mà mưa pháp.
‘’Pháp thân Phật quang minh rộng lớn.’’ Phật có trí huệ Bát nhã, hay hiện ra quang minh rộng lớn, đây là cảnh giới do pháp thân của Phật thành tựu.
‘’Thường dùng phương tiện hiện thế gian.’’ Quang minh của Phật rộng lớn vô biên, pháp thân của Phật không tướng không hình, song Phật dùng pháp môn phương tiện xuất hiện trong thế gian, từ không hình mà hiện có hình.
‘’Khắp tùy chúng sinh tâm ưa thích.’’ Tùy thuận khắp hết thảy căn tánh của chúng sinh, và sự ưa thích trong tâm.
‘’Theo căn tánh họ mà mưa pháp.’’ Pháp của Phật rưới xuống diệu dụng vô cùng. Chúng sinh giống như hoa cỏ cây cối, chúng sinh đại căn đại trí, thì đượm nhuần nhiều mưa pháp; chúng sinh tiểu căn tiểu trí, thì đượm nhuần ít mưa pháp. Căn tánh của chúng sinh phân ra làm hai thứ, một là lợi căn, tức là người thông minh; hai là độn căn, tức là người ngu si. Có trí huệ như cây lớn, được nhiều lợi ích; chẳng có trí huệ như cây nhỏ, được ít lợi ích, tùy theo căn tánh mà đắc được mưa pháp.
Chân như bình đẳng thân vô tướng
Lìa cấu quang minh tịnh pháp thân
Trí huệ tịch tĩnh vô lượng thân
Ứng khắp mười phương mà thuyết pháp.
‘’Chân như bình đẳng thân vô tướng.’’ Phật là bình đẳng nhất, cho nên nói là chân như bình đẳng, chân như còn gọi là thật tướng, còn gọi là nhất chân pháp giới, đây là thể pháp thân của Phật, cũng là thể không hình không tướng. Tính diệu chân như này, ở bậc Thánh chẳng tăng, ở địa vị phàm phu cũng chẳng giảm, không thể vì đọa lạc trong ba đường ác, hoặc là thành Phật mà có sự khác nhau. Ðó là chân như bình đẳng thân vô tướng.
‘’Lìa cấu quang minh tịnh pháp thân.’’ Lìa cấu tức là lìa khỏi tất cả phiền não chướng và sở tri chướng. Nếu lìa khỏi tất cả phiền não vô minh, thì trí huệ quang minh pháp thân thanh tịnh sẽ hiện tiền.
‘’Trí huệ tịch tĩnh vô lượng thân.’’ Trí huệ là đầy đủ trí Bát nhã và Nhất thiết chủng trí, tịch tĩnh là tịch nhiên bất động, song cảm ứng mà toại thông. Tịch tĩnh bất động là Viên mãn báo thân của Phật, cảm mà toại thông là Thiên bách ức hóa thân của Phật, cho nên nói vô lượng thân.
Chẳng những Phật có hóa thân, mà chúng ta cũng có hóa thân. Ví như : Thầy giáo đem đạo lý mình đã hiểu biết dạy học sinh, học sinh minh bạch rồi, theo đó mà thực hành, thì đồng hóa thân nơi thầy giáo. Học sinh vẫn tiếp tục đi truyền dạy, hết lớp này đến lớp khác, đó là hóa thân không ngừng, đó chẳng phải là thiên bách ức hóa thân chăng ?
Giảng kinh thuyết pháp phải khiến cho Phật pháp linh hoạt, đừng chiếu theo đạo lý chết để giảng, như thế thì chẳng có ý nghĩa gì. Cho nên, giảng kinh không cần quá sâu, khiến cho người nghe không hiểu, cũng không cần quá cạn, khiến cho người nghe sinh nhàm chán, phải bình dị vào sâu ra cạn, mới khiến cho người nghe sinh hoan hỷ, mà đắc được lợi ích.
‘’Ứng khắp mười phương mà thuyết pháp.’’ Tại sao phải hiện ra thiên bách ức hóa thân ? Vì phải cảm ứng khắp căn cơ của tất cả chúng sinh trong mười phương, mà diễn nói diệu pháp.
Các lực của Phật đều thanh tịnh
Trí huệ như không chẳng bờ mé
Ðều vì khai thị không lưu giữ
Khiến khắp chúng sinh cùng ngộ nhập.
‘’Các lực của Phật đều thanh tịnh.’’ Pháp vương tức là Thánh nhân, đã tu đến địa vị cùng cực, cũng là Phật. Mười lực của Phật tu, đều thanh tịnh viên mãn.
‘’Trí huệ như không chẳng bờ mé.’’ Trí huệ của Phật giống như hư không, chẳng có bờ mé. Tuy nhiên chẳng có bờ mé, song vẫn biết có hư không tồn tại.
‘’Ðều vì khai thị không lưu giữ.’’ Pháp của Phật nói, hoàn toàn vì khai thị cho tất cả chúng sinh mà nói, hoàn toàn nói ra hết, chẳng để lại hoặc cất giữ.
‘’Khiến khắp chúng sinh cùng ngộ nhập.’’ Khiến khắp tất cả chúng sinh, đều khai ngộ và nhập vào đạo vô thượng giác, cùng nhau đắc được quả vị Phật.
Như Phật thuở xưa đã tu hành
Cho đến thành tựu Nhất thiết trí
Nay phóng quang minh khắp pháp giới
Trong đó hiển hiện đều rõ ràng.
‘’Như Phật thuở xưa đã tu hành.’’ Giống như Phật thuở xưa, tu hành lục độ vạn hạnh trong nhiều đời nhiều kiếp, mới diệt trừ sạch vô minh tập khí phiền não, tức là:
‘’Tam kỳ tu phước huệ,
Bách kiếp chủng tướng hảo’’.
‘’Cho đến thành tựu Nhất thiết trí.’’ Phật tu hành thời gian dài như thế mới thành Phật.
‘’Khiến phóng quang minh khắp pháp giới.’’ Hiện tại Phật phóng đại quang minh, chiếu khắp mười phương pháp giới.
‘’Trong đó hiển hiện đều rõ ràng.’’ Phóng đại quang minh khắp pháp giới, đều hiện ra hết tất cả rất rõ ràng, chẳng có gì mà chẳng nhìn thấy.
Phật dùng nguyện xưa hiện thần thông
Tất cả mười phương đâu chẳng chiếu
Như Phật thuở xưa đã tu hành
Trong lưới quang minh đều diễn nói.
‘’Phật dùng nguyện xưa hiện thần thông.’’ Tại sao Phật phải hiện thần thông ? Vì bổn lai Phật có nguyện lực, muốn hiện thần thông để giáo hóa chúng sinh.
‘’Tất cả mười phương đâu chẳng chiếu.’’ Hết thảy tất cả mười phương pháp giới, chẳng có chỗ nào mà không bị quang minh Bát Nhã của Phật chiếu đến.
‘’Như Phật thuở xưa đã tu hành.’’ Giống như thuở xưa Phật tu các hạnh môn.
‘’Trong lưới quang minh đều diễn nói.’’ Ở trong lưới đại quang minh của Phật, đều diễn nói ra những hạnh môn của Phật tu thuở xưa, khiến cho chúng sinh y theo pháp mà tu hành.
Mười phương cảnh giới không cùng tận
Vô đẳng vô biên đều khác biệt
Phật vô ngại lực phát đại quang
Tất cả cõi nước đều hiện rõ.
‘’Mười phương cảnh giới không cùng tận.’’ Cảnh giới mười phương cõi nước chẳng cùng tận, thần thông biến hóa của Phật cũng chẳng cùng tận.
‘’Vô đẳng vô biên đều khác biệt.’’ Chẳng có ai có thần thông diệu dụng bằng Ðức Phật, thứ thần thông diệu dụng này chẳng có bờ mé, mà cảnh giới mười phương có đủ thứ sự khác biệt.
‘’Phật vô ngại lực phát đại quang.’’ Phật có sức vô ngại, phát ra một thứ đại quang minh.
‘’Tất cả cõi nước đều hiện rõ.’’ Hết thảy mười phương cõi nước, đều hiển hiện ra ở trong đại quang minh tạng của Phật.
Hiện tại đã giải thích sơ lược xong, môn giải thoát và kệ của hai mươi mốt vị đại Bồ Tát, dưới đây nói rõ kinh văn tiếp theo.
Bấy giờ, tòa sư tử của đức Như Lai, các hoa báu vi diệu, đài bánh xe, thềm bực và các cửa nẻo, như thế trong tất cả đồ trang nghiêm, mỗi mỗi đều hiện ra đại Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi cõi Phật.
Khi hai mươi mốt vị đại Bồ Tát nói xong, môn giải thoát của các Ngài, thì Phật ngồi trên tòa sư tử, lại vì tất cả chúng sinh mà thuyết pháp. Bên cạnh tòa sư tử, có rất nhiều châu báu ma ni, lại có hoa sen xinh đẹp vi diệu, lại có pháp luân, bệ đài, thềm bực, và tất cả cửa nẻo để trang nghiêm đạo tràng, còn có rất nhiều đồ trang nghiêm vi tế, như lư hương, đèn nến, bình hoa .v.v… Ở trong những đồ trang nghiêm đó, lại hiện ra trong cõi Phật khác, có các đại Bồ Tát nhiều như số hạt bụi, tức cũng là pháp thân Ðại sĩ. Hiện tại dùng mười vị đại Bồ Tát để đại biểu, làm thượng thủ trong chúng đại Bồ Tát.
Tòa ngồi của Phật gọi là tòa sư tử. Pháp của Phật nói gọi là sư tử hống. Tại sao gọi là sư tử ? Vì sư tử là chúa của loài thú, một khi nó hống lên, thì các loài thú đều sợ hãi. Ở trong Chứng Ðạo Ca của Ngài Vĩnh Gia có nói :
‘’Sư tử hống, vô úy thuyết,
Bách thú văn chi giai não liệt,
Hương tượng bôn ba thất cước oai,
Thiên long tịch thính sinh hân duyệt.’’
Nghĩa là sư tử hống thì chẳng sợ sệt gì, hết thảy loài thú nghe được tiếng hống, đều bị nhiếp phục, thậm chí đầu não bị tan vỡ, dù cho voi to lớn mà nghe được tiếng hống, thì cũng mất đi oai phong, trời rồng tám bộ chúng nghe được âm thanh Phật nói pháp, thì sinh tâm hoan hỷ. Cho nên, Phật nói pháp giống như sư tử hống, hàng phục bọn bàng môn tả đạo, buông bỏ pháp tà mà đến học chánh pháp.
Như Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, trước kia các Ngài tu học theo ngoại đạo, sau khi nghe Phật thuyết pháp, mới bỏ tối về sáng, theo Phật tu học chánh pháp, chứng được quả vị A La Hán. Ngài Xá Lợi Phất bậc nhất về trí huệ, Ngài Mục Kiền Liên bậc nhất về thần thông. Trí huệ và thần thông hai thứ pháp môn này, người học Phật nên chứng đắc, mong rằng mọi người đều chứng được hai pháp môn này.
Danh hiệu của các Ngài là: Ðại Bồ Tát Hải Huệ Tự Tại Thần Thông Vương. Ðại Bồ Tát Lôi Âm Phổ Chấn. Ðại Bồ Tát Chúng Bảo Quang Minh Kế. Ðại Bồ Tát Ðại Trí Nhật Dũng Mãnh Huệ. Ðại Bồ Tát Bất Tư Nghì Công Ðức Bảo Trí Ấn. Ðại Bồ Tát Bách Mục Liên Hoa Kế. Ðại Bồ Tát Kim Diễm Viên Mãn Quang. Ðại Bồ Tát Pháp Giới Phổ Âm. Ðại Bồ Tát Vân Âm Tịnh Nguyệt. Ðại Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh Quang Minh Tràng.
Ở trong mỗi thứ đồ trang nghiêm, hiện ra số Bồ Tát nhiều như số hạt bụi. Những Bồ Tát đó đều có danh hiệu của mình. Hiện tại sơ lược kể ra danh hiệu của mười vị đại Bồ Tát, để làm đại biểu.
Vị đại Bồ Tát thứ nhất tên là Hải Huệ Tự Tại Thần Thông Vương, trí huệ của Ngài đặc biệt rộng lớn vô biên như biển cả. Ngài cũng rất tự tại, lại có đại thần thông, có thể không động bổn tòa, mà hóa hiện trong mười phương pháp giới, cho nên được tên này.
Vị đại Bồ Tát thứ hai tên là Lôi Âm Phổ Chấn. Âm thanh của Ngài thuyết pháp như tiếng sấm, chấn động khắp mười phương pháp giới, khiến cho chúng sinh đang ngủ, từ trong mê mộng tỉnh dậy, biết bỏ đường mê về với giác ngộ, cho nên được tên này.
Vị đại Bồ Tát thứ ba tên là Chúng Bảo Quang Minh Kế, Ngài dùng các châu báu chế thành quang minh bảo kế, rất mỹ lệ trang nghiêm. Vì bảo kế phóng quang minh hay đại biểu thuyết pháp, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui, cho nên được tên này.
Vị đại Bồ Tát thứ tư tên là Ðại Trí Nhật Dũng Mãnh Huệ. Trí huệ của Ngài sánh như mặt trời, chiếu khắp mười phương pháp giới. Ngài có trí huệ dũng mãnh tinh tấn, không tu hành những khổ hạnh vô ích, nên được tên này.
Vị đại Bồ Tát thứ năm tên là Bất Tư Nghì Công Ðức Bảo Trí Ấn, Ngài có công đức không thể nghĩ bàn, lại có trí huệ đặc biệt như bảo trí ấn, cho nên được tên này.
Vị đại Bồ Tát thứ sáu tên là Bách Mục Liên Hoa Kế. Ngài có tướng trăm mắt trang nghiêm (Bồ Tát Quán Thế Âm có ngàn mắt, Bồ Tát Dược Vương có vạn mắt), lại có hoa sen để trang nghiêm búi tóc, cho nên được tên này.
Vị đại Bồ Tát thứ bảy tên là Kim Diễm Viên Mãn Quang. Ngài phóng quang minh lửa ngọn màu vàng thật rất viên mãn, phàm là đỉnh đầu của chư Phật, Bồ Tát và A La Hán đều có quang luân (quang minh hình bánh xe). Tóm lại, người chứng đạo đều có hiện tượng này, nên được tên này.
Vị đại Bồ Tát thứ tám tên là Pháp Giới Phổ Âm. Âm thanh của Ngài thuyết pháp, vang khắp pháp giới, tức là ‘’tận hư không khắp pháp giới,’’ khắp nơi đều có pháp âm của Ngài, cho nên được tên này.
Vị đại Bồ Tát thứ chín tên là Vân Âm Tịnh Nguyệt. Ngài hiện ra mây quang minh, trong mây có diệu âm thanh, lại hiện ra mặt trăng thanh tịnh, mặt trăng tròn chiếu sáng, cho nên được tên này.
Vị đại Bồ Tát thứ mười tên là Thiện Dũng Mãnh Quang Minh Tràng, bất cứ Ngài tu pháp môn gì, cũng khéo về dũng mãnh tinh tấn, tuyệt đối không thối lùi, do đó đắc được trí huệ quang minh, quang minh này như tràng báu, cho nên được tên này.
Giống như giáo chủ Hồi Giáo tên là Mục Hãn Mặc Ðức, ông ta cũng rất dũng mãnh, song phương thức truyền giáo của ông ta là dùng võ lực, tay trái cầm kinh Khả Lan, tay phải cầm bảo kiếm. Hồi giáo tin ta thanh chân nhận chủ thì có thể sống, Hồi giáo chẳng tin ta, chẳng thanh chân nhận chủ, thì một nhát kiếm chém chết kẻ không tin. Các bạn hãy xem, tôn giáo này thật là đáng sợ, đây là ác dũng mãnh, chứ chẳng phải thiện dũng mãnh, do đó có câu : ‘’Thuận ta thì sống, nghịch ta thì chết.’’ Ðây là hành vi của A Tu La, thích đấu tranh.
Như thế, hết thảy các Ngài đều làm thượng thủ, có chúng Bồ Tát nhiều như số hạt bụi cõi Phật, đồng thời xuất hiện. Các vị Bồ Tát đó, đều dùng đủ thứ mây cúng dường.
Ở trên cử ra mười vị đại Bồ Tát, để đại biểu làm lãnh tụ trong chúng Bồ Tát nhiều như hạt bụi. Hiện tại lại có chúng đại Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi cõi Phật, đồng thời xuất hiện, những vị đại Bồ Tát đó, đều dùng đủ thứ mây pháp để cúng dường Phật.
Số hạt bụi cõi Phật rốt ráo là bao nhiêu ? Có cõi Phật nhiều như số hạt bụi, trong mỗi hạt bụi ở trong cõi Phật, lại biến thành cõi Phật nhiều như hạt bụi, tức cũng là nhiều cõi Phật bất khả thuyết bất khả thuyết.
Nào là: Mây tất cả hoa báu ma ni. Mây tất cả hoa sen diệu hương. Mây tất cả quang minh báu viên mãn. Mây vô biên cảnh giới hương diễm. Mây nhật tạng ma ni luân quang minh. Mây tất cả âm nhạc duyệt ý. Mây vô biên sắc tướng tất cả bảo đăng quang diễm. Mây các nhánh hoa quả cây báu. Mây vô tận báu thanh tịnh quang minh ma ni vương. Mây tất cả đồ trang nghiêm ma ni vương. Các thứ mây cúng dường như thế, nhiều như số hạt bụi thế giới của Phật.
Cảnh giới của Kinh Hoa Nghiêm là trùng trùng vô tận, đạo lý cũng viên dung vô ngại. Bất cứ là nói quỷ cũng tốt, nói thần cũng tốt, nói Bồ Tát cũng tốt, nói sự cũng tốt, nói lý cũng tốt, đều nói mười, lấy mười làm số thành. ‘’Mười‘’ này là biểu thị ý nghĩa trùng trùng vô tận. Hiện tại nói ra đủ thứ mây cúng dường, cũng là biểu thị cảnh giới Hoa Nghiêm trùng trùng vô tận, giống như mây, mây ở trong hư không cũng vô tận trùng trùng, cho nên diệu pháp của Kinh Hoa Nghiêm, nơi nơi đều là trùng trùng vô tận.
Sự cúng dường của các vị đại Bồ Tát đó, chỉ lấy mười thứ mây trong số tất cả các vị đại Bồ Tát, để làm đại biểu. Mây thứ nhất là mây tất cả hoa báu ma ni. Mây thứ hai là mây tất cả hoa sen thơm vi diệu. Mây thứ ba là mây tất cả báu phát ra quang minh viên mãn. Mây thứ tư là mây đủ thứ vô biên cảnh giới hương diễm. Mây thứ năm là mây nhật tạng ma ni luân quang minh. Mây thứ sáu là mây tất cả âm nhạc duyệt ý. Mây thứ bảy là mây đủ thứ vô biên sắc tướng và tất cả bảo đăng quang diễm. Mây thứ tám là mây các nhánh hoa quả cây báu. Mây thứ chín là mây vô tận báu thanh tịnh quang minh ma ni vương. Mây thứ mười là mây tất cả đồ trang nghiêm ma ni vương. Ở trên nói đủ thứ mây cúng dường, có nhiều như số hạt bụi thế giới của Phật.
Các vị Bồ Tát đó, mỗi vị đều nổi mây lên cúng dường như thế, mưa xuống nơi tất cả đại chúng hải hội trong đạo tràng liên tục không ngừng.
Những vị Bồ Tát đó, mỗi vị đều nổi mây lên cúng dường giống như mưa, đủ thứ báu, đủ thứ mây, để trang nghiêm đại chúng hải hội trong đạo tràng, liên tục không ngừng, tức cũng có nghĩa là, mây này qua rồi, thì mây khác lại đến, hiển hiện không ngừng.
Hiện ra mây như thế rồi, đi nhiễu bên phải đức Thế Tôn vô lượng trăm ngàn vòng, tùy phương diện cách đức Phật không xa, đều hóa làm tòa sư tử vô lượng đủ thứ hoa sen báu, rồi ngồi kiết già trên đó.
Các vị Bồ Tát nhiều như số hạt bụi đó, hiện ra đủ thứ mây cúng dường rồi, lại đi nhiễu bên phải của Ðức Phật vô lượng trăm ngàn vòng, sau đó tùy theo phương diện chỗ ngồi của Bồ Tát, hoặc bên trái, bên phải của Phật, hoặc phía trước, phía sau của Phật, đều cách Phật không xa, ai nấy đều dùng thần thông diệu dụng của mình, mà biến hiện ra đủ thứ vô lượng hoa sen báu vi diệu, ở trên hoa sen lại có tòa sư tử. Mỗi vị Bồ Tát đều ngồi kiết già trên tòa mà mình hiện ra. Ngồi kiết già tức cũng là tư thế ngồi cát tường, còn gọi là ngồi hàng ma .v.v… Kỳ thật công dụng giống nhau, bất quá tên gọi khác mà thôi.
Các vị Bồ Tát đó, sự tu hành đều thanh tịnh rộng lớn như biển.
Các vị Bồ Tát đó, tu hành pháp môn thanh tịnh rộng lớn nhiều như biển cả.
Ðược pháp trí huệ quang minh chiếu phổ môn, tùy thuận sự tu hành vô ngại của chư Phật, vào được tất cả biện tài biển pháp.
Những vị Bồ Tát đó, đắc được chân chánh trí huệ quang minh, cứu độ khắp tất cả chúng sinh, còn đắc được pháp bình đẳng thị hiện phổ môn. Các Ngài ở trong đời quá khứ, đều tùy thuận pháp môn tu hành vô ngại của chư Phật. Các ngài đều có vô lượng tam muội biện tài, thứ biện tài này sâu như biển, không thể dò lường được, cho nên gọi là biện tài biển pháp.
Ðược pháp môn giải thoát không thể nghĩ bàn, trụ nơi phổ môn của Như Lai, đã đắc được tất cả môn Ðà la ni, đều dung thọ được tất cả biển pháp.
Các Ngài lại đắc được pháp môn giải thoát vi diệu không thể nghĩ bàn, trụ ở trong pháp môn bình đẳng của Phật, tức cũng là phổ quang minh địa, đã đắc được tất cả pháp môn Ðà la ni (Ðà na ni dịch là “tổng trì”, tức là tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa. Tức cũng là tổng thân khẩu ý ba nghiệp thanh tịnh, trì giới định huệ ba học viên minh). Các Ngài đều dung nạp tiếp thọ tất cả biển pháp của chư Phật.
Khéo trụ vào bậc trí huệ bình đẳng ba đời, đã được hỷ lạc tin sâu rộng lớn.
Những vị Bồ Tát đó, khéo trụ vào bậc trí huệ bình đẳng ba đời của tất cả chư Phật, tức cũng là quả vị trí huệ, đã được hỷ lạc tin sâu rộng lớn, tức cũng là khoái lạc pháp hỷ sung mãn.
Vô biên phước tụ rất thiện thanh tịnh, quán sát khắp hư không pháp giới, tất cả cõi, hết thảy chư Phật ra đời trong mười phương pháp giới, các Ngài đều siêng năng đến cúng dường.
Tất cả Bồ Tát đều dùng vô biên phước để trang nghiêm, hoàn toàn rất thiện thanh tịnh, quán sát được khắp trong hư không pháp giới, mà chẳng chướng ngại. Hết thảy chư Phật trong các cõi mười phương thế giới, như có vị Phật mới xuất hiện ra đời, thì các Ngài đều đến chốn Phật, ân cần cúng dường Phật mới.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Hải Huệ Tự Tại Thần Thông Vương, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả chúng hội trong đạo tràng, rồi nói bài kệ rằng.
Lúc Phật vì đại chúng nói pháp, cũng là lúc đại chúng đang nghe pháp. Vị đại Bồ Tát Hải Huệ Tự Tại Thần Thông Vương, tức cũng là đại Bồ Tát ở trong chúng đại Bồ Tát, Ngài nương sức đại oai thần của Phật, quán sát khắp tất cả đại chúng hải hội trong đạo tràng, lập tức dùng kệ để nói ra đạo lý ở trên. Mười bài kệ dưới đây, chỉ một vị đại Bồ Tát Hải Huệ Tự Tại Thần Thông Vương nói, khác với những bài kệ ở trước, ở trước là mỗi vị Bồ Tát, hoặc mỗi vị Thần, mỗi người nói một bài kệ.
Chư Phật sở ngộ đều đã biết
Như không vô ngại đều chiếu sáng
Soi khắp mười phương vô lượng cõi
Tất cả chúng hội khắp nghiêm khiết.
‘’Chư Phật sở ngộ đều đã biết.’’ Chư Phật chỗ nên ngộ đã ngộ, chỗ nên giác cũng giác rồi. Hết thảy tất cả các pháp đều thấu rõ.
‘’Như không vô ngại đều chiếu sáng.’’ Phật đắc được trí huệ như hư không, pháp thân như hư không, chẳng có gì chướng ngại, đều chiếu sáng tận hư không khắp pháp giới.
‘’Soi khắp mười phương vô lượng cõi.’’ Quang minh của Phật chiếu soi, khắp mười phương vô lượng cõi nước của chư Phật, tức cũng là chiếu soi khắp tất cả mọi nơi.
‘’Tất cả chúng hội khắp nghiêm khiết.’’ Hết thảy đạo tràng, hết thảy pháp hội, đều khắp trang nghiêm thanh khiết.
Công đức Như Lai không thể lường
Mười phương pháp giới đều sung mãn
Ngồi khắp dưới tất cả thụ vương
Các đại tự tại đều vân tập.
‘’Công đức Như Lai không thể lường.’’ Công đức của Phật rốt ráo có bao nhiêu ? Chẳng có ai biết được, do đó có câu :
‘’Sát trần tâm niệm khả sổ tri,
Đại hải trung thủy khả ẩm tận,
Hư không khả lượng phong khả khế,
Vô năng tận thuyết Phật công đức.’’
Nghĩa là :
Hạt bụi tâm niệm đếm biết được,
Nước trong biển cả uống hết được,
Hư không lường được, gió buộc được,
Không thể nói hết công đức Phật.
Cho nên, công đức của Phật không thể dò lường được.
‘’Mười phưong pháp giới đều sung mãn.’’ Hết thảy mười phương pháp giới, đều là nơi sở tại công đức của Phật, cho nên nói mười phương pháp giới đều sung mãn.
‘’Ngồi khắp dưới tất cả thụ vương.’’ Phật ngồi dưới cội bồ đề, ở trong mỗi cõi nước làm đạo tràng, ngồi khắp tại đó khai ngộ thành Phật, diễn nói diệu pháp Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật này.
‘’Các đại Tự tại đều vân tập.’’ Những vị đại Bồ Tát đó, đều là pháp thân Ðại sĩ, đã đắc được đại tự tại, chẳng còn phiền não. Các Ngài giống như mây cùng chung tụ tập ở nơi Bồ đề đạo tràng để nghe diệu pháp.
Phật có sức thần thông như thế
Một niệm hiện ra vô tận tướng
Cảnh giới Như Lai chẳng bờ mé
Tùy môn giải thoát quán thấy được.
‘’Phật có sức thần thông như thế.’’ Phật có sức thần thông biến hóa không thể nghĩ bàn như thế.
‘’Một niệm hiện ra vô tận tướng.’’ Trong một niệm, hiện ra vô cùng vô tận các tướng. Bất cứ quá khứ, vị lai, hiện tại, ba đời hết thảy vô lượng cảnh giới, đều hiện ra ở trong một niệm. Do đó, có câu :
‘’Một niệm hiện ra vô lượng kiếp,
Vô lượng kiếp thu vào một niệm.’’
Cảnh giới này, do sức thần thông của chư Phật biến hóa.
‘’Cảnh giới Như Lai chẳng bờ mé.’’ Nghĩ muốn biết cảnh giới của Phật, thì phải quán hư không. Vì hư không chẳng có bờ mé, cảnh giới của Phật cũng chẳng có bờ mé, giống như hư không.
‘’Tùy môn giải thoát quán thấy được.’’ Tùy theo căn tánh của chúng sinh, mà nói môn giải thoát, khiến cho chúng sinh quán thấy được cảnh giới thù thắng, do thần thông diệu dụng của Phật thị hiện.
Thuở xưa Như Lai trải biển kiếp
Ở trong các cõi siêng tu hành
Đủ thứ phương tiện độ chúng sinh
Khiến họ thọ hành các Phật pháp.
‘’Thuở xưa Như Lai trải biển kiếp.’’ Thuở xưa Phật trải qua vô lượng kiếp nhiều như biển, cho nên gọi là biển kiếp.
‘’Ở trong các cõi siêng tu hành.’’ Trước khi Phật thành Phật, thì cũng giống như chúng ta, cũng ở trong tam giới hai mươi lăm cõi, luôn luôn tu hành, luôn luôn tinh tấn, ở trong mỗi niệm, đều dũng mãnh hướng về trước, tinh tấn chẳng giải đãi, cho nên gọi là siêng tu hành.
‘’Ðủ thứ phương tiện độ chúng sinh.’’ Phật chẳng những siêng tu hành, mà còn dùng đủ thứ pháp môn phương tiện khéo léo, để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh cũng minh bạch liễu sinh thoát tử, mà vào Niết Bàn.
‘’Khiến họ thọ hành các Phật pháp.’’ Khiến cho tất cả chúng sinh, đều tiếp thọ được các Phật pháp của Phật nói, phải theo pháp mà tu hành, mới đắc được lợi ích của Phật pháp.
Tỳ Lô Giá Na đủ tướng tốt
Ngồi tòa sư tử liên hoa tạng
Tất cả chúng hội đều thanh tịnh
An trụ vắng lặng đồng chiêm ngưỡng.
‘’Tỳ Lô Giá Na đủ tướng tốt.’’ Phật có ba thân :
1. Pháp thân : Tức là Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật.
2. Báo thân : Tức là Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na Phật.
3. Ứng hóa thân : Tức là Thiên Bách ŨỨc Hóa Thân Thích Ca Mâu Ni Phật, ứng thân đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, để trang nghiêm thân, do đó có câu : ‘’Tướng hảo trang nghiêm vô đẳng luân.’’
‘’Ngồi tòa sư tử liên hoa tạng.’’ Phật ngồi trên tòa sư tử liên hoa tạng lớn tốt đẹp, vì tất cả chúng sinh mà thuyết pháp, điều phục chúng sinh cang cường, khiến cho họ bỏ lìa mê, quay về với giác ngộ, đi trên con đường bồ đề giác đạo.
‘’Tất cả chúng hội đều thanh tịnh.’’ Ở trong cõi nước mười phương chư Phật, đại chúng ở trong hết thảy pháp hội, đều một lòng nghe Phật diễn nói diệu pháp, đồng thời đều thanh tịnh tâm của họ.
‘’An trụ vắng lặng đồng chiêm ngưỡng.’’ Mọi người đều an trụ vắng lặng chẳng đàm luận ở trong pháp hội, đều chiêm ngưỡng Phật, mắt chẳng tạm rời, nghe Phật thuyết pháp.
Ma ni bảo tạng phóng quang minh
Tỏa khắp vô biên mây thơm sáng
Vô lượng chuỗi hoa cùng bủa giăng
Như Lai ngồi trên tòa như vậy.
‘’Ma ni bảo tạng phóng quang minh.’’ Tạng châu báu ma ni phóng đại quang minh, vạn luồng tia sáng, chói lòa cả mắt, vừa trang nghiêm lại thanh tịnh.
‘’Toả khắp vô biên mây thơm sáng.’’ Ở trong đại quang minh, lại tỏa ra vô biên mây thơm sáng, đầy khắp mười phương pháp giới.
‘’Vô lượng chuỗi hoa cùng bủa giăng.’’ Lại có vô lượng diệu hoa tốt đẹp, và chuỗi hoa sinh tươi đều rũ xuống trang nghiêm.
‘’Như Lai ngồi trên tòa như vậy.’’ Phật ngồi trên tòa trang nghiêm mây thơm sáng, và báu ma ni để nói diệu pháp.
Đủ thứ nghiêm sức cửa cát tường
Luôn phóng đăng quang mây báu sáng
Chiếu soi rộng lớn khắp hết thảy
Mâu Ni ngự lên thêm nghiêm tốt.
‘’Ðủ thứ nghiêm sức cửa cát tường.’’ Lại dùng đủ thứ các châu báu, để trang nghiêm sửa sang cửa cát tường.
‘’Luôn phóng đăng quang mây báu sáng.’’ Thường phóng ra đăng quang mây báu sáng. Ðăng quang là ngũ quang thập sắc, đẹp như mây báu sáng.
‘’Chiếu soi rộng lớn khắp hết thảy.’’ Thứ đăng quang này rộng lớn vô biên, quang minh phóng ra, chẳng có chỗ nào mà chẳng chiếu đến, khắp hết thảy.
‘’Mâu Ni ngự lên thêm nghiêm tốt.’’ Ðấng Mâu Ni ngự lên, thì càng tăng thêm oai nghi trang nghiêm tướng tốt.
Đủ thứ cửa sổ ma ni đẹp
Hoa sen báu tốt rũ nghiêm sức
Thường vang diệu âm nghe êm đẹp
Phật ngồi trên đó hiển rõ nhất.
‘’Ðủ thứ cửa sổ ma ni đẹp.’’ Dùng đủ thứ ma ni châu báu để trang nghiêm cửa sổ sinh đẹp.
‘’Hoa sen báu tốt rũ nghiêm sức.’’ Thứ cửa sổ này dùng châu báu vi diệu, và hoa sen để thòng rũ xuống, treo ở trên mà rũ xuống rất trang nghiêm sinh đẹp.
‘’Thường vang diệu âm nghe êm đẹp.’’ Ðồ nghiêm sức cửa sổ, luôn luôn vang ra âm thanh diệu pháp không thể nghĩ bàn, khiến cho người nghe đều sinh tâm vui đẹp.
‘’Phật ngồi trên đó hiển rõ nhất.’’ Phật ngồi trên tòa sư tử rất thù đặc quang minh hiển rõ. Vì quang minh thân Phật phóng ra, hơn hẳn tất cả quang minh, cho nên nói hiển rõ nhất.
Tòa ngồi luân báu hình bán nguyệt
Kim cang làm đài màu lửa sáng
Bồ Tát trì kế thường vây quanh
Phật ở trong đó chiếu sáng nhất.
‘’Tòa ngồi luân báu hình bán nguyệt.’’ Tòa của Phật ngồi là luân báu, hình bán nguyệt.
‘’Kim Cang làm đài màu lửa sáng.’’ Ðài của Phật thuyết pháp, dùng đá kim cương làm thành, đài màu lửa ngọn, phóng ra quang minh ở hướng tây.
‘’Bồ Tát trì kế thường vây quanh.’’ Bồ Tát trì kế luôn luôn nhiễu quanh pháp tòa của Phật, để gần gũi Phật.
‘’Phật ở trong đó chiếu sáng nhất.’’ Phật ở trong tất cả Bồ Tát trì kế quang minh tối thắng nhất, hiển rõ nhất.
Đủ thứ biến hóa đầy mười phương
Diễn nói nguyện lớn của Như Lai
Tất cả hình bóng hiện trong đó
Phật ngồi yên trên toà như thế.
‘’Ðủ thứ biến hóa đầy mười phương.’’ Lại có đủ thứ mây biến hóa, đầy khắp trong mười phương pháp giới.
‘’Diễn nói nguyện lớn của Như Lai.’’ Ở trong mây biến hóa đó, có một thứ âm thanh diễn nói nguyện lớn của Phật đã phát. Nguyện lớn gì ? Tức là nguyện cứu độ tất cả chúng sinh được giải thoát.
‘’Tất cả hình bóng hiện trong đó.’’ Nguyện lớn của Phật phát ra trong quá khứ, tất cả hình bóng đều biến hóa hiện ra ở trong mây.
‘’Phật ngồi yên trên tòa như thế.’’ Ðủ thứ mây như thế, bao quanh bốn phía, Phật ngồi yên ở trên tòa sư tử, mà vì đại chúng thuyết pháp.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Lôi Âm Phổ Chấn, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả đại chúng hải hội trong đạo tràng, rồi nói bài kệ rằng.
Lúc đó, vị đại Bồ Tát Lôi Âm Phổ Chấn, nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp tất cả đại chúng đến tham gia pháp hội ở trong đạo tràng, liền dùng kệ để nói công đức của Phật.
Xưa Thế Tôn tu hạnh bồ đề
Cúng dường mười phương vô lượng Phật
Ðược oai lực Thiện Thệ gia trì
Phật ngồi trên tòa đâu chẳng thấy.
‘’Xưa Thế Tôn tu hạnh bồ đề.’’ Trong quá khứ vô lượng kiếp về trước, Phật tu hành tích tụ công đức, nên thành tựu bồ đề hạnh môn.
‘’Cúng dường mười phưong vô lượng Phật.’’ Trước khi Phật chưa thành Phật, thì chuyên tu hạnh môn cúng dường, mười phương ba đời tất cả vô lượng chư Phật.
‘’Ðược oai lực Thiện Thệ gia trì.’’ Thiện Thệ tức là Phật, oai lực của Phật quá khứ gia trì, oai lực của Phật hiện tại gia trì.
Gia trì là gì ? Bổn lai chẳng có thần thông, bây giờ có thần thông, bổn lai chẳng có trí huệ, bây giờ có trí huệ, đó là chư Phật, Bồ Tát gia trì cho bạn, khiến cho bạn đắc được thần thông và trí huệ.
‘’Phật ngồi trên tòa đâu chẳng thấy.’’ Phật ngồi trên tòa sư tử, tất cả Bồ Tát không ai mà chẳng nhìn thấy đức Phật.
Hương diễm ma ni châu như ý
Chạm trổ diệu hoa tòa sư tử
Đủ thứ trang nghiêm đều hiện ra
Hết thảy chúng hội đều thấy rõ.
‘’Hương diễm ma ni châu như ý.’’ Vừa dùng hương vừa dùng châu ma ni như ý.
‘’Chạm trổ diệu hoa tòa sư tử.’’ Dùng những thứ châu báu này, chạm trổ trên tòa sư tử, để nghiêm sức tòa báu hoa sen vi diệu.
‘’Ðủ thứ trang nghiêm đều hiện ra.’’ Ở trên tòa sư tử của Phật, còn có đủ thứ đồ nghiêm sức, đều hiện ra ở trong ánh sáng.
‘’Tất cả chúng hội đều thấy rõ.’’ Hết thảy đại chúng hải hộI, đều nhìn thấy rất rõ cảnh giới này.
Phật tòa hiện khắp tướng trang nghiêm
Niệm niệm màu sắc đều khác nhau
Tùy các chúng sinh hiểu khác biệt
Đều thấy Phật ngồi ở trên mình.
‘’Phật tòa hiện khắp tướng trang nghiêm.’’ Phật ngồi tại tòa sư tử, hiện ra khắp pháp tướng trang nghiêm.
‘’Niệm niệm màu sắc đều khác nhau.’’ Ở trong mỗi niệm, hiện ra vô lượng ánh sáng và vô lượng màu sắc; ở trong vô lượng màu sắc, lại hiện ra vô lượng tướng đều khác nhau chẳng giống.
‘’Tùy các chúng sinh hiểu khác biệt.’’ Cảnh giới mà Phật hiện ra, là tùy theo căn tính của chúng sinh mà hiện. Chúng sinh có kiến giải khác nhau, cho nên hiểu biết đạo lý cũng khác nhau, trí huệ đắc được cũng khác nhau.
‘’Thảy đều thấy Phật ngồi trên mình.’’ Tuy có đủ thứ cảnh giới khác nhau, song mỗi chúng sinh đều thấy Phật ngồi ở trên mình, đối diện với mình. Ví như mặt trời, mỗi người đều cảm thấy mặt trời ở trên đầu mình.
Cành báu bủa giăng lưới hoa sen
Hoa nở hiện ra các Bồ Tát
Mỗi vị vang tiếng diệu êm tai
Khen ngợi Như Lai ngồi tòa báu.
‘’Cành báu bủa giăng lưới hoa sen.’’ Có cành cây báu bủa giăng trang nghiêm như lưới hoa sen.
‘’Hoa nở hiện ra các Bồ Tát.’’ Hoa sen ở trên lưới, hoa sen nở ra thì có vô lượng các Bồ Tát vọt hiện ra.
‘’Mỗi vị vang tiếng diệu êm tai.’’ Mỗi vị Bồ Tát đều diễn ra âm thanh vi diệu êm tai, giống như tấu nhạc, khiến cho người nghe sinh tâm hoan hỷ vui mừng.
‘’Khen ngợi Như Lai ngồi tòa báu.’’ Thứ âm thanh vi diệu đó, đều khen ngợi Phật, Pháp, Tăng, cũng khen ngợi công đức của Phật ngồi trên tòa sư tử, vì chúng sinh thuyết pháp.
Công đức Phật lượng như hư không
Tất cả trang nghiêm từ đây sinh
Sự nghiêm sức ở trong mỗi địa
Tất cả chúng sinh chẳng biết được
‘’Công đức Phật lượng như hư không.’’ Công đức của Phật có bao nhiêu ? Có vô số lượng, chẳng cách chi tính đếm, chỉ có cách dùng hư không để đại biểu.
‘’Tất cả trang nghiêm từ đây sinh.’’ Phật có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Những tướng trang nghiêm đó, đều do công đức thành tựu từ vô lượng kiếp về trước.
‘’Sự nghiêm sức ở trong mỗi địa.’’ Phật từ sơ địa Bồ Tát, cho đến thập địa Bồ Tát, làm tất cả công đức là việc nghiêm sức.
‘’Tất cả chúng sinh chẳng biết được.’’ Việc này hết thảy chúng sinh không thể biết được. Vì công đức của Phật vô lượng vô biên, chẳng phải trí của chúng sinh thấy biết được.
Kim cang làm đất chẳng hoại được
Rộng lớn thanh tịnh rất bằng phẳng
Ma ni làm lưới giăng hư không
Dưới cội bồ đề đều cùng khắp.
‘’Kim Cang làm đất chẳng thể hoại.’’ Bồ đề đạo tràng dùng đá kim cang làm đất, vĩnh viễn không thể hủy hoại được.
‘’Rộng lớn thanh tịnh rất bằng phẳng’’. Thứ đất kim cang này, vừa rộng lớn, vừa thanh tịnh, vừa bằng phẳng.
‘’Ma ni làm võng giăng hư không’’. Lại dùng châu ma ni chế thành võng, giăng bủa trong hư không, phóng ra ánh sáng rực rỡ.
‘’Dưới cội bồ đề đều cùng khắp’’. Phật ngồi dưới cội bồ đề, đều cùng khắp pháp giới.
Mặt đất vô biên sắc tướng đẹp
Vàng thật tán nhỏ rải lên trên
Khắp nơi rải hoa và châu báu
Đều làm sáng đẹp tòa Như Lai.
‘’Mặt đất vô biên sắc tướng đẹp.’’ Ðất bồ đề đạo tràng, có vô biên sắc tướng đẹp đẽ khác nhau.
‘’Vàng thật tán nhỏ rải lên trên.’’ Mặt đất này lại dùng bột mịn bằng vàng thật rải lên trên, ánh sáng vàng thật chiếu sáng rất trang nghiêm.
Trước kia, tôi gặp một người, lúc anh ta bị bệnh, ở trong cơn mê đi đến thế giới Cực Lạc, song chỉ đến bên ngoài chứ chẳng vào bên trong, nhìn thấy cõi thế giới Cực Lạc, đều là vàng thật làm đất, cây báu thẳng hàng. Anh ta nhìn thấy thế giới Cực Lạc, thì càng tăng thêm niềm tin đối với pháp môn niệm Phật. Sau khi khỏi bệnh, càng kiền thành tu pháp môn niệm Phật, đi đứng nằm ngồi đều chẳng lìa chuỗi, miệng niệm Phật tay lần chuỗi, chẳng khi nào ngừng nghỉ. Mấy năm sau, anh ta biết giờ giấc vãng sinh, sau khi tắm rửa xong, niệm Phật chẳng bệnh mà vãng sinh về thế giới Cực Lạc. Lúc đó, có đủ thứ cảnh giới không thể nghĩ bàn xuất hiện, ai thấy cũng đều cho rằng chưa từng có.
‘’Khắp nơi rải hoa và châu báu.’’ Ở trên mặt đất, khắp nơi đều rải hoa quý tốt đẹp và các thứ châu báu.
‘’Ðều làm sáng đẹp tòa Như Lai.’’ Tại sao phải trang nghiêm như thế ? Vì Phật muốn nói bộ Kinh đầu tiên: Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật, cho nên đại chúng đều dùng ánh sáng chói đẹp, để nghiêm sức pháp tòa của Phật.
Địa thần hoan hỷ rất hớn hở
Sát na thị hiện vô cùng tận
Khắp nổi tất cả mây trang nghiêm
Luôn đứng trước Phật để chiêm ngưỡng.
‘’Ðịa thần hoan hỷ rất hớn hở.’’ Mỗi nơi đều có địa thần, địa thần cũng hoan hỷ gặp được Phật, các Ngài gặp được Phật thì tay múa chân nhảy, biểu thị sự vui mừng đến tột độ.
‘’Sát na thị hiện vô cùng tận.’’ Trong khoảng thời gian rất ngắn, Phật thị hiện quang minh chẳng có lúc nào cùng tận.
‘’Khắp nổi tất cả mây trang nghiêm.’’ Khắp hết thảy nổi lên tất cả mây trang nghiêm tốt đẹp.
‘’Luôn đứng trước Phật để chiêm ngưỡng.’’ Ðịa thần luôn luôn đứng ở trước Phật, để chiêm ngưỡng Phật, mắt nhìn Phật chẳng tạm rời.
Đèn báu rộng lớn rất sáng chói
Phóng quang thơm sáng chẳng ngừng ngớt
Tùy thời thị hiện đều khác nhau
Địa thần dùng đây để cúng dường.
‘’Ðèn báu rộng lớn rất sáng chói.’’ Có đèn báu ma ni rất rộng lớn, lửa ngọn đèn báu này rất sáng chói.
‘’Phóng quang thơm sáng chẳng ngừng ngớt.’’ Ánh sáng của đèn báu phóng ra, chẳng những sáng chói mà còn có hương thơm, chẳng có khi nào tắt.
‘’Tùy thời thị hiện đều khác nhau.’’ Tùy theo thời gian thị hiện ra cảnh giới đều khác nhau.
‘’Ðịa thần dùng đây để cúng dường.’’ Ðịa thần dùng cảnh giới trang nghiêm này, để cúng dường Phật.
Trong tất cả mười phương cõi nước
Nơi đó hết thảy sự trang nghiêm
Khiến đạo tràng này đều hiện ra
Nhờ Phật oai thần nên được vậy.
‘’Trong tất cả mười phương cõi nước.’’ Trong hết thảy tất cả mười phương cõi nước của chư Phật.
‘’Nơi đó hết thảy sự trang gnhiêm.’’ Ở tại chỗ của Phật, có hết thảy tất cả sự trang nghiêm.
‘’Khiến đạo tràng này đều hiện ra.’’ Bây giờ hết thảy sự trang nghiêm tại đạo tràng này đều hiện ra.
‘’Nhờ Phật oai thần nên được vậy.’’ Sao lại có cảnh giới này ? Ðây là do đại oai đức thần thông lực của Phật, cho nên mới được như thế.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Chúng Bảo Quang Minh Kế, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả đại chúng hải hội trong đạo tràng, rồi nói bài kệ rằng.
Lúc đó, vị đại Bồ Tát Chúng Bảo Quang Minh Kế, nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp tất cả đại chúng hải hội trong đạo tràng, rồi nói ra mười bài kệ này.
Thuở xưa khi Thế Tôn tu hành
Thấy các cõi Phật đều viên mãn
Sở thấy như vậy vô cùng tận
Trong đạo tràng này đều hiện ra.
‘’Thuở xưa khi Thế Tôn tu hành.’’ Thuở xưa khi Phật tu hành tại nhân địa.
‘’Thấy các cõi Phật đều viên mãn.’’ Thấy tất cả cõi nước chư Phật, đều trang nghiêm viên mãn.
‘’Sở thấy như vậy vô cùng tận.’’ Phật trải qua vô lượng kiếp tu hành, sở thấy đều trang nghiêm viên mãn chẳng cùng tận.
‘’Trong đạo tràng này đều hiện ra.’’ Hiện tại Ðức Phật thành Phật ở trong đạo tràng, đều hiện ra tất cả cảnh giới trong quá khứ.
Thần thông của Phật rất rộng lớn
Phóng quang mưa khắp châu ma ni
Tạng báu như thế rải đạo tràng
Khắp cả mặt đất đều nghiêm lệ.
‘’Thần thông của Phật rất rộng lớn.’’ Phật có sức thần thông biến hóa rộng lớn vô biên.
‘’Phóng quang mưa khắp châu ma ni.’’ Phật phóng quang mưa xuống khắp châu báu ma ni.
‘’Tạng báu như thế rải đạo tràng.’’ Châu báu nhiều như vậy, rải trên mặt đất tại đạo tràng.
‘’Khắp cả mặt đất đều nghiêm lệ.’’ Chung quanh đạo tràng đều trang nghiêm mỹ lệ.
Phước đức thần thông của Như Lai
Diệu báu ma ni khắp trang nghiêm
Mặt đất và cả cây bồ đề
Lần lượt phát quang âm diễn nói.
‘’Phước đức thần thông của Như Lai.’’ Phước đức và sức thần thông của Phật không thể nghĩ bàn.
‘’Diệu báu ma ni khắp trang nghiêm.’’ Dùng châu báu ma ni để trang nghiêm khắp mặt đất.
‘’Mặt đất và cả cây bồ đề.’’ Mặt đất và cây bồ đề thụ vương đều có tác dụng.
‘’Lần lượt phát quang âm diễn nói.’’ Làn lượt hổ tương phát ra ánh sáng và âm thanh, ở trong quang minh diễn nói diệu pháp, đây là vô tình thuyết pháp.
Đèn báu vô lượng từ không mưa
Bảo vương xen lẫn để nghiêm sức
Thảy đều nói pháp âm vi diệu
Như vậy Địa Thần hiển hiện ra.
‘’Ðèn báu vô lượng từ không mưa.’’ Có vô lượng vô số đèn báu ma ni, từ không trung mưa xuống.
‘’Bảo vương xen lẫn để nghiêm sức.’’ Ðèn báu và ma ni bảo vương, hổ tương xen lẫn để trang nghiêm đạo tràng.
‘’Thảy đều nói pháp âm vi diệu.’’ Chẳng những mặt đất và cây bồ đề diễn nói pháp được, mà đèn báu và ma ni bảo vương cũng diễn nói pháp âm vi diệu.
‘’Như vậy Địa Thần hiển hiện ra.’’ Như cảnh giới này, là vị Ðịa Thần hộ trì đạo tràng hiện ra cảnh giới trang nghiêm.
Đất báu hiện khắp mây sáng đẹp
Đuốc báu chiếu sáng như điện chớp
Lưới báu bủa giăng trùm trên không
Cành báu xen tạp nghiêm sức đẹp.
‘’Ðất báu hiện khắp mây sáng đẹp.’’ Trên đất báu lại hiện ra khắp loại mây sáng đẹp.
‘’Ðuốc báu soi sáng như điện chớp.’’ Ánh sáng của ngọn đuốc báu rất sáng lạng, phát ra ánh sáng giống như ánh sáng của điện chớp.
‘’Lưới báu bủa giăng trùm trên không.’’ Lưới báu giăng che rất rộng lớn, che trùm ở trên đuốc báu.
‘’Cành báu xen tạp nghiêm sức đẹp.’’ Cành báu của cây bồ đề xen tạp nơi đạo tràng trang nghiêm rất đẹp đẽ.
Các Ngài hãy quán khắp nơi này
Đủ thứ châu báu trang nghiêm đẹp
Hiển bày biển nghiệp của chúng sinh
Khiến họ biết rõ chân pháp tánh.
‘’Các Ngài hãy quán khắp nơi này.’’ Các vị hãy quán sát khắp nơi này.
‘’Ðủ thứ châu báu trang nghiêm đẹp.’’ Ðều dùng đủ thứ châu báu vi diệu để trang nghiêm.
‘’Hiển bày biển nghiệp của chúng sinh.’’ Ở trên mặt đất này, hiển bày ra hết thảy các nghiệp nhân, của tất cả chúng sinh như là biển cả.
‘’Khiến họ biết rõ chân pháp tánh.’’ Tại sao phải hiện thứ cảnh giới này ? Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, minh bạch chân pháp tánh, tức cũng là tự tánh.
Khắp hết mười phương tất cả Phật
Hết thảy cây bồ đề viên mãn
Thảy đều hiện ra trong đạo tràng
Diễn nói pháp tịnh của Như Lai.
‘’Khắp hết mười phương tất cả Phật.’’ Hết thảy tất cả chư Phật trong mười phương.
‘’Hết thảy cây bồ đề viên mãn.’’ Hết thảy cây bồ đề viên mãn trong mười phương.
‘’Thảy đều hiện ra trong đạo tràng.’’ Hết thảy tất cả chư Phật, và tất cả cây bồ đề, đều hiện ra ở trong đạo tràng.
‘’Diễn nói pháp tịnh của Như Lai.’’ Ðều diễn nói diệu pháp thanh tịnh của Phật.
Tùy tâm ưa thích của chúng sinh
Mặt đất vang khắp diệu âm thanh
Như Phật trên tòa diễn nói pháp
Mỗi mỗi pháp môn đều nói đủ.
‘’Tùy tâm ưa thích của chúng sinh.’’ Tùy theo sự ưa thích ở trong tâm của chúng sinh.
‘’Mặt đất vang khắp diệu âm thanh.’’ Khắp trên mặt đất đều vang ra âm thanh vi diệu, khiến cho tâm chúng sinh hoan hỷ.
‘’Như Phật trên tòa diễn nói pháp.’’ Giống như Phật ngồi trên tòa sư tử diễn nói pháp.
‘’Mỗi mỗi pháp môn đều nói đủ.’’ Hết thảy tám vạn bốn ngàn pháp môn, đều hiện ra nói pháp diệu âm, khiến cho tất cả chúng sinh, nghe pháp khai ngộ mà sớm thành Phật.
Mặt đất luôn phóng quang diệu hương
Trong quang diễn khắp âm thanh tịnh
Nếu có chúng sinh tiếp thọ được
Đều khiến được nghe diệt phiền não.
‘’Mặt đất luôn phóng quang diệu hương.’’ Phật nói pháp trong đạo tràng, thường phóng ra hương quang, khiến cho chúng sinh nghe, hoặc thấy, đều phát tâm bồ đề.
‘’Trong quang diễn khắp âm thanh tịnh.’’ Ở trong diệu hương quang khắp diễn ra diệu âm thanh tịnh, nói diệu pháp thanh tịnh.
‘’Nếu có chúng sinh tiếp thọ được.’’ Nếu như có chúng sinh cơ duyên thành thục, và có duyên với Phật pháp mới tiếp thọ được.
‘’Ðều khiến được nghe diệt phiền não.’’ Hoàn toàn khiến cho loại chúng sinh này, đều được lợi ích của sự nghe pháp, làm cho tiêu diệt phiền não. Khi Phật nói pháp, tuy chúng sinh ở trong pháp hội, song có duyên mới có thể nghe được Phật pháp, kẻ vô duyên chẳng nghe được Phật pháp. Chúng sinh nghe được, đều sinh tâm thanh lương chẳng có phiền não.
Mỗi mỗi trang nghiêm đều viên mãn
Cho dù ức kiếp nói không hết
Thần lực Như Lai khắp hết thảy
Cho nên mặt đất đều nghiêm tịnh.
‘’Mỗi mỗi trang nghiêm đều viên mãn.’’ Hết thảy mặt đất trang nghiêm đều viên mãn thanh tịnh.
‘’Cho dù ức kiếp nói không hết.’’ Cảnh giới trang nghiêm viên mãn này, dù ức kiếp nói cũng chẳng hết được.
‘’Thần lực Như Lai khắp hết thảy.’’ Song, thần thông diệu dụng của Phật, chẳng có nơi nào mà chẳng khắp cùng, chẳng hiển hiện.
‘’Cho nên mặt đất đều nghiêm tịnh.’’ Vì vậy cho nên tất cả mặt đất, đều biến thành trang nghiêm thanh tịnh.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Đại Trí Nhật Dũng Mãnh Huệ, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả đại chúng hải hội trong đạo tràng, rồi nói bài kệ rằng.
Lúc đó, vị đại Bồ Tát Ðại Trí Nhật Dũng Mãnh Huệ, nương đại oai thần lực của Phật, quán khắp tất cả đại chúng hải hội trong đạo tràng, rồi dùng kệ nói công đức của Phật.
Thế Tôn nghiêm nhìn nơi pháp đường
Chiếu sáng rực rỡ trong cung điện
Tùy tâm ưa thích của chúng sinh
Thân Phật hiện khắp mười phương cõi.
‘’Thế Tôn nghiêm nhìn nơi pháp đường.’’ Mắt của Phật sáng suốt tỏ rõ, yên lặng bất động ở trên pháp đường.
‘’Chiếu sáng rực rỡ trong cung điện.’’ Chiếu sáng rực rỡ trong cung điện của chư Phật.
‘’Tùy tâm ưa thích của chúng sinh.’’ Tùy thuận trong tâm hoan hỷ ưa thích của tất cả chúng sinh.
‘’Thân Phật hiện khắp mười phương cõi.’’ Phật hay làm cho chúng sinh mãn nguyện, nên mới hiện thân khắp trong mười phương pháp giới, khiến cho tất cả chúng sinh đều thấy được Phật, nghe được pháp.
Cung điện Như Lai không nghĩ bàn
Tạng báu ma ni làm nghiêm sức
Các đồ trang nghiêm đều sáng chói
Phật ngồi trong đó đặc thù nhất.
‘’Cung điện Như Lai chẳng nghĩ bàn.’’ Cung điện của Phật không thể nghĩ bàn, vừa trang nghiêm vừa đẹp đẽ.
‘’Tạng báu ma ni dùng nghiêm sức.’’ Cung điện của Phật ở, đều dùng châu ma ni để trang nghiêm tu sức.
‘’Các đồ trang nghiêm đều sáng chói.’’ Hết thảy tất cả đồ trang nghiêm, đều phát ra đủ thứ ánh sáng nhiều màu chiếu soi rực rỡ.
‘’Phật ngồi trong đó đặc thù nhất.’’ Phật ngồi ở trong cung điện hiển rõ đặc biệt, chiếu soi mười phương pháp giới.
Ma ni làm cột đủ màu sắc
Chuông bằng vàng thật như mây bủa
Thềm báu bốn phía bày thẳng hàng
Cửa nẻo theo hướng đều mở rộng.
‘’Ma ni làm cột đủ màu sắc.’’ Cột trụ ở trong cung điện, đều làm bằng đủ thứ châu ma ni nhiều màu sắc.
‘’Chuông bằng vàng thật bủa như mây.’’ Dùng vàng thật để đúc chuông và linh, treo chung quanh mái cung điện, giống như mây giăng bủa.
‘’Thềm báu bốn phía bày thẳng hàng.’’ Bốn phía thềm bực của cung điện, mỗi cấp đều dùng các châu báu làm thành, rất ngay hàng thẳng lối.
‘’Cửa nẻo theo hướng đều mở rộng.’’ Bất cứ cửa lớn hoặc cửa nhỏ, đều tùy phương hướng mà mở rộng.
Diệu hoa màn thêu trang nghiêm đẹp
Cây cành lá báu cùng nghiêm sức
Chuỗi ngọc ma ni rũ bốn phía
Như Lai yên lặng ngồi trong đó.
‘’Diệu hoa màn thêu trang nghiêm đẹp.’’ Dùng diệu hoa sen và tơ lụa, để làm màn báu trang nghiêm.
‘’Cây cành lá báu cùng nghiêm sức.’’ Cành lá cây báu sinh trưởng rất trang nghiêm mỹ lệ, dùng để nghiêm sức.
‘’Chuỗi ngọc ma ni rũ bốn phía.’’ Ở trong cung điện, còn dùng châu báu ma ni làm chuỗi treo ở bốn phía.
‘’Như Lai yên lặng ngồi trong đó.’’ Phật ngồi trên tòa sư tử ở trong cung điện, rất yên tĩnh và trang nghiêm.
Ma ni làm lưới, tràng thơm đẹp
Đèn sáng chói rực như mây bủa
Che trên đủ thứ đồ trang nghiêm
Siêu thế Chánh Tri ngồi trên tòa.
‘’Ma ni làm lưới, tràng thơm đẹp.’’ Dùng châu ma ni làm thành lưới, và tràng báu thơm tho đẹp đẽ, đều treo ở trong cung điện.
‘’Ðèn sáng rực rỡ như mây bủa.’’ Lưới ma ni phóng ra ánh sáng rực rỡ, giống như ánh sáng của đèn, lại giống như mây trắng, giăng bủa trùng trùng vô tận ở trong không trung.
‘’Che trên đủ thứ đồ trang nghiêm.’’ Lưới báu đó, che ở trên đủ thứ đồ trang nghiêm.
‘’Siêu thế Chánh Tri ngồi trên tòa.’’ Chánh Biến Tri vượt ra thế gian, tức cũng là Phật, ngồi trên pháp tòa ở trong cung điện.
Khắp mười phương hiện mây biến hóa
Mây đó diễn nói khắp thế gian
Tất cả chúng sinh đều điều phục
Như thế đều từ cung Phật hiện.
‘’Khắp mười phương hiện mây biến hóa.’’ Hết thảy trong mười phương, khắp hiện ra mây biến hóa.
‘’Mây đó diễn nói khắp thế gian.’’ Trong mây biến hóa lại xuất hiện đủ thứ pháp âm, diễn nói chân lý thật tướng của tất cả các pháp, âm thanh đó khắp tất cả thế gian.
‘’Tất cả chúng sinh đều điều phục.’’ Mục đích diễn nói diệu pháp, là để điều phục tất cả chúng sinh ngoan cố cang cường.
‘’Như thế đều từ cung Phật hiện.’’ Như diệu pháp âm như thế, đều từ cung điện của Phật biến hóa hiện ra.
Ma ni làm cây đơm hoa đẹp
Hết thảy mười phương không thể sánh
Ba đời cõi nước việc trang nghiêm
Đâu chẳng hiện hình ở trong đó.
‘’Ma ni làm cây đơm hoa đẹp.’’ Dùng châu ma ni trang nghiêm cây, sinh ra một thứ hoa thơm tốt đẹp.
‘’Hết thảy mười phương không thể sánh.’’ Hết thảy cây ở trong mười phương pháp giới, đều không thể sánh với bồ đề thụ vương.
‘’Ba đời cõi nước việc trang nghiêm.’’ Ðời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai, hết thảy tất cả việc trang nghiêm.
‘’Ðâu chẳng hiện hình ở trong đó.’’ Ba đời cõi nước việc trang nghiêm như thế nào, đều hiện ra ở trong diệu quang liên hoa.
Nơi nơi đều có châu ma ni
Ánh sáng rực rỡ vô lượng thứ
Cửa nẻo theo hướng xen nhau mở
Cột nóc trang nghiêm rất đặc thù.
‘’Nơi nơi đều có châu ma ni.’’ Cung điện của Phật, nơi nơi đều dùng báu ma ni để trang nghiêm.
‘’Ánh sáng rực rỡ vô lượng thứ.’’ Châu ma ni phóng ra ánh sáng như lửa ngọn, có đủ thứ ánh sáng và màu sắc đều khác nhau, rất là rực rỡ.
‘’Cửa nẻo tùy hướng xen nhau mở.’’ Hết thảy cửa lớn cửa sổ, tùy theo phương hướng mà mở, khoảng cách rất là tương xứng.
‘’Cột nóc trang nghiêm rất đặc thù.’’ Nóc và cột trụ trong cung điện và tường vách, đều dùng châu ma ni để trang nghiêm rất thù thắng mỹ lệ.
Cung điện Như Lai không nghĩ bàn
Quang minh thanh tịnh đủ các tướng
Tất cả cung điện hiện trong đó
Mỗi mỗi đều có tòa Như Lai.
‘’Cung điện Như Lai không nghĩ bàn.’’ Cung điện của Phật ở không thể nghĩ bàn.
‘’Quang minh thanh tịnh đủ các tướng.’’ Trong cung điện này, vừa quang minh vừa thanh tịnh, đầy đủ các thứ tướng.
‘’Tất cả cung điện hiện trong đó.’’ Cung điện của mười phương chư Phật, đều hiện ra ở trong cung điện này. Cung điện này lại hiện ra ở trong cung điện của mười phương chư Phật. Ðây là quang tướng và sắc tướng hổ tương chiếu với nhau, hiển hiện không ngừng.
‘’Mỗi mỗi đều có tòa Như Lai.’’ Ở trong mỗi cung điện đều có Phật ngồi ở đó, chuyển bánh xe pháp, tuyên dương Phật pháp.
Cung điện Như Lai chẳng bờ mé
Đức Phật tự nhiên ngự trong đó
Mười phương tất cả các chúng hội
Đâu chẳng vân tập hướng về Phật.
‘’Cung điện Như Lai chẳng bờ mé.’’ Số lượng cung điện của Phật chẳng có bờ mé, hà huống là tất cả cung điện khác, càng vô lượng vô biên.
‘’Ðức Phật tự nhiên ngự trong đó.’’ Hết thảy cung điện, Phật rất tự nhiên ngự ở trong đó.
‘’Mười phương tất cả các chúng hội.’’ Ở trong mười phương pháp giới, hết thảy chúng hội của chư Phật.
‘’Ðâu chẳng vân tập hướng về Phật.’’ Ðại chúng ở trong chúng hội, đâu chẳng vân tập tụ hội hướng về cung điện của Phật.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Bất Tư Nghì Công Đức Bảo Trí Ấn, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả đại chúng hải hội trong đạo tràng, rồi nói bài kệ rằng.
Lúc đó, vị đại Bồ Tát Bất Tư Nghì Công Ðức Bảo Trí Ấn, nương đại oai đức thần thông lực của Phật, quán sát khắp tất cả đại chúng hải hội trong đạo tràng, bèn nói ra mười bài kệ sau đây.
Xưa Phật tu hành biển phước huệ
Tất cả cõi nước số hạt bụi
Thần thông nguyện lực mà sinh ra
Đạo tràng nghiêm tịnh chẳng cấu bẩn.
‘’Xưa Phật tu hành biển phước huệ.’’ Thuở xưa, khi Phật tu hành tại nhân địa, thì vừa tu phước vừa tu huệ, do đó có câu :
‘’Tam kỳ tu phước huệ,
Bách kiếp chủng tướng hảo.’’
Phước huệ tu hành nhiều như biển cả, cho nên gọi là biển phước huệ.
‘’Tất cả cõi nước số hạt bụi.’’ Tu bao nhiêu phước huệ ? Nhiều giống như hạt bụi ở trong hết thảy tất cả các cõi nước.
‘’Thần thông nguyện lực mà sinh ra.’’ Ðó đều là thần thông diệu dụng của Phật biến hóa ra, và nguyện lực đã phát ra trong quá khứ sinh ra.
‘’Ðạo tràng nghiêm tịnh chẳng cấu bẩn.’’ Hết thảy đạo tràng rất trang nghiêm thanh tịnh, chẳng có cấu bẩn.
Châu vương như ý làm gốc cây
Kim cang ma ni dùng làm thân
Lưới báu giăng che trên thân cây
Hương thơm ngào ngạt tỏa khắp nơi.
‘’Châu vương như ý làm gốc cây.’’ Dùng châu vương như ý làm gốc cây bồ đề.
‘’Kim Cang ma ni dùng làm thân.’’ Dùng kim cang ma ni báu, để làm thân cây bồ đề.
‘’Lưới báu giăng che trên thân cây.’’ Dùng châu ma ni làm thành lưới, giăng che ở trên cây bồ đề.
‘’Hương thơm ngào ngạt tỏa khắp nơi.’’ Lại có diệu hương và dị hương, tỏa ra mùi thơm ngào ngạt khắp cây bồ đề.
Nhánh cây nghiêm sức các thứ báu
Thân bằng ma ni tranh vươn cao
Cành lá dày đặc như mây giăng
Phật ngồi dưới Bồ đề đạo tràng.
‘’Nhánh cây nghiêm sức các thứ báu.’’ Nhánh cây bồ đề rất trang nghiêm, dùng các thứ báu để nghiêm sức.
‘’Thân bằng ma ni tranh vươn cao.’’ Dùng châu ma ni làm thân cây, thân cây tranh nhau vươn lên cao vút.
‘’Cành lá dày đặc như mây giăng.’’ Cành lá hổ tương giăng che dày đặc, giống như mây trùng trùng vô tận.
‘’Phật ngồi dưới Bồ đề đạo tràng.’’ Cây bồ đề trang nghiêm như thế, Phật ngồi nơi Ðạo tràng dưới cội bồ đề, chuyển pháp luân giáo hóa chúng sinh.
Đạo tràng rộng lớn không nghĩ bàn
Chu vi cây đó đều che khắp
Lá dày bông nhiều chiếu sáng nhau
Trong hoa đều kết quả ma ni.
‘’Ðạo tràng rộng lớn không nghĩ bàn.’’ Bồ đề đạo tràng rộng lớn không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời luận bàn.
‘’Chu vi cây đó đều che khắp.’’ Bồ đề thụ vương cành lá rất sum xê dị thường, chu vi rất rộng lớn mà che khắp hết thảy.
‘’Lá dày bông nhiều chiếu sáng nhau.’’ Cành lá dày đặc, có rất nhiều hoa, hổ tương chiếu với nhau.
‘’Trong hoa đều kết quả ma ni.’’ Ở trong mỗi nụ hoa, đều kết quả châu ma ni.
Tất cả nhánh cây phát ánh sáng
Ánh sáng chiếu khắp trong đạo tràng
Thanh tịnh rực rỡ sáng vô tận
Do nguyện lực Phật hiển hiện ra.
‘’Tất cả nhánh cây phát ánh sáng.’’ Hết thảy các nhánh cây, lại phát ra một thứ ánh sáng vi diệu.
‘’Ánh sáng chiếu khắp trong đạo tràng.’’ Ánh sáng đó chiếu sáng khắp ở trong đạo tràng.
‘’Thanh tịnh rực rỡ sáng vô tận.’’ Ánh sáng đó thanh tịnh rực rỡ chẳng có cùng tận.
‘’Do nguyện lực Phật hiển hiện ra.’’ Tại sao hiện ra ánh sáng này ? Vì do nguyện lực của Phật phát ra, khi tu ở tại nhân địa, cho nên Bồ đề thụ vương mới hiện ra cảnh giới này.
Ma ni bảo tạng dùng làm hoa
Bóng sáng chói giăng như mây gấm
Quanh cây khắp nơi đều thơm tho
Ở trong đạo tràng khắp nghiêm sức.
‘’Ma ni bảo tạng dùng làm hoa.’’ Dùng châu ma ni để làm hoa của cây bồ đề, chẳng những tốt đẹp mà còn trang nghiêm.
‘’Bóng sáng chói giăng như mây gấm.’’ Bóng cây bày hàng la liệt, và ánh sáng chói rọi giống như mây ngũ sắc ở trên không trung rất đẹp đẽ.
‘’Quanh cây khắp nơi đều thơm tho.’’ Thứ mây gấm đó, khắp chung quanh cây bồ đề, đều tỏa ra hương thơm ngào ngạt.
‘’Ở trong đạo tràng khắp nghiêm sức.’’ Ở trong Bồ đề đạo tràng, khắp nơi bố trí rất trang nghiêm tốt đẹp lạ thường.
Ngài xem Thiện Thệ trong đạo tràng
Lưới báu hoa sen đồng thanh tịnh
Ánh sáng hình tròn từ đây hiện
Tiếng chuông tiếng linh vang trong mây.
‘’Các Ngài hãy quán Phật đạo tràng.’’ Các vị hãy quán sát trong đạo tràng này của Phật ở.
Các Ngài hãy quán sát, khi Phật thuyết pháp, thì chỉ có tất cả đại chúng đương thời ở trong pháp hội. Hiện tại các Ngài hãy quán, kêu chúng ta tất cả chúng sinh hãy quán sát. Nếu không quán thì Kinh văn này chẳng có ích gì. Vì Phật nói pháp là vì độ chúng sinh, đều bao quát chúng ta ở trong đó, đừng cho rằng câu Kinh văn này, chẳng có quan hệ gì với bạn, bạn phải dùng thân tâm của mình, để suy nghĩ rằng đây là việc của mình, chứ chẳng phải việc của người khác. Bạn suy nghĩ như thế, thì đối với nghĩa lý của Kinh văn mới không luống qua.
Quán cái gì ? Quán đấng Thiện Thệ. Thiện Thệ có hai nghĩa :
1. Giảng theo chữ nghĩa là đạt đến chân thiện mỹ.
2. Giảng theo Kinh văn nghĩa là Niết Bàn không sinh không diệt, chẳng còn ở trong biển sinh tử. Thiện Thệ tức cũng là Phật.
‘’Lưới báu hoa sen đều thanh tịnh.’’ Lưới báu hoa sen ở trong Bồ đề đạo tràng, đều thanh tịnh chẳng cấu bẩn.
‘’Ánh sáng hình tròn từ đây hiện.’’ Trong lưới báu hoa sen, lại hiện ra đủ thứ ánh sáng, trong ánh sáng hiện ra đủ thứ màu sắc, thứ ánh sáng tự nhiên thành hình tròn như bánh xe.
‘’Tiếng chuông tiếng linh vang trong mây.’’ Ánh sáng này, chẳng những hiện ra ánh sáng hình tròn, mà còn có tiếng chuông, tiếng linh từ trong mây vang ra.
Tất cả cõi nước trong mười phương
Hết thảy diệu sắc trang nghiêm cây
Trong cây bồ đề đâu chẳng hiện
Phật ngồi nơi đây sạch cấu nhiễm.
‘’Trong mười phương tất cả cõi nước.’’ Hết thảy tất cả cõi nước trong mười phương.
‘’Hết thảy diệu sắc trang nghiêm cây.’’ Hết thảy tất cả cây bồ đề, có đủ thứ hình tướng, có đủ thứ màu sắc rất trang nghiêm, rất mỹ lệ. Một khi chúng sinh thấy thứ cây bồ đề này, thì phát tâm bồ đề, kết quả bồ đề, chứng được quả vị Phật.
‘’Trong cây bồ đề đâu chẳng hiện.’’ Ở trong cây bồ đề bao la vạn tượng, chẳng có gì mà chẳng hiện. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, đều hiện ra ở trong cây bồ đề, vì muốn đối trị với tám vạn bốn ngàn bệnh phiền não của chúng sinh, chúng sinh có nhiều bệnh như thế, cho nên hiện ra nhiều pháp như thế. Nếu chúng sinh chẳng có bệnh phiền não, thì tất cả các pháp cũng vô dụng. Do đó, dưới cây bồ đề hiện ra đủ thứ quang minh, đủ thứ màu sắc, đủ thứ âm thanh, đủ thứ pháp; như: Bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy bồ đề phần, tám chánh đạo .v.v., đều từ trong cây bồ đề hiện ra.
Ðạo lý tiểu thừa nói về bốn diệu đế, và mười hai nhân duyên, đạo lý đại thừa nói về lục độ vạn hạnh phát tâm bồ đề, hành Bồ Tát đạo, tương lai đạt đến phước huệ đều đầy đủ, chứng được cảnh giới ba giác viên vạn đức tròn, viên mãn thành quả vị Phật.
‘’Phật ngồi nơi đây sạch cấu nhiễm.’’ Câu kinh văn này, theo ý tôi thì nên sửa chữ ‘’Phật‘’ thành chữ ‘’chúng sinh.‘’ Tại sao ? Vì Phật ở dưới cội bồ đề đã lìa khỏi mọi cấu nhiễm, nếu còn cấu nhiễm thì làm sao thành Phật được ? Chúng sinh đến dưới cội bồ đề, đều có thể lìa khỏi các cấu nhiễm, đắc được cảnh giới thanh lương, chẳng nhiễm mảy trần. Tuy là nói như thế, song kinh văn là Phật nói, không thể nào dám tự tiện sửa đổi, bất quá phải hiểu rằng, câu kinh này Phật là Thánh nhân chẳng có cấu nhiễm. Cấu nhiễm là không thanh tịnh, chúng ta là chúng sinh mới có cấu nhiễm. Phật vốn là thanh tịnh, chứ chẳng phải nói, đến dưới cội cây bồ đề mới thanh tịnh, mới sạch cấu nhiễm. Ðức Phật lúc chẳng ở dưới cội bồ đề, đã sạch cấu nhiễm. Chúng ta chúng sinh đến dưới cội bồ đề, phát tâm bồ đề, hành đạo bồ đề, chứng quả bồ đề, thì sẽ sạch cấu nhiễm. Muốn nghĩ sạch cấu nhiễm thì phải tu hành, tu hành thì dứt phiền não, chẳng còn phiền não tức là sạch cấu nhiễm.
Đạo tràng rộng lớn do phước thành
Nhánh cây luôn mưa báu vô tận
Trong báu xuất hiện các Bồ Tát
Đều đến mười phương cúng dường Phật.
‘’Ðạo tràng rộng lớn do phước thành.’’ Ðạo tràng của Phật nói pháp rất rộng lớn vô cùng, do tu phước huệ rộng lớn mà thành tựu, cho nên mới có đạo tràng lớn như thế.
‘’Nhánh cây luôn mưa báu vô tận.’’ Mỗi cành mỗi lá của cây bồ đề, đều mưa xuống châu báu vô cùng vô tận.
‘’Trong báu xuất hiện các Bồ Tát.’’ Ở trong mỗi châu báu, lại có các Bồ Tát hóa hiện.
‘’Ðều đến mười phương cúng dường Phật.’’ Những vị Bồ Tát đó, đều đến cõi nước chư Phật trong mười phương cúng dường chư Phật.
Cảnh giới chư Phật không nghĩ bàn
Khiến khắp cây đó vang âm nhạc
Như xưa tu tập đạo bồ đề
Chúng hội nghe tiếng đều được thấy.
‘’Cảnh giới chư Phật không nghĩ bàn.’’ Cảnh giới của chư Phật, chẳng phải ngôn ngữ của phàm phu chúng ta hình dung được, suy lường được, cho nên nói không nghĩ bàn.
‘’Khiến khắp cây đó vang âm nhạc.’’ Khiến cho khắp cây bồ đề, vang ra một thứ âm nhạc, khiến cho tất cả chúng sinh nghe được, đều phát tâm bồ đề.
‘’Như xưa tu tập đạo bồ đề.’’ Giống như thuở xưa Phật tu hành đạo bồ đề, đều tu tập lại với nhau.
‘’Chúng hội nghe tiếng đều được thấy.’’ Ðại chúng trong hải hội Hoa Nghiêm, nghe được thứ âm nhạc này, thì đều thấy được cảnh giới này.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Bách Mục Liên Hoa Kế, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả đại chúng hải hội trong đạo tràng, rồi nói bài kệ rằng.
Vào lúc đó, vị đại Bồ Tát Bách Mục Liên Hoa Kế, nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp hết thảy đại chúng hải hội mà nói ra mười bài kệ này. Vị đại Bồ Tát này rất khiêm cung. Ngài nói : ‘’Tôi chẳng biết nói kệ, mười bài kệ này là nhờ nương đại oai thần lực của Phật gia trì, mới nói ra được.’’ Chẳng giống như phàm phu chúng ta có tri kiến, luôn luôn cho rằng đây là tôi làm, đó là tôi làm, nếu hết thảy tất cả chẳng có tôi, thì không thể thành công, bất cứ việc gì phải có tôi làm, sau đó sự việc mới thành tựu.
Vị đại Bồ Tát này, dùng kệ để thuật lại đạo lý vừa nói ở trên, vì muốn khiến cho chúng sinh ngu si dễ hiểu thêm một chút. Do đó, đủ thấy lòng từ bi của Phật, Bồ Tát đối với chúng ta, chúng sinh như thế nào ! Thương xót như thế nào ! Ái hộ đối với chúng ta như thế, thấu hiểu như thế, có thể nói là vô vi bất chí, nếu chúng ta chẳng chuyên nhất tu hành, thì thật cô phụ chư Phật, Bồ Tát một phen khổ tâm.
Tất cả ma ni vang diệu âm
Khen danh hiệu chư Phật ba đời
Phật đó vô lượng sức thần thông
Trong đạo tràng này đều hiện ra.
‘’Tất cả ma ni vang diệu âm.’’ Ở trong tất cả châu ma ni, đều phát ra một thứ diệu âm không thể nghĩ bàn. Tại sao nói là diệu âm ? Vì thứ diệu âm đó, nếu chúng sinh ngu si nghe được rồi, thì lập tức sinh ra trí huệ, bạn nói có diệu chăng ? Sự diệu không thể nói được, do đó có câu :
‘’Vào sâu tạng Kinh, trí huệ như biển.’’
Thứ diệu âm đó tức là tạng Kinh, chúng sinh nghe được diệu âm đó, thì trí huệ sinh ra như biển cả.
Nếu chúng sinh có tâm sân hận, mà nghe được diệu âm đó, thì bất tri bất giác tâm sân hận tiêu diệt. Bất cứ làm việc gì, đều phải tâm bình khí hòa để xử lý, tuyệt đối đừng nổi lửa vô minh. Ðối với bất cứ người nào, cũng đều khiêm nhường hòa nhan duyệt sắc, tuyệt đối đừng nóng giận, đây là công hiệu của diệu âm.
Chúng sinh có tâm tham, nghe được diệu âm đó cũng hết tham. Bổn lai thì tham chẳng biết chán, càng nhiều càng tốt, song sau khi nghe diệu âm đó rồi, thì chẳng những không tham, mà còn bố thí, do đó có câu :
‘’Biết đủ thì an vui,
Làm việc thiện thì sung sướng nhất’’.
Sửa đổi tác phong san tham trong quá khứ, bạn nói âm thanh đó có diệu chăng ? Thứ diệu âm đó, hay chuyển biến tham sân si của con người, thành giới định huệ, bạn nói có diệu chăng ? Có sức lực lớn như thế, thậm chí có bệnh thì hết bệnh, đáng chết nhưng không chết, có công hiệu không nghĩ bàn như thế. Có người nói : ‘’Pháp sư ! Ngài giảng thật chẳng hợp đạo lý, có người đáng chết mà không chết, có người đáng bệnh mà không bệnh‘’. Nếu chẳng có kỳ tích như thế, thì sao có thể nói là diệu âm ? Diệu âm tức là dù bạn nghĩ tưởng cũng tưởng chẳng được, việc không thể được mà có thể được, việc làm chẳng thông mà làm thông được, đó mới là diệu. Ví như phiền não chẳng dễ gì đoạn trừ, mà nghe được diệu âm rồi, thì phiền não sẽ đoạn trừ.
‘’Khen danh hiệu chư Phật ba đời.’’ Tại sao nói tham mà không tham, sân mà không sân, si mà không si, bệnh mà không bệnh, chết mà không chết ? Vì đều ở trong diệu, cho nên phải khen ngợi danh hiệu của chư Phật ba đời, nếu kiền thành niệm thánh hiệu, thì tất cả phiền não sẽ chuyển thành bồ đề, mọi sự tham lam chuyển thành bố thí, sân hận chuyển thành từ bi, ngu si chuyển thành trí huệ, vì diệu âm này không thể nghĩ bàn. Tuy khen ngợi danh hiệu chư Phật ba đời, song sức của nó cũng diệu không thể tả.
‘’Phật đó vô lượng sức thần thông.’’ Có chứng cứ gì để nói rằng có sức lực lớn như thế ? Ðó là vô lượng thần thông diệu dụng của Phật, đây là chứng cứ.
‘’Trong đạo tràng này đều hiện ra.’’ Ở trong bồ đề đạo tràng này, đều hiện ra cảnh giới không thể ngĩ bàn này.
Tức nhiên hoàn toàn hiện ra thần thông diệu dụng. Song, pháp mà tôi vừa mới nói, bất quá chỉ là một giọt nước ở trong biển cả, một hạt bụi trong một cõi nước mà thôi, chứ chẳng phải toàn bộ. Ðây là ‘’Tri nhất phản vô lượng,’’ tức cũng là ‘’Nhất thông vạn sự thông,’’ biết được một việc thì những việc khác cũng đều biết.
Thứ thần thông diệu dụng này, có sức cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn, chẳng những là ngu si được trí huệ, chúng sinh chưa dứt sinh tử nghe được diệu pháp này, thì lập tức dứt sinh tử chứng được Niết Bàn.
Các hoa đua nở như chuỗi giăng
Mây sáng lưu diễn khắp mười phương
Thần cây bồ đề hướng đến Phật
Một lòng chiêm ngưỡng cúng dường Phật.
‘’Các hoa đua nở như chuỗi giăng.’’ Trên cây bồ đề nở vô lượng hoa, những hoa bồ đề đó, tranh nhau đua nở bủa giăng như chuỗi anh lạc, cành hoa này rất đẹp, cành hoa kia càng đẹp hơn, rất trang nghiêm, khiến cho ai thấy được thì phát tâm bồ đề.
‘’Mây sáng lưu diễn khắp mười phương.’’ Thứ ánh sáng đó giống như mây trắng, lưu động diễn xướng khắp mười phương pháp giới.
‘’Thần cây bồ đề hướng đến Phật.’’ Thần cây bồ đề dùng thứ hoa và ánh sáng đó, để cúng dường tất cả chư Phật trong mười phương.
‘’Một lòng chiêm ngưỡng cúng dường Phật.’’ Chuyên tâm nhất trí để chiêm ngưỡng Phật, tức cũng là mắt chẳng tạm rời chiêm ngưỡng Phật, đây là cúng dường Phật.
Ma ni sáng chói đều thành tràng
Trong tràng sáng rực toả hương thơm
Hương đó xông khắp tất cả chúng
Cho nên đạo tràng đều nghiêm khiết.
‘’Ma ni sáng chói đều thành tràng.’’ Châu ma ni trên cây bồ đề, đều phóng ra ánh sáng lửa ngọn, chiếu soi rất tốt đẹp, ánh sáng lửa ngọn đó, lại kết thành đại pháp tràng.
‘’Trong tràng rực rỡ tỏa hương thơm.’’ Ở trong đại pháp tràng đó, lại tỏa ra một thứ lửa ngọn rất rực rỡ, ở trong lửa ngọn lại tỏa ra hương thơm, mùi hương đó tỏa ra khắp mọi nơi.
‘’Hương đó huân khắp tất cả chúng.’’ Thứ mùi hương thơm đó, xông khắp tất cả chúng sinh, khiến cho phát tâm bồ đề, hành Bồ Tát đạo.
‘’Cho nên đạo tràng đều nghiêm khiết.’’ Vì hương thơm đó huân tập tâm chúng sinh, khiến cho họ thanh tịnh, cho nên đạo tràng rất trang nghiêm tốt đẹp, thanh khiết chẳng nhiễm, chúng sinh đều phát tâm vô thượng bồ đề.
Hoa sen thòng rũ phóng kim quang
Quang đó diễn khắp tiếng của Phật
Che khắp mười phương các cõi nước
Vĩnh diệt phiền não của chúng sinh.
‘’Hoa sen thòng rũ phóng kim quang.’’ Ở trong đạo tràng có hoa sen vi diệu, hoa đó lại phóng ra quang minh màu vàng thật, giăng bủa chung quanh.
‘’Quang đó diễn khắp tiếng của Phật.’’ Quang minh trên hoa sen phóng ra, diễn nói pháp âm của Phật, thứ diệu âm thanh đó, như vừng mây phủ khắp, khiến cho chúng sinh nghe được rất rõ ràng.
‘’Che khắp mười phương các cõi nước.’’ Thứ mây âm thanh vi diệu đó, đến khắp mười phương pháp giới, vì tất cả chúng sinh mà diễn nói diệu pháp, lại che rợp khắp chúng sinh, trong tất cả cõi Phật trong mười phương.
‘’Vĩnh diệt phiền não của chúng sinh.’’ Thứ quang minh đó, hay diệt trừ tất cả phiền não, và lửa vô minh của chúng sinh, trừ khử bệnh ba độc tham sân si, khôi phục thân tâm kiện khang.
Bồ đề thụ vương sức tự tại
Thường phóng quang minh rất thanh tịnh
Chúng hội mười phương nhiều vô biên
Đâu chẳng hiển hiện trong đạo tràng.
‘’Bồ đề thụ vương sức tự tại.’’ Cây bồ đề là vua trong loài cây, bổn thân cây thụ vương đó, có sức thần tự tại.
‘’Thường phóng quang minh rất thanh tịnh.’’ Bồ đề thụ vương thường phóng quang minh rất thanh tịnh vô cùng.
‘’Chúng hội mười phương nhiều vô biên.’’ Chúng hội ở trong mười phương pháp giới, nhiều vô lượng vô biên chẳng cách chi tính đếm được.
‘’Ðâu chẳng hiển hiện trong đạo tràng.’’ Tuy nhiên có vô biên chúng hội, song đều hiển hiện ra ở trong đạo tràng bồ đề thụ vương, đạo tràng này cũng hiện ra trong đạo tràng kia, hổ tương chiếu soi.
Nhánh báu sáng rực như đèn sáng
Ánh sáng diễn âm tuyên đại nguyện
Như Phật thuở xưa nơi các cõi
Các môn tu hành đều nói đủ.
‘’Nhánh báu sáng rực như đèn sáng.’’ Nhánh báu ma ni của bồ đề thụ vương, đều phóng quang minh giống như đèn sáng.
‘’Ánh sáng diễn âm tuyên đại nguyện.’’ Ở trong ánh sáng đó, diễn nói pháp âm vi diệu, tuyên dương đại nguyện của chư Phật trong quá khứ.
‘’Như Phật thuở xưa nơi các cõi.’’ Giống như trong quá khứ, khi Phật tu hành tại nhân địa, tức cũng ở trong hai mươi lăm cõi tu hành.
‘’Các môn tu hành đều nói đủ.’’ Phật vốn tu pháp môn gì, đều nói ra đầy đủ, giống như xem truyền hình, từng màn từng màn hiện ra.
Các Thần dưới cây nhiều như bụi
Đều cùng hộ trì đạo tràng này
Mỗi đức Như Lai trước đạo thụ
Niệm niệm tuyên dương môn giải thoát.
‘’Các Thần dưới cây nhiều như bụi.’’ Dưới cội bồ đề có vô biên các vị Thần cây, nhiều như hạt bụi.
‘’Ðều cùng hộ trì đạo tràng này.’’ Những vị thần đó, cùng đến hộ trì Bồ đề đạo tràng.
‘’Mỗi đức Như Lai trước đạo thụ.’’ Hết thảy tất cả chư Phật, khi thành Phật, thì nhất định phải chứng đạo dưới cội bồ đề.
‘’Niệm niệm tuyên dương môn giải thoát.’’ Thần cây chẳng những hộ trì đạo tràng, mà còn giúp Phật tuyên dương giáo hóa, khiến cho Phật pháp phát dương quang đại, ở trong niệm niệm, đều tuyên dương đạo lý các môn giải thoát của Kinh Hoa Nghiêm.
Thuở xưa Thế Tôn tu các hạnh
Cúng dường tất cả các Như Lai
Các môn tu hành và nghe danh
Trong châu ma ni thảy đều hiện.
‘’Thuở xưa Thế Tôn tu các hạnh.’’ Thuở xưa Phật ở tại nhân địa, tu lục độ vạn hạnh tất cả pháp môn.
‘’Cúng dường tất cả các Như Lai.’’ Hạnh môn chính là lễ kính các Ðức Phật, khen ngợi các Ðức Như Lai, rộng tu cúng dường, cúng dường tất cả vị Phật trong mười phương ba đời.
‘’Các môn tu hành và nghe danh.’’ Trong cảnh giới thuở xưa của Phật tu hành, thảy đều nghe danh, ai cũng đều biết Ngài tu hành như thế nào.
‘’Trong châu ma ni thảy đều hiện.’’ Trong châu ma ni, cây bồ đề đều hiện ra tất cả cảnh giới trong quá khứ, khiến cho chúng sinh thấy được, thì phát tâm bồ đề, tu quả vị Phật vô thượng.
Tất cả đạo tràng vang diệu âm
Âm đó rộng lớn khắp mười phương
Nếu có chúng sinh tiếp thọ pháp
Điều phục hết thảy khiến thanh tịnh.
‘’Tất cả đạo tràng vang diệu âm.’’ Ở trong Bồ đề đạo tràng, bất cứ là cây bồ đề, hoặc là tòa sư tử, cho đến ánh sáng, hoa .v.v., đều vang ra một thứ diệu âm, diễn xướng tất cả diệu pháp.
‘’Âm đó rộng lớn khắp mười phương.’’ Thứ diệu âm đó, vang ra rất rộng lớn đầy khắp mười phương pháp giới.
‘’Nếu có chúng sinh tiếp thọ pháp.’’ Nếu như có chúng sinh có thể tiếp thọ được pháp này, và có duyên với pháp này.
‘’Ðiều phục hết thảy khiến thanh tịnh.’’ Ðiều phục hết thảy khiến cho được thanh tịnh, tức cũng chẳng có tham sân si phiền não, sinh ra sự khoái lạc thanh tịnh.
Thuở xưa Như Lai khắp tu hành
Tất cả vô lượng việc trang nghiêm
Mười phương tất cả cây bồ đề
Mỗi mỗi thứ trang nghiêm vô lượng.
‘’Thuở xưa Như Lai khắp tu hành.’’ Thuở xưa, khi Phật ở tại nhân địa, tu hành khắp hết thảy tất cả pháp môn, đều thanh tịnh chẳng nhiễm ô.
‘’Tất cả vô lượng việc trang nghiêm.’’ Phật tu vô lượng pháp môn, cho nên mới có vô lượng việc trang nghiêm.
‘’Mười phương tất cả cây bồ đề.’’ Cõi nước chư Phật trong mười phương, hết thảy tất cả cây bồ đề.
‘’Mỗi mỗi trang nghiêm vô lượng thứ.’’ Sự trang sức trên mỗi cây bồ đề đều khác nhau, mỗi đạo tràng trang nghiêm cũng khác nhau, ở trong vô lượng đạo tràng có vô lượng thứ trang nghiêm.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Kim Diễm Viên Mãn Quang, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp đại chúng hải hội trong đạo tràng, rồi nói bài kệ rằng.
Lúc đó, vị đại Bồ Tát Kim Diễm Viên Mãn Quang, nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp tất cả đại chúng hải hội trong Ðạo tràng rồi, bèn nói ra mười bài kệ này. Ðây là cảnh giới khen ngợi mười trí lực của Phật không thể nghĩ bàn.
Mười trí lực tức là :
1). Xứ, phi xứ trí lực.
2). Quá, vị, hiện tại, nghiệp báo trí lực.
3). Căn thắng liệt trí lực.
4). Chủng chủng giải trí lực.
5). Chủng chủng giới trí lực.
6). Nhất thiết chí xứ đạo trí lực.
7). Thiền định giải thoát tam muội trí lực.
8). Túc trụ niệm trí lực.
9). Thiên nhãn trí lực.
10). Lậu tận trí lực.
Xưa Phật tu tập hạnh bồ đề
Trong các cảnh giới hiểu thấu rõ
Xứ và phi xứ tịnh vô ngại
Đây trí lực thứ nhất của Phật.
‘’Xưa Phật tu tập hạnh bồ đề.’’ Thuở xưa khi Phật tu hạnh bồ đề.
‘’Trong các cảnh giới hiểu thấu rõ.’’ Tất cả hết thảy cảnh giới, Phật đều thấu triệt hiểu rõ.
‘’Xứ và phi xứ tịnh vô ngại.’’ Bất cứ pháp gì, Phật cũng đều minh bạch, bất cứ đạo gì, Phật cũng đều hiểu rõ, bất cứ cảnh giới gì, Phật cũng thấy rõ. Tất cả các pháp Phật đều biết, tất cả tâm chúng sinh Phật cũng đều biết. Hết thảy tất cả cảnh giới xứ và phi xứ, đều chẳng nghi hoặc. Tại sao chẳng nghi hoặc ? Vì hoàn toàn minh bạch hết.
Xứ phi xứ là gì ? Ví như trồng nhân lành thì kết quả lành, đây là xứ hợp lý. Nếu như nói trồng nhân lành mà kết quả khổ, thì đây chẳng phải xứ hợp lý, tức cũng là phi xứ.
Xứ ở đây nghĩa là kiến lập, kiến lập tất cả pháp ‘’thị‘’ và pháp ‘’bất thị,’’ Phật có sức trí huệ này.
‘’Ðây là Phật trí lực thứ nhất.’’ Ðây là trí huệ lực thứ nhất của Phật, tức cũng là xứ phi xứ trí lực.
Như xưa Phật quán các pháp tánh
Tất cả biển nghiệp đều thấu rõ
Như vậy khiến trong lưới quang minh
Khắp cùng mười phương diễn nói đủ.
‘’Như xưa Phật quán các pháp tánh.’’ Giống như Phật ở trong quá khứ, hiện tại, vị lai, ba đời quán sát khắp tất cả các pháp tánh, tức cũng là người này ở trong quá khứ, khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, như thế nào, hiện tại khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, như thế nào, vị lai khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, như thế nào.
‘’Tất cả biển nghiệp đều thấu rõ.’’ Tất cả nghiệp báo trong quá khứ, hiện tại, vị lai, ba đời như biển cả, song trí lực của Phật thảy đều thấy rõ triệt để.
‘’Như vậy khiến trong lưới quang minh.’’ Như cảnh giới biển nghiệp như vậy, hiện ra ở trong quang minh của cây bồ đề phóng ra.
‘’Khắp cùng mười phương diễn nói đủ.’’ Cảnh giới này, chẳng những hiển hiện ở dưới cội bồ đề một phương, mà còn hiển hiện ra dưới cội bồ đề trong mười phương, tức cũng là tận hư không khắp pháp giới, hết thảy dưới cội bồ đề cũng lại như thế, tóm lại, hổ tương hiển hiện. Cội bồ đề phương này, hiện đến mười phương, cội bồ đề trong mười phương, lại hiện đến phương này, cảnh giới trùng trùng vô tận. Ðây là trí huệ lực thứ hai của Phật, tức cũng là nghiệp báo trí lực quá khứ, hiện tại và vị lai.
Kiếp xưa tu hành đại phương tiện
Tùy căn chúng sinh mà hóa độ
Khiến khắp chúng hội tâm thanh tịnh
Nên Phật thành tựu căn trí lực.
‘’Kiếp xưa tu hành đại phương tiện.’’ Kiếp xưa khi Phật tu hành Bồ Tát đạo, thì đắc được pháp môn quyền xảo đại phương tiện.
‘’Tùy căn chúng sinh mà hóa độ.’’ Phật biết rõ căn tánh của chúng sinh, là thắng hay là hạ liệt. Thắng là căn lành, hạ liệt là căn ác. Phật tùy thuận căn tánh của chúng sinh, để giáo hóa chúng sinh, dẫn dắt chúng sinh khiến cho họ phát tâm bồ đề, hành Bồ Tát đạo. Do đó có câu :
‘‘Trước dùng câu dục móc,
Sau khiến vào Phật trí.’’
Nghĩ muốn giáo hóa chúng sinh này, cứu độ chúng sinh này, thì phải quán sát họ hoan hỷ những gì ? Trước hết cho họ những gì mà họ hoan hỷ, sau đó mới vì họ thuyết pháp, khéo dụ từ từ, đây là phương pháp dẫn dắt. Giống như câu chuyện Phật tay không mà độ được em bé, tức là dùng pháp môn phương tiện để giáo hóa chúng sinh.
Nghĩ muốn cứu độ người này, trước hết phải hiểu rõ căn tánh của họ là thắng hay liệt ? Xem họ thích gì ? Chán những gì ? Sẽ vì họ thuyết pháp mới thành tựu. Cho nên người tu đạo, phải chân chánh minh bạch tâm lý học, biết căn tánh của chúng sinh, nói pháp phương tiện mới thành công.
‘’Khiến khắp chúng hội tâm thanh tịnh.’’ Vì Phật biết căn tánh của chúng sinh, cho nên khiến khắp tất cả đại chúng trong pháp hội mười phương thế giới, tâm đều thanh tịnh chẳng tạp nhiễm.
‘’Nên Phật thành tựu căn trí lực.’’ Vì Phật tu đại phương tiện, cho nên thành tựu căn trí huệ lực. Ðây là trí huệ lực thứ ba của Phật, tức cũng là căn thắng liệt trí lực.
Như các chúng sinh hiểu khác nhau
Ưa thích các hạnh cũng chẳng giống
Tùy theo sở thích mà nói pháp
Phật dùng trí lực được như thế.
‘’Như các chúng sinh hiểu khác nhau.’’ Minh bạch căn tánh của tất cả chúng sinh rồi, sau đó thấu hiểu tất cả chúng sinh. Mỗi người mỗi loài đều có căn tính khác nhau. Người thì có đủ tánh người, chó thì có đủ tánh chó, mèo thì có đủ tánh mèo, chuột thì có đủ tánh chuột, thảy đều có năng lực, trí huệ. Giống như ếch thì biết nhảy, thỏ thì biết chạy, cá thì biết bơi trong nước, chim thì biết bay trong không gian, đó là năng lực và trí huệ của chúng.
‘’Ưa thích các hạnh cũng chẳng giống.’’ Mỗi loài chúng sinh, đều có sự ưa thích riêng của họ, giống như chó thấy người thì sủa, mèo thấy chuột thì bắt ăn, gà thì gáy, chó giữ cửa, thảy đều hữu dụng, không thể cưỡng bách chúng làm giống nhau. Cho nên, phải minh bạch căn tánh của chúng sinh, thì mới giáo hóa được chúng sinh.
‘’Tùy theo sở thích mà nói pháp.’’ Phật hay tùy thuận chúng sinh tiếp thọ được pháp gì, thì vì chúng sinh nói pháp đó, đối với chúng sinh căn thắng thì nói pháp sâu, đối với chúng sinh căn liệt thì nói pháp cạn.
‘’Phật dùng trí lực được như thế.’’ Phật hay quán căn cơ mà nói pháp, xem cơ duyên của chúng sinh, đáng nói pháp gì thì nói pháp đó. Ðây là trí huệ lực thứ tư của Phật, tức cũng là chủng chủng giải trí lực.
Khắp cùng mười phương các cõi nước
Hết thảy tất cả cõi chúng sinh
Trí Phật bình đẳng như hư không
Thảy đều hiển hiện trong lỗ lông.
‘’Khắp cùng mười phương các cõi nước.’’ Khắp hết thảy cõi nước của chư Phật trong mười phương.
‘’Hết thảy tất cả cõi chúng sinh.’’ Hết thảy cõi nước, cõi chúng sinh trong mười phương.
‘’Trí Phật bình đẳng như hư không.’’ Trí huệ của Phật bình đẳng như hư không.
‘’Thảy đều hiển hiện trong lỗ lông.’’ Tất cả cõi nước của chư Phật, tất cả cõi chúng sinh, tuy là rộng lớn vô biên, song đều hiển hiện ở trong lỗ chân lông của Phật. Ðây là đạo lý gì ? Ðó là đạo lý trong lớn hiện nhỏ, trong nhỏ hiện lớn, lớn nhỏ vô ngại. Ba ngàn đại thiên thế giới là lớn, lỗ chân lông của Phật là nhỏ, trí lực của Phật tận cùng pháp giới. Phật biết chủng chủng giới (đủ thứ cõi), cho nên dùng đủ thứ pháp để phân họa đủ thứ cõi. Ðây là trí huệ lực thứ năm của Phật, tức cũng là chủng chủng giới trí lực.
Nhất thiết xứ hành Phật đều biết
Một niệm ba đời chẳng sót thừa
Mười phương cõi kiếp chúng sinh thời
Thảy đều khai thị khiến hiện rõ.
‘’Nhất thiết xứ hành Phật đều biết.’’ Tu đạo phải thanh tịnh mới đắc được giác ngộ. Nếu tu pháp nhiễm ô thì không thể lìa khổ được vui, cũng không thể đắc được giác ngộ, đạo lý này Phật đều biết. Cho nên, nhất thiết chí xứ đạo, còn gọi là biến thú hành. Biến tức là nhất thiết (tất cả) thú tức là chí xứ (nơi đến), hành tức là đạo. Nghĩ muốn lìa khổ được vui, thì phải tu pháp thanh tịnh, nếu không muốn lìa khổ được vui, thì chạy theo pháp ô nhiễm, trí huệ của Phật đều biết hết nhất thiết chí xứ đạo.
‘’Một niệm ba đời không sót thừa.’’ Phật ở trong một niệm, có thể làm cho hiển hiện ra sự việc ba đời, chẳng có gì mà không hiện, cho nên nói chẳng sót thừa.
‘’Mười phương cõi kiếp chúng sinh thời.’’ Chẳng những thế, mà cho đến tất cả kiếp cõi nước trong mười phương, hết thảy chúng sinh, hết thảy thời gian.
‘’Thảy đều khai thị khiến hiện rõ.’’ Phật hoàn toàn khai thị cho chúng sinh, khiến cho chúng sinh thấy được cảnh giới này, và còn thấu rõ cảnh giới này. Ðây là trí huệ lực thứ sáu của Phật, tức cũng là nhất thiết chí xứ đạo trí lực.
Sức thiền định giải thoát vô biên
Tam muội phương tiện cũng như thế
Phật vì thị hiện khiến hoan hỷ
Khiến khắp trừ sạch tối phiền não.
‘’Sức thiền định giải thoát vô biên.’’ Phật có sức thiền định và giải thoát, thứ sức lực này vô lượng vô biên. Thiền định là gì ? Tức là vọng tưởng không sinh, ngồi thấy bản tánh. Giải thoát là gì ? Giải sự trói buộc nghiệp hoặc, thoát khỏi quả khổ ba cõi.
‘’Tam muội phương tiện cũng như thế.’’ Phật có vô lượng vô biên định lực và phương tiện lực. Tam muội là gì ? Tức là chánh định, không lệch không tà là chánh, không suy không nghĩ là định. Phương tiện là gì ? Tức là phương pháp khéo léo, sử dụng tiện lợi.
‘’Phật vì thị hiện khiến hoan hỷ.’’ Phật vì tất cả chúng sinh, thị hiện đủ thứ những lực vừa nói ở trên, khiến cho họ đắc được hoan hỷ.
‘’Khiến khắp trừ sạch tối phiền não.’’ Khiến cho khắp tất cả chúng sinh, xử dụng nước tam muội trí huệ, tẩy trừ sạch sẽ tối phiền não tham sân si, để trở về nguồn cội. Ðây là trí huệ lực thứ bảy của Phật, tức cũng là thiền định giải thoát tam muội trí lực.
Trí Phật vô ngại cả ba đời
Sát na đều hiện trong lỗ lông
Phật pháp cõi nước và chúng sinh
Sở hiện đều tùy theo niệm lực.
‘’Trí Phật vô ngại cả ba đời.’’ Trí huệ của Phật chẳng có gì chướng ngại, chẳng có gì mà không biết, chẳng có gì mà chẳng thấu rõ, thấu suốt cả ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai.
‘’Sát na đều hiện trong lỗ lông.’’ Trong khoảng thời gian rất ngắn, thì có thể hiển hiện ra tât cả nhân duyên ba đời ở trong lỗ chân lông.
‘’Phật pháp cõi nước và chúng sinh.’’ Ở trong lỗ chân lông hiện ra cảnh giới gì ? Hiện ra chuyển pháp luân nói diệu pháp, cõi nước của chư Phật và tất cả chúng sinh.
‘’Sở hiện đều tùy theo niệm lực.’’ Những cảnh giới hiện ra, đều do túc trụ tùy niệm trí lực mà hiện ra. Ðây là trí huệ lực thứ tám của Phật, tức cũng là túc trụ tùy niệm trí lực.
Mắt Phật rộng lớn như hư không
Thấy khắp pháp giới trọn không thừa
Trong bậc vô ngại dùng chẳng bằng
Mắt đó vô lượng Phật diễn được.
‘’Mắt Phật rộng lớn như hư không.’’ Mắt của Phật rộng lớn chẳng có bờ bến như hư không, đây là biểu thị sự rộng lớn của mắt trí huệ.
‘’Thấy khắp pháp giới trọn không thừa.’’ Nhìn thấy khắp tâm của chúng sinh, trong mười phương pháp giới đang nghĩ gì, Phật đều nhìn thấy, chẳng có gì mà nhìn chẳng thấy.
‘’Trong bậc vô ngại dùng chẳng bằng.’’ Thuở xưa Phật ở tại nhân địa tu pháp môn vô ngại, cho nên được sự dụng chẳng gì sánh bằng, chẳng có ai đồng với Ngài được.
‘’Mắt đó vô lượng Phật diễn được.’’ Mắt của Phật có diệu dụng vô lượng vô biên, cũng chỉ có Phật mới diễn nói, chứng đắc cảnh giới này được. Ðây là trí huệ lực thứ chín của Phật, tức cũng là thiên nhãn trí lực.
Tất cả chúng sinh đủ nghiệp chướng
Hết thảy tùy miên và tập khí
Như Lai xuất hiện khắp thế gian
Đều dùng phương tiện khiến diệt trừ.
‘’Tất cả chúng sinh đủ nghiệp chướng.’’ Tất cả nghiệp chướng tức là ‘’các kết.’’ Có kết thì không được giải thoát, tức cũng là bị ràng buộc. Bị gì ràng buộc ? Bị nghiệp chướng mà mình tạo ra ràng buộc. Tại sao tạo nghiệp chướng ? Vì tham sân si ba độc tác quái, chuyên môn tạo nghiệp nhiễm ô, cho nên đen tối chẳng thấy quang minh, chẳng có trí huệ. Làm thế nào để tiêu trừ nghiệp chướng ? Thì phải tu hành. Tu cái gì ? Tu giới định huệ, hành Bồ Tát đạo, công đức viên mãn thì nghiệp chướng tự nhiên tiêu trừ.
‘’Hết thảy tùy miên và tập khí.’’ Chủng tử nghiệp chướng hiện hành tồn tại trong thức thứ tám, và hết thảy tập khí tùy miên tạo ra đời đời kiếp kiếp.
Tập khí là gì ? Tức cũng là dư tập, giống như người hút thuốc, tuy giữ giới hút thuốc, song có khi vẫn muốn hút thuốc, đó là dư tập. Người uống rượu cũng như thế, thậm chí ở trong mộng vẫn nằm mộng hút thuốc hoặc uống rượu. Phàm là những thứ tập quán mao bệnh không tốt, đều gọi là tập khí. Tham sân si cũng là tập khí. Giống như đệ tử của Phật, Ngài Tân Ðầu Lô Phả La Ðọa có tập khí tham, tham cái bát bằng gỗ chiên đàn, bèn dùng sức thần thông để lấy. Tôn giả Xá Lợi Phất có tập khí sân hận, tuy trí huệ đệ nhất, song vẫn nổi nóng giận. Tôn giả Châu Lợi Bàn Ðà Gia có tập khí si mê, tuy khai ngộ, song vẫn có ngu si.
‘’Như Lai xuất hiện khắp thế gian.’’ Phật xuất hiện đầy khắp tất cả thế gian, tận hư không biến pháp giới.
‘’Ðều dùng phương tiện khiến trừ diệt.’’ Phật hoàn toàn dùng pháp môn phương tiện, khiến cho tập khí của tất cả chúng sinh đều trừ diệt, khiến cho chúng sinh đắc được vô lậu, khiến cho chúng sinh thành Phật, có trí lực này. Vì Phật đã hoàn toàn vô lậu mà thành Phật, cho nên có thể khiến cho chúng sinh thành Phật. Ðây là trí huệ lực thứ mười của Phật, tức cũng là lậu tận trí lực.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Pháp Giới Phổ Âm, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả đại chúng hải hội trong đạo tràng, rồi nói bài kệ rằng.
Lúc đó, vị đại Bồ Tát Pháp Giới Phổ Âm, nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp tất cả đại chúng hải hội trong đạo tràng, rồi dùng mười một bài kệ để giải thích nói đạo lý ở trước chưa nói hết.
Bài kệ thứ nhất trong mười một bài kệ là tổng, đại khái tổng lại nói ý nghĩa mười Ba la mật, còn mười bài kệ sau là biệt, phân biệt để nói. Phải nhận chân tu mười Ba la mật này, thì mới đến được bờ kia. Mười Ba la mật tức cũng là mười độ :
1). Bố thí độ.
2). Trì giới độ.
3). Nhẫn nhục độ.
4). Tinh tấn độ.
5). Thiền định độ.
6). Bát nhã độ.
7). Phương tiện độ.
8). Nguyện độ.
9). Lực độ.
10). Trí độ.
Ðộ tức là độ bạn đến cứu kính Niết Bàn, tức cũng là chiếc thuyền, chiếc thuyền qua khỏi biển khổ sinh tử. Ðây là mười chiếc thuyền, đều có thể đến bờ kia.
Thần lực của Phật khắp mười phương
Thị hiện rộng lớn chẳng phân biệt
Hạnh đại bồ đề Ba la mật
Thuở xưa đầy đủ đều khiến hiện.
‘’Thần lực của Phật khắp mười phương.’’ Ðại oai đức, đại thần thông, đại lực của Phật, đầy khắp mười phương, tận hư không khắp pháp giới.
‘’Thị hiện rộng lớn chẳng phân biệt.’’ Oai thần lực của Phật rộng lớn bình đẳng, thị hiện đến khắp các nơi, chẳng có phân biệt cao thấp.
‘’Hạnh đại bồ đề Ba la mật.’’ Phật tu hạnh môn đại bồ đề, cũng phát đại tâm giác ngộ, tu đại Ba la mật. Khó hành mà hành được, khó nhẫn mà nhẫn được, tất cả pháp môn đến bờ kia, đều dũng mãnh tinh tấn tu hành.
‘’Thuở xưa đầy đủ đều khiến thấy.’’ Thuở xưa Phật tu mười độ vạn hạnh đều viên mãn đầy đủ, khiến cho đại chúng trong pháp hội đều thấy được cảnh giới này.
Xưa khởi đại bi với chúng sinh
Tu hành bố thí Ba la mật
Nhờ đó thân Phật thù diệu nhất
Đều khiến người thấy sinh hoan hỷ.
Bốn câu kệ này, là nói về bố thí Ba la mật. Ba la mật dịch là “đến bờ kia”. Phàm là việc gì làm xong, hoặc là thành công, đều gọi là đến bờ kia, đây là từ ngữ thời xưa của Ấn Ðộ.
Tại sao phải bố thí ? Vì chúng sinh có sáu thứ che đậy, che đậy đường bồ đề của chính mình.
1). Keo kiệt che đậy : Tức là xả bỏ chẳng đặng, dù một đồng cũng chẳng bố thí cho người, do đó có câu : ‘’Xả tiền như lóc thịt.’’ Bất cứ việc gì cũng tính toán kỹ lưỡng, việc đối với mình có lợi thì làm; còn nếu việc mình chẳng có lợi, thì chẳng bao giờ làm, tính toán rất kỹ càng, đây là tư tưởng keo kiệt.
Thuở xưa, có một người rất tham lam keo kiệt, bạn của ông ta mời dự sinh nhật, thì phải mang quà đến biếu, ông ta nghĩ, bất cứ mang thứ gì đến tặng cũng phải chi tiền ra mua, thật là uổng tiền lại chẳng kỷ niệm giá trị gì. Chi bằng vẽ một cái bánh thật lớn lên giấy, vừa chẳng tốn tiền vừa làm kỷ niệm. Do đó, ông ta bèn vẽ một cái bánh mừng sinh nhật, mang đến nhà bạn chúc mừng. Thấy bạn bè thì chúc mừng nói : ‘’Chúc mừng ! Chúc mừng ! Chúc bạn sinh nhật vui vẻ, vạn thọ vô cương ! Tôi chẳng có lễ vật đặc biệt để tặng, chỉ mang đến cái bánh này làm lễ chúc mừng.’’
Người bạn của ông ta còn keo kiệt hơn, thấy bánh mừng sinh nhật vẽ trên giấy, bèn nói với ông ta rằng : ‘’Khi nào đến ngày sinh nhật của anh, thì tôi mang đến cái bánh lớn như vầy (ông ta dùng tay vẽ một cái vòng tròn lớn ở trong hư không), đến mừng sinh nhật của anh và làm quà kỷ niệm.’’ Người này cho đến một trang giấy cũng xả bỏ chẳng đặng, một đồng cũng chẳng tốn, đây là chuyện tiếu về keo kiệt.
2). Phạm giới che đậy : Người tin Phật thọ giới rồi, mà chẳng giữ gìn giới báu kim cang, luôn luôn sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, phạm năm giới căn bản này.
3). Sân hận che đậy : Bất cứ gặp việc gì vô duyên vô cớ nổi nóng, lửa vô minh cao ba trượng mà mình vẫn không biết.
4). Giải đãi che đậy : Cảm thấy làm gì cũng chẳng có ý nghĩa, chi bằng ngủ là sung sướng nhất, đó là biểu hiện sự giải đãi.
5). Tán loạn che đậy : Suốt ngày từ sáng đến tối khởi vọng tưởng, tinh thần chẳng tập trung, tâm chẳng tu hành. Một khi giải đãi thì tán loạn, tán loạn thì chẳng có trí huệ, chẳng có trí huệ thì chẳng được giải thoát.
6). Ác huệ che đậy : Trí huệ cũng có phân ra thiện và ác. Dùng chỗ chánh đáng là thiện trí huệ, dùng chỗ chẳng chánh đáng là ác trí huệ, giống như thiếu niên bất lương, chúng là ác trí huệ, làm việc gì cũng thông minh, song ngược lại bị thông minh lừa.
Có thứ che đậy này, thì không thể hành bố thí. Họ nghĩ rằng : ‘’Tại sao tôi phải bố thí cho bạn ? Sao bạn không bố thí cho tôi‘’ ? Giống như người xuất gia chẳng nghĩ bố thí cho người khác, chuyên nghĩ người khác bố thí cho mình. Suốt ngày đến tối chỉ chú ý về cư sĩ, rằng vị cư sĩ này có bao nhiêu tiền ? Vị kia có bao nhiêu tiền ? Tính toán rất là rõ ràng, cứ khởi những vọng tưởng này.
‘’Xưa khởi đại bi với chúng sinh.’’ Thuở xưa khi Phật tu hành tại nhân địa, thì khởi tâm đại bi đối với chúng sinh, bi hay cứu khổ, chúng sinh có khổ thì bố thí niềm vui, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui.
‘’Tu hành bố thí Ba la mật.’’ Phật tu pháp môn bố thí, phát tâm cứu khổ chúng sinh, khiến cho chúng sinh đắc được chân chính khoái lạc.
Tu bố thí phải liên tục không gián đoạn, bất cứ bố thí nhiều hoặc bố thí ít, đều phải bố thí, phải có tư tưởng “tam luân thể không” (bố thí ba không) :
1). Không thấy người bố thí.
2). Không thấy vật bố thí.
3). Không thấy gười nhận.
Ba thứ này phải không, tức là chẳng chấp trước. Nếu chấp trước thì chẳng có công đức, đó là bố thí cầu danh cầu lợi, có sở xí đồ.
Bố thí có ba thứ :
1). Tài thí : Tài thí gồm có hai thứ : Nội tài và ngoại tài. Nội tài là đầu mắt tủy não; ngoại tài là đất nước vợ con. Ngoại tài dễ bố thí, có thể đem đất nước thành thị bố thí cho người, và có thể đem vợ con đều bố thí cho người. Song, nội tài chẳng dễ gì bố thí, song người hành Bồ Tát đạo, vì có tâm từ bi hỷ xả bốn tâm vô lượng, thì xả được bố thí.
2). Pháp thí : Tức là giảng kinh thuyết pháp, đây là dùng pháp cúng dường, do đó có câu :
‘’Trong các sự bố thí,
Cúng dường pháp là hơn hết’’.
Do đó, pháp thù thắng hơn tài thí. Tài thí là bố thí có hình tướng, pháp thí là bố thí vô hình. Nếu có người chẳng có tiền của, hoặc pháp để bố thí, thì có thể bố thí sức lực, đem thân hiến cho Phật, vì Phật giáo mà làm việc, chỉ cần kiền thành chẳng có sở cầu, hoặc quét đất, hoặc lau chùi nhà cầu cho sạch sẽ, cũng có công đức. Trang nghiêm đạo tràng, làm đẹp hoàn cảnh cũng là bố thí, bố thí sức lực.
3). Vô úy thí : Khiến cho người chẳng sinh tâm sợ hãi, luôn luôn cảm giác rất bình an. Giống như có người gặp tai nạn, phải dùng lời lẽ an ủi họ, phải dùng hành động để trợ giúp, khiến cho kẻ gặp nạn được an toàn, đây là tinh thần từ bi đại vô úy của Phật giáo.
‘’Nhờ đó thân Phật thù diệu nhất.’’ Vì Phật tu hành bố thí Ba la mật, cho nên thân Phật tướng tốt trang nghiêm, có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, có tướng thân vi diệu thù thắng như thế.
Khi Phật tu hành bố thí, thì bất cứ vật gì, cũng bố thí cho chúng sinh, chúng sinh cần gì, thì bố thí cho chúng sinh thứ đó, thậm chí thân tâm tính mạng của mình, cũng đều có thể bố thí. Tinh thần từ bi hỷ xả như thế, thật là vĩ đại ! Chẳng như chúng ta người ngu si, cho rằng bố thí là thiệt thòi. Tại sao phải đem tiền của mình ra bố thí cho kẻ khác ? Không nên có tư tưởng như thế, phải biết bố thí có vô lượng công đức, do đó có câu :
‘’Thiệt thòi là chiếm tiện nghi.’’
Sáng thì thiệt thòi, tối thì tiện nghi. Cảnh giới này chỉ có người bố thí mới thể hội được chân lý của nó.
‘’Ðều khiến người thấy sinh hoan hỷ.’’ Hay khiến cho hết thảy chúng sinh thấy được Phật, đều sinh tâm đại hoan hỷ ! Vì khi Phật tu hành tại nhân địa rộng kết duyên lành, cho nên ai ai thấy Phật cũng đều hoan hỷ, cung kính cúng dường, luyến ái chẳng xả bỏ.
Xưa trong vô biên biển đại kiếp
Tu trì tịnh giới Ba la mật
Nên chứng tịnh thân khắp mười phương
Diệt các khổ nặng của thế gian.
Bốn câu kệ này, nói về trì giới Ba la mật. Giới là gì ? Tức là không làm các điều ác, phòng ngừa việc quấy, tức cũng là:
‘’Không làm các điều ác,
Làm các điều lành.’’
Ðừng làm các điều ác, tức là thân khẩu ý ba nghiệp thanh tịnh. Thân chẳng phạm: Giết hại, trộm cắp, tà dâm, ba điều ác; miệng thì không phạm: Nói dối, nói thêu dệt, chửi mắng, hai lưỡi; ý thì không tham, sân, si, ba điều ác. Không phạm mười điều ác này, thì ba nghiệp mới thanh tịnh. Làm các điều lành, tức là làm việc có lợi ích cho chúng sinh, tức cũng là siêng tu giới định huệ.
Vua Ðường Tuyên Tôn (từng xuất gia làm Sa di) hỏi thiền sư Tiến Phước Biện rằng: ‘’Thế nào là giới định huệ‘’?
– Thiền sư đáp : ‘’Ngừa điều quấy không làm các điều ác là giới. Sáu căn tiếp súc với sáu cảnh mà không tùy theo duyên là định. Tâm cảnh đều không, chiếu soi là huệ.’’ Ðây là nói rõ về giới định huệ.
Giới luật là phòng ngừa phạm tội, giới luật của Phật giáo và pháp luật của thế gian chẳng giống nhau. Pháp luật của thế gian, là trừng phạt người đã phạm tội, mà chẳng phòng ngừa phạm lỗi công hiệu. Có giới tức không làm các điều ác, có sự giữ gìn tức làm các điều lành, cho nên Phật pháp trợ giúp cho pháp luật, khiến cho người hiểu thấu được đạo lý nhân quả báo ứng, mà chẳng tạo nghiệp ác trái với lương tâm. Tóm lại, siêng tu giới định huệ, tức là làm các điều lành; diệt trừ tham sân si, tức là đừng làm các điều ác.
Vào đời Ðường ông Thái thú Bạch Cư Dị hỏi vị Thiền sư Ô Sào rằng : ‘’Phật pháp là gì‘’?
– Thiền sư nói :
‘’Ðừng làm các điều ác,
Hãy làm các điều lành.’’
– Ông Bạch Cư Dị nói : ‘’Ðạo lý này, con nít ba tuổi đều biết.’’
– Thiền sư nói : ‘’Tuy con nít ba tuổi đều biết, song ông già tám mươi làm chưa xong.’’
Thật là như vậy, cho nên Phật giáo chú trọng về hiểu và làm phải tương ưng, biết mà không làm cũng như không biết.
‘’Xưa trong vô biên biển đại kiếp.’’ Thuở xưa, Phật trải qua đại kiếp số nhiều vô lượng vô biên như biển cả, cho nên gọi là biển đại kiếp.
‘’Tu trì tịnh giới Ba la mật.’’ Tu hành giới báu kim cang quang minh rất thanh tịnh. Giới có năm giới, tức là chẳng giết hại, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm, chẳng nói dối, chẳng uống rượu. Lại có tám giới, tức cũng là Bát quan trai giới. Hai thứ giới này là giới người tại gia thọ trì. Lại có mười giới, đây là giới của Sa Di và Sa Di Ni thọ trì. Tỳ Kheo có hai trăm năm mươi giới, Tỳ Kheo Ni có ba trăm bốn mươi tám giới, đây là giới của người xuất gia thọ trì. Còn có giới Bồ Tát, mười giới trọng bốn mươi tám giới khinh, đây là giới của người tại gia và xuất gia đều có thể thọ trì. Ðủ thứ giới tướng, đều phải thân tâm thọ trì tịnh giới Ba la mật này, thì mới đạt đến Niết Bàn thanh tịnh bờ bên kia.
‘’Nên chứng tịnh thân khắp mười phương.’’ Vì Phật tu hành tất cả giới luật, tu hành đủ thứ pháp lành, giáo hóa tất cả chúng sinh, cho nên chứng được pháp thân thanh tịnh, mới đầy khắp mười phương pháp giới.
‘’Diệt các khổ nặng của thế gian.’’ Phật bình đẳng tiệu diệt hết thảy khổ nặng của thế gian, khiến tất cả chúng sinh thế gian đều được an lạc.
Thuở xưa tu hành nhẫn thanh tịnh
Tin hiểu chân thật chẳng phân biệt
Cho nên sắc tướng đều viên mãn
Khắp phóng quang minh chiếu mười phương.
Bốn câu kệ này, nói về nhẫn nhục Ba la mật, tức là bị người nhiễu loạn khinh khi, phải nhẫn thọ chẳng phát tác. Nhẫn những việc mà người khác nhẫn không được, không nhẫn được cũng phải nhẫn, đây là hạnh môn quan trọng nhất của người tu hành. Muốn minh bạch Phật pháp, thì không thể quên pháp nhẫn nhục. Có người mắng bạn, bạn phải nhẫn, có người đánh bạn, bạn cũng phải nhẫn, thậm chí có người giết bạn, bạn càng phải nhẫn thọ, không sinh tâm sợ hãi, đây là sức nhẫn lớn nhất, người chẳng có công phu sâu dày thì làm chẳng được. Chẳng những thân phải nhẫn, mà tâm cũng phải nhẫn. Có người mắng bạn, chẳng những miệng không nói lại, mà tâm cũng chẳng sân hận. Có người đánh bạn, chẳng những không đánh lại, mà trong tâm cũng chẳng sinh tâm báo thù. Bạn nhẫn được như thế, thì có vô lượng công đức. Tôi thường nói :
‘’Nhẫn là báu vô giá
Mọi người xử không tốt
Nếu nhẫn chịu đựng được
Mọi sự đều tốt đẹp’’.
Ðây là nhẫn nhục Ba la mật, tức là báu vô giá, nếu mọi người đối xử không tốt, mà nhẫn chịu đựng được, thì bất cứ làm gì, chắc chắn đều thành công viên mãn.
Bồ Tát Di Lặc có nói :
‘’Lão Tăng mặc áo vá
Cơm hẩm no đầy bụng
Áo vá che rét lạnh
Vạn sự hãy tùy duyên.’’
Lão Tăng tôi chỉ mặc áo rách vá lại, tôi chỉ ăn cơm đạm bạc, chẳng có mùi vị gì, ăn no thì thôi. Áo vá của tôi mặc để che rét lạnh. Bất cứ việc gì đều phải tùy duyên, không chấp trước.
Lại nói :
‘’Có người mắng lão quê,
Lão quê chỉ nói tốt
Có người đánh lão quê,
Lão quê nằm lăn ra.’’
Nếu như có người đến mắng tôi, thì tôi nói tốt; nếu có người muốn đánh tôi, thì tôi nằm lăn ra, giống như ngủ chẳng biết gì.
Lại nói :
‘’Khạc nhổ vào mặt lão
Để nó tự khô lấy
Tôi cũng chẳng nhọc sức
Họ cũng chẳng phiền não.’’
Nếu có người nhổ nước bọt vào mặt tôi, thì tôi cũng chẳng lấy tay chùi, để nó khô tự nhiên, như thế thì tôi cũng chẳng nhọc sức, họ cũng chẳng có phiền não.
Lại nói :
‘’Ðó là Ba la mật,
Châu báu ở trong diệu
Nếu làm được như thế
Lo gì đạo chẳng thành.’’
Nhục Ba la mật là bảo bối ở trong diệu, nếu làm được những gì Ngài nói, lo gì đạo nghiệp chẳng thành tựu !
Các vị ! Ai tu được nhẫn nhục Ba la mật, thì người đó độ lượng rất lớn, các bạn thấy đó. Tại sao bụng của Bồ Tát Di Lặc lớn như thế ? Vì Ngài nhẫn được việc thiên hạ chẳng nhẫn được. Khoan hồng đại lượng, thì nhẫn thọ được tất cả mọi việc. Bụng của Bồ Tát Di Lặc dung nạp được tất cả, chẳng giống như bụng của chúng ta, chẳng dung nạp được chuyện nhỏ như hạt mè. Người ta nói một câu thì chịu không được, hoặc thấy được cảnh giới gì đó, thì dung chẳng được. Người đó đối với tôi ra sao ? Người đó đối với tôi như thế nào ? Suốt ngày đến tối, chất chứa những việc đó đầy dẫy trong bụng.
Còn có một bài kệ khen ngợi Bồ Tát Di Lặc :
‘’Mở miệng cười, ít nói chuyện.
Bao lớn chẳng to bằng bụng,
Trước mắt phước báo thường bay đến,
Vì Ngài vạn vật dung chứa được.’’
Bồ Tát Di Lặc luôn luôn đều cười, rất ít nói chuyện, Ngài mang trên vai túi vải lớn (sau này gọi Ngài là Bố Ðại Hòa Thượng), chưa lớn bằng bụng của Ngài. Ngài luôn luôn có phước báo lớn, thường bay đến trước mặt Ngài. Vì sao Ngài có phước báo lớn như thế ? Vì Ngài có công phu nhẫn nhục, bất cứ việc gì đều chẳng tranh luận với ai, nên Ngài chứng được vô tranh tam muội. Tất cả mọi sự đều bao dung ở trong bụng. Có câu đối liễn rằng :
Mở miệng thường cười,
Cười kẻ thiên hạ đáng cười.
Bụng lớn dung chứa,
Chứa việc thiên hạ khó nhẫn.’’
Do đó, có câu : ‘’Tâm rộng thể mập‘’, phàm là người lạc quan, hầu như đều mập mạp. Bồ Tát Di Lặc đại biểu tượng trưng cho “lạc thiên phái”, Ngài là vị giáo chủ ở đời vị lai, tương lai sẽ đến nhân gian hoằng dương chánh pháp, bây giờ đang ở trên nội viện cung trời Ðâu Suất, giảng kinh thuyết pháp.
‘’Thuở xưa tu hành nhẫn thanh tịnh.’’ Thuở xưa khi Phật tại nhân địa, thì tu hành pháp môn nhẫn nhục thanh tịnh.
‘’Tin hiểu chân thật chẳng phân biệt.’’ Phật tin hiểu chân thật chẳng có phân biệt, đối đãi với chúng sinh đều bình đẳng, xem tất cả chúng sinh đều là cha mẹ trong quá khứ, là chư Phật trong tương lai. Tức nhiên là cha mẹ trong quá khứ, thì không thể không hiếu thảo với cha mẹ, tức nhiên là chư Phật ở đời vị lai, thì không thể nào không cung kính chư Phật, cho nên phải tu hạnh môn nhẫn nhục.
‘’Cho nên sắc tướng đều viên mãn.’’ Bởi nhân duyên đó, cho nên khi Phật thành Phật, thân thể đặc biệt rất viên mãn, tướng mạo đặc biệt trang nghiêm.
‘’Khắp phóng quang minh chiếu mười phương.’’ Quang minh nhẫn nhục của Phật chiếu sáng khắp mười phương, khiến cho tất cả chúng sinh tu nhẫn nhục, sớm thành Phật đạo.
Thuở xưa siêng tu nhiều biển kiếp
Chuyển được chướng nặng của chúng sinh
Nên phân thân được khắp mười phương
Đều hiện dưới bồ đề thụ vương.
Bốn câu kệ này là nói về tinh tấn Ba la mật, tinh tấn có ba ý nghĩa :
1). Bị giáp.
2). Nhiếp thiện.
3). Lợi lạc.
1). Bị giáp : Giống như quân nhân tác chiến thời xưa, đều mặc áo giáp phòng vệ vũ khí của kẻ địch. Bị giáp nói ở đây là áo giáp tinh tấn, chỉ hướng về trước chứ không thối lùi, cũng giống như tác chiến, nhất định phải thắng lợi, không thể bại được.
Tin niệm thắng lợi ở đây dùng gì để chi trì ? Tức là phát đại thệ nguyện, dùng đại thệ nguyện để chi trì, giống như người xuất gia, nhất định phải phát đại thệ nguyện, chỉ có tiến về trước, không thể lùi về sau. Không thể hằng ngày khởi vọng tưởng hoàn tục, bằng không thì chẳng có áo giáp tinh tấn. Bất cứ gặp cảnh giới gì, không nên sinh tâm thối chuyển, phải vì Phật giáo nỗ lực, vì Phật giáo chí nguyện hy sinh. Tóm lại, tất cả đều vì Phật giáo, đây là áo giáp tinh tấn phát đại thệ nguyện.
2). Nhiếp thiện : Tức là dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, để hướng về đạo bồ đề phía trước. Chẳng những mình đi trên con đường đạo bồ đề, mà cũng dạy chúng sinh đi trên con đường đạo bồ đề, mọi người cùng nhau tiến về trước, mọi người cùng nhau đến tu hành. Ðây là nhiếp trì căn lành của chúng sinh, đều thành Phật đạo.
3). Lợi lạc : Tức là lợi ích khoái lạc tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được vô thượng chánh đẳng chánh giác.
‘’Thuở xưa siêng tu nhiều biển kiếp.’’ Phật thuở xưa siêng tu hạnh môn tinh tấn, càng ngày càng tinh tấn, càng ngày càng dụng công, trải qua nhiều biển kiếp mới tu thành công, chứng được quả vị Phật.
‘’Chuyển được chướng nặng của chúng sinh.’’ Phật có thể chuyển nghiệp chướng sâu nặng, chướng ngại đạo bồ đề của chúng sinh, tức cũng là chuyển phiền não thành bồ đề, chuyển sinh tử thành Niết Bàn.
‘’Nên phân thân được khắp mười phương.’’ Cho nên, Phật phân thân đầy khắp mười phương pháp giới.
‘’Ðều hiện dưới bồ đề thụ vương.’’ Hết thảy phân thân hoàn toàn, hiện nơi Ðạo tràng bồ đề thụ vương.
Phật tu lâu xa vô lượng kiếp
Thiền định biển lớn khắp thanh tịnh
Nên khiến người thấy tâm hoan hỷ
Phiền não chướng cấu đều trừ diệt.
Bốn câu kệ này, là nói về thiền định Ba la mật, hai chữ thiền định là danh từ Trung, Ấn hợp lại. Thiền là tiếng Ấn Ðộ, đáng lẽ đọc là thiền na, dịch là “tĩnh lự”, ngừng bặt tư lự, không khởi vọng tưởng. Ðịnh là tiếng Trung Quốc, nghĩa là “định lực”, không lệch không tà là chánh, không suy không nghĩ là định. Khi nào chẳng có vọng tưởng, thì lúc đó chứng được cảnh giới khai ngộ.
Thiền tông là Phật giáo chân chánh của Trung Quốc, vào thời Ðông Tấn, Pháp sư Ðạo Sinh đề ra lý luận đốn ngộ, trồng xuống hạt giống bồ đề, đến đời Ðường, thời Lục tổ Huệ Năng, mới khai hoa kết trái. Ðây có thể nói là cách mạng của Phật giáo, chẳng nặng về hình thức, chuyên tu tâm. Từ đó về sau, lập ra bốn tiêu chuẩn là :
1). Giáo ngoại biệt truyền (truyền ngoài giáo lý).
2). Bất lập văn tự (chẳng cứ chữ nghĩa).
3). Trực chỉ nhân tâm (chỉ thẳng tâm người)
4). Kiến tánh thành Phật (thấy tánh thành Phật).
Thiền có nhiều thứ, phần lớn chỉ nói về Như Lai thiền và Tổ Sư thiền. Như Lai thiền là thiền nguyên thủy ở Ấn Ðộ, tức cũng là thiền tiểu thừa, ngồi thì chú ý điều tâm và điều hơi thở, tay chân tư thế đều có quy định. Tổ Sư thiền là trải qua sự cải cách của các vị Tổ Sư, hình thức tự do hơn, tức là tại núi rừng, động, cốc, đều là nơi tham thiền, không nhất định là tại thiền đường, hoặc tịnh thất; chỉ cần nhất tâm bất loạn, một bụi trần cũng không nhiễm, thì sẽ khai ngộ. Không chú trọng về nghi thức, mà chuyên chú về tâm, cho nên vào thời Ðường Võ Tông phá hoại Phật pháp, thì các tông phái khác của Phật giáo đều ngã quật, chẳng chấn chỉnh được, chỉ có thiền tông vẫn đứng vững, vì chẳng cần có hình thức chùa chiền, cũng chẳng cần có hình thức kinh điển, cho nên chẳng ảnh hưởng thọ pháp nạn. Do đó, Phật pháp ở Trung Quốc, bảo tồn đến nay mà chẳng bị hủy diệt, có thể nói là ‘’tục Phật huệ mạng‘’, nếu không thì thật không thể tưởng tượng được.
‘’Phật tu lâu xa vô lượng kiếp.’’ Phật luôn luôn đều tu hành, trải qua thời gian lâu dài vô lượng đại kiếp, chưa từng giải đãi mà siêng tinh tấn.
‘’Thiền định biển lớn khắp thanh tịnh.’’ Phật tu pháp môn thiền định, trải qua thời gian dài như biển kiếp, thảy đều thanh tịnh, diệt sạch hết vọng tưởng thì trí huệ sinh ra, tức cũng là trí huệ giải thoát.
‘’Nên khiến người thấy tâm hoan hỷ.’’ Cho nên, mới khiến cho chúng sinh thấy được Phật, đều sinh tâm hoan hỷ luyến mộ.
‘’Phiền não chướng cấu đều diệt trừ.’’ Vì hoan hỷ, cho nên phiền não chướng cấu đều tiêu trừ sạch hết, trí huệ cũng hiện tiền.
Xưa Như Lai tu các biển hạnh
Đầy đủ Bát nhã Ba la mật
Cho nên quang minh chiếu sáng khắp
Khắc phục tất cả tối ngu si.
Bốn câu kệ này nói về Bát nhã Ba la mật, Bát nhã dịch là “trí huệ”, vì trí huệ này là trí huệ xuất thế gian, chẳng phải là trí huệ thế gian. Trí huệ thế gian có thể là thiện, lại có thể là ác. Trí huệ xuất thế gian là thiện, chẳng phải ác; vì tôn trọng ý của nó, cho nên gọi là Bát nhã. Bát nhã có ba thứ :
1). Văn tự Bát nhã : Tức là dùng văn tự để nói rõ chân lý như tam tạng, mười hai bộ, tất cả kinh điển.
2). Quán chiếu Bát nhã : Tức là phải quán sát, phải chiếu rõ tất cả kinh điển, mới có thể thấu hiểu chân lý. Giống như dùng ánh đuốc chiếu soi đạo lý.
3). Thật tướng Bát nhã : Thật tướng là vô tướng, do đó có câu :
‘’Bát nhã phá hết các tướng.’’
Bất cứ vật gì, hình ảnh gì, cũng đều chẳng có hình tướng. Vô tướng là gì ? Tức là trí huệ tự có, tức cũng là tự tâm. Tự tâm này thanh tịnh tức là Bồ Tát, tự tâm này mê hoặc tức là chúng sinh.
‘’Xưa Như Lai tu các biển hạnh.’’ Thuở xưa Phật tu tất cả hạnh môn nhiều như biển, tức cũng là tu hạnh môn Bát nhã trí huệ.
‘’Ðầy đủ Bát nhã Ba la mật.’’ Tại sao phải tu các biển hạnh ? Vì muốn đắc được Bát nhã Ba la mật. Nếu tu hành đầy đủ rồi, thì sẽ qua được biển phiền não ngu si một cách an toàn, đạt đến bờ bên kia trí huệ.
‘’Cho nên quang minh chiếu sáng khắp.’’ Vì tu hạnh môn Bát nhã, cho nên phát ra ánh sáng trí tuệ, chiếu khắp mười phương pháp giới.
‘’Khắc phục tất cả tối ngu si.’’ Phật khắc phục được tất cả ngu si và vọng tưởng, phá sạch tất cả ngu si đen tối, chỉ có tồn tại trí huệ quang minh, khiến cho tất cả chúng sinh cũng hiện ra trí huệ vốn có. Trí huệ vốn có hiện ra như thế nào ? Chỉ có một biện pháp tức là ngồi thiền. Ðây là phương pháp căn bản tu trí huệ. Ngồi đến lúc “Hà xứ nhạ trần ai” (bụi bám ở chỗ nào) ? Tức cũng là lúc khai ngộ.
Đủ thứ phương tiện độ chúng sinh
Khiến sự tu hành đều thành tựu
Tất cả mười phương đều đến khắp
Vô biên tế kiếp chẳng nghỉ ngơi.
Bốn bài kệ này nói về phương tiện Ba la mật. Phương là phương pháp, tiện là tiện lợi, tức cũng là thiện xảo. Phương tiện có hai thứ, tức là hồi hướng phương tiện và bạt tế phương tiện. Do đại trí mà hồi tiền lục độ, hướng đại bồ đề, đây là hồi hướng phương tiện. Do đại bi mà hồi tiền lục độ, cứu tế hữu tình, đây là bạt tế phương tiện. Trong câu kệ có nói : ‘’Ðủ thứ phương tiện độ chúng sinh’’ là cứu tế phương tiện. ‘’Khiến sự tu hành đều thành tựu’’ là hồi hướng phương tiện. Tóm lại, đây là độ về điều phục tất cả, cứu tế tất cả, phương pháp hành hóa.
‘’Ðủ thứ phương tiện độ chúng sinh.’’ Phật dùng đủ thứ pháp môn phương tiện khéo léo, để giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, trước hết do pháp phương tiện, sau đó đắc được pháp chân thật.
‘’Khiến sự tu hành đều thành tựu.’’ Khiến cho tất cả chúng sinh, đối với những hạnh môn tu hành, thảy đều hoàn toàn thành tựu.
‘’Tất cả mười phương đều đến khắp.’’ Phật đến khắp hết thảy cõi Phật trong mười phương, để diễn nói diệu pháp; tức cũng là diễn nói diệu pháp Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật này.
‘’Vô biên tế kiếp chẳng nghỉ ngơi.’’ Phật ở trong đại kiếp nhiều chẳng có bờ mé, đều đi giáo hóa chúng sinh, vĩnh viễn chẳng nghỉ ngơi. Phật chẳng phải vì mình, mà là vì tất cả chúng sinh, cho nên mới đến độ tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khỏi sự khổ, đắc được an vui. Chúng ta nên học tu Phật như thế, mới có thể báo được ân của Phật.
Xưa Phật tu hành biển đại kiếp
Tịnh trị các nguyện Ba la mật
Cho nên xuất hiện khắp thế gian
Suốt kiếp vị lai cứu chúng sinh.
Bốn câu kệ này nói về nguyện Ba la mật, nguyện giống như chiếc thuyền, chẳng những độ mình mà còn độ người, là đại nguyện đồng sinh về tịnh độ. Nguyện có hai thứ :
1). Bồ đề nguyện, tức là trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh, tức cũng là:
‘’Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.’’
2). Nguyện lợi lạc kẻ khác, tức cũng là từ bi hỷ xả, bốn tâm vô lượng. Ðem sự lợi ích, an vui cho kẻ khác, đó là tinh thần Bồ Tát. Ðối tượng của Kinh Hoa Nghiêm nói pháp, là pháp thân Đại sĩ, nơi nơi đều dùng Bồ Tát làm mục tiêu, lấy lục độ vạn hạnh làm hạnh môn, do đó có câu :
‘’Tu hành không phát nguyện,
Nở hoa chẳng kết trái.’’
‘’Xưa Phật tu hành biển đại kiếp.’’ Thuở xưa Phật tu hành, trải qua thời gian lâu dài biển đại kiếp.
‘’Tịnh trị các nguyện Ba la mật.’’ Phật tu hành tất cả đại nguyện, chiếu theo nguyện đã phát ra mà tu hành, mỗi lời nguyện đều tịnh trị thanh tịnh, chẳng có chút bụi bặm. Mỗi người tu đạo đều phải phát đại nguyện, ai ai cũng chiếu theo lời nguyện mà tu hành. Phát nguyện gì, thì phải y theo nguyện đó mà tu hành. Không nên ngày nay phát nguyện, ngày mai quên mất. Phải luôn luôn y theo lời nguyện mình đã phát ra mà tu hành, một chút cũng không thể giải đãi. Như thế thì không nên khởi nhiều vọng tưởng, cũng không nên không giữ quy cụ, cho nên ai ai cũng phải phát nguyện. Tại sao Phật thành Phật ? Vì thuở xưa Phật đã từng phát nguyện, cho nên đặng thành Phật. Chúng ta cũng phải phát nguyện, thì tương lai cũng sẽ thành Phật.
Chúng ta phát nguyện, phải luôn luôn giáo hóa chúng sinh, vĩnh viễn chẳng nghỉ ngơi. Ví như phát nguyện ngủ ngồi không nằm, thì phải luôn luôn ngủ ngồi không nằm; phát nguyện ngày ăn một bữa, thì phải hằng ngày ăn một bữa; phát nguyện chẳng cất giữ tiền bạc, thì phải luôn luôn chú ý, đừng coi trọng tiền bạc; phát nguyện đời đời kiếp kiếp, muốn xuất gia tu học Phật pháp, hoằng dương Phật pháp, thì đừng khởi vọng tưởng, cứ muốn hoàn tục; phát nguyện hộ trì Phật pháp, thì phải luôn luôn hộ trì Tam Bảo, trang nghiêm Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo. Phải y chiếu lời nguyện của mình mà tu hành, đó mới là tịnh trị.
‘’Cho nên xuất hiện khắp thế gian.’’ Vì Phật tu hành nguyện Ba la mật, cho nên xuất hiện trong hết thảy thế gian.
‘’Suốt kiếp vị lai cứu chúng sinh.’’ Ðại nguyện của Phật phát ra, là đời đời suốt kiếp vị lai, đều cứu độ tất cả chúng sinh.
Phật vô lượng kiếp rộng tu trị
Tất cả pháp lực Ba la mật
Do đó thành tựu tự nhiên lực
Hiện khắp mười phương các cõi nước.
Bốn câu này nói về lực Ba la mật, lực là sức lực, không thể khuất phục, tiêu diệt sạch tất cả phiền não, tức cũng là pháp lực, suy nghĩ lựa chọn các pháp mà tu tập, thứ lực này có thể đến thẳng bờ bên kia.
‘’Phật vô lượng kiếp rộng tu trị.’’ Phật ở trong vô lượng kiếp rộng tu hành. Trong lúc tu hành, có khi sinh ra các thứ phiền não, thì luôn luôn có ma chướng đến khảo nghiệm định lực của bạn. Lúc đó ‘’Tâm không động‘’, là pháp bảo dùng nó để trị ma chướng, thì tự nhiên bình an vô sự.
Bây giờ xin đưa ra ví dụ : Ví như chúng ta muốn tu bố thí Ba la mật, lúc đang muốn thực hành bố thí, thì đột nhiên ý niệm thứ hai sinh ra : ‘’Ta không thể bố thí, nếu bố thí thì chẳng còn tiền để ăn uống, hoặc chẳng còn tiền để đi xe .v.v…’’ Do đó, chẳng tu bố thí Ba la mật. Lúc đó, phải dùng trị để xử lý. Ví như có người bị bệnh, nhất định muốn trị khỏi bệnh. Nếu nghĩ như thế này : ‘’Ôi ! Người này rất là khổ, ta hãy bố thí cho họ ! Ta ăn bớt lại một chút cũng chẳng sao, không có tiền đi xe, đi bộ cũng được.’’ Nghĩ như thế, thì sẽ chữa khỏi bệnh san tham, chẳng những một việc là như thế, mà hết thảy mọi việc đều như thế, đó tức là rộng tu trị.
‘’Tất cả pháp lực Ba la mật.’’ Phật tu hành tất cả các pháp, và hết thảy tám vạn bốn ngàn pháp môn, đều là dùng sức lực của các pháp đến bờ bên kia.
‘’Do đó thành tựu tự nhiên lực.’’ Vì tu hành đủ thứ pháp, đắc được đủ thứ pháp lực đến bờ bên kia, nên thành tựu tự nhiên trí huệ lực.
‘’Hiện khắp mười phương các cõi nước.’’ Pháp thân trí huệ quang minh, hiện khắp nơi các nước chư Phật trong mười phương, để vì chúng sinh hiện thân thuyết pháp, đó là Phật lực.
Xưa Phật tu trị trí phổ môn
Tất cả trí tánh như hư không
Cho nên thành tựu vô ngại lực
Quang minh chiếu khắp mười phương cõi.
Bốn câu kệ này nói về trí Ba la mật. Trí này do sáu Ba la mật ở trước thành tựu (từ bố thí đến Bát nhã), về sau đắc được trí huệ. Lại do trí này, mà thành lập sáu Ba la mật ở trước, tức cũng là thành tựu tất cả trí năng, do đó trí ‘’Thọ dụng pháp lạc, thành thục hữu tình.’’
‘’Xưa Phật tu trị trí phổ môn.’’ Thuở xưa, khi Phật tu hành tại nhân địa, tu trị trí huệ phổ môn thị hiện, tức cũng là bình đẳng trí.
‘’Tất cả trí tánh như hư không.’’ Bổn thể của trí là gì ? Giống như hư không chẳng có hình tướng.
‘’Cho nên thành tựu lực vô ngại.’’ Vì nó như hư không, cho nên thành tựu trí huệ lực vô ngại. Vô sở chướng ngại tức là bao quát hết thảy Đại viên cảnh trí, Bình đẳng tánh trí, Diệu quán sát trí, Thành sở tác trí.
‘’Quang minh chiếu khắp mười phương cõi.’’ Trí huệ quang minh của Phật phóng ra, chiếu sáng khắp tất cả thế giới đen tối trong mười phương, giáo hóa tất cả chúng sinh trong sáu nẻo, khiến cho họ sớm thoát khỏi luân hồi, khai mở trí huệ, thành tựu quả vị Phật.
Có người hỏi : ‘’Tu trị và tịnh trị có gì khác nhau‘’? Ý nghĩa tu trị là lúc ban đầu nghĩ muốn làm việc gì, chẳng được tự nhiên, về sau dùng đủ thứ phương tiện pháp môn để đối trị, trị tốt những mao bệnh này, đó gọi là tu trị. Ý nghĩa tịnh trị là có rất nhiều vọng tưởng, tìm cách làm cho thanh tịnh; có rất nhiều nhiễm ô, làm cho nó thanh tịnh. Ý nghĩa tu trị và tịnh trị chẳng khác gì mấy, bất quá tu trị là trị lý tiêu cực, còn tịnh trị là trị tích cực, đây là điểm khác nhau.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Vân Âm Tịnh Nguyệt, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả đại chúng hải hội trong đạo tràng, rồi nói bài kệ rằng.
Lúc đó, vị đại Bồ Tát Vân Âm Tịnh Nguyệt, nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp tất cả đại chúng hải hội ở trong đạo tràng, rồi lập tức nói ra mười một bài kệ này.
Bài kệ đầu tiên trong mười một bài kệ này, là tổng quát ý nghĩa, còn mười bài kệ kia là phân biệt giải thích đạo lý Thập địa. Thập địa tức là:
1). Hoan hỷ địa.
2). Ly cấu địa.
3). Phát quang địa.
4). Diễm huệ địa.
5). Nan thắng địa.
6). Hiện tiền địa.
7). Viễn hành địa.
8). Bất động địa.
9). Thiện huệ địa.
10). Pháp vân địa.
Cảnh giới thần thông đồng hư không
Mười phương chúng sinh đâu chẳng thấy
Như xưa tu hành thành các địa
Trong quả ma ni đều nói đủ.
‘’Cảnh giới thần thông đồng hư không.’’ Cảnh giới thần thông của Phật như hư không, chẳng có bờ mé.
‘’Mười phương chúng sinh đâu chẳng thấy.’’ Vì cảnh giới rộng lớn như hư không, cho nên chúng sinh trong mười phương, thảy đều nhìn thấy được.
‘’Như xưa tu hành thành các địa.’’ Giống như thuở xưa tu hành thành tựu các quả vị, tức cũng là quả vị thập địa.
‘’Trong quả ma ni đều nói đủ.’’ Phật ở trong quả ma ni, đều hoàn toàn diễn nói ra đầy đủ, tất cả cảnh giới thần thông diệu dụng, khiến cho tất cả chúng sinh nghe được, đều biết thần thông diệu dụng này không thể nghĩ bàn.
Thanh tịnh siêng tu vô lượng kiếp
Vào nơi sơ địa rất hoan hỷ
Sinh trí rộng lớn như pháp giới
Thấy khắp mười phương vô lượng Phật.
Bốn câu kệ này, là nói về cảnh giới Sơ địa, gọi là Hoan hỷ địa. Tại sao hoan hỷ ? Vì đã phá được kiến, tư, hai hoặc (hai hoặc về thấy và suy nghĩ), chứng được lý người và pháp đều không, đắc được thọ dụng pháp hỷ sung mãn, thấu hiểu cảnh giới của chư Phật, cho nên hoan hỷ, do đó gọi là Hoan hỷ địa.
‘’Thanh tịnh siêng tu vô lượng kiếp.’’ Thanh tịnh là chẳng có pháp ô nhiễm nào, pháp ô nhiễm có hai thứ.
1). Pháp ô nhiễm có hình tướng, tức là cảnh giới bên ngoài.
2). Pháp ô nhiễm vô hình, tức là trong tâm ý của mình.
Lúc có hình tướng mà thực hành hạnh môn bất tịnh, thì tạo ra vô lượng vô biên nghiệp chẳng thanh tịnh. Lúc vô hình mà khởi tư tưởng không tịnh, thì tạo ra vô lượng vô biên nghiệp chẳng thanh tịnh. Khi Phật tu hành tại nhân địa, thì luôn luôn giữ giới, cho nên được thanh tịnh. Thanh tịnh rồi lại siêng năng tu hành hơn nữa.
Siêng tu thì không lười biếng phóng dật. Lười biếng tức là không tinh tấn, phóng dật tức là không giữ quy cụ. Siêng tu tức là tinh tấn, tinh tấn chẳng phải chỉ dụng công một ngày hai ngày, cũng chẳng phải một năm hai năm, càng chẳng phải một đời hai đời, mà là dụng công siêng tu giới định huệ mãi mãi không ngừng, trải qua thời gian lâu dài vô lượng biển kiếp.
‘’Vào nơi sơ địa rất hoan hỷ.’’ Vì ở trong vô lượng kiếp, siêng tu giới định huệ; ở trong vô lượng kiếp tiêu diệt tham sân si, như thế mới vào được nơi sơ địa, chứng được quả vị Bồ Tát. Lúc đó, tâm giác và tự tánh thông đạt, pháp hỷ sung mãn, thiền duyệt vi thực, hoan hỷ vô cùng, cho nên gọi là hoan hỷ địa.
‘’Sinh trí rộng lớn như pháp giới.’’ Chứng được sơ địa Bồ Tát, thì có trí huệ rộng lớn như pháp giới.
‘’Thấy khắp mười phương vô lượng Phật.’’ Có trí huệ rộng lớn rồi, thì lúc đó mới thấy khắp vô lượng vô số chư Phật trong mười phương, bèn cung kính cúng dường, gần gũi vô lượng chư Phật trong mười phương.
Trong tất cả pháp Ly cấu địa
Đồng số chúng sinh giữ tịnh giới
Ở trong nhiều kiếp rộng tu hành
Cúng dường vô biên biển chư Phật.
Bốn câu kệ này, là nói về cảnh giới Nhị địa, gọi là Ly cấu địa. Tại sao gọi là Ly cấu địa ? Vì đã lìa khỏi mọi pháp nhiễm ô, khiến cho thân tâm thanh tịnh. Làm thế nào lìa cấu bẩn được ? Phải nhận chân tu hành mới có sự cảm ứng, mới lìa khỏi cấu bẩn được. Nếu không nhận chân tu hành, thì không thể có sự cảm ứng, càng không thể lìa khỏi được phiền não cấu bẩn. Do đó, có câu:
‘’Bậc Sơ địa chẳng biết cảnh giới của bậc Nhị địa,
Bậc Thập địa chẳng biết cảnh giới của bậc Ðẳng giác.’’
Ở trong Phật pháp, sai một ly đi ngàn dặm. Cảm thấy sai không nhiều, kết quả càng đi càng xa nhà, càng xa càng chẳng biết quay đầu lại.
Lìa cấu bẩn chẳng dễ gì làm được, cấu bẩn tức là pháp nhiễm ô, lìa khỏi cấu bẩn tức là được thanh tịnh. Pháp nhiễm ô này khắp nơi đều có. Các vị ! Các bạn hằng ngày đến nghe kinh, đến nghiên cứu Phật pháp, cảm thấy rất bình thường, song biết đâu có những người muốn nghe kinh, muốn nghiên cứu Phật pháp mà không thể được.
Lúc trước, tôi giảng kinh thì có chuyện này phát sinh: Có vợ chồng đồng đến nghe kinh, hoặc có người chồng chẳng cho vợ đến nghe kinh, hoặc có người vợ chẳng cho chồng đến nghe kinh. Có một vị phụ nữ rất kiền thành tin Phật, thích nghe kinh, song chồng của bà ta cản trở, chẳng cho bà ta đến chùa thắp hương lễ Phật, càng không cho bà ta đến chùa để nghe kinh, nghe pháp, thường dùng hai chữ ‘’ly dị‘’ để uy hiếp vợ. Một ngày nọ, ông ta nói với vợ : ‘’Nếu bà mà đi nghe kinh nữa, thì chúng ta sẽ ly dị.’’ Song, bà vợ chẳng sợ sự uy hiếp ly dị, vẫn cứ đi. Ông ta chẳng có cách gì hơn, đã hơn bảy mươi tuổi mà còn ly dị sao ? Mới lấy tấm hình kết hôn, dùng kéo cắt làm hai ném xuống nền nhà, đó là biểu thị ly dị. Khi bà vợ trở về nhà thấy vậy thì buồn cười. Ðó là ma chướng, trở ngại bà này tăng trưởng căn lành.
Người trên thế gian có rất nhiều trường hợp như thế, đều ở trong xấu có tốt, trong tốt có xấu. Muốn thật sự lìa khỏi cấu bẩn được giải thoát, thật là việc chẳng dễ dàng. Nghĩ muốn đắc được tự do tự tại, cũng là việc hết sức khó khăn.
‘’Trong tất cả pháp Ly cấu địa.’’ Ly cấu địa tức là lìa khỏi pháp ô nhiễm, buông xả pháp nhiễm ô, thành tựu pháp thanh tịnh.
‘’Ðồng số chúng sinh giữ tịnh giới.’’ Tu đến Nhị địa (địa thứ hai), thì dùng số kiếp nhiều như số chúng sinh, để tu trì giới pháp thanh tịnh. Có người sau khi thọ năm giới, chẳng những chẳng giữ giới, mà mình còn chẳng biết sửa đổi lỗi lầm, chẳng nghe sự khuyên bảo, cho nên nhất định phải biết sửa đổi lỗi, thì chẳng có việc thiện nào lớn bằng.
‘’Ở trong nhiều kiếp rộng tu hành.’’ Chứng được Bồ Tát Nhị địa, thì phải trải qua nhiều đại kiếp rộng tu hành, chẳng giải đãi, chẳng lười biếng, chẳng phóng dật. Chỉ có tinh tấn hướng về trước, chẳng lùi về sau.
‘’Cúng dường vô biên biển chư Phật.’’ Nhị địa Bồ Tát tu hành tại nhân địa, thì phải rộng tu hạnh môn cúng dường. Cho nên, cúng dường vô biên vô tận các Ðức Phật như biển cả, mới chứng được địa vị này. Do đó, Bồ Tát tu hành ở trong các pháp môn, thì chuyên tu pháp môn cúng dường vô biên biển chư Phật.
Tích tập phước đức Phát quang địa
Xa ma tha tạng nhẫn kiên cố
Mây pháp rộng lớn đều đã nghe
Trong quả ma ni nói như thế.
Bốn câu kệ này, nói về cảnh giới Phát quang địa thứ ba. Tại sao gọi là Phát quang địa ? Vì khi còn ở Nhị địa, thì tích tập công đức vô lượng, lúc đó nội tâm thanh tịnh đến cực điểm, tự tánh quang minh bèn phát ra.
Chúng ta tu hành Phật pháp, phải tích tập phước đức, đừng cho rằng công đức nhỏ mà không làm. Nên biết, công đức nhỏ mà làm nhiều, thì thành công đức lớn, công đức lớn là do công đức nhỏ tích tụ mà thành. Người thời xưa thì ăn ít mặc ít, dùng bớt tài vật lại để làm công đức. Công đức tuy nhỏ, xong vẫn phải làm mới có công đức. Không làm thì chẳng có công đức. Tại sao chúng ta gặp hoàn cảnh khó khăn ? Vì chúng ta thuở xưa chẳng làm công đức, cho nên cuộc sống đời này khó khăn, hoàn cảnh khốn khổ, tất cả đều chẳng thuận lợi. Nếu làm nhiều công đức thì có quang minh, đó là biểu hiện của phước đức.
‘’Tích tập phước đức Phát quang địa.’’ Tích tập là do nhỏ thành lớn, do ít thành nhiều, nghĩa là tụ lại với nhau. Phước đức tích tập càng nhiều, thì quang minh tỏa ra càng lớn. Thứ quang minh này là biểu hiện của phước đức, cho nên gọi là Phát quang địa.
‘’Xa ma tha tạng nhẫn kiên cố.’’ Xa ma tha nghĩa là “tịch tĩnh”, muốn tịch tĩnh thì phải có nhẫn kiên cố. Làm thế nào để có nhẫn kiên cố ? Thì phải tu pháp tịch tĩnh, pháp tĩnh lự, tức cũng là tu chỉ, tu định. Chẳng có vọng tưởng, chỉ ư chí thiện, thì phải có sức nhẫn kiên cố.
‘’Mây pháp rộng lớn đều đã nghe.’’ Thứ mây pháp này rộng lớn vô biên, cho nên tất cả chúng sinh đều đã nghe được.
‘’Trong quả ma ni nói như thế.’’ Trong quả ma ni trên cây bồ đề nói pháp như thế, giống như đạo lý vừa nói ở trên.
Diễm hải huệ minh vô đẳng địa
Khéo rõ cảnh giới khởi từ bi
Tất cả cõi hiện thân bình đẳng
Như chỗ Phật tu đều diễn xướng.
Bốn câu kệ này nói về cảnh giới Diễm huệ địa. Vì địa này trí huệ rất cao, hay khiến cho huệ tánh mãnh liệt. Lúc đó, tự tánh quang minh đã đạt đến cực điểm, chánh giác đã viên mãn.
‘’Diễm hải huệ minh vô đẳng địa.’’ Trí huệ quang minh của Bồ Tát địa thứ tư như biển cả, cho nên gọi là vô đẳng địa.
‘’Khéo rõ cảnh giới khởi từ bi.’’ Khéo thấu rõ tất cả cảnh giới thế pháp. Tất cả cảnh giới thanh tịnh cũng minh bạch, tất cả cảnh giới nhiễm ô cũng biết rõ, đối với tất cả chúng sinh ngu si đen tối, đều phát tâm từ bi mà cứu hộ những chúng sinh này, gặp người có căn lành thì khiến cho căn lành tăng trưởng.
‘’Tất cả cõi hiện thân bình đẳng.’’ Trong tất cả cõi nước trong mười phương, đều hiện thân bình đẳng để giáo hóa tất cả chúng sinh.
‘’Như Phật sở tu đều diễn xướng.’’ Giống như pháp môn của Phật tu, diệu pháp của Phật nói. Ngài cũng đến diễn nói, hoan hỷ nói pháp gì thì nói pháp đó. Muốn nói đạo lý gì, thì nói đạo lý đó, chẳng có câu thúc, chẳng có hạn chế, tức cũng tùy cơ thuyết pháp, tùy duyên thuyết pháp. Thấy người gì thì nói pháp đó, tức cũng là vì người thuyết pháp, theo bệnh cho thuốc.
Phổ tạng đẳng môn Nan thắng địa
Động tĩnh thuận nhau chẳng trái nghịch
Cảnh giới Phật pháp đều bình đẳng
Như chỗ Phật tịnh đều nói được.
Bốn câu kệ này nói về cảnh giới Địa thứ năm, gọi là Nan thắng địa. Tại sao gọi là Nan thắng địa ? Vì chân, tục, hai trí trái nhau, khiến cho hợp lại, khiến cho thuận nhau. Lại có thể nói, đồng dị của tất cả các pháp đều bất khả đắc.
‘’Phổ tạng đẳng môn Nan thắng địa.’’ Tạng pháp giới bình đẳng khắp hết thảy, chẳng có gì hơn được, cho nên gọi là Nan thắng địa.
‘’Ðộng tĩnh thuận nhau chẳng trái nghịch.’’ Tại sao nói là nan thắng ? Vì động chẳng ngại tĩnh, tĩnh cũng là động. Ðộng tĩnh tùy thuận với nhau chẳng trái nghịch. Tại phàm phu mà nhìn, thì động tức là động, tĩnh tức là tĩnh, chẳng biết đạo lý chẳng tương phản. Ðến bậc Nan thắng địa thì động tĩnh nhất như, động tĩnh chẳng hai, trong động và tĩnh như nhau chẳng có phân biệt.
‘’Cảnh giới Phật pháp đều bình đẳng.’’ Tất cả Phật pháp, tất cả cảnh giới đều bình đẳng.
‘’Như Phật sở tịnh đều nói được.’’ Giống như pháp môn của Phật tu hành, Bồ Tát địa này đều nói ra được, đều có thể đại biểu cho Phật để nói pháp, giáo hóa chúng sinh.
Tu hành rộng lớn huệ hải địa
Tất cả pháp môn đều biết rõ
Hiện khắp cõi nước như hư không
Trong cây diễn nói pháp âm này.
Bốn câu kệ này nói về cảnh giới Địa thứ sáu gọi là Hiện tiền địa. Tại sao gọi là Hiện tiền địa ? Vì phát ra trí huệ thù thắng nhất, hiện tiền chẳng có phân biệt tịnh và nhiễm. Lại gọi là Huệ hải địa, trí huệ của Bồ Tát này như biển cả.
‘’Tu hành rộng lớn huệ hải địa.’’ Rộng lớn mà tinh tế, tu hành hết thảy tất cả pháp môn, đắc được trí huệ như biển, cho nên gọi là Huệ hải địa.
‘’Tất cả pháp môn đều biết rõ.’’ Vì tu hành rộng lớn, cho nên đều biết rõ tám vạn bốn ngàn pháp môn, đều tu hành thành công.
‘’Trong cây diễn nói pháp môn này.’’ Trong cây bồ đề thụ vương, hết thảy cõi nước mười phương, đều diễn nói tất cả pháp âm, để giáo hóa tất cả chúng sinh.
Khắp cùng pháp giới thân hư không
Chiếu khắp chúng sinh đèn trí huệ
Tất cả phương tiện đều thanh tịnh
Xưa tu Viễn hành nay nói đủ.
Bốn câu kệ này nói về Địa thứ bảy, gọi là Viễn hành địa. Tại sao gọi là Viễn hành địa ? Vì cùng tận chân như tự tánh viên tế, phát tâm đại bi, lìa khỏi nhị thừa độ.
‘’Khắp cùng pháp giới thân hư không‘’. Ðến được Viễn hành địa, thì pháp thân sở hiện có thể khắp cùng pháp giới, đồng như hư không.
‘’Chiếu khắp chúng sinh đèn trí huệ.’’ Tức nhiên chiếu khắp pháp giới được, thì chiếu khắp chúng sinh được. Ðèn trí huệ của Bồ Tát viễn hành địa, phóng ra ánh sáng chiếu soi khắp tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh chuyển nhiễm thành tịnh.
‘’Tất cả phương tiện đều thanh tịnh.’’ Hết thảy tất cả pháp môn phương tiện, đều khiến cho tất cả chúng sinh, từ nhiễm ô chuyển thành thanh tịnh, đắc được diệu pháp thân thanh tịnh.
‘’Xưa tu Viễn hành nay nói đủ.’’ Thuở xưa tu Viễn hành địa, bây giờ nói ra diệu pháp này, cho tất cả chúng sinh nghe.
Tất cả hạnh nguyện thảy trang nghiêm
Vô lượng cõi nước đều thanh tịnh
Hết thảy phân biệt chẳng lay động
Đây vô đẳng địa đều diễn nói.
Bốn câu kệ này nói về cảnh giới Địa thứ tám, gọi là Bất động địa. Tại sao gọi là Bất động địa ? Vì do tất cả nguyện lực thành tựu. Ðến được Bồ Tát địa này, thì như như bất động, liễu liễu thường minh, cho nên gọi là Bất động địa. Chúng ta tu hành phải phát nguyện kiên cố, và nguyện lâu dài, phải đời đời kiếp kiếp, chiếu theo lời nguyện của mình mà tu hành, mới từng bước từng bước tiến đến Bất động địa.
‘’Tất cả hạnh nguyện thảy trang nghiêm.’’ Chư Phật quá khứ và tất cả Bồ Tát, đều do tất cả lời nguyện trang nghiêm mà thành tựu. Nguyện chỉ tăng thêm chứ đừng thối lùi. Nguyện thối lùi là biểu hiện giải đãi. Bổn lai vốn sớm thành Phật, song vì nguyện thối lùi mà mất công phu, không thể có sự thành tựu.
Các bạn ! Phải nhận rõ mục đích, phát nguyện rồi không nên sửa đổi lại. Nếu sửa đổi lời nguyện lại, thì giống như tự đọa vào địa ngục, đó là trong kinh Phật có nói. Các bạn xem ! Chư Phật và Bồ Tát đều giữ theo lời nguyện của mình mà đi thực hành. Bồ Tát Ðịa Tạng có phát nguyện rằng :
‘’Ðịa ngục chưa trống không,
Thề không thành Phật.’’
‘’Vô lượng cõi nước đều thanh tịnh.’’ Nguyện lực của Phật phát ra phước đức trang nghiêm, trải qua vô lượng cõi nước đều thanh tịnh chẳng nhiễm.
‘’Hết thảy phân biệt chẳng lay động.’’ Hết thảy tất cả tâm phân biệt cũng chẳng lay động, kiên cố như kim cang, chẳng có cách chi phá hoại được.
‘’Ðây vô đẳng địa đều diễn nói.’’ Bất động địa này diệu chẳng có gì sánh bằng, cho nên nói ra hết hoàn toàn.
Vô lượng cảnh giới sức thần thông
Khéo vào giáo pháp sức quang minh
Đây là thanh tịnh Thiện huệ địa
Biển kiếp tu hành đều nói đủ.
Bốn câu này nói về Địa thứ chín, gọi là Thiện huệ địa. Tại sao gọi là Thiện huệ địa ? Vì có đầy đủ mười trí huệ lực, cầu khắp mọi nơi, biết chúng sinh có thể độ, không thể độ, vì họ thuyết pháp, cho nên gọi là Thiện huệ địa.
‘’Vô lượng cảnh giới sức thần thông.’’ Cảnh giới của Phật như biển cả, cho nên nói là vô lượng. Cảnh giới này do sức thần thông biến hóa.
‘’Khéo vào giáo pháp sức quang minh.’’ Sức thần thông này, khéo diễn nói tất cả giáo lý và tất cả các pháp. Khiến cho tất cả chúng sinh minh bạch giáo lý và pháp này, đắc được sức trí huệ quang minh.
‘’Ðây là thanh tịnh Thiện huệ địa.’’ Ðây là thanh tịnh Thiện huệ địa, đắc được bổn thể tự tánh.
‘’Biển kiếp tu hành đều nói đủ.’’ Muốn đắc được cảnh giới Thiện huệ địa này, phải tu hành thời gian lâu dài mới thành tựu được. Hiện tại đều hoàn toàn diễn nói ra hết, khiến cho tất cả chúng sinh, biết hạnh môn của chư Phật tu trong quá khứ.
Pháp vân rộng lớn Địa thứ mười
Hàm tàng tất cả khắp hư không
Cảnh giới chư Phật diễn trong âm
Âm này là thần lực của Phật.
Bốn câu kệ này nói về cảnh giới Địa thứ mười, gọi là Pháp vân địa. Tại sao gọi là Pháp vân địa ? Vì thành tựu trí Ba la mật, sinh ra nước pháp công đức, giống như vầng mây lớn, mưa xuống nước thanh tịnh như cam lồ, khiến cho người nghe pháp thân tâm mát mẻ.
‘’Pháp vân rộng lớn Địa thứ mười.’’ Thứ pháp vân này rộng lớn khắp mười phương. Ðây là địa (bậc) Bồ Tát cuối cùng, tức là Pháp vân địa, lúc tu tập hạnh Bồ Tát, công đức đã viên mãn.
‘’Hàm tàng tất cả khắp hư không.’’ Pháp vân khắp hư không, ở trong hư không lại hàm tàng tất cả, tất cả cũng bao hàm ở trong hư không.
‘’Cảnh giới chư Phật diễn trong âm.’’ Hết thảy cảnh giới của tất cả chư Phật trong mười phương ba đời, đều ở trong pháp âm không thể nghĩ bàn của Pháp vân địa diễn nói ra.
‘’Âm này là thần lực của Phật.’’ Thứ pháp âm này, là đại oai thần lực của chư Phật mười phương ba đời, đều cùng diễn nói ra diệu âm.
Ðây là cảnh giới của mười địa (bậc) Bồ Tát, do tu mười Ba la mật mà thành tựu. Ví như tu bố thí Ba la mật mà thành tựu Sơ địa, cho đến tu trí Ba la mật mà thành tựu Thập địa. Hiện tại giải thích sơ lược về Thập địa, đến quyển thứ hai mươi sáu, mới giải thích tỉ mỉ về nghĩa lý Thập địa.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh Quang Tràng, nương oai thần của đức Phật, quán sát mười phương, rồi nói bài kệ rằng.
Lúc đó, vị đại Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh Quang Tràng, nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp mười phương pháp giới, lập tức nói ra mười bài kệ này.
Vô lượng chúng sinh trong pháp hội
Đủ thứ tâm tin hiểu thanh tịnh
Thảy đều ngộ nhập trí Như Lai
Thông đạt tất cả cảnh trang nghiêm.
‘’Vô lượng chúng sinh trong pháp hội.’’ Phật thuyết pháp ở trong pháp hội, có vô lượng vô biên chúng sinh đang nghe pháp.
‘’Ðủ thứ tâm tin hiểu thanh tịnh.’’ Mỗi loài chúng sinh, đắc được lợi ích tuy khác nhau, song tâm tin hiểu đều giống nhau, đều được thanh tịnh.
‘’Thảy đều ngộ vào trí Như Lai.’’ Hoàn toàn đều minh bạch trí huệ của Phật. Trí huệ của Phật tức là đại viên cảnh trí.
‘’Thông đạt tất cả cảnh trang nghiêm.’’ Tất cả cảnh giới trang nghiêm của Phật, các Ngài đều thấu rõ thông đạt.
Đều khởi tịnh nguyện tu các hạnh
Thảy từng cúng dường vô lượng Phật
Thấy được thể chân thật của Phật
Và tất cả thần thông biến hóa.
‘’Ðều khởi tịnh nguyện tu các hạnh.’’ Hết thảy chư Phật và các Bồ Tát, khi tu hành ở tại nhân địa, đều phát nguyện thanh tịnh, mới tu đủ thứ hạnh môn. Mỗi vị Phật và mỗi vị Bồ Tát, đều do nguyện lực mà thành tựu. Ðức Phật Thích Ca phát bốn đại nguyện, Phật Dược Sư phát mười hai đại nguyện, Phật A Di Ðà phát bốn mươi tám đại nguyện. Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Ðịa Tạng, các đại Bồ Tát đều phát đại nguyện. Nếu chẳng có nguyện lực, thì không thể thành Phật hoặc Bồ Tát, cho nên phát nguyện là người tu hành phải có.
‘’Thảy từng cúng dường vô lượng Phật.’’ Hết thảy chư Phật, chư Bồ Tát, đều đã từng cúng dường vô lượng vô số các đức Phật, mới có thể thành Phật, thành Bồ Tát, mới có thể thọ nhận sự cúng dường của tất cả chúng sinh.
‘’Thấy được thể chân thật của Phật.’’ Mới có thể thấy được thể chân thật của Phật, tức cũng là pháp thân của Phật.
‘’Và tất cả thần thông biến hóa.’’ Và hết thảy tất cả thần thông biến hóa vô cùng diệu dụng.
Hoặc có người thấy pháp thân Phật
Vô đẳng vô ngại khắp hết thảy
Tất cả vô biên các pháp tánh
Đều vào thân đó vô bất tận.
‘’Hoặc có người thấy pháp thân Phật.’’ Hoặc có chúng sinh ở trong pháp thân của Phật, thấy được Phật pháp thân. Vì tất cả chúng sinh đều ở trong pháp thân của Phật, cho nên không thể thấy được pháp thân của Phật. Bất quá, chúng sinh có căn lành lớn, thì thấy được pháp thân của Phật.
‘’Vô đẳng vô ngại khắp hết thảy.’’ Pháp thân của Phật là vô tại vô bất tại, ‘’tận hư không biến pháp giới‘’ pháp thân của Phật rất thù thắng, cho nên chẳng có gì bằng pháp thân của Phật. Pháp thân Phật đặc biệt thanh tịnh, cho nên chẳng có chướng ngại. Vì thù thắng thanh tịnh, vô đẳng vô ngại, cho nên thông khắp hết thảy, rộng lớn chẳng có bờ mé, chẳng có gì mà không bao dung.
‘’Tất cả vô biên các pháp tính.’’ Hết thảy tất cả các pháp tính của chúng sinh, vô bất tại trong pháp thân của Phật.
‘’Ðều vào trong đó vô bất tận.’’ Hết thảy tất cả Phật pháp, chúng sinh pháp, tâm pháp, đều ở trong pháp thân của Phật. Tuy chúng sinh ở trong pháp thân của Phật, song cũng chẳng biết ở trong pháp thân của Phật. Tại sao ? Vì bị vô minh chướng ngại quá sâu, cho nên chẳng thấy được pháp thân của Phật. Ví như một con kiến nhỏ ở trên chiếc thuyền lớn, con kiến này thủy chung vẫn chẳng thấy được bờ mé của chiếc thuyền, tức là chẳng biết chiếc thuyền là gì. Pháp thân của Phật cũng giống như chiếc thuyền lớn, chúng ta chúng sinh giống như con kiến nhỏ, kiến chẳng thấy được bờ mé của chiếc thuyền. Tuy chúng ta ở trong pháp thân của Phật, mà chẳng biết có pháp thân của Phật, nhìn chẳng thấy pháp thân của Phật. Vì nhìn chẳng thấy cho nên chẳng biết. Song, trong đó có chúng sinh nhìn thấy được pháp thân của Phật, vì có căn lành lớn, đời đời kiếp kiếp tu hành Phật pháp, cho nên có cơ duyên này, tức cũng là cảm ứng đạo giao. Ví dụ như nếu thành tâm niệm ‘’Nam Mô A Di Ðà Phật‘’, sáu chữ liên tục không ngừng, đến lúc vãng sanh, thì nhất định sẽ thấy ba vị Thánh ở cõi Phương Tây đến tiếp dẫn. Sơ tổ của tông tịnh độ là Ngài Huệ Viễn, ở chùa Ðông Lâm núi Lư Sơn đề xướng niệm Phật, thành lập Liên Xã. Chẳng những ngài nhìn thấy Phật A Di Ðà ba lần rồi vãng sinh, mà cư sĩ Lưu Di Dân cũng thấy ba vị Thánh hai lần rồi vãng sinh. Từ đó đến nay, phàm ai thành tâm niệm Phật, đều có thứ cảnh giới này.
Hoặc thấy diệu sắc thân của Phật
Vô biên sắc tướng sáng rực rỡ
Tùy các chúng sinh hiểu khác nhau
Đủ thứ biến hiện trong mười phương.
‘’Hoặc thấy diệu sắc thân của Phật.’’ Ở trước nói về pháp thân thì vô hình vô tướng, bây giờ nói sắc thân của Phật. Pháp thân thì vô hình vô tướng, sắc thân thì có hình có tướng. Sắc thân tức là thân trang nghiêm ba mươi hai tướng tám mươi vẻ đẹp, hoặc có chúng sinh thấy được diệu sắc thân của Phật.
‘’Vô biên sắc tướng sáng rực rỡ.’’ Có vô biên tướng tốt sáng chói rực rỡ vô cùng vô tận.
‘’Tùy các chúng sinh hiểu khác nhau.’’ Tùy theo căn tánh khác nhau của chúng sinh, nên kiến giải cũng khác nhau, do đó có câu :
‘’Phật dùng một âm thanh nói pháp,
Chúng sinh tùy loài đều hiểu rõ.’’
‘’Ðủ thứ biến hiện trong mười phương.’’ Tuy nhiên sự hiểu biết khác nhau, song Phật có đủ thứ thần thông biến hóa, thị hiện trong mười phương pháp giới, để giáo hóa tất cả chúng sinh.
Hoặc thấy vô ngại trí huệ thân
Ba đời bình đẳng như hư không
Khắp tùy tâm chúng sinh nói pháp
Đủ thứ sai biệt đều khiến thấy.
‘’Hoặc thấy vô ngại trí huệ thân.’’ Hoặc có loại chúng sinh thấy được thân trí huệ vô ngại của Phật.
‘’Ba đời bình đẳng như hư không.’’ Quá khứ Phật cũng có trí huệ thân, hiện tại Phật cũng có trí huệ thân, vị lai Phật cũng có trí huệ thân, cho nên nói ba đời bình đẳng.
Trí huệ thân như thế nào ? Giống như hư không. Hư không lại như thế nào ? Là không bờ không mé, biết được hình dáng của hư không, thì biết được trí huệ thân.
‘’Khắp tùy tâm chúng sinh nói pháp.’’ Thân trí huệ này, tùy theo tâm ưa thích của chúng sinh, mà chuyển bánh xe pháp, giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh minh bạch Phật pháp.
‘’Ðủ thứ khác biệt đều khiến thấy.’’ Dùng đủ thứ pháp phương tiện khác nhau, khiến cho chúng sinh tỏ ngộ mà thấy trí huệ thân. Trí huệ thân này, tức là trí thân trong mười thân.
Hoặc nghe rõ âm thanh của Phật
Khắp cùng mười phương các cõi nước
Tùy sự hiểu biết của chúng sinh
Vì họ diễn nói chẳng chướng ngại.
‘’Hoặc nghe rõ âm thanh của Phật.’’ Có chúng sinh thấu rõ âm thanh của Phật nói pháp, tuy nhiên âm thanh của Phật là một thứ, song người trời nghe là tiếng của người trời, súc sinh nghe là tiếng của súc sinh, ngạ quỷ nghe là tiếng của ngạ quỷ, chẳng cần phiên dịch, thảy đều hiểu rõ, song cũng có chúng sinh chẳng minh bạch. Vì chẳng có duyên sâu dày với Phật, cho nên không thể minh bạch âm thanh của Phật, dù nghe được cũng chẳng hiểu.
‘’Khắp cùng mười phương các cõi nước.’’ Từ âm của Phật, truyền bá đến tất cả cõi Phật trong mười phương.
‘’Tùy sự hiểu biết của chúng sinh.’’ Tùy theo sự hiểu biết của tất cả chúng sinh, mà đắc được lợi ích, bạn hiểu biết bao nhiêu thì minh bạch bấy nhiêu. Giống như trời mưa, cây lớn thì hấp thụ lượng nước nhiều, cây nhỏ thì đượm nhuần lượng nước ít, thảy đều được lợi ích.
‘’Vì họ diễn nói chẳng chướng ngại.’’ Vì mỗi loài chúng sinh, mà lời nói phát ra đều chẳng có chướng ngại.
Hoặc thấy đủ thứ quang của Phật
Chiếu sáng khắp hết thảy thế gian
Hoặc có ở trong Phật quang minh
Lại thấy chư Phật hiện thần thông.
‘’Hoặc thấy đủ thứ quang của Phật.’’ Hoặc có loại chúng sinh, thấy nhiều thứ quang minh của Phật.
‘’Chiếu sáng khắp hết thảy thế gian.’’ Ðủ thứ quang minh này, chiếu sáng mười phương thế giới, khiến cho tất cả chúng sinh phát tâm bồ đề, tu hạnh bồ đề, cùng thành Phật đạo.
‘’Hoặc có ở trong quang minh Phật.’’ Hoặc có loại chúng sinh ở trong quang minh của Phật, thấy chư Phật, Bồ Tát hiện ra ở trong quang minh để thuyết pháp.
‘’Lại thấy chư Phật hiện thần thông.’’ Lại thấy chư Phật, Bồ Tát ở trong quang minh, hiện ra đủ thứ thần thông diệu dụng, có cảnh giới không thể nghĩ bàn, tất cả chúng sinh thấy được cảnh giới này, đều sinh tâm hoan hỷ tin nhận.
Hoặc thấy quang biển mây của Phật
Từ lỗ lông hiện sắc rực rỡ
Thị hiện đạo tu hành thuở xưa
Khiến sinh tin sâu vào Phật trí.
‘’Hoặc thấy quang biển mây của Phật.’’ Hoặc có loại chúng sinh, thấy được quang biển mây của Phật. Ðó là biểu thị quang minh của Phật, rộng lớn như biển cả và nhiều như mây.
‘’Từ lỗ lông hiện sắc rực rỡ.’’ Thứ quang minh này, từ trong lỗ chân lông của Phật, hiện ra vô lượng vô biên quang biển mây, có đủ thứ màu sắc rất rực rỡ phi thường.
‘’Thị hiện đạo tu hành thuở xưa.’’ Ðủ thứ quang minh và đủ thứ màu sắc hiện ra ở trong lỗ lông, lại thị hiện ra đủ thứ pháp môn, đủ thứ đạo của Phật tu, khi Ngài ở tại nhân địa. Giống như diễn kịch, từng màn từng màn hiện ra ở trước chúng sinh, khiến cho chúng sinh y theo pháp mà tu hành.
‘’Khiến sinh tin sâu vào Phật trí.’’ Tại sao phải thị hiện cảnh giới này ? Vì muốn khiến cho đại chúng ở trong pháp hội, tin sâu pháp này mà khai ngộ, đắc được đại trí huệ của Phật.
Hoặc thấy tướng nghiêm phước của Phật
Và thấy phước này sinh từ đâu
Thuở xưa tu các Ba la mật
Ðều thấy rõ trong tướng của Phật.
‘’Hoặc thấy tướng nghiêm phước của Phật.’’ Hoặc có loại chúng sinh lại thấy ba mươi hai tướng, và tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân của Phật. Vì khi thuở xưa Phật tu hành, thì tu phước tu huệ, cho nên phước huệ đều trang nghiêm. Phước cũng trang nghiêm, huệ cũng trang nghiêm, cho nên gọi là ‘’Lưỡng Túc Tôn,’’ tức là phước cũng đầy đủ, huệ cũng đầy đủ.
Lưỡng Túc Tôn ở đây chẳng phải là “hai chân” mà nghĩa là phước huệ đều đủ (vì chữ lưỡng nghĩa là hai, chữ túc có nghĩa là chân, là đủ, song chữ túc ở đây nghĩa là đầy đủ).
‘’Và thấy phước này sinh từ đâu.’’ Có loại chúng sinh thấy tướng trăm phước trang nghiêm của Phật, song chẳng biết phước này từ đâu đến ? Phước này do sự tu hành trung đạo mà đến. Cho nên phải tu phước, tu huệ, phước huệ song tu. Giống như chiếc xe hai bánh, một lớn một nhỏ thì tuyệt đối chẳng tiến về trước được, phải phát triển đồng đều mới có hiệu quả. Do đó có câu :
‘’Tu phước không tu huệ,
Làm voi mang anh lạc;
Tu huệ chẳng tu phước,
La Hán ôm bát không.’’
Tu phước như thế nào ? Tức là lợi ích chúng sinh, làm nhiều công đức. Tu huệ như thế nào ? Tức là giảng kinh thuyết pháp, siêng tụng kinh điển. Lợi ích chúng sinh thì tăng trưởng phước báo, trì tụng kinh điển thì khai mở trí huệ.
‘’Thuở xưa tu các Ba la mật.’’ Thuở xưa tu mười độ Ba la mật, tu vạn hạnh thì đến bờ bên kia.
‘’Ðều thấy rõ trong tướng của Phật.’’ Ðều nhìn thấy rõ ràng, phước từ đâu đến ở trong tướng của Phật.
Công đức Như Lai không thể lường
Sung mãn pháp giới khắp bờ mé
Và dùng thần thông các cảnh giới
Nhờ Phật lực nên diễn nói được.
‘’Công đức Như Lai không thể lường.’’ Công đức của Phật rộng lớn vô biên, không thể dò lường.
‘’Sung mãn pháp giới chẳng bờ mé.’’ Công đức của Phật sung mãn khắp pháp giới, chẳng có bờ mé.
‘’Và dùng thần thông các cảnh giới.’’ Cảnh giới là sở hiện của thần thông, thần thông diệu dụng này, và thần thông các cảnh giới không thể nghĩ bàn.
‘’Nhờ Phật lực nên diễn nói được.’’ Nhờ mười phương chư Phật, và đại oai thần lực của Ðức Phật Thích Ca, mới diễn nói được đạo lý này, sự diệu dụng này và cảnh giới này.
Bấy giờ, Thế Giới Hải Hoa Tạng Trang Nghiêm, nhờ thần lực của đức Phật, mà tất cả mặt đất, đều có sáu thứ mười tám tướng chấn động. Ðó là: Ðộng, biến động, phổ biến động. Khởi, biến khởi, phổ biến khởi. Dũng, biến dũng, phổ biến dũng. Chấn, biến chấn, phổ biến chấn. Hống, biến hống, phổ biến hống. Kích, biến kích, phổ biến kích.
Khi nói xong bài kệ ở trên, thì Hoa Tạng thế giới hải, nhờ đại oai thần lực của Phật, phát sinh sáu thứ chấn động.
Hoa Tạng thế giới hải, là do đủ thứ loại thế giới mà thành. Thế giới của chúng ta là thế giới Ta Bà, là từng thứ mười ba trong Liên Hoa Tạng thế giới, ở trong Hoa Tạng thế giới hải. Trong thế giới này, có vô lượng vô biên thế giới, chẳng phải chỉ có thế giới của chúng ta ở, mà còn có các thế giới khác. Tại sao đất phải chấn động ? Vì sức đại oai thần thông của Phật, cho nên mới chấn động. Mặt đất đó có sáu thứ chấn động khác nhau. Một thứ lại có ba dạng phát sinh, cộng thành mười tám tướng chấn động.
Sáu thứ chấn động là: Chấn, hống, kích, động, dũng, khởi. Chấn, hống, kích, thuộc về âm thanh; động, dũng, khởi, thuộc về hình. Ðất động và đất chấn là do đủ thứ nhân duyên mà phát sinh. Ðịa chấn tức là rung động, sẽ tạo thành tai hại to lớn. Ðất động chỉ động động mà thôi chẳng có tai hại.
Nhân duyên mười thứ chấn động :
1). Nước động lớn, thì đất cũng chấn động.
2). Tất cả vị Thần tôn quý, muốn thử sức lực của mình lớn cỡ nào, nên đất cũng chấn động.
3). Khi Phật nhập thai, thì đất cũng chấn động.
4). Khi Phật ra đời, đất cũng chấn động.
5). Khi Phật tu hành thành đạo chứng quả, thì đất cũng chấn động.
6). Khi Phật chuyển pháp luân, đất cũng chấn động.
7). Phật không thuyết pháp, không giáo hóa chúng sinh, đất cũng chấn động.
8). Khi Phật vào Niết Bàn, đất cũng chấn động.
9). Ðại Tỳ Kheo có thần túc thông, tâm đắc được tự tại quán đất vô tướng, dùng thần thông khiến cho đất chấn động.
10). Khi Phật thọ ký cho Bồ Tát : ‘’Ngươi tại thế giới nào thành Phật,’’ lúc đó địa thần hoan hỷ, đất cũng chấn động.
Ngoài ra còn có bảy thứ chấn động :
1). Khiến cho tất cả ma sợ hãi, cũng có sự chấn động.
2). Khi thuyết pháp, khiến cho tâm của đại chúng chẳng tán loan, cũng có tình hình đất chấn động.
3). Khiến cho chúng sinh phóng dật sinh tâm giác ngộ, đất cũng chấn động.
4). Khiến cho tất cả chúng sinh biết được pháp tướng, đất cũng chấn động.
5). Khiến cho tất cả chúng sinh quán sát được nơi thuyết pháp, đất cũng chấn động.
6). Khiến cho căn lành của chúng sinh thành thục, đắc được giải thoát, đất cũng chấn động.
7). Khiến cho tùy thuận chúng sinh, hỏi về chánh nghĩa, đất cũng chấn động.
Ngoài ra còn có ba thứ chấn động :
1). Khiến cho chúng sinh bất thiện cải ác hướng thiện, lúc đó đất cũng chấn động.
2). Khiến cho các chúng sinh tin các vị trời, biết trời chẳng phải cứu kính, lúc đó đất cũng chấn động.
3). Khiến cho tất cả chúng sinh ngã mạn sinh tâm hổ thẹn, lúc đó đất cũng chấn động.
Mười tám tướng chấn động là gì ?
1). Ðộng : Có hình tướng, nhìn thấy được, một phương động là động.
2). Biến động : Bốn phương lần lượt động.
3). Phổ biến động : Tám phương đều động.
4). Khởi : Dưới hướng lên khởi tốc độ chậm hơn, một phương khởi gọi là khởi.
5). Biến khởi : Bốn phương khởi.
6). Phổ biến khởi : Tám phương khởi.
7). Dũng (vọt) : Từ dưới vọt đi lên, tốc độ nhanh hơn, một phương vọt gọi là dũng.
8). Biến dũng : Bốn phương dũng.
9). Phổ biến dũng : Tám phương dũng.
10). Chấn : Có âm thanh, đó đây cùng nhau chấn động, một phương chấn gọi là chấn.
11). Biến chấn : Bốn phương chấn động.
12). Phổ biến chấn : Tám phương đều chấn.
13). Hống : Âm thanh rất lớn gọi là hống, một phương hống gọi là hống.
14). Biến hống : Bốn phương đều hống.
15). Phổ biến hống : Tám phương đều hống.
16). Kích : Cùng nhau xung kích, một phương kích, gọi là kích.
17). Biến kích : Bốn phương đều kích.
18). Phổ biến kích : Tám phương đều kích.
Lại có người nói rằng bốn phương chấn là chấn, tám phương chấn là biến chấn, mười phương chấn là phổ biến chấn, lối nói này, tôi thấy rằng không thích đáng lắm. Tại sao ? Vì sáu thứ chấn động ở phương trên chúng ta không biết. Tức nhiên chúng ta không biết, chỉ có thể nói là tám phương, không thể nói là mười phương. Một số người nói, lấy một phương, bốn phương, tám phương, làm tiêu chuẩn, như thế thì hợp lý hơn.
Còn có một lối nói rằng, một phương chấn là chấn, bốn phương lần lượt chấn là phổ biến chấn. Lần lượt và cùng lúc là khác nhau. Lần lượt là theo thứ tự chấn động, phương này chấn động rồi, thì phương khác mới chấn động, chấn động từng phương từng phương. Cùng lúc là đồng thời đều chấn động, hoặc là một phương, hoặc bốn phương, hoặc tám phương.
Mười tám thứ chấn động này, tức cũng đại biểu cho mười tám giới. Mười tám giới là: Sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), sáu thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức) cũng giống như chấn động.
Các vị thế chủ đó, ai nấy đều hiện mây cúng dường không nghĩ bàn, mưa xuống nơi đại chúng hải hội đạo tràng của Như Lai.
Ở trong các thế chủ này, có Phật, Bồ Tát, các vị thần, Chuyển luân thánh vương, đều ở trong pháp hội đạo tràng. Mỗi vị thế chủ đều hiện ra mây cúng dường Phật không thể nghĩ bàn, những mây này giống như mưa, mưa xuống nơi tất cả đại chúng hải hội, Bồ đề đạo tràng của Như Lai.
Ðó là: Mây tất cả hoa thơm trang nghiêm. Mây tất cả châu ma ni nghiêm sức vi diệu. Mây tất cả lưới hoa báu rực rỡ. Mây vô biên các loại ma ni báu quang minh viên mãn. Mây tất cả tạng châu báu nhiều màu. Mây tất cả chiên đàn quý báu thơm. Mây tất cả bảo cái. Mây châu ma ni vương vang ra âm thanh thanh tịnh vi diệu. Mây chuỗi ma ni hình bánh xe sáng như mặt trời. Mây tất cả tạng quang minh báu. Mây tất cả đồ trang nghiêm đều khác biệt. Các thứ mây cúng dường như thế, số nhiều vô lượng không thể nghĩ bàn.
Những mây của các vị thế chủ cúng dường Phật, đều là những mây gì ? Có mười một thứ mây cúng dường không thể nghĩ bàn.
1). Có đủ thứ mây hương và đủ thứ mây hoa để trang nghiêm.
2). Có đủ thứ mây châu báu ma ni nghiêm sức vi diệu.
3). Có đủ thứ mây châu báu phóng quang minh rực rỡ kết thành lưới hoa.
4). Có mây đủ thứ vô biên loại ma ni báu phóng quang minh viên mãn.
5). Có đủ thứ mây tạng trân châu và các màu sắc báu.
6). Có đủ thứ mây quý báu hương chiên đàn.
7). Có đủ thứ mây châu báu kết thành bảo cái.
8). Có mây ma ni vương vang diệu âm thanh tịnh.
9). Có mây chuỗi ma ni hình bánh xe sáng như mặt trời.
10). Có đủ thứ mây báu phóng quang minh tạng.
11). Có đủ thứ mây đồ trang nghiêm đều khác nhau. Ở trên đề ra mười một thứ mây cúng dường làm đại biểu, còn có vô số vô lượng mây cúng dường, cũng có mây cúng dường nhiều không thể nghĩ bàn.
Các vị thế chủ đó, ai nấy đều hiện mây cúng dường như thế, mưa xuống khắp hết thảy nơi đại chúng hải hội đạo tràng của Như Lai.
Tất cả những vị thế chủ này, ai nấy đều hiện ra mây cúng dường như đã nói ở trên, ở tại đại chúng hải hội bồ đề đạo tràng nơi Phật thành đạo, chẳng có nơi nào mà chẳng có mây cúng dường.
Như trong thế giới này, mỗi vị thế chủ đều sinh tâm hoan hỷ cúng dường như thế. Trong Thế Giới Hải Hoa Tạng Trang Nghiêm, hết thảy các thế chủ của tất cả thế giới, cũng đều cúng dường như thế, trong tất cả thế giới đó, đều có đức Như Lai ngồi nơi đạo tràng.
Giống như trong thế giới của chúng ta, mỗi vị thế chủ của một nước, hoặc Thần của một mảnh đất sinh tâm đại hoan hỷ, đều đến cúng dường Phật như thế.
Trong Thế Giới Hải Hoa Tạng Trang Nghiêm, có vô lượng thế giới, trong mỗi thế giới lại có vô lượng thế giới. Ở trong hết thảy tất cả vô lượng thế giới, hết thảy tất cả vị thế chủ, đều dùng mây cúng dường để cúng dường Phật, tức cũng là, hết thảy các ông vua ở trong mỗi quốc độ, đều phát tâm cúng dường như thế, ở trong mỗi quốc độ, đều thấy Phật thành Phật ở dưới cội bồ đề, cho nên phát tâm cúng dường Ðức Phật.
Ở trong Thế Giới Hải Hoa Tạng, dưới cội bồ đề của hết thảy tất cả thế giới, Phật đều ngồi ở đó thành Chánh giác, làm đạo tràng diễn nói diệu lý Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật.
Mỗi vị thế chủ đều có sự tin hiểu khác nhau, sở duyên khác nhau, môn phương tiện tam muội khác nhau, tu tập pháp trợ đạo khác nhau, thành tựu khác nhau, ngộ hiểu các pháp môn khác nhau, vào cảnh giới thần thông của Như Lai khác nhau, vào sức cảnh giới của Như Lai khác nhau, vào môn giải thoát của Như Lai khác nhau.
Mỗi thế giới đều có thế chủ, tức cũng là ông vua, mỗi ông vua đều sinh tâm tin sâu thấu hiểu Phật pháp. Nghe pháp có ba điều lợi ích :
1). Văn ích (ích lợi của sự nghe) : Vì thấy nghe hay sinh tâm tin hiểu, nghe được pháp của Phật nói mà minh bạch đạo lý bên trong, đây gọi là tin hiểu, cũng gọi là lợi ích của sự nghe.
2). Tư ích (ích lợi của sự suy nghĩ) : Nghe rồi bèn suy nghĩ, quán lý chân thật của lời nói.
3). Tu ích (ích lợi của sự tu) : Ở trong ích lợi của sự tu lại có bảy thứ lợi ích.
A). Tu môn : Tu đủ thứ pháp môn tam muội mà thành tựu thánh quả.
B). Tu pháp : Y theo pháp tu hành, thì đắc được pháp hỷ sung mãn. Pháp chủ yếu là phải có tín tâm, nguyện tâm, sau đó phải thực hành.
C). Tu quả : Do tu mà minh bạch đạo lý, chứng được Thánh quả.
D). Tu ích : Phải tu hành mới đắc được đủ thứ lợi ích.
E). Tu chuyển : Chuyển phàm phu thành Thánh nhân.
F). Tu đồng : Pháp môn mà chúng ta ngộ hiểu, đồng với pháp môn của các vị Thánh nhân chứng đắc trong quá khứ.
G). Tu cực : Tu đến cực điểm, trong sự tu cực lại chia ra ba loại :
1. Ðại bi cực : Vào cảnh giới thần thông của Phật, tại sao phải vào cảnh giới thần thông của Phật ? Vì muốn lợi ích tất cả chúng sinh, đó là thành tựu ân đức của Phật.
2. Ðại trí cực : Vào sức cảnh giới của Phật, vào sức trí huệ của Phật, lúc đó bi trí siêu tuyệt, chẳng gì sánh bằng, đây là thành tựu trí huệ của Phật.
3. Tự tại cực : Vào môn giải thoát của Phật, trừ sạch tất cả chướng ngại, tâm cảnh đều tự tại, tức cũng là tâm cảnh như như, tâm cảnh không hai, đó là thành tựu đoạn đức của Phật, tức cũng là thành tựu tất cả môn giải thoát của Phật. Mỗi vị thế chủ đều đắc được ba thứ lợi ích văn, tư, tu.
Mỗi vị thế chủ sau khi tâm tin hiểu sâu xa rồi, ai nấy y chiếu theo nhân duyên của mình để tu hành, tu môn phương tiện tam muội của mình, còn phải tu tập pháp trợ đạo của mình, tức cũng là làm tất cả việc lành, dùng công đức lành để trợ giúp sự tu đạo. Mình tu pháp môn của mình, thì sẽ đắc được pháp mình tu, cho nên ai nấy đều sinh tâm đại hoan hỷ. Họ càng vào sâu pháp môn sở tu, thì đều ngộ hiểu sở tu các pháp môn, sở tu được thần thông diệu dụng của Phật, đều vào cảnh giới của Phật, cũng vào cảnh giới trí huệ lực của Phật. Cuối cùng đều vào môn giải thoát của Phật. Môn giải thoát này tức là đoạn đức của Phật, đoạn tất cả phiền não, đắc được giải thoát.
Như nơi Thế Giới Hải Hoa Tạng này, mười phương tận pháp giới hư không giới, trong tất cả thế giới hải cũng đều như thế.
Ở trong Hoa Tạng thế giới hải này, hết thảy thế giới trong mười phương, hết thảy hư không giới, trong tất cả thế giới hải mười phương, mỗi thế giới đều như thế. Mỗi vị thế chủ của thế giới, đều nổi mây cúng dường, sau đó hết thảy các vị thế chủ đều vào môn giải thoát của Phật.
Bây giờ đã lược giảng xong Phẩm Thứ Nhất Thế Chủ Diệu Nghiêm. Nay dùng kệ khen ngợi để giải thích :
‘’Hoa Nghiêm pháp hội,
Bảo tạng linh văn.
Ðại thiên kinh quyển nhất vi trần,
Phẩu xuất tại đương nhân.
Hoa vũ tân phân,
Pháp giới phổ huân văn.’’
Ðây là kệ khen ngợi một phẩm Kinh Hoa Nghiêm này.
‘’Hoa Nghiêm hải hội.’’ Hải hội của kinh Hoa Nghiêm vô cùng vô tận.
‘’Bảo Tạng linh văn.’’ Bộ kinh này là Bảo Tạng, còn là Linh văn. Bất cứ người nào tụng, thì người đó có công ích và lợi ích.
‘’Ðại thiên kinh quyển nhất vi trần.’’ Bộ kinh quyển này lớn như đại thiên thế giới, chứa đựng ở trong một hạt bụi.
‘’Phẩu xuất tại đương nhân.’’ Dùng đao bổ hạt bụi ra, thì đại thiên kinh quyển hiện ra. Chính bạn như có bổn sự này, tức bổ hạt bụi này ra, thì minh bạch được đạo lý của Kinh Hoa Nghiêm.
‘’Hoa vũ tân phân.’’ Bạn làm được như thế, thì trời mưa hoa báu xuống rực rỡ.
‘’Pháp giới phổ huân văn.’’ Tất cả chúng sinh trong pháp giới, đều được pháp vị công đức huân tập, tất cả chúng sinh đều được nghe.
(Hết tập 4)
Hồi hướng công đức
Trong các sự bố thí, thì bố thí pháp là cao thượng nhất. Vì ấn tống kinh điển bố thí cho mọi người đọc, khiến cho họ hiểu rõ những lời đức Phật dạy, phát tâm tu học, thực hành hạnh Bồ Tát, tự lợi lợi tha, tự độ độ tha, tích tụ căn lành công đức, hồi hướng về quả Vô thượng bồ đề, cuối cùng sẽ chứng ngộ quả vị Phật. Nhờ giáo lý Pháp bảo mà chúng ta tin, hiểu, thực hành, và chứng ngộ.
Xin hồi hướng công đức pháp thí cao thượng nầy, đến các bậc Thầy Tổ, và toàn thể tất cả Phật tử đã phát tâm hùn phước ấn tống, hữu danh hoặc vô danh, và thân bằng quyến thuộc của tất cả quý vị còn sống hoặc đã quá vãng, cùng pháp giới chúng sinh, thảy đều được lợi lạc, căn lành tăng trưởng, tâm bồ đề kiên cố, luôn luôn an trụ ở trong chánh pháp, tu hành chánh pháp, rốt ráo được thoát khỏi sinh tử luân hồi, đến được bờ giác ngộ bên kia.
Nam Mô Hộ Pháp Vi Ðà Tôn Thiên Bồ Tát
Kệ hồi hướng công đức
Nguyện đem công đức nầy
Trang Nghiêm cõi Phật tịnh
Trên đền bốn ân nặng
Dưới cứu ba đường khổ
Nếu có ai thấy nghe
Liền phát tâm bồ đề
Khi bỏ báo thân nầy
Sinh về cõi Cực Lạc.
Thiên Vương thuộc về trời Nhị Thiền.