Đ a n g t i d l i u . . .

0842. Kinh Đại Phương Quảng Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa

0842. Kinh Đại Phương Quảng Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa

Kinh Rõ nghĩa hợp ý hiểu đầy đủ rộng mở chuyên nghiệp
(Đại Phương Quảng Viên giác Tu Đa La Liễu Nghĩa Kinh)
Hán dịch: Đại Đường Kế Tân Tam Tạng Phật Đà Đa La
Việt dịch: Phật Tử Bùi Đức Huề dịch năm 2010-2013

 

Kinh Rõ nghĩa hợp ý hiểu đầy đủ rộng mở chuyên nghiệp.

Tôi nghe như thế. Thời đó Phật Thế Tôn vào tạng Quang sáng lớn Thần thông, Nhận đúng Tam muội. Tất cả Quang sáng của Như Lai trang nghiêm dừng giữ. Đây là nơi hiểu Thanh tịnh của chúng sinh, thân tâm Vắng lặng, giữa vốn dĩ Bình đẳng, tràn đầy mười phương. Không thuận theo hai, không có hai cảnh giới, hiện ra các đất Thanh tịnh. Cùng với Bồ Tát lớn nhất, Bồ Tát lớn mười vạn người đi theo.

Tên họ là : Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Phổ Hiền Bồ Tát, Phổ Nhãn Bồ Tát, Kim Cương Tạng Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát. Thanh Tịnh Tuệ Bồ Tát, Uy Đức Tự Tại Bồ Tát, Biện Âm Bồ Tát. Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ Tát, Phổ Giác Bồ Tát, Viên giác Bồ Tát, Hiền Thiện Thủ Bồ Tát. Mà là đứng hàng đầu. Cùng các quyến thuộc, đều vào Tam muội. Cùng ở trong hội Pháp bình đẳng của Như Lai.

Khi đó Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, ở trong Đại Chúng, tức thời từ chỗ ngồi đứng lên. Đỉnh lễ chân Phật, vòng phải ba lần, quỳ lâu đan chéo ngón tay, mà báo cáo Phật nói rằng : Đại Bi Thế Tôn ! Nguyện vì hội này, các chúng Pháp thời Tương lai. Nói về thực hành Pháp khởi nguồn Trí tuệ Thanh tịnh của Như Lai. Cùng nói về Bồ Tát ở trong Pháp Bậc Phật, phát tâm Thanh tịnh, rời xa các bệnh. Có thể khiến cho chúng sinh đời Tương lai thời vận hết, cầu Pháp Bậc Phật không rơi xuống thấy sai. Làm lời nói đó xong, phục đất đỉnh lễ, thỉnh cầu ba lần như thế, sau cùng mà trở về chỗ cũ.

Khi đó Thế Tôn bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói rằng : Thiện thay ! Thiện thay ! Người nam thiện ! Các Ngài lại hay vì các Bồ Tát. Hỏi cách thực hành Trí tuệ của Như Lai, và vì tất cả chúng sinh thời vận hết, cầu được Pháp Bậc Phật. Được dừng giữ đúng không rơi xuống thấy sai. Ngài nay nghe Tuệ ! Đang vì Ngài nói.

Khi đó Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, vui vẻ vâng theo lời dạy, cùng với các Đại Chúng im lặng mà nghe. Người nam thiện ! Vua Pháp Bình Đẳng có môn Đà La Ni lớn, tên là Hiểu đầy đủ. Luân chuyển sinh ra tất cả Niết Bàn, Bồ Đề, Chân Như Thanh tịnh và Pháp tới Niết Bàn. Dạy truyền thụ cho Bồ Tát, Trí tuệ phát ra cội nguồn của tất cả Như Lai. Đều dựa vào hình tướng hiểu Thanh tịnh chiếu sáng đầy đủ, vĩnh cắt đứt Ngu tối, hình thành Đạo Phật.

Thế nào là Ngu tối ? Người nam thiện ! Tất cả chúng sinh từ xưa tới nay, đủ loại đảo lộn. Giống như người nằm mơ, dễ đi tới bốn phương, ảo Nhận bốn Lớn : Nước Đất Gió Lửa là hình tướng của bản thân. Hình ảnh của duyên Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp làm hình tướng của tự tâm. Ví như mắt của người bệnh thấy hoa ở trong trống rỗng và Trăng thứ hai. Người nam thiện ! Trong trống rỗng thực không có hoa, người bệnh cầm giữ ảo, do vì cầm giữ ảo. Không phải chỉ nghi hoặc tự tính trống rỗng này, cũng lại mê muội nơi sinh ra hoa thực đó. Do ảo này có luân chuyển sinh chết, vì thế tên là Ngu tối. Người nam thiện ! Ngu tối này có hình thể không phải thực. Như người trong mơ, khi mơ thấy Có, và tới khi tỉnh, biết rõ không đâu được. Như các hoa ảo, mất ở trong trống rỗng, không thể nói giảng, có nơi mất cố định. Cớ là sao ? Do không có nơi sinh. Tất cả chúng sinh ở trong không sinh. Ảo thấy sinh mất. Vì thế nói tên Luân chuyển sinh chết. Người nam thiện ! Trí tuệ của Như Lai. Người tu hiểu đầy đủ. Biết hoa ảo đó, tức thời không có luân chuyển. Cũng không có thân tâm Nhận sinh chết đó, làm sai cho nên không có, do tính vốn dĩ không có. Hiểu biết đó như thế. Giống như trống rỗng. Biết trống rỗng, liền là hình tướng hoa ảo, cũng không thể nói. Không biết tính hiểu. Có, Không đều sai khiến. Chắc tên là Thuận theo hiểu Thanh tịnh. Cớ là sao ? Do tính trống rỗng, cho nên thường không động. Trong tạng Như Lai do không sinh mất. Do không thấy biết, như tính Cõi Pháp, thành quả tràn đầy, cho nên đầy khắp mười phương. Chắc tên là Bồ Tát thực hành Pháp Trí tuệ, nhân do việc này ở trong Pháp Bậc Phật, phát tâm Thanh tịnh. Chúng sinh thời vận hết, dựa theo điều này tu hành, không rơi xuống thấy sai. Khi đó Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này mà đọc bài kệ nói rằng :

Văn Thù Ngài cần biết. Tất cả các Như Lai. Theo gốc nguồn Trí tuệ. Đều do hiểu Trí tuệ. Sáng tỏ với Ngu tối. Biết nó như hoa ảo. Tức thời không lưu chuyển. Lại như người trong mơ. Tỉnh dậy không thể được. Người hiểu như khoảng Không. Bình đẳng không động chuyển. Hiểu khắp cõi mười phương. Liền được thành Đạo Phật. Ảo không có nơi mất. Thành Đạo cũng không được. Do tính vốn đầy đủ. Bồ Tát ở trong này. Hay phát tâm Bồ Đề. Chúng sinh thời vận hết. Tu nó miễn thấy sai.

Khi đó Phổ Hiền Bồ Tát, ở trong Đại Chúng, tức thời từ chỗ ngồi đứng lên. Đỉnh lễ chân Phật, vòng phải ba lần, quỳ lâu chắp tay đan chéo ngón tay, mà báo cáo Phật nói rằng : Đại Bi Thế Tôn ! Nguyện vì các chúng Bồ Tát của hội này. Và vì chúng sinh thời vận hết tu Pháp Bậc Phật. Nghe cảnh giới Thanh tịnh Hiểu đầy đủ này. Tu hành như thế nào ? Thế Tôn ! Nếu chúng sinh đó, biết nó như ảo, thân tâm cũng ảo. Làm sao dùng ảo trở lại tu sửa ảo ? Nếu tính của các ảo, mất hết tất cả, chắc là không có tâm. Ai làm việc sửa chữa ? Vì sao lại nói sửa chữa như ảo ? Nếu các chúng sinh, vốn dĩ không sửa chữa, ở trong sinh chết, thường sống trong ảo hóa. Từng chưa biết rõ cảnh giới giống như ảo. Làm cho tâm tưởng ảo, Giải thoát sao đây ? Nguyện vì tất cả chúng sinh thời vận hết. Làm Phương tiện nào ? Lần lượt tu luyện, giúp cho các chúng sinh vĩnh rời các ảo. Làm lời nói đó xong, phục đất đỉnh lễ, thỉnh cầu ba lần như thế, sau cùng mà trở lại chỗ cũ.

Khi đó Thế Tôn bảo Phổ Hiền Bồ Tát nói rằng : Thiện thay ! thiện thay ! Người nam thiện ! Các Ngài lại hay vì các Bồ Tát và chúng sinh thời vận hết. Tu luyện Phương tiện Tam muội như ảo của các Bồ Tát, dần dần giúp cho các chúng sinh được rời các ảo. Ngài nay nghe Tuệ ! Đang vì Ngài nói. Khi đó Phổ Hiền Bồ Tát, vui mừng vâng theo lời dạy. Cùng các Đại Chúng im lặng mà nghe. Người nam thiện ! Tất cả chúng sinh, đủ loại ảo biến hóa. Đều sinh từ tâm hiểu đầy đủ vi diệu của Như Lai. Giống như hoa ảo theo Rỗng mà Có. Hoa ảo tuy mất, tính Rỗng không phá hỏng. Tâm ảo của chúng sinh, trở lại dựa vào mất ảo, diệt hết các ảo. Tâm hiểu không động. Dựa vào ảo nói hiểu, cũng tên là ảo. Nếu nói có hiểu. Do chưa rời ảo. Nói không có hiểu, cũng lại như thế. Vì thế mất ảo, tên là Không động. Người nam thiện ! Tất cả Bồ Tát và chúng sinh thời vận hết. Cần phải rời xa tất cả cảnh giới biến hóa ảo. Do cầm giữ kiên cố cho nên tâm rời xa. Tâm giống như ảo, cũng lại rời xa, rời xa là ảo. Cũng lại rời xa, rời xa rời ảo, cũng lại rời xa, được không đâu rời, tức thời bỏ các ảo. Ví như dùi lấy lửa, do hai thanh gỗ cọ sát nhau mà phát sinh ra lửa, gỗ cháy hết khói cũng bay hết. Dùng ảo tu ảo, cũng lại như thế. Các ảo tuy hết, không vào cắt đứt mất. Ngài nam thiện ! Biết ảo tức thời rời, không làm Phương tiện. Rời ảo tức thời hiểu, cũng không có thứ tự. Tất cả Bồ Tát và các chúng sinh thời vận hết, dựa vào đây tu hành. Như thế mới có thể vĩnh rời các ảo. Khi đó Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này mà đọc bài kệ nói rằng :

Phổ Hiền Ngài nên biết. Tất cả các chúng sinh. Ngu tối ảo xa xưa. Đều từ các Như Lai. Tạo lập tâm biết đủ. Giống như hoa trống rỗng. Dựa Rỗng mà có ảnh. Hoa ảo nếu lại mất. Khoảng Không vốn không động. Ảo sinh từ các biết. Ảo mất hiểu đầy đủ. Do tâm hiểu không động. Nếu các Bồ Tát đó. Cùng Chúng thời vận hết. Thường cần rời xa ảo. Các ảo đều cùng rời. Như lửa sinh trong gỗ. Gỗ hết lửa mất hết. Hiểu không có thứ tự. Phương tiện cũng như thế.

Khi đó Phổ Nhãn Bồ Tát, ở trong Đại Chúng, tức thời từ chỗ ngồi đứng lên. Đỉnh lễ chân Phật, vòng phải ba lần, quỳ lâu chắp tay đan chéo ngón tay, mà báo cáo Phật nói rằng : Đại Bi Thế Tôn ! Nguyện vì các chúng Bồ Tát của hội này, và các chúng sinh thời vận hết. Diễn thuyết thứ tự tu hành của Bồ Tát. Suy nghĩ ra sao ? Dừng giữ thế nào ? Chúng sinh chưa hiểu, làm Phương tiện gì, rộng giúp cho chúng sinh mở biết ? Thế Tôn ! Nếu chúng sinh đó. Không có Phương tiện đúng và suy nghĩ đúng. Nghe Phật Như Lai nói Tam muội này. Tâm sinh bức bối, chắc là với hiểu đầy đủ, không thể biết vào, nguyện rộng lòng Từ Bi. Vì Con và bậc trên cùng với các chúng sinh thời vận hết, nói Phương tiện giả. Làm lời nói đó xong, phục đất đỉnh lễ, thỉnh cầu ba lần như thế, sau cùng trở về chỗ cũ.

Khi đó Thế Tôn bảo Phổ Nhãn Bồ Tát nói rằng : Thiện thay ! Thiện thay ! Người nam thiện ! Các Ngài lại hay vì các Bồ Tát và các chúng sinh thời vận hết. Hỏi Như Lai thứ tự tu hành, suy nghĩ dừng giữ, thậm chí nói các loại Phương tiện giả. Ngài nay nghe Tuệ ! Đang vì Ngài nói. Khi đó Phổ Nhãn Bồ Tát, vui vẻ vâng theo lời dạy. Cùng với các Đại Chúng im lặng mà nghe.

Người nam thiện ! Bồ Tát mới học Pháp đó cùng với chúng sinh thời vận hết. Muốn cầu tâm hiểu đầy đủ Thanh tịnh của Như Lai, cần phải nghĩ nhớ đúng, rời xa các ảo. Trước tiên dựa vào thực hành Tĩnh Lặng lớn, giữ Giới cấm kiên cố, sống yên ổn trong Chúng, yên vui ngồi trong phòng Tĩnh lặng. Thường làm nghĩ nhớ đó. Nay thân của ta, Nước Đất Gió Lửa hòa hợp. Gọi là tóc lông móng tay móng chân răng da thịt gân xương tuỷ não sắc cáu bẩn, đều trở về Đất. Nước mắt máu mủ, tân dịch nước dãi nước bọt, đờm tuyến lệ tinh khí, đại tiện tiểu tiện, đều trở về Nước. Khí nóng thuộc về Lửa, chuyển động trở về Gió. Nước Đất Lửa Gió đều rời, hiện nay thân ảo. Đang ở nơi nào ? Tức thời biết thân này, cuối cùng không có hình thể. Hòa hợp thì có hình thể, thực chất đều là ảo hóa. Bốn duyên giả hòa hợp, ảo có sáu Căn : Mắt Mũi Tai Lưỡi Thân Ý. Bốn Lớn sáu Căn, trong ngoài hợp thành. Ảo có khí duyên, tích tụ trong đó tự có duyên, hình tướng giả tên là tâm. Người nam thiện ! Tâm ảo vọng này, nếu không có sáu Trần : Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp, chắc là không thể Có. Bốn Lớn phân tán, không có sáu Trần có thể được, trong đó duyên sáu Trần, đều trở về tan mất. Cuối cùng không có, tâm duyên có thể thấy.

Người nam thiện ! Do thân ảo của chúng sinh đó mất, tâm ảo cũng mất. Do tâm ảo mất, sáu Trần ảo cũng mất. Do sáu Trần ảo mất, mất ảo cũng mất. Do mất ảo mất, chân thực không mất. Ví như lau kính, lau sạch bẩn, hiện thành sáng. Người nam thiện ! Cần biết Thân Tâm đều là ảo, hình tướng cáu bẩn vĩnh mất, mười phương Thanh tịnh. Người nam thiện ! Ví như châu quý Như ý Thanh tịnh phát ra năm màu sắc, hiện ra tùy theo phương hướng. Người ngu si thấy châu Như ý đó thực có năm màu sắc. Người nam thiện ! Tính Thanh tịnh hiểu đầy đủ, hiện ở trong Thân Tâm, tùy theo sự mong muốn. Người ngu si đó. Nói hiểu đầy đủ Thanh tịnh thực có Thân Tâm như thế. Hình tướng tự thân cũng lại như thế. Do không thể xa lánh ảo hóa này. Vì thế Ta nói ảo bẩn của Thân tâm, song hành rời ảo bẩn. Nói tên là Bồ Tát cùng bỏ hết bẩn, tức thời không cùng với bẩn, cũng là nói tên giả.

Người nam thiện ! Bồ Tát này cùng với chúng sinh thời vận hết. Do chứng nghiệm ảnh tượng mất các ảo. Khi đó liền được Thanh tịnh không có phương cách. Vô biên trống rỗng được hiểu phát hiện ra rõ. Do hiểu đầy đủ sáng, hiện ra rõ tâm Thanh tịnh. Do tâm Thanh tịnh, thấy sáu Trần Thanh tịnh. Thấy Thanh tịnh cho nên Căn mắt Thanh tịnh. Căn Thanh tịnh cho nên nhận Thức của mắt Thanh tịnh. Nhận Thức Thanh tịnh cho nên nghe sáu Trần Thanh tịnh. Nghe Thanh tịnh cho nên Căn tai Thanh tịnh. Căn Thanh tịnh cho nên nhận Thức của tai Thanh tịnh. Nhận Thức Thanh tịnh cho nên hiểu sáu Trần Thanh tịnh. Như thế thậm chí mũi lưỡi thân ý cũng đều như thế. Người nam thiện ! Căn Thanh tịnh cho nên sáu Trần của Sắc Thanh tịnh. Sắc Thanh tịnh cho nên sáu Trần của âm thanh Thanh tịnh. Hương Vị Xúc Pháp cũng lại như thế. Người nam thiện ! Sáu Trần Thanh tịnh, cho nên bốn Lớn của đất Thanh tịnh. Đất Thanh tịnh cho nên bốn Lớn của nước Thanh tịnh. Bốn Lớn của lửa bốn Lớn của gió, cũng lại như thế. Người nam thiện ! Bốn Lớn Thanh tịnh cho nên mười hai Xứ, mười tám cõi Giới, hai mươi lăm Có Thanh tịnh. Do Thanh tịnh đó, mười Lực bốn Không đâu sợ, bốn Trí tuệ không trở ngại. Mười tám không cùng Pháp, ba mươi bảy phẩm trợ Đạo Thanh tịnh. Như thế thậm chí tám vạn bốn nghìn môn Đà La Ni tất cả Thanh tịnh. Người nam thiện ! Tất cả Tính của Thực tướng (không có hình tướng) Thanh tịnh, cho nên một thân Thanh tịnh. Một thân Thanh tịnh, cho nên nhiều thân Thanh tịnh. Do nhiều thân Thanh tịnh như thế, thậm chí hiểu đầy đủ của chúng sinh mười phương Thanh tịnh. Người nam thiện ! Một Thế giới Thanh tịnh cho nên nhiều Thế giới Thanh tịnh. Do nhiều Thế giới Thanh tịnh như thế, thậm chí tận cùng khoảng Không bao hàm hết Quá khứ Hiện tại Tương lai tất cả đều Bình đẳng Thanh tịnh không động.

Người nam thiện ! Khoảng Không Bình đẳng không động như thế. Cần biết do tính hiểu bình đẳng, bốn Lớn không động. Nên biết tính của hiểu Bình đẳng không động. Như thế thậm chí tám vạn bốn nghìn môn Đà La Ni Bình đẳng không động. Nên biết tính của hiểu bình đẳng không động. Người nam thiện ! Tính hiểu đầy khắp Thanh tịnh không động. Do đầy đủ không có biên giới, nên biết sáu Căn đầy khắp Cõi Pháp. Do sáu Căn đầy khắp, nên biết sáu Trần cũng đầy khắp Cõi Pháp. Do sáu Trần đầy khắp, nên biết bốn Lớn cũng đầy khắp Cõi Pháp. Như thế thậm chí môn Đà La Ni cũng đầy khắp Cõi Pháp. Người nam thiện ! Do tính hiểu vi diệu đó đầy khắp. Tính của sáu Căn, tính của sáu Trần không phá hỏng không hỗn tạp. Do Căn Trần không phá hỏng như thế, thậm chí môn Đà La Ni không phá hỏng không hỗn tạp. Như trăm nghìn ánh đèn chiếu sáng một căn phòng. Quang này đầy khắp, không phá hỏng không hỗn tạp. Người nam thiện ! Do thành công hiểu, cần biết Bồ Tát, không bị Pháp ràng buộc, không cầu Pháp thoát ra. Không chán sinh chết, không yêu quý Niết Bàn, không cung kính giữ Giới, không ghét hủy cấm Giới. Không coi trọng tập luyện lâu dài, không coi thường mới học tập. Cớ là sao ? Do tất cả hiểu. Ví như ánh quang của mắt hiểu rõ cảnh ở phía trước. Quang này đầy đủ được không có yêu ghét. Cớ là sao ? Do hình thể quang không có hai, không có yêu ghét.

Người nam thiện ! Bồ Tát này và các chúng sinh thời vận hết, tu luyện tâm này, được thành công đó. Với điều này không tu, cũng không thành công. Hiểu đầy đủ chiếu sáng khắp, Vắng lặng không có hai.

Ở trong trăm nghìn vạn trăm triệu không thể nói A tăng kì Hằng hà sa các Thế giới Phật. Giống như hoa ảo loạn xạ xuất hiện và loạn xạ mất đi. Không tức thời không rời, không ràng buộc, không thoát ra. Xa xưa biết chúng sinh vốn dĩ thành Phật, sinh chết Niết Bàn giống như giấc mộng đã trôi qua. Người nam thiện ! Do như giấc mộng đã trôi qua, nên biết sinh chết và Niết Bàn không phát ra, không mất, không tới, không đi. Chứng nghiệm được việc này, không được, không mất, không giữ, không bỏ. Chứng nghiệm được việc đó, Không ở, không dừng, không làm, không mất. Trong chứng nghiệm này, không có thể, không đâu, cuối cùng không chứng nghiệm, cũng không có người chứng nghiệm, tính của tất cả các Pháp Bình đẳng không phá hỏng. Người nam thiện ! Các Bồ Tát đó, tu hành như thế, lần lượt như thế, suy nghĩ như thế. Dừng giữ như thế, Phương tiện như thế, mở biết như thế, cầu Pháp như thế. Cũng không mê muội. Khi đó Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này mà đọc bài kệ nói rằng :

Phổ Nhãn Ngài nên biết. Tất cả các chúng sinh. Thân tâm đều như ảo. Thân thể thuộc bốn Lớn. Tính tâm thuộc sáu Trần. Thân bốn Lớn đều rời. Ai là người hòa hợp. Tu hành dần như thế. Tất cả đều Thanh tịnh. Khắp Cõi Pháp không động. Không làm, dừng, gánh, mất. Cũng không thể chứng nghiệm. Tất cả Thế giới Phật. Giống như hoa trống rỗng. Ba Đời cùng bằng nhau. Cuối cùng không đi đến. Bồ Tát mới phát tâm. Chúng sinh thời vận hết. Muốn cầu vào Đạo Phật. Cần tu luyện như thế.

Lúc đó Kim Cương Tạng Bồ Tát, ở trong Đại Chúng, tức thời từ chỗ ngồi đứng lên. Đỉnh lễ chân Phật, vòng phải ba lần, quỳ lâu chắp tay đan chéo ngón tay, mà báo cáo Phật nói rằng : Đại Bi Thế Tôn ! Vui lòng vì tất cả các chúng Bồ Tát. Tuyên bố Phương tiện thứ tự thực hành Pháp Trí tuệ Đà La Ni lớn Thanh tịnh hiểu đầy đủ của Như Lai. Ban cho chúng sinh mới phát ý mê muội. Ở chúng Pháp hội, dựa vào dạy bảo Từ Bi của Phật. Sáng tỏ ảo của màng mắt, mắt Trí tuệ Thanh tịnh. Thế Tôn ! Nếu các chúng sinh vốn dĩ thành Phật. Cớ sao lại có tất cả Ngu tối. Nếu các Ngu tối, vốn có của chúng sinh. Do Nhân duyên gì ? Như Lai lại nói vốn dĩ thành Phật. Mười phương sinh khác, vốn dĩ thành Đạo Phật, về sau phát ra Ngu tối. Tất cả Như Lai, khi nào lại sinh các Phiền não, chỉ nguyện không bỏ Đại Từ thương xót chúng sinh ? Vì các Bồ Tát mở ra tạng bí mật, cùng với tất cả chúng sinh thời vận hết. Được nghe môn Pháp rõ nghĩa giáo lý Kinh Phật như thế, vĩnh cắt đứt nghi hoặc hối hận. Làm lời nói đó xong, phục đất đỉnh lễ, thỉnh cầu ba lần như thế, sau cùng trở lại chỗ cũ.

Khi đó Thế Tôn bảo Kim Cương Tạng Bồ Tát nói rằng : Thiện thay ! Thiện thay ! Người nam thiện ! Các Ngài lại hay vì các Bồ Tát cùng với chúng sinh thời vận hết. Hỏi về thành quả Phương tiện bí mật rất sâu của Như Lai. Đây là Pháp Bậc Phật rõ nghĩa dạy bảo cao nhất của các Bồ Tát. Hay giúp cho Bồ Tát và tất cả chúng sinh thời vận hết mười phương tu học. Được quyết định tin, vĩnh cắt đứt nghi hoặc hối hận. Ngài nay nghe Tuệ ! Đang vì Ngài nói. Khi đó Kim Cương Tạng Bồ Tát vui vẻ vâng theo lời dạy. Cùng với các Đại Chúng im lặng mà nghe.

Người nam thiện ! Tất cả Thế giới từ xưa tới nay sinh mất, trước sau Có, Không. Tụ tan phát ra dừng, nghĩ nhớ liên tục, tuần hoàn đi tới trở về, đủ loại giữ, bỏ. Đều là Luân chuyển trở về, chưa ra ngoài Luân chuyển trở về, mà thực hành hiểu đầy đủ. Tính hiểu đầy đủ đó, tức thời cùng lưu chuyển, nếu miễn lưu chuyển trở về, không có nơi đó. Ví như mắt di động kéo theo nước mắt dao động, lại như mắt đứng yên, nóng còn lưu chuyển trở về. Mây bay nhanh mặt Trăng xoay vần, thuyền dời đi, rời xa bờ cũng lại như thế. Người nam thiện ! Sự chuyển vận vòng tròn chưa nghỉ, vật đó trước tiên dừng ở. Còn không thể được, huống chi tâm cáu bẩn luân chuyển sinh chết, chưa từng Thanh tịnh. Quan sát hiểu đầy đủ của Phật, mà không quay trở về. Vì thế các Ngài liền sinh ba nghi hoặc. Người nam thiện ! Ví như mắt có tật nhìn nhầm thấy hoa ảo, tật của mắt nếu bỏ. Không thể nói rằng : Tật mắt này đã mất, khi nào lại phát ra tất cả các tật của mắt ? Cớ là sao ? Hai kiểu hoa của tật mắt không phải không có hình tướng, cũng như hoa ảo mất khi ở trong trống rỗng. Không thể nói rằng : Khoảng Không khi nào lại phát ra hoa ảo ? Cớ là sao ? Rỗng vốn dĩ không có hoa, do không phát ra và mất. Sinh chết Niết Bàn cùng với phát ra và mất. Hiểu đầy đủ vi diệu chiếu sáng rời hoa ảo do tật của mắt.

Người nam thiện ! Nên biết khoảng Không chẳng qua là tạm thời Có, cũng không phải tạm thời không có. Huống chi thuận theo hiểu đầy đủ của Như Lai, mà Tính vốn dĩ bình đẳng trống rỗng. Người nam thiện ! Như luyện quặng thành kim loại, không chỉ có luyện thành kim loại mà còn không trở về thành quặng được. Qua thời gian vô tận, Tính của kim loại không thay đổi. Không nên nói rằng : Vốn dĩ thành công sai. Hiểu đầy đủ của Như Lai cũng lại như thế. Người nam thiện ! Tâm hiểu đầy đủ vi diệu của tất cả Như Lai, vốn dĩ không có Bồ Đề cùng với Niết Bàn. Cũng không có thành Phật và không thành Phật, không có Luân hồi ảo và Luân hồi sai. Người nam thiện ! Thân tâm cảnh giới đầy đủ của các Thanh Văn chỉ là lời nói, đều cùng cắt mất. Cuối cùng không thể tới cảnh giới, tự chứng nghiệm được sự hiện ra Niết Bàn đó. Sao có thể dùng tâm Có suy nghĩ, đo lường được cảnh giới hiểu đầy đủ của Như Lai. Như lấy lửa của con đom đóm, đốt núi Tu Di, cuối cùng không thể nương nhờ. Dùng tâm Luân hồi, sinh thấy Luân hồi. Vào biển Vắng lặng lớn của Như Lai, cuối cùng không thể tới.

Vì thế Ta nói, tất cả Bồ Tát cùng với chúng sinh thời vận hết, trước tiên cần cắt đứt gốc rễ Luân hồi xa xưa. Người nam thiện ! Nếu làm suy nghĩ, phát ra từ tâm Có, đều là sáu Trần. Tưởng nhớ ảo theo hơi thở, hình thể của tâm không thực, đã như hoa ảo. Dùng suy nghĩ này phân biệt cảnh giới Phật, giống như hoa ảo, lại kết thành quả ảo, phát triển luân chuyển tưởng nhớ ảo. Không có nơi đó. Người nam thiện ! Tâm ảo trôi nổi, phần nhiều các thấy giả dối. Không thể thành công Phương tiện hiểu đầy đủ. Phân biệt như thế, không phải là vấn đề chính. Khi đó Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này mà đọc bài kệ nói rằng :

Kim Cương Tạng nên biết. Tính Vắng lặng của Phật. Chưa từng có đầu cuối. Nếu dùng tâm Luân hồi. Suy nghĩ liền trở lại. Chỉ tới vạch Luân hồi. Không thể vào biển Phật. Ví như luyện quặng vàng. Vàng chưa luyện vẫn có. Tuy về vàng vốn có. Rốt do thành công luyện. Được một thể loại vàng. Không trở lại thành quặng. Sinh chết và Niết Bàn. Người Phàm và các Phật. Cùng là hình hoa ảo. Suy nghĩ do ảo hóa. Cớ gì hỏi vặn ảo. Nếu hay biết tâm này. Sau tất cầu hiểu đủ.

Khi đó Di Lặc Bồ Tát, ở trong Đại Chúng, tức thời từ chỗ ngồi đứng lên. Đỉnh lễ chân Phật, vòng phải ba lần, quỳ lâu chắp tay đan chéo ngón tay, mà báo cáo Phật nói rằng : Đại Bi Thế Tôn ! Rộng vì các Bồ Tát mở ra tạng bí mật. Giúp cho các Đại Chúng hiểu sâu Luân hồi, phân biệt sai đúng. Hay Bố thí cho chúng sinh thời vận hết mắt Đạo không hoảng sợ. Với Niết Bàn lớn sinh quyết định tin. Không trở lại theo cảnh giới luân chuyển, phát ra thấy tuần hoàn.

Thế Tôn ! Nếu các Bồ Tát và chúng sinh thời vận hết. Muốn tới được biển Vắng lặng lớn của Như Lai. Làm thế nào đang cắt đứt gốc rễ của Luân hồi ? Với các Luân hồi. Có bao nhiêu tính loại ? Tu Phật Bồ Đề có gì khác biệt ? Trở về vào Phiền não. Cần kiến tạo bao nhiêu loại Phương tiện giáo hóa, độ thoát các chúng sinh ? Chỉ nguyện không bỏ Đại Bi cứu đời. Giúp cho tất cả Bồ Tát cùng với chúng sinh thời vận hết thực hành, mắt Trí tuệ nhanh Thanh tịnh, tâm sáng tỏ như gương trong. Hiểu đầy đủ thấy biết Bình Đẳng của Như Lai. Làm lời nói đó xong, phục đất đỉnh lễ, thỉnh cầu ba lần như thế, sau đó trở lại chỗ cũ.

Khi đó Thế Tôn bảo Di Lặc Bồ Tát nói rằng : Thiện thay ! Thiện thay ! Người nam thiện ! Các Ngài lại hay vì các Bồ Tát và chúng sinh thời vận hết, thăm hỏi nghĩa vi diệu bí mật sâu của Như Lai. Giúp cho mắt Trí tuệ thanh khiết của các Bồ Tát, cùng với giúp cho tất cả chúng sinh thời vận hết, vĩnh cắt đứt tâm Luân hồi, hiểu Thực tướng (không có hình tướng), đầy đủ Nhẫn Không sinh. Ngài nay nghe Tuệ ! Đang vì Ngài nói. Lúc đó Di Lặc Bồ Tát vui mừng vâng theo lời dạy. Cùng với các Đại Chúng im lặng mà nghe.

Người nam thiện ! Tất cả chúng sinh từ xa xưa, do vì có nhiều ân ái tham muốn, cho nên có Luân hồi. Nếu tất cả tính loại của các Thế giới, sinh từ trứng từ bào thai, từ ẩm thấp từ biến hóa, đều do tham dâm mà thành tính mệnh. Nên biết Luân hồi, yêu thích là nguồn gốc, do có các tham muốn, trợ giúp phát ra tính yêu thích. Vì thế hay giúp cho sinh chết liên tục, do yêu thích sinh tham muốn, do tham muốn có sinh mệnh. Chúng sinh yêu sinh mệnh, hoàn toàn dựa vào gốc tham muốn, yêu tham muốn là nguyên nhân, yêu sinh mệnh là kết quả. Do ở trong cảnh tham muốn phát ra các thuận nghịch, bối cảnh tâm yêu thích, mà sinh yêu ghét, tạo ra đủ loại Nghiệp. Vì thế lại sinh ở Địa ngục Quỷ đói. Biết tham muốn có thể chán, yêu thích chán ghét Đạo Nghiệp, bỏ ác ham thích thiện. Lại hiện ra có người Trời, do lại biết các yêu có thể chán ghét ác, bỏ yêu bỏ ham thích. Trở về tăng lớn gốc yêu thích, liền hiện ra Có làm, tăng cao quả thiện. Đều do Luân hồi không được Đạo Thánh. Vì thế chúng sinh muốn thoát sinh chết, miễn các Luân hồi. Trước tiên cắt đứt tham muốn và bỏ khát yêu thích.

Người nam thiện ! Bồ Tát biến hóa tỏ ra rõ ở Thế gian, không phải yêu thích làm cơ bản. Chỉ do Từ Bi giúp cho họ bỏ yêu thích. Nếu nhiều tham muốn mà vào sinh chết. Nếu tất cả chúng sinh thời vận hết, hay bỏ các tham muốn, cùng với bỏ yêu ghét, vĩnh cắt đứt Luân hồi. Cần cầu cảnh giới hiểu đầy đủ của Như Lai. Với tâm Thanh tịnh liền được mở biết. Người nam thiện ! Tất cả chúng sinh do tham muốn trước kia. Phát động Ngu tối hiện ra năm tính loại, sai khác không bằng nhau, dựa vào hai loại chướng ngại, mà hiện ra nông sâu. Thế nào là hai chướng ngại ? Một là Lý chướng ngại thấy biết đúng. Hai là Việc chướng ngại nối đời các sinh chết. Thế nào là năm tính loại ?

Người nam thiện ! Nếu hai chướng ngại này chưa được cắt đứt, tên là chưa thành Phật. Nếu các chúng sinh vĩnh bỏ tham muốn, trước tiên bỏ Việc chướng ngại. Chưa cắt đứt Lý chướng ngại, chỉ có thể hiểu vào Bậc Thanh Văn Duyên Giác. Chưa có thể hiện ra dừng ở cảnh giới Bồ Tát.

Người nam thiện ! Nếu các chúng sinh thời vận hết. Muốn trôi nổi vào biển hiểu đầy đủ rộng lớn của Như Lai. Trước tiên cần phát nguyện, siêng cắt đứt hai chướng ngại. Hai chướng hàng phục xong, tức thời có thể hiểu vào cảnh giới Bồ Tát. Nếu Lý Việc chướng ngại đã vĩnh cắt đứt, tức thời vào hiểu đầy đủ vi diệu của Như Lai. Đầy đủ Bồ Đề và Niết Bàn lớn. Người nam thiện ! Tất cả chúng sinh đều chứng nghiệm hiểu đầy đủ. Gặp Tri thức thiện, dựa vào thực hành Pháp Trí tuệ làm được của họ. Khi đó tu luyện liền dần dần mất Có. Nếu gặp được đường lối tu hành đúng của Như Lai Bình Đẳng Bồ Đề. Căn cơ không có bao nhiêu đều thành quả Phật. Nếu các chúng sinh tuy cầu bạn hiền, gặp phải thấy sai, chưa được hiểu đúng. Chắc tên là tính loại ngoài Đạo, Thầy sai quá nhiều không phải là tội của chúng sinh. Tên là năm tính loại của chúng sinh khác nhau. Người nam thiện ! Bồ Tát duy chỉ dùng Đại Bi, làm Phương tiện vào các Thế gian, mở phát ra chưa biết. Thậm chí tỏ ra đủ loại hình tướng, cảnh giới thuận nghịch. Cùng với đồng sự của họ, cảm hóa giúp cho thành Phật, đều dựa vào lực nguyện Thanh tịnh từ xưa. Nếu các chúng sinh thời vận hết, với hiểu lớn đầy đủ, phát ra tâm kiêu mạn tăng cao. Cần phát nguyện lớn Thanh tịnh Bồ Đề, nên làm lời nói như thế.

Nay con nguyện ở trong hiểu đầy đủ của Phật, cầu Tri thức thiện không gặp ngay ngoài Đạo và bậc Duyên Giác. Dựa vào nguyện tu hành, dần dần cắt đứt các chướng ngại, chướng ngại hết nguyện đầy đủ. Liền bước lên điện Pháp Thanh tịnh Giải thoát. Chứng nghiệm được lĩnh vực vi diệu trang nghiêm hiểu lớn đầy đủ. Khi đó Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này mà đọc bài kệ nói rằng :

Di Lặc Ngài cần biết. Tất cả các chúng sinh. Không được Giải thoát lớn. Đều do vì tham muốn. Rơi lạc trong sinh chết. Nếu hay cắt yêu ghét. Cùng với Tham hận ngu. Không do tính khác nhau. Đều được thành Đạo Phật. Hai chướng vĩnh tiêu diệt. Cầu Thầy được biết đúng. Thuận theo nguyện Bồ Đề. Dựa dừng Niết Bàn lớn. Các Bồ Tát mười phương. Đều dùng nguyện Đại Bi. Tỏ ra vào sinh chết. Người tu hành hiện nay. Chúng sinh thời vận hết. Cần cắt các thấy yêu. Liền về hiểu đủ lớn.

Lúc đó Thanh Tịnh Tuệ Bồ Tát, ở trong Đại Chúng, tức thời từ chỗ ngồi đứng lên. Đỉnh lễ chân Phật, vòng phải ba lần, quỳ lâu chắp tay đan chéo ngón tay, mà báo cáo Phật nói rằng : Đại Bi Thế Tôn ! Vì Con và bậc trên, rộng nói các việc không thể nghĩ bàn như thế. Vốn dĩ không thấy, vốn dĩ không nghe. Nay chúng con được lời dẫn dắt thiện của Phật. Thân tâm thỏa mãn được nhiều lợi ích lớn. Nguyện vì tất cả các chúng Pháp thời Tương lai. Nói lại tính hiểu đầy đủ của Vua Pháp. Tất cả chúng sinh và các Bồ Tát. Chứng nghiệm của Như Lai Thế Tôn có gì khác biệt. Giúp cho các chúng sinh thời vận hết, nghe giáo lý Thánh này, thuận theo mở biết, lần lượt có thể vào. Làm lời nói đó xong. Phục đất đỉnh lễ, thỉnh cầu như thế ba lần, sau cùng trở lại chỗ cũ.

Khi đó Thế Tôn bảo Thanh Tịnh Tuệ Bồ Tát nói rằng : Thiện thay ! Thiện thay ! Người nam thiện ! Các Ngài lại hay vì các Bồ Tát và chúng sinh thời vận hết. Thăm hỏi thứ tự sai khác của Như Lai. Nay Ngài nghe Tuệ ! Đang vì Ngài nói. Khi đó Thanh Tịnh Tuệ Bồ Tát, vui mừng vâng theo lời dạy. Cùng với các Đại Chúng im lặng mà nghe.

Người nam thiện ! Tự tính của hiểu đầy đủ, có tính tính sai, phát ra tuân theo các tính. Không giữ không chứng nghiệm, ở trong Không có tướng, thực không có Bồ Tát và các chúng sinh. Cớ là sao ? Bồ Tát chúng sinh đều là ảo hóa, do ảo hóa mất, không giữ chứng nghiệm vậy. Ví như Căn mắt không tự thấy tính của mắt. Tự bình đẳng không bình đẳng đó. Chúng sinh mê muội đảo lộn, chưa có thể mất tất cả ảo hóa, với mất chưa mất ảo. Trong công dụng liền hiện ra sai khác. Nếu được thuận theo Vắng lặng của Như Lai, thực không có Vắng lặng và người Vắng lặng.

Người nam thiện ! Tất cả chúng sinh từ xưa tới nay, do ảo tưởng bản thân và yêu thích bản thân, từng không tự biết, sinh mất của mỗi nghĩ nhớ. Cho nên phát ra yêu ghét, đam mê nương nhờ năm Tham muốn. Nếu gặp bạn thiện dạy, giúp cho mở biết tính hiểu đầy đủ Thanh tịnh. Phát sáng phát ra mất, tức thời biết tính sinh này tự lo mệt. Nếu lại có người, lo mệt vĩnh cắt đứt được Cõi Pháp Thanh tịnh, tức thời hiểu Thanh tịnh đó, là tự chướng ngại. Cho nên với hiểu đầy đủ mà không Tự do. Tên này là người Phàm thuận theo tính hiểu. Người nam thiện ! Tất cả Bồ Tát thấy biết là trở ngại, tuy cắt đứt chướng ngại biết, do dừng ở thấy hiểu. Trở ngại hiểu là trở ngại mà không có Tự do. Tên này là Bồ Tát chưa vào bậc Pháp thuận theo tính hiểu.

Người nam thiện ! Có chiếu sáng có hiểu, đều tên là chướng ngại. Vì thế Bồ Tát Không ở hiểu bình thường, chiếu sáng và người chiếu sáng, cùng một lúc Vắng lặng. Ví như có người tự cắt đầu họ, do đầu đã cắt không thể cắt được nữa. Chắc là dùng tâm trở ngại, tự mất các trở ngại, trở ngại đã cắt mất, không mất trở ngại đó. Giáo lý Kinh Phật như cọc tiêu cho Trăng chiếu, nếu lại thấy Trăng biết rõ rằng có cọc tiêu, cuối cùng không phải Trăng. Tất cả Như Lai nói giảng đủ loại mở tỏ ra, Bồ Tát cũng lại như thế. Tên này là Bồ Tát đã vào bậc Pháp thuận theo tính hiểu.

Người nam thiện ! Tất cả chướng ngại tức thời thành quả hiểu. Được nghĩ nhớ, mất nghĩ nhớ chẳng qua là Giải thoát. Thành Pháp phá Pháp, đều tên là Niết Bàn. Trí tuệ, Ngu si, thông suốt là Trí tuệ. Bồ Tát, ngoài Đạo thành công được Pháp, cùng là Bồ Đề. Chân Như, Ngu tối cảnh giới không khác. Các Giới Định Tuệ và tham dâm phẫn nộ Ngu si, đều là hạnh Phạm. Đất nước, chúng sinh cùng một tính Pháp. Địa ngục, cung điện Trời đều là đất sạch. Có tính không tính, đều thành Đạo Phật. Tất cả Phiền não cuối cùng đều Giải thoát. Trí tuệ biển Cõi Pháp chiếu rõ các cảnh tướng, giống như khoảng Không. Tên này là thuận theo tính hiểu của Như Lai.

Người nam thiện ! Chỉ các Bồ Tát và chúng sinh thời vận hết, ở mọi thời gian. Không phát ra nghĩ nhớ ảo, với các tâm ảo cũng không nghỉ mất. Ở trong cảnh giới ảo tưởng. Không tăng thêm biết rõ. Với không biết rõ, không phân biệt được chân thực. Các chúng sinh đó. Nghe môn Pháp này, tin hiểu nhận giữ, không sinh kinh hãi. Đó chắc tên là thuận theo tính hiểu. Người nam thiện ! Các Ngài nên biết. Chúng sinh như thế đã từng cúng dưỡng trăm nghìn vạn trăm triệu Hằng sa các Phật và Bồ Tát lớn nhất, trồng các gốc Đức. Phật nói người đó, tên là thành công Tất cả loại Trí tuệ. Khi đó Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này mà đọc bài kệ nói rằng :

Thanh Tịnh Tuệ nên biết. Tính Bồ Đề đầy đủ. Không lấy cũng không chứng. Không Bồ Tát Chúng sinh. Khi hiểu và chưa hiểu. Thứ tự có sai khác. Chúng vì biết trở ngại. Bồ Tát chưa rời hiểu. Vào bậc vĩnh Vắng lặng. Không ở trong mọi tướng. Hiểu lớn đều đầy đủ. Tên là thuận theo khắp. Chúng sinh thời vận hết. Tâm không sinh ảo vọng. Phật nói người như thế. Đời này là Bồ Tát. Cúng dưỡng Hằng sa Phật. Công Đức đã đầy đủ. Tuy có nhiều Phương tiện. Đều tên thuận theo Trí.

Lúc đó Uy Đức Tự Tại Bồ Tát, ở trong Đại Chúng, tức thời từ chỗ ngồi đứng lên. Đỉnh lễ chân Phật, vòng phải ba lần, quỳ lâu chắp tay đan chéo ngón tay, mà báo cáo Phật nói rằng : Đại Bi Thế Tôn ! Rộng vì chúng con, phân biệt thuận theo tính hiểu như thế. Giúp cho Quang sáng tâm hiểu của các Bồ Tát, theo âm hưởng của Phật, không do tu luyện mà được thiện lợi. Thế Tôn ! Ví như bên ngoài thành lớn có bốn cửa, tùy theo phương tới không chỉ có một con đường. Tất cả Bồ Tát trang nghiêm Nước Phật và thành Bồ Đề, không phải một Phương tiện. Chỉ nguyện Thế Tôn, rộng vì chúng con. Nói đọc lần lượt tất cả Phương tiện, hầu hết người tu hành, tổng cộng có bao nhiêu loại ? Giúp cho Bồ Tát của hội này và chúng sinh thời vận hết, cầu Pháp Bậc Phật, nhanh được mở biết, đi lại biển Vắng lặng lớn của Như Lai. Làm xong lời nói đó, phục đất đỉnh lễ, thỉnh cầu như thế ba lần, sau cùng trở lại chỗ cũ.

Khi đó Thế Tôn bảo Uy Đức Tự Tại Bồ Tát nói rằng : Thiện thay ! Thiện thay ! Người nam thiện ! Các Ngài lại hay vì các Bồ Tát cùng với chúng sinh thời vận hết. Hỏi Như Lai Phương tiện như thế. Ngài nay nghe Tuệ ! Đang vì Ngài nói. Khi đó Uy Đức Tự Tại Bồ Tát vui mừng vâng theo lời dạy. Cùng với các Đại Chúng im lặng mà nghe.

Người nam thiện ! Hiểu vi diệu Bình Đẳng đầy khắp mười phương sinh ra Như Lai. Với tất cả Pháp bình đẳng cùng thể loại, với các tu hành thực không có hai. Phương tiện thuận theo, số này vô lượng, hút lấy đầy đủ được trở về, tính noi theo khác nhau, đang có ba loại.

Người nam thiện ! Nếu các Bồ Tát biết hiểu đầy đủ Thanh tịnh. Dùng tâm hiểu Thanh tịnh, giữ Tĩnh lặng mà thực hành. Do thanh lọc các nghĩ nhớ, nhận thức của hiểu phức tạp động, phát sinh Trí tuệ Tĩnh lặng. Thân tâm trú ở sáu Trần, vĩnh mất từ đây, liền hay bên trong phát ra, yên nhẹ Tĩnh lặng. Do được Tĩnh lặng, tâm các Như Lai Thế giới mười phương, hiện rõ trong đó, như tượng trong kính. Phương tiện này tên là Tĩnh Lặng lớn.

Người nam thiện ! Nếu các Bồ Tát biết hiểu đầy đủ Thanh tịnh, dùng tâm hiểu Thanh tịnh. Biết tính của tâm hiểu cùng với sáu Căn Trần, đều là nguyên nhân của ảo hóa. Tức thời phát ra các ảo. Dùng để bỏ ảo đó. Biến hóa các ảo mà mở ra chúng ảo. Do phát ra ảo cho nên liền hay ở bên trong phát ra Đại Bi yên nhẹ. Tất cả Bồ Tát từ đây phát ra thực hành, dần dần tăng tiến. Quan sát ảo đó, do cùng một ảo sai, quan sát cùng một ảo sai, do đều là ảo, vĩnh rời hình tướng ảo. Các Bồ Tát đó làm được việc vi diệu đầy đủ, giống như lúa non sinh trưởng trên ruộng tốt. Phương tiện này tên là Yên nhớ Pháp đúng.

Người nam thiện ! Nếu các Bồ Tát biết hiểu đầy đủ Thanh tịnh. Dùng tâm hiểu Thanh tịnh không giữ ảo hóa và các hình tướng Thanh tịnh. Biết rõ thân tâm, đều là trở ngại. Không biết hiểu sáng, không dựa vào các trở ngại, vĩnh vượt qua cảnh không trở ngại, trở ngại cũ. Nhận dùng Thế giới cùng với thân tâm, cùng ở trong sáu Trần, như có tiếng kêu trong kim khí. Âm thanh phát ra ngoài, Phiền não Niết Bàn, không còn lưu lại trở ngại. Liền hay ở bên trong phát ra cảnh giới Vắng lặng yên nhẹ, hiểu vi diệu thuận theo cảnh giới Vắng lặng. Thân tâm của người khác không thể theo kịp. Thọ mệnh Chúng sinh, đều là ảo tưởng. Phương tiện này tên là Đếm số : Vắng lặng.

Người nam thiện ! Ba môn Pháp này, đều là hiểu đầy đủ. Thân thiết thuận theo Như Lai mười phương. Nhân đây thành Phật, đủ loại Phương tiện của Bồ Tát mười phương, tất cả đều khác nhau, đều dựa vào như ba loại Sự Nghiệp đó. Nếu được chứng nghiệm đầy đủ, tức thời được hiểu đầy đủ.

Người nam thiện ! Nếu như có người tu hành Đạo Thánh. Giáo hóa thành công trăm nghìn vạn trăm triệu người được quả A La Hán, Bích Chi Phật. Không bằng người nghe được môn Pháp hiểu đầy đủ không trở ngại này, một thời khắc ngắn thuận theo tu luyện. Khi đó Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này mà đọc bài kệ nói rằng :

Uy Đức Ngài nên biết. Tâm hiểu lớn Bình Đẳng. Vốn dĩ không hai tướng. Thuận theo các Phương tiện. Số này liền vô lượng. Như Lai tổng mở tỏ. Hiện có ba chủng loại. Tĩnh Lặng lớn Vắng lặng. Như kính soi các tượng. Yên nhớ Pháp như ảo. Như lúa non tăng trưởng. Đếm số tuy Vắng lặng. Như tiếng trong kim đó. Ba loại môn Pháp hay. Đều là thuận theo hiểu. Các Như Lai mười phương. Cùng các Bồ Tát lớn. Nhân đây được thành Đạo. Do chứng đủ ba việc. Tên thành quả Niết Bàn.

Khi đó Biện Âm Bồ Tát, ở trong Đại Chúng, tức thời từ chỗ ngồi đứng lên. Đỉnh lễ chân Phật, vòng phải ba lần, quỳ lâu chắp tay đan chéo ngón tay, mà báo cáo Phật nói rằng : Đại Bi Thế Tôn ! Môn Pháp như thế rất là hiếm có. Thế Tôn ! Các Phương tiện này, tất cả Bồ Tát với môn hiểu đầy đủ, có bao nhiêu tu luyện ? Nguyện vì Đại Chúng và chúng sinh thời vận hết, Phương tiện mở tỏ ra, giúp cho biết Thực tướng : Không có hình tướng. Làm xong lời nói đó. Phục đất đỉnh lễ, thỉnh cầu ba lần như thế, sau cùng trở về chỗ cũ.

Khi đó Thế Tôn bảo Biện Âm Bồ Tát nói rằng : Thiện thay ! Thiện thay ! Người nam thiện ! Các Ngài lại hay vì các Đại Chúng và chúng sinh thời vận hết. Hỏi Như Lai tu luyện như thế. Nay Ngài nghe Tuệ ! Đang vì Ngài nói. Khi đó Biện Âm Bồ Tát vui mừng vâng theo lời dạy. Cùng với các Đại Chúng im lặng mà nghe.

Người nam thiện ! Hiểu đầy đủ của các Như Lai, vốn dĩ Thanh tịnh, không có tu luyện và người tu luyện. Tất cả Bồ Tát và chúng sinh thời vận hết, tu luyện dựa vào lực ảo chưa hiểu. Lúc đó liền có hai mươi lăm loại vòng định Thanh tịnh.

Nếu các Bồ Tát chỉ giữ Tĩnh lặng nhất. Do có lực Tĩnh lặng, vĩnh cắt đứt Phiền não, cuối cùng thành công. Không rời chỗ ngồi, liền vào Niết Bàn. Bồ Tát này tên là chỉ tu duy nhất Tĩnh Lặng lớn.

Nếu các Bồ Tát tuy chỉ quan sát như ảo, do vì lực Phật. Biến hóa Thế giới đủ loại tác dụng, thực hành đầy đủ hạnh Thanh tịnh vi diệu của Bồ Tát. Với Đà La Ni không mất nghĩ nhớ Vắng lặng, cùng với các Tuệ Tĩnh lặng. Bồ Tát này tên là chỉ tu duy nhất Yên nhớ Pháp đúng.

Nếu các Bồ Tát tuy chỉ diệt bỏ các ảo, không giữ tác dụng, duy nhất cắt đứt Phiền não. Phiền não cắt đứt hết, liền chứng nghiệm Thực tướng. Bồ Tát này tên là chỉ tu duy nhất Đếm số.

Nếu các Bồ Tát trước tiên giữ Tĩnh Lặng lớn, dùng tâm Tuệ Tĩnh lặng, chiếu sáng các ảo. Liền ở trong đó phát ra hạnh Bồ Tát. Bồ Tát này tên là trước tu Tĩnh Lặng lớn sau đó tu Yên nhớ Pháp đúng. Nếu các Bồ Tát dùng Tuệ Tĩnh lặng, cho nên chứng nghiệm tính Tĩnh Lặng lớn, liền cắt đứt Phiền não, vĩnh ra ngoài sinh chết. Bồ Tát này tên là trước tu Tĩnh Lặng lớn sau tu Đếm số.

Nếu các Bồ Tát dùng Tuệ Tĩnh lặng, lại hiện ra lực ảo, nhiều loại biến hóa, độ thoát các chúng sinh. Sau đó cắt đứt Phiền não và vào Vắng lặng. Bồ Tát này tên là trước tu Tĩnh Lặng lớn giữa tu Yên nhớ Pháp đúng sau tu Đếm số. Nếu các Bồ Tát dùng lực Tĩnh Lặng lớn, cắt đứt Phiền não xong, sau lại phát ra hạnh Thanh tịnh vi diệu của Bồ Tát, độ thoát các chúng sinh. Bồ Tát này tên là trước tu Tĩnh Lặng lớn, giữa tu Đếm số, sau tu Yên nhớ Pháp đúng.

Nếu các Bồ Tát dùng lực Tĩnh Lặng lớn, tâm cắt đứt Phiền não, sau đó độ thoát chúng sinh, thiết lập Thế giới. Bồ Tát này tên là trước tu Tĩnh Lặng lớn, cùng lúc tu Yên nhớ Pháp đúng và tu Đếm số. Nếu các Bồ Tát dùng lực Tĩnh Lặng lớn, phát ra biến hóa vốn đã có, sau đó cắt đứt Phiền não. Bồ Tát này tên là cùng lúc tu Tĩnh Lặng lớn và Yên nhớ Pháp đúng, sau tu Đếm số.

Nếu các Bồ Tát dùng lực Tĩnh Lặng lớn, sử dụng Vắng lặng vốn có, sau đó phát ra tác dụng, biến hóa cảnh giới. Bồ Tát này tên là cùng lúc tu Tĩnh Lặng lớn và Đếm số, sau tu Yên nhớ Pháp đúng. Nếu các Bồ Tát dùng lực biến hóa đủ loại thuận theo, mà giữ Tĩnh Lặng lớn. Bồ Tát này tên là trước tu Yên nhớ Pháp đúng, sau tu Tĩnh Lặng lớn.

Nếu các Bồ Tát dùng lực biến hóa đủ loại cảnh giới, mà giữ Vắng lặng. Bồ Tát này tên là trước tu Yên nhớ Pháp đúng, sau tu Đếm số. Nếu các Bồ Tát dùng lực biến hóa mà làm việc Phật, yên ổn trong Tĩnh lặng, mà cắt đứt Phiền não. Bồ Tát này tên là trước tu Yên nhớ Pháp đúng, giữa tu Tĩnh Lặng lớn, sau tu Đếm số.

Nếu các Bồ Tát dùng lực biến hóa tác dụng không trở ngại, do cắt đứt Phiền não, yên ổn ở trong Tĩnh Lặng lớn. Bồ Tát này tên là trước tu Yên nhớ Pháp đúng, giữa tu Đếm số, sau tu Tĩnh Lặng lớn. Nếu các Bồ Tát dùng lực biến hóa tác dụng Phương tiện, được Vắng lặng Tĩnh lặng, hai cùng thuận theo. Bồ Tát này tên là trước tu Yên nhớ Pháp đúng, cùng lúc tu Tĩnh Lặng lớn và Đếm số.

Nếu các Bồ Tát dùng lực biến hóa, phát ra đủ loại tác dụng, vốn có sẵn Tĩnh Lặng lớn, sau đó cắt đứt Phiền não. Bồ Tát này tên là cùng lúc tu Yên nhớ Pháp đúng và Tĩnh Lặng lớn, sau tu Đếm số. Nếu các Bồ Tát dùng lực biến hóa, với Vắng lặng vốn có, sau đó ở trong Thanh tịnh, không làm lo nghĩ Tĩnh lặng. Bồ Tát này tên là cùng lúc tu Yên nhớ Pháp đúng và Đếm số, sau tu Tĩnh Lặng lớn.

Nếu các Bồ Tát dùng lực Vắng lặng, mà phát ra Tĩnh Lặng lớn, ở trong Thanh tịnh. Bồ Tát này tên là trước tu Đếm số, sau tu Tĩnh Lặng lớn. Nếu các Bồ Tát dùng lực Vắng lặng, mà phát ra tác dụng, với tất cả cảnh giới Vắng lặng, vận dụng thuận theo. Bồ Tát này tên là trước tu Đếm số, sau tu Yên nhớ Pháp đúng.

Nếu các Bồ Tát dùng lực Vắng lặng đủ loại tự tính yên ổn, trong lo nghĩ Tĩnh lặng, mà phát ra biến hóa. Bồ Tát này tên là trước tu Đếm số, giữa tu Tĩnh Lặng lớn, sau tu Yên nhớ Pháp đúng. Nếu các Bồ Tát dùng lực Vắng lặng, không làm tự tính, phát ra tác dụng, cảnh giới Thanh tịnh, trở về ở trong lo nghĩ Tĩnh lặng. Bồ Tát này tên là trước tu Đếm số, giữa tu Yên nhớ Pháp đúng, sau tu Tĩnh Lặng lớn.

Nếu các Bồ Tát dùng lực Vắng lặng, đủ loại Thanh tịnh mà ở trong lo nghĩ Tĩnh lặng, phát ra được biến hóa. Bồ Tát này tên là trước tu Đếm số, cùng lúc tu Tĩnh Lặng lớn và Yên nhớ Pháp đúng. Nếu các Bồ Tát dùng lực Vắng lặng, vốn có với Tĩnh Lặng lớn, mà phát ra biến hóa. Bồ Tát này tên là cùng lúc tu Đếm số và Tĩnh Lặng lớn, sau tu Yên nhớ Pháp đúng.

Nếu các Bồ Tát dùng lực Vắng lặng, với biến hóa vốn có, mà phát ra Trí tuệ cảnh giới Thanh tịnh sáng Tĩnh Lặng lớn. Bồ Tát này tên là cùng lúc tu Đếm số và Yên nhớ Pháp đúng, sau tu Tĩnh Lặng lớn. Nếu các Bồ Tát dùng Tuệ hiểu đầy đủ, hòa hợp đầy đủ tất cả, với các tính tướng, không rời tính hiểu. Bồ Tát này tên là tu đầy đủ ba loại tự tính thuận theo Thanh tịnh.

Người nam thiện ! Tên đó là Bồ Tát tu hành tất cả hai mươi lăm loại vòng của Bồ Tát. Như thế nếu các Bồ Tát cùng với chúng sinh thời vận hết dựa vào vòng này. Cần giữ hạnh Phạm, Tĩnh lặng suy nghĩ, xót thương cầu sám hối, qua hai mươi mốt ngày. Với hai mươi lăm vòng, đều yên tâm ghi nhớ các tiêu chuẩn. Chí tâm cầu thương xót, thuận tay giữ liên kết. Dựa theo liên kết mở tỏ ra, liền biết chỉnh sửa dần. Một nghĩ nhớ nghi hoặc hối hận, tức thời không thành công. Khi đó Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này mà đọc bài kệ nói rằng :

Biện Âm Ngài cần biết. Tất cả các Bồ Tát. Tuệ Thanh tịnh không ngại. Đều sinh theo Thiền Định. Gọi là Tĩnh Lặng lớn. Yên nhớ Pháp, Vắng lặng. Ba Pháp tu chỉnh dần. Có hai mươi lăm loại. Các Như Lai mười phương. Ba Đời tu hành nó. Đều bởi do Pháp này. Mà được thành Bồ Đề. Chỉ trừ người hiểu ít. Không thuận theo các Pháp. Tất cả các Bồ Tát. Chúng sinh thời vận hết. Thường nên giữ vòng này. Thuận theo siêng tu luyện. Dựa lực Đại Bi Phật. Không lâu chứng Niết Bàn.

Khi đó Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ Tát, ở trong Đại Chúng. Tức thời từ chỗ ngồi đứng lên, đỉnh lễ chân Phật, vòng phải ba lần, quỳ lâu chắp tay đan chéo ngón tay, mà báo cáo Phật nói rằng : Đại Bi Thế Tôn ! Vì Con và bậc trên, rộng nói việc không thể nghĩ bàn như thế, hình tướng thực hành Trí tuệ của tất cả Như Lai. Giúp cho các Đại Chúng được chưa từng có, trông thấy Như Lai trải qua Kiếp số như cát sông Hằng. Cảnh giới siêng khổ, tất cả công dụng giống như một nghĩ nhớ. Con cùng với Bồ Tát sâu tự yên vui. Thế Tôn ! Nếu tâm hiểu này, tính vốn dĩ Thanh tịnh. Do cái gì lại nhiễm bẩn ? Làm cho chúng sinh mê muội không vào. Chỉ nguyện Như Lai rộng vì chúng con mở biết tính Pháp. Giúp cho Đại Chúng này và chúng sinh thời vận hết, tạo dựng mắt thời Tương lai. Nói lời như thế xong, phục đất đỉnh lễ. Thỉnh cầu như thế ba lần, sau cùng trở lại chỗ cũ.

Khi đó Thế Tôn bảo Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ Tát nói rằng : Thiện thay ! Thiện thay ! Người nam thiện ! Các Ngài lại hay vì các Đại Chúng và chúng sinh thời vận hết. Hỏi kĩ Như Lai Phương tiện như thế. Ngài nay nghe Tuệ ! Đang vì Ngài nói. Lúc đó Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ Tát vui vẻ vâng theo lời dạy. Cùng với các Đại Chúng im lặng mà nghe.

Người nam thiện ! Tất cả chúng sinh từ xưa tới nay, ảo tưởng giữ có bản thân, người, chúng sinh, cùng với thọ mệnh. Nhận bốn đảo lộn làm thân thể của bản thân chân thực. Do điều này liền sinh hai cảnh yêu ghét, với thân thể ảo, lại giữ ảo. Cùng dựa vào hai ảo, sinh ra Đạo Nghiệp ảo, do có Nghiệp ảo, ảo thấy luân chuyển. Người chán ghét lưu chuyển, ảo thấy Niết Bàn, do việc này không thể vào hiểu Thanh tịnh. Hiểu sai chống cự ngược và có thể vào đó, có và hay vào, do hiểu sai vào. Vì thế nghĩ nhớ động và nghĩ nhớ hơi thở, đều trở về mê muội. Cớ là sao ? Do Có từ xa xưa, vốn dĩ phát ra Ngu tối, là chúa tể của bản thân. Tất cả chúng sinh sinh ra mắt không có Trí tuệ. Thân tâm và Tính, đều là Ngu tối. Ví như có người không tự cắt đứt mệnh. Vì thế cần biết ! Có yêu bản thân và thuận theo bản thân, thuận theo sai đó, liền sinh oán ghét. Do vì tâm yêu ghét, nuôi dưỡng Ngu tối, liên tục cầu Đạo, đều không thành công.

Người nam thiện ! Vì sao có hình tướng bản thân ? Cho là tâm của chúng sinh được chứng nghiệm. Người nam thiện ! Ví như có người trăm xương cốt điều hòa thích ứng, đột nhiên quên mất chân tay của bản thân, căng thẳng chậm chạp chữa trị bằng nhiều cách khác nhau, thêm việc châm cứu chắc là biết có bản thân. Vì thế bằng cách đó chứng nghiệm hiện có hình thể bản thân. Người nam thiện ! Tâm họ thậm chí chứng nghiệm với Như Lai, cuối cùng biết rõ Thanh tịnh Niết Bàn, đều là hình tướng của bản thân.

Người nam thiện ! Thế nào là hình tướng của người ? Coi như các chúng sinh, tâm biết chứng nghiệm. Người nam thiện ! Biết có bản thân, lại không chịu nhận là bản thân, biết được bản thân sai, biết cũng như thế. Biết đã vượt qua tất cả chứng nghiệm, đều là hình tướng của người. Người nam thiện ! Tâm đó thậm chí hiểu đầy đủ Niết Bàn, đều là bản thân. Tâm còn một chút biết chứng nghiệm sẵn đủ lý lẽ, đều tên là hình tướng của Người.

Người nam thiện ! Thế nào là hình tướng của chúng sinh ? Gọi là tâm các chúng sinh, tâm tự biết chứng nghiệm không bằng người. Người nam thiện ! Ví như có người nói rằng : Tôi là chúng sinh, chắc là biết người đó nói chúng sinh, tôi sai nó sai. Vì sao tôi sai, tôi là chúng sinh, chắc là tôi sai. Vì sao nó sai, tôi là chúng sinh, do tôi nó sai. Người nam thiện ! Chỉ các chúng sinh chứng nghiệm rõ đã biết rõ, đều là tôi người và hình tướng của tôi người không bằng được, còn có biết rõ, tên là hình tướng chúng sinh.

Người nam thiện ! Thế nào là hình tướng thọ mệnh ? Gọi là các chúng sinh, tâm chiếu sáng Thanh tịnh, hiểu biết rõ đó. Tất cả Trí Nghiệp không tự thấy, giống như Căn mệnh. Người nam thiện ! Nếu tâm chiếu sáng thấy tất cả hiểu, đều là Phiền não. Hiểu được hiểu đó, do không rời sáu Trần. Như nấu chảy băng đá không phân biệt có băng đá. Biết băng đá tan, còn tôi hiểu tôi, cũng lại như thế.

Người nam thiện ! Trong thời vận hết chúng sinh không biết bốn loại hình tướng. Tuy qua nhiều Kiếp siêng khổ tu Đạo, chỉ tên là Có làm. Cuối cùng không thể thành công tất cả quả Thánh. Vì thế tên là Pháp đúng thời vận hết. Cớ là sao ? Do nhận biết tất cả bản thân là Niết Bàn. Có chứng nghiệm có biết, cho nên tên là thành công. Ví như có người nhận trộm cướp làm con, tài sản của họ cuối cùng tan nát. Cớ là sao ? Có yêu quý bản thân cũng yêu quý Niết Bàn. Chế phục gốc yêu bản thân, được hình tướng Niết Bàn, có ghét bản thân cũng ghét sinh chết. Không biết yêu thích là gốc của sinh chết, rời ghét sinh chết, tên là không Giải thoát. Làm sao đang biết Pháp không Giải thoát ?

Người nam thiện ! Chúng sinh thời vận hết tập luyện Đạo Bồ Đề. Dùng sự chứng nghiệm nhỏ của bản thân, là tự Thanh tịnh, do chưa có thể hết gốc rễ hình tướng của bản thân. Nếu lại có người ca ngợi Pháp của họ, tức thời vui mừng, liền muốn cứu thoát. Nếu lại phỉ báng được đó của họ, liền sinh thù giận. Chắc là biết hình tướng của bản thân, kiên cố cầm giữ ẩn nấp tiềm tàng trong tâm thức, khơi dậy các Căn chưa từng đứt đoạn. Người nam thiện ! Tu Đạo đó không bỏ hình tướng bản thân. Vì thế không thể vào hiểu Thanh tịnh.

Người nam thiện ! Nếu biết bản thân Rỗng, bản thân không hủy hoại, bản thân có nói Pháp, do bản thân chưa cắt đứt. Chúng sinh thọ mệnh cũng lại như thế. Người nam thiện ! Chúng sinh thời vận hết nói bệnh là Pháp. Vì thế tên là Có thể thương xót. Tuy siêng Tinh tiến tăng lợi ích các bệnh. Vì thế không thể vào hiểu Thanh tịnh. Người nam thiện ! Chúng sinh thời vận hết không hiểu rõ bốn hình tướng. Do Như Lai hiểu và được nơi làm. Vì tự tu hành, cuối cùng không thành công. Hoặc có chúng sinh chưa được coi là được, chưa chứng nghiệm coi như đã chứng nghiệm. Thấy người được thăng tiến tâm sinh ghen ghét đố kỵ. Do chúng sinh đó chưa cắt đứt yêu quý bản thân. Vì thế không thể vào hiểu Thanh tịnh. Người nam thiện ! Chúng sinh thời vận hết hi vọng thành Đạo, không giúp cho cầu biết. Tuy nghe nhiều chỉ tăng lớn thấy của bản thân. Chỉ cần Tinh tiến siêng hàng phục Phiền não, phát ra dũng mãnh lớn, chưa được giúp cho được, chưa cắt đứt giúp cho cắt đứt. Cảnh đối nghịch không sinh tham muốn thù giận, kiêu mạn dối trá, ghen ghét đố kỵ. Ân ái của bản thân, nó tất cả Vắng lặng. Phật nói người đó lần lượt thành công, cầu Tri thức thiện không rơi xuống thấy sai. Nếu với cầu được sinh yêu ghét khác, chắc là không thể vào biển hiểu Thanh tịnh. Khi đó Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này mà đọc bài kệ nói rằng :

Tịnh Nghiệp Ngài nên biết. Tất cả các chúng sinh. Đều do yêu bản thân. Ảo xa xưa lưu chuyển. Chưa bỏ bốn loại tướng. Không được thành Bồ Đề. Yêu ghét sinh trong tâm. Siểm nịnh gửi các nhớ. Vì thế nhiều mê muội. Không thể vào thành hiểu. Nếu hay về Nước hiểu. Trước bỏ Tham hận ngu. Tâm không còn yêu Pháp. Lần lượt được thành công. Bản thân còn không có. Yêu ghét do gì sinh. Người này cầu bạn thiện. Rốt không đọa thấy sai. Nếu cầu sinh tâm khác. Cuối cùng thành công sai.

Khi đó Phổ Giác Bồ Tát, ở trong Đại Chúng, tức thời từ chỗ ngồi đứng lên. Đỉnh lễ chân Phật, vòng phải ba lần, quỳ lâu chắp tay đan chéo hai tay, mà báo cáo Phật nói rằng : Đại Bi Thế Tôn ! Vui lòng nói bệnh Thiền. Giúp cho các Đại Chúng được chưa từng có, tâm ý thỏa mãn được yên ổn lớn. Thế Tôn ! Chúng sinh thời vận hết tới Phật xa dần. Thánh Hiền ẩn thân Pháp sai tăng mạnh. Khiến cho các chúng sinh cầu người thế nào ? Dựa vào các Pháp gì ? Thực hành hạnh gì ? Bỏ bệnh gì ? Phát tâm thế nào ? Giúp cho chúng sinh mù lòa không rơi xuống thấy sai. Làm lời nói đó xong, phục đất đỉnh lễ, thỉnh cầu ba lần như thế, sau cùng trở lại chỗ cũ.

Khi đó Thế Tôn bảo Phổ Giác Bồ Tát nói rằng : Thiện thay ! Thiện thay ! Người nam thiện ! Các Ngài lại hay hỏi Như Lai tu hành như thế. Hay Bố thí tất cả chúng sinh thời vận hết, mắt Đạo không sợ. Giúp cho các chúng sinh đó, được thành Đạo Thánh. Ngài nay nghe Tuệ ! Đang vì Ngài nói. Khi đó Phổ Giác Bồ Tát vui mừng vâng theo lời dạy. Cùng với các Đại Chúng im lặng mà nghe.

Người nam thiện ! Chúng sinh thời vận hết, mới phát tâm lớn. Cầu Tri thức thiện muốn tu hành, nên cầu tất cả người thấy biết đúng. Tâm không ở trong hình tướng. Không nương nhờ cảnh giới của Bậc Thanh Văn, Duyên Giác. Tuy hiện ra Phiền não, tâm thường Thanh tịnh. Tỏ ra có các tội cũ, ca ngợi hạnh Phạm, không giúp cho chúng sinh, vào không có luật nghi thức. Cầu được người này, tức thời được thành công Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Chúng sinh thời vận hết, thấy người như thế, cần phải cúng dưỡng không tiếc thân mệnh. Tri thức thiện đó trong bốn uy nghi, thường hiện ra Thanh tịnh. Thậm chí tỏ ra đủ loại hoạn nạn tội cũ, tâm không kiêu mạn, huống chi lại còn vật lộn với tiền tài vợ con quyến thuộc. Nếu người nam thiện với bạn thiện, không phát ra nghĩ nhớ ác, tức thời cuối cùng có thể thành công Chính Giác. Hoa tâm phát ra sáng, chiếu sáng Nước Phật mười phương.

Người nam thiện ! Tri thức thiện đó chứng nghiệm, được Pháp vi diệu, cần rời bốn bệnh. Thế nào là bốn bệnh ? Một là bệnh làm. Nếu lại có người làm lời nói như thế. Tôi với bản tâm làm đủ loại hạnh, muốn cầu hiểu đầy đủ. Tính của hiểu đầy đủ đó làm được sai, cho nên nói tên là bệnh. Hai là bệnh gánh. Nếu lại có người làm lời nói như thế. Chúng tôi nay không cắt đứt sinh chết, không cầu Niết Bàn. Niết Bàn sinh chết không phát ra nghĩ nhớ mất, gánh tất cả đó, thuận theo tính các Pháp, muốn cầu hiểu đầy đủ. Tính hiểu đầy đủ đó, có gánh sai, cho nên tên là bệnh. Ba là bệnh dừng. Nếu lại có người làm lời nói như thế. Ta nay tâm tự vĩnh dừng nghỉ các nghĩ nhớ, được tất cả tính. Vắng lặng bình đẳng, muốn cầu hiểu đầy đủ. Tính hiểu đầy đủ đó, hòa hợp dừng sai, cho nên nói tên là bệnh. Bốn là bệnh mất. Nếu lại có người làm lời nói như thế. Ta nay vĩnh cắt đứt tất cả Phiền não, thân tâm thành quả Rỗng, tất cả không có. Huống chi cảnh giới ảo vọng Căn Trần, tất cả vĩnh Vắng lặng, muốn cầu hiểu đầy đủ. Tính hiểu đầy đủ hình tướng Vắng lặng sai, cho nên nói tên là bệnh. Rời bốn bệnh, chắc là biết Thanh tịnh. Quan sát như thế tên là quan sát đúng, nếu quan sát khác tên là quan sát sai.

Người nam thiện ! Chúng sinh thời vận hết muốn tu hành nó. Cần phải hết cuộc đời, cúng dưỡng thờ bạn thiện, Tri thức thiện. Muốn tới thân thiết Tri thức thiện đó, cần cắt đứt kiêu mạn. Nếu lại rời xa, cần cắt đứt thù giận. Hiện ra cảnh thuận nghịch, giống như khoảng Không, thân tâm biết rõ, thành quả bình đẳng. Với các chúng sinh cùng một thể loại không khác, tu hành phương cách như thế, vào hiểu đầy đủ.

Người nam thiện ! Chúng sinh thời vận hết không được thành Đạo. Do có tất cả hạt giống tự yêu ghét khác từ xưa, cho nên chưa Giải thoát. Nếu lại có người quan sát oán gia của người đó, như của cha mẹ của mình, tâm không có hai, tức thời bỏ các bệnh. Ở trong các Pháp tự yêu ghét khác, cũng lại như thế.

Người nam thiện ! Chúng sinh thời vận hết muốn cầu hiểu đầy đủ. Cần phải phát tâm làm lời nói như thế. Tất cả chúng sinh ở tận cùng của khoảng Không, Con đều giúp cho vào, thành quả hiểu đầy đủ. Ở trong hiểu đầy đủ, không giữ hiểu, bỏ tất cả hình tướng của bản thân, người, nó. Phát tâm như thế không rơi xuống thấy sai. Khi đó Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này mà đọc bài kệ nói rằng:

Phổ Giác Ngài nên biết. Chúng sinh thời vận hết. Muốn cầu Tri thức thiện. Cần phải cầu hiểu đúng. Tâm xa bậc Duyên Giác. Trong Pháp trừ bốn bệnh. Là Làm, Dừng, Gánh, Mất. Thân thiết không kiêu mạn. Rời xa không thù giận. Thấy đủ loại cảnh giới. Tâm đang sinh hiếm có. Lại như Phật ra đời. Không phạm luật nghi sai. Giới Căn vĩnh Thanh tịnh. Độ tất cả chúng sinh. Cuối cùng vào hiểu đủ. Không tướng tôi, người, nó. Thường dừng dựa Trí tuệ. Liền được qua thấy sai. Chứng hiểu vào Niết Bàn.

Lúc đó Viên Giác Bồ Tát ở trong Đại Chúng, tức thời từ chỗ ngồi đứng lên. Đỉnh lễ chân Phật, vòng phải ba lần, quỳ lâu chắp tay đan chéo ngón tay, mà báo cáo Phật nói rằng : Đại Bi Thế Tôn ! Vì Con cùng với bậc trên, rộng nói đủ loại Phương tiện hiểu Thanh tịnh. Giúp tất cả chúng sinh thời vận hết tăng lợi ích lớn có. Thế Tôn ! Chúng con ngày nay đã được mở biết. Nếu sau Phật tạ thế, chúng sinh thời vận hết chưa được biết. Làm thế nào sống yên ổn, tu hành cảnh giới Thanh tịnh hiểu đầy đủ này ?

Trong hiểu đầy đủ này, ba loại quan sát Thanh tịnh, lấy cái gì làm đầu ? Chỉ nguyện Đại Bi vì các Đại Chúng cùng với chúng sinh thời vận hết, Bố thí nhiều ích lợi lớn. Làm lời nói đó xong, phục đất đỉnh lễ, thỉnh cầu ba lần như thế, sau cùng trở lại chỗ cũ.

Khi đó Thế Tôn bảo Viên Giác Bồ Tát nói rằng : Thiện thay ! Thiện thay ! Người nam thiện ! Các Ngài lại hay hỏi về Phương tiện như thế của Như Lai. Dùng nhiều lợi ích lớn, Bố thí cho các chúng sinh. Nay Ngài nghe Tuệ ! Đang vì Ngài nói. Khi đó Viên Giác Bồ Tát vui vẻ vâng theo lời dạy. Cùng với các Đại Chúng im lặng mà nghe.

Người nam thiện ! Tất cả chúng sinh, nếu Phật ở Thế gian, hoặc sau khi Phật tạ thế, hoặc lúc Pháp vận hết. Có các chúng sinh đủ tính Pháp Bậc Phật, tin bí mật của Phật, tâm hiểu đầy đủ lớn, muốn tu hành nó. Nếu trong Già Lam yên ổn ở trong chúng Tín đồ. Do có việc duyên tùy phận suy nghĩ quan sát. Như Ta đã nói, nếu lại không có Nhân duyên việc khác. Tức thời kiến thiết Đạo tràng, nên lập ra kỳ hạn. Nếu lập kỳ hạn dài một trăm hai mươi ngày. Kỳ hạn trung bình một trăm ngày, kỳ hạn ngắn tám mươi ngày, bố trí yên ổn ở nơi Thanh tịnh. Nếu Phật Hiện tại cần suy nghĩ đúng. Nếu sau khi Phật tạ thế, làm ra hình tượng. Mắt tưởng tượng giữ lại trong tâm, sinh ghi nhớ đúng, lại giống Như Lai hàng ngày thường sống, treo các cờ hoa, trải qua hai mươi mốt ngày. Phục đỉnh lễ tên hiệu các Phật mười phương. Cầu xót thương sám hối, gặp cảnh giới thiện, được tâm nhẹ nhàng yên ổn, qua hai mươi mốt ngày, một hướng nhớ hút lấy. Nếu qua đầu mùa hè ba tháng sống yên ổn một chỗ, đang vì dừng ở của Bồ Tát Thanh tịnh. Tâm rời Thanh Văn, chúng Tín đồ không giả, tới ngày sống yên ổn tại chỗ, tức thời ở trước Phật, làm lời nói như thế. Con nam Tì Kheo, nữ Tì Kheo, nam Phật Tử, nữ Phật Tử. Ngồi ở Bậc Bồ Tát tu Vắng lặng, thực hành cùng vào Thanh tịnh, dừng giữ Thực tướng, do hiểu đầy đủ lớn, vì Con Già Lam, thân tâm sống yên tại chỗ. Trí tính bình đẳng, Tự tính Niết Bàn do không lệ thuộc. Nay Con kính thỉnh cầu không dựa vào Bậc Thanh Văn. Đang ba tháng sống yên tại chỗ cùng với Như Lai và Bồ Tát lớn nhất mười phương. Do Nhân duyên lớn hiểu vi diệu tu Bồ Tát Bình Đẳng, không liên hệ với chúng Tín đồ. Người nam thiện ! Tên này là Bồ Tát tỏ ra sống yên tại chỗ, qua ngày ba kì hạn, tùy ý qua lại không trở ngại.

Người nam thiện ! Nếu thời vận hết đó chúng sinh tu hành, cầu Đạo Bồ Tát, vào ba kỳ hạn. Nghe được tất cả cảnh giới đó sai, cuối cùng không thể giữ. Người nam thiện ! Nếu các chúng sinh tu Tĩnh lặng. Trước tiên giữ Tĩnh Lặng lớn, không phát ra nghĩ nhớ, Tĩnh lặng cực độ liền hiểu. Tĩnh lặng ban đầu như thế, từ với một thân tới một Thế giới, hiểu cũng như thế. Người nam thiện ! Nếu hiểu đầy khắp một Thế giới, trong một Thế giới có một chúng sinh, phát ra một nghĩ nhớ, đều cùng hay biết. Trăm nghìn Thế giới cũng lại như thế. Nghe được tất cả cảnh giới đó sai, cuối cùng không thể giữ.

Người nam thiện ! Nếu các chúng sinh tu Yên nhớ Pháp đúng. Trước tiên tưởng nhớ Như Lai mười phương, tất cả Bồ Tát Thế giới mười phương. Dựa vào đủ loại môn, lần lượt tu hành Tam muội cần khổ, rộng phát nguyện lớn, tự hun đúc thành giống Phật. Nghe được tất cả cảnh giới đó sai, cuối cùng không thể giữ.

Người nam thiện ! Nếu các chúng sinh tu với Rõ môn Pháp số. Trước tiên giữ môn số, trong tâm biết rõ, nhớ sinh ở mất, phân đều đầu số. Như thế đầy khắp trong bốn uy nghi, phân biệt số nhớ, đều biết rõ. Lần lượt tăng tiến, thậm chí được biết một giọt mưa của trăm nghìn Thế giới. Giống như mắt trông thấy, nhận được vật dụng. Nghe được tất cả cảnh giới đó sai, cuối cùng không thể giữ.

Tên đó là ba Phương tiện quan sát ban đầu. Nếu các chúng sinh tu khắp ba loại, siêng thực hành Tinh tiến, tức thời tên là Như Lai xuất hiện ở Thế gian. Nếu sau thời vận hết, chúng sinh Căn ngu độn, tâm muốn cầu Đạo, không được thành công, do Nghiệp chướng cũ. Cần siêng sám hối, thường phát ra hi vọng, trước tiên cắt đứt tâm yêu ghét, hiềm khích đố kỵ xảo trá, kiêu mạn cầu tốt nhất. Ba loại quan sát Thanh tịnh này, thuận theo học một việc. Quan sát này chưa được, lại tập luyện quan sát đó, tâm không bỏ, lần lượt cầu chứng nghiệm. Khi đó Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này mà đọc bài kệ nói rằng :

Viên Giác Ngài nên biết. Tất cả các chúng sinh. Muốn hành Đạo Bình Đẳng. Trước cần kết ba kỳ. Sám hối Nghiệp xa xưa. Trải qua hai mốt ngày. Sau đó suy nghĩ đúng. Nghe được cảnh đó sai. Cuối cùng không thể giữ. Tĩnh Lặng lớn được Tĩnh. Tam ma Nhớ giữ đúng. Đếm số rõ môn số. Tên đó ba xem sạch. Nếu hay siêng tu luyện. Tên đó Phật ra đời. Căn độn chưa thành công. Tâm thường siêng sám hối. Tất cả tội xa xưa. Các chướng nếu tiêu diệt. Cảnh Phật hiện ra trước.

Khi đó Hiền Thiện Thủ Bồ Tát, ở trong Đại Chúng, tức thời từ chỗ ngồi đứng lên. Đỉnh lễ chân Phật, vòng phải ba lần, quỳ lâu chắp tay đan chéo ngón tay, mà báo cáo Phật nói rằng : Đại Bi Thế Tôn ! Rộng vì chúng con cùng với chúng sinh thời vận hết. Mở biết việc không thể nghĩ bàn như thế. Thế Tôn ! Giáo lý Pháp Bậc Phật này tên là gì ? Vâng giữ ra sao ? Chúng sinh tu luyện được công Đức thế nào ? Làm thế nào khiến cho Con giúp đỡ người giữ Kinh ? Lưu truyền phân phát Kinh này ở nơi nào ? Làm lời nói đó xong, phục đất đỉnh lễ, thỉnh cầu ba lần như thế, sau cùng trở lại chỗ cũ.

Khi đó Thế Tôn bảo Hiền Thiện Thủ Bồ Tát nói rằng : Thiện thay ! Thiện thay ! Người nam thiện ! Các Ngài lại hay vì các Bồ Tát cùng với chúng sinh thời vận hết. Hỏi Như Lai tên hiệu công Đức của Kinh như thế. Ngài nay nghe Tuệ ! Đang vì Ngài nói. Khi đó Hiền Thiện Thủ Bồ Tát vui mừng vâng theo lời dạy. Cùng với các Đại Chúng im lặng mà nghe.

Người nam thiện ! Kinh đó được trăm nghìn vạn trăm triệu Hằng hà sa các Phật nói. Được Như Lai Ba đời giúp giữ, được Bồ Tát mười phương trở về nương theo. Danh mục mắt Thanh tịnh của mười hai bộ Kinh. Kinh đó tên là : Đà La Ni hiểu đầy đủ rộng mở chuyên nghiệp. Cũng tên là Rõ nghĩa hợp ý, cũng tên là Tam muội bí mật bậc nhất. Cũng tên là Cảnh giới quyết định của Như Lai, cũng tên là Tự tính sai khác của tạng Như Lai. Ngài nên vâng giữ.

Người nam thiện ! Kinh đó chỉ hiện rõ cảnh giới Như Lai. Chỉ có Phật Như Lai hay nói đọc tận cùng. Nếu các Bồ Tát cùng với chúng sinh thời vận hết, dựa vào đây tu hành, lần lượt tăng tiến, tới được Bậc Phật. Người nam thiện ! Kinh đó tên là Chỉnh đốn Giáo lý Pháp Bậc Phật, chúng sinh chỉnh đốn thời cơ từ đây mở biết, cũng hút lấy, dần tu tất cả phẩm bậc. Ví như biển lớn không nhường dòng chảy nhỏ, thậm chí ruồi muỗi và A Tu La uống nước đó, đều được tràn đầy.

Người nam thiện ! Giả sử có người, toàn dùng bảy báu chứa đầy Ba nghìn Đại thiên Thế giới, dùng để Bố thí. Không bằng có người nghe tên Kinh này, cùng với nghĩa một câu.

Người nam thiện ! Nếu như có người dạy trăm nghìn Hằng hà sa chúng sinh được quả A La Hán. Không bằng có người đọc nói Kinh này, phân biệt nửa câu kệ.

Người nam thiện ! Nếu lại có người nghe tên Kinh này, tâm tin không nghi hoặc. Nên biết người đó, không phải chỉ trồng các Phúc Tuệ ở nơi một Phật hai Phật. Như thế thậm chí ở nơi ở của Hằng hà sa tất cả Phật, nghe Kinh giáo này trồng các Căn thiện.

Người nam thiện ! Cần ủng hộ người tu hành thời vận hết. Không để Ma ác và các ngoại Đạo não loạn thân tâm họ, làm họ thoái lui khuất phục. Khi đó trong hội có Hỏa Thủ Kim Cương, Thôi Toái Kim Cương, Ni Lam Bà Kim Cương cùng với tám vạn Kim Cương, tất cả quyến thuộc của họ. Tức thời từ chỗ ngồi đứng lên, đỉnh lễ chân Phật và báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Nếu sau thời vận hết tất cả chúng sinh. Hay có thể giữ Kinh này, quyết định Pháp Bậc Phật. Con đang giúp giữ, như giữ gìn đôi mắt. Thậm chí ở Đạo tràng nơi tu hành, Con và các Kim Cương tự lãnh đạo chúng Tín đồ sớm tối giúp giữ. Giúp cho Không chuyển lui, gia đình họ thậm chí vĩnh không có tai chướng, tiêu mất bệnh dịch, tiền vật báu đầy đủ, thường không thiếu thốn.

Khi đó Vua Trời Phạm lớn, hai mươi tám Vua Trời, tất cả Vua núi Tu Di, các Vua Trời giúp giữ Đất nước. Tức thời từ chỗ ngồi đứng lên, đỉnh lễ chân Phật, vòng phải ba lần mà báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Con cũng giúp bảo vệ người giữ Kinh đó, thường giúp cho yên ổn tâm Không chuyển lui. Khi đó có Vua Quỷ lực lớn tên là Cát Bàn Trà, cùng với mười vạn Vua Quỷ. Tức thời từ chỗ ngồi đứng lên, đỉnh lễ chân Phật, vòng phải ba lần mà báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Con cũng giúp bảo vệ người giữ Kinh đó, sáng tối giúp bảo vệ, giúp cho không lùi bước khuất phục. Nơi ở của người này trong vòng hai mươi cây số, nếu có Quỷ Thần xâm phạm cảnh giới của họ. Con cần sử lý họ nát vụn như bụi trần.

Phật nói Kinh này xong. Tất cả Bồ Tát, Trời Rồng Quỷ Thần, tám Bộ quyến thuộc cùng với các Vua Trời, Vua Phạm, tất cả Đại Chúng. Nghe được Phật nói, đều rất vui mừng, tin nhận vâng theo thi hành.

Kinh Rõ nghĩa hợp ý hiểu đầy đủ rộng mở chuyên nghiệp.

0 0 Phiếu
Xếp Hạng Bài Viết
Đăng ký
Thông báo về
guest

0 Bình Luận
Mới nhất
Cũ nhất Được bình chọn nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả ý kiến