Xuân Phụng Hoàng Tập 2
(2005)
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Lễ Phổ Trà Bính Tý
Cùng chư Tăng Ni và quí Phật tử,
Theo tục lệ Việt Nam, mỗi năm vào đêm hăm chín gọi là đêm tất niên, hoặc giao thừa, còn nói theo tiếng Hán là đêm “trừ tịch”, có lễ cúng tất niên hoặc tiệc tất niên. Do theo tập tục của người Việt Nam, trong nhà chùa chúng ta cũng có tổ chức tất niên. Chữ “tất” là hết, là rốt; “niên” là năm; tức là đêm cuối năm. Tối nay là đêm chót của năm Bính Tý cho nên gọi là đêm tất niên.
Tất niên của ngoài thế gian là để vui chơi tiệc tùng, còn chúng ta đêm tất niên là để kiểm tra lại sự tu hành của Tăng Ni cũng như của Phật tử. Qua một năm chúng ta tiến bộ nhiều ít, có những thiếu sót, lỗi lầm gì, hay dở thế nào để chuẩn bị cho sự tu hành sang năm tới của chúng ta, rút tỉa kinh nghiệm tăng trưởng những điều hay và chừa bỏ các lỗi dở để tiến thêm, tiến cao hơn. Ðó là ý nghĩa tất niên ở trong Thiền viện chúng ta tổ chức.
Ðêm tất niên hôm nay chúng tôi chia ra những mục để quí vị biết, theo thứ tự mà thực hiện.
Mục thứ nhất là kiểm tra lại sự tu hành của chư Tăng, chư Ni và Phật tử trong một năm qua. Mục thứ hai là tôi sẽ nhắc nhở khuyến khích những điều gì sai sót hoặc còn thiếu, để quí vị tiến tu cho được đầy đủ. Những điều gì đã khá, đã hay thì tôi cũng khích lệ cho quí vị tiến thêm. Sau lời nhắc nhở khích lệ đó, chúng tôi sẽ giải thích bổn phận của một người tu phải làm những gì.
Xong chúng ta nghỉ nửa giờ, chư Tăng về trai đường uống gì đó chút ít cho khỏe rồi trở lên. Ni về bên kia cũng vậy, nhưng không ra trở lại. Còn Phật tử mời qua nhà khách ăn uống một chút gọi là hương vị cuối năm, chuẩn bị đầu năm. Sau nửa giờ tại đây sẽ chiếu phim. Ðó là ba cuốn phim tôi đi bên Úc Châu về, bữa nay mới hoàn bị, sẽ đem chiếu cho chư Tăng và Phật tử xem, còn chư Ni thì dành hôm khác. Ðến mười hai giờ kém mười lăm nghỉ, kế đó chư Tăng tụng kinh vào giờ giao thừa, có ba hồi chuông để đón giao thừa.
Ðó là chương trình đêm nay, báo cho tất cả quí vị biết. Nếu quí Phật tử có khả năng ở lại tới mười hai giờ thì ở, không thì về sớm cũng được.
Ðầu tiên là kiểm tra lại sự tu hành của Tăng Ni và Phật tử trong một năm qua.
Trước hết là đại diện cho Tăng, hôm nay Quản chúng nhập thất thì Phó Quản chúng đại diện báo cáo cho tôi cùng toàn thể Tăng Ni, Phật tử nghe sự tu hành tiến thối của chúng thế nào, để rồi mình nhắc nhở nhau tiến lên. Quí vị đừng xấu hổ vì những cái dở, có dở rồi mình mới tiến lên hay.
(Thầy Phó Quản chúng nội viện Tăng)
Kính bạch Thầy,
Con xin thay mặt thầy Quản chúng trình bày những ưu và khuyết điểm trong một năm qua trên bước đường tu hành của toàn thể chư Tăng.
Kính bạch Thầy,
Nhìn chung trong một năm qua, việc tu hành của chúng tiến bộ hơn những năm trước. Về giới đức cũng được thuần thục hơn. Giờ giấc tụng kinh, tọa thiền đều nghiêm túc không có thiếu sót. Về ngồi thiền, đa số ngồi được suốt ba thời, mỗi thời hai tiếng đồng hồ. Quí vị nhập thất ai cũng có được niềm an lạc trong thời gian nhập thất. Ðó là những ưu điểm trong năm qua.
Tuy nhiên, bên những ưu điểm đó cũng còn một số khuyết điểm trong việc tu hành, là có vài vị vì chưa khắc phục được thân, nên trong giờ ngồi thiền cũng còn hôn trầm, trạo cử. Vài vị chưa đạt đến hai tiếng đồng hồ, vì mới nhập chúng hoặc vì có những bệnh riêng. Thứ ba nữa là có những vị có trách nhiệm đặc biệt nên giờ giấc tọa thiền cũng như tụng kinh không được đầy đủ.
Ðó là nhìn chung về việc tu hành, riêng về đời sống lục hòa thì năm vừa rồi Thầy đã dạy năm nay là năm thứ ba, lục hòa phải được đầy đủ tuyệt đối, nhưng điều chúng con thấy hổ thẹn là năm thứ ba mà lục hòa chưa được đầy đủ. Do đó hôm nay con trình lên để Thầy kiểm qua rồi nhắc nhở cho huynh đệ chúng con, sang năm chúng con hứa sẽ cố gắng khắc phục thực hiện lục hòa được trọn vẹn hơn.
(Ni sư Quản chúng nội viện Ni)
Kính bạch Thầy,
Hôm nay con xin trình lên tổng quát phần tu hành của huynh đệ chúng con trong nội viện.
Về việc tu hành trong năm thứ ba, chị em chúng con cũng có cố gắng, giờ giấc tụng niệm tọa thiền đều được đầy đủ. Tuy nhiên có đôi khi huynh đệ vì bệnh nên nghỉ, do đó thời khóa quí vị cũng hơi thiếu. Phần lục hòa, chúng con vâng lời Thầy dạy nên có cố gắng thực hiện tương đối đầy đủ. Bên cạnh đó cũng có huynh đệ vì mới đến, chưa theo kịp được nếp sống lục hòa nên còn đôi điều lủng củng. Sau đó con nhắc nhở, thấy huynh đệ có cố gắng và theo kịp với đại chúng.
Nói chung, chúng con cũng có phần tiến hơn hai năm về trước, tuy vậy vẫn còn những khuyết điểm do các huynh đệ mới chưa theo kịp. Chúng con kính trình lên Thầy, nhờ Thầy nhắc nhở để chị em chúng con tiến thêm.
(Hòa thượng)
Phần Tăng Ni đã xong. Ðúng ra thì bây giờ đến cư sĩ, nhưng cư sĩ tôi biết mỗi người ở mỗi nơi, không ai biết ai, nên không ai đại diện để nói lên được. Thôi để quí vị tự nghiệm, tự xét rồi cố gắng chớ không kiểm tra lại.
Bây giờ tôi nhắc nhở Tăng Ni và Phật tử ngày cuối năm. Trước khi nhắc nhở tôi cũng tự kiểm điểm lại mình trong năm qua. Riêng phần tôi vì có những việc phải đi xa và đi gần, cộng lại ba lần đi hết tám mươi ngày, gần ba tháng vắng mặt ở Thiền viện, do đó sự nhắc nhở sách tấn cho Tăng Ni cũng còn thiếu sót chưa đủ. Ðó cũng là cái khuyết của tôi. Giờ đây tới phần nhắc nhở tất cả Tăng Ni rồi sẽ nói tới Phật tử sau.
Tất cả quí vị đã nghe đại diện bên Tăng và đại diện bên Ni trình bày qua. Trong đó chỉ nói đại khái những điều còn sơ sót, chớ những bước tiến tốt của Tăng Ni thì chưa ai dám nói. Sáng mai tôi sẽ nói những niềm vui mà tôi đã nhặt được qua những lời trình bày của Tăng Ni cũng như của cư sĩ cho quí vị nghe. Hôm nay chúng ta chỉ kiểm tra những cái khuyết để nhắc nhở thôi.
Tôi thường đặt nặng với chư Tăng, Ni ở đây, trong vòng ba năm quí vị phải thực hiện cho được pháp lục hòa, đó là nếp sống của Thiền viện. Còn phần tọa thiền, về hình thức, quí vị phải ngồi cho đủ hai tiếng không được thiếu. Hiện nay phần tọa thiền chỉ một ít người bệnh hoặc mới đến chưa ngồi được hai tiếng, chớ hầu hết đều được. Ðó là quí vị đã thực hiện được một điều tôi chỉ định. Nhưng về phần lục hòa thì như đại diện bên Tăng đã cho biết, còn hổ thẹn vì huynh đệ chưa thực hiện được trọn vẹn.
Tôi xin nói rõ hai chữ lục hòa cho tất cả nhớ. Lục là sáu, hòa là hòa thuận, cũng có chỗ gọi là hòa kính. Trong nhà Phật, nghĩa “Tăng” nguyên chữ Phạn là “Sanga”, mình đọc âm trại một chút gọi là “Tăng-già”, Trung Hoa dịch nghĩa là “hòa hợp chúng”, tức là trong một đoàn thể sống hòa hợp với nhau phải thực hiện đủ sáu điều:
Một là thân hòa đồng trụ: Sống với nhau, ở chung với nhau thì phải thực hiện cho đúng về mặt tu hành, công tác, ăn uống, ngủ nghỉ, đều nhịp nhàng, đều đồng bộ ai cũng như ai. Không ai được quyền thiếu, vắng, trễ mà phải làm đúng như nhau. Gọi thân hòa đồng trụ, tức là về thân: ăn, ở, lao động và tu hành đều như nhau.
Hai là khẩu hòa vô tránh, tức là về miệng thì chỉ nên luận bàn đạo lý mà tuyệt đối không được tranh cãi, to tiếng hoặc có những lời nói có vẻ chống đối. Nếu tranh cãi, hoặc chống đối tức là phạm lỗi. Khẩu hòa vô tránh nghĩa là miệng hòa không tranh cãi.
Như vậy về thân thì sống nhịp nhàng trong mọi sanh hoạt, về miệng phải luôn luôn hòa thuận, nói năng nhẹ nhàng, nhã nhặn và kính trọng nhau.
Ba là ý hòa đồng duyệt, tức là ý của mình phải vui vẻ với nhau. Tại sao phải vui vẻ với nhau? Bởi vì chúng ta nhiều khi sống hòa về hành động, về thân, về lời nói – những điều này tương đối dễ hòa – nhưng về ý thì mỗi người có tâm ý khác nhau, không ai giống ai, cái đó hòa rất là khó! Nếu ý mình không hòa thuận thì cuộc sống sẽ có tỵ hiềm, bực bội, rồi chống đối nhau. Cho nên ở đây buộc phải ý hòa, cùng vui với nhau.
Chúng ta phải luôn sống với tâm ý vui hòa. Dù có những ý niệm sai biệt, chúng ta đều xả bỏ tâm niệm riêng tư, sống trong tình hòa thuận. Hòa thuận để làm gì? Ðể chúng ta yên ổn, vui tươi, tu hành thăng tiến. Nếu sống mà ý mình chống đối thù nghịch thì đó là gốc của phiền não, sân si, không bao giờ tu hành tiến bộ được. Vì vậy mà ý phải vui hòa với nhau, trên dưới thuận thảo, không có sự chống đối, không điều gì tỵ hiềm, đó là niềm vui an ổn tu hành. Việc này khó làm, không phải ngày một ngày hai chúng ta thực hiện được, mà phải dày công nỗ lực, lâu lắm mới thấm nhuần tinh thần này.
Thứ tư là giới hòa đồng tu, nghĩa là cùng ở chung với nhau trong một Thiền viện, Tỳ-kheo có bao nhiêu giới, Sa-di bao nhiêu giới cùng hòa đồng giữ gìn như nhau. Ðó là luật Phật dạy chung cho hàng xuất gia, chúng ta phải đồng giữ.
Thứ năm kiến hòa đồng giải, là chỗ thấy biết theo ý kiến riêng tư của mình, nhận định như thế này, hiểu biết như thế nọ, mỗi người dù có sai biệt, đều cùng đem ra bàn bạc một cách hòa thuận để nhắc nhau những chỗ thiếu, dở và khuyến khích nhau những điều hay, tốt, chớ không phải có ý niệm khác biệt nhau rồi đối nghịch nhau.
Ðến cuối cùng là lợi hòa đồng quân, tức là cuộc sống về tài lợi đều cùng như nhau. Bao nhiêu món ăn cũng chia đều cho nhau, bao nhiêu thứ mặc chia đồng không khác. Cho tới mùng màn chăn chiếu gì cũng vậy, không ai được nhiều, không ai ít. Sống hòa đồng như vậy gọi là lợi hòa đồng quân.
Ðiều này không phải giản đơn, bởi vì lâu nay chúng ta quen sống có tư hữu, người nào cũng có riêng, mà bây giờ bắt giống hệt nhau, ngang bằng nhau thì hết sức là khó. Nhưng ở đây tôi cố gắng tạo điều kiện cho Tăng Ni thực hiện được điều đó. Muốn như vậy thì tất cả tài sản đều qui về Thiền viện hết. Ở đây Phật tử không có quyền cúng cho một vị Tăng, một vị Ni nào món đồ riêng hay số tiền riêng, mà chỉ cúng cho Thiền viện, rồi Ban lãnh đạo phân chia ra. Không ai được nhận riêng, cũng không ai cúng riêng.
Ðể thực hiện được lợi hòa đồng quân, phương pháp tổ chức ở đây hơi khác các chùa. Chư Tăng chư Ni không ai có quyền giữ tiền riêng, cũng không ai có quyền tích trữ đồ đạc riêng. Tất cả đều chia đồng nhau. Nếu một chiếc áo rách thì đem đến trình Tri sự, Tri sự sẽ phát chiếc áo lành mới. Một đôi dép rách đem lại Tri sự sẽ phát đôi dép khác, chớ không có hai đôi dép hoặc một chiếc áo dư. Ðiều này quí Phật tử nghe dường như mới chớ thật tình thì Phật đã dạy từ thuở nào. Ðó là sáu điều hòa thuận.
Như vậy, ở đây hai điều thân hòa đồng trụ và khẩu hòa vô tránh, tôi thấy hơi dễ một chút. Ðến thứ ba ý hòa đồng duyệt rất là khó. Tới giới hòa đồng tu, kiến hòa đồng giải và lợi hòa đồng quân, ba cái đó lệ thuộc vào tổ chức của mình. Nếu tổ chức mình khéo thì dễ giữ, tổ chức không khéo sẽ giữ không được.
Không hòa thì không gọi là Tăng. Bởi vì Tăng là một tập thể hòa hợp chung sống với nhau, không chống đối, thù địch, không chia rẽ, không chênh lệch hơn kém. Vì vậy muốn thành ý nghĩa Tăng đòi hỏi chúng ta phải thực hiện lục hòa, đó là vai trò tối thiết yếu. Nếu lục hòa chúng ta không giữ được thì nghĩa Tăng bị giảm kém đi rồi. Dù cho chúng ta cạo tóc, mặc áo nhuộm, thọ giới mà sống không hòa thuận thì cũng chưa đủ ý nghĩa Tăng.
Nên tôi chú trọng nhất là lục hòa, buộc Tăng Ni phải thực hiện cho được trong vòng ba năm. Hôm nay kết thúc ba năm, mà theo lời báo cáo của Phó Quản chúng Tăng thì trong chúng vẫn còn một ít người chưa thực hiện trọn vẹn được lục hòa. Ðây tôi xin nhắc tất cả quí vị tinh thần lục hòa này.
Tại sao chúng ta đi tu? Chắc ai cũng như ai đều trả lời vì bản nguyện giải thoát sanh tử nên mới từ giã cha mẹ, anh em xin vào chùa tu để cầu giải thoát và độ tất cả chúng sanh. Ðó là bản nguyện mà tất cả người tu, bên Tăng cũng như bên Ni, đều ôm ấp.
Bản nguyện đó cao cả, quí báu làm sao! Nếu mang bản nguyện cao cả như vậy mà chúng ta không thực hiện được thì rất là thiếu sót, rất là hèn yếu! Nhưng muốn thực hiện thì chúng ta phải hòa thuận, cùng vui, cùng chia sớt nỗi niềm tâm sự của nhau, để rồi an ủi, nhắc nhở, khuyến khích nhau tinh tấn tu hành, đạt được bản nguyện. Còn nếu chưa hòa thì bản nguyện đó chúng ta khó mà đạt được.
Ở đây tôi dùng một thí dụ, quí vị nghe rồi nghiệm, gẫm xem có đúng như hoàn cảnh này không. Như ở trước sân chùa có một cây bồ-đề to, bị giông tố làm trốc gốc ngả nghiêng, cành khô, lá đổ. Mọi người trong chùa đồng ý với nhau rằng chúng ta phải chống đỡ cho cây bồ-đề đứng vững, sống trở lại, cành lá nó sẽ xanh tươi rợp bóng sân chùa, che mát cho những người núp dưới cội cây.
Khi đã đồng ý với nhau muốn chống đỡ, bồi đắp lại cho cây bồ-đề được đứng vững thì mỗi người phải làm sao? Người thì tìm cây để chống, người tìm dây để kéo buộc lại, người lo lấy đất bồi, người đem nước tưới v.v…
Trong khi chúng ta cố gắng chung lưng nhau lo chống đỡ cây bồ-đề đứng vững lại, giả sử có người nhiệt tình kêu huynh đệ đi lấy cây chống, nhưng có những người chậm chạp, tìm cây không ra và bị la rầy. Khi bị la rầy mình nên giận, bỏ cuộc, hay là nên nghe lời nhắc nhở để cố gắng làm hết sức đặng chống đỡ cây bồ-đề? Hoặc trong khi mọi người lo tìm dây để cột lôi kéo phụ, mà có người lại đi cà lơ mơ, không nhanh nhẹn, không nỗ lực, rồi bị mấy người nhiệt tình la, quở thì sao?
Bởi vì khi chung sức chống đỡ cây bồ-đề to, là việc làm cấp bách và nặng nề, thì mỗi người phải tận lực, phải nhiệt tình. Nếu chúng ta có mặt và đồng ý chống đỡ mà không chịu nỗ lực, không nhiệt tình, bị người khác rầy la thì chúng ta phải nghĩ rằng đây là việc chung, việc lớn. Chúng ta không thể nào vì một lời chê trách mà sanh ra buồn phiền bỏ cuộc. Bỏ cuộc tức là hư việc lớn.
Cho nên trong lúc đó dù ai la, quở, mình cũng phải nỗ lực làm cho tròn, cho hết sức thì khả dĩ chúng ta mới hợp tác cứu được cây bồ-đề, không còn nghiêng ngả, không còn khô cành đổ lá nữa. Ngược lại, khi có những người nhiệt tình la rầy, mình đâm ra bực bội rồi bỏ cuộc thì hư cả việc lớn.
Như vậy, hình ảnh cây bồ-đề nói lên điều gì? Nói lên bản nguyện của tất cả chúng ta muốn tu hành giác ngộ. Muốn tu hành được giác ngộ để làm lợi ích cho chúng sanh, việc ấy quá lớn, quá to. Nếu trong khi tu hành, chúng ta lại vì một hai lý do gì đó không được hòa thuận, không giữ đúng lục hòa thì bản nguyện của chúng ta đâu thể nào thực hiện được. Cũng như trong khi muốn chống đỡ cây bồ-đề đứng vững mà chúng ta lại không nhiệt tình, bỏ cuộc thì làm sao cứu được cây bồ-đề?
Cho nên trong công tác này, tất cả chúng ta thấy việc cần thiết đầu tiên để cho cây bồ-đề đứng vững là phải hòa thuận với nhau, cùng cố gắng kẻ lo việc này, người tìm việc kia, làm sao chung lưng góp sức chống đỡ cho cây bồ-đề được đứng vững. Rồi từ đó mới tới những công tác kế là chúng ta bồi đất, tưới nước cho nó. Thành ra cái gốc của chúng ta bây giờ là phải hòa thuận để làm việc lớn. Ðó là điều quá thiết yếu.
Nếu chư Tăng chư Ni bản nguyện rất to mà lại có ý niệm riêng rẽ thì bản nguyện đó không bao giờ thực hiện được. Chúng ta nguyện được giác ngộ, giải thoát và cứu độ chúng sanh thì bước đầu chúng ta phải hòa hợp chung sống với nhau trong niềm đạo đức chân thật, để cùng tu cùng tiến đến chỗ lợi ích cho mình cho người vuông tròn. Như vậy mới là xứng đáng. Nếu chúng ta không có sự hòa thuận, chung hợp với nhau thì không bao giờ làm được việc gì. Cho nên tôi đặt lục hòa là bước đầu tối quan trọng trong cuộc sống chư Tăng chư Ni.
Quí vị đến đây luôn luôn phải chú trọng, phải nhìn thẳng lục hòa là điều thiết yếu trong đời tu của mình. Khi không thực hiện được một điều nào trong lục hòa thì mình phải tự xấu hổ, tự thấy như đã phạm một lỗi lớn, để rồi cố tránh không cho tiếp diễn nữa. Ðược như vậy mới mong trên đường tu quí vị không lui sụt, mới thu hoạch kết quả tốt đẹp. Bằng không đời tu của mình e rồi cũng không đi đến đâu. Ðó là điều tôi nhắc cho tất cả nhớ, hiểu rõ ý nghĩa lục hòa mà tôi hết sức chú trọng.
Về hình thức hòa thuận, có thể Tăng Ni dễ thực hiện được, nhưng về tinh thần, ý niệm hòa thuận thì quí vị nghĩ sao, đã được hết chưa? Tức là về ý hòa đồng duyệt, chư Tăng chư Ni mình thực hiện được chưa? Có khi nào huynh đệ nói lên ý kiến này ý kiến nọ, mình không đồng ý, rồi mình cũng bực, cũng la không? – Có, ờ, như vậy là có phạm lỗi gì không? Mà tôi nói phạm lục hòa cũng gần như phạm một giới lớn vậy.
Quí vị nhớ điều tôi đã nêu – phạm một điều hòa gần như phạm một giới trọng vậy. Tại sao? Như tôi đã nói nãy giờ, một điều hòa mà mất đi thì cuộc sống trong chúng sẽ có mầm chia rẽ. Một khi chia rẽ thì phiền não sanh, phải không? Phiền não sanh thì tu không bao giờ được định, mà không được định làm sao có giác ngộ?
Có khi nào quí vị phiền não rần rần mà ngồi tu tâm định không? Không bao giờ được định! Muốn định thì phải an lạc, vui tươi, tu mới tiến. Như vậy sống không hòa vừa làm cho tập thể mình hư, vừa làm cho đời tu mình hỏng nữa. Ðó là điều hết sức thiết yếu. Vậy nên tôi khuyên phải giữ lục hòa, đã là năm thứ ba rồi.
Thôi bây giờ tôi gia hạn. Quí vị muốn tôi gia hạn chừng bao nhiêu? Một năm hay nửa năm? Thôi thì tôi gia hạn cho quí vị một năm nữa, làm sao thực hiện cho được lục hòa. Ðược lục hòa rồi mới tới những cái khác. Nếu chưa được lục hòa thì trên đường tu còn nhiều trở ngại lắm. Ðó là điều tôi rất tha thiết trông mong Tăng Ni cố gắng thực hiện cho được.
Quí vị thấy, đây là nói xa hơn, nhìn tập thể Tăng Ni chúng ta hiện giờ ở mọi nơi tinh thần hòa hợp kém lắm, nên tu hành cũng có nhiều cái suy sụp. Vì vậy, tôi muốn rằng tất cả chúng ta ở đây, làm sao phải xứng đáng với ý nghĩa người xuất gia hi sinh tất cả. Hi sinh tình mẫu tử, tình huynh đệ, hi sinh tất cả những cái vui của thế gian để làm một người xuất gia thì chẳng lẽ không hi sinh được ý niệm riêng tư, không hi sinh được những sở hữu riêng tư? Có gì là quan trọng?
Quí vị phải làm cho được điều đó, trong lúc tôi còn sống, thì khi tôi theo Phật mới tin rằng quí vị có thể hợp tác với nhau làm Phật sự được. Chớ ngày nay tôi còn sống, nhắc tới nhắc lui mà quí vị làm không được, tới chừng tôi nhắm mắt theo Phật rồi, người xách gói đi đầu này, người xách gói đi đầu kia, mạnh ai nấy tự tung tự tác thì cái công lao xây dựng bao nhiêu năm sẽ đi về đâu?
Do thấy như vậy, nên tôi tha thiết mong mỏi chư Tăng Ni thực hiện cho được lục hòa. Nhất là chư Tăng, tâm ý hơi bồng bột hơn bên Ni, bồng bột nên nó nổi, mà nổi thì vừa có ý bất hòa là miệng thốt ra liền. Cho nên ý không hòa thì khẩu cũng không hòa luôn, phạm cả hai cái một lượt. Còn bên Ni ít bồng bột nên nó chìm sâu, thấy như là khẩu hòa, vì không dám la, mà cái ý vẫn ngầm ngầm. Như vậy thì cả hai bên, bên nào cũng nên biết chỗ khuyết của mình mà chừa sửa để thực hiện cho được lục hòa. Ðó là điều chúng tôi mong mỏi.
Như vậy sang năm, tức là năm thứ tư của Thiền viện chúng ta, đến ngày tất niên, quí vị sẽ báo cáo cho tôi nghe đã được vuông tròn lục hòa, phải không? Mong tất cả chư Tăng chư Ni có mặt hôm nay, cố gắng thực hiện cho được lục hòa, đó là điều tôi mong ước.
Bây giờ tôi nhắc nhở cho chư Tăng Ni nhớ lại bổn phận của mình trên đường tu. Thật tình người tu Phật là làm một việc rất khó chớ không phải dễ. Quí vị thấy thói quen của chúng ta, đừng nói nhiều, chỉ một cái nóng giận thôi, khi chúng ta muốn bỏ, quí vị nghĩ bỏ chừng bao lâu mới hết?
Kể cả các Phật tử cư sĩ, quí vị là Phật tử, ai cũng biết nóng giận là tật xấu, biết rõ như vậy, bây giờ quí vị quyết tâm bỏ nóng giận thì chừng bao lâu hết? Nghĩa là không ai chọc thì thôi, thấy như mình an lắm, tốt lành lắm, nhưng khi gặp cảnh nào trái nghịch, lúc đó chú nóng giận núp ở đâu đó nhào ra liền, kềm không nổi, chận không được.
Nên bình thường thấy ai cũng tốt, gặp việc mới biết tập khí nhiều đời rất khó bỏ. Ðó là chỉ nói một món nóng giận mà chúng ta cũng chưa thể định bao lâu mới bỏ hết, huống nữa còn bao nhiêu thứ khác, nhiều quá!
Vậy nên trên đường tu, chúng ta đừng nghĩ một vài năm, hoặc năm mười năm là hoàn toàn trong sạch, mà có thể là thời gian rất dài. Dài chừng bao lâu? Nếu giỏi lắm cũng phải suốt một cuộc đời, còn chưa giỏi thì năm mười kiếp, chớ không thể một đời là xong. Còn nếu chậm nữa thì Phật nói ba a-tăng-kỳ, tức là ba vô số kiếp mới hết tập khí.
Chúng ta thấy từ khi bắt đầu đi trên con đường tu, đến giác ngộ giải thoát là chặng đường rất dài, dài gần như là thăm thẳm, nhìn không thấy chỗ cuối. Nhưng kiểm lại thân của chúng ta, quí vị có ai biết chắc là mình sống được bao lâu không? Ai dám quả quyết là tôi tám mươi, chín mươi tuổi mới chết không? Không ai bảo đảm được điều đó. Lúc nào chúng ta cũng thấy việc chết sống thật là bất thường, không cố định.
Thí dụ chúng ta sống được tám mươi tuổi – đó là nói cái mức rất cao – thì trong chúng ta đây, thử kiểm coi quí vị đã bao nhiêu tuổi rồi? Nếu người trẻ nhất ít ra cũng hai mươi mấy, phải không? Vậy là còn bao nhiêu năm nữa. Tôi thí dụ tuổi thọ chúng ta là tám mươi, đó là chỗ cùng, giống như trên con đường đi, từ chỗ khởi hành đến chỗ cuối cùng là tám mươi cây số. Mình đi qua một cây số thì biết đến chỗ cuối của nó còn lại bao nhiêu, phải không? Vậy quí vị đã qua hết mấy chục cây số rồi? Như Thông Ðạt hết mấy chục cây số? – Gần năm chục rồi, vậy tới số tám mươi còn bao xa?
Thời gian qua rồi chúng ta không thể tìm lại được. Một cây số đã đi qua mình không có quyền trở lại, mà phải đi đến chỗ cuối cùng của nó. Chúng ta qua một chặng đường là thấy ngày kết thúc đời mình gần hơn. Ðừng bao giờ mơ ước rằng chúng ta sẽ trở lại những ngày thuở nào, nghĩa là không thể mong trở lại cái thuở còn mười tám, hai mươi, mà nhất định phải đi, đi cho tới chỗ cuối cùng.
Qua một năm tôi cho là đi được một cây số. Tám mươi cây số là mức tôi đặt rất cao. Ở đây ai sống được tám mươi tuổi là hi hữu lắm rồi. Quí vị nhìn lại mình so với số tám mươi đó, mình xài phân nửa rồi, có khi hơn nữa. Vậy thời gian còn lại không dài. Ðường tu thì dài mà tuổi thọ còn quá ngắn, có phải vậy không?
Ngắn thì mình phải làm sao? Thí dụ trong một thời gian năm tiếng đồng hồ phải làm xong một việc, mình đã làm bốn tiếng mà công việc còn nhiều quá thì phải thế nào? Phải làm gấp đôi gấp ba phải không? Làm nhanh lên mới có thể kịp, chớ làm lơ mơ không thể nào xong.
Tỉ dụ tuổi thọ của tôi, thấy không còn dài nên tôi làm rút, lúc nào tôi cũng thúc quí vị chạy cho kịp tôi. Thúc mãi nhiều khi quí vị nghĩ Thầy sao trối hoài. Mà không trối sao được, bởi vì tôi thấy điểm cuối nó rõ lắm, gần lắm, nên tôi mong rằng quí vị phải nỗ lực. Thời giờ của mình là thời giờ vàng ngọc, qua rồi không tìm lại được.
Chúng ta cố gắng thực hiện cho được điều mình mong muốn. Ðiều đó là xa là dài mà thời gian còn lại quá ít, cho nên mình phải nỗ lực hơn, quyết tâm hơn chớ không thể chần chừ, thả trôi. Tôi thấy nhiều người sao sống một ngày lờ đờ trôi giống như dòng nước sông Hương mùa khô, nó lờ đờ chớ không chảy mạnh. Phải nghĩ đời chúng ta còn ngắn trong khi việc làm chúng ta còn nhiều, phải đem hết tâm lực thực hiện cho được những gì cần thiết.
Vậy nên những điều Phật dạy, chúng tôi nhắc lại, quí vị thấy đó là điều thiết yếu thì phải cố gắng thực hiện cho được chớ đừng lơ là, đừng chần chừ hoặc hẹn. Ðừng hẹn năm nay tu ít ít để dành sang năm mới ráng tu. Năm nay tuổi còn trẻ, sức mạnh còn nhiều mà tu ít, sang năm già đi một chút nữa, thời gian lại ngắn đi, chừng đó nói tu nhiều hơn là vô lý. Ðó là lối hẹn suông chớ không phải thật.
Do đó, những gì hôm nay mình thấy cần làm thì phải làm cho được, rồi ngày sau tiếp tục thêm, chớ đừng nghĩ để dành chờ đợi. Ðó là điều không hay, không tốt. Bản thân mình, mình phải biết rõ. Bản nguyện thì rất cao siêu, con đường tu còn dài mà tuổi thọ lại ngắn, nên chúng ta không thể chần chừ, không nên hứa hẹn.
Ðến điều thứ hai, chúng ta tu không phải chỉ cho mình, mà còn để đền ơn cha mẹ. Vì quí vị thấy, chúng ta có thân này đâu phải bỗng dưng có, đâu phải từ trên trời rơi xuống hoặc dưới đất chui lên, mà phải từ cha mẹ sanh ra, nuôi nấng, bao nhiêu công lao khó nhọc. Bây giờ đã nên người, chúng ta chưa làm được điều gì cho cha mẹ mà đã đi tu thì chúng ta phải tu làm sao cho xứng đáng với công ơn cha mẹ, chớ đâu phải mình đi tu rồi thôi, bất cần.
Câu chuyện tôi sắp kể đây có thể là huyền thoại nhưng tôi nhắc để quí vị nhớ. Tôi đọc trong sử Trung Hoa, có một vị xuất gia tu hành rất thanh tịnh và tinh tấn. Thầy có bà mẹ làm nhiều điều tội ác, nên khi chết bị đọa xuống địa ngục. Khi ngục tốt đem các dụng cụ tới để hành phạt bà thì có một người bảo rằng:
– Không nên hành phạt bà này!
Hỏi tại sao, người ấy nói:
– Con bà này đang tu hành rất tinh tấn, chúng ta không nên hành phạt bà.
Nghe qua, bà an lòng quá, nhờ phước con mình tu hành tinh tấn nên nay tuy có tội mà không bị hành phạt. Nhưng thời gian sau, không biết ông thầy đó vô tình hay cố ý lại phạm giới. Người giữ ngục bảo ngục tốt đem đồ tới hành phạt bà. Bà hỏi:
– Tại sao mấy hôm trước các ông nói tôi có con tu hành tinh tấn nên không phạt tôi, bữa nay các ông lại hành phạt?
– Ơ, lúc trước con bà tu hành tinh tấn nên tôi nể, nhưng giờ con bà đã phá giới, tu hành không ra gì, vì vậy mà phải hành phạt bà.
Bà tức quá, đau khổ quá, liền nói:
– Xin ngục tốt cho phép tôi về gặp con tôi một chút để nhắc nhở nó.
Ngục tốt nghĩ tình dẫn bà về, tay thì bị trói, dẫn đi trong đêm khuya. Ông thầy ngủ mộng thấy mẹ về. Gặp con, bà chỉ mặt mắng:
– Trước kia nhờ con tu hành nên mẹ bị tội mà không ai hành phạt, bây giờ con không lo tu, lại phạm giới nên mẹ bị hành phạt khổ lắm, mẹ về cho con biết.
Ông thầy giật mình tỉnh dậy hoảng lên, từ đó ông cố gắng tu hành tinh tấn.
Dù chuyện đó như huyền thoại, nhưng cũng là bài học cho chúng ta. Chúng ta không làm được gì cho cha mẹ, không nuôi cha mẹ bằng cơm nước, áo quần…, nhưng chúng ta tu, nhờ có đức hạnh cha mẹ cũng được phước lây. Nếu chúng ta tu không ra gì thì đời mình đã bỏ hỏng, lại còn phụ công ơn khổ nhọc của cha mẹ nữa, thật là không xứng đáng chút nào!
Ðó là điều tôi nhắc cho Tăng Ni phải nhớ.
Kế đến là ơn Thầy, ơn Tổ, ơn Phật. Chúng ta nhờ Phật đã chỉ cho một con đường tu hành tiến tới giác ngộ, giải thoát sanh tử, thật là một công đức lớn vô kể. Rồi được các vị Tổ tiếp nối truyền bá đến nay. Trực tiếp nhất là Thầy chỉ dạy hướng dẫn cho mình. Bao nhiêu người đó đều mong mình tu hành, trở nên người tốt, đầy đủ đạo đức để làm lợi ích cho đạo, cho chúng sanh. Vậy mà mình không nỗ lực, không cố gắng tu thì làm sao đền được lòng tốt của Thầy, công của Tổ và người khai sáng là Phật?
Nhớ đến Phật, Tổ, Thầy, chúng ta cố gắng tu cho xứng đáng với ý nghĩa truyền đăng tục diệm, tức là trao đèn nối đuốc, để cho ánh sáng trí tuệ của Phật pháp được sáng rỡ mãi ở thế gian. Ðó là trách nhiệm mà tất cả Tăng Ni không ai có thể thiếu được.
Ðến công ơn thứ ba, như quí vị thấy chúng ta là một người dân ở trong nước thì phải nhờ nhà nước bảo trợ, giúp đỡ để chúng ta yên ổn tu. Thí dụ chúng ta không đi lính, không làm các việc bên ngoài, không đóng thuế v.v…, nhưng chúng ta cũng được bảo vệ an ổn. Vậy bổn phận đối với đất nước chúng ta phải làm tròn là phải tu cho xứng đáng một người tu, đem lại an lành cho mọi người, thái bình cho đất nước. Như vậy mới đền ơn được.
Thứ tư là ơn thí chủ. Chúng ta làm không đủ cho mình ăn, thí chủ là những người giúp cho chúng ta có đủ phương tiện sống, có chỗ nơi êm ấm, đầy đủ cơm ăn thì công ơn đó không phải nhỏ. Vì vậy chúng ta phải cố gắng tu. Tu làm sao tự mình được giác ngộ, thấy được lý thật của đạo để hướng dẫn, chỉ bảo cho Phật tử cùng tiến cùng tu, vậy mới đền được ơn thí chủ.
Tóm lại, chúng ta không phải chỉ tu cho mình thôi, mà còn tu để đền đáp tứ trọng ân, phải không? Ðó là điều quá lớn.
Vậy một năm qua, quí vị kiểm lại thử coi mình có làm tròn được những điều đã hứa nguyện, có làm được cái gì mà bao nhiêu người chung quanh đang trông đợi hay không? Nếu thấy chưa tròn thì năm tới chúng ta phải chuẩn bị làm cho tròn, cho tốt hơn. Không phải cứ thả trôi năm này qua năm khác, để chờ đến ngày từ giã cõi đời, không lợi cho mình cũng như cho người, không lợi cho tất cả, thì đó thật là một đời sống vô giá trị, không có nghĩa lý gì hết, uổng đi một kiếp người.
Ðây là lời khuyên răn nhắc nhở của tôi trong buổi tất niên này, tôi nghĩ rằng tất cả Tăng Ni có mặt ở đây đều phải cố gắng thực hiện cho được.
Ðó là nói với Tăng Ni, bây giờ nói với Phật tử.
Quí Phật tử có mặt ở đây tuy không đông lắm, nhưng tôi nghĩ rằng cũng có thể là đại diện, rồi mai mốt kia quí vị sẽ đem những lời nhắc nhở này để nhắc nhở lại huynh đệ.
Tất cả chúng ta có đủ duyên, đủ phước nên được làm người, thân thể đầy đủ không hư, không thiếu. Ðó là phước lớn. Lại còn có duyên phước đủ cơm ăn áo mặc và có thời giờ học hiểu đạo lý, phước đó càng lớn hơn nữa. Nhưng chúng ta nên nhớ người có phước không nên hưởng hết, nếu hưởng hết phước thì sẽ đi xuống.
Như ở thế gian, khi có tiền, chúng ta không nên xài hết, vì xài hết thì sẽ thiếu, phải đi vay mượn tức thành thiếu nợ. Vậy chúng ta nên biết gieo trồng, làm sao cái phước của mình ngày xưa mười, ngày nay mười lăm, hai mươi. Cứ cho nó tăng chớ không để giảm. Như vậy là chúng ta biết bảo vệ cho mình trong đời này và những đời sau nữa.
Quí Phật tử đừng nghĩ là làm có tiền để cúng chùa, làm từ thiện, hoặc giúp đỡ kẻ này người kia, tạo phước, là đủ. Trong nhà Phật thường dạy phước phải đi đôi với tuệ. Tuệ là trí tuệ. Phước đức và trí tuệ hai cái phải đầy đủ, đi đôi với nhau chớ không phải được một bên còn thiếu một bên. Có phước mà không có trí tuệ thì phước đó dễ làm cho người ta sa đọa. Do có phước, chúng ta được sanh làm người giàu sang, quyền thế, nếu không có trí tuệ thì dễ bị trụy lạc, dễ tạo tội lỗi. Vì vậy, phước phải đi đôi với tuệ.
Trí tuệ ở đây không phải trí tuệ thế gian mà là trí tuệ của đạo. Chúng ta phải thấy rõ được lẽ thật của bản thân mình, của cuộc đời, đừng có lầm lẫn. Muốn thấy được lẽ thật đó, chúng ta phải học lời Phật dạy, phải nghe kinh để mình thâm hiểu và ứng dụng vào trong cuộc sống.
Ðừng chỉ đem sức mình làm ra tiền cúng chùa giúp người, tưởng như vậy là đủ. Chúng ta phải hiểu lời Phật dạy, thấu được lý đạo, ứng dụng trong cuộc sống hằng ngày của mình, làm sao vừa có phước, vừa dẹp bớt tham, sân, si và sống một cuộc đời thanh cao tốt đẹp. Ðó mới là xứng đáng.
Muốn vậy quí vị phải chịu khó học đạo và tập tu, những khi thấy có thể được thì phải tập tọa thiền, sám hối để cho tâm mình bớt nhiễm nhơ. Tâm được yên định phần nào, trí tuệ mới sáng suốt, như vậy đời tu của mình mới có tiến. Trên con đường tu hành, chúng ta là con người hướng thiện, hướng tới mục tiêu cao cả tốt đẹp, vì vậy phải có cái nhìn cho đúng với lẽ thật, làm việc lợi ích cho chúng sanh. Ðừng nên có những ý niệm không hợp đạo lý, hay những hành động làm đau khổ chúng sanh.
Như vậy quí vị mới xứng đáng là người đệ tử cư sĩ ở trong nhà đạo, mới thấy trong cuộc đời của mình, thời gian này có mất đi thì sau càng quí càng tốt hơn chớ không lo, không sợ. Nếu chúng ta cứ nghĩ thụ hưởng cho sung sướng, làm cho được những điều mình thích, mà không nghĩ tới sự đau khổ của người khác, không nghĩ tới tổn thương đạo lý, đó là sai lầm.
Vậy hôm nay ngày cuối năm, tôi nhắc nhở tất cả quí vị chuẩn bị sang năm mới, tu tiến hơn và làm những điều tốt đẹp, cao thượng hơn.
Hôm nay, buổi lễ tất niên, kiểm tra lại sự tu hành của Tăng Ni cũng như của Phật tử. Những lời nhắc nhở của tôi, mong quí vị nhớ và cố gắng thực hiện để năm tới chúng ta tiến bộ hơn năm này, và chúng ta sẽ là những con người đầy đủ tài đức để làm mẫu mực cho những người chung quanh. Ðó là điều mong mỏi của tôi.
Lễ Chúc Tết Đinh Sửu
(Thầy Phó Quản chúng nội viện Tăng)
Kính bạch Thầy,
Qua lời dạy của chư Phật, chư Tổ trong kinh luận và qua lời dạy của Thầy, chúng con nhận hiểu rằng chỗ chí đạo không một pháp có thể được. Tuy biết thế nhưng đứng về phương diện tục đế thì muôn pháp vẫn trôi chảy trong vòng sanh diệt luân hồi bất tận. Do đó vẫn có bốn mùa thay đổi. Và hôm nay mùa xuân lại trở về trên quê hương xứ hoa đào, nơi khung trời bé nhỏ của Thiền viện Trúc Lâm này.
Mùa xuân mang đến cho thế nhân biết bao hi vọng và ước mơ, đem đến cho chúng con sự chứng nghiệm về vô thường trong cuộc sống qua kẻ ở người đi, kẻ còn người mất. Từ đó đã cảnh tỉnh chúng con hãy tinh tấn tu hành để sớm được mùa xuân vĩnh viễn.
Kính bạch Thầy, mỗi lần xuân đến chúng con không sao tránh khỏi lòng se thắt khi nghĩ rằng những ngày chúng con được nương bóng mát từ bi trí tuệ nơi Thầy đã bị rút ngắn lại và sức khỏe của Thầy ngày càng yếu hơn, mà con đường đạo quả của chúng con chưa đến nơi.
Tuy vẫn biết bản nguyện độ sanh của Thầy không bao giờ ngừng nghỉ và Thầy thường nhắc dạy chúng con về sự vô thường, nhưng khi nghĩ đến ngày mất mát lớn nhất sẽ đến cho chúng con và hàng Phật tử, chúng con không sao tránh khỏi niềm xúc động. Mãi đến giờ này chúng con vẫn có người làm nặng lòng Thầy vì còn mải vui trong nhà lửa, hoặc làm kẻ cùng tử lang thang nghèo đói, chưa chịu buông bỏ những thứ vô thường tạm bợ để nhận lấy hạt châu quí nơi chéo áo của mình.
Kính bạch Thầy, hôm nay trước thềm năm mới, tuy với niềm ưu tư đó, chúng con vẫn hi vọng với bản nguyện độ sanh Thầy sẽ hiện hữu mãi bên cạnh chúng con bằng hình thức này hay hình thức khác, để dìu dắt chúng con ra khỏi con đường si mê tăm tối.
Giờ đây không biết nói gì hơn, toàn thể Tăng chúng chúng con đồng thành tâm kính chúc Thầy sức khỏe dồi dào, để đem ánh sáng chánh pháp soi rọi cho người hữu duyên, để dòng pháp nhũ của Thầy mãi tuôn chảy, thấm nhuần và nuôi lớn giới thân tuệ mạng cho chúng con, để chúng con được nương đuốc tuệ của Thầy mà sớm trở về cố hương ngời sáng của chính mình. Ðó là hoài bão mà chúng con hằng cưu mang.
Trong niềm xúc cảm hôm nay, chúng con kính dâng lên Thầy bài thơ mộc mạc như sau:
Thầy đi giữa buổi chiều tàn
Áo vàng gậy trúc bên ngàn cỏ hoa.
Lòng từ vì đạo thiết tha
Âm ba lời dạy vang xa khắp trời.
Sắc không, không sắc đổi dời
Ngay đây nhận lấy sáng ngời gia phong.
Bụi hồng Thầy bước thong dong
Phụng Hoàng chắp cánh trời không tung hoành.
Mây lành Yên Tử kết thành
Trúc Lâm Ðà Lạt thanh thanh một màu.
Thiền tông thôi hỏi thế nào
Cội tùng ngồi ngắm hoa đào ngày xuân.
Cuối cùng chúng con kính xin Thầy ban cho chúng con những lời chỉ dạy đầu năm, để sang năm mới này chúng con lấy đó làm tư lương trên bước đường giác ngộ giải thoát. Kính mong Thầy từ bi chứng minh và hứa khả cho chúng con được ân triêm công đức.
(Ni sư Quản chúng nội viện Ni)
Ngưỡng bạch Thầy,
Hôm nay là ngày đầu xuân, toàn thể Ni chúng chúng con ra trước đây xin thành tâm đê đầu đảnh lễ Thầy và kính chúc Thầy pháp thể khinh an, tuệ đăng thường chiếu, hầu dẫn dắt chúng con trên bước đường giác ngộ giải thoát.
Ngưỡng bạch Thầy, chúng con đủ duyên lành được nương dưới mái Thiền viện Trúc Lâm đã tròn ba năm. Chúng con như những cùng tử lang thang nghèo đói, nay thức tỉnh trở về được cha trao cho sự nghiệp.
Kính bạch Thầy, Thầy đã bao phen ân cần tha thiết, với tâm lão bà đã nhắc nhở chúng con biết được lối về, nhận ra được bộ mặt thật xưa nay của chính mình. Vì vậy hôm nay nhân ngày đầu xuân, chúng con nguyện luôn nỗ lực đào xới để nắm được hòn ngọc nguyên xưa của mình đã bỏ quên từ lâu, ngõ hầu đền đáp được phần nào công ơn giáo dưỡng của Thầy đã mở mắt trí tuệ cho chúng con.
Chúng con cũng không quên nguyện cầu Tam Bảo gia hộ cho Thầy được nhiều sức khỏe, tuổi thọ thêm dài để ngọn đèn chánh pháp của Thầy soi sáng khắp thế gian, trong đó có chúng con cùng tất cả chúng sanh. Ngưỡng mong Thầy từ bi thương xót chứng minh cho chúng con được ân triêm công đức.
Kính bạch Thầy, chúng con đọc trong báo Giác Ngộ số 44, bộ mới năm thứ 22, PL. 2540, ngày 1-2-1997 có bài thơ tựa đề là Hồ Tuyền Lâm Nguồn Thiền Dậy Sóng của tác giả Nguyễn Ðức kính tặng Thiền sư Thích Thanh Từ. Chúng con thấy bài thơ khá hay nên trong chúng có vị muốn ngâm để dâng lên cúng dường Thầy. Tuy chúng con không có sở trường về ngâm thơ nhưng cũng muốn dâng lên cúng dường Thầy trong ngày đầu xuân, kính xin Thầy hoan hỉ chứng minh cho chúng con.
HỒ TUYỀN LÂM NGUỒN THIỀN DẬY SÓNG
Qua mấy dốc đồi thông reo phơi phới
Về Trúc Lâm nghe vi diệu tâm ca
Lửa tịch mịch cháy tan sầu nghĩ ngợi
Lòng như không nhẹ bổng giữa sương nhòa
Núi tiếp núi, rừng tiếp rừng chất ngất
Ðất trời kia nằm gọn giọt sương này
Ơi rừng cao, rừng cao vời ẩn mật
Tâm truyền tâm từ Ca-diếp, ai hay?
Một đóa hoa đưa lên, một nụ cười đáp lại
Cái thầm trao, cái thầm nhận, không lời
Ðại hùng tâm chín năm nhìn vách đá
Lạ lùng thay, cầm dao chặt tay chơi.
Suối Tào Khê chảy về đâu rồi nhỉ?
Mà hồ Tuyền Lâm nổi sóng dậy nguồn kinh
Ðây núi Phụng Hoàng, ồ vô cùng hùng vĩ
Tối thượng thừa vừa trổ đóa tâm linh.
Gậy Thiền sư múa tung hoành ngang dọc
Chọc nước khuấy trời mà bất động như không
Phật Chúa quỉ ma cùng khiêu vũ
Trên cung cầm vô phân biệt dung thông.
(Phật tử Ðà Lạt)
Kính bạch Thầy,
Hôm nay nhân ngày đầu năm, chúng con xin đại diện cho một số Phật tử gần xa ở Ðà Lạt kính chúc Thầy năm mới được nhiều sức khỏe để rộng độ Tăng Ni và chúng sanh, trong đó có Phật tử chúng con.
Nói ngày đầu năm là nói theo thông tục, vì các Phật tử chúng con vẫn nhớ lời Thầy giảng qua bài thơ của Thiền sư Mãn Giác:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Hay là:
Mùa xuân không có thời gian
Cũng không nhất định ở phương hướng nào.
Ðó là thơ của Hòa thượng Mật Thể. Nhớ nghĩ được như vậy là chúng con cảm thấy an lạc và hạnh phúc rồi.
Tương lai Thiền học Việt Nam có hay không, điều đó đang được Thầy ngày đêm xây dựng bằng những bước đi căn bản từ việc thiết lập các Thiền viện, rèn luyện Tăng chúng, thuyết giảng Phật pháp, cải tiến các nghi thức hành trì theo tinh thần độc lập tự chủ, không phụ thuộc, không lệ thuộc vào nghi thức của người xưa mang nặng màu sắc Mật tông và Tịnh độ tông. Nói khác hơn, là làm sống dậy tinh thần Thiền tông đời Trần, một thời đại oanh liệt nhất trong lịch sử Việt Nam. Thời đại mà ba lần dân tộc đứng dậy chống quân giặc xâm lược ngoại Mông giành lại sự độc lập và thống nhất cho đất nước.
Khôi phục Thiền tông Việt Nam, Việt hóa các nghi thức hành trì làm cho mọi người khi đọc lên ai cũng hiểu được, từ đó mọi người nhớ nghĩ và bắt chước tu theo. Ðó là điều Phật tử chúng con tâm đắc. Dù ở bất cứ môi trường nào thì Phật tử chúng con vẫn thấy rằng tam vô lậu học giới, định, tuệ là nguyên tắc cơ bản trên bước đường tu học.
Chúng con vẫn thường nhớ lời Thầy nhắc nhở câu nói của người xưa: Tu mà không học là tu mù, vì không biết chánh đạo để đi; học mà không tu chỉ như cái đãy đựng sách, không biết ứng dụng thì không lợi lạc gì cho mình, cho người. Vì vậy Phật tử chúng con nghe lời Thầy dạy, cố ứng dụng tu để đem lại lợi lạc cho mình và người.
Bước vào Thiền viện chúng con thấy an lạc thảnh thơi, cảm giác hạnh phúc tràn ngập tâm hồn. Bao nhiêu âu lo phiền muộn, bao nhiêu bon chen giành giật của cuộc đời lắng xuống, gánh nặng trần gian bỏ lại ở đằng sau. Ðó là những giờ phút an lạc và hạnh phúc mà chúng con cảm nhận được khi sống trong không khí đầm ấm và an hòa của Thiền viện. Trước thềm năm mới, nhìn lại bước đường mình đã đi qua, Phật tử chúng con, dưới sự dìu dắt hướng dẫn của Thầy, tuy có tiến bộ hơn trước nhưng nghiệm lại cho kỹ thì vẫn thấy rằng:
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách,
Nhật viễn gia hương vạn lý trình.
mà trong Thiền Tông Việt Nam Thầy đã dịch:
Lang thang làm khách phong trần,
Quê nhà ngày một muôn lần dặm xa.
Vì lẽ đó nên chúc mừng năm mới đối với Thầy không gì tốt hơn là Phật tử chúng con nguyện tinh tấn tu học, cùng nhau sách tấn siêng năng học hỏi Phật pháp, ứng dụng lời Thầy dạy, tinh chuyên hành trì giới luật, trau dồi ba nghiệp thường thanh tịnh để đem lại lợi lạc cho mình và cho người.
Ngưỡng mong Tam Bảo từ bi gia hộ cho Thầy thường được sức khỏe, tứ đại an hòa, đạo tràng ngày một thêm đông, thân tâm thanh tịnh, lục hòa trọn vẹn, Bồ-đề tâm kiên cố, trong tương lai có người kế tục sự nghiệp của Thầy.
(Cư sĩ nước ngoài)
Kính bạch Thầy,
Chúng con là những Phật tử từ phương xa, hôm nay là ngày đầu xuân, với lời ít mà lòng nhiều, chúng con kính chúc Thầy sức khỏe luôn luôn bình thường, niềm an lạc của Thầy vô lượng, chan hòa cho tất cả Phật tử trong nước lan tràn cho chúng con từ phương xa, để mãi mãi ngày xuân hôm nay cũng là những ngày xuân Di-lặc.
Chúng con không biết lấy gì để báo đáp công ơn dạy dỗ của Thầy, cũng như của chư Tăng chư Ni, để biểu trưng cho lòng thành chúng con xin kính dâng lên Thầy một ít quà xuân, kính mong Thầy từ bi tiếp nhận để chúng con được ân triêm công đức.
(Hòa thượng)
Như vậy mục chúc tết của Tăng Ni và Phật tử đến đây xong rồi, tất cả Tăng Ni, Phật tử cùng đứng dậy. Quí vị đảnh lễ Tam Bảo ba lễ đầu năm đi.
Xong tất cả quí vị ngồi xuống, đến phần của tôi.
Về phần tôi, có chia ra mấy mục:
* Mục thứ nhất là tôi đọc những tin vui của Tăng Ni và Phật tử trong năm qua đã gởi đến cho tôi, hoặc trực tiếp trình bày sự tu có những biến chuyển tốt cho tôi biết.
* Mục thứ hai là bài pháp đầu năm thay cho lời chúc Tết của tôi với Tăng Ni và Phật tử. Trong bài pháp đầu năm này, chúng tôi sẽ nói rõ cho tất cả quí vị hiểu thấu đáo về vấn đề bản ngã của chúng ta là gì, là thế nào.
Trước hết, tôi xin đọc lại những tin vui tôi đã nhận được từ gần xa gởi đến, cũng như trực tiếp Tăng Ni trình với chúng tôi.
Ðây là một bài kệ trình kiến giải của một Phật tử ngoài Bắc mới gởi vào.
BỪNG TỈNH
Thấy Bụt, Bụt ấy là lòng,
Bụt há cầu! (Ðây là câu trích trong Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn Trãi)
Nhọc nhằn lặn lội tận đâu đâu
Khấn vái miệt mài mê mẩn mãi,
Nào ngờ sẵn có tự bao lâu.
Dòng đời xiết chảy nhòa sóng bạc,
Mặt nước yên bằng rõ đáy sâu.
Chốn cũ giờ đây trong lặng quá,
Một cõi bao la vạn pháp mầu.
Phật tử Huyền Cương ở Hà Nội mới gởi vào. Trong khi tu, ông có những biến chuyển, trình cho chúng tôi.
Ðó là một cư sĩ ở xa, còn một cư sĩ gần hơn, ở Long Thành, gởi tặng tôi:
Con thành tâm kính chúc Sư ông thân tâm thường lạc, để “xuân miên viễn”.
Biết nói gì đây phút giây này
Ðông tàn mai nở rộ đó đây
Nhìn mai ngoài nở tâm phơi phới
À! Trong tôi xuân vẫn muôn đời.
Quí vị nghe lại câu:
Nhìn mai ngoài nở tâm phơi phới
À! Trong tôi xuân vẫn muôn đời.
Những bài thơ này quí Phật tử nghe thì có thể nói do các vị đó giỏi làm thơ, nên làm tặng tôi. Sự thật có những người chưa từng làm thơ, nhưng vì cảm hứng trong khi tu mà có những bài thơ này tặng.
Còn đây là Phật tử Ðức Phước tặng:
Bao năm tu miệt mài
Thể tánh chưa tỏ ngộ
Tâm luôn hướng bên ngoài
Cầu Phật từ gia hộ.
Công đức chưa hoàn thiện
Tâm hạnh còn nhiễm ô
Hội không đủ phước duyên
Lũy kiếp chưa giác ngộ.
Lục Tổ thẳng chơn tâm
Qua Ðàn Kinh Pháp Bảo
Giản trạch nhờ ân sư
Hoát nhiên sáng được đạo.
Thật tánh, tánh không hai
Vô trụ sanh tâm tịnh
Vô niệm thể tướng dụng
Chân lý sáng nghìn trùng.
Tâm không ví hư không
Thanh tịnh nhưng năng sanh
Thường hằng và sáng chiếu
Diệu dụng chẳng nghĩ bàn.
Còn một Phật tử này rất thân thiết ở đây cũng gởi cho tôi một bài thơ:
CHÚC XUÂN HÒA THƯỢNG
Thiền viện, Thiền viện thành
Ðời Thiền sư qua nhanh
Xuân này đà bảy bốn
Bạc hết mái đầu xanh.
Trước thất hoa đào nở
Trên cành tiếng chim oanh
Thênh thang lòng rỗng lặng
Muôn dặm bầu trời xanh.
Xưa nay không một vật
Xuân này xuân năm trước
Ðời Thiền sư an nhiên
Có gì đâu để chúc!
Hoa tàn xuân nào hết
Bên giậu cội mai già
Ðêm qua nảy nụ hoa
Xin kính dâng Hòa thượng.
Còn đây đến phần Tăng và Ni, tôi đọc mà không nói tên vì tôi biết Tăng Ni tu có những giờ phút chuyển biến, thấy những điều vui và mới lạ, nhưng tập khí nhiều đời chưa hết nên tôi không muốn nói tên, sợ quí vị biết tên rồi lâu lâu thấy tập khí họ hiện ra, quí vị chán, nghĩ: “Tu nói nghe hay mà làm chưa được!” Vì vậy, tôi chỉ đọc cho quí vị nghe để thấy sự chuyển biến ở nội tâm của những vị đó, vậy thôi.
Ba tháng qua mau như giấc mộng
Trăm điều dồn lại một bầu không
Vỡ tan mới biết toàn thể hiện
Ðâu ngờ trong ấy tiếng chim kêu.
Một bài khác:
Sau bao năm loạn lạc
Ta đến đất bình yên
Tâm không bôn ba nữa
Sải tay là ngủ liền.
Thong thả quá! Một bài của vị khác:
Trúc biếc mai vàng nhật nhật tân
Cho nhau tất cả chẳng định phân
Ðêm qua giấc mộng theo sương khói
Ai ngắm bình minh mỉm miệng cười.
Một người khác:
Lỗ mũi người chưa sanh
Ðập nát cả càn khôn
Trong nhà người tớ già
Trẻ con khóc tu oa.
Và một người khác:
TỰ THUẬT
Biển cả mênh mông
Không gian thênh thang
Một chiều gió lộng
Từng lớp sóng trào
Bọt nổi trắng xoá
Tung cao mênh mang
Nào bọt yêu ghét
Nào bọt lợi danh
Nào bọt được mất
Nào bọt… nào bọt…
A ha!
Một trận cười vỡ tan
Từng lớp từng lớp
Tan về với
Biển cả mênh mông
Không gian thênh thang
Dòng nước lắng trong
Cảm nghe mằn mặn đượm nồng
Rõ ràng
Rõ ràng
Dốt!
Rõ ràng cái gì?
“Bóng trúc quét thềm trần chẳng dấy
Vầng trăng xuyên biển nước không ngân”
Im!
Cá vàng to vừa sổng lưới
Ngư ông nhàn hạ ngắm trăng lên.
Ðó là những tin tức. Tin tức này không phải chỉ có trong bài kệ mà chính là do Tăng Ni trình cho chúng tôi những giờ phút chuyển biến. Nhân chỗ chuyển biến đó mà có cảm hứng làm những lời này. Những lời này tôi ghi nhận là đáng tin cậy, nên đem ra đọc cho quí vị nghe.
Như vậy quí vị thấy, không riêng gì Tăng Ni tu có kết quả, mà các cư sĩ gần xa khi ứng dụng tu cũng có kết quả. Nhưng có người thì trình bằng thơ, kệ, có người chỉ trình qua bằng lời nói cho chúng tôi hiểu thôi. Những trường hợp đó chúng tôi kể không hết. Chúng tôi xác nhận rõ ràng rằng qua những năm gần đây, giới Tăng Ni và Phật tử tu có nhiều người đạt được kết quả đáng tin cậy. Ðó là một tin vui cho tôi và cho quí Phật tử.
Bây giờ đến phần nhắc nhở ngày đầu năm cho Tăng Ni và Phật tử – bài thuyết pháp đầu năm.
Tất cả chúng ta sống trên thế gian này, mỗi người phải nhận định cho tường tận, thấu đáo về bản thân mình. Thấy tường tận được lẽ thật của mình thì mới biết được lẽ thật của người và của mọi vật chung quanh. Cho nên người tu theo Phật phải luôn luôn quán chiếu để thấu suốt bản chất cái thân chúng ta.
Như hiện giờ đêm nào chúng ta cũng đọc bài kinh Bát-nhã, mà trọng tâm là ở chỗ “Bồ-tát Quán Tự Tại chiếu kiến năm uẩn đều không”, nghĩa là phản quan hay soi sáng lại thấy năm uẩn không có thực thể. Từ cái nhìn đó, Bồ-tát Quán Tự Tại mới giải quyết được mọi khổ nạn trên đời.
Ở đây tôi hướng dẫn cho quí Tăng Ni và Phật tử nhìn lại bản chất của thân mình hiện giờ xem nó như thế nào? Bởi vì chúng ta sống thường ôm ấp một ảo tưởng rằng thân mình là đẹp, quí, là sang trọng, do đó nên ái ngã rất nặng nề. Từ ái ngã nặng nề sanh ra tâm ngã mạn, cống cao v.v…, thúc đẩy chúng ta gây ra không biết bao nhiêu là tội lỗi để rồi phải trầm luân muôn kiếp.
Ðó là lý do khiến tôi muốn tất cả Tăng Ni và Phật tử phải nhìn lại thử coi thân chúng ta trên thực tế nó như thế nào, nhận lại mình cho tường tận. Thấy rõ rồi chúng ta mới giải trừ được những căn bệnh trầm kha muôn đời của mình là ái ngã, ngã mạn v.v…
Trước tiên, theo cái nhìn của chúng tôi, khi nhìn lại thân, bước đầu tôi thấy rất hổ thẹn. Thay vì người ta hãnh diện mang thân này, tôi thấy là hổ thẹn mang thân này. Tại sao vậy?
Bởi vì trong thân này chứa toàn đồ hôi hám, nhớp nhúa. Mỗi khi khạc đàm dãi ra, nhìn nó chúng ta có gớm không? Khi khạc có giấu người ta không? Muốn nhổ ở đâu phải giấu không cho người ta thấy. Nếu nó là đồ tốt, là của quí thì đâu có giấu, phải không? Vì biết nó nhớp quá nên hổ thẹn, sợ người ta thấy cười, mình mắc cỡ.
Ðó là khi nó ra đường ở trên. Còn nếu lúc mình vô tình hay trong người không khỏe, có những cái “hạ phong” không làm chủ được, đi gần ai mà lỡ vậy thì sao? Có hổ thẹn không? – Cũng hổ thẹn luôn!
Rồi sao nữa? Nếu lỡ đi đâu không rảnh tắm rửa, mình biết mình hôi hám, đi gần ai sợ người ta nghe mùi hôi. Nếu lỡ đứng gần ai mình có hổ thẹn ngầm không? – Cũng hổ thẹn! Hổ thẹn vì hôi hám.
Quí vị thấy con người chúng ta chứa toàn những đồ nhớp nhúa, nhầy nhụa, hôi hám, cho nên hớ ra cái gì cũng hổ thẹn. Sáng lỡ chưa súc miệng mà có khách, khi nói chuyện quí vị có hổ thẹn không? Sợ bay hơi hôi người ta chịu không nổi!
Như vậy, tất cả các thứ trong cơ thể mình, nếu không khéo che lấp, không khéo sửa sang thì nó bày ra toàn những thứ làm chúng ta hổ thẹn. Những thứ không sạch đó hiện ra mình thấy hổ thẹn, vậy mang thân này có phải là cái thân đáng hổ thẹn không? Thế nhưng chúng ta không hiểu, lại tự cao, hãnh diện đủ thứ. Ðó là tự cao hãnh diện trong ảo tưởng chớ không phải thực tế. Thực tế là một cái thân đáng hổ thẹn.
Bởi hổ thẹn quá nên ở miệng thì người ta phải kiếm cái gì ngậm hay nhai cho bớt hôi, hút những thứ thuốc thơm hoặc nhai kẹo cho át mùi, phải không? Sáng ra đánh răng phải có kem thơm thơm một chút. Toàn những thứ che đậy, để át cái mùi hôi hám của chính mình chớ không có gì thật hết.
Rồi đến thân mình thì mồ hôi ra hôi hám quá, buộc lòng người ta phải có xà bông thơm, nước hoa v.v… ướp nó cho đỡ hôi. Chớ nếu trong thân ra toàn mùi hoa sen thì chắc khỏi dùng mấy thứ đó. Nay nó ra toàn mùi bất hảo buộc lòng phải dùng nước hoa, vậy có gì là hãnh diện? Toàn là những thứ che đậy để làm giảm bớt cường độ hôi hám của nó thôi.
Kết thúc lại, thân ta là cái thân đáng hổ thẹn, lỡ mang nó là đáng hổ thẹn. Nhớ như vậy thì quí vị có muốn mang nó lần thứ hai, thứ ba nữa không? Ðã không muốn mang mà còn tự cao, ngã mạn thì thật là vô lý. Người ta sống ở trên đời không thấy được lẽ thật của thân mình, nên mới ôm ấp những ảo tưởng, rồi tự hào, tự khoe khoang v.v… Ðó đều là ảo tưởng, không có lẽ thật.
Ðiểm thứ hai, mang thân này là thân lo âu, sợ sệt. Ngày nào còn mang nó là còn lo âu, sợ sệt. Tại sao vậy? Lo cái gì cho nó? – Lo đói, lo khát, lúc nào cũng phải chuẩn bị có cái gì ăn cho đỡ đói, uống cho khỏi khát.
Rồi gì nữa? Lo đau ốm. Ngày nay mạnh nhưng không biết ngày mai có được mạnh không? Cứ hồi hộp, lo âu không biết mình có mạnh mẽ, khỏe khoắn lâu dài không? Bởi vậy gặp nhau luôn luôn cầu chúc cho được mạnh khỏe, an khang. Vì sợ nó đau, sợ nó ốm nên chúc như vậy.
Chúng ta còn lo sợ tai nạn. Ði đường sợ, ở nhà sợ. Làm gì cũng sợ không biết tai nạn có thể xảy ra lúc nào. Kế đó lại lo âu có những người thù oán muốn hại mình. Như vậy, quí vị thấy, ngày nào còn mang thân này là còn lo âu, sợ hãi, không có an vui. Ðó là một lẽ thật của thân.
Một điểm nữa, thân này là một hiện tượng bức bách, khổ nhọc cho chính mình. Ai có thân cũng bị sự bức bách của nghiệp lực do bản thân hiện ra. Như những người còn trẻ, những thanh niên thì bị sự bức bách của ái dục, rồi phải đuổi theo, gây bao nhiêu nỗi phiền hà về sau. Hoặc bị bức bách về sự nóng lạnh của ngoại cảnh, về những đòi hỏi của sáu căn, mắt ưa sắc đẹp, tai thích tiếng hay… Nó cứ đòi hỏi, thúc giục, bức bách mình phải đuổi theo, tìm kiếm cho được những thứ đó.
Vậy mang thân này là một sự bức bách, ép ngặt khiến mình không an ổn bao giờ. Nó đòi hỏi hết cái này đến cái khác, khiến cho chúng ta lúc nào cũng bực bội, bất an. Ðuổi theo sự bức bách của thân là đuổi theo dục lạc thế gian, rồi tạo nghiệp, chịu khổ. Ðó là điều thứ ba.
Thứ tư, mang thân này là thân rất chán chường. Chán chường thế nào? Bởi khi còn khỏe mạnh, đi đây đi kia, làm việc này việc nọ thì còn thấy vui một chút. Nếu ngã bệnh nằm xuống, vô bệnh viện, quí vị thấy những người nằm bệnh trên giường mệt mỏi nhọc nhằn, yếu đuối, nhìn thấy họ thật chán chường không còn vui thích.
Kế đó là khi tuổi già, muốn đi mà đi không được, bước chân run rẩy, muốn ăn thì mắc nghẹn, nuốt không vô, mắt mờ, tai điếc, mọi thứ… Như vậy mang thân này có chán chường không? Không có gì là thích thú phấn khởi cả.
Thứ năm, thân này thật là vô ý nghĩa. Vô ý nghĩa là sao? Nếu mang thân này rồi chúng ta chỉ một bề chạy theo nhu cầu của nó, thực hiện những đòi hỏi của nó – dù cho đủ khả năng tạo được hết những gì nó muốn, thỏa mãn những gì nó đòi – rồi cuối cùng nó cũng phải bại hoại. Vậy mà khi những đòi hỏi không được thỏa mãn mình lại buồn bực. Ðến lúc già yếu phải khổ vì những đòi hỏi của nó mình không đáp ứng được… Rồi cuối cùng, khi thân bại hoại nó hiện ra những tướng ghê gớm, chán chường, không có gì gọi là thích thú hết. Cả cuộc đời kết thúc một cách vô ý nghĩa.
Nếu người không biết tu thì thử hỏi từ lúc có mặt trên đời cho đến ngày nhắm mắt, họ đã làm được gì cho mình, đem được ích lợi gì đến cho người? Thật là chưa có gì đáng kể hết. Như vậy một cái thân đứng trong cõi đời này, chiếm một vị trí, một chỗ ăn chỗ ở của người ta mà rốt cuộc không làm được gì hết, có phải là một cuộc đời vô ý nghĩa không?
Người thế gian không thấy được lẽ này. Họ cứ tưởng tượng thân này là quí, là thật, là sang cả…, rồi cứ đuổi theo những đòi hỏi của nó, mắc phải cái lỗi mê lầm chấp trước về thân, thấy thân này là ta, thân này của ta… Từ đó giành giật nhau, cái gì ta được thì người phải mất, cái gì ta vui thì người phải khổ. Chúng ta cứ giành, giành cho được về phần mình, do chấp thân mà tạo bao thứ nghiệp.
Rồi lại chấp những gì gần gũi lệ thuộc về ta, nào là thân quyến của ta, sự nghiệp của ta… Như vậy, từ mê lầm thân đi tới chấp thân, chấp tất cả cái “của thân”, suốt cuộc đời cứ quanh đi quẩn lại trong vòng mê chấp. Mình chấp, rồi người chấp, tất cả chúng sanh đều chấp.
Từ cái chấp riêng tư đó sanh ra đụng chạm nhau về quyền lợi cá nhân, quyền lợi gia đình, quyền lợi trong xã hội, đi đến chỗ chống đối, thù địch rồi giết hại lẫn nhau vô số. Gốc từ chỗ mê lầm, từ những ảo tưởng chấp thân là thật có, quí báu, sang trọng… mà tạo ra đủ thứ khổ đau cho nhau. Ðó là sự mê lầm về thân.
Nói tới đây quí vị thấy mang thân này thật là bi quan. Nhưng đối với người tu Phật lại không bi quan. Ðây, tôi báo tin mừng cho quí vị, chúng ta rất mừng, mừng vui vô hạn! Mừng vui cái gì? – Khi chúng ta nhìn tường tận cái thân rồi, thấy nó vô giá trị, vô ý nghĩa, là thứ tạm bợ, nhớp nhúa, không đáng gì hết, gần như là đồ bỏ đi; nhưng chúng ta đã được đức Phật Thích-ca, chư Tổ từ Ấn Ðộ, Trung Hoa, Việt Nam chỉ cho chúng ta, báo cho chúng ta biết rằng trong cái tạm bợ, nhớp nhúa, vô ý nghĩa đó lại có một thứ của quí không thể tưởng tượng, không thể ngờ được. Ðó là tin mừng vô hạn mà tôi sẽ kể cho quí vị nghe.
Chúng ta biết rõ thân này không quí báu gì, lại còn tệ xấu, nhớp nhúa, chẳng đáng để chúng ta quí mến. Nhưng khi ta khéo nhìn qua lớp giả dối tạm bợ đó thì lại có một cái quí báu vô hạn tàng ẩn bên trong. Nếu nhận được cái quí báu vô hạn tàng ẩn bên trong, chúng ta mới thấy rằng giá trị của cuộc sống thật tuyệt vời hi hữu chớ không phải thường.
Vậy nên tôi nói rằng chúng ta vui mừng vì biết rõ trong đống rác bẩn thỉu, nhớp nhúa lại có chôn một hòn ngọc quí vô giá. Biết rõ thế thì chúng ta không ngại tay phải chạm đồ dơ dáy trong đống rác, mà phải ráng bươi đống rác đó ra tìm cho được hòn ngọc quí. Ðống rác là vô nghĩa, là chán chường, nhưng bươi được hòn ngọc quí trong đống rác ra, đó là thứ vô giá.
Còn gì vui mừng hơn từ một đống rác mà tìm được hòn ngọc quí! Thật là điều vui mừng cho tất cả những ai đủ duyên được chỉ và nhận rõ rằng hòn ngọc đó là có thật. Người đó sẽ biến đống rác thành nơi quí báu vô cùng. Trái lại, ai không được chỉ và không nhận rõ thì đống rác chỉ là vô nghĩa.
Của quí có sẵn trong đó mà trên thế gian này bao nhiêu tỷ người không mấy ai nhận ra được, chỉ sống mê say theo sự đòi hỏi của thân cho đến ngày bại hoại. Hoặc thấy thân là quí, là sang trọng rồi mê chấp theo nó, tới khi thân bại hoại lại thấy khổ đau. Do đây những vị đã ngộ đạo chỉ cho chúng ta biết trong đó có một cái quí không thể tưởng tượng. Không bao giờ chúng ta dám nghĩ rằng thật có điều đó. Vậy mà nó lại có, cho nên đây gọi là điều quí báu không ngờ, không thể tưởng tượng.
Chúng tôi thấm thía những câu nói của Lục Tổ: “không ngờ tánh mình vốn tự thanh tịnh, không ngờ tánh mình vốn tự đầy đủ v.v…” nghĩa là không bao giờ ngờ. Mình cứ tưởng thân này là vô thường, bại hoại, nhớp nhúa, là vô nghĩa, mà không ngờ trong cái bại hoại, trong cái nhớp nhúa vô nghĩa lại có một cái hoàn toàn thanh tịnh, chứa đầy đủ tất cả sự quí báu.
Lục tổ Huệ Năng không ngờ trong thân này có những điều đó, nên khi nhận ra được, Ngài la lên “không ngờ”, chứng tỏ Ngài đã tìm ra được một cái hữu ích vô cùng vô tận từ một vật vô giá trị. Chính những Thiền sư Việt Nam cũng đã không ngờ như vậy.
Chúng ta đọc những câu này của Thiền sư Ngộ Ấn thì thấy rõ:
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận,
Liên phát lô trung thấp vị càn.
Phần là cháy. Ngọc phần sơn thượng là hòn ngọc ở trên ngọn núi cháy. Hòn ngọc trên ngọn núi cháy rực mà sắc của nó vẫn tươi nhuần, thật là việc không ngờ.
Một ngọn núi cháy hừng hực, nếu không thể làm tan biến được hòn ngọc, ít ra cũng làm rạn nứt hoặc khô nám. Vậy mà trái lại hòn ngọc ở trên ngọn núi cháy vẫn trong sáng, tươi nhuần. Chuyện thật không ngờ, không ai ngờ!
Nhưng chỗ không ngờ này còn có thể ngờ được, còn cái không ngờ sau thì không bao giờ chúng ta ngờ nổi, đó là:
Liên phát lô trung thấp vị càn.
Một cành hoa sen nở trong lò lửa mà vẫn tươi nhuần không héo. Thật là một điều không ngờ! Ai cũng nghĩ lò lửa cháy rực thì dù cho món đồ nào, củi hay là lá, hay bất cứ cái gì dù tươi mấy để vô cũng phải khô, phải cháy. Thế mà trong lò lửa cháy rực đó, lại có cành hoa sen nở tươi nhuần không héo, thì chúng ta có thể ngờ được không? – Thật là không ngờ.
Như vậy, người tu thấy được lẽ thật của thân rồi, biết rõ nó không có giá trị, không xứng đáng gì. Từ đó, chúng ta đi sâu hơn, đào sâu hơn thì chúng ta lại thấy trong cái vô nghĩa, vô giá trị đó có một cái quí báu phi thường đang nằm sẵn. Nắm được cái quí báu vô thượng đó trong tay thì chúng ta còn gì mừng hơn nữa? Từ chỗ vô nghĩa bỏ đi bây giờ biến thành điều hữu ích vô cùng tận thì thật là quí vô thượng, tức là trên hết, không gì hơn.
Ðể thấy rằng trên đường tu, chúng ta phải phăng tìm cho ra của báu phi thường ở trong một đống rác tầm thường, trong cái thân bại hoại tầm thường. Tìm ra được mới là ý nghĩa của đời tu. Chớ nếu tu mà cứ sống qua ngày, làm một ít điều thiện, tự mãn, hài lòng để rồi chờ chết, không tìm ra được cái quí báu kỳ diệu trong tấm thân tầm thường này thì thật là uổng đi một đời tu.
Những Thiền sư đều thấy rõ điều đó, cho nên trên đường tu các ngài an lành, tự tại, lúc ở cũng như lúc đi, không có gì phải buồn, sợ. Trái lại, chúng ta thấy người đời, khi chết rất sợ mất thân này, nhưng khi mang thân thì cũng chỉ là cái thân tầm thường đáng chán, mà lại hài lòng với nó.
Ðó là những ý nghĩa rất thâm trầm mà trong kinh đức Phật đã từng chỉ cho các thầy Tỳ-kheo cũng như toàn chúng biết rõ: Có một của báu phi thường ở trong tấm thân hết sức tầm thường. Kinh Pháp Hoa đã diễn tả: Ðó là hòn ngọc trong chéo áo hay là chàng cùng tử đi lang thang trở về lãnh được sự nghiệp của cha trao lại.
Như Thiền sư Mãn Giác có nói:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Nghĩa là:
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Ðêm qua, sân trước, một cành mai.
Một dòng vô thường biến chuyển không ngừng, trong cái vô thường biến chuyển không ngừng đó bỗng nhiên có một cái chân thường hiện tiền, biểu trưng là một cành mai mùa đông. Lối diễn tả của các ngài tuy khác nhau nhưng đều cùng qui về một ý.
Hay là Thiền sư Chân Không:
Xuân đến xuân đi ngỡ xuân hết,
Hoa nở hoa tàn chỉ là xuân.
“Xuân đến xuân đi”, có đến có đi tưởng là hết rồi, tuy nhiên “hoa nở hoa tàn chỉ là xuân”. Vậy thì xuân không cùng, không tận. Tất cả tướng nở, tàn của hoa đều nằm trong mùa xuân miên viễn đó, không có ra ngoài.
Vậy thì tất cả chúng ta tu là để đạt được chỗ đó, chớ không phải chúng ta tu tầm thường để được cái chùa to, có một số bổn đạo là đủ. Chúng ta chỉ hài lòng khi tìm ra được cái chân thường trong vô thường, tìm ra hòn ngọc báu trong đống rác nhớp. Ðó là trọng tâm của người tu Phật.
Bây giờ quí vị sẽ thắc mắc hòn ngọc đó ở đâu, thầy chỉ giùm coi. Quí vị muốn tôi chỉ không? – Ờ, chắc nhiều người muốn chỉ lắm. Tới mục này, tôi gọi là mục “sét đánh vỡ màng tai”. Tôi chỉ mà không chỉ. Tôi dẫn những câu chuyện, quí vị lóng lặng tâm tư, nghe tôi kể chuyện, rồi quí vị tự quyết định, tôi không có một lời phê phán nào hết.
Quí vị chuẩn bị, coi chừng “sét đánh vỡ màng tai”.
Trước hết tôi dẫn Thiền sư Hoài Nhượng. Quí vị nhớ Thiền sư Hoài Nhượng là đệ tử của ai không? – Là đệ tử của Lục tổ Huệ Năng. Khi Lục Tổ ngộ đạo, Ngài trình bài kệ trong đó có câu:
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai.
Sau này Thiền sư Hoài Nhượng ở Tung Sơn đến, Lục Tổ hỏi ngay:
– Có mang vật gì đến?
Nếu mình nghe hỏi thì trả lời sao? – Thưa, con có mang một túi, trong đó có ba y và cái bình bát gì đó, phải không? Ngài Hoài Nhượng nghe hỏi mang vật gì đến, trả lời không được. Ngót tám năm sau, Ngài bừng sáng, đến Lục Tổ trả lời:
– Nói giống một vật tức chẳng trúng.
Lục Tổ hỏi:
– Lại có tu chứng không?
Ngài trả lời:
– Tu chứng chẳng phải không mà nhiễm ô không thể được.
Ngang đó Lục Tổ chấp nhận. Về sau, Ngài đến ở góc phía Nam núi Hoành Nhạc, cho nên người ta gọi Ngài là Nam Nhạc Hoài Nhượng.
Có vị Tăng hiệu Ðạo Nhất (về sau là Mã Tổ Ðạo Nhất) cũng cất am ở đây, suốt ngày chỉ ngồi thiền. Ngài Hoài Nhượng biết đây là một bậc pháp khí (người hữu ích trong Phật pháp), bèn đi đến hỏi:
– Ông ngồi thiền để làm gì?
Vị Tăng thưa:
– Con ngồi thiền để làm Phật.
Ngài im lặng đi.
Hôm khác ông Tăng cũng ra ngoài gộp đá ngồi thiền nữa, Ngài đi tới đem theo cục gạch, ngồi mài. Vị Tăng thấy lạ, mình ngồi thiền mà ông Thiền sư lại đem gạch tới đây mài, làm sao ngồi nhắm mắt được, cho nên phải nhìn, không nhịn được mới hỏi:
– Hòa thượng mài gạch để làm gì?
Ngài trả lời:
– Ta mài gạch để làm gương.
Sư Ðạo Nhất mới hỏi:
– Mài gạch đâu thể thành gương được?
Ngài trả lời:
– Ngồi thiền đâu thể thành Phật được!
– Vậy làm sao mới phải?
Ngài trả lời:
– Như trâu kéo xe, nếu xe không đi, đánh xe là phải hay đánh trâu là phải?
Ngang đó hết câu chuyện. “Như trâu kéo xe, nếu xe không đi, đánh xe là phải hay đánh trâu là phải?”
Qua câu chuyện thứ hai:
Thời đức Phật còn tại thế, có bảy vị Ni mà trong kinh gọi là Thất hiền nữ. Bảy vị dẫn nhau vào thi lâm để quán thây chết. Khi vào thi lâm, một cô chỉ thây chết nói:
– Thây ở đây mà người ở đâu?
Các cô lặng lẽ quán sát, cả thảy đều ngộ đạo.
Tôi không thêm câu nào.
Tới câu chuyện thứ ba: Mã Tổ Ðạo Nhất sau khi ngộ đạo rồi, người ta quí Ngài nên không gọi Ðạo Nhất, vì Ngài họ Mã nên gọi là Mã Tổ. Lúc đó Ngài đang giáo hóa, có một Thiền khách tên là Huệ Hải đến hỏi đạo. Mã Tổ hỏi:
– Ðến đây cầu việc gì?
Ngài Huệ Hải đáp:
– Ðến cầu Phật pháp.
Mã Tổ nói:
– Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì? Ta trong ấy không có một vật, cầu Phật pháp cái gì?
Ngài Huệ Hải lạy rồi thưa:
– Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải?
Mã Tổ bảo:
– Chính nay ngươi hỏi ta, là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cả không thiếu thốn, tự do sử dụng, đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.
Hết.
Như vậy tôi nói là “sét đánh vỡ màng tai”. Quí vị nghe nãy giờ có vỡ màng tai chưa? Nếu không vỡ thì thôi, về nhà lặp đi lặp lại chừng nào vỡ màng tai thì tốt.
Ngang đây kết thúc bài pháp ngày Tết Nguyên Ðán.
Ðầu xuân Tăng Ni và Phật tử đồng tề tựu đến đạo tràng này chúc mừng năm mới, tôi không có gì biếu quí vị, nay kể lại những câu chuyện này gọi là tặng quí vị sang năm mới. Nếu vị nào lỗ tai mỏng, nghe tôi kể nó vỡ màng tai ngay bây giờ thì tốt. Nếu nó chưa vỡ thì quí vị nghiền ngẫm. Một lúc nào đó, sang năm này, quí vị sẽ vỡ màng tai cho mọi người chung quanh đồng vỗ tay tán thưởng: “Một Thiền sinh vỡ màng tai!”
Câu chuyện chúc xuân của tôi đơn giản có vậy. Tất cả chắp tay hồi hướng.
Lễ Phổ Trà Bính Tý Đinh Sửu
Hôm nay không phải buổi giảng mà là buổi tất niên, cho nên trước tôi nói chương trình theo thứ lớp cho quí vị nhớ.
Thứ nhất là chúng ta niệm Phật cầu gia bị.
Thứ hai là Quản chúng Tăng trình bày cho biết thêm về sự tu hành qua một năm của chư Tăng tại Thiền viện. Kế đó là báo cáo của Quản chúng Ni cũng qua một năm tu hành của Ni chúng tại Thiền viện. Sau đó tôi sẽ có lời rút tỉa kinh nghiệm nhắc nhở thêm cho Tăng Ni.
Về phần Phật tử có ai đại diện không? – Có. Ờ, vậy tốt. Sau phần trình bày của Tăng Ni rồi thì một vị đại diện cho Phật tử ở Ðà Lạt nói sơ cho biết tình hình tu hành của Phật tử. Tiếp đến là phần tôi nhắc nhở tu.
Sau phần nhắc nhở tu mới tới phần khai mạc uống sữa tất niên. Trong khi uống sữa đó, tôi có đặt ba câu hỏi dành cho Tăng Ni. Tuy nhiên, bên Tăng thì trừ Quản chúng và Phó Quản chúng, bên Ni cũng trừ Quản chúng và Phó Quản chúng khỏi trả lời, vì mấy người đó thuộc lòng rồi. Còn mấy người dưới tôi muốn thử coi học hành khá hay không, cho nên quí vị dưới phải trả lời.
Trong ba câu, nếu bên Tăng trả lời hai câu đúng rồi thì câu chót phải là bên Ni, chớ không có tránh né chờ đợi nữa. Trả lời xong, tôi sẽ giải thích thêm ý nghĩa trong ba câu hỏi đó. Sau đó uống ly sữa cạn rồi là bế mạc, hết tất niên. Có quí Phật tử ở lại tới mười hai giờ để đón giao thừa thì chư Tăng phải kiếm cái gì lót lòng cho quí vị, để thức khuya quá xót ruột.
– Bạch Thầy, quí Phật tử xem phim.
– Xem phim nhưng cũng phải có cái gì trong bụng, không thôi đói chết.
Phật tử ở lại đây với chư Tăng xem phim tôi đi Hà Nội, lên núi Yên Tử và ba buổi giảng tại Hà Nội, cho quí vị thấy sanh hoạt ở ngoài đó.
Vậy phần xem phim và lễ đón giao thừa giao cho Quản chúng Tăng chịu trách nhiệm. Còn tôi xin rút lui vì không thức khuya được, thức khuya thì suốt đêm không ngủ, nên giao lại cho Quản chúng.
Buổi tất niên hôm nay như vậy, nói cho tất cả Tăng Ni và Phật tử biết. Thôi giờ bắt đầu niệm Phật.
Nam-mô Phật Bổn sư Thích-ca Mâu-ni.
Bắt đầu bên chư Tăng nói trước. Nhưng tôi nhắc lại ý nghĩa báo cáo. Ở thế gian người ta báo cáo công ăn việc làm, sanh hoạt của họ, còn mình ở đây chỉ trình bày sự tu của chư Tăng chư Ni tiến hoặc lùi thế nào. Trình bày rõ ràng để tôi nghe, cũng như tất cả Tăng Ni, Phật tử cùng thông cảm, để rồi khuyến khích nhau tu tiến nhiều hơn khi bước sang năm tới.
(Thầy Quản chúng nội viện Tăng)
Kính bạch Thầy,
Kính thưa Ðại chúng,
Vâng lệnh Thầy con xin báo cáo về những ưu và khuyết điểm trong việc tu hành của chư Tăng tại Thiền viện một năm qua.
Trong năm qua, xét về việc tu hành trong chúng, về ưu điểm có những điều đáng mừng. Có những huynh đệ khi nỗ lực công phu tu tiến đã được niềm vui trong lúc tu hành, nhất là những vị có duyên nhập thất. Tức là sau thời gian công phu hằng ngày huân tập, đến duyên được vào trong thất, được rảnh rang dồn hết công phu thì có được những niềm vui đáng mừng.
Ðồng thời cũng có huynh đệ tuy cũng nỗ lực nhưng do tập khí riêng nên gặp một vài trở ngại, trục trặc. Tuy nhiên, xét chung thì các huynh đệ đều có những bước tiến tốt. Có vị có những bước tiến đáng kể, tuy rằng chưa phải là những bước viên mãn sau cùng nhưng cũng là niềm khích lệ trên đường tu để có đủ niềm tin vững vàng mà tiến bước. Ðó là điểm ưu.
Còn về phần khuyết điểm, bên cạnh cái tốt đó vẫn còn những điều dở. Một vài huynh đệ do tập khí cũ nên có khi cũng không làm chủ được. Do đó đã để tập khí làm chủ mình, nhất là những tập khí nóng nảy, thể hiện ra vẻ mặt hoặc phát thành lời nói. Ðó cũng là phần khuyết điểm còn hiện ra quá thô.
Hoặc có những huynh đệ về oai nghi nề nếp còn thiếu sót, hời hợt. Bởi vì các huynh đệ đó quan niệm tu thiền là không quan trọng hình thức nhiều, rồi cũng quên và hời hợt để cho phóng tâm, nên trong oai nghi đôi khi bất giác có những cử chỉ, lời nói hơi thô động. Cũng như trong khi sống chung với nhau, một vài huynh đệ chưa làm chủ được mình, chưa tự điều phục được nên cũng có đôi lúc làm phiền lòng nhau.
Nói chung, bên cạnh cái hay cũng còn cái dở. Nhìn chung trong một năm qua, phần lớn các huynh đệ đều có nỗ lực, có những bước tiến, trong đó một, hai vị có những bước tiến vượt lên tốt. Ðó là niềm khích lệ cũng như đáp đền lại một phần nhỏ lòng mong mỏi của Thầy đối với đại chúng.
Hôm nay vâng lệnh Thầy, con kiểm qua phần ưu và khuyết điểm ở trong chúng, kính trình lên Thầy chứng minh.
(Ni sư Quản chúng nội viện Ni)
Kính bạch Thầy,
Kính thưa quí Thầy, quí Cô cùng tất cả Phật tử.
Hôm nay con vâng lời Thầy kính trình lên Thầy sự tu học của nội viện Ni chúng con trong một năm qua.
Kính bạch Thầy, chúng con cũng có những phần ưu, và bên cạnh đó vẫn còn các điều khuyết. Con xin trình bày để Thầy xét.
Về phần ưu, con thấy huynh đệ chúng con đối với tinh thần lục hòa năm nay tương đối khá. Nhưng trong phần ý hòa vẫn còn thiếu sót. Tuy vậy, so với những năm trước chúng con có tiến hơn.
Về thời khóa tu học, tọa thiền, sám hối, làm việc và thọ trai trong chúng rất nghiêm chỉnh. Trừ một vài trường hợp đặc biệt các huynh đệ mới vắng mặt. Ðiều đó con cũng thấy mừng. Ðó là phần hình thức tu hành của chúng con.
Về tinh thần tu thì năm nay có các huynh đệ nhập thất, được vào thất rất là vui mừng. Khi vô thất nỗ lực hạ thủ công phu nên cũng có kết quả tốt và quí vị đã ra trình với Thầy. Ðồng thời huynh đệ cũng bày tỏ niềm vui sướng của mình trong thời gian nhập thất hạ thủ công phu với con. Ðiều này làm cho con rất an lòng, và con cũng có chút hi vọng là nếu tất cả huynh đệ đều có ý chí quyết tu và nỗ lực được như vậy thì chúng con cũng có chút phần nào đền đáp công ơn của Thầy đã mong mỏi nơi chúng con.
Bên cạnh những ưu điểm, phần khuyết điểm tương đối cũng còn. Như thường mỗi năm Thầy có thu thêm chúng, khi nhập chúng, có vị thích nghi được với nếp sống lục hòa, cũng có những vị chưa quen nên hơi lúng túng, từ cái lúng túng đó đôi lúc làm cho con hơi nhọc trí một chút. Con biết đó là sơ suất của tụi con cũng như của chúng chưa thích nghi được.
Khuyết điểm nữa là một vài huynh đệ tuy ở đây đã ba bốn năm mà vẫn còn tập khí sâu dày, nên đôi lúc có những lời nói việc làm không phù hợp với nội qui làm cho con thấy khó xử. Nhưng rồi các huynh đệ cũng biết lỗi, tới sám hối với Thầy và sám hối với chúng con. Sau đó huynh đệ lại vui vẻ, tu tiến, điều đó đáng mừng.
Một khuyết điểm nữa là năm nay con thấy trong chúng có bốn năm vị phải về thành phố trị bệnh. Vì bệnh kinh niên nên không thể lấy tọa thiền để chữa bệnh được, vì vậy huynh đệ phải xin phép đi trị liệu, mỗi vị ít nhất cũng bảy ngày, mười ngày, nửa tháng… Con thấy trong thời gian đi như vậy đương nhiên mất thời giờ tu hành, tiếp duyên xúc cảnh thường dễ mất mình. Ðó cũng là khuyết điểm của chúng con, không điều phục được cho thân khỏe mà phải đi chữa bệnh như vậy.
Lại thêm khuyết điểm nữa là tuy chúng con sống chung với nhau nhưng vì tập khí lâu đời nên đôi lúc tiếp xúc, nói qua lại có những điều chưa thông cảm. Từ ý hòa không giữ được nên sanh ra lỗi lầm làm huynh đệ cũng buồn phiền.
Hôm nay con xin kính trình lên thầy những ưu và khuyết điểm đó. Kính mong Thầy thấy chúng con còn những điều gì khiếm khuyết xin Thầy bổ túc thêm.
(Phật tử)
Kính bạch Thầy,
Kính thưa Ðại chúng,
Ðược sự cho phép của Thầy và được sự nhất trí của các Phật tử, con xin đại diện báo cáo lên Thầy tình hình tu học của Phật tử Ðà Lạt chúng con trong năm nay.
Về đặc điểm, hiện nay Phật tử đến tu học khá đa dạng, thuộc nhiều thành phần, nhiều lứa tuổi, từ nhiều nơi, ở Ðà Lạt và ở các huyện lân cận cũng có. Trình độ nhận thức và tu tập của Phật tử có khác nhau. Về hình thức tu học thì các Phật tử tìm hiểu thông qua việc đọc kinh sách và đến nghe Thầy giảng rồi về nhà nghe lại băng giảng của Thầy.
Do không tổ chức tu tập tại chỗ nên việc thực hành của Phật tử có nhiều mức độ khác nhau. Có Phật tử đang tập ngồi thiền từ năm đến mười phút, có Phật tử ngồi ba mươi phút hoặc một giờ, còn hai giờ thì hi hữu. Theo lời kể lại có anh Thi ngồi được hai giờ, số còn lại lúc tiến lúc lùi, không ổn định. Do căn cơ, điều kiện và hoàn cảnh khác nhau nên thời gian tu tập, mức độ kiên trì và niềm vui đạt được cũng khác nhau.
Về mặt hình thức thì số lượng Phật tử đến tu học năm nay nhiều hơn so với năm trước. Lễ chúc Tết đầu năm chúng con thấy đạo tràng ngày một thêm đông, không những riêng hai chúng mà cả tứ chúng đều tăng. Như vậy là tứ chúng đồng tu đồng phát triển.
Về nội dung thì dù căn cơ, điều kiện túc duyên của Phật tử có thiên sai vạn biệt nhưng đến đây đều có mục đích chung là tu học để tìm cho mình sự an lạc và giải thoát tối hậu. Con lắng nghe và thu thập ý kiến của các bác, các cô, các anh chị thì việc tu tập đã đạt được những kết quả biểu hiện như sau:
Một số Phật tử đã phân biệt được thế nào là chánh tín và mê tín, những hình thức lạc hậu từ nay bỏ hẳn, ví dụ như đốt vàng mã… Ðiều đó góp phần làm chính danh và sáng tỏ đạo Phật qua sanh hoạt và nếp sống của những người Phật tử hiểu đạo và biết tu.
Theo nguyên tắc căn bản của tam vô lậu học giới, định, tuệ thì các Phật tử đã nỗ lực giữ gìn năm giới cấm, đem lại hạnh phúc cho mình, gia đình và xã hội. Vì xã hội càng văn minh vật chất tinh vi về khoa học kỹ thuật thì đạo đức thường bị băng hoại. Nếu không biết giữ gìn, phát triển văn hóa và đạo đức thì rất nguy hiểm, lòng người nhiều bạo động thậm chí phi nhân tánh.
Ví dụ gần đây ở Lâm Hà, cách nơi này khoảng bốn mươi cây số, xảy ra vụ án giết hai mạng người, mà thảm khốc thay, con lại giết mẹ chặt mấy khúc thật là thương tâm! Nguyên nhân sâu xa là lòng người bạo động không biết đến đạo đức, không chịu tu tập và không chịu giữ gìn năm giới cấm. Ðứng về mặt nhân quả mà nói thì đây có lẽ là nhân quả nhiều đời, nay đã đến lúc hoàn trả. Ðiều đó làm chúng con nhớ tới lời Phật dạy:
Giả sử bách thiên kiếp
Sở tác nghiệp bất vong
Nhân duyên hội ngộ thời
Quả báo hoàn tự thọ.
Về phương pháp tu học thì chúng con nhận thấy Thầy sử dụng phương pháp “Thiền giáo song hành” là phù hợp. Chúng con vừa tu tập, vừa nghe Thầy giản trạch kinh luận. Nhờ vậy mà Phật tử chúng con mới có thể dễ dàng tiếp cận và thực tập được. Không giản trạch kinh luận thì chúng con không có phương tiện để làm tư lương trên bước đường học đạo.
Ba phương pháp giáo hóa: thân giáo, khẩu giáo và ý giáo đều được biểu hiện rõ ràng qua sự an lạc và hiền từ ở nơi Thầy. Cho nên đến Thiền viện gặp Thầy chúng con đều được thấm nhuần ân đức từ Thầy tỏa ra. Nhìn phong thái của Thầy, nghe tiếng giảng khoan thai, rõ ràng của Thầy là chúng con đã thấy an lạc rồi. Vì vậy bất cứ Phật tử nào đến đây tu học đều gặt hái ngay tức thì kết quả an lạc đó.
Tóm lại sau một năm tu học, chúng con có tiến bộ hơn trước, mặc dù trong quá trình tu và đến nghe giảng có một số Phật tử không được thường xuyên, đều đặn vì nhiều nguyên nhân hoàn cảnh. Nhưng chúng con tin tưởng rằng có đi thì có tới, có trồng cây thì có ăn quả, có đến đây là có phần dự vào sức mạnh của tăng thân vì đại chúng rất quan trọng. Nhờ có đại chúng mà mỗi người có thể duy trì và thúc đẩy sự tinh tấn của mình trên đường tu.
Về phần kiến nghị thì một số Phật tử có ý kiến xin Thầy cho phép được tham vấn từ năm đến mười phút sau mỗi buổi giảng, vì có một số Phật tử đôi khi thắc mắc mà không hỏi được và không biết hỏi ai. Về hình thức tham vấn có thể ghi vào giấy hoặc hỏi trực tiếp để khỏi làm mất thời gian quí báu của Thầy.
Năm cũ sắp kết thúc, chỉ còn vài giờ nữa là đón giao thừa, người trần gian già thêm một tuổi, quãng đường còn lại cũng ngắn hơn một đoạn. Lẽ vô thường chuyển dịch không ngừng, chỉ có sự tinh tấn mới vượt qua bờ giải thoát. Kính chúc Thầy và đại chúng thường an lạc.
(Hòa thượng)
Phần báo cáo về sự tu hành của Tăng Ni và Phật tử đã xong. Bây giờ tôi có ít điều nói cho tất cả quí vị biết rõ và nhớ.
Thật ra, năm vừa qua đối với tôi có những cái gọi là bất ngờ. Bất ngờ đây là điều mà trong nhà thiền thường chỉ cho cái bất chợt hay là bỗng dưng xảy đến, có khi rất thích hợp với đạo lý, cũng có một ít điều không hay.
Trước hết tôi nói tổng quát cho quí vị thấy rõ bước tiến tu hành của Tăng Ni và Phật tử. Riêng Phật tử Ðà Lạt, tôi chưa thấy được bao nhiêu bài nói về chỗ “bất chợt” đó, còn các nơi thì có gởi về nhiều. Tôi nhớ có một hai người trình với tôi tương đối thấy cũng tốt.
Giờ nói riêng về Tăng Ni. Qua một năm rồi tôi được chư Tăng chư Ni trình lên những bước tiến mà ngày xưa tôi không hề ngờ nó có thể đến một cách dễ dàng như vậy. Ngày nay trong số Tăng Ni tu, những bước đột biến đã xảy ra, mà xảy ra rất là đáng kể. Chỉ trong một năm mà ở Thiền viện mình có thể có hơn mười người khóc và cười, nói hơn mười người chớ thật là khoảng hai mươi người.
Khóc và cười đối với người tu thiền có chỗ quan trọng. Lúc mình tu, thấy được một điều gì, hay là thực hiện được điều mà ngày xưa mình không bao giờ nghĩ nó có thể đến, giờ bất chợt nó đến, tự nhiên không thể nào ngăn được dòng nước mắt – mừng mà khóc – hoặc không thể nào ngăn được cái cười vì vui, vui cả ngày. Thật ra không phải là quí vị đó chỉ cười khóc trong lúc nhập thất hay trong khi có những cảm trạng đặc biệt đó, mà đến khi lên trình với tôi, cái khóc cái cười cũng vẫn còn.
Như vậy chứng tỏ rằng sự tu hành của Tăng Ni năm này vượt hơn năm rồi gần năm mươi phần trăm. Sự vượt bậc đó tôi chứng kiến rõ rệt. Ðây là nỗi mừng lớn của tôi.
Chúng ta là người quyết tu, nhưng tôi xin nói thật, đối với tôi ngày xưa, khi tu tôi cũng không ngờ có thể xảy ra được những điều tôi chưa bao giờ dám nghĩ. Khi nó xảy ra rồi tôi cũng tin rằng do túc duyên nhiều đời của mình nên mới được vậy. Từ đó tôi hướng dẫn Tăng Ni tu, nhưng qua bao nhiêu năm sao thấy mọi người vẫn trì trệ chưa có được kết quả gì sáng sủa. Tôi hơi buồn, nghĩ rằng có lẽ đây chỉ là duyên của mình. Vậy thì những người chung quanh không có duyên sao? Nên tôi ngờ, đâm ra nghi ngờ điều mình chỉ dạy, hướng dẫn người ta e không có kết quả.
Nhưng những năm gần đây, kết quả đó đã xảy ra, thể hiện qua nhiều người từ các Thiền viện lên trình cho tôi. Nên tôi có niềm vui, tin tưởng rằng đường lối mình hướng dẫn Tăng Ni tu đã có kết quả chút ít. Ðến năm này thì gần như nó hơi muồi nên có kết quả rần rộ hơn. Ở đây tôi chỉ nói kết quả mà không nói ai. Ðiều này có lý do, sau tôi sẽ giải thích.
Kết quả rần rộ hơn chẳng những ở đây, mà về dưới kia, khi đi thăm các vị nhập thất, qua sự trình bày của họ tôi thấy rất hoan hỉ. Không những Tăng Ni trình bày sự tu hành tiến bộ đáng mừng mà luôn cả Phật tử. Nhiều lá thư trong và ngoài nước gởi đến cho tôi, diễn tả kết quả tu hành của họ thật đáng khích lệ.
Bởi vậy nên năm này tôi rất hoan hỉ về đường hướng mà tôi hướng dẫn Tăng Ni Phật tử tu, gần xa đều có được kết quả. Thật ra, những người tu có kết quả đó chỉ đến trình với tôi chớ ít dám nói cho huynh đệ biết, vì nói ra sợ người ta cho là mình khoe. Cho nên chỉ mình tôi được tin tức đó, còn đa số không biết.
Vậy trong giới tu sĩ, Tăng Ni năm nay tu có những bước tiến đáng mừng, vượt hơn năm rồi trên năm mươi phần trăm. Rồi số cư sĩ đã trình với tôi năm nay cũng vượt hơn những năm trước, thư gởi về rất nhiều. Nhưng bữa nay vì tánh cách nội bộ, tôi không trưng đọc những bài kệ và thơ của những người ấy trình. Có lẽ dành bữa mùng ba tới ở Thường Chiếu, tôi sẽ trưng ra những bức thư, những bài kệ để cho tất cả Phật tử phấn chấn hơn, tu hành tiến bộ hơn. Ở đây có tánh cách nhắc riêng Tăng Ni trong nội viện và một ít Phật tử ở Ðà Lạt thôi. Vậy nên tôi nói tổng quát chớ không đi vào chi tiết.
Như vậy, năm này nhìn lại phần tu tiến của Tăng Ni rất đáng vui mừng, nên có thể nói là năm nay tôi vui nhiều. Nhưng nói vậy không phải tất cả đều là vui hết, vẫn có những điều bất ngờ xảy ra làm tôi cũng muốn điên đầu. Có lúc tôi cũng hơi buồn, nghĩ rằng mình đem hết tâm tư để nhắc nhở Tăng Ni tu, làm điều lành, điều tốt đối với đạo, mà tại sao lại có những trục trặc làm mình phải bận tâm như vậy. Nhưng rồi tôi tự thấy rõ là có một lý do.
Quí vị thấy đức Phật tu bao nhiêu kiếp rồi mà tới đời cuối cùng lúc gần thành đạo lại có bao nhiêu thứ ma vương tới quấy nhiễu. Vậy là Ngài thiếu đức hay thiếu khả năng tu hành mà bị quấy nhiễu? Chẳng qua là như trong nhà Phật thường nói mình tu càng cao thì sự phá phách càng mạnh, tôi biết như vậy, vì những trở ngại đó làm cho mình phải giật mình, ngỡ rằng không bao giờ có mà bây giờ có.
Lúc đó tôi cũng hơi buồn, nhưng rồi xét kỹ lại, tôi thấy chính những trở ngại đó là bước tiến của Tăng Ni. Nếu mình tu không ra trò trống gì thì chắc không ai phá mình chi. Như câu chuyện dẫn trong Luật Sa-di:
Thuở xưa, có một ông thầy ở bên cạnh hồ sen. Thầy đi kinh hành, ngửi mùi hương sen thơm, tỏ vẻ ưa thích, liền bị ông thần giữ hồ hiện ra quở:
– Tại sao thầy tu hành mà còn ăn cắp mùi hương của hồ sen tôi?
Ông thầy nhìn xuống hồ thấy có người đang lội xuống bẻ bông và nhổ ngó sen, bèn trách lại thần hồ:
– Tôi chỉ ngửi mùi hương, có hư hao gì hoa sen đâu. Người ta bẻ bông nhổ lấy ngó, sao ông không nói gì hết mà lại rầy tôi?
Ông thần nói:
– Người tội nhơ đầy đầu, tôi không nói đến. Ngài là người tu hạnh tốt mà tham đắm hương, hư việc tốt của Ngài cho nên quở rầy. Ví như cái áo đen dù có mấy chục chấm mực cũng không ai cần hỏi đến, còn cái áo trắng chỉ cần một điểm đen người ta cũng thấy liền.
Như vậy, người ta thấy một chấm mực là do cái áo trắng. Vì trắng cho nên một chút nhớp nhỏ người ta cũng thấy, có thể trách mình, còn nếu mình đen thui rồi, dù dính bao nhiêu mực cũng không ai thèm để ý tới.
Ðể thấy rằng khi người nhiều tội lỗi hoặc tu hành không ra gì, không đáng cho quỉ thần chú ý, thì những chuyện không ngờ đó không xảy ra. Còn khi mình tu có những bước tiến đáng mừng thì có những chuyện không tốt bất thần xảy ra, mình ngừa trước không được. Ðó có thể là do tập khí tham sân si của mình hoặc cũng là sự xúi giục của thế lực bên ngoài, khiến mình phải giải quyết những vấn đề không được tốt đẹp. Do đó tôi mới yên lòng khi thấy Tăng Ni tu tiến lại có những chuyện không hay xảy ra – không hay đây là nó ngoài dự liệu của mình.
Thí dụ tôi nghĩ rằng tôi nhập thất một ngày, một tháng, hay một năm, càng nhập thất thì càng khỏe. Nhưng có nhiều huynh đệ nhập thất ít hôm liền khởi bệnh, bệnh miết cho tới ra thất. Ở ngoài không bệnh, vô thất lại bệnh, sao kỳ vậy? Ðiều này làm cho tôi khó hiểu, hay là do mình dạy sai cho nên khi vào thất tu người ta bệnh. Nhưng nếu tôi dạy sai thì ai nhập thất cũng bệnh hết, đằng này chỉ một hai người bệnh còn những người khác lại khỏe. Như vậy, có những cái bất thường xảy đến mà mình không thể biết trước được.
Sự tu hành rất là cao quí, nhưng nó càng cao chừng nào, lâu lâu lại có những cái chướng đậm chừng ấy. Bởi vậy, khi những chướng đậm xảy ra, nếu mình không có cái nhìn cho tường tận, có thể sẽ hoảng hốt, nghĩ tại sao lại có chuyện đó. Vậy mà bây giờ có, mới biết tu càng cao thì chướng càng lớn mạnh hơn.
Ðó là một thử thách để xem khả năng mình trong lúc tu hành có vượt qua được những khó khăn hay là đầu hàng. Nếu đầu hàng tức là mình thua, còn nếu gặp khó khăn mà vượt qua được là thắng, là thành công.
Tôi muốn nói trách nhiệm lãnh đạo và hướng dẫn của tôi đối với Tăng Ni. Nếu gặp những trở ngại như vậy, tôi đâm ra thối chí nản lòng thì sự hướng dẫn này có thể đứt đoạn, kết quả không viên mãn. Nên những việc xảy ra bất ngờ, ngoài sự tưởng tượng của tôi là cơ hội để tôi thấy rằng mình càng cố gắng chừng nào thì sự khó khăn áp lực bên ngoài càng mạnh. Tôi phải cười để tiến lên, để hướng dẫn Tăng Ni vượt qua, chớ tôi không buồn không nản. Vậy việc làm của tôi mới có thể viên mãn.
Ðó là chuyện mới nghe tưởng như lạ nhưng khi hiểu đạo lý sâu rồi lại không có gì lạ. Bởi đa số Phật tử cũng như Tăng Ni cứ nghĩ lúc nào mình tu chân chánh, thanh tịnh thì mọi điều tốt và phước lành sẽ đến với mình. Nếu hiểu như vậy là hiểu một chiều. Mình tu hay, tu cao thì sức phá càng mạnh, để cho thấy đạo lực của mình. Chớ nếu sức tu của mình tới một trăm phần trăm mà sự phá chỉ chừng năm mươi phần trăm thì có thấm thía gì với mình đâu. Cho nên, nếu sức mình một trăm phần trăm thì lực phá cũng phải cân đối, ít ra chín mươi chín phần trăm hoặc trội hơn chút ít, vậy mới thấy được sức mạnh của mình, có vượt qua được hay không.
Vậy nên đừng ngỡ mình tu thì mọi việc ai cũng thương và giúp đỡ, từ Phật tử đến huynh đệ đều sẵn sàng ủng hộ, cho tới quỉ thần, long thần hộ pháp cũng gia hộ cho mình, nghĩa là mình được an ổn hoàn toàn để đi qua êm xuôi hết. Tưởng vậy nhưng mà không phải. Nếu như vậy thì sự tu của chúng ta sẽ không cứng cỏi, cũng không thật đáng tin cậy. Tại sao?
Giả dụ như một con thuyền ở ngoài sông lớn, gặp nước xuôi, không bơi chèo cũng vẫn đi thuận theo dòng nước chảy. Thấy dòng nước thuận và gió thổi thuyền đi mình hài lòng, nhưng như vậy chúng ta có thể biết được khả năng chèo chống của người dưới thuyền đó giỏi hay không?
Nếu gió xuôi, nước xuôi thì người chèo chống có gì phải bận, nên không thể nào biết được sức của người chèo chống. Chừng nào gặp gió ngược, nước ngược mà vẫn chèo lên, tiến lên được, mới thấy khả năng chèo chống của người dưới thuyền.
Cũng vậy, chúng ta tu mà cái gì cũng xuôi thuận hết, nếu được thành công là thành công trong cái yếu mềm, chưa đáng tin cậy. Phải có những trở ngại, khó khăn xảy đến với mình như một còn một mất, khi vượt qua được rồi thì sức cứng cỏi của mình mới bền vững, lâu dài. Ðó là điều tôi kinh nghiệm, mà chính trong kinh sử cũng dạy rõ ràng như vậy.
Cho nên quí vị đừng nghĩ rằng mình tu trong sáng thanh tịnh, giới luật nghiêm trang là mọi việc tốt hết. Không đâu! Có những cái bất ngờ làm mình phải giật mình, vậy mới thấy được sức vươn lên của mình, đạo lực của mình mạnh cỡ nào.
Hiểu vậy thì trên đường tu mới có thể bảo đảm không lùi, không thối chuyển. Nếu không hiểu vậy sẽ dễ chán, dễ thối chuyển lắm. Nhất là con ma bệnh, chỉ mình nó quấy nhiễu quí vị cũng muốn thả trôi rồi, phải không? Hồi tu ít thì đau ít, nay tu nhiều đau nhiều, càng tu càng đau, riết rồi đâm ra chán nản, không biết sao tu mà bệnh hoài.
Tôi thường nói với Tăng Ni rằng người tu không sợ bệnh, cũng không sợ chết nữa. Bệnh coi thường, cái chết cũng coi thường, huống nữa là chuyện khen chê, hủy nhục, mình đâu có sợ, phải không? Nghĩa là phải cứng như đá chớ không phải như bèo bọt, đụng tới là nát, đụng tới thì tan. Không phải vậy. Chúng ta phải lập chí cho vững, như đá như sắt, để chịu đựng trong mọi trường hợp.
Dù cho thân này lát nữa hoại, nhưng mình vẫn còn trí tuệ sáng suốt thì thân hoại vẫn không mất mình. Chính nhờ thân bại hoại nên chúng ta phá được cái chấp lớn nhất của mình là chấp ngã về thân, phải không? Nhờ thân đau bệnh, không ra gì, mình hết muốn gặp nó lần thứ hai lần thứ ba nữa, đó là phá được chấp ngã. Không muốn mang thân đời sau nữa chính đó là giải thoát. Vậy thì bệnh cũng là cơ hội tốt để mình vươn lên.
Rồi sự chê bai, huỷ nhục là để phá cái gì? – Ðể phá chấp ngã về tâm. Ðừng nghĩ tâm mình thanh tịnh, sáng suốt là đúng giá trị thật rồi. Cần phải có thử thách. Có khi người ta chửi mắng mình chuyện không đâu, mình không hề biết mà họ có thể làm cho mình hoảng hốt lên. Mình không có những cái xấu mà họ nói ngay mặt mình là xấu là dở, đủ thứ. Nếu bị những chuyện đó mà chúng ta không phiền hà, không buồn giận thì đó là đã phá được chấp ngã về tâm.
Như vậy trên đường tu có rất nhiều thử thách. Quí vị thấy một đứa học trò từ khi cắp sách đi học cho tới lên đại học chẳng hạn, có bao nhiêu lần thi? Mỗi lần thi là một lần thử thách chớ gì. Có học trò nào không thi mà được làm tiến sĩ không? Muốn có bằng tiến sĩ thì phải qua bao lần thi. Càng lên cao bài vở càng khó, không thể nào lên cao mà bài vở ở mức lớp ba lớp bốn được.
Như vậy, luật của thế gian và trong đạo cũng tương tự. Mình tu khi còn dở yếu thì thử thách đơn sơ thôi, đến khi càng cao, càng cứng cỏi, mạnh mẽ thì thử thách càng đậm hơn, mạnh hơn để xem mình có đủ sức vượt qua hay không.
Tuy nhiên, nghe vậy đừng sợ mình tu nhiều gặp thử thách mạnh e chịu không nổi rồi thối lùi. Ðừng nghĩ vậy. Phải chấp nhận thử thách mới có thể thành công trên đường đạo. Nếu không có thử thách thì không bao giờ thành công. Hiểu như vậy quí vị sẽ luôn sẵn sàng chấp nhận. Việc gì đến mình cũng cười, không sợ. Ðược vậy mọi việc đều thắng, nếu có lo sợ tất sẽ thối lùi.
Nhiều người nghe nói nhập thất cũng có những trở ngại trong thất, rồi tới phiên nhập thất thì sợ, không biết vô có bị phá không. Ðó là chưa ra quân mà nghe nói giặc mạnh quá rồi rút lui. Vậy là không được. Mình phải phất cờ, chết sống gì cũng chấp nhận, nó phá gì thì phá mình cũng quyết thắng nó. Thà là chết trong trận chớ không thể nghe khó khăn một chút là thối lui. Ðó là ý nghĩa rất quan trọng, tôi nhắc cho Tăng Ni biết rõ để trên đường tu mình không sợ sệt.
Những năm qua, Tăng Ni tu vừa phải thì tôi không thấy có những thử thách lớn, không có gì quan trọng xảy ra đối với tôi. Nhưng năm này chư Tăng chư Ni tu hay, tôi mừng. Mừng bao nhiêu thì có những điều xảy tới làm tôi phải giật mình chừng ấy. Quí vị thấy điều đó cụ thể, thực tế, chớ không phải do mình suy nghĩ ra.
Bởi vậy, biết đâu những năm tới tu hay hơn nữa thì còn có những điều cay đắng hơn, giật mình hơn. Tôi phải nói trước để chúng ta chuẩn bị. Những năm trước tôi đâu cần đề phòng như vậy. Không cần nói vì nào có gì đáng nói. Chẳng có gì hay thì đâu sợ cái dở. Bây giờ có cái hay thì sẽ có những cái dở tới, để thách đố coi mình vượt qua khỏi hay không.
Ðó là những điều tôi thấy rõ ràng xảy ra năm nay. Những chuyện này chỉ mình tôi biết chớ người chung quanh ít ai biết. Và tôi biết đó là những thử thách đáng kể chớ không phải nhỏ.
Ðó là phần nhắc nhở cho tất cả quí vị biết tu khó như vậy. Cái khó đó không phải để hại mình mà là cơ hội để mình vươn lên. Nhờ khó mình mới thành công, nếu dễ chắc mình lôi thôi suốt một đời không ra gì hết. Vậy nhắc cho Tăng Ni biết, cố gắng chuẩn bị năm tới vươn lên hơn.
Phần kế, tại sao Tăng Ni ở đây tu hành tiến bộ mà tôi không dám nói người nào đã tiến thế nào. Quí Phật tử nghe cũng lấy làm lạ, sao Thầy không nói để mọi người biết thầy đó cô đó tu hay như vậy. Bởi vì tôi còn e ngại – nói sợ thì hơi quá đáng – còn e ngại tập khí của con người khó mà lường nổi. Tập khí là gì quí vị biết không? Ðó là những thói quen đã nhiều đời nhiều kiếp mình tạo ra.
Tôi nhớ hồi học trong kinh có kể câu chuyện: Tổ Ca-diếp đã đắc quả rồi, một hôm có chư thần Càn-thát-bà đánh nhạc trời cúng dường. Nhạc của Càn-thát-bà là hay nhất, đánh lên cả bầu trời rung vang theo. Ðang ngồi bình tĩnh, nghe nhạc một hồi ngài Ca-diếp đứng dậy múa theo điệu nhạc. Ngài là người khổ hạnh đệ nhất trong các đệ tử lớn của Phật, mà tới chừng nghe tiếng nhạc hay quá đứng dậy múa theo. Như vậy là hết uy nghi của một vị Tỳ-kheo, của vị A-la-hán đắc đạo rồi. Sau hỏi lại, Phật nói đó là tập khí của ngài Ca-diếp vì có nhiều đời Ngài làm nhạc công. Tuy đời nay tu không còn ca múa nhưng nó còn thấm đâu trong đó nên gặp là trỗi dậy.
Bởi vậy tôi hơi ngại, Tăng Ni mình có những chủng tử hồi xửa hồi xưa không biết làm cái gì đó. Nếu bây giờ nói thầy này, cô này được điều này hoặc thấy điều kia, rồi mai kia gặp duyên gì đó, đứng dậy mà làm kiểu ấy, người ta sẽ nói: “Ðó, Thầy nói người đó tu hay mà nay múa hát lung tung.” Thôi thì khổ! Mình bây giờ đâu có Túc mạng thông để biết đời trước họ ra sao. Do vậy, tôi chỉ nói đại khái chớ không dám kể tên. Kể tên quí vị chú ý quá, lỡ có gì mất uy tín.
Ðó là lẽ thật mà tôi đã biết. Cho nên trên đường tu có nhiều cái mình phải dè dặt. Không phải một khi chúng ta biết mình có tánh Phật, biết được Ông chủ rồi thì mọi việc đều suôn sẻ hết. Không phải đâu! Biết được là một bước tiến, bao đời mình khao khát mà chưa nhận được, giờ nhận được là quá mừng rồi. Nhưng còn tập khí muôn đời nữa, gột rửa cho thật sạch thì cũng nhiêu khê lắm, lâu lắm chớ không phải mau.
Trong thập lực của Phật, lực cuối cùng là “Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực”. Tới thành Phật rồi, thành tựu cái lực chót mới đoạn hết tập khí. Vậy nếu chưa thành Phật thì sao? Hết chưa? – Chưa thành Phật thì tập khí vẫn còn, ở mức độ mạnh hay yếu chớ không thể hết liền. Nhiều người thiếu dè dặt, nghe đệ tử tu có điều gì hay bèn vội vàng khoe, tới chừng lộ cái dở ra thì thiên hạ buồn, thối chí.
Bởi vậy nên tôi chỉ nói cho quí vị biết sự tu tiến của Tăng Ni cũng như Phật tử rất đáng khích lệ, nhưng tập khí thì chưa biết ai dày ai mỏng, người nào có tập khí gì? Thí dụ những người trước từng làm tướng làm quan thường có tập khí gì? – Nóng giận, phải không? Ðộng tới là muốn hét lên. Còn người ngày xưa là nhà giàu, buôn bán, tiền bạc nhiều, nay nghe nói buôn bán là muốn hưởng ứng theo, tính toán liền. Vì vậy khó mà biết tập khí muôn đời của mình.
Vậy, chúng ta tu tiến là đáng mừng, nhưng còn phải dè dặt, phải phòng ngừa tập khí của mình. Người nào cũng phải chăm chăm đề phòng nó. Nó vừa hiện ra là mình phải biết để chặn lại, chớ không khéo nó trổ tài ra thì mình thua. Người ta sẽ cười rằng mình nói khoác chớ không có lẽ thật. Lúc đó nói Chân tâm, Phật tánh… gì gì người ta đều không tin. Ðiều này hết sức khó, vậy nên chư Tăng chư Ni phải cẩn thận trong vấn đề đó.
Phần nhắc nhở của tôi đã xong. Kế là phần gì? Bây giờ uống gì tất niên? Chắc bữa nay cũng được một ly cà phê sữa tất niên. Thôi ban hành đường bên nào lo bên ấy, để Tăng Ni và Phật tử uống một chút cho đúng ý nghĩa ăn tất niên.
Nãy giờ, về Phật tử Ðà Lạt, tôi chỉ nói sơ mà không nói thực tế. Bây giờ tôi xin đọc một bài thơ của một Phật tử Ðà Lạt cho quí vị nghe, xem có tiến bộ nhiều ít.
Bài thơ có tựa là CON ÐÃ GẶP
Năm mươi năm con mới gặp Người,
Bóng chân sư hiện giữa trời vô ưu.
Hồn con lạnh buốt sương mù,
Ðêm đêm trở giấc ngục tù thế gian.
Nỗi đau từ kiếp cơ hàn,
Nỗi thương nỗi nhớ ngổn ngang trăm chiều.
Mây về lạnh bến cô liêu,
Lòng con cũng đã ít nhiều đau thương.
Ngược xuôi mấy dặm thương trường,
Cuộc vui tao ngộ cuộc vương đọa đày.
Áo đời mấy lượt sờn vai,
Con còn đếm bước tháng ngày bông bênh.
Bây giờ nước đẩy thuyền lên,
Bỏ xa bến đục bập bềnh bến trong.
Bên trời sương rụng bâng khuâng,
Lời Thầy sưởi ấm hồn băng con rồi.
Năm mươi năm hơn nửa cuộc đời,
Hay đâu con đã gặp Người – chân sư .
Cho con hiểu nghĩa kiếp người,
Cho con đi giữa những lời tâm kinh.
Hóa thân vào cõi tâm linh,
Hoa chân lý nở lung linh giữa đời.
Bây giờ mỗi người được một ly sữa, quí vị không có quyền uống liền nghe. Chừng nào nghe tôi hỏi, có vị nào trả lời được tôi cho là đúng thì vị đó được khai mạc bữa tất niên, rồi quí vị mới bắt đầu uống sữa.
Ở đây quí vị khỏi phải khiêm nhường, trừ bốn người tôi đã nói hồi nãy ra, còn bao nhiêu đều có quyền trả lời. Ðừng theo cái nếp bên Ni nhường cho bên Tăng hoài. Khi tôi hỏi, vị nào biết cứ đưa tay, rồi trả lời tôi nghe thử coi. Mấy câu hỏi này dễ lắm, không có gì khó hết.
Trong khi chờ đợi tôi nhắc ít điều cho quí vị nhớ. Tất cả chúng ta thật có phước duyên lớn nên được tu hành trong pháp hội êm ấm thế này. Tôi nghĩ rằng nếu chúng ta ít phước ít duyên thì có lẽ đời tu mình không bao giờ lóe thấy một tia sáng. Ngày nay phước duyên cũng khá sâu dày, nên Tăng Ni tu lâu lâu có những lóe sáng.
Hồi xưa, lúc mới tập ngồi thiền, tôi nghĩ nếu mình ngồi được hai tiếng, thì coi như kết quả “tối thượng” rồi. Tôi lại nhớ đến đức Phật Thích-ca chúng ta, khi ngồi tu dưới cội bồ-đề, ngót bốn mươi chín ngày đêm, đến đêm bốn chín Ngài giác ngộ. Tôi chợt nghi, bốn mươi chín ngày đêm đó Phật ngồi luôn, hay Ngài phải đi tới đi lui giải quyết những vấn đề bình thường của con người. Vì mình đâu bao giờ ngồi được thời gian dài, nên không hiểu nói bốn mươi chín ngày đêm đó là nói thế nào, có ý nghĩa thật hay chỉ có tánh cách biểu trưng.
Rồi thỉnh thoảng tôi đọc sử thấy có vị Thiền sư tọa thiền một lần bảy ngày bảy đêm mới xả. Tôi mới đặt câu hỏi, ngồi bảy ngày bảy đêm rồi bao tử không làm việc sao? Nếu nó làm việc thì đói chịu sao nổi? Các bộ phận khác không làm việc sao? Nếu làm việc thì làm sao ngồi một chỗ được? Ðó là những cái nghi, nghĩ rằng chắc việc đó rất là khó, không biết làm sao mình có thể tin.
Nhưng từ những năm cho Tăng Ni có thời giờ tu, nhất là được nhập thất chẳng hạn, thì giải được cái nghi đó cho tôi. Bởi vì Tăng Ni ở đây tôi không bắt buộc ngồi nhiều, cũng không bắt buộc quên ăn bỏ ngủ, vậy mà vẫn có những người ngồi một mạch bảy tám tiếng, có người ngồi cả mười tiếng hoặc hơn.
Vậy đặt câu hỏi, nếu ngồi mười tiếng đồng hồ thì sao? Các bộ phận trong cơ thể có hoạt động không? Nếu nói về ăn uống thì mười tiếng đồng hồ là đói, thế nhưng không đói. Rồi mọi nhu cầu khác cũng không có gì xảy ra hết. Chúng ta ngồi mới hai tiếng mà cái chân cũng muốn đau rồi, ngồi tới mười tiếng nó đau tới cỡ nào.
Hồi xưa tôi nói nhiều người không tin. Tôi nói mới tập ngồi thiền nhiều lắm là nửa tiếng, lần lần tăng lên, mỗi lần tăng năm mười phút là cay đắng, đau nhức ghê gớm lắm. Nhưng nếu ai lên được hai tiếng sẽ hết tê chân. Mình lấy làm lạ, lẽ ra ngồi lâu thì tê nhiều, không ngờ thật tình tới hai tiếng nó hết tê.
Từ hết tê, mình mới thấy chỗ đặc biệt. Bộ máy của mình cũng khôn ngoan lắm, không sử dụng chỗ này, nó sử dụng chỗ khác, thành ra máu huyết cũng lưu thông chớ không bị tê. Từ đó tôi thấy không phải ngồi nhiều tê chân mà tại vì mình chưa thuần thục nên ngồi mới tê.
Rồi bước qua chuyện ngồi suốt bao nhiêu tiếng mà không ăn không uống thì sao? Giờ thấy một số Tăng Ni ngồi một mạch bảy tám tiếng, có khi cả mười tiếng hơn mà vẫn bình thường không có gì hết. Vậy mới thấy rằng trong khi tu, tâm mình đã an định rồi thì có những điều mình không dám nghĩ mà nó có thể được. Nghĩa là không còn ở trong trạng thái bình thường như trước nữa, mà có thể không cần ăn, không cần uống, rồi cũng không cần tất cả những nhu cầu khác mà vẫn an nhiên, tự tại trong thời gian dài như vậy.
Ðó là kinh nghiệm qua bao nhiêu năm hướng dẫn Tăng Ni. Nhiều khi Tăng Ni có người ngồi thiền hay hơn tôi nữa chứ! Có thể họ ngồi một mạch bảy tám tiếng, còn tôi ngồi hai tiếng hay hai tiếng hơn thôi, không lên nữa, vì tôi không cố ngồi cho nhiều. Tôi ngồi có chừng mực, lấy đó làm căn bản, còn bao nhiêu việc phải làm nữa. Còn chư Tăng chư Ni lúc nhập thất tha hồ ngồi, phải không? Ngồi kéo dài bao lâu cũng không sao, không ai rầy rà gì nên ngồi một cách tự tại, thoải mái. Có người ngồi quên ăn sáng, quên ăn trưa luôn.
Như vậy để thấy chúng ta nhờ tu nên có sức mạnh, gọi là đắc lực. Ðắc lực là được sức mạnh chớ có gì đâu. Có sức mạnh rồi, mình có thể làm chủ con người mình, khiến nó theo ý muốn của mình, đó là chỗ đặc biệt của sự tu. Có tu rồi mới tin được lời của người xưa nói hay những việc làm của người xưa. Còn không tu chúng ta cứ lý luận, suy gẫm theo mình. Căn cứ mình để suy luận thì trật hết, không trúng, điều đó rõ ràng như vậy.
Thôi bây giờ bắt đầu câu hỏi. Quí vị nào lanh trí thì đưa tay trước. Câu hỏi thứ nhất, dễ lắm: Những người cư sĩ nào ở Ấn Ðộ, Trung Hoa, Việt Nam được giới Tăng sĩ nể trọng nhất?
Rồi, ai nhớ thì đưa tay lên. Ờ, Hạnh Duyệt nói coi:
– Kính bạch Thầy, kính thưa quí Thầy, quí Sư cô, theo con biết qua những lời Thầy dạy, ở Ấn Ðộ có ngài Duy-ma-cật, ở Trung Hoa có ông Bàng Long Uẩn, ở Việt Nam có Tuệ Trung Thượng Sĩ, là những người cư sĩ được Tăng Ni biết nhiều.
– Kính trọng nữa chứ, đâu phải chỉ biết không.
– Dạ, kính trọng.
– Ờ trúng rồi, thôi bắt đầu uống sữa đi, uống khai mạc cho tất cả cùng uống. Câu hỏi dễ quá, đâu có khó.
Tôi hỏi câu đó để cho tất cả quí Phật tử cũng như Tăng Ni Việt Nam mình không còn mặc cảm. Lâu nay mình có mặc cảm rằng ở Ấn Ðộ là nơi đức Phật ra đời nên mới có những cư sĩ siêu xuất như ngài Duy-ma-cật. Rồi khi Phật giáo truyền sang Trung Quốc, trong giới thiền học có ông Bàng Long Uẩn và cả gia đình ông đều sanh tử tự tại, được Tăng Ni kính trọng. Mình cũng nghĩ chỉ bên Trung Quốc mới được như vậy. Chúng ta quên rằng ở Việt Nam cũng có một ông cư sĩ khi ra đi cũng tự tại không kém gì, và chỗ thấy đạo trình bày ra Tăng Ni đều kính phục không kém ông Bàng Long Uẩn.
Như vậy để quí vị thấy rằng ở Trung Hoa có những điểm ưu, Phật giáo Việt Nam cũng có được. Ở Ấn Ðộ có những điểm ưu, Phật giáo Việt Nam cũng không kém. Chúng ta mới tin chắc rằng tổ tiên chúng ta ngày xưa tu Phật không thua kém gì các vị Thiền sư nước ngoài.
Gần đây chúng ta hay có mặc cảm, những gì của Phật giáo Trung Quốc, Nhật Bản… thì mình quí, còn ở Việt Nam lại coi thường. Ðó là mặc cảm yếu đuối của mình. Bây giờ chúng ta phải nhìn lại, để thấy rằng Phật giáo Việt Nam cũng không kém.
Ðó là nói người cư sĩ, còn nếu nói về chư Tổ, ở Trung Hoa có các Tổ tịch rồi còn để nhục thân lại, thì ở Việt Nam cũng có những vị tịch rồi để lại nhục thân. Như vậy đâu có gì thua kém! Mà mình còn có điểm hơi đặc biệt chút nữa, không dám nói hơn, nhưng đặc biệt. Ở Trung Hoa chưa có vị vua nào đi tu, còn Việt Nam mình có ông vua đi tu. Ðó là chỗ đặc biệt phải không? Tại sao mình không hãnh diện điều đó mà cứ có tâm hướng ngoại?
Tỉ dụ như tụng sám hối thì quí vị tụng Lương Hoàng Sám. Lương Hoàng Sám là bài sám của ai? – Của vua Lương Võ Ðế, do bà phi của ông mất, ông xót thương, viết Lương Hoàng Sám rồi đưa cho Hòa thượng Chí Công duyệt qua. Còn ở Việt Nam mình ai bày ra bài sám? – Vua Trần Thái Tông ngộ đạo rồi viết ra bài sám. Tại sao bây giờ mình tụng Lương Hoàng Sám mà không tụng Sám Hối Sáu Căn của vua Trần Thái Tông? Ðiều tổ tiên mình làm được mà mình không biết!
Cho nên nhiều khi tôi phàn nàn, cái gì ở Trung Hoa mình cho là số một, còn của Việt Nam thì cho là số không. Thí dụ, xưa tôi ở chùa mỗi lần lạy vía Quan Âm thì câu lạy đó là Nam-mô Phổ Ðà Sơn trước, rồi mới tới Ðại Từ Ðại Bi Quan Thế Âm Bồ-tát. Nghe vậy tôi tự hỏi tại sao đức Quan Âm lại sanh ở Phổ Ðà? Nhưng khi qua Trung Quốc tôi mới thấy Phổ Ðà Sơn là một quả núi, chỉ có một sự tích nho nhỏ, rồi người Trung Hoa dựng lên nói đó là chỗ đức Quan Âm giáng thế độ sanh, vậy khi lạy phải hướng về đó mà lạy.
Còn ở Việt Nam chúng ta, động Hương Tích giờ còn di tích nào là bà Chúa Ba – bà Chúa Ba cũng là hóa thân của Quan Âm – rồi Quan Âm Diệu Thiện, mà mình không nhớ, không biết. Lẽ ra khi lạy vía Quan Âm mình lạy sao? – Nam-mô Hương Tích Ðộng Ðại Từ Ðại Bi Quan Thế Âm Bồ-tát. Như vậy mới phải chứ. Còn chúng ta bây giờ cứ hướng qua Phổ Ðà Sơn lạy hoài mà bỏ quên Quan Âm ở Việt Nam. Bây giờ quí vị ra động Hương Tích còn tìm thấy những tượng đá di tích rõ ràng chớ đâu phải là không.
Ðó, tôi nói để quí vị thấy người Việt Nam mình vì có mặc cảm là một nước nhược tiểu rồi tự coi thường mình quá. Nên tôi muốn cái gì hay của Phật giáo Việt Nam phải làm sao dựng lại, để đừng có mặc cảm thua kém các nước khác. Nhất là trên đường tu, cứ nhớ ở Trung Hoa có các Tổ mà ở Việt nam không biết ai hết. Như vậy là thiếu sót.
Cho nên giờ phải biết Việt Nam cũng có những vị Tổ tu hành hay như vậy chớ không thua. Ðó là điều tôi muốn nhắc nhở cho quí vị, bởi vậy mới có câu hỏi này. Câu hỏi này rất dễ, nhưng vì tôi có ngụ ý đó nên mới nêu lên.
Ðến câu hỏi thứ hai: Người nào nghe hoặc đọc một câu kinh Kim Cang liền ngộ đạo?
Câu này dễ mà khó, chư Tăng có ai nhớ không?
(Quí thầy):
– Kính bạch Sư ông, bên Trung Quốc có Lục tổ Huệ Năng, còn ở Việt Nam mình có vua Trần Thái Tông.
– Trả lời vậy là trúng rồi, nhưng còn thêm điều nữa. Lục tổ Huệ Năng ngộ ở câu kinh Kim Cang “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, phải không?
– Dạ, phải.
– Rồi ngài Trần Thái Tông cũng ngộ ở câu đó. Nhưng hai vị ngộ có khác nhau không? Câu này khó à!
– Bạch Sư ông có khác. Khi Lục Tổ gánh củi ngộ là mới có vào cửa. Còn vua Trần Thái Tông thì ngay khi đó là triệt ngộ.
(Hòa thượng cười):
– Câu hỏi này ban đầu nghe dễ quá nhưng trong đó có cái khó! Cái này tôi giải mới nổi chớ quí vị cũng khó giải.
Khi Lục tổ Huệ Năng được Ngũ Tổ gọi vào thất, nghe giảng kinh Kim Cang đến chỗ: “bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, Ngài liền thốt lên: “Đâu ngờ tánh mình vốn tự thanh tịnh, đâu ngờ tánh mình vốn không sanh diệt, đâu ngờ tánh mình vốn tự đầy đủ…” Năm cái đâu ngờ. Ngay đó Ngũ Tổ biết ngài Huệ Năng đã thấu triệt được Bản tánh, liền truyền y bát và đưa qua sông.
Còn vua Trần Thái Tông đọc kinh Kim Cang cũng đến đoạn đó, Ngài để quyển kinh xuống suy gẫm, bỗng nhiên bừng ngộ. Nhưng Ngài không có kêu lên “đâu ngờ”, mà viết ra quyển Thiền Tông Chỉ Nam. Ðược Quốc sư Phù Vân từ núi Yên Tử xuống thăm, Ngài trình lên. Quốc sư khen: “Tâm chư Phật ở trọn nơi đây…”
Như vậy hai cái ngộ đó có sai biệt chỗ nào?
Thật ra, hai con người đó cũng rất là sai biệt, phải không? Lục tổ Huệ Năng là người tiều phu quê mùa, còn Trần Thái Tông là một ông vua tại vị, hai hoàn cảnh rất là sai biệt. Hai hoàn cảnh rất sai biệt mà ngộ cùng một câu. Vậy hai chỗ ngộ đó khác biệt nhau thế nào?
Theo chỗ thấy của tôi, vua Trần Thái Tông suy gẫm, nghiền ngẫm mà ngộ, cái ngộ đó là giải ngộ, chưa phải triệt ngộ. Còn Lục Tổ, Ngài la lên “đâu ngờ”, đó không phải là ngộ thường.
Câu: “bất ưng trụ sắc sanh tâm…” là để trả lời câu ngài Tu-bồ-đề hỏi Phật: “Làm sao an trụ được tâm?” Ðức Phật trả lời: “Chẳng trụ nơi sắc sanh tâm, chẳng trụ nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên sanh tâm không chỗ trụ.” Nghĩa là: Ðừng để tâm dính với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không có chỗ dính mắc tức là an trụ tâm.
Vua Trần Thái Tông ngộ được chỗ người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tâm không dính mắc với sáu trần, đó là Tâm chân thật. Nhận ra mình có Tâm chân thật hiện hữu gọi là giải ngộ. Còn Lục tổ Huệ Năng nói: “đâu ngờ tánh mình vốn tự thanh tịnh”, là Ngài đã thấy được, sống được tận tường, nói cách khác là Ngài nhảy phóc vào chỗ cứu kính đó, không chỉ nhận rathôi, cho nên Ngài thành Tổ liền. Còn vua Trần Thái Tông ngộ mà chưa thành Tổ.
Ðó là chỗ sâu cạn khác nhau. Cùng nghe một câu kinh, cùng ngộ, mà một bên thuộc về giải ngộ, còn bên kia là triệt ngộ hoặc đại ngộ. Mà đại ngộ là vào được tận nơi, nắm được phần cốt cán chớ không còn nghi ngờ gì nữa. Cho nên đến đó có khi Lục Tổ nói Ngài không còn khởi một ý niệm, một tâm niệm nào dù ở bất cứ hoàn cảnh nào. Không nghĩ, không niệm nên Ngài nói câu: “Phật nói tất cả pháp, để trị tất cả tâm. Ta không tất cả tâm, đâu cần tất cả pháp.”
Tại sao? Vì tâm Ngài rỗng rang thanh tịnh, đâu còn gì mà phải dùng pháp trị. Như vậy câu nói này chứng tỏ khi Ngài nhập được chỗ đó rồi thì ngang đó là thanh tịnh hoàn toàn. Chớ không phải như mình, nhận ra rồi mà mấy chú trộm cắp vẫn còn lẫn lộn ở trong, lâu lâu nó trồi đầu ra, phải rầy la nó mới tạm yên. Ðó là mình mới “giải” thôi, chớ chưa “chứng” được. Nói vậy cho tất cả quí vị hiểu.
Như vậy quí vị thấy tôi có ý chưa? Ở bên kia Tổ Huệ Năng ngộ từ kinh Kim Cang, ở Việt Nam mình cũng có ông vua ngộ từ kinh Kim Cang vậy. Chỉ khác là bên kia triệt ngộ nên làm Tổ, bên này chưa triệt nên chỉ thành Thiền sư thôi.
Ðến câu thứ ba:
– Thần thông và nghiệp lực, bên nào mạnh hơn? Dẫn chứng cụ thể.
À, chú nói nghe coi!
(Quí Thầy):
– Kính bạch Sư ông, con xin trả lời câu thứ ba là nghiệp lực nặng hơn thần thông. Thí dụ như ngài Mục-kiền-liên ở Ấn Ðộ, khi nghiệp lực của Ngài đến thì bị bọn cướp đánh. Lẽ ra Ngài dùng thần thông biến hóa để tránh khỏi, nhưng mà nghĩ lại, thần thông không thể giúp được mình, cho nên kiếp cuối cùng đó Ngài trả hết các nghiệp, rồi Ngài về… à… về… à… về… (cả chúng cười).
– Người ta nói trúng mà cũng cười.
– Và Ngài về… à… về tinh xá Ngài nhập Niết-bàn.
– Ðó cũng là có nhớ, là nói trúng rồi, không có sai, nhưng vì nói chưa quen nên lúng túng vậy thôi.
Giờ tôi lặp lại cho quí vị thấy rõ: Thần thông và nghiệp lực cái nào mạnh hơn? Ðây tôi nói “mạnh” chớ không nói “nặng”. Ðúng là nghiệp lực mạnh hơn thần thông.
Tôi sẽ nói từ từ. Thông thường ai cũng nghĩ thần thông là mạnh, như trong Lục thông có Tha tâm thông, Thần túc thông…, muốn to bao lớn cũng được, nhỏ chừng nào cũng được, muốn vô trong nước hoặc đi trên mây đều được, hay vận sức mạnh làm cho quả đất rung rinh cũng được. Vậy là quá mạnh rồi, tại sao lại thua nghiệp lực, thua sức mạnh của nghiệp?
Ðó là điều chúng ta phải nghĩ cho kỹ. Bởi vì đa số người tu mình lúc nào cũng hơi thầm ước mơ có được thần thông, tu làm sao để biết được tâm người này người kia, tức là muốn được Tha tâm thông. Người ta nghĩ gì mình biết liền, hay quá! Nhưng mà quên rằng biết tâm người ta làm chi, biết tâm của mình đi chứ! Không lo biết tâm mình lại muốn biết tâm người khác, đó là lỗi lầm rất lớn.
Cho nên muốn được Tha tâm thông trước phải tự tâm thông. Chúng ta thông được tâm mình rồi thì nghiệp mới giảm, chớ biết tâm người ta rồi có khi còn tăng nghiệp thêm.
Thần thông rất mầu nhiệm, cho nên trong kinh thường nói thần thông diệu dụng, nghĩa là nó có cái dụng nhiệm mầu, không thể lường được. Các tôn giáo khác hay các nhóm tu khác thường thích được thần thông và quí trọng thần thông. Ngược lại, đạo Phật không đặt nó làm quan trọng. Tại sao vậy? – Vì đức Phật thấy cái đó chưa đưa mình tới giải thoát.
Ðức Phật có nói những người tu theo đạo khác cũng có thể chứng Ngũ thông, chỉ có cái thứ sáu là lậu tận thông họ chưa chứng được thôi. Nếu bây giờ mình đặt thần thông là quan trọng thì cũng như các đạo khác rồi, cho nên nhà Phật không xem nó là quan trọng. Trái lại Phật còn hạn chế trong chúng Tỳ-kheo hay Sa-di, ai tu có được Lục thông rồi mà muốn sử dụng thần thông thì trước phải xin phép. Nếu có Phật thì xin Phật, chừng nào cho phép mới được dùng, không có Phật thì phải xin phép vị trưởng lão trong đoàn của mình.
Tôi nhớ đọc trong Tạp A-hàm, có một đoạn kinh kể lại: Một hôm chư Tăng đi thọ thực tại nhà một Phật tử ở xa, thọ trai xong các vị trở về tinh xá. Hôm ấy trời nóng bức quá, người nào người nấy đổ mồ hôi ướt áo. Trong đó có vị Tỳ-kheo nhỏ nhất đã chứng Lục thông, ông muốn dùng thần thông cho mây kéo mù mịt rồi mưa lất phất để chư Tăng đi được khỏe, khỏi bị nắng gắt đổ mồ hôi. Nhưng muốn vậy trước hết Sư phải xin phép vị trưởng lão.
Vị trưởng lão nói:
– Ông có thể làm như vậy thì tốt lắm!
Ông Tỳ-kheo nhỏ nhất dùng thần thông, một lát sau có mây kéo tới, mưa lâm râm, gió mát, đi về khỏe ru.
Như vậy thần thông cũng cần nhưng phải cho phép mới được dùng. Còn ngược lại, quí vị đọc sử thấy ngài Ðặng Ẩn Phong chết thế nào? Lúc sắp tịch Ngài hỏi huynh đệ trong chúng:
– Xưa tới giờ có người nào đứng chết hay không?
– Dạ, có.
– Có người nào lộn ngược chết không?
– Dạ, chưa từng thấy.
Ngài liền trồng chuối, đưa hai chân lên, cắm đầu xuống tịch. Tự tại như vậy còn ai hơn. Khi mọi người tới đỡ xuống để đưa vô quan tài thì xô không ngã. Sư có một người em gái là cô Ni, cô lại nắm thân Sư, trách:
– Sư huynh khi sống đã phạm luật, bây giờ chết còn làm mê hoặc người!
Rồi xô té ngã.
Cô Ni nói Sư phạm luật là sao? – Do ngày trước, có lần Sư đi lên Ngũ Ðài Sơn, chợt thấy quân của triều đình đang đánh nhau với một nhóm quân phản loạn. Sư nghĩ: Thôi giải hòa cái đám này! Bèn quẳng cây gậy lên hư không rồi phi thân lên, cầm cây gậy bay qua. Dưới này tướng sĩ hai bên thấy vậy, tâm tranh đấu dứt sạch, liền rút quân hết.
Như thế là Sư đã sử dụng thần thông để giảng hòa, mà việc đó cô Ni em Sư vẫn nói là phạm luật, phạm giới. Vì dùng thần thông mà không xin phép trưởng lão, rồi nay lại dùng thần thông đưa chân ngược lên trời tịch.
Vậy, dùng thần thông mà không được phép là phạm lỗi, phạm luật. Còn chết mà làm kỳ quái như vậy là mê hoặc người.
Quí vị thấy đức Phật đầy đủ thần thông và oai lực mà Ngài chết thế nào? Ngài cũng bị kiết lỵ, rồi kiệt sức từ từ và chết như mọi người chớ không có gì lạ. Người ta thấy vậy tưởng đâu các vị Thiền sư sau này hay hơn Phật. Có hay hơn không?
Ðức Phật thường nói rằng Ngài từ thủy chí chung là một con người, nhưng là một con người giác ngộ, chớ không nói con người thần thông. Ðức Phật nói: “Ngoại đạo ưa thần thông còn ta chỉ thích đạo thông.” Như vậy là Ngài lấy giác ngộ làm gốc.
Thân này sanh, già, bệnh, chết không chối cãi được, vậy thì cứ chết như mọi người chớ có gì đâu. Dùng trí tuệ để thấy biết đúng lẽ thật còn hơn là những thứ huyền hoặc. Do đó Phật không có những cái huyền hoặc mà chỉ dùng trí tuệ giải quyết mọi vấn đề.
Lúc cuối đời, Phật nằm nghiêng bên phải rồi nhắm mắt tịch như ai vậy, trước đó cũng bệnh nữa. Nếu Ngài có thái độ kỳ đặc, bây giờ giả sử ai tu đạt đạo mà chết bình thường thì nói ông đó chắc không phải thứ thật, thua đức Phật. Thà Phật tịch một cách bình thường như bao nhiêu người, sau này đệ tử có làm kỳ quái thì cũng không ai dám nói người đó hơn Phật, vì đồ đệ làm sao hơn được.
Ðó là cái đặc biệt trong đạo Phật. Ðạo Phật không dùng điều kỳ quái mà chỉ muốn dùng trí tuệ thấy đúng như thật con người và mọi vật. Chúng ta tu làm sao để mở sáng con mắt trí tuệ, đối với người, với cảnh chúng ta không bị lầm lẫn, không bị những điều giả dối làm mình phải say mê. Ðó là chỗ chủ yếu của đạo Phật.
Nên nói tới đạo Phật, cái trọng tâm trên hết là giác ngộ chớ không phải thần thông. Tất cả chúng ta tu Phật phải nắm vững điều đó. Nắm vững điều đó thì đường tu của chúng ta mới đúng đạo lý.
Sau này có thể khi chết tôi còn thua mấy chú nữa. Chú nào thích lạ bèn chết kiểu đặc biệt và người ta có thể nghĩ: “Ôi thôi Thầy đau Thầy chết, còn ông kia chết không đau mà còn có những cái kỳ đặc!” Vậy là người trước thua người sau, phải không? Nhưng mà sự thật không phải. Trọng tâm của sự tu là giác ngộ, thấy được tường tận, đúng với chân lý. Ðó là trên hết, còn những hiện tượng kia chưa phải là cao. Hiểu vậy rồi, người tu Phật cần tránh căn bệnh ham thần thông.
Hồi nãy chú T.Ð dẫn chứng cụ thể là ngài Mục-kiền-liên. Ngài Mục-kiền-liên có hai vấn đề tôi thường hay nêu:
Vấn đề thứ nhất, Ngài được Lục thông, nên dùng thiên nhãn tìm coi mẹ Ngài đang ở nơi nào. Thấy mẹ đang bị đày đọa trong loài ngạ quỉ, tức là quỉ đói, Ngài xót xa trong lòng, liền đi khất thực được một bát cơm, vận thần thông bay thẳng đến chỗ mẹ đang bị đọa đày, dâng bát cơm cho mẹ.
Làm được như vậy là quá hay rồi, nhưng khi dâng bát cơm, mẹ Ngài vừa mới bốc cơm đưa vô miệng, cơm liền hóa thành lửa, thành ra đưa cơm tới miệng mà ăn không được. Sao lúc đó Ngài không dùng thần thông thổi cho lửa tắt, phải không? Như vậy, nghiệp của bà là nghiệp tham lam bỏn sẻn, nên thấy cơm thèm ăn mà cơm vừa đến miệng liền hóa lửa. Ðó là nghiệp.
Ngài Mục-kiền-liên có thần thông đem cơm tới cõi ngạ quỉ, nhưng không giải được cái nghiệp cho mẹ. Như vậy cái nào mạnh? – Nghiệp mạnh. Nếu nghiệp yếu thì Ngài đã dùng phép thổi tắt lửa để mẹ được ăn no, nhưng Ngài làm không được điều đó. Như vậy thần thông không thể thay đổi được nghiệp người khác.
Thứ hai là thần thông không chuyển được nghiệp của mình, không thay đổi được nghiệp của mình. Khi ngài Mục-kiền-liên sắp tịch, có lần Ngài đi khất thực giữa đường bị một đám người vây đánh. Lúc đó nếu Ngài vận thần túc thông bay tuốt lên trời thì họ khỏi làm gì, phải không? Nhưng không vận thần thông được vì nợ trước phải trả. Thân A-la-hán là thân cuối cùng, nên bao nhiêu nợ trước phải trả hết rồi mới nhập Niết-bàn. Cái nghiệp tới đó phải trả, thần thông dùng không được. Bị người ta đánh tan thân nát thịt, Ngài dùng thần thông gom các mảnh vụn của thân thể lại, bay về tinh xá, đảnh lễ Phật và xin phép nhập Niết-bàn.
Vậy mới thấy thần thông không cứu được người thân của mình, và không cứu được bản thân mình khi nghiệp đã đến, quí vị thấy chưa? Thí dụ người ta nói ở Tây Tạng có nhiều vị Sư tu có thần thông, nhưng khi quân đội Trung Quốc kéo qua rồi cũng bó tay. Nếu dùng thần thông hóa lửa hay hóa gì đó phun ra thì có ai tới được, nhưng không thể làm được, nghiệp tới rồi phải chịu thôi.
Như vậy thần thông để làm gì? – Ðể đùa chơi cho vui thôi, chớ thật sự nó không giải quyết được gì. Vì vậy nhà Phật không đặt nặng thần thông, mà phải chuyển nghiệp của mình. Phải chuyển từ xấu trở thành tốt, từ nhơ thành sạch, đó mới là điều quan trọng, chớ thần thông không cứu được mình.
Ðó là ba câu tôi hỏi quí vị. Ba câu hỏi dễ không? – Dễ, nhưng cũng có cái không dễ trong đó. Nãy giờ quí vị uống sữa hết chưa? Uống hết đi chứ, tất niên mà, phải “tất” hết, cái gì cũng xong xuôi.
Như vậy hôm nay là buổi tất niên của Thiền viện Trúc Lâm, tất niên của năm Ðinh Sửu, chuẩn bị qua năm Mậu Dần. Bữa nay mình nói chuyện cũ, mai sẽ nói chuyện mới. Hôm nay tất cả Tăng Ni và Phật tử có mặt ở đây chưa chúc tụng nhau, để dành mai mới chúc. Hôm nay chúng ta chỉ kiểm lại những điều hay và dở trên đường tu của mình trong một năm qua. Kiểm lại thấy có nhiều điểm rất ưu, cũng không tránh khỏi một hai điều khuyết.
Ðó là nhìn chung, còn riêng phần tôi, tôi thấy năm nay được vui nhiều, có buồn cũng chút chút thôi. Như vậy đối với tôi thì “lãi”, chớ không “thiệt”. Mấy hôm giảng ở ngoài Bắc, tôi nói “lời, lỗ”, thấy người ta không hiểu, phải nói “lãi, thiệt” để cho người ta hiểu. Bây giờ tập nói để mai mốt ra Bắc giảng khỏi có lộn. Như vậy là tôi lãi chớ không có thiệt.
Vậy chúng ta qua một năm, kết quả sự tu tiến rõ ràng, rất vui chớ không đến nỗi chỉ có những điều buồn. Nếu đời tu của chúng ta, kiểm điểm từng năm thấy có những bước tiến như vậy thì chắc chắn chúng ta sẽ tiến tới và sẽ đạt được mục đích hoặc sớm hoặc muộn, không nghi. Ðó là điều đáng mừng.
Vậy mong rằng tất cả Tăng Ni chuẩn bị để năm mới mình tiến hơn nữa. Cũng như quí Phật tử, năm này tiến được chút chút, năm tới phải khá hơn chớ không chút chút nữa, phải tiến mạnh, tiến nhiều. Như vậy chúng ta tu mới khỏi hoài công. Nếu mình tu mà không ra gì thì uổng một đời tu không có kết quả. Ðó là sự mong mỏi của tôi. Ngày mai sẽ nói nhiều hơn, thôi ngang đây nghỉ.
Lễ Chúc Tết Mậu Dần
(Thầy Quản chúng nội viện Tăng)
Kính bạch Thầy,
Hôm nay nhân ngày đầu năm mới, thuận theo thế tục, ở trong nhà đạo chúng con toàn thể Tăng Ni và Phật tử đồng câu hội về trước Thầy, kính dâng lên lời tác bạch mừng tuổi đầu năm. Ngưỡng mong Thầy chứng minh cho chúng con.
Kính bạch Thầy,
Hôm nay là cái Tết thứ năm tại Thiền viện Trúc Lâm này, toàn thể chư Tăng chúng con lại được quì trước Thầy, được trực tiếp nhìn thấy Thầy để kính dâng lên lời mừng tuổi đầu xuân. Ðây là niềm vui trước nhất của chúng con.
Song năm nay chúng con không chúc Thầy bằng những lời cầu chúc lặp đi lặp lại trên chữ nghĩa theo thường lệ, cũng như những lời xin hứa… xin hứa…, mà chúng con kính dâng lên Thầy những niềm vui của huynh đệ chúng con đã nỗ lực công phu tiến tu có được.
Chúng con thầm nghĩ rằng: Chính đây mới là những lời cầu chúc đầy đủ ý nghĩa nhất, sẽ đem lại niềm vui thật sự cho Thầy. Bởi hơn hai mươi năm qua, kể từ khi Tu viện Chân Không được thành lập cho đến ngày nay, Thầy đã dồn hết tâm lực để lo lắng cho chúng con tu hành, mong làm sống dậy con đường Thiền tông Việt Nam đã bị quên lãng từ lâu nay, cũng như Thầy hằng mong mỏi kết quả tu hành ở chúng con.
Hôm nay những kết quả đó đã có được, dù rằng chưa phải là những kết quả viên mãn sau cùng. Nhưng sống giữa thời mạt pháp, cách xa đức Phật hơn hai ngàn năm trăm năm như thế này, hầu hết mọi người đều tưởng rằng không bao giờ có được những tin tức ấy, mà năm nay lại có được thì cũng có thể tạm nói là quá hi hữu.
Từ đó chúng con đã có được niềm tin vững mạnh để tiến tới, cũng như chứng nghiệm rõ ràng đường lối mà Thầy đã hướng dẫn cho chúng con đang đi là có hiệu quả thật sự, có thể thể nghiệm ngay hiện tại đây, chớ không phải chỉ có trên những lời giảng nói, hay phải đợi sau khi chết. Chính đây là điểm khích lệ lớn lao cho chúng con hiện tại, cũng như cho những người sẽ bước theo sau, đầy đủ niềm tin rằng nếu ai đã thực hành đúng đắn cũng đều có những kết quả lợi ích thiết thực không nghi ngờ.
Kính bạch Thầy,
Trên đây là những lời chân thành bộc bạch của chúng con kính dâng lên Thầy nhân ngày đầu năm mới này, để thay cho lời chúc mừng năm mới của chúng con đối với Thầy. Kính mong Thầy từ bi chứng minh.
Tiếp theo chúng con kính mong Thầy từ bi ban cho chúng con những lời nhắc nhở tiến tu đầu năm, để chúng con được khích lệ tinh tấn thêm hơn trong năm tới.
Sau cùng toàn thể chúng con đồng nhất tâm hướng về Tam Bảo, cầu nguyện Tam Bảo gia bị cho Thầy sức khỏe luôn được dồi dào, tứ đại an hòa, thành tựu được những Phật sự như ý.
Ngưỡng mong Thầy từ bi chứng minh và nạp thọ cho chúng con được ân triêm công đức.
(Ni sư Quản chúng nội viện Ni)
Ngưỡng bạch Thầy,
Hôm nay là ngày đầu năm, như lời thầy Quản chúng đã chúc Thầy quá đầy đủ, vậy con xin chúc những lời chúc xuân thường lệ.
Toàn thể Ni chúng chúng con ra trước đây xin đê đầu đảnh lễ Thầy và kính dâng lên Thầy lời chúc mừng năm mới. Chúng con thành tâm kính chúc Thầy pháp thể khinh an, tuệ đăng thường chiếu, hầu dẫn dắt chúng con trên bước đường giải thoát.
Kính bạch Thầy, chúng con đủ duyên lành được dự vào pháp hội của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử và được Thầy nuôi lớn giới thân tuệ mạng bằng những dòng sữa pháp tươi mát ngọt ngào. Chúng con khác nào như người lữ hành đang đi trên sa mạc giữa trưa hè bỗng gặp được tàn cây che mát và suối nước trong. Ôi! Thật là phước lành nhiều đời của chúng con!
Kính bạch Thầy, mặc dù tuổi Thầy đã cao, sức khỏe đã mòn, nhưng với tâm lão bà tha thiết tột cùng, Thầy vẫn không ngừng giảng dạy để vạch bày chỗ thâm sâu, chỉ thẳng lý huyền mong cho chúng con thấu được và sống được với chính mình. Cảm niệm thâm ân này nên lòng chúng con luôn cưu mang thao thức, qua những tháng năm dài nhìn lại tuổi đời chồng chất mà đạo nghiệp còn xa. Mặc dù trong khi tu chúng con cũng có được niềm vui, có lóe sáng và đôi khi cũng bừng vỡ, nhưng đó chỉ là những cảm ngộ nhẹ, chưa phải là mục tiêu của Thầy mong muốn.
(Ðại diện Phật tử)
Kính bạch Thầy,
Hôm nay là ngày đầu xuân Mậu Dần – 1998, đất trời hòa nhịp đón xuân sang, người Việt Nam vui vẻ đón xuân theo truyền thống cổ truyền của dân tộc. Ðây cũng là truyền thống của những dân tộc ở phương Ðông.
Kính bạch Thầy, trong không khí đầm ấm an hòa của ngày đầu năm, toàn thể Phật tử chúng con xin thành kính đảnh lễ chúc mừng Thầy sức khỏe và hoan hỉ.
Theo quan niệm thông tục, mỗi năm, mùa xuân bắt đầu cho sự vận hành miên viễn của vũ trụ không gian và thời gian tương ứng, giới hạn tối đa kiếp sống con người chừng trăm năm, nhưng thật ra cũng hiếm thấy người đời đến được trăm tuổi.
Là đệ tử của Phật, qui y Tam Bảo, chúng con quay về nương tựa Phật Pháp Tăng, thông qua học hỏi hành trì mà hiểu được sự vật và thế giới là vô thường sanh diệt liên tục. Nhưng phải thường xuyên nhận biết trong cái vô thường có cái thường thì mới an trụ trong chánh pháp. Ðó là nương vô thường sanh diệt mà đạt được thường, lạc, bất sanh bất diệt, trở về quê hương gặp lại chính mình. Ðó là “phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc” của Thượng sĩ Tuệ Trung mà Thầy thường nhắc nhở chúng con.
Dù vậy, chúng con vẫn thấy còn có sự khác biệt giữa hai thái độ: quan niệm vô ngã và sống thật vô ngã. Thế giới vô thường, chúng sanh vô ngã, nhưng cuộc sống thường nhật chúng con hầu như luôn là hữu ngã, nên đau khổ vẫn triền miên, có an lạc đó rồi lại khổ đau đó.
Nguyên nhân sâu xa là do không chịu tu tập, hoặc tu tập không tinh tấn, tâm niệm chánh tà xen nhau liên tục, lúc có lúc không, thế nên từ vô lượng kiếp đến nay cứ làm kẻ cùng tử lang thang trong luân hồi lục đạo, luôn mang trong mình viên minh châu quí báu nhưng không nhận ra được, đói rách vẫn cứ đói rách, chẳng khác nào người đếm tiền thuê ở ngân hàng, lui về tay trắng nằm không. Có lúc chúng con chợt thốt lên rằng:
Ngọc ơi ngọc ở đây này,
Sao còn đuổi bắt đọa đày mà chi.
Ngước lên đức Phật từ bi,
Hoa khai nhãn tạng chứng tri rõ ràng.
Hình ảnh niêm hoa vi tiếu trên núi Linh Thứu xưa vẫn là hình ảnh bây giờ và ở đây. Nếu tạm phân phương diện tục đế thì thời gian là búa vô thường ngày đêm cứ việc tàn phá mọi hình hài và sự vật. Thêm một năm Thầy già đi một tuổi, công đức đào tạo hướng dẫn Tăng Ni và Phật tử càng sâu thì sức khỏe Thầy càng giảm. Ðó là sự nghiệp hoằng dương chánh pháp của Thầy.
Vẫn biết đây chỉ là biểu hiện của Bồ-đề tâm và đại bi tâm, nhưng chúng con mạn ý Thầy nêu lên có ba vấn đề quan trọng trong quá trình xiển dương chánh pháp, làm rạng rỡ tông môn, làm sáng tỏ đạo Phật Việt Nam. Ðó là:
Một là thiết lập và xây dựng môn qui ở các Thiền viện, tạo nơi tu tập ổn định cho Tăng Ni Phật tử, sáp nhập đường lối tu và làm sáng tỏ Thiền tông Phật giáo Việt Nam.
Các Thiền viện không những là nơi tu thiền mà còn là những công trình văn hóa của Phật giáo và dân tộc Việt Nam. Ðây là những công trình mang đậm nét bản sắc dân tộc, ai đến đây đều cảm nhận được điều đó. Dù đi nam, đi bắc, đi trung, dù đông tây đôi ngả mịt mù, nhưng ai đã đến Ðà Lạt đều phải tìm cách đến núi Phụng Hoàng chiêm ngưỡng công trình Thiền viện Trúc Lâm, tận hưởng những giờ phút an lạc tuyệt vời, có thể nói rằng:
Mái chùa cong vút lên cao,
Tháp chuông đứng lặng Phụng Hoàng là đây.
Hồ xanh chen lẫn núi mây,
Ở đây thanh thản lòng nghe nhẹ nhàng.
Vấn đề thứ hai là các bản dịch và trước tác của Thầy, công trình này đã hình thành tư liệu cụ thể góp phần xây dựng tủ sách Thiền học Phật giáo Việt Nam. Theo thiển ý của chúng con là nên có sự phân công và tổng hợp có hệ thống, để về sau này những ai có chí nguyện nghiên cứu và tu tập Thiền tông có điều kiện dễ dàng học hỏi và nhanh chóng thâm nhập.
Ðiểm thứ ba, truyền đăng tục diệm là hình ảnh nói lên sự liên tục của ngọn đèn pháp, thế gian thường gọi tre già măng mọc, mạch sống Thiền tông không dứt đoạn thì gọi là truyền đăng tục diệm.
Phật giáo Việt Nam đã bao lần suy thạnh trong lịch sử, Phật giáo đời Trần là giai đoạn Phật giáo nổi bật nhất và thạnh nhất. Nguyên nhân cơ bản là bắt đầu từ sức mạnh Thiền tông, khẳng định được mình, biết rõ mình là ai. Tính độc lập tự chủ được thể hiện trên cơ sở tự thắng được mình. Dân tộc Việt Nam giành được độc lập tự chủ, ba lần chiến thắng quân Nguyên cũng trên cơ sở đường lối này.
Ngày nay Thầy khôi phục Thiền tông đời Trần, khẳng định đường lối tu, tiếp tục phát huy cái hay cái đẹp và sức sống của người xưa, từ bi chỉ dạy mọi người nương theo để tiếp bước trên đường học đạo, nương theo phương tiện truyền thừa đến bến bờ giải thoát. Thật là đại nguyện, đại từ bi tâm!
Vẫn biết Thiền sư Vạn Hạnh đã dạy:
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Nhưng tâm lý thường tình thế gian ai không cảm xúc, không lo lắng khi nghĩ đến Thầy đâu thể sống hoài. Vì vậy chúng con nghĩ rằng truyền đăng tục diệm là vấn đề quan trọng nhất để tiếp tục duy trì và phát triển mạnh mạch sống Thiền tông Việt Nam.
Ðó là ngọn đèn thiền tăng thêm sức mạnh cho đại chúng, có như thế Phật tử chúng con ngày một ân triêm công đức, có nơi nương tựa lâu dài để gột sạch phiền não, xóa dần nghiệp chướng sâu dày, thừa hưởng pháp lạc của Phật Tổ. Về phía chúng con ra sức tinh tấn tu học, cùng nhau sách tấn để tiến bộ thêm hơn.
Cuối cùng Phật tử chúng con kính chúc Thầy và đại chúng thân tâm thường an lạc, mong Thầy từ bi tiếp nhận.
(Hòa thượng)
Qua những lời chúc Tết của Tăng Ni và Phật tử nhân ngày Nguyên đán năm Mậu Dần, chúng tôi sẽ có ít lời nhắc nhở tất cả quí vị trên đường tu. Những lời nhắc nhở này cũng là lời chúc Tết đầu năm cho tất cả quí vị.
Như lời của Quản chúng bên Tăng nói rằng năm này không chúc tết tôi theo lối thông thường bằng lời hứa mà không thực hiện được, hoặc bằng những ngôn ngữ đẹp mà trống rỗng, chỉ chúc Tết tôi bằng hành động là sự tu hành của chúng Tăng với những kết quả dù khiêm tốn nhưng đủ dâng cho tôi lấy làm niềm vui trong ngày đầu năm. Ðó là điều tôi rất hài lòng.
Như tôi từng nói với Tăng Ni là suốt đời tôi làm Phật sự, mà Phật sự thì quá rộng, quá lớn, tất cả chúng sanh đều là mục tiêu để mình truyền bá chánh pháp, chớ không riêng một nơi, một chốn, một số người nào. Nhưng đời tôi nếu có làm được gì thì cũng hạn chế trong một phạm vi, một nơi chốn, chớ không thể rộng rãi hơn. Vì vậy tôi trông cậy ở người sau khá nhiều. Nếu người sau tôi sự tu hành không tiến bộ, không đạt kết quả thì đó là thất vọng lớn trong đời tôi.
Quí vị thấy năm này là tôi đã sống được ba phần tư thế kỷ rồi, phần còn lại chắc cũng không bao nhiêu. Cho nên tôi đang trông đợi, nhất là trong giới xuất gia, Tăng và Ni, quí vị tu thế nào cho có kết quả, dù chưa được mãn nguyện như ý nhưng cũng phải được một phần ba hay phân nửa chỗ mình mong đợi. Ngày nay rõ ràng qua sự kiểm nghiệm tôi thấy điều đó đã đi đến chỗ cụ thể chớ không còn là ước mơ suông nữa. Ðó là một điều rất vui. Mai kia tôi theo Phật thì ở lại đây còn có khá nhiều người thay tôi làm những Phật sự tôi đang làm dở dang.
Như vậy kể từ đây về sau, nếu chư Tăng, chư Ni, cũng như quí Phật tử, mỗi năm mỗi tiến, tiến đều và tiến vượt bậc, thì chắc rằng tới ngày cuối cùng ra đi, tôi chỉ cười chớ hết buồn lo. Ðó là chỗ tôi hi vọng. Năm này tiến được một bước, những năm tới sẽ đôi ba bước, và có thể sẽ đi khá xa trên con đường mà quí vị quyết tiến.
Qua kinh nghiệm, tôi thấy trong Tăng Ni nhiều người có những bước tiến có thể nói là đáng tin cậy. Do sự tiến bộ đó mà gần đây tôi rất vui, vui về hai mặt:
– Thứ nhất là sự truyền bá và đường lối giáo hóa của tôi ngày nay có chứng cứ chớ không phải chỉ nói suông.
– Thứ hai là tôi mất mà con đường truyền bá không mất. Nó sẽ tiếp tục. Chúng ta đang trong thời mạt pháp, mạt pháp không phải là Phật pháp bị hoại diệt, mà là lúc giáo pháp đến kỳ suy thoái. Trong thời Phật pháp suy thoái mà vẫn còn có một số người cố vươn lên làm được những việc bảo tồn giá trị của chánh pháp, thật là điều rất hi hữu, rất đáng mừng, nên đó là niềm vui của tôi.
Vậy hôm nay qua sự phát nguyện, trình bày của Tăng Ni và Phật tử, tôi thấy đó là điều đáng cho tôi vui mừng khi bước sang năm mới.
Sang năm mới này, tôi sẽ nhắc nhở điều gì để quí vị đi vững vàng trên con đường mình đang tiến?
Hôm nay, tôi chỉ mượn một hình ảnh trong kinh Pháp Hoa để nhắc nhở tất cả quí vị. Ðó là hình ảnh Ðề-bà-đạt-đa.
Mới nghe tên Ðề-bà-đạt-đa chắc quí vị mất cảm tình liền, phải không? Ai nghe tới tên ông cũng chán, không thích, nhưng ở đây tôi lại dẫn. Trước khi nói ngài Ðề-bà-đạt-đa, chúng tôi dẫn xuất xứ để quí vị nghe nhớ rồi hiểu sâu hơn.
Ðọc trong các bộ kinh A-hàm, Ðề-bà-đạt-đa nhiều lần dùng phương tiện này, cách thức nọ để hại Phật. Cuối cùng ông lại xúi vua A-xà-thế thả voi say đón đường hại Phật, với mục đích là giết Phật chết để ông thế ngôi vị của Phật. Ðồng thời Ðề-bà-đạt-đa xúi vua A-xà-thế giết hại Vua cha để lên làm vua.
A-xà-thế là đệ tử của Ðề-bà-đạt-đa. Như vậy hai thầy trò, trò nắm quyền quốc vương, thầy nắm quyền giáo chủ truyền bá trong thời đó. Vậy nên dùng đủ mọi cách để phá hại Phật, mà quan trọng nhất là thả voi say chà Phật. Nhưng khi voi hung hăng chạy đến, do đức từ bi của Phật cảm hóa, nó không hại Phật, trái lại còn quì đảnh lễ Ngài.
Qua những lần Ðề-bà-đạt-đa tìm cách hại Phật như vậy, các vị đệ tử lớn bèn thưa hỏi: “Ðề-bà-đạt-đa mới một đời này hại Phật, hay đã nhiều đời như vậy rồi?” Ðức Phật kể rằng: “Ðã nhiều kiếp ta ra đời làm hạnh Bồ-tát, thì Ðề-bà-đạt-đa là người phá hại ta rất mạnh mẽ, nguy hiểm.” Mà đời nào gặp cũng phá hại hết, cho tới chuyến chót này thành Phật cũng gặp Ðề-bà-đạt-đa phá hại lần cuối cùng.
Nghe như vậy tôi hơi ngạc nhiên. Trong A-hàm có một bài kinh, kể lại sau khi đức Phật thuyết pháp cho đại chúng nghe rồi, có một vị hỏi: “Với mắt Phật thấy Ðề-bà-đạt-đa sau này chết có thể khỏi đọa địa ngục hay không?” Phật trả lời: “Ta xét lại thì Ðề-bà-đạt-đa không có một điểm nào thiện hết, làm sao thoát khỏi địa ngục?” Ðó là lời hỏi của ngài Ma-ha-nam, là bà con của Ðề-bà-đạt-đa, sợ ông bị đọa nên hỏi Phật như thế.
Như vậy Ðề-bà-đạt-đa theo kinh A-hàm là một người tội lỗi ngập đầu, tức là phạm tội ngũ nghịch phải đọa địa ngục. Nhưng tôi lại nghi. Trong kinh thường dạy, người tu chân chánh, người đạo đức, thành thật, nếu có ai đó tìm mưu kế phá hại thì người phá hại đó sẽ đọa địa ngục, không phải một đời mà đọa nhiều kiếp. Hại người tu chân chánh thôi còn đọa như vậy, huống nữa Phật tu hạnh Bồ-tát mà phá hại Ngài, thì thử hỏi chết bị đọa tới cỡ nào?
Một đời phá hại Phật, khi chết phải đọa địa ngục tới trăm ngàn muôn kiếp mới trở lại. Vậy mà không biết tại sao hễ Phật ra đời là có Ðề-bà-đạt-đa. Nếu trăm ngàn muôn kiếp ông mới được trở lại làm người, thì tại sao đức Phật mỗi đời này qua đời kia tiếp tục làm hạnh Bồ-tát đều có mặt Ðề-bà-đạt-đa để phá hoài như vậy? Tôi hơi ngạc nhiên chỗ đó.
Nhưng đọc kinh Pháp Hoa, tới phẩm Ðề-bà-đạt-đa thì chúng ta lại thấy khác. Chính trong kinh đức Phật nói: Trong vô lượng kiếp về quá khứ, Ngài làm vua, vì cầu Vô thượng Bồ-đề thường bố thí ngoại tài, nội tài v.v… sau cùng bỏ ngôi Vua để cầu được học pháp Ðại thừa. Có một vị tiên nhân đến nói rằng: “Ta có pháp Ðại thừa, nếu Ðại vương không trái ý ta, ta sẽ dạy cho.”
Nghe vậy Ngài mừng quá xin đi theo vị tiên nhân. Từ đó Ngài hầu hạ tiên nhân suốt ngày đêm không mỏi mệt: hái trái, gánh nước, nấu ăn… cho đến lấy thân làm giường ghế cho tiên nhân, Ngài đều hi sinh phụng thờ không mệt mỏi. Rồi đức Phật bảo các Tỳ-kheo: “Thuở ấy, Vua chính là thân ta, còn tiên nhân nay chính là ông Ðề-bà-đạt-đa. Ta nhờ thiện tri thức Ðề-bà-đạt-đa mà được đầy đủ sáu pháp ba-la-mật, Tứ vô sở úy, Thập bát bất cộng v.v… thành bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như vậy Ðề-bà-đạt-đa là thiện hữu tri thức bậc nhất của ta.”
Quí vị nghĩ sao? Ðề-bà-đạt-đa là người tội lỗi số một hay là thiện hữu tri thức số một của Phật? Ðó là một nghi vấn tôi xin đặt ra với quí vị. Nếu theo quan niệm lâu nay thì chúng ta nói tội lỗi số một, phải không? Nhưng với cái nhìn của Phật, trong kinh Pháp Hoa thì là thiện tri thức số một.
Như vậy chúng ta phải nhận xét thế nào cho đúng với giá trị của Ðề-bà-đạt-đa? Nếu ông là người có ác tâm hại Phật, tức phải là người tội lỗi số một. Nhưng nếu Ðề-bà-đạt-đa do tâm trợ đạo, giúp cho Phật mau thành chánh quả, tạo đủ mọi cách làm trở ngại để Phật vượt lên và vượt nhanh hơn, mau chóng thành Phật, thì Ðề-bà-đạt-đa là người có công số một, phải không?
Như vậy, quí vị nghĩ trên đường tu của chúng ta, người có công lớn với chúng ta là người nào? Người nuôi mình đủ ăn đủ mặc và yêu cầu mình ráng tu, khi mình buồn thì khuyên nhắc để vui lên mà tu, đó có phải là thiện tri thức số một không? Nếu phải thì cũng một phần thôi.
Lại có những người chuyên ăn rồi phá mình, phá bằng cách này hoặc bằng cách khác. Mình đang tu hành, tự hứa trong lòng ráng năm nay dẹp tật nóng nảy, sân hận đi. Mới vừa được nửa năm, tu hơi khá khá thì có ai đó chọc tức mình, dằn không được. Vậy người chọc tức đó là người trợ lực đưa mình tiến lên, hay là người đẩy mình lùi xuống, quí vị nghĩ sao?
Nếu đưa lên mà mình tức quá, nhịn không nổi, la ó om sòm thì đó là tuột. Còn nếu người ta tạo cái duyên bực tức mà ngay đó mình thắng được, an ổn vượt qua, thì chính đây là đưa mình lên. Như vậy cùng một việc làm mà có thể là đưa mình lên, cũng có thể đẩy mình tuột xuống. Vậy thì lỗi tại ai, tại người đó hay chính mình?
Chúng ta phải đặt câu hỏi lại, người chọc tức đó là người xấu, làm khổ mình, khiến mình phải lùi xuống không tiến được, hay là người tốt, giúp mình vượt lên, thoát qua được nạn sân si? Quí vị nghĩ sao?
Như vậy tốt do mình mà xấu cũng tại mình, phải không? Còn việc làm của họ có công hay có tội? – Nếu mình vượt qua được thì họ có công, còn mình tuột xuống tức họ có tội.
Thông thường người ta hay nói ai chọc phá những người thế gian tội còn nhỏ, chớ chọc phá người tu tội lớn lắm. Mà đức Phật tu hạnh Bồ-tát, Ðề-bà-đạt-đa cứ theo phá hoài, tội nhỏ hay lớn? Tội lớn mà cứ phá hoài không chán, vậy là có cố ý không? Nếu cố ý tức là chấp nhận tội để giúp cho người đó.
Mỗi lần Ðề-bà-đạt-đa hại Phật là mỗi lần Phật tuột xuống hay vươn lên? – Càng phá Ngài càng vươn lên. Vậy Ðề-bà-đạt-đa là người có công lớn làm cho Phật mau thành Phật phải không? Còn chúng ta bây giờ nếu ai chọc thì sao? Mình đang tu êm ái vui vẻ, bỗng dưng có người tới sỉ nhục, nói mình là kẻ gian trá, xảo quyệt, giả bộ tu chớ có tu gì… nói một hồi mình chán ngán, bèn trả áo trở về nhà, tu mà bị làm nhục vậy tu chi! Thế là tuột xuống hay là vươn lên?
Như vậy, việc làm của người phá đó, đối với ai thiếu ý chí cương quyết, thiếu tâm quyết tử trên đường tu, sẽ là tai hại. Ngược lại, với người có ý chí cương quyết và quyết tử trên đường tu, đó là lợi lớn.
Tôi thường nói, giả dụ tôi nguyện tu hạnh nhẫn nhục, mà đi từ đầu làng tới cuối xóm, ai gặp tôi cũng xá chào, khen ngợi hết, thì quí vị nghĩ chừng nào tôi thành tựu hạnh nhẫn nhục? Chắc một ngàn năm cũng chưa thành, vì có ai chọc tức đâu mà biết mình có nhẫn hay không nhẫn, phải không?
Nhưng giả sử tôi đi tới đầu đường có người chỉ mặt nói: “giả bộ tu chớ có thật thà gì đâu”, mắng những câu rất nặng, chê rồi bỏ đi một nước, mà lúc đó tôi vẫn điềm nhiên như không. Vậy là tôi thành tựu hạnh nhẫn nhục, sự tu tập có thể kết quả sớm. Còn nếu mình hứa nhẫn nhục mà không có cơ hội nhẫn nhục thì kéo dài hoài, chừng bao nhiêu năm mới thành công?
Giả sử mình phát nguyện tu hạnh nhẫn nhục, mới chừng ba tháng thì gặp đủ thứ chuyện, kẻ chê, người mắng, quí vị nghĩ hạnh nhẫn nhục chừng bao lâu sẽ kết thúc? Chỉ chừng năm sáu tháng là thấy thành công hoặc thối lùi liền, hai điều đó rõ ràng.
Như vậy lời nói của đức Phật rõ ràng chí lý. Nếu không có người làm ngăn trở trên đường tu của Ngài thì thời gian tu sẽ kéo rất dài. Nhờ có người ngăn trở và Ngài cương quyết vượt qua hết, nên thời gian tu được rút ngắn, chóng thành Phật. Vậy là nhờ Ðề-bà-đạt-đa mà Ngài chóng thành Phật, thì Ðề-bà-đạt-đa là người thân hay người thù?
Quí vị nghĩ Ðề-bà-đạt-đa là người thân hay người thù? Nói một cách cương quyết xem, thân hay thù? Nói mạnh lên! Ðể rồi mai mốt có ai làm Ðề-bà-đạt-đa thử thì mình thấy thân chớ không phải thù, đó mới là thứ thật. Chớ nói yếu yếu rồi gặp việc lại bảo: “Hôm đó tôi đâu có hứa!”
Vậy ta phải xác nhận lại: Ðề-bà-đạt-đa đối với Phật là ân nhân, là thiện tri thức bậc nhất. Ngày nay đối với những người giả bộ làm Ðề-bà-đạt-đa phá phách chúng ta, phải xem họ là thiện tri thức bậc nhất của mình, phải không?
Quí vị nghĩ, người tu biết tội lỗi mà ngăn trở sự tu hành của người khác thì đọa biết bao nhiêu kiếp! Ở đây ngăn trở mà không bị đọa thì ắt không phải là người ác, phải không? Chính là người giúp mình tu tiến. Nên Ðề-bà-đạt-đa theo Phật luôn, Phật có mặt ở đâu thì Ðề-bà-đạt-đa tới đó. Như vậy ông là người tạo duyên tốt lành để Phật chóng thành Phật.
Bây giờ quí vị tu hành, đi tới đâu gặp những người ác tri thức theo dõi tới đó, làm mình phiền, mình khổ lụy, lúc đó phải nguyện thế nào? – Nguyện đời đời từ đây cho tới thành Phật, tôi có mặt chỗ nào ác tri thức cũng nên có mặt nơi đó để giúp tôi, phải không? Sao lắc đầu! (cười). Phải nguyện như vậy mới được. Biết họ là ác tri thức phải nguyện như vậy để họ giúp mình chóng thành Phật. Nếu không mình cứ kéo dài lê thê biết chừng nào thành.
Chúng ta tu muốn thành Phật phải đầy đủ pháp lục độ: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Chỉ nói một hạnh bố thí, mình có đồ gì chưa dư, mới đủ thôi, mà người ta đã xin rồi, có bực không? Nếu mình bực thì đâu làm hạnh bố thí được. Cho nên mình chưa dư mà có người đến xin, mình vẫn bố thí, vậy là tốt. Cho tới cái mình đang cần mà họ xin mình vẫn bố thí được mới tròn công hạnh. Chớ còn ai tới cũng cúng dường cho mình hết thì làm sao mình thành tựu hạnh bố thí? Phải có người xin mình, xin cho tới không còn cái áo mặc nữa, như vậy mới tròn hạnh nguyện.
Biết đâu chung quanh chúng ta có nhiều Ðề-bà-đạt-đa. Nhiều Ðề-bà-đạt-đa để mình chóng thành Phật chớ có gì đâu. Người mới tu thường thích lựa chỗ nào huynh đệ thuần thục, ai cũng hiền lành hết để mình tu cho tiến. Nhưng như vậy là chỉ mới một chiều, đúng ra người tu nào cũng phải chọn môi trường chung quanh có nhiều người chọc phá dữ dội thì mình tu mới tiến, phải không? Nếu ai cũng muốn gì được nấy thì tu chừng nào mới tiến.
Như vậy sự tu có khác hơn cuộc sống ngoài đời. Trong cuộc sống ngoài đời, nếu ai cũng khen ngợi mình, tô điểm cho mình, thế là tốt, có danh dự. Trái lại, đối với người tu, càng tô điểm, càng tán thán mình nhiều, vô tình bản ngã càng cao, mà bản ngã cao, tu chừng nào thành Phật? Chắc là ba vô số kiếp, hoặc năm sáu vô số kiếp, phải không? Vì vậy cần có những người phá phách mình.
Có người nói, nếu anh đó chị đó thiếu, xin mình, mình bố thí là phải, đằng này họ đầy đủ như mình, có dư hơn mà lại xin mình, dễ tức không? Hỏi dễ tức không là hết bố thí rồi. Chính cái khó bố thí đó là hạnh mình cần tu tập.
Trong kinh có kể câu chuyện: Trong một tiền thân của đức Phật, Ngài phát nguyện bố thí. Có người lại xin con mắt Ngài để về làm thuốc. Nghe vậy, Ngài sẵn sàng móc cho, nghĩ đó là việc hữu ích. Dè đâu cho rồi người ấy ném xuống đất, lấy chân chà lên. Tức không? Bởi vì nếu xin để làm gì đó hữu ích, mình thấy là việc thiện mình dễ chịu, hi sinh được. Còn hi sinh cho cái rỗng không vô ích làm sao hi sinh? Việc này người đời không bao giờ làm được, chỉ có Bồ-tát trong những trường hợp đó mới có thể làm được. Làm được như vậy mới thật là Bồ-tát.
Như vậy nói tới người tu, quí vị nghĩ sao? Người tu là người thiệt thòi hơn tất cả, hay là người được quí trọng hơn tất cả?
Lâu nay chúng ta có cái bệnh, thường nghĩ mình tu là người hiền lương, làm thầy dạy đạo đức cho Phật tử, là người đáng quí trọng. Vì nghĩ là quí trọng nên ai chê nổi sân lên liền, phải không? Bây giờ chúng ta phải nhìn lại, người tu là người thiệt thòi và chịu đựng hơn tất cả. Thiệt thòi và chịu đựng, đó là ý nghĩa người tu. Quí vị chịu không? Chịu nhẹ xìu à, chịu mà không dám nói mạnh!
Nhưng đây là một lẽ thật, tất cả điều thiệt thòi chúng ta phải chịu, tất cả những gì bỉ ổi xấu xa mình cũng phải chịu. Bởi vậy quí vị nghĩ lại sẽ thấy đức Phật tâm lý vô kể.
Trước khi cho xuất gia Ngài hỏi: “Quyết tâm tu chưa?” Hễ quyết tâm tu thì cạo đầu trước đã, cạo đầu có thiệt thòi chưa? Xấu đau xấu đớn là hết sức thiệt thòi rồi! Ðó là điều số một phải làm. Nhưng bây giờ không biết sao người ta nói “mô-đen đó đẹp”, rồi bắt chước cạo đầu, chớ hồi xưa người ta để tóc dài, bắt cạo đầu là xấu ghê lắm.
Thêm điều nữa: “Ông muốn đi tu hả? Phải đi ăn mày.” Không được làm ra tiền, làm ra cơm gạo, mà phải đi ăn mày, xấu không? Chấp nhận ăn mày mới cho tu. Ôm bình bát đi xin là ăn mày chớ gì nữa. Như vậy có phải là Ngài làm cho mình thiệt thòi đủ thứ chưa?
Rồi lại hỏi: “Quyết định đi tu chưa?” Nếu quyết định đi tu thì mặc áo vá. Xin vải về kết từng miếng, ráp lại thành áo bá nạp. Áo bá nạp là áo vá trăm mảnh chớ không có gì lạ. Vậy mà bây giờ người ta lại quan trọng, cho áo bá nạp là áo dành cho hàng đạo đức cao, thành ra ý nghĩa khác. Chớ thật ra là bắt mặc áo rách, áo vá. Mà có vô tiệm may xin vải không? – Không. Phải ra các đống rác, bươi lấy mấy miếng vải rách dơ người ta bỏ, đem về giặt rồi kết lại làm áo mặc.
Như vậy là Phật đày đọa chúng ta đến mức tồi tệ nhất rồi phải không? Thế mà bây giờ lại đổi khác nhiều quá. Cạo đầu thấy cũng đẹp! Rồi ăn mày mà Phật tử cúng dâng cung kính quá, cũng không nhục nhã gì. Hai cái gọi là nhục, bây giờ hết nhục. Còn mặc áo vá thì nay thợ khéo may coi cũng đẹp, cũng lành lặn. Rốt cuộc ba việc thấp kém thiệt thòi đó mình đều không có.
Thứ tư là hồi xưa Phật không cho cất nhà ở, phải đi lang thang. Chỉ người bụi đời mới đi lang thang, nay Phật bắt người tu cũng phải đi lang thang vậy đó. Như thế có phải Ngài đẩy mình tới chỗ hết sức thấp kém trong tầng lớp xã hội hay không? Nhưng rồi tại người ta văn minh quá, từ chỗ đi lang thang ở dưới cội cây, lò gạch bể…, mỗi ngày mỗi chế biến ra cảnh chùa chiền, tu viện, riết rồi từ chỗ thấp kém trở thành tốt đẹp quí giá, hết thiệt thòi.
Nếu chúng ta ở địa vị bị mọi người khinh miệt như vậy mà tu được, quí vị nghĩ các công hạnh của mình có mau thành tựu không? Còn bây giờ được mọi người cung kính, liệu mình tu có mau thành công không?
Nhiều khi chúng ta cứ đổ thừa là đời mạt pháp tu không được. Nhưng thật ra là tại người ta khôn quá, những điều Phật cố ý làm cho xấu, chế biến một hồi thành tốt cả, rốt cuộc không còn cái gì xấu nữa. Rồi tán thán với Phật tử rằng chư Tăng Ni tu hành đạo cao đức trọng, cung kính có phước… này kia, riết rồi mình đi tới đâu cũng được người ta cung kính. Ði ra ngoài thì mời lên xe tốt, tới nơi ngồi ghế cho cao, cúng đồ thật ngon…
Vậy là từ kẻ ăn mày giờ được người cung kính, thành ra mất nghĩa ăn mày. Là kẻ sống lang thang, bây giờ được nhà cửa sang trọng, hết lang thang. Là kẻ đầu trọc xấu xí bây giờ người ta bắt chước làm theo cho đẹp. Rốt cuộc tất cả cái gì đáng bị chê ngược lại bây giờ được khen, vậy thì sự tu của mình càng khó, rất là khó.
Quí vị phải hiểu chỗ đó, đừng nghĩ rằng chúng ta được Phật tử, được mọi người trọng vọng là chúng ta tu dễ. Không phải đâu! Nếu trong cảnh như ngày xưa Phật dạy, mình tu mười năm, bây giờ cảnh hiện tại của mình phải tu hai, ba mươi năm, chưa biết bằng hay không.
Như vậy, hiện tượng Tăng Ni sở hữu vật chất ngày càng tốt đẹp, càng sang trọng là hiện tượng tu lâu đắc đạo. Còn ngày xưa dễ đắc đạo quá. Quí vị nghĩ, một vị Tăng hay vị Ni đi khất thực lang thang ở ngoài đường, rồi tối thì vào miếu hoặc đến gốc cây ngồi thiền, ngủ tại chỗ đó. Chỉ có ba cái y, một cái thì đắp, cái gối đầu, cái nữa trải ở dưới. Ở gốc cây nếu lỡ có trận mưa thì sao? Vậy đó mà các ngài chấp nhận mọi sự thiếu thốn. Những điều khó khăn, nguy hiểm có thể tới bất cứ lúc nào mà các ngài vẫn an ổn là do tâm kiên quyết tu hành, không hề có niệm buông lung phóng túng. Thế nên mới chịu được.
Còn mình bây giờ có cái gì sợ đâu? Ở trong nhà không ai động tới, mỗi tháng có cơm ăn đầy đủ, không lo thiếu bữa nào, cũng không ai chọc ghẹo phá phách mình, được bảo vệ đủ thứ hết, phải không? Thật ra, người tu ngồi chỗ nguy hiểm kế cận bên mình thì nhiếp tâm rất mau, còn chỗ có giường êm nệm ấm lại khó nhiếp niệm. Nhất là ngồi một mình, chân hơi đau đau là xả nằm nghỉ cho khỏe nên tu rất chậm tiến.
Trong Thiền Quan Sách Tấn có kể chuyện một vị Tăng ngồi thiền hay bị hôn trầm, ngủ gục suốt, làm chủ không được. Gần chỗ Sư ở có cây đại thọ ngả nghiêng dựa mé vực thẳm, Sư leo lên đó ngồi thiền. Nếu ngủ gục thì cắm đầu rơi xuống vực chết bỏ mạng. Như vậy ngồi đó là ngồi trong thế chờ chết chớ không phải thường, sa xuống là chết. Nhờ thế mà Sư tỉnh queo, vì sợ chết quá. Trải mấy ngày đêm, Sư giữ tâm định tỉnh không dám chợp mắt, Sư được đại ngộ. Còn người ngồi chỗ bình yên quá gục tới gục lui, buông chân ra nằm ngoẻo ngủ thì chừng nào mới ngộ đạo? Chính nhờ chỗ hết sức hiểm nguy một còn một mất, tỉnh thì còn, ngủ mê thì rơi xuống vực chết, mà thành công.
Như vậy khó khăn nguy hiểm không phải là cái cớ làm cho chúng ta phải thối tâm lui bước. Nếu chúng ta quyết tâm sống chết trên đường tu thì đó là cơ hội tốt để thành công. Ðiều này nghiệm thật kỹ quí vị sẽ thấy.
Vậy tất cả sự tu của chúng ta ngày nay đòi hỏi phải có những gì? – Ðược sung túc, vui vẻ, được mọi người kính trọng, phải không? Hễ được các thứ này thì yên lòng tu, còn nếu thiếu thốn, không vui vẻ, hoặc phải chịu khổ đau và bị người ta khinh miệt thì hết muốn tu, nếu thế là sai rồi.
Ngày nay chúng ta còn ở đây, trong một hoàn cảnh mọi nhu cầu tương đối được đầy đủ, yên ổn để tu, có thể là giai đoạn để chúng ta nuôi dưỡng thánh tâm cho được mạnh. Khi đã mạnh rồi, mai kia tôi đẩy quí vị ra ngoài, muốn đi đâu thì đi, làm gì được thì làm, không được thì ráng chịu.
Chừng đó quí vị sẽ thấy có những trường hợp được người ta quí trọng, có trường hợp bị người ta khinh khi, hoặc gặp kẻ ác muốn hại mình, thì những lúc đó sẽ là cơ hội tốt để quí vị tu nhanh, tu mau, phải không? Chớ nếu ở dưới sự bảo bọc ấm no, bình an như thế này, tu chắc chậm lắm. Lúc đầu thì được, nhưng sau lại không được.
Do đó quí vị đừng nghĩ Thiền viện Trúc Lâm là nơi mình ở cho tới ngày nhắm mắt. Không phải đâu! Ðây chỉ là nơi nuôi dưỡng cho quí vị đủ sức mạnh rồi đẩy quí vị ra. Lúc đó quí vị sẽ là kẻ lang thang, bị người khinh bỉ đủ thứ, nhưng đó chính là cơ hội tốt để quí vị tu nhanh. Muốn mau đạt đạo thì phải được rèn luyện như thế đó. Nói vậy để quí vị chuẩn bị tinh thần.
Trở lại câu chuyện hồi nãy, chúng ta nên xem người làm trở ngại đường tu của mình là người tốt hay xấu? – Ờ, tốt. Nhưng hiện giờ mình đang ở trong chúng năm, sáu mươi người đông quá như vầy, người ngoài đâu dám vô chọc. Chỉ có huynh đệ trong đây chọc mình thôi, phải không?
Biết đâu trong này lâu lâu có người nào đó phát tâm đại Bồ-tát: “Ờ, mấy huynh đệ tu bình yên quá chắc không tiến, thôi tôi chịu đọa địa ngục, phá thử coi quí vị tu được không?” Rồi người đó chọc, quậy mình. Người này gọi là gì? – Thiện tri thức số một đó.
Nếu mình thấy được như vậy thì từ đây về sau, tất cả chúng ta có người nào đáng ghét không? – Không có người nào đáng ghét hết, ai cũng là thiện tri thức số một số hai. Như vậy, ở chung một trăm người là một trăm Bồ-tát. Nâng đỡ khuyến khích chúng ta khi buồn để chúng ta tu tiến, đó là Bồ-tát khuyến khích điều thiện. Còn nếu ai đó thấy chúng ta tu hành có nghị lực kha khá, đạo đức có tiến đôi phần, họ bắt đầu trổ tài phá, phá kịch liệt thì chúng ta thấy họ thế nào? – Ðó cũng là người tốt, là thiện tri thức nữa, phải không?
Nói theo trong kinh này, kẻ giúp đỡ chúng ta để an ổn tu hành là Bồ-tát thuận hạnh, người ngăn trở, phá phách trong lúc chúng ta tu là Bồ-tát nghịch hạnh. Mà nghịch hạnh là Bồ-tát hạng lớn chớ không phải nhỏ, thứ nhỏ không dám làm. Chỉ Bồ-tát hạng lớn mới dám làm nghịch hạnh. Bởi vậy đừng có khinh thường mấy người đó mà phải cung kính nhiều hơn. Ðó là Bồ-tát hạng lớn mà.
Quí vị hằng nhớ như vậy thì trên đường tu có cái gì trở ngại không? Có nơi nào chúng ta chán không? Ðó là điều ngày nay tôi chúc Tết quí vị.
Tôi chúc năm Mậu Dần này, tất cả Tăng Ni và Phật tử chúng ta, qua một năm rồi trên đường tu có tiến đôi chút, sang năm Mậu Dần chúng ta phải tiến mạnh hơn, tiến vững hơn, bằng cách xem tất cả người giúp đỡ, khen ngợi mình là thiện tri thức, và kẻ phá phách, ngăn trở, miệt thị mình là thiện tri thức cỡ lớn, phải cung kính hơn. Chúc cho quí vị phát được cái tâm đó mạnh mẽ và nhớ mãi trọn năm.
Ðó là lời chúc thực tế của tôi, tôi không chúc rỗng nữa. Và tôi tin rằng tròn một năm tới tôi không phải xử kiện lần nào hết. Vì sao? – Vì chung quanh quí vị toàn là thiện tri thức cỡ nhỏ và cỡ lớn không thôi, đâu còn gì để thưa kiện tôi xử. Ðó là một điều tốt lành đẹp đẽ nhất trên đường tu của chúng ta.
Ðừng bao giờ nghĩ chúng ta gặp chướng hay gặp nạn. Chúng ta tu sẽ có những thiện tri thức thuận hạnh giúp cho các phương tiện để được đầy đủ, đồng thời có những thiện tri thức nghịch hạnh giúp chúng ta tăng trưởng ý chí và tiến tu một cách nhanh chóng, mau thành đạo quả. Tất cả đều là thiện tri thức của chúng ta.